SlideShare a Scribd company logo
1 of 119
1
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
ph¹m thÞ thóy
thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra
vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng
trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2015
2
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
ph¹m thÞ thóy
thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra
vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng
trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn
Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù
M· sè : 60 38 01 04
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn V¨n Tu©n
Hµ néi - 2015
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra
7
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố 7
1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra 16
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 18
1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng
21
1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng 21
1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án
gây rối trật tự công cộng
25
1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
26
1.3.1. Quan hệ phối hợp 26
1.3.2. Quan hệ chế ước 27
1.4. Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam
29
4
Chương 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU
TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN
ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
33
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra
33
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án gây rối trật tự công cộng
40
2.2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn
khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội gây rối trật tự công cộng
41
2.2.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
64
2.2.3. Một số hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra vụ án gây rối trật tự công cộng khác
76
2.4. Những tồn tại hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên
84
2.4.1. Những tồn tại, hạn chế 84
2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 84
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
91
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra
91
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự
công cộng
94
3.2.1. Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động
điều tra
94
5
3.2.2. Nâng cao kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 97
3.2.3. Nâng cao chất lượng tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành của
Viện trưởng Viện kiểm sát
110
3.2.4. Đổi mới phương thức đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
102
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
KSĐT : Kiểm sát điều tra
THQCT : Thực hành quyền công tố
TTCC : Trật tự công cộng
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình giải quyết án gây rối TTCC 43
2.2 Tình hình bắt, giữ trong vụ án gây rối TTCC 65
2.3 Tình hình áp dụng và giải quyết biện pháp tạm giam ở
giai đoạn điều tra vụ án gây rối TTCC
66
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Tỷ lệ các loại tố giác, tin báo về tội gây rối TTCC 44
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng (TTCC) nói riêng và đặc biệt là tội gây rối TTCC đang là
vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này có tính nguy hiểm
không cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng
và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi
gây rối TTCC xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây
tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, hành vi
này được thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, biểu hiện ý
thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu
hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung, đánh lộn, đập phá, gây lộn
xộn ở nơi đông người, tụ tập đi xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây
huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là
các hành vi hủy hoại tài sản, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương
tích, thậm chí là giết người... Nằm trong xu thế chung của cả nước, Hưng Yên
một tỉnh cũng đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi ngày càng nhiều trong khi chưa có sự cơ cấu hợp
lý về việc làm và giá bồi thường đất dẫn đến tình trạng bất ổn trong một bộ
phận nhân dân. Trường hợp người dân tụ tập với số lượng đông biểu tình, cản
trở, gây sức ép và phản đối các công trình đầu tư thi công, tụ tập trước các trụ
sở cơ quan nhà nước, cản trở giao thông, gây mất TTCC ngày càng nhiều
nhưng con số xử lý thì quá ít và dường như còn khá ngại va chạm.
Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát (VKS) phải là đơn vị đi đầu, định hướng
quan trọng trong việc điều tra xác định tội danh gây rối TTCC. Góp phần
củng cố tình hình an ninh địa phương, trật tự an toàn xã hội, không để bỏ lọt
9
tội phạm hay làm oan người vô tội. Do đó, hơn lúc nào hết vấn đề THQCT và
kiểm sát hoạt động điều tra vụ án gây rối TTCC trở lên cấp thiết. Trong xu
hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì những vấn đề gì đặt ra khi
THQCT và kiểm sát điều tra (KSĐT) nói chung, cũng như đối với vụ án gây
rối TTCC nói riêng cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất
một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong xu hướng
cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thực hành quyền công tố và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả
nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó
phải kể đến một số công trình điển hình như sau:
- Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố",
Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC), Hà Nội.
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Hà Nội.
10
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt
động thực THQCT và KSĐT cụ thể đối với vụ án gây rối TTCC. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây
rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" là một đòi hỏi cấp thiết, có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài
Luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương
hướng để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án
gây rối TTCC nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối TTCC, pháp luật tố tụng
hình sự trong THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra.
- Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về THQCT và KSĐT.
+ Phân tích thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đó.
+ Đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về THQCT và KSĐT.
+ Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT và
KSĐT nói chung, chất lượng THQCT và KSĐT đối với vụ án gây rối TTCC
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự và hoạt động THQCT
11
và KSĐT các vụ án gây rối TTCC của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
Hưng Yên.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn THQCT và KSĐT vụ án gây
rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá những tồn tại, hạn chế cũng
như nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT và KSĐT các
vụ án gây rối TTCC. Đưa những vấn đề cần làm sáng tỏ trong khi THQCT và
KSĐT các vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng THQCT và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự liên quan.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án gây rối TTCC trong 05 năm (2010 - 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng
cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp
các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
12
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT
vụ án gây rối TTCC mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong
việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề
cần chứng minh trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT
của VKS. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC;
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động
THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC thường gặp phải;
- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và
KSĐT vụ án gây rối TTCC;
- Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng
như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC
trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu
của luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang công tác tại
các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú
thêm lý luận về hoạt động THQCT và KSĐT. Đồng thời còn được sử dụng như
một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại
các trường đào tạo luật và Trường Đại học Kiểm sát.
13
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm
góp phần giúp VKSND tỉnh Hưng Yên cũng như VKSND các địa phương
trong cả nước nâng cao được chất lượng THQCT và KSĐT đối với các vụ án
gây rối TTCC.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra.
Chương 2: Pháp luật thực định và thực trạng thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên từ năm 2010 đến năm 2014.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự
công cộng.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
1.1. khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
* Quyền công tố
Tại Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" với tư cách là quyền năng
của VKS lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, sau đó là Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
1988, BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật tổ chức
VKSND năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên
2011... Ngày nay, thuật ngữ này đã trở lên phổ biến hơn. Tuy nhiên, trong
khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung,
vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức
năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Theo đó, "tất cả các hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố" [15, tr. 85].
Có nghĩa là ngay cả khi VKS kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc
phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh
tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động THQCT. Quan điểm này cho rằng công tố
không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng,
một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Quan điểm thứ hai: "Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này
được giao cho Viện kiểm sát nhân dân" [15, tr. 19]. Quan điểm này cho rằng
15
quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu
tiên trong lĩnh vực hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành
luật nó đã lan sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Quan điểm này có
thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo
trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được
nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực
tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này, quyền công tố không chỉ có
trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự
và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quan điểm này quá mở rộng dẫn đến xóa
nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh nhà
nước thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa, tức là chỉ diễn ra trong giai đoạn xét
xử. Ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân
dân [53, tr. 1-60]. Theo quan điểm này việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn
ra ở một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở một giai đoạn
duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử.
Theo tôi, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu
hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố;
không những vậy, nó còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố,
còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT bởi vì truy tố và buộc tội trước
Tòa chỉ là một trong số các quyền năng cụ thể của hoạt động THQCT tại giai
đoạn xét xử.
Quan điểm thứ tư: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội" [53, tr. 10]. Quan điểm này cho rằng quyền công tố chỉ xuất
hiện trong lĩnh vực hình sự và chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có
các cơ quan tiến hành tố tụng khác (CQĐT, Tòa án, Thi hành án) và như vậy
quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi
hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên
16
tắc truy cứu trách nhiệm hình sự rằng tội phạm phải bị truy cứu và bị trừng trị,
đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ năm:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan
công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng
cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết
định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước
phiên tòa [39, tr. 40].
Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật
hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong
tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất
VKS, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
quyền công tố. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của
nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố
với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của
VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền
công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp
phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Tác giả Lê Hữu Thể đã viết:
Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố cần phải
xem xét nó trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực
pháp luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối
liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ đó cội nguồn lịch sử của nó đã
gắn liền, không thể tách rời việc nhân danh nhà nước (nhân danh
công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng
nhất đó (đó là tội phạm) tức lĩnh vực tố tụng hình sự [39, tr. 37].
17
- Tháng 7/1967, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã đưa ra kết luận rất quan trọng về quyền công tố và trách nhiệm
của ngành kiểm sát: Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ nhà
nước nào. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân
phải trông nom, đảm bảo tốt.
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ:
"Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [9, tr. 2].
- Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729
ngày 14/3/2002) về dự án Luật Tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động
công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án
đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa" [44, tr. 4].
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân, quán triệt những
nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác
trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng
VKSND tối cao đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
- Hiến pháp 2013 (Điều 107) và các văn bản pháp luật của Nhà nước
ta (Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003)
quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp" [37, tr. 39].
Từ những dẫn chứng trên, tôi bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của
Tiến sĩ Lê Hữu Thể, cũng chính là quan điểm thứ 5 đã nêu trên:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công
18
tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện
kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và
bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa [39, tr 40].
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Thời gian qua, vấn đề THQCT, phạm vi và nội dung của nó, mối quan
hệ giữa chức năng THQCT với thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự còn ít được đề cập và chưa được rõ ràng. Một
số chuyên đề về nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp do VKSND tối cao tổ chức cũng chỉ đua ra một số biện pháp pháp lý,
kiến nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực hiện chức năng như: KSĐT,
kiểm sát xét xử, THQCT. Trong nội dung nghiên cứu của các chuyên đề này
chưa phân biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là THQCT, hành vi tố tụng nào
là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Cho đến nay, nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực
tiễn của các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT,
giữa thẩm quyền của VKS và các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm
quyền đó. Vì vậy, nhiều người đã gặp vướng mắc và không lý giải được vấn
đề khi một số cơ quan khác cũng khởi tố vụ án thì các cơ quan này có phải
cũng THQCT hay không?
Từ Hiến pháp năm 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức VKSND
năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất
THQCT. Tuy vậy, việc phát động quyền công tố thì không chỉ có VKS và còn
có cả CQĐT, Tòa án cũng có quyền. Nhưng các quyết định khởi tố của các cơ
quan đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền sau khi được VKS
xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT
không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền
khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt,
19
nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án đều phải được gửi cho
VKS xem xét, nếu có vi phạm pháp luật thì VKS sẽ kháng nghị. Như vậy, về
mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố
mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Trong giai đoạn
điều tra, CQĐT chỉ có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là do VKS; CQĐT có quyền độc lập thu
thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ
cơ sở để truy tố bị can hay không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài
liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó
trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS nước ta đã
quy định thẩm quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là "được
áp dụng các biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội" (Điều 23 BLTTHS). Từ những nội dung trên, tôi đồng ý với quan
điểm: "Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp
do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [19, tr. 40].
Phạm vi quyền công tố
Trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay, VKS thực hiện quyền công
tố ở các giai đoạn tố tụng, bởi vì khi có việc tiến hành tố tụng thì bao giờ cũng
gắn liền với việc buộc tội. Do đó, không thể quan niệm việc THQCT chỉ ở
giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa giám
đốc thẩm, VKS cũng có thể bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS cấp dưới khi
bị cáo kháng cáo kêu oan, bảo vệ kháng nghị của VKS theo hướng tăng nặng
trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Về nguyên tắc, khi có tội phạm xảy ra là xuất hiện quyền công tố, luật
tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiển rõ nguyên tắc này là: Mục đích của tố
tụng hình sự nhằm bảo đảm cho mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện
và xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi tội phạm xảy
ra đều được phát hiện và khởi tố nên số vụ án được khởi tố điều tra bao giờ
20
cũng nhỏ hơn số vụ phạm tội xảy ra. Dưới góc độ tội phạm học những vụ
phạm tội chưa được phát hiện là phần tội phạm ẩn chưa có trong thống kê
hình sự. Theo đó, giữa phạm vi quyền công tố và phạm vi THQCT có thể
được do bằng tình trạng tội phạm ẩn đang cần được phát hiện, xử lý. Do vậy,
nếu quan niệm phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự là
thu hẹp phạm vi quyền này và nhầm lẫn khởi tố vốn là một biện pháp THQCT
với quyền công tố. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội.
Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố và theo đó chấm dứt
việc THQCT là: Không có sự kiện phạm tội; người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được
đại xá; người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người
khác; miễn trách nhiệm hình sự; hiệu lực của Bộ luật hình sự (BLHS) về mặt
thời gian.
Từ đó có thể kết luận rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu
từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong những căn cứ do luật
tố tụng hình sự qui định.
Nội dung thực hành quyền công tố
Nhiều người cũng tán thành với quan điểm rằng THQCT, đó là những
biện pháp do luật định mà VKS sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội... Thế nhưng trong lý luận và thực tiễn hiện nay vẫn chưa
có một công trình nào nêu rõ được nội dung THQCT bao gồm những quyền
năng pháp lý cụ thể nào. Điều này dẫn tới tình trạng nhầm lẫn giữa chức năng
THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Từ kết quả
21
nghiên cứu ở các phần trên, tôi cho rằng: những quyền năng pháp lý mà VKS
tự quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những
quyền năng thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử
dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền
năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy vậy, việc xác
định và phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì có những hành vi
tố tụng mà chúng thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Chẳng hạn, quyết định kháng nghị phúc
thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật. Vì một quyết định kháng nghị có thể bao hàm đồng thời hai nội dung,
một là có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS, hai là vi phạm nghiêm trọng
về tố tụng hình sự; hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên nhưng đều
làm phát sinh một trình tự xét xử mới, xét xử phúc thẩm hình sự. Chính vì lẽ
đó, theo luật định, VKS thực hiện đồng thời hai chức năng, chức năng công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không tách ra thành các chương riêng.
Nhiều nước trên thế giới, ngoài chức năng công tố, Viện công tố còn được
giao nhiệm vụ trông nom việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp
nhưng cũng không tách bạch giữa hai nhiệm vụ này trong Luật công tố. Hiện
nay trong lý luận và thực tiễn cũng còn có một số quan điểm khác nhau về
THQCT và chủ thể THQCT. Do đó việc quan niệm nội dung THQCT cũng
còn khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm
giam bị cáo là nội dung THQCT thì có nghĩa là CQĐT và Tòa án cũng là cơ
quan THQCT. Chúng tôi cho rằng, ở đây có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố
tụng với quyền của cơ quan công tố. Việc sử dụng một số biện pháp để cáo
buộc bị can, bị cáo do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoàn toàn
không đồng nghĩa với thẩm quyền công tố theo nghĩa đầy đủ của nó là quyền
đưa vụ án ra Tòa và thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo trước Tòa án. Chỉ
có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để truy cứu
22
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra tội
phạm và giai đoạn xét xử hình sự tại Tòa án thì đó là cơ quan THQCT. Ở
nước ta chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. CQĐT chỉ là người hỗ trợ
cho VKS đưa vụ án ra Tòa; Tòa án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm
tội mà VKS đã truy tố.
Như vậy có thể quan niệm rằng, nội dung THQCT là việc VKS sử
dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập nhằm truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi THQCT trong giai đoạn
điều tra tội phạm, VKS có nhiệm vụ: áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy
định để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử
lý kịp thời, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội; bảo
đảm không để một người nào bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm một
cách trái pháp luật, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội là có căn cứ và đúng pháp luật (Điều 23 và Điều 141 BLTTHS). Để
thực hiện mục đích THQCT, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định
cho VKS những quyền năng pháp lý:
- Quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên. Nếu hành vi của
Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của CQĐT theo quy định của pháp luật;
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT;
23
- Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều
tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra
Kiểm sát điều tra nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là các hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết
các vụ án và các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu,
chứng cứ như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của
Tòa án trong cả lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính, kinh tế... Hoạt động
tư pháp là hoạt động trước hết phải được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định
của VKS nhân dân. Theo quy định của pháp luật, VKS thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các
lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động… Gắn liền với tố
tụng hình sự là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra các vụ án hình sự của CQĐT - KSĐT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc xét xử các vụ án hình sự - Kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc thi hành các bản án và các quyết định của Tòa án
nhân dân.
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là
nhằm đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp
luật, đúng người, đúng tội, không để xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
Trong các lĩnh vực tố tụng khác, mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp
là nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình và các
việc khác theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Mục đích chung của hoạt
24
động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự và các tranh chấp khác.
Kiểm sát điều tra
Theo quy định của pháp luật, trong lĩnh vực hình sự, VKS thực hiện
chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các
công tác khác nhau gắn với các giai đoạn tố tụng khác nhau: THQCT và kiểm
sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT; THQCT
và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự và các quyết định
của Tòa án nhân dân (Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Ứng với mỗi
công tác này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định một chương riêng biệt.
Trong đó, tại chương II, các mục 2 (gồm các điều 14, 15) quy định cụ thể về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT (công tác thứ nhất) với
tiêu đề "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự".
Sau khi vụ án được khởi tố, giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng phát sinh những quan hệ tố tụng, các quan hệ
này tồn tại trong suốt cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn
điều tra thì đó là mối quan hệ giữa CQĐT và VKS, là các hoạt động của
CQĐT được thực hiện bởi các Điều tra viên, là các hành vi của các Điều tra
viên, là các quyết định của CQĐT, là hành vi của những người tham gia tố
tụng... Đồng thời với sự xuất hiện của các hoạt động tố tụng cũng xuất hiện
đòi hỏi có sự giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật
được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
Nội dung của KSĐT chính là các nhiệm vụ và quyền hạn mà pháp
luật tố tụng hình sự quy định khi KSĐT. Theo Điều 113 BLTTHS, nội dung
của KSĐT là: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc
lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những
25
người tiến hành và tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền
điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm
minh Điều tra viên có vi phạm kỷ luật khi tiến hành điều tra…
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
Đây cũng là một vấn đề đã từng có nhiều quan điểm chưa thống nhất
về cả lý luận và thực tiễn. Có quan điểm cho rằng, THQCT và KSĐT là hai
chức năng độc lập của VKS, cần được phân biệt rạch ròi. Bởi lẽ, bản thân
hoạt động công tố của VKS cũng cần đặt dưới sự kiểm sát gắt gao, chặt chẽ,
vì chính hoạt động này cũng là một hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra. Từ đó phải có sự phân định rõ ràng về nhận thức, đồng thời về mặt tổ
chức cần hình thành các bộ phận độc lập trong VKS để thực hiện từng chức
năng. Xa hơn nữa, cần xác định VKS chỉ làm chức năng công tố và gọi tên là
Viện công tố, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp giao cho cơ quan chức
năng khác. Nhưng cũng có quan điểm lại hoàn toàn trái ngược khi cho rằng
hai chức năng này không thể tách rời, dẫn tới không thể phân biệt được các
hoạt động như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định việc bắt, tạm giữ, tạm
giam... là hoạt động công tố hay KSĐT. Những người theo quan điểm này
đưa ra phương án gắn kết giữa điều tra và công tố làm một, không tách bạch,
xét lẻ hoạt động điều tra và hoạt động công tố thành các hoạt động tố tụng
khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan công tố thực hiện luôn công
việc điều tra mà không thực hiện công tác KSĐT.
Thời gian gần đây các công trình nghiên cứu cũng như trong khoa học
pháp lý đã đi đến tư tưởng khá thống nhất khi cho rằng THQCT và KSĐT là
hai chức năng của VKS, giữa chúng có đối tượng, phạm vi và nội dung hoạt
động khác nhau. Nếu như đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm
và người phạm tội. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hành vi
và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người tham gia tố
tụng. Mục đích và nhiệm vụ của THQCT là làm sáng tỏ tội phạm đã xảy ra,
26
vạch trần lỗi của người phạm tội để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự, còn mục đích và nhiệm vụ của KSĐT là phát hiện kịp thời các việc làm vi
phạm pháp luật của các chủ thể trong tố tụng hình sự để yêu cầu khắc phục vi
phạm pháp luật. Tuy nhiên, giữa chúng có mục đích và nhiệm vụ chung đều
là nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm (Điều 1 và Điều 23 BLTTHS). Như
vậy, chính đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của từng hoạt động đã quy định
nên mối quan hệ chặt chẽ giữa chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự với những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT tuy không phải là quan hệ nhân
quả, quan hệ trước sau; phụ thuộc và chi phối lẫn nhau nhưng đó là quan hệ
hỗn hợp tác động lẫn nhau do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm mục đích
của tố tụng hình sự là: mọi tội phạm đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp
thời theo quy định của pháp luật, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, vi
phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Theo quy định của pháp luật thì THQCT công tố trong giai đoạn điều
tra và hoạt động KSĐT được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và cùng kết
thúc khi giai đoạn điều tra kết thúc (đề nghị truy tố, tạm đình chỉ, đình chỉ).
- Thực hành quyền công tố và KSĐT đều được thực hiện theo nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của VKS. Đó là nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh
đạo trong ngành. Điều đó có nghĩa là trong quá trình THQCT và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong mọi trường hợp đều do Viện trưởng quyết định
nhưng có sự phân công, phân cấp trong nội bộ cơ quan VKS; VKS cấp dưới
chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên; Viện trưởng VKS các địa phương chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC.
- Thực hành quyền công tố và KSĐT đều do một chủ thể tiến hành đó
là VKS mà người trực tiếp tiến hành các hoạt động này gồm có Viện trưởng,
Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên.
27
Trên tinh thần đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS
các cấp phải luôn luôn xác định hoạt động công tố có tính độc lập tương đối
với các hoạt động KSĐT, nhưng các hoạt động này phải đặt chúng trong mối
quan hệ tác động lẫn nhau; không được tách rời việc thực hiện hai chức năng
công tố và kiểm sát trong từng giai đoạn tố tụng. Đồng thời VKS các cấp
cũng phải khắc phục tình trạng coi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật cũng là THQCT, sẽ dẫn đến thiếu chủ động trong việc nâng cao chất
lượng hoạt động của mình trong cuộc đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. KSĐT có hiệu quả sẽ là điều kiện giúp
cho việc THQCT được đúng đắn, ngược lại công tác THQCT có hiệu quả sẽ
tạo điều kiện cho hoạt động KSĐT xác định kịp thời được các vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra.
Trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ
án hình sự của CQĐT theo quy định của pháp luật đều phải được VKS xem
xét nhằm bảo đảm việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp xác
định được quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì
VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó, nếu quyết định không khởi
tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ và
ra quyết định khởi tố vụ án để yêu cầu tiến hành điều tra. Trong quá trình điều
tra vụ án, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của
BLTTHS như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, khám xét... nhưng
các hoạt động điều tra ấy về nguyên tắc đều phải được kiểm sát. Khi phát hiện
có vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, VKS có trách nhiệm áp dụng
các biện pháp do luật định như kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp
luật. Điều đáng chú ý là đối với một số hoạt động điều tra, một số quyết định
của CQĐT chỉ được thực hiện khi có sự phê chuẩn của VKS. Ngoài việc phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của
BLTTHS thì VKS có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn trong khi đó CQĐT không được quyền tự mình thay đổi hoặc hủy
28
bỏ các quyết định, các biện pháp mà pháp luật quy định phải có sự phê chuẩn
của VKS. Tuy nhiên, các hoạt động này của VKS (hoạt động công tố) chỉ
được thực hiện khi và chỉ khi đã có sự xem xét chặt chẽ về tính có căn cứ và
tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của CQĐT (hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật).
1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng
1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng
với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. BLHS Việt Nam năm 1999 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [33].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì "Trật tự công cộng là
trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy
phạm nhất định ở những nơi cộng cộng mà mọi người phải tuân theo" [21].
TTCC là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những
quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa, sự tuân thủ những quy định của
pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận, tình
trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ
ngơi. Như vậy, TTCC cũng có thể hiểu là hệ thống các quan hệ xã hội được
hình thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật và các nội quy quy
tắc về trật tự chung, an toàn chung mà đòi hỏi mọi thành viên của xã hội phải
29
tuân thủ theo những quy định chung đó nhằm đảm bảo cho cuộc sống, lao
động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã hội.
Như vậy, tội gây rối TTCC có thể hiểu là hành vi hò hét, làm náo
động, phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối loạn các
hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tội
gây rối TTCC được quy định tại Điều 245 BLHS hiện hành, như sau:
Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng.
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt
tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;
b) Có tổ chức;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ
hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm [33].
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây rối trật tự công cộng
Dấu hiệu pháp lý hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội phạm có tính
đặc trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và
đủ để phân biệt loại tội phạm này với các tội phạm khác, ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động định tội danh. Vì vậy, để thực hiện tốt hoạt động THQCT và
30
KSĐT các vụ án gây rối TTCC thì bên cạnh việc nắm vững kiến thức về
THQCT và KSĐT nói chung còn cần hiểu biết đầy đủ về các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của tội gây rối TTCC.
Khách thể của tội phạm
Tội gây rối TTCC xâm phạm trực tiếp đến những quy tắc, luật lệ, điều
lệ, nội quy... về TTCC, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc cuộc sống, gây
ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người ở nơi công cộng. Ngoài
ra, tội gây rối TTCC còn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của những
người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ TTCC.
Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức
khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất
TTCC; có lời nói, cử chỉ tiếp xúc với người khác ở nơi công cộng với thái độ
tỏ ra coi thường trật tự xã hội chung; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở
nơi công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản
trong các, quán ăn, quán giải khát có đông người...
Hành vi gây rối TTCC phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc không cần
trong trường hợp đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tức dấu hiệu hậu quả "gây
hậu quả nghiêm trọng" vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa là dấu hiệu không bắt
buộc. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLHS tại mục 5 có hướng dẫn:
...5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra
thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả nghiêm
trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ
luật hình sự:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
31
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ
lệ thương tật từ 31% trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với
tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương
tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ
lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ
năm triệu đồng trở lên.
h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với
tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương
tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về
tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khỏe và tài sản
được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả
phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội... Khi đó sẽ tùy vào từng
trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây
ra có phải là nghiêm trọng hay không [41].
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần người
có hành vi gây rối TTCC đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS thì người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng, trong khi tội gây rối TTCC theo phân loại tội tại Điều 8
BLHS thì thuộc loại tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Do đó, người từ đủ
14 đến dưới 16 tuổi không phải chủ thể của tội gây rối TTCC, hay nói cách
khác chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này.
32
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý và không có động cơ, mục
đích chống chính quyền nhân dân.
1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án
gây rối trật tự công cộng
Từ nhận thức chung về hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động
điều tra, và đặc điểm pháp lý của tội gây rối TTCC, ta có thể rút ra đặc điểm
của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC như sau:
- Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC bắt đầu từ thời
điểm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội gây rối
TTCC. Tuy nhiên, tội phạm này có tính đa dạng về hành vi, sự việc xảy ra
không phản ánh ngay cấu thành tội gây rối TTCC, nên cần phải xem xét cả
các tố giác, tin báo về các tội liên quan như Cố ý gây thương tích hủy hoại tài
sản, giết người… xảy ra ở nơi công cộng, ảnh hưởng tới trật tự xã hội chung.
- Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC luôn đặt trong
sự so sánh, ly lai với các tội phạm khác khi mà hành vi phạm tội ở mức chưa
cấu thành các tội như: Cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, đua xe trái
phép, chống người thi hành công vụ…
- Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC thường phải
lưu ý việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm này được phản ánh thông
qua sơ đồ hiện trường thể hiện sự việc diễn ra ở nơi công cộng, lời khai của
những người dân, người đại diện cơ quan nhà nước… có hoạt động bị ảnh
hưởng nghiêm trọng bởi hành vi của người phạm tội, thời gian ùn tắc giao
thông, tỷ lệ thương tích, định giá tài sản bị hư hỏng… Lưu ý tới yếu tố lỗi để
phân biệt với các tội cố ý gây thương tích hay cố ý làm hư hỏng tài sản.
- Hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự xã hội là một trong
các tình tiết định tội đối với tội gây rối TTCC, nhưng nó là mang tính định
tính chứ không phải là một tình tiết mang tính định lượng như trị giá tài sản,
tỷ lệ thương tích như đối với tội trộm cắp tài sản, tội cố ý gây thương tích.
33
Nên hoạt động THQCT gặp nhiều khó khăn trong việc đánh hậu quả gây thiệt
hại nghiêm trọng cho trật tự xã hội, vì nó phụ thuộc khá nhiều vào ý thức chủ
quan của mỗi người để định tội.
- Chủ thể thực hiện hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối
TTCC chỉ có thể là kiểm sát viên và Viện trưởng, Phó Viện trưởng có thẩm
quyền. Hoạt động này gắn chặt với hoạt động điều tra của CQĐT và đòi hỏi
sự phối hợp cũng như chế ước đối với hoạt động của CQĐT.
- Để thực hiện hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC,
kiểm sát viên chỉ được áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và tuân theo chức năng, quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân
theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC được diễn ra
trực tiếp, đồng thời và đề cập một cách toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai
đoạn điều tra. Nhằm hướng tới mục đích bảo đảm tuân thủ pháp luật trong
giai đoạn điều tra, tìm kiếm mọi chứng cứ chứng minh tội phạm, tạo tiền đề
cho giai đoạn truy tố, xét xử sau này.
Các đặc điểm này sẽ được luận văn phân tích rõ thông qua các hoạt
động cụ thể khi thực hiện chức năng THQCT và KSĐT các vụ án gây rối trật
tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ở chương 2.
1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Thực hành quyền công tố và KSĐT là hai chức năng cơ bản của ngành
kiểm sát, nó thể hiện mối quan hệ khá đặc biệt giữa VKS và CQĐT, mà ta có
thể gọi là "quan hệ phối hợp" và "quan hệ chế ước".
1.3.1. Quan hệ phối hợp
Phối hợp giữa VKS với CQĐT trong điều tra vụ án hình sự là sự liên
kết theo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa VKS với CQĐT nhằm mục
đích phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý tội phạm theo đúng quy định của
pháp luật. Công tác phối hợp giữa CQĐT và VKS được thực hiện từ khi
34
CQĐT phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự, cho đến khi kết
luận điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến VKS hoặc đình chỉ vụ án. CQĐT và
VKS phối hợp trong từng chế định tố tụng hình sự, như: trong việc nắm, quản
lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố vụ án, khởi tố bị
can; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; việc điều tra thu
thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án. Trong đó CQĐT và VKS có sự phối hợp
chặt chẽ, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm.
Đây là mối quan hệ tố tụng khá phức tạp, CQĐT vừa có chức năng
điều tra tội phạm nhưng đồng thời có trách nhiệm thể hiện công khai những
hoạt động điều tra của mình trước VKS để VKS nắm được và giám sát. Trong
một số hoạt động điều tra nhất định CQĐT phải chủ động thông báo để VKS
thực hiện chức năng giám sát. Nếu CQĐT không "phối hợp" sẽ dẫn đến
CQĐT chỉ điều tra tội phạm, còn VKS lại điều tra hoạt động điều tra của
CQĐT. Lúc này cả hai sẽ không đạt được mục đích chung là xử lý tội phạm
theo quy định của pháp luật, và làm xấu đi mối quan hệ giữa hai cơ quan...
Trong sự phối hợp này, VKS có trách nhiệm phải giám sát chặt chẽ
các hoạt động điều tra, nếu phát hiện có vi phạm, thiết sót trong quá trình điều
tra, phải kịp thời trao đổi, yêu cầu CQĐT khắc phục. Mục đích chính không
phải là phát hiện những vi phạm, thiếu sót của CQĐT mà là nhằm phối hợp
với CQĐT nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra đúng pháp luật, hướng tới
truy cứu đúng tội phạm, không để xảy ra bỏ lọt hay oan sai.
1.3.2. Quan hệ chế ước
Giữa VKS và CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án đã hình thành quan
hệ tố tụng đặc biệt, trong đó VKS có quyền giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các
quyết định, hành vi không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT và điều tra
viên, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra vụ án đúng pháp luật. Quyền năng
này có hiệu lực rất cao và có thể xác định bằng khái niệm "chế ước".
Việc chế ước được bắt đầu ngay từ khi CQĐT khởi tố vụ án và được
thực hiện trong suốt quá trình điều tra vụ án. Sự chế ước chỉ được thực hiện
35
một chiều giữa VKS đối với CQĐT. Đối tượng của sự chế ước chỉ là quyết
định, hành vi của CQĐT và Điều tra viên trong quá trình tố tụng còn những
vấn đề khác như: tổ chức, bộ máy… của CQĐT thì không phải. Sự chế ước
được tiến hành trong từng chế định tố tụng hình sự và mức độ chế ước rất cao
đối với những hoạt động tố tụng liên quan đến quyền con người như: khởi tố
bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn (bắt bị can để tạm giam, gia hạn tạm giữ,
tạm giam…) đều phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành.
Nội dung chế ước của VKS đối với hoạt động điều tra của CQĐT
được thực hiện bằng tổng hợp các quyền năng pháp lý, như: Giám sát, yêu
cầu, hủy bỏ. Cụ thể: VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT
một cách trực tiếp, như kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, hỏi cung bị can..., hoặc giám sát gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ
sơ, tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Nhưng quyền giám sát của VKS thể
hiện rõ nhất trong việc kiểm sát các quyền năng và hành vi tố tụng của CQĐT
bằng việc nhất trí hoặc không nhất trí với CQĐT thông qua việc phê chuẩn
hay không phê chuẩn các quyết định của CQĐT, việc quyết định áp dụng hay
không áp dụng các biện pháp tố tụng do CQĐT đề xuất. Hoạt động giám sát
là cơ sở để VKS thực hiện quyền chế ước. Bởi vì, chỉ khi VKS nắm được hoạt
động của CQĐT thì mới xác định được hoạt động điều tra đó có đúng hay
không, việc điều tra có khách quan, đầy đủ hay không, mới có đủ điều kiện
cần thiết để VKS thể hiện quan điểm của mình. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt
động giám sát của VKS sẽ bị hạn chế khi cơ chế giám sát không bảo đảm, khi
Kiểm sát viên không nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh quy định
của pháp luật về quyền năng giám sát của mình hoặc khi CQĐT không phối
hợp chặt chẽ... Ví dụ: Điều tra viên thu thập chứng cứ, tài liệu nhưng không
chuyển cho Kiểm sát viên nghiên cứu nắm được tiến độ, kết quả điều tra vụ
án, hoặc trường hợp Kiểm sát viên không nghiên cứu tài liệu, chứng cứ của
vụ án để đề ra yêu cầu điều tra theo quy định của pháp luật.
36
Viện kiểm sát có quyền yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động điều
tra. Khi quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viểm sát có quyền yêu cầu CQĐT
tiến hành điều tra, VKS có quyền yêu cầu truy nã bị can, trả hồ sơ điều tra bổ
sung, yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về tội phạm và việc vi phạm
pháp luật của Điều tra viên. VKS có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp
luật của CQĐT. Đây là một trong những quyền năng quan trọng, là công cụ
để VKS bảo đảm cho hoạt động điều tra tuân theo pháp luật tố tụng hình sự.
Trên thực tế, VKS chỉ thực hiện quyền năng này khi đã yêu cầu như CQĐT
không thực hiện hoặc không thể tự hủy bỏ, khắc phục được. VD: VKS hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự của
Thủ trưởng CQĐT nếu thấy quyết định đó không có căn cứ và trái pháp luật.
1.4. Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam
Ngay từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quan
tâm đến hoạt động công tố. Lúc đầu, các Công tố viên nằm trong Tòa án được
quy định theo các Sắc lệnh số 33/SL ngày 12/9/1945, Sắc lệnh số 7/SL ngày
15/1/1946, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 151/SL ngày
17/4/1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946. Theo các sắc lệnh này thì
Ủy viên công tố chỉ đóng vai trò là người buộc tội tại Tòa án. Từ năm 1948
đến 1950 đã diễn ra cuộc cải cách tư pháp làm thay đổi đáng kể tổ chức và
hoạt động của cơ quan công tố. Theo quy định tại Sắc lệnh 254/SL ngày
19/11/1948, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, thì hoạt động công tố chịu sự
chi phối của cơ quan hành pháp. Ủy viên công tố ở giai đoạn này không chỉ
có quyền truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa mà còn có quyền "kháng cáo về
việc hộ, kháng cáo về việc hình" (Điều 15 Sắc lệnh số 85/SL). Việc mở rộng
thẩm quyền của cơ quan công tố với tư cách là người đại diện cho công quyền
như vậy cho thấy vai trò của cơ quan công tố ngày càng được đề cao trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước ta.
37
Đến năm 1958, theo quy định của Nghị quyết ngày 29/4/1958 của
Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 8 và Nghị định số 156/TTg ngày 1/7/1959, Nghị
định số 321/TTg ngày 27/7/1959 của Chính phủ, cơ quan công tố đã được tổ
chức thành một hệ thống độc lập có bộ máy từ Trung ương xuống địa phương.
Theo quy định tại Điều 1, Nghị định số 256/TTg ngày 1/7/1959 thì Viện công
tố có nhiệm vụ chung là: điều tra và truy tố trước Tòa những người phạm pháp
về hình sự; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân; giám sát việc tuân thủ và chấp
hành pháp luật. Ngoài việc THQCT còn có quyền giám sát sự tuân thủ pháp
luật của các cơ quan nhà nước. Đây là bước cải cách quan trọng có tính chất
quá độ, chuẩn bị cho việc chuyển cơ quan công tố thành VKS vào năm 1960.
Như vậy, thời kỳ từ năm 1945 đến 1959 cơ quan công tố ở nước ta đã
từng bước hoàn thiện về thẩm quyền: từ chỗ chỉ đóng vai trò là người buộc tội
trong vụ án hình sự, cơ quan công tố có quyền khởi tố vụ án, truy tố bị can ra
Tòa. Ngoài việc THQCT, cơ quan công tố còn có quyền giám sát tố tụng, điều
tra vụ án hình sự.
Vào đầu năm 1960, trước yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta đã đòi hỏi phải tăng cường hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất, để "bảo đảm cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững là
điều kiện cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng".
Viện công tố với chức năng của nó là buộc tội không còn phù hợp đã được
chuyển thành VKSND, đó là một hệ thống cơ quan độc lập tách ra khỏi hành
pháp và trực thuộc Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Bên cạnh
chức năng của Viện công tố được kế thừa và phát triển, VKSND còn được
giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm pháp chế. Các
chức năng đó của VKSND được quy định trong Hiến pháp 1959, Luật tổ chức
VKSND năm 1960 và tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp 1980, Luật tổ chức
VKSND năm 1981; Hiến pháp 1992, Luật tổ chức VKSND năm 1992; Hiến
38
pháp sửa đổi và Luật tổ chức VKSND năm 2002; Hiến pháp 2013 và Luật tổ
chức VKSND 2014 đó là: VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài nhiều người đã có quan niệm rằng
chức năng chính, chủ yếu của VKSND là chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Có quan điểm lại cho rằng, VKSND chỉ có chức năng duy nhất là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn THQCT chỉ là một quyền năng để thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng
người ta nhầm lẫn giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự. Giáo trình "Lý luận chung về công tác kiểm sát" đã viết:
Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân cần
xác định: đối với hoạt động điều tra của các Cơ quan điều tra đòi
hỏi Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm tra, xem xét để xác định tính
có căn cứ, tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, đảm bảo mọi
hoạt động điều tra được tiến hành khách quan, đầy đủ theo đúng
quy định của pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, bảo đảm đưa vụ án ra trước Tòa án xét xử theo pháp
luật. Đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố bằng nhiều nội dung và hình thức
khác nhau. Khi phát hiện hoạt động xét xử có vi phạm, Viện kiểm
sát nhân dân phải có biện pháp khắc phục. Khi xác định bản án,
quyết định của Tòa án có vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân có quyền
kiến nghị theo các trình tự luật định nhằm bảo đảm cho bản án, quyết
định của Tòa án có căn cứ hợp pháp, đúng người, đúng tội [42, tr. 85].
Hay cho rằng hai chức năng này là một, như quan điểm sau:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các
chức năng do luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp
pháp của việc điều tra tội phạm để truy tố và để buộc tội người phạm
tội ra trước Tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử đúng người, đúng
39
tội, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ các quyền và tự do của con
người cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước [3, tr. 1-12].
Trong các bản tổng kết công tác kiểm sát, nhất là tổng kết 25 năm
(1960 - 1985) của VKSNDTC luôn khẳng định: VKSND chỉ có một chức năng
duy nhất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và coi quan niệm về VKSND có
hai chức năng là một nhận thức không đúng.
Trong bản báo cáo của mình trình trước Quốc hội về chức năng của
VKS, Ủy ban soạn thảo Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ VKSND có hai chức
năng như kết luận của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII. Kết luận này đã được thể chế tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1
Luật tổ chức VKSND năm 1992. Kể từ đây, quan niệm về hai chức năng của
VKSND đã trở lên rõ ràng hơn. Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện tinh thần cải cách tư
pháp được nêu ra trong các nghị quyết của Đảng và khẳng định VKSND có
hai chức năng, chỉ điều chỉnh phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. VKS không làm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trên mọi lĩnh vực, chỉ tiến hành chức năng này trong lĩnh vực tư pháp.
Cho đến nay, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND vừa ra
đời năm 2014 cũng đều khẳng định VKSND thực hiện hai chức năng là
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
40
Chương 2
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN
GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hai chức năng THQCT và
KSĐT được thể hiện thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND khi THQCT và KSĐT, qui định tại các điều 14, 15, 16, 17 Luật Tổ
chức VKS năm 2014; các điều 23, 112, 113 BLTTHS.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự (Điều 112 BLTTHS)
Một là, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu
tội phạm, thẩm quyền chủ yếu thuộc về CQĐT. VKS chỉ ra quyết định khởi tố
vụ án trong một số trường hợp nhất định. Khi hủy bỏ quyết định không khởi
tố vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ
phải gửi quyết định đó đến CQĐT để tiến hành điều tra.
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa, phát
hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì Hội đồng
xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình
sự. Trường hợp nhận được yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử, nếu thấy yêu
cầu đó là có căn cứ thì VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời
hạn 24 giờ phải gửi quyết định này đến CQĐT để tiến hành điều tra.
41
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can nếu sau khi nhận hồ sơ và
bản kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi
phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố.
Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa bị
khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án và trong thời hạn 24 giờ phải gửi cho
CQĐT để tiến hành điều tra.
Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không
phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn có hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố.
Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra.
Hai là, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi
xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định
của pháp luật. Việc đề ra yêu cầu điều tra có thể trực tiếp bằng lời nói, khi Kiểm
sát viên trực tiếp cùng Điều tra viên tiến hành các hoạt động điều tra, như
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung
bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với những trường hợp
khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có văn bản nêu rõ vấn đề
cần điều tra. Trong một số trường hợp, Kiểm sát viên phải báo cáo, xin ý kiến
chỉ đạo của người có thẩm quyền trước khi ký văn bản yêu cầu điều tra. Khi
THQCT trong quá trình điều tra vụ án hình sự, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm
sát viên có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Các hoạt động điều
tra mà Kiểm sát viên có thể trực tiếp tiến hành bao gồm: Hỏi cung bị can, lấy
lời khai người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra. Việc trực tiếp tiến hành các hoạt động
điều tra nói trên cũng phải đảm bảo tuân thủ theo các qui định của pháp luật.
42
Ba là, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên theo qui định
của pháp luật, nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố
về hình sự.
Khi phát hiện thấy Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án
thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ chối tiến hành tố
tụng, Kiểm sát viên có quyền đề nghị Viện trưởng VKS cấp mình xem xét để
yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên. Theo qui định tại khoản 1
Điều 44 BLTTHS, Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi, nếu họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp,
người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đã tham gia
với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong vụ án đó hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Điều tra viên cũng phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách
là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký toà án. đói quá trình
THQCT trong giai đoạn điều tra, nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của
Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì VKS đề nghị CQĐT có thẩm quyền
khởi tố về hình sự.
Bốn là, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết
định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo qui định của pháp luật.
Khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, VKS có quyền quyết định áp dụng
một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. VKS
có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt khẩn cấp, (gia hạn) tạm giữ, bắt bị can
để tạm giữ, tạm giam, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với
những biện pháp ngăn chặn do VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn,
43
VKS cũng có quyền hủy bỏ hoặc thay đổi khi thấy không còn cần thiết hoặc
có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Trong quá trình THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS còn
có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đối với một số quyết
định khác của CQĐT theo qui định của pháp luật. Đối với các trường hợp cần có
sự phê chuẩn, VKS phải nghiên cứu, xem xét một cách khách quan, toàn diện,
xác định tính có căn cứ, tính hợp pháp của quyết định tố tụng, trên cơ sở đó ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn, quyết định hủy bỏ đúng
thời hạn luật định. Nếu không phê chuẩn thì trong quyết định đó phải nêu rõ lý do.
Năm là, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án, nếu xác định được các quyết định của
CQĐT không có căn cứ, VKS có quyền ra quyết định hủy bỏ, như: Quyết
định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự... Khi bị can trốn hoặc không
biết bị can đang ở đâu, VKS có quyền yêu cầu CQĐT truy nã bị can.
Sáu là, quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án.
Kết thúc điều tra, sau khi nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố cùng hồ sơ vụ án, nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình
sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS ra quyết định truy tố bị can
trước Tòa án, đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố
sang Tòa án để thực hiện việc xét xử. Trường hợp xác định được có một trong
những căn cứ qui định tại Khoản 1 Điều 169 BLTTHS thì VKS ra quyết định
đình chỉ vụ án; trường hợp xác định được có một trong những căn cứ qui định
tại Khoản 2 Điều 169 BLTTHS thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Cần lưu ý là trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can thì VKS quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
44
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSĐT vụ án hình sự (Điều 113
BLTTHS)
Nhằm đảm bảo việc điều tra vụ án được thực hiện một cách khách quan và
đúng pháp luật, những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện
kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Một là, kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc
lập hồ sơ vụ án của CQĐT. Kiểm sát việc khởi tố là kiểm sát tính có căn cứ,
tính hợp pháp của các quyết định khởi tố của CQĐT, bao gồm: Quyết định
khởi tố vụ án hình sự, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án,
quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, quyết định
thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can. Mục đích của hoạt động này
nhằm đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được tiến hành đúng pháp
luật, đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp.
Kiểm sát các hoạt động điều tra do CQĐT tiến hành. Trong quá trình
điều tra vụ án, CQĐT thực hiện nhiều hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ
như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bị can, lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều tra, nhận dạng, đối chất,...
và các hoạt động khác theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Mục đích kiểm
sát các hoạt động điều tra là đảm bảo cho các hoạt động điều tra của CQĐT được
thực hiện theo đúng qui định của pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong quá
trình tiến hành điều tra được phát hiện, có biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời.
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT nhằm đảm bảo hồ sơ vụ án
được xây dựng một cách khách quan, đúng thủ tục, trình tự, đúng thẩm quyền
và hình thức luật định. Hồ sơ vụ án phải thể hiện được đầy đủ các loại tài liệu
cần thiết mà pháp luật tố tụng hình sự qui định, được đánh số bút lục và thống
kê các tài liệu có trong hồ sơ.
Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng. Theo qui định của BLTTHS thì người tham gia tố tụng hình sự bao
45
gồm: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng,
người bào chữa… BLTTHS qui định rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng hình sự. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng
là đảm bảo để quyền và nghĩa vụ của họ được tôn trọng, được thực hiện đầy
đủ; mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng phải được phát hiện và khắc phục kịp thời.
Ba là, giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Khi phát sinh
tranh chấp về thẩm quyền điều tra như thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ, thẩm
quyền điều tra theo vụ việc, VKS phải nghiên cứu, xem xét giải quyết. VKS
cũng có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo qui định
tại Điều 116 của BLTTHS thì trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền
điều tra của mình, CQĐT phải đề nghị VKS cùng cấp ra quyết định chuyển vụ
án cho CQĐT có thẩm quyền để tiếp tục điều tra. Trường hợp thấy vụ án
không thuộc thẩm quyền của CQĐT cấp mình thì VKS yêu cầu CQĐT tiến
hành các thủ tục để VKS ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan có thẩm
quyền. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của CQĐT,
VKS cùng cấp phải ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền.
Nếu phải chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thì CQĐT cấp huyện, cấp khu vực
tiến hành các thủ tục để VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực có văn bản đề
nghị VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án.
Nếu vụ án do CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển
thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị chuyển vụ án của VKS
cấp huyện, VKS quân sự khu vực hoặc của CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự
cấp quân khu thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu phải ra quyết định
chuyển vụ án.
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAYLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOTLuận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết ngườiLuận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT

Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcKhóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...nataliej4
 
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcKhóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 

Similar to Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT (20)

Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý hành chínhTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAYThực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
 
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLuận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luậtLuận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
 
Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Về Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam.
Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Về Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam.Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Về Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam.
Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Về Ma Túy Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam.
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
 
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcKhóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dânMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAYMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân SựBáo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
 
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcKhóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 

Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT

  • 1. 1 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ph¹m thÞ thóy thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2015
  • 2. 2 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt ph¹m thÞ thóy thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra vô ¸n g©y rèi trËt tù c«ng céng trªn ®Þa bµn tØnh h­ng yªn Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù M· sè : 60 38 01 04 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn V¨n Tu©n Hµ néi - 2015
  • 3. 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 7 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố 7 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra 16 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 18 1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng 21 1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng 21 1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng 25 1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 26 1.3.1. Quan hệ phối hợp 26 1.3.2. Quan hệ chế ước 27 1.4. Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam 29
  • 4. 4 Chương 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN 33 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 33 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng 40 2.2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội gây rối trật tự công cộng 41 2.2.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 64 2.2.3. Một số hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng khác 76 2.4. Những tồn tại hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 84 2.4.1. Những tồn tại, hạn chế 84 2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 84 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 91 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 91 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng 94 3.2.1. Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra 94
  • 5. 5 3.2.2. Nâng cao kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 97 3.2.3. Nâng cao chất lượng tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng Viện kiểm sát 110 3.2.4. Đổi mới phương thức đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 102 KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra KSĐT : Kiểm sát điều tra THQCT : Thực hành quyền công tố TTCC : Trật tự công cộng VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tình hình giải quyết án gây rối TTCC 43 2.2 Tình hình bắt, giữ trong vụ án gây rối TTCC 65 2.3 Tình hình áp dụng và giải quyết biện pháp tạm giam ở giai đoạn điều tra vụ án gây rối TTCC 66 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Tỷ lệ các loại tố giác, tin báo về tội gây rối TTCC 44
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (TTCC) nói riêng và đặc biệt là tội gây rối TTCC đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này có tính nguy hiểm không cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi gây rối TTCC xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, hành vi này được thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, biểu hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung, đánh lộn, đập phá, gây lộn xộn ở nơi đông người, tụ tập đi xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là các hành vi hủy hoại tài sản, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, thậm chí là giết người... Nằm trong xu thế chung của cả nước, Hưng Yên một tỉnh cũng đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ngày càng nhiều trong khi chưa có sự cơ cấu hợp lý về việc làm và giá bồi thường đất dẫn đến tình trạng bất ổn trong một bộ phận nhân dân. Trường hợp người dân tụ tập với số lượng đông biểu tình, cản trở, gây sức ép và phản đối các công trình đầu tư thi công, tụ tập trước các trụ sở cơ quan nhà nước, cản trở giao thông, gây mất TTCC ngày càng nhiều nhưng con số xử lý thì quá ít và dường như còn khá ngại va chạm. Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát (VKS) phải là đơn vị đi đầu, định hướng quan trọng trong việc điều tra xác định tội danh gây rối TTCC. Góp phần củng cố tình hình an ninh địa phương, trật tự an toàn xã hội, không để bỏ lọt
  • 9. 9 tội phạm hay làm oan người vô tội. Do đó, hơn lúc nào hết vấn đề THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra vụ án gây rối TTCC trở lên cấp thiết. Trong xu hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì những vấn đề gì đặt ra khi THQCT và kiểm sát điều tra (KSĐT) nói chung, cũng như đối với vụ án gây rối TTCC nói riêng cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong xu hướng cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Thực hành quyền công tố và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kể đến một số công trình điển hình như sau: - Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Hà Nội. - Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. - Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
  • 10. 10 - Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động thực THQCT và KSĐT cụ thể đối với vụ án gây rối TTCC. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" là một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài - Mục đích của đề tài Luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án gây rối TTCC nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối TTCC, pháp luật tố tụng hình sự trong THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra. - Nhiệm vụ của đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở lý luận về THQCT và KSĐT. + Phân tích thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. + Đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về THQCT và KSĐT. + Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT nói chung, chất lượng THQCT và KSĐT đối với vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự và hoạt động THQCT
  • 11. 11 và KSĐT các vụ án gây rối TTCC của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Hưng Yên. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC. Đưa những vấn đề cần làm sáng tỏ trong khi THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án gây rối TTCC trong 05 năm (2010 - 2014). 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
  • 12. 12 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT của VKS. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC; - Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC thường gặp phải; - Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC; - Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 7. Ý nghĩa của luận văn - Ý nghĩa khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT và KSĐT. Đồng thời còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại các trường đào tạo luật và Trường Đại học Kiểm sát.
  • 13. 13 - Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm góp phần giúp VKSND tỉnh Hưng Yên cũng như VKSND các địa phương trong cả nước nâng cao được chất lượng THQCT và KSĐT đối với các vụ án gây rối TTCC. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Chương 2: Pháp luật thực định và thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến năm 2014. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG 1.1. khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố * Quyền công tố Tại Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" với tư cách là quyền năng của VKS lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, sau đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật tổ chức VKSND năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên 2011... Ngày nay, thuật ngữ này đã trở lên phổ biến hơn. Tuy nhiên, trong khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Theo đó, "tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố" [15, tr. 85]. Có nghĩa là ngay cả khi VKS kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động THQCT. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Quan điểm thứ hai: "Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này được giao cho Viện kiểm sát nhân dân" [15, tr. 19]. Quan điểm này cho rằng
  • 15. 15 quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật nó đã lan sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quan điểm này quá mở rộng dẫn đến xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác. Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh nhà nước thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa, tức là chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử. Ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân [53, tr. 1-60]. Theo quan điểm này việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử. Theo tôi, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố; không những vậy, nó còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố, còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT bởi vì truy tố và buộc tội trước Tòa chỉ là một trong số các quyền năng cụ thể của hoạt động THQCT tại giai đoạn xét xử. Quan điểm thứ tư: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội" [53, tr. 10]. Quan điểm này cho rằng quyền công tố chỉ xuất hiện trong lĩnh vực hình sự và chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (CQĐT, Tòa án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên
  • 16. 16 tắc truy cứu trách nhiệm hình sự rằng tội phạm phải bị truy cứu và bị trừng trị, đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử …). Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [39, tr. 40]. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất VKS, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được. Như vậy có thể thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố… Tác giả Lê Hữu Thể đã viết: Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ đó cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời việc nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất đó (đó là tội phạm) tức lĩnh vực tố tụng hình sự [39, tr. 37].
  • 17. 17 - Tháng 7/1967, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đưa ra kết luận rất quan trọng về quyền công tố và trách nhiệm của ngành kiểm sát: Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ nhà nước nào. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân phải trông nom, đảm bảo tốt. - Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [9, tr. 2]. - Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729 ngày 14/3/2002) về dự án Luật Tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa" [44, tr. 4]. - Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân, quán triệt những nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSND tối cao đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử". - Hiến pháp 2013 (Điều 107) và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp" [37, tr. 39]. Từ những dẫn chứng trên, tôi bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể, cũng chính là quan điểm thứ 5 đã nêu trên: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công
  • 18. 18 tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa [39, tr 40]. * Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra Thời gian qua, vấn đề THQCT, phạm vi và nội dung của nó, mối quan hệ giữa chức năng THQCT với thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự còn ít được đề cập và chưa được rõ ràng. Một số chuyên đề về nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp do VKSND tối cao tổ chức cũng chỉ đua ra một số biện pháp pháp lý, kiến nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực hiện chức năng như: KSĐT, kiểm sát xét xử, THQCT. Trong nội dung nghiên cứu của các chuyên đề này chưa phân biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là THQCT, hành vi tố tụng nào là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Cho đến nay, nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn của các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS và các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó. Vì vậy, nhiều người đã gặp vướng mắc và không lý giải được vấn đề khi một số cơ quan khác cũng khởi tố vụ án thì các cơ quan này có phải cũng THQCT hay không? Từ Hiến pháp năm 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. Tuy vậy, việc phát động quyền công tố thì không chỉ có VKS và còn có cả CQĐT, Tòa án cũng có quyền. Nhưng các quyết định khởi tố của các cơ quan đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền sau khi được VKS xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt,
  • 19. 19 nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét, nếu có vi phạm pháp luật thì VKS sẽ kháng nghị. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT chỉ có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là do VKS; CQĐT có quyền độc lập thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS nước ta đã quy định thẩm quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là "được áp dụng các biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 23 BLTTHS). Từ những nội dung trên, tôi đồng ý với quan điểm: "Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [19, tr. 40]. Phạm vi quyền công tố Trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay, VKS thực hiện quyền công tố ở các giai đoạn tố tụng, bởi vì khi có việc tiến hành tố tụng thì bao giờ cũng gắn liền với việc buộc tội. Do đó, không thể quan niệm việc THQCT chỉ ở giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, VKS cũng có thể bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS cấp dưới khi bị cáo kháng cáo kêu oan, bảo vệ kháng nghị của VKS theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Về nguyên tắc, khi có tội phạm xảy ra là xuất hiện quyền công tố, luật tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiển rõ nguyên tắc này là: Mục đích của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi tội phạm xảy ra đều được phát hiện và khởi tố nên số vụ án được khởi tố điều tra bao giờ
  • 20. 20 cũng nhỏ hơn số vụ phạm tội xảy ra. Dưới góc độ tội phạm học những vụ phạm tội chưa được phát hiện là phần tội phạm ẩn chưa có trong thống kê hình sự. Theo đó, giữa phạm vi quyền công tố và phạm vi THQCT có thể được do bằng tình trạng tội phạm ẩn đang cần được phát hiện, xử lý. Do vậy, nếu quan niệm phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự là thu hẹp phạm vi quyền này và nhầm lẫn khởi tố vốn là một biện pháp THQCT với quyền công tố. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố và theo đó chấm dứt việc THQCT là: Không có sự kiện phạm tội; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; miễn trách nhiệm hình sự; hiệu lực của Bộ luật hình sự (BLHS) về mặt thời gian. Từ đó có thể kết luận rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong những căn cứ do luật tố tụng hình sự qui định. Nội dung thực hành quyền công tố Nhiều người cũng tán thành với quan điểm rằng THQCT, đó là những biện pháp do luật định mà VKS sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội... Thế nhưng trong lý luận và thực tiễn hiện nay vẫn chưa có một công trình nào nêu rõ được nội dung THQCT bao gồm những quyền năng pháp lý cụ thể nào. Điều này dẫn tới tình trạng nhầm lẫn giữa chức năng THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Từ kết quả
  • 21. 21 nghiên cứu ở các phần trên, tôi cho rằng: những quyền năng pháp lý mà VKS tự quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy vậy, việc xác định và phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì có những hành vi tố tụng mà chúng thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Chẳng hạn, quyết định kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Vì một quyết định kháng nghị có thể bao hàm đồng thời hai nội dung, một là có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS, hai là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng hình sự; hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên nhưng đều làm phát sinh một trình tự xét xử mới, xét xử phúc thẩm hình sự. Chính vì lẽ đó, theo luật định, VKS thực hiện đồng thời hai chức năng, chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không tách ra thành các chương riêng. Nhiều nước trên thế giới, ngoài chức năng công tố, Viện công tố còn được giao nhiệm vụ trông nom việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp nhưng cũng không tách bạch giữa hai nhiệm vụ này trong Luật công tố. Hiện nay trong lý luận và thực tiễn cũng còn có một số quan điểm khác nhau về THQCT và chủ thể THQCT. Do đó việc quan niệm nội dung THQCT cũng còn khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm giam bị cáo là nội dung THQCT thì có nghĩa là CQĐT và Tòa án cũng là cơ quan THQCT. Chúng tôi cho rằng, ở đây có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố tụng với quyền của cơ quan công tố. Việc sử dụng một số biện pháp để cáo buộc bị can, bị cáo do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoàn toàn không đồng nghĩa với thẩm quyền công tố theo nghĩa đầy đủ của nó là quyền đưa vụ án ra Tòa và thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo trước Tòa án. Chỉ có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để truy cứu
  • 22. 22 trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra tội phạm và giai đoạn xét xử hình sự tại Tòa án thì đó là cơ quan THQCT. Ở nước ta chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. CQĐT chỉ là người hỗ trợ cho VKS đưa vụ án ra Tòa; Tòa án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm tội mà VKS đã truy tố. Như vậy có thể quan niệm rằng, nội dung THQCT là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm, VKS có nhiệm vụ: áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội; bảo đảm không để một người nào bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là có căn cứ và đúng pháp luật (Điều 23 và Điều 141 BLTTHS). Để thực hiện mục đích THQCT, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định cho VKS những quyền năng pháp lý: - Quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; - Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. - Yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên. Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; - Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của pháp luật; - Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT;
  • 23. 23 - Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra Kiểm sát điều tra nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Kiểm sát hoạt động tư pháp Hoạt động tư pháp là các hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án và các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của Tòa án trong cả lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính, kinh tế... Hoạt động tư pháp là hoạt động trước hết phải được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định của VKS nhân dân. Theo quy định của pháp luật, VKS thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động… Gắn liền với tố tụng hình sự là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT - KSĐT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự - Kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án và các quyết định của Tòa án nhân dân. Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là nhằm đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, không để xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Trong các lĩnh vực tố tụng khác, mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp là nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình và các việc khác theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Mục đích chung của hoạt
  • 24. 24 động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự và các tranh chấp khác. Kiểm sát điều tra Theo quy định của pháp luật, trong lĩnh vực hình sự, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn với các giai đoạn tố tụng khác nhau: THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT; THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự và các quyết định của Tòa án nhân dân (Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Ứng với mỗi công tác này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định một chương riêng biệt. Trong đó, tại chương II, các mục 2 (gồm các điều 14, 15) quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT (công tác thứ nhất) với tiêu đề "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự". Sau khi vụ án được khởi tố, giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phát sinh những quan hệ tố tụng, các quan hệ này tồn tại trong suốt cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra thì đó là mối quan hệ giữa CQĐT và VKS, là các hoạt động của CQĐT được thực hiện bởi các Điều tra viên, là các hành vi của các Điều tra viên, là các quyết định của CQĐT, là hành vi của những người tham gia tố tụng... Đồng thời với sự xuất hiện của các hoạt động tố tụng cũng xuất hiện đòi hỏi có sự giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Nội dung của KSĐT chính là các nhiệm vụ và quyền hạn mà pháp luật tố tụng hình sự quy định khi KSĐT. Theo Điều 113 BLTTHS, nội dung của KSĐT là: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những
  • 25. 25 người tiến hành và tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên có vi phạm kỷ luật khi tiến hành điều tra… 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Đây cũng là một vấn đề đã từng có nhiều quan điểm chưa thống nhất về cả lý luận và thực tiễn. Có quan điểm cho rằng, THQCT và KSĐT là hai chức năng độc lập của VKS, cần được phân biệt rạch ròi. Bởi lẽ, bản thân hoạt động công tố của VKS cũng cần đặt dưới sự kiểm sát gắt gao, chặt chẽ, vì chính hoạt động này cũng là một hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Từ đó phải có sự phân định rõ ràng về nhận thức, đồng thời về mặt tổ chức cần hình thành các bộ phận độc lập trong VKS để thực hiện từng chức năng. Xa hơn nữa, cần xác định VKS chỉ làm chức năng công tố và gọi tên là Viện công tố, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp giao cho cơ quan chức năng khác. Nhưng cũng có quan điểm lại hoàn toàn trái ngược khi cho rằng hai chức năng này không thể tách rời, dẫn tới không thể phân biệt được các hoạt động như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định việc bắt, tạm giữ, tạm giam... là hoạt động công tố hay KSĐT. Những người theo quan điểm này đưa ra phương án gắn kết giữa điều tra và công tố làm một, không tách bạch, xét lẻ hoạt động điều tra và hoạt động công tố thành các hoạt động tố tụng khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan công tố thực hiện luôn công việc điều tra mà không thực hiện công tác KSĐT. Thời gian gần đây các công trình nghiên cứu cũng như trong khoa học pháp lý đã đi đến tư tưởng khá thống nhất khi cho rằng THQCT và KSĐT là hai chức năng của VKS, giữa chúng có đối tượng, phạm vi và nội dung hoạt động khác nhau. Nếu như đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người tham gia tố tụng. Mục đích và nhiệm vụ của THQCT là làm sáng tỏ tội phạm đã xảy ra,
  • 26. 26 vạch trần lỗi của người phạm tội để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, còn mục đích và nhiệm vụ của KSĐT là phát hiện kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật của các chủ thể trong tố tụng hình sự để yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, giữa chúng có mục đích và nhiệm vụ chung đều là nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm (Điều 1 và Điều 23 BLTTHS). Như vậy, chính đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của từng hoạt động đã quy định nên mối quan hệ chặt chẽ giữa chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự với những đặc trưng cơ bản sau đây: - Mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT tuy không phải là quan hệ nhân quả, quan hệ trước sau; phụ thuộc và chi phối lẫn nhau nhưng đó là quan hệ hỗn hợp tác động lẫn nhau do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm mục đích của tố tụng hình sự là: mọi tội phạm đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, vi phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Theo quy định của pháp luật thì THQCT công tố trong giai đoạn điều tra và hoạt động KSĐT được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và cùng kết thúc khi giai đoạn điều tra kết thúc (đề nghị truy tố, tạm đình chỉ, đình chỉ). - Thực hành quyền công tố và KSĐT đều được thực hiện theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKS. Đó là nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Điều đó có nghĩa là trong quá trình THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong mọi trường hợp đều do Viện trưởng quyết định nhưng có sự phân công, phân cấp trong nội bộ cơ quan VKS; VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên; Viện trưởng VKS các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC. - Thực hành quyền công tố và KSĐT đều do một chủ thể tiến hành đó là VKS mà người trực tiếp tiến hành các hoạt động này gồm có Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên.
  • 27. 27 Trên tinh thần đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS các cấp phải luôn luôn xác định hoạt động công tố có tính độc lập tương đối với các hoạt động KSĐT, nhưng các hoạt động này phải đặt chúng trong mối quan hệ tác động lẫn nhau; không được tách rời việc thực hiện hai chức năng công tố và kiểm sát trong từng giai đoạn tố tụng. Đồng thời VKS các cấp cũng phải khắc phục tình trạng coi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng là THQCT, sẽ dẫn đến thiếu chủ động trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của mình trong cuộc đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. KSĐT có hiệu quả sẽ là điều kiện giúp cho việc THQCT được đúng đắn, ngược lại công tác THQCT có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho hoạt động KSĐT xác định kịp thời được các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra. Trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT theo quy định của pháp luật đều phải được VKS xem xét nhằm bảo đảm việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp xác định được quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó, nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì VKS ra quyết định hủy bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án để yêu cầu tiến hành điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của BLTTHS như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, khám xét... nhưng các hoạt động điều tra ấy về nguyên tắc đều phải được kiểm sát. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, VKS có trách nhiệm áp dụng các biện pháp do luật định như kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Điều đáng chú ý là đối với một số hoạt động điều tra, một số quyết định của CQĐT chỉ được thực hiện khi có sự phê chuẩn của VKS. Ngoài việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của BLTTHS thì VKS có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong khi đó CQĐT không được quyền tự mình thay đổi hoặc hủy
  • 28. 28 bỏ các quyết định, các biện pháp mà pháp luật quy định phải có sự phê chuẩn của VKS. Tuy nhiên, các hoạt động này của VKS (hoạt động công tố) chỉ được thực hiện khi và chỉ khi đã có sự xem xét chặt chẽ về tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi và quyết định của CQĐT (hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật). 1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng 1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. BLHS Việt Nam năm 1999 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [33]. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì "Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi cộng cộng mà mọi người phải tuân theo" [21]. TTCC là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa, sự tuân thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa nhận, tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi. Như vậy, TTCC cũng có thể hiểu là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật và các nội quy quy tắc về trật tự chung, an toàn chung mà đòi hỏi mọi thành viên của xã hội phải
  • 29. 29 tuân thủ theo những quy định chung đó nhằm đảm bảo cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã hội. Như vậy, tội gây rối TTCC có thể hiểu là hành vi hò hét, làm náo động, phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tội gây rối TTCC được quy định tại Điều 245 BLHS hiện hành, như sau: Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng. 1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách; b) Có tổ chức; c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; d) Xúi giục người khác gây rối; đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; e) Tái phạm nguy hiểm [33]. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây rối trật tự công cộng Dấu hiệu pháp lý hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội phạm có tính đặc trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và đủ để phân biệt loại tội phạm này với các tội phạm khác, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động định tội danh. Vì vậy, để thực hiện tốt hoạt động THQCT và
  • 30. 30 KSĐT các vụ án gây rối TTCC thì bên cạnh việc nắm vững kiến thức về THQCT và KSĐT nói chung còn cần hiểu biết đầy đủ về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây rối TTCC. Khách thể của tội phạm Tội gây rối TTCC xâm phạm trực tiếp đến những quy tắc, luật lệ, điều lệ, nội quy... về TTCC, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc cuộc sống, gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người ở nơi công cộng. Ngoài ra, tội gây rối TTCC còn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của những người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ TTCC. Mặt khách quan của tội phạm Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất TTCC; có lời nói, cử chỉ tiếp xúc với người khác ở nơi công cộng với thái độ tỏ ra coi thường trật tự xã hội chung; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở nơi công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong các, quán ăn, quán giải khát có đông người... Hành vi gây rối TTCC phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc không cần trong trường hợp đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Tức dấu hiệu hậu quả "gây hậu quả nghiêm trọng" vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa là dấu hiệu không bắt buộc. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS tại mục 5 có hướng dẫn: ...5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự: a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ; b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
  • 31. 31 c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên; d. Chết người; đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên; g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên. h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên. Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khỏe và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội... Khi đó sẽ tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không [41]. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có hành vi gây rối TTCC đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, trong khi tội gây rối TTCC theo phân loại tội tại Điều 8 BLHS thì thuộc loại tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Do đó, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chủ thể của tội gây rối TTCC, hay nói cách khác chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này.
  • 32. 32 Mặt chủ quan của tội phạm Tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý và không có động cơ, mục đích chống chính quyền nhân dân. 1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng Từ nhận thức chung về hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động điều tra, và đặc điểm pháp lý của tội gây rối TTCC, ta có thể rút ra đặc điểm của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC như sau: - Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC bắt đầu từ thời điểm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội gây rối TTCC. Tuy nhiên, tội phạm này có tính đa dạng về hành vi, sự việc xảy ra không phản ánh ngay cấu thành tội gây rối TTCC, nên cần phải xem xét cả các tố giác, tin báo về các tội liên quan như Cố ý gây thương tích hủy hoại tài sản, giết người… xảy ra ở nơi công cộng, ảnh hưởng tới trật tự xã hội chung. - Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC luôn đặt trong sự so sánh, ly lai với các tội phạm khác khi mà hành vi phạm tội ở mức chưa cấu thành các tội như: Cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, đua xe trái phép, chống người thi hành công vụ… - Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC thường phải lưu ý việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm này được phản ánh thông qua sơ đồ hiện trường thể hiện sự việc diễn ra ở nơi công cộng, lời khai của những người dân, người đại diện cơ quan nhà nước… có hoạt động bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi hành vi của người phạm tội, thời gian ùn tắc giao thông, tỷ lệ thương tích, định giá tài sản bị hư hỏng… Lưu ý tới yếu tố lỗi để phân biệt với các tội cố ý gây thương tích hay cố ý làm hư hỏng tài sản. - Hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự xã hội là một trong các tình tiết định tội đối với tội gây rối TTCC, nhưng nó là mang tính định tính chứ không phải là một tình tiết mang tính định lượng như trị giá tài sản, tỷ lệ thương tích như đối với tội trộm cắp tài sản, tội cố ý gây thương tích.
  • 33. 33 Nên hoạt động THQCT gặp nhiều khó khăn trong việc đánh hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự xã hội, vì nó phụ thuộc khá nhiều vào ý thức chủ quan của mỗi người để định tội. - Chủ thể thực hiện hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC chỉ có thể là kiểm sát viên và Viện trưởng, Phó Viện trưởng có thẩm quyền. Hoạt động này gắn chặt với hoạt động điều tra của CQĐT và đòi hỏi sự phối hợp cũng như chế ước đối với hoạt động của CQĐT. - Để thực hiện hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC, kiểm sát viên chỉ được áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tuân theo chức năng, quyền hạn của ngành Kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật. - Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối TTCC được diễn ra trực tiếp, đồng thời và đề cập một cách toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra. Nhằm hướng tới mục đích bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai đoạn điều tra, tìm kiếm mọi chứng cứ chứng minh tội phạm, tạo tiền đề cho giai đoạn truy tố, xét xử sau này. Các đặc điểm này sẽ được luận văn phân tích rõ thông qua các hoạt động cụ thể khi thực hiện chức năng THQCT và KSĐT các vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ở chương 2. 1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Thực hành quyền công tố và KSĐT là hai chức năng cơ bản của ngành kiểm sát, nó thể hiện mối quan hệ khá đặc biệt giữa VKS và CQĐT, mà ta có thể gọi là "quan hệ phối hợp" và "quan hệ chế ước". 1.3.1. Quan hệ phối hợp Phối hợp giữa VKS với CQĐT trong điều tra vụ án hình sự là sự liên kết theo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa VKS với CQĐT nhằm mục đích phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý tội phạm theo đúng quy định của pháp luật. Công tác phối hợp giữa CQĐT và VKS được thực hiện từ khi
  • 34. 34 CQĐT phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự, cho đến khi kết luận điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến VKS hoặc đình chỉ vụ án. CQĐT và VKS phối hợp trong từng chế định tố tụng hình sự, như: trong việc nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; việc điều tra thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án. Trong đó CQĐT và VKS có sự phối hợp chặt chẽ, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đây là mối quan hệ tố tụng khá phức tạp, CQĐT vừa có chức năng điều tra tội phạm nhưng đồng thời có trách nhiệm thể hiện công khai những hoạt động điều tra của mình trước VKS để VKS nắm được và giám sát. Trong một số hoạt động điều tra nhất định CQĐT phải chủ động thông báo để VKS thực hiện chức năng giám sát. Nếu CQĐT không "phối hợp" sẽ dẫn đến CQĐT chỉ điều tra tội phạm, còn VKS lại điều tra hoạt động điều tra của CQĐT. Lúc này cả hai sẽ không đạt được mục đích chung là xử lý tội phạm theo quy định của pháp luật, và làm xấu đi mối quan hệ giữa hai cơ quan... Trong sự phối hợp này, VKS có trách nhiệm phải giám sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, nếu phát hiện có vi phạm, thiết sót trong quá trình điều tra, phải kịp thời trao đổi, yêu cầu CQĐT khắc phục. Mục đích chính không phải là phát hiện những vi phạm, thiếu sót của CQĐT mà là nhằm phối hợp với CQĐT nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra đúng pháp luật, hướng tới truy cứu đúng tội phạm, không để xảy ra bỏ lọt hay oan sai. 1.3.2. Quan hệ chế ước Giữa VKS và CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án đã hình thành quan hệ tố tụng đặc biệt, trong đó VKS có quyền giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT và điều tra viên, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra vụ án đúng pháp luật. Quyền năng này có hiệu lực rất cao và có thể xác định bằng khái niệm "chế ước". Việc chế ước được bắt đầu ngay từ khi CQĐT khởi tố vụ án và được thực hiện trong suốt quá trình điều tra vụ án. Sự chế ước chỉ được thực hiện
  • 35. 35 một chiều giữa VKS đối với CQĐT. Đối tượng của sự chế ước chỉ là quyết định, hành vi của CQĐT và Điều tra viên trong quá trình tố tụng còn những vấn đề khác như: tổ chức, bộ máy… của CQĐT thì không phải. Sự chế ước được tiến hành trong từng chế định tố tụng hình sự và mức độ chế ước rất cao đối với những hoạt động tố tụng liên quan đến quyền con người như: khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn (bắt bị can để tạm giam, gia hạn tạm giữ, tạm giam…) đều phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành. Nội dung chế ước của VKS đối với hoạt động điều tra của CQĐT được thực hiện bằng tổng hợp các quyền năng pháp lý, như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ. Cụ thể: VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT một cách trực tiếp, như kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bị can..., hoặc giám sát gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Nhưng quyền giám sát của VKS thể hiện rõ nhất trong việc kiểm sát các quyền năng và hành vi tố tụng của CQĐT bằng việc nhất trí hoặc không nhất trí với CQĐT thông qua việc phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định của CQĐT, việc quyết định áp dụng hay không áp dụng các biện pháp tố tụng do CQĐT đề xuất. Hoạt động giám sát là cơ sở để VKS thực hiện quyền chế ước. Bởi vì, chỉ khi VKS nắm được hoạt động của CQĐT thì mới xác định được hoạt động điều tra đó có đúng hay không, việc điều tra có khách quan, đầy đủ hay không, mới có đủ điều kiện cần thiết để VKS thể hiện quan điểm của mình. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động giám sát của VKS sẽ bị hạn chế khi cơ chế giám sát không bảo đảm, khi Kiểm sát viên không nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về quyền năng giám sát của mình hoặc khi CQĐT không phối hợp chặt chẽ... Ví dụ: Điều tra viên thu thập chứng cứ, tài liệu nhưng không chuyển cho Kiểm sát viên nghiên cứu nắm được tiến độ, kết quả điều tra vụ án, hoặc trường hợp Kiểm sát viên không nghiên cứu tài liệu, chứng cứ của vụ án để đề ra yêu cầu điều tra theo quy định của pháp luật.
  • 36. 36 Viện kiểm sát có quyền yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra. Khi quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viểm sát có quyền yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra, VKS có quyền yêu cầu truy nã bị can, trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về tội phạm và việc vi phạm pháp luật của Điều tra viên. VKS có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT. Đây là một trong những quyền năng quan trọng, là công cụ để VKS bảo đảm cho hoạt động điều tra tuân theo pháp luật tố tụng hình sự. Trên thực tế, VKS chỉ thực hiện quyền năng này khi đã yêu cầu như CQĐT không thực hiện hoặc không thể tự hủy bỏ, khắc phục được. VD: VKS hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Thủ trưởng CQĐT nếu thấy quyết định đó không có căn cứ và trái pháp luật. 1.4. Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam Ngay từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quan tâm đến hoạt động công tố. Lúc đầu, các Công tố viên nằm trong Tòa án được quy định theo các Sắc lệnh số 33/SL ngày 12/9/1945, Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/1/1946, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 151/SL ngày 17/4/1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946. Theo các sắc lệnh này thì Ủy viên công tố chỉ đóng vai trò là người buộc tội tại Tòa án. Từ năm 1948 đến 1950 đã diễn ra cuộc cải cách tư pháp làm thay đổi đáng kể tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố. Theo quy định tại Sắc lệnh 254/SL ngày 19/11/1948, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, thì hoạt động công tố chịu sự chi phối của cơ quan hành pháp. Ủy viên công tố ở giai đoạn này không chỉ có quyền truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa mà còn có quyền "kháng cáo về việc hộ, kháng cáo về việc hình" (Điều 15 Sắc lệnh số 85/SL). Việc mở rộng thẩm quyền của cơ quan công tố với tư cách là người đại diện cho công quyền như vậy cho thấy vai trò của cơ quan công tố ngày càng được đề cao trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta.
  • 37. 37 Đến năm 1958, theo quy định của Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 8 và Nghị định số 156/TTg ngày 1/7/1959, Nghị định số 321/TTg ngày 27/7/1959 của Chính phủ, cơ quan công tố đã được tổ chức thành một hệ thống độc lập có bộ máy từ Trung ương xuống địa phương. Theo quy định tại Điều 1, Nghị định số 256/TTg ngày 1/7/1959 thì Viện công tố có nhiệm vụ chung là: điều tra và truy tố trước Tòa những người phạm pháp về hình sự; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân; giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật. Ngoài việc THQCT còn có quyền giám sát sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đây là bước cải cách quan trọng có tính chất quá độ, chuẩn bị cho việc chuyển cơ quan công tố thành VKS vào năm 1960. Như vậy, thời kỳ từ năm 1945 đến 1959 cơ quan công tố ở nước ta đã từng bước hoàn thiện về thẩm quyền: từ chỗ chỉ đóng vai trò là người buộc tội trong vụ án hình sự, cơ quan công tố có quyền khởi tố vụ án, truy tố bị can ra Tòa. Ngoài việc THQCT, cơ quan công tố còn có quyền giám sát tố tụng, điều tra vụ án hình sự. Vào đầu năm 1960, trước yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã đòi hỏi phải tăng cường hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, để "bảo đảm cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững là điều kiện cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng". Viện công tố với chức năng của nó là buộc tội không còn phù hợp đã được chuyển thành VKSND, đó là một hệ thống cơ quan độc lập tách ra khỏi hành pháp và trực thuộc Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Bên cạnh chức năng của Viện công tố được kế thừa và phát triển, VKSND còn được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm pháp chế. Các chức năng đó của VKSND được quy định trong Hiến pháp 1959, Luật tổ chức VKSND năm 1960 và tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp 1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981; Hiến pháp 1992, Luật tổ chức VKSND năm 1992; Hiến
  • 38. 38 pháp sửa đổi và Luật tổ chức VKSND năm 2002; Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014 đó là: VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong một thời gian dài nhiều người đã có quan niệm rằng chức năng chính, chủ yếu của VKSND là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Có quan điểm lại cho rằng, VKSND chỉ có chức năng duy nhất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn THQCT chỉ là một quyền năng để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng người ta nhầm lẫn giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Giáo trình "Lý luận chung về công tác kiểm sát" đã viết: Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân cần xác định: đối với hoạt động điều tra của các Cơ quan điều tra đòi hỏi Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm tra, xem xét để xác định tính có căn cứ, tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, đảm bảo mọi hoạt động điều tra được tiến hành khách quan, đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm đưa vụ án ra trước Tòa án xét xử theo pháp luật. Đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố bằng nhiều nội dung và hình thức khác nhau. Khi phát hiện hoạt động xét xử có vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân phải có biện pháp khắc phục. Khi xác định bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị theo các trình tự luật định nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ hợp pháp, đúng người, đúng tội [42, tr. 85]. Hay cho rằng hai chức năng này là một, như quan điểm sau: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm để truy tố và để buộc tội người phạm tội ra trước Tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử đúng người, đúng
  • 39. 39 tội, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ các quyền và tự do của con người cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước [3, tr. 1-12]. Trong các bản tổng kết công tác kiểm sát, nhất là tổng kết 25 năm (1960 - 1985) của VKSNDTC luôn khẳng định: VKSND chỉ có một chức năng duy nhất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và coi quan niệm về VKSND có hai chức năng là một nhận thức không đúng. Trong bản báo cáo của mình trình trước Quốc hội về chức năng của VKS, Ủy ban soạn thảo Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ VKSND có hai chức năng như kết luận của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII. Kết luận này đã được thể chế tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 1992. Kể từ đây, quan niệm về hai chức năng của VKSND đã trở lên rõ ràng hơn. Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện tinh thần cải cách tư pháp được nêu ra trong các nghị quyết của Đảng và khẳng định VKSND có hai chức năng, chỉ điều chỉnh phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. VKS không làm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên mọi lĩnh vực, chỉ tiến hành chức năng này trong lĩnh vực tư pháp. Cho đến nay, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND vừa ra đời năm 2014 cũng đều khẳng định VKSND thực hiện hai chức năng là THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
  • 40. 40 Chương 2 PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hai chức năng THQCT và KSĐT được thể hiện thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT và KSĐT, qui định tại các điều 14, 15, 16, 17 Luật Tổ chức VKS năm 2014; các điều 23, 112, 113 BLTTHS. - Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 112 BLTTHS) Một là, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, thẩm quyền chủ yếu thuộc về CQĐT. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong một số trường hợp nhất định. Khi hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ phải gửi quyết định đó đến CQĐT để tiến hành điều tra. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa, phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự. Trường hợp nhận được yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử, nếu thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ phải gửi quyết định này đến CQĐT để tiến hành điều tra.
  • 41. 41 Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can nếu sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố. Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa bị khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án và trong thời hạn 24 giờ phải gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra. Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn có hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra. Hai là, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của pháp luật. Việc đề ra yêu cầu điều tra có thể trực tiếp bằng lời nói, khi Kiểm sát viên trực tiếp cùng Điều tra viên tiến hành các hoạt động điều tra, như kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với những trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có văn bản nêu rõ vấn đề cần điều tra. Trong một số trường hợp, Kiểm sát viên phải báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của người có thẩm quyền trước khi ký văn bản yêu cầu điều tra. Khi THQCT trong quá trình điều tra vụ án hình sự, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Các hoạt động điều tra mà Kiểm sát viên có thể trực tiếp tiến hành bao gồm: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra. Việc trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nói trên cũng phải đảm bảo tuân thủ theo các qui định của pháp luật.
  • 42. 42 Ba là, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên theo qui định của pháp luật, nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự. Khi phát hiện thấy Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ chối tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên có quyền đề nghị Viện trưởng VKS cấp mình xem xét để yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên. Theo qui định tại khoản 1 Điều 44 BLTTHS, Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó hoặc có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Điều tra viên cũng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký toà án. đói quá trình THQCT trong giai đoạn điều tra, nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì VKS đề nghị CQĐT có thẩm quyền khởi tố về hình sự. Bốn là, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo qui định của pháp luật. Khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, VKS có quyền quyết định áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. VKS có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt khẩn cấp, (gia hạn) tạm giữ, bắt bị can để tạm giữ, tạm giam, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn,
  • 43. 43 VKS cũng có quyền hủy bỏ hoặc thay đổi khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Trong quá trình THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS còn có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đối với một số quyết định khác của CQĐT theo qui định của pháp luật. Đối với các trường hợp cần có sự phê chuẩn, VKS phải nghiên cứu, xem xét một cách khách quan, toàn diện, xác định tính có căn cứ, tính hợp pháp của quyết định tố tụng, trên cơ sở đó ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn, quyết định hủy bỏ đúng thời hạn luật định. Nếu không phê chuẩn thì trong quyết định đó phải nêu rõ lý do. Năm là, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can. Trong quá trình điều tra vụ án, nếu xác định được các quyết định của CQĐT không có căn cứ, VKS có quyền ra quyết định hủy bỏ, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự... Khi bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu, VKS có quyền yêu cầu CQĐT truy nã bị can. Sáu là, quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Kết thúc điều tra, sau khi nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án, nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án, đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố sang Tòa án để thực hiện việc xét xử. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ qui định tại Khoản 1 Điều 169 BLTTHS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án; trường hợp xác định được có một trong những căn cứ qui định tại Khoản 2 Điều 169 BLTTHS thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Cần lưu ý là trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can thì VKS quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
  • 44. 44 - Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSĐT vụ án hình sự (Điều 113 BLTTHS) Nhằm đảm bảo việc điều tra vụ án được thực hiện một cách khách quan và đúng pháp luật, những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Một là, kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT. Kiểm sát việc khởi tố là kiểm sát tính có căn cứ, tính hợp pháp của các quyết định khởi tố của CQĐT, bao gồm: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can. Mục đích của hoạt động này nhằm đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được tiến hành đúng pháp luật, đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp. Kiểm sát các hoạt động điều tra do CQĐT tiến hành. Trong quá trình điều tra vụ án, CQĐT thực hiện nhiều hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều tra, nhận dạng, đối chất,... và các hoạt động khác theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Mục đích kiểm sát các hoạt động điều tra là đảm bảo cho các hoạt động điều tra của CQĐT được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành điều tra được phát hiện, có biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT nhằm đảm bảo hồ sơ vụ án được xây dựng một cách khách quan, đúng thủ tục, trình tự, đúng thẩm quyền và hình thức luật định. Hồ sơ vụ án phải thể hiện được đầy đủ các loại tài liệu cần thiết mà pháp luật tố tụng hình sự qui định, được đánh số bút lục và thống kê các tài liệu có trong hồ sơ. Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Theo qui định của BLTTHS thì người tham gia tố tụng hình sự bao
  • 45. 45 gồm: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa… BLTTHS qui định rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình sự. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng là đảm bảo để quyền và nghĩa vụ của họ được tôn trọng, được thực hiện đầy đủ; mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải được phát hiện và khắc phục kịp thời. Ba là, giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Khi phát sinh tranh chấp về thẩm quyền điều tra như thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ, thẩm quyền điều tra theo vụ việc, VKS phải nghiên cứu, xem xét giải quyết. VKS cũng có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo qui định tại Điều 116 của BLTTHS thì trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của mình, CQĐT phải đề nghị VKS cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền để tiếp tục điều tra. Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của CQĐT cấp mình thì VKS yêu cầu CQĐT tiến hành các thủ tục để VKS ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của CQĐT, VKS cùng cấp phải ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền. Nếu phải chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thì CQĐT cấp huyện, cấp khu vực tiến hành các thủ tục để VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực có văn bản đề nghị VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị chuyển vụ án của VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực hoặc của CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu phải ra quyết định chuyển vụ án.