SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG ĐỨC NGỌC
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG ĐỨC NGỌC
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm
Hµ néi - 2010
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
Mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chƣa đạt trong luật hình
sự
9
1.1. Khái niệm và phân loại phạm tội chưa đạt 9
1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý 9
1.1.2. Khái niệm phạm tội chưa đạt 18
1.1.3. Phân loại phạm tội chưa đạt 24
1.2. Phân biệt phạm tội chưa đạt với một số hình thức phạm tội khác
trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý
28
1.2.1. Phân biệt phạm tội chưa đạt với ý định phạm tội, chuẩn bị
phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
29
1.2.2. Phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành và tội
phạm kết thúc
35
1.3. Các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
về phạm tội chưa đạt
37
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 37
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 39
1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 40
2
1.3.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 43
Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội
chƣa đạt
47
2.1. Các quy định của pháp luật hình sự từ thời kỳ phong kiến đến
trước ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm
tội chưa đạt
47
2.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng 8 năm 1945
47
2.1.2. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
51
2.1.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999
55
2.2. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
phạm tội chưa đạt
58
2.2.1. Hành vi phạm tội chưa đạt 58
2.2.2. Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt 63
2.2.3. Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa hoàn thành 77
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của bộ luật
hình sự việt nam năm 1999 về phạm tội chƣa đạt
80
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về phạm tội chưa đạt
80
3.1.1. Những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn 84
3.1.2. Vướng mắc trong quy định của Bộ luật hình sự 103
3.2. Việc hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt
109
3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt
109
3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt
111
3
Kết luận 118
Danh mục Tài liệu tham khảo 121
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc và tổng số vụ án
đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm
2005-2009
80
3.2 Tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc và tổng số bị cáo
đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm
2005-2009
81
3.3 Tỷ lệ bản án có phạm tội chưa đạt trong tổng số các bản
án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình
sự của Tòa án nhân dân
81
3.4 Tội danh, số vụ, số bị cáo và tỷ lệ số vụ án trên các bản
án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình
sự của Tòa án nhân dân
82
5
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ Trang
2.1 Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt tồn tại
trong thực tiễn
79
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội
phạm do cố ý. Các giai đoạn phạm tội khác nhau chính là ở những yếu tố
khách quan của hành vi phạm tội - tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý
định phạm tội của chủ thể.
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với
sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai
cấp đối kháng [13, tr. 287]. Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống
trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội
phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (và hình phạt) đối với những người đã
thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội phạm lại mang bản chất là một hiện
tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội - pháp lý, "tội
phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại
xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến
quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người" [78, tr. 7].
Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự là do có tính chất nguy
hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không
những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà còn là thuộc tính khách quan,
tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng hành vi phạm tội cụ thể.
Ngoài ra, tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật
hình sự xác lập và bảo vệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với hình thức lỗi cố ý và vô ý. Còn
đối với những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm, thì luật quy định,
người thực hiện hành vi đó sẽ bị xử lý bằng biện pháp khác.
7
Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho
xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường
hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người
phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị
công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần tiến
đến thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành từng
bước để thực hiện hành vi phạm tội, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau
không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội mà họ phải dừng lại khi mới
chuẩn bị điều kiện để thực hiện tội phạm hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành
tội phạm. Theo đó, về mặt chủ quan hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người
phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn cố ý thực hiện tiếp hành vi
phạm tội của mình, vì trong suy nghĩ, tư tưởng của họ bao giờ cũng mong
muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả mong muốn đã được
đặt ra. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, có
không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ dự định của
mình hay không tiến hành thực hiện tội phạm được đến cùng vì những nguyên
nhân ngoài ý muốn của họ, mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau.
Nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công
việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật
và toàn thể xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật hình sự Việt Nam
không những trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực
hiện hoàn thành một tội phạm mà cả điều chỉnh xử lý các hành vi phạm tội
chưa đạt - hành vi chưa hoàn thành. Việc phát hiện, trừng trị những hành vi
phạm tội chưa hoàn thành không chỉ để ngăn chặn tội phạm, mà còn nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có
thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Điều này còn thể hiện
đường lối xử lý trong chính sách hình sự - không để cho tội phạm gây ra nguy
hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục,
8
phòng chống, đồng thời điều này cũng đã được cụ thể hóa trong Điều 1 về
nhiệm vụ của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong diễn biến thực hiện tội phạm, việc xác định những
hành vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm, quyết định hình phạt đối với những người thực hiện hành vi ấy giúp
cho cơ quan điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô
tội không phải bao giờ cũng đơn giản và dễ dàng. Mặt khác, để quyết định
một hình phạt được chính xác và công bằng thường gặp một số khó khăn nhất
định hay còn có nhiều sai sót, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế
khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội.
Thời gian vừa qua, dưới góc độ khoa học luật hình sự xung quanh
những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau,
việc phân định ranh giới giữa chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội phạm
hoàn thành và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn có nhiều quan điểm
khác nhau, có một số trường hợp do phân biệt không chính xác sẽ dẫn tới
nhiều trường hợp xử oan, sai hoặc không đúng pháp luật. Bên cạnh đó, dưới
góc độ thực tiễn áp dụng, có nhiều trường hợp đánh giá chưa đúng khi thực tế
là chuẩn bị phạm tội nhưng người phạm tội lại phải chịu trách nhiệm hình sự
về phạm tội chưa đạt, có trường hợp người phạm tội đáng lẽ phải chịu trách
nhiệm hình sự lại không phải chịu hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nhưng
lại cho là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội dẫn
đến họ được miễn trách nhiệm hình sự; v.v...
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về phạm tội chưa đạt trong khoa học
và việc áp dụng nó trong thực tiễn để trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập
pháp hoàn thiện phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn
chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu
9
đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật
hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phạm tội chưa đạt là một vấn đề hẹp và thuộc chế định các giai đoạn
phạm tội, đồng thời nó cũng có liên hệ mật thiết đến nhiều quy phạm và chế
định khác trong luật hình sự như: tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự,
chuẩn bị phạm tội, tội phạm hoàn thành, tội phạm kết thúc, tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội; v.v... Ngoài ra, mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 đã
có những quy định thay đổi đáng kể về tội phạm và về phạm tội chưa đạt như
tách khoản 2 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thành Điều 18 Bộ luật hình
sự năm 1999, khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 (về quyết định hình
phạt) được tách thành Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 với ba khoản cụ thể
tương ứng với từng hành vi phạm tội ở các giai đoạn phạm tội khác nhau -
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nhưng xung quanh chế định này còn
nhiều vấn đề cần nghiên cứu và đòi hỏi có quan điểm thống nhất.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, vấn đề phạm tội chưa đạt
cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác
nhau biên soạn như: 1) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của TS. Nguyễn
Ngọc Chí, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể
tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001
(tái bản năm 2003, 2007); 2) Chương IX - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập
thể tác giả do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2007; 3) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Võ Khánh
Vinh, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do
PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005;
4) Chương VII - Các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm, trong sách: Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, 1995; 5) Lâm Minh Hạnh. Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong
10
sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986; v.v...
Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam cũng đã dành không ít
công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình nghiên
cứu của GS.TSKH. Lê Văn Cảm: 1) Mục V - Chế định về các giai đoạn thực
hiện tội phạm, Chương thứ tư, trong Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung), (Sách chuyên khảo Sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2005; 2) Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận
của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002;
v.v...
Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như:
1) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội
phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1999, của PGS.TS. Trần Văn Độ; 2)
Một số vấn đề về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Luật học, số 6/1995;
3) Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của PGS.TS. Lê Thị Sơn; 4) Hoàn thiện
hình phạt tử hình, tù có thời hạn và phạt tiền theo yêu cầu cải cách tư pháp,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 5/2008 5) Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội
chưa đạt, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002, của TS.
Trịnh Quốc Toản; 6) Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của TS. Dương Tuyết
Miên; 7) Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số
2/2006; 8) Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm tội khác trong quá
trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Luật học), số
2/2009, của TS. Trịnh Tiến Việt; 9) Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/1993, của tác giả Nguyễn Thị Mai; v.v...
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội chưa đạt
nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem xét qua các
11
trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn
đề phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù
đây là một giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đặc biệt nếu việc phát hiện và ngăn chặn sớm hành vi
phạm tội chưa đạt sẽ làm giảm khả năng gây ra thiệt hại về nhiều hậu quả
như: chính trị, vật chất, thể chất và tinh thần, cũng như tài sản của Nhà nước
và toàn xã hội. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề
phạm tội chưa đạt cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm tội chưa đạt là một nội dung tương đối hẹp và phức tạp, nghiên
cứu về chế định này đã có nhiều nghiên cứu chung trong các giai đoạn phạm
tội do cố ý mà ít có nghiên cứu chuyên sâu và riêng rẽ về từng trường hợp cụ
thể của vấn đề phạm tội chưa đạt, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng
trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó, phạm vi nghiên
cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số vấn đề cơ bản xung quanh
chế định phạm tội chưa đạt như sau:
1) Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý;
2) Khái niệm, các đặc điểm và phân loại phạm tội chưa đạt;
3) Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt;
4) Nghiên cứu so sánh các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp
luật hình sự một số nước trên thế giới;
5) Các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự Việt Nam;
6) Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
phạm tội chưa đạt;
12
7) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
về phạm tội chưa đạt.
4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở này, mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những
vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, so sánh hành
vi phạm tội chưa đạt với các hành vi khác trong quá trình thực hiện tội phạm,
cũng như so sánh vấn đề này với một số nước trên thế giới. Ngoài ra, luận văn
còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tồn tại
trong các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội chưa đạt để từ đó, đưa
ra giải pháp hoàn thiện sửa đổi, bổ sung chế định này trong Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 hiện hành.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và
đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình
sự và một số ngành khoa học khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh, nghiên cứu (điều tra) án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa
học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong
luận văn.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn
Cơ sở khoa học của luận văn là quan điểm chính thống của các nhà
làm luật được thể hiện trong Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi
hành về phạm tội chưa đạt, cũng như hệ thống lý luận trong các công trình
khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan
đến chế định này.
13
Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng việc áp
dụng các bản án của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn quốc về phạm tội chưa
đạt theo luật hình sự Việt Nam trong phạm vi khoảng 10 năm gần đây (2000-
2009) và qua đó để rút ra những nhận xét, đánh giá.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả
đã làm rõ khái niệm, cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, khái niệm, bản
chất pháp lý của phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội chưa đạt, nội dung và các căn cứ của các trường hợp phạm tội chưa
đạt trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định tương ứng đó ở
khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục,
cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt trong luật hình sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội
chưa đạt.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý
Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho
xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường
hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người
phạm tội phải tiến hành từng bước, dần từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn
bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần
thực hiện hành vi phạm tội; v.v...
Trước đây và hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là
một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên
trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Bên cạnh việc xử lý hành vi phạm
tội đã hoàn thành thì việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa
hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do
hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân.
Như vậy, việc nghiên cứu khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm
tội do cố ý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong từng thời điểm, cũng như
việc phân hóa trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật.
Hiện nay, các giai đoạn này có nhiều tên gọi khác nhau trong khoa
học và trên các sách báo pháp lý - các giai đoạn thực hiện tội phạm, các giai
đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý; các giai đoạn phạm tội; v.v...
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ "các giai
đoạn phạm tội do cố ý" nhằm mục đích cho đơn giản, ngắn gọn và gắn liền
15
với quá trình (diễn biến khách quan) của chủ thể thực hiện các hành vi phạm
tội trên thực tiễn do cố ý, đồng thời phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội ở
từng thời điểm khác nhau của hành vi phạm tội, cũng như phản ánh có trường
hợp hành vi phạm tội là tội phạm và có trường hợp không phải là tội phạm,
qua đó phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người
thực hiện hành vi đó.
Trước hết, trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga quan niệm về
các giai đoạn phạm tội do cố ý là: 1) Các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của
những hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội
phạm (B.V.Zđravômxlôv); 2) Các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và
thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những
hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt những hành vi ấy
(X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội
phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và
nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc
hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô); v.v... [13, tr. 440-441]. Hay trong luật hình
sự Cộng hòa Pháp gọi là "các giai đoạn thực hiện các tội phạm do cố ý" [14,
tr. 60]; v.v...
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về tên gọi có sự khác nhau
nhưng về bản chất pháp lý là giống nhau mặc dù cách thể hiện nội dung có sự
khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định
nghĩa: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình
tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ
khác nhau của việc thực hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể" [10, tr. 114]. Theo
đó, đây là quan điểm tương đối chính xác về mặt khoa học và đầy đủ về mặt
nội dung khi phản ánh sự thống nhất giữa phương diện khách quan và chủ
16
quan trong tội phạm, dựa trên cơ sở khoa học - các quy định của pháp luật
cũng như cơ sở thực tiễn - các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ tồn tại trong
lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, nhận thức về nội dung của định nghĩa này có
nhiều quan điểm khác nhau mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Trường Đại học Luật Hà Nội) cho rằng:
"Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao
gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [29, tr. 119].
Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những tội phạm cố ý khi thực hiện thì
hành vi phạm tội mới trải qua các giai đoạn - chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành và nhấn mạnh sự khác nhau giữa các giai
đoạn là mức độ thực hiện tội phạm cố ý.
Tác giả Trần Văn Đượm (Học viện Cảnh sát nhân dân) khẳng định
luôn là các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm và định nghĩa đây là "các bước
trong quá trình thực hiện tội phạm, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành" [18, tr. 176]. Quan điểm này chỉ khẳng định
được các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình thực hiện
tội phạm gồm có: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành.
Trong khi đó, cũng khẳng định như vậy, nhưng tác giả Lâm Minh Hạnh
(Viện Nhà nước và pháp luật) lại quan niệm có hai giai đoạn chính trong các
giai đoạn phạm tội: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình
thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm việc chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội
phạm. Trong giai đoạn thực hiện tội phạm có thể có hai trường hợp hoặc đã
hoàn thành tội phạm hoặc đã phạm tội chưa đạt" [23, tr. 117], vì theo tác giả,
phạm tội chưa đạt và hoàn thành tội phạm chỉ là các trường hợp riêng biệt
trong các giai đoạn thực hiện tội phạm chứ không thể coi là giai đoạn chính
thức được. Quan niệm như vậy có phần đúng, nhưng chưa phân hóa và cá thể
hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng sự khác nhau giữa các giai đoạn là
mức độ thực hiện tội phạm do cố ý.
17
Gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)
đưa ra khái niệm các giai đoạn phạm tội phản ánh hình thức lỗi và các giai
đoạn cụ thể trong các giai đoạn phạm tội, nhưng theo chúng tôi cũng cần phản
ánh rõ hơn mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa các giai đoạn phạm tội do cố ý
thì sẽ đầy đủ hơn: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực
hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành" [80, tr. 126]; v.v...
Như vậy, về cơ bản, các quan điểm khoa học trong lý luận luật hình sự
Việt Nam đều thống nhất cho rằng, các giai đoạn phạm tội chỉ tồn tại dưới
hình thức lỗi cố ý, không tồn tại dưới hình thức lỗi vô ý, bởi vì, trong lỗi vô ý,
người phạm tội không nhận thức được hành vi mà mình thực hiện sẽ nguy
hiểm cho xã hội, cũng không thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và họ
cũng không mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Tuy nhiên, một vấn đề khác lại đặt ra ở đây là tội cố ý có bao gồm cả
cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp hay không. Mặc dù vậy, về cơ bản, "đa số các
nhà khoa học pháp lý hình sự đều cho rằng quá trình phạm tội chỉ có ở hình
thức lỗi cố ý trực tiếp" [16, tr. 223]. Còn đối với những tội cố ý gián tiếp hay
vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội và không có tội mà thôi. Tất nhiên, cũng
có quan điểm cho rằng "đối với những tội có cấu thành hình thức thực hiện
bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt". Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm
(Điều 314 Bộ luật hình sự), tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự) [71, tr. 113]. Đặc
biệt, cũng có quan điểm lại cho rằng: các giai đoạn phạm tội có cả ở hình
thức lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, "cũng như trường hợp phạm tội với lỗi cố ý
trực tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một
xử sự phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm
tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp
nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải
18
đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên
nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc
nó xảy ra. Về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi
cần xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở
thừa nhận nguyên tắc: các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình
sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý
gián tiếp" [28, tr. 68-69]. Chúng tôi nhận thấy, ý kiến này cũng chứa đựng
điểm hợp lý, tuy nhiên, thực tiễn xét xử ở Việt Nam chỉ thừa nhận có giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với loại tội cố ý trực tiếp,
đối với trường hợp phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội đã nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhận thức được hậu
quả do hành vi của mình có thể gây ra nhưng hậu quả đó không phải là mục
đích chính của người phạm tội. Chính vì không mong muốn gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự hay nói cách khác
là không xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở đây vì
thái độ của họ là thờ ơ, bỏ mặc. Cho nên, khoa học luật hình sự và thực tiễn
xét xử ở nước ta cho thấy giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
cũng như tội phạm hoàn thành chỉ xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp mà thôi.
Vấn đề tiếp theo là các giai đoạn phạm tội do cố ý có thể chỉ được đặt
ra với tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cả với những tội có cấu thành
hình thức; có thể chỉ đặt ra với hành vi khách quan được thực hiện ở dạng
hành động hay còn cả ở dạng không hành động. Theo quan điểm được thừa
nhận chung trong khoa học luật hình sự nhiều nước và Việt Nam thì: trong
các tội thực hiện do cố ý trực tiếp chỉ đối với các tội có cấu thành tội phạm
vật chất mới có đầy đủ các giai đoạn thực hiện thành phần (chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành), ví dụ: Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ
luật hình sự). Còn trong các tội có cấu thành tội phạm hình thức do hậu quả
không phải là điều kiện bắt buộc của tội phạm nên trong các loại tội này chỉ
có thể có tội phạm hoàn thành có chuẩn bị phạm tội mà không có phạm tội
19
chưa đạt. Bởi vì, khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của cấu thành
tội phạm thì cũng là lúc tội phạm hoàn thành và không thể coi là phạm tội chưa
đạt được. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), người phạm tội đã thực hiện
hành vi dùng bạo lực tấn công người khác nhưng chưa chiếm đoạt được tài
sản của người đó thì đã cấu thành tội cướp tài sản; hay tương tự là tội phản
bội Tổ quốc (Điều 78), tội gián điệp (Điều 80 Bộ luật hình sự); v.v...
Ngoài ra, riêng đối với tội có cấu thành tội phạm cắt xén thì không có
các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà chỉ có tội phạm
hoàn thành. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79
Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm có cấu thành hình
thức có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt, vì các tác giả này cho rằng phạm
tội chưa đạt có thể xảy ra trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi
đi liền trước hành vi khách quan. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 111), tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 Bộ luật hình sự). Với quan điểm này, chúng
tôi không đồng tình bởi vì riêng đối với tội hiếp dâm có giai đoạn phạm tội
chưa đạt. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội này bao gồm: Một là, hành vi
dùng vũ lực (hoặc dùng thủ đoạn khác) để thực hiện, hai là, hành vi giao cấu trái
với ý muốn của người phụ nữ. Nếu người phạm tội đã cố ý dùng vũ lực rồi mặc
dù chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì sẽ cấu thành tội hiếp dâm ở giai
đoạn phạm tội chưa đạt. Bởi vì, ở tội này có cấu thành có cấu thành vật chất
chứ không phải có cấu thành hình thức. Còn đối với tội cướp tài sản và tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi
dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hay hành vi bắt cóc con tin và
hành vi đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc bất kỳ một hành vi nào được mô
tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thì tội phạm đã hoàn thành.
Như vậy, chúng tôi không đồng ý với quan điểm trên vì nó không phù hợp với
bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt.
20
Cũng như mọi trường hợp phạm tội nói chung, các trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều được thực hiện bằng hành vi phạm tội.
Và các hành vi này chỉ có thể dưới dạng hành động. Ví dụ: Tội phản bội Tổ
quốc (Điều 78 Bộ luật hình sự). Còn loại tội được thực hiện bằng không hành
động chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm hoàn thành chứ không thể xảy ra
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được, tuy nhiên loại
tội này chỉ chiếm một tỷ lệ không nhiều trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Ví
dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); v.v...
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam các giai đoạn phạm
tội do cố ý đều thống nhất là bao gồm - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành. Với quy định này, việc xác định mức hình phạt áp
dụng đối với người thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt cụ thể hơn và quy định tỷ lệ hình phạt tối đa so với hình phạt có thể
được áp dụng trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Việc quy định các giai
đoạn phạm tội nói chung và quy định chính xác tội phạm chưa hoàn thành nói
riêng (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) trong từng trường hợp cụ thể
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội bao
giờ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng thấp hơn ở giai đoạn
phạm tội chưa đạt và tương ứng như vậy, ở giai đoạn phạm tội chưa đạt luôn
thấp hơn so với giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự, xác định đúng mức nguy hiểm cho xã hội của hành
vi nhằm bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ trong quyết định hình phạt một cách
công minh, không để oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội theo đúng cơ sở của trách nhiệm hình sự: "Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 Bộ
21
luật hình sự). Theo đó, quy định cơ sở của trách hình sự như đã nêu chính là
thể hiện các nguyên tắc pháp chế và công bằng trong luật hình sự nước ta. Với
pháp chế, - chính là sự thể hiện cơ sở duy nhất, rõ ràng và dứt khoát nội dung
"... phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định..." của trách nhiệm hình
sự, còn với công bằng, - có nghĩa bảo đảm sự bình đẳng ngang nhau trong
đánh giá hành vi phạm tội của những người phạm tội, bình đẳng trước pháp
luật đối với tất cả mọi người với nội dung "người nào..." có nghĩa không trừ
bất kỳ một ai trong xã hội [79, tr. 1-2]. Về điều này, C. Mác đã viết: "... dưới
con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi do
chính người đó - do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của y
phải là giới hạn của sự trừng phạt..." [42, tr. 169].
Quy định về các giai đoạn phạm tội do cố ý có ý nghĩa rất quan trọng,
nó là căn cứ để định tội danh. Điều này có nghĩa, việc xác định hành vi chuẩn
bị phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội chưa đạt đã thực
hiện mà phạm vào một tội gì có trong số những tội phạm được quy định trong
Bộ luật hình sự. Việc xác định hành vi của một người đã phạm tội gì chính là
quá trình xác định hành vi của họ có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm trong Bộ luật hình sự. Khi xác định tội danh đó phải căn cứ vào các quy
định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và các tội phạm cụ thể được
pháp luật hình sự quy định thì mới định tội và định tội đối với đúng người và
đúng pháp luật.
Tóm lại, các giai đoạn phạm tội là những bước phát triển trong quá
trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội trong từng thời điểm khác nhau - chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Như vậy, dưới góc độ khoa học, việc phân chia các giai đoạn phạm tội
trong luật hình sự dựa trên các căn cứ sau:
22
Thứ nhất, dựa trên diễn biến khách quan của quá trình phạm tội mà
cụ thể là dựa vào dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Theo
đó, tội phạm hoàn thành là tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu khách
quan được quy định trong luật. Trong khi đó, phạm tội chưa đạt là trường hợp
tội phạm không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội ngăn cản, nói cách khác đó là hành vi chưa thỏa
mãn các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm. Còn chuẩn bị phạm tội
là người phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ thực hiện tội phạm chứ
chưa thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm.
Như vậy, các giai đoạn phạm tội là những thang bậc khác nhau của quá trình
thực hiện tội phạm, mỗi thang bậc này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội không giống nhau và được xếp theo trật tự nhẹ, nặng: từ chuẩn bị phạm
tội đến tội phạm hoàn thành. Nói một cách khác, các giai đoạn phạm tội phản
ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm ở từng thời điểm. Trên quan
điểm này, về mặt nội dung, một hành vi phạm tội được coi là hoàn thành khi
đã có những đặc điểm thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của mọi loại tội phạm cụ thể, còn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội
chưa thể hiện hết tính chất nguy hiểm của một loại tội phạm.
Thứ hai, ngoài dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả, khi phân chia
các giai đoạn phạm tội do cố ý, luật hình sự nước ta còn căn cứ vào tính chất
khách thể tội phạm. Tính chất của quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại
phần nào phản ánh tính chất nguy hiểm của tội phạm. Tính chất nguy hiểm
cho xã hội của tội được xác định bằng nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có
yếu tố khách thể của tội phạm - những quan hệ xã hội được luật hình sự xác
lập, bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. Vì vậy, để bảo
vệ các quan hệ xã hội quan trọng một cách nghiêm ngặt, luật hình sự quy định
thời điểm hoàn thành của tội phạm sớm hơn [16, tr. 226-227]. Do đó, việc
phân chia các giai đoạn phạm tội cũng rõ ràng và chính xác hơn.
23
Thứ ba, cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý còn dựa
vào thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý
định phạm tội của chủ thể. Như vậy, việc căn cứ vào thời điểm chấm dứt của
hành vi phạm tội do chủ thể thực hiện trên thực tế là căn cứ để xác định giai
đoạn phạm tội, cũng như phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Trong khi đó, mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể mặc dù không
quyết định việc phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý, nhưng nó có mối
liên hệ mật thiết với các hành vi phạm tội trên thực tế và có thể không thực
hiện được do những nguyên nhân khách quan (là chủ yếu) hoặc nguyên nhân
chủ quan quyết định - nếu không có gì ngăn cản hoàn toàn thực hiện được,
nếu có gì ngăn cản - không thể thực hiện được.
1.1.2. Khái niệm phạm tội chƣa đạt
Trong quá trình thực hiện tội phạm có những trường hợp người phạm
tội không thực hiện được đầy đủ những hành vi để hoàn thành tội phạm, hoặc
không đạt được kết quả mong muốn, do những nguyên nhân kết quả ngoài ý
muốn của người phạm tội.
Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, trong khoa học pháp lý Việt
Nam, để chỉ hành vi phạm tội chưa đạt người ta thường dùng thuật ngữ
"tương hành vi toại" có nghĩa là hành động chưa đạt được ý muốn, hay "vị
toại". Sau đó, vào những năm 60 của thế kỷ XX, trong khoa học luật hình sự
Việt Nam thể hiện ở một số văn bản pháp lý, cũng như nhiều tài liệu, bài báo,
trong tài liệu giảng dạy tại Trường Cán bộ Tòa án (Tòa án nhân dân tối cao)
sử dụng khá phổ biến thuật ngữ "toan" phạm tội để chỉ trường hợp phạm tội
chưa đạt trong luật hình sự [23, tr. 29-31].
Như vậy, trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, trong luật lệ hình sự
của nước ta cũng đưa ra thuật ngữ "phạm tội chưa đạt" nhưng chưa có văn
bản nào giải thích khái niệm phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, có thể vận dụng
nội dung hướng dẫn về tội giết người chưa đạt để giải thích phạm tội chưa
24
đạt, theo bản tổng kết chuyên đề của Tòa án nhân dân tối cao: "Tội giết người
hoàn thành khi người bị nạn chết đối với trường hợp giết người nhưng không
chết nên thống nhất gọi là phạm tội chưa đạt".
Việc sử dụng thuật ngữ "toan phạm tội" trước đây có thể dẫn đến sự hiểu
nhầm về bản chất đó là cho rằng toan phạm tội là mới có ý định mà thôi và
như vậy cho rằng luật hình sự đặt vấn đề trách nhiệm hình sự với cả "tư
tưởng" cái không phải là hành vi. Tuy nhiên, thực sự ở đây người phạm tội
không chỉ mới có ý định phạm tội mà đã bắt tay vào thực hiện hành vi phạm
tội. Điều này có nghĩa, nguyên tắc "hành vi" được luật hình sự Việt Nam tôn
trọng triệt để và chấp hành nghiêm chỉnh, nhưng mặt khác để tránh sự hiểu
nhầm trên nên trong Bộ luật hình sự đầu tiên và trong Bộ luật hình sự hiện
hành của Việt Nam đều dùng thuật ngữ "phạm tội chưa đạt".
Về quá trình phát triển chế định này sẽ được tác giả đề cập trong
Chương 2 luận văn này, tuy vậy, dưới góc độ lập pháp, trong Bộ luật hình sự
đầu tiên của nước ta năm 1985, lần đầu tiên khái niệm phạm tội chưa đạt được
quy định cụ thể - "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người
phạm tội" (khoản 2 Điều 15) và đến Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 18) về
cơ bản cũng không có gì thay đổi ngoài tách nội dung việc quyết định hình phạt
đối với trường hợp này thành một khoản trong điều luật mới (Điều 52). Như
vậy, bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt thể hiện ở chỗ - đây là giai
đoạn tiếp sau chuẩn bị phạm tội và là một giai đoạn phản ánh việc người phạm
tội đã bắt đầu có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ. Nói một cách khác, khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ đó bị
đe dọa thực tế gây ra thiệt hại, nhưng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội nên thiệt hại thực tế có thể không xảy ra hoặc có thể xảy ra.
Trong trường hợp gây ra thiệt hại thì đó không phải là thiệt hại mà người
phạm tội dự tính.
25
Còn dưới góc độ khoa học luật hình sự, cũng giống như các giai đoạn
phạm tội, khái niệm phạm tội chưa đạt còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt đánh giá.
Nhóm quan điểm cùng nêu rõ hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, theo đó
GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định nghĩa:
"Phạm tội chưa đạt trong khoa học luật hình sự có thể được hiểu là hành vi cố
ý trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm nhưng tội phạm đã không được thực hiện
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [13, tr. 444].
Hay TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) có nêu quan
điểm về phạm tội chưa đạt nhưng mô tả hành vi khách quan của nó như sau:
Phạm tội chưa đạt là một giai đoạn trong quá trình thực hiện
tội phạm do cố ý trực tiếp, đồng thời là trường hợp một người đã
bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành vi
đó đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của
người đó [80, tr. 127].
Nhóm quan điểm khác có nội dung tương tự, nhưng khẳng định phạm
tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai trong quá trình thực hiện tội phạm, TS. Nguyễn
Ngọc Chí (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) viết:
Phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn
chuẩn bị phạm tội, ở giai đoạn này người phạm tội sử dụng những
điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị để thực hiện hành vi được
quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm, nhưng họ
không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân khách quan
ngăn cản [16, tr. 233].
Tương tự, GS. TS. Võ Khánh Vinh (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam)
định nghĩa: "Phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai của quá trình thực hiện tội
26
phạm cố ý, là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng
vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [81, tr. 275].
Còn tác giả Lâm Minh Hạnh (Viện Nhà nước và pháp luật) không nêu
khái niệm, mà chỉ đề cập nội dung của phạm tội chưa đạt, theo đó, "trong quá
trình thực hiện tội phạm có những trường hợp kẻ phạm tội không thực hiện được
đầy đủ những hành vi để hoàn thành tội phạm, hoặc không đạt được kết quả mong
muốn, do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của y" [23, tr. 130].
Bên cạnh đó, một số cuốn từ điển cũng định nghĩa và về cơ bản đều
thể hiện rõ bản chất của hành vi và căn cứ, nội dung trong giai đoạn này,
nhưng còn chưa khẳng định rõ phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai trong
quá trình thực hiện tội phạm do cố ý (bên cạnh hai giai đoạn khác là chuẩn bị
phạm tội và tội phạm hoàn thành).
Từ điển Luật học viết: "Phạm tội chưa đạt là (chủ thể) đã cố ý thực hiện
tội phạm nhưng vì nguyên nhân khách quan hành vi đã thực hiện chưa thỏa
mãn hết các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm" [75, tr. 600]; hay
Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng định nghĩa: "Phạm tội chưa đạt là hành
vi cố ý tiến hành tội phạm nào đó nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội mà không thực hiện được đến cùng" [36, tr. 266]; v.v...
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trước khi đưa ra khái niệm phạm tội chưa đạt,
chúng ta cần làm sáng tỏ các đặc điểm (dấu hiệu) trên các bình diện khách
quan và chủ quan vốn có của nó.
Trước hết, về bình diện khách quan, phạm tội chưa đạt bao gồm các
dấu hiệu sau:
Dấu hiệu thứ nhất, phạm tội chưa đạt là một giai đoạn phạm tội chưa
hoàn thành (hay sơ bộ) thứ hai trong các giai đoạn phạm tội do cố ý trực tiếp;
Dấu hiệu thứ hai, chủ thể đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội được
quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật
27
hình sự. Nói một cách khác, hành vi phạm tội chưa đạt đã xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ [80, tr. 127];
Dấu hiệu thứ ba, chủ thể chưa thực hiện hoặc không thực hiện được
hành vi phạm tội đến cùng, có nghĩa hành vi của người này chưa thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm là do
nguyên nhân khách quan khác nhau nào đó ngoài ý muốn chủ quan của người
phạm tội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng "đến cùng" ở đây là đề cập dưới góc độ
pháp lý chứ không phải là theo ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cơ sở
để xác định một người đã thực hiện tội phạm đến cùng (tội phạm hoàn thành
hay không thực hiện được tội phạm đến cùng (phạm tội chưa đạt) là ở chỗ
hành vi của một người đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cụ thể hay chưa.
- Trường hợp thứ nhất, nếu một người thực hiện hành vi thỏa mãn hết
các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ
luật hình sự thì hành vi của người đó được coi là đã thực hiện đến cùng.
- Trường hợp thứ hai, ngược lại, một người thực hiện hành vi chưa
thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các
tội phạm Bộ luật hình sự do những nguyên nhân ngoài ý muốn thì được coi là
chưa thực hiện tội phạm đến cùng.
Theo đó, các nguyên nhân ngoài ý muốn này có thể là do người bị hại
hoặc những người khác phát hiện thấy hành vi phạm tội chưa đạt đã ngăn cản
việc tội phạm không thực hiện được đến cùng; do thời tiết hoặc những điều kiện
tự nhiên khác cản trở mà tội phạm không thực hiện được đến cùng; do những
nguyên nhân khách quan thuộc về bản thân người phạm tội mà tội phạm
không thực hiện được đến cùng (sai lầm về đối tượng tác động của hành vi tội
phạm hay sử dụng nhầm công cụ, phương tiện phạm tội, sự không thành thạo
trong hành động, tính cẩu thả, hấp tấp, vội vàng khi hành động phạm tội...).
Do đó, chưa thực hiện tội phạm đến cùng có thể xảy ra ở những dạng điển
hình mà thực tiễn xét xử vẫn thừa nhận như sau:
28
a) Chủ thể của tội phạm chưa thực hiện được hành vi khách quan được
mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà chỉ mới thực hiện
được hành vi đi liền trước hành vi phạm tội (kết quả). Ví dụ: Người phạm tội
hiếp dâm chỉ mới thực hiện được hành vi dùng vũ lực mà chưa thực hiện
được hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân đã bị mọi người xung quanh bắt
giữ.
b) Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả)
nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm như trong điều luật trong Phần các
tội phạm của Bộ luật hình sự quy định (mô tả). Ví dụ: Người phạm tội giết
người đã đâm được nạn nhân nhưng do mọi người đến và đưa nạn nhân đến
trạm y tế cấp cứu và do được cấp cứu kịp thời nên nạn nhân không chết.
c) Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả)
nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm,
chỉ mới xô ngã, đẩy... được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được hành vi giao
cấu thì bị bắt giữ.
d) Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng nó không có quan hệ nhân quả
đối với hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện nhưng đó không phải là hậu
quả mà người phạm tội dự tính (mong muốn). Ví dụ: Người phạm tội giết người
đã đâm nạn nhân nhưng trước đó nạn nhân đã chết vì một lý do khác [41, tr. 58].
Dấu hiệu thứ tư, hậu quả của tội phạm mà người phạm tội mong muốn
đạt được đã không xảy ra hoặc nếu có thể xảy ra thì chưa thỏa mãn với hậu
quả được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng
trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Trong khi đó, về bình diện chủ quan, phạm tội chưa đạt bao gồm hai
dấu hiệu cơ bản như sau:
Dấu hiệu thứ nhất, lỗi của người phạm tội trong giai đoạn này là cố ý
trực tiếp (chúng tôi nhấn mạnh - tác giả), vì khoa học luật hình sự đã thống
nhất, về mặt lập pháp hình sự đã ghi nhận trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
29
05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, đồng thời thực tiễn xét xử đã thừa
nhận - chỉ có lỗi cố ý trực tiếp mới tồn tại các giai đoạn phạm tội;
Dấu hiệu thứ hai, mục đích phạm tội là mong muốn thực hiện hoàn
thành hành vi phạm tội và mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra,
nhưng hậu quả không xảy ra đúng theo các dự định của người phạm tội.
Tóm lại, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và kết
hợp với thực tiễn áp dụng, cũng như dựa trên các đặc điểm (dấu hiệu) thể hiện
trên các bình diện khách quan và chủ quan đã nêu, theo chúng tôi khái niệm này
có thể được hiểu như sau: Phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị
phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, khi một
người đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành vi đó
đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó
ngăn cản.
1.1.3. Phân loại phạm tội chƣa đạt
Trong lý luận cũng như thực tiễn, việc tiến hành phân loại các trường
hợp phạm tội chưa đạt được hiểu là chia tất cả các trường hợp phạm tội chưa
đạt thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định nhằm vào
những mục đích nhất định, cũng như để phân hóa trách nhiệm hình sự và cá
thể hóa hình phạt, bảo đảm hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội
tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng
thời điểm khác nhau trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý.
Mặt khác, phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt còn có ý nghĩa
lớn trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, mức độ thể hiện ý định phạm tội từ đó đưa ra những biện pháp xử lý phù
hợp. Các trường hợp phạm tội chưa đạt có thể được phân chia bằng nhiều
30
cách khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau tùy theo mục đích của sự phân
loại chứ không nhất thiết phải dựa trên cơ sở của một căn cứ nhất định.
Thứ nhất, căn cứ vào mục đích thực hiện ý định phạm tội mà người
phạm tội dự định thực hiện phạm tội chưa đạt. Theo căn cứ này, có thể được
chia thành phạm tội chưa đạt thành hai dạng như sau: Phạm tội chưa đạt chưa
hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Về căn cứ này, cũng có quan
điểm lấy căn cứ là - thái độ, tâm lý của người phạm tội [41, tr. 58] để phân
chia thành phạm tội chưa đạt hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành. Chúng tôi cho rằng, nếu căn cứ vào thái độ, tâm lý của người phạm tội
để chia thành phạm tội chưa đạt hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành là chưa thật chính xác vì quá rộng, đồng thời chưa phản ánh được cụ thể
mức độ thực hiện hành vi đến đâu và ranh giới giữa giai đoạn phạm tội trong
quá trình thực hiện tội phạm do cố ý.
a) Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa
đạt trong đó người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các hành vi thuộc mặt
khách quan trong cấu thành tội phạm và hậu quả của tội phạm chưa xảy ra.
Ví dụ: Nguyễn Văn A. muốn giết Lê Vinh B., A. dùng dao đâm vào
ngực, đầu B. nhưng B. đã kịp thời tránh được chỉ bị thương nhẹ ở vai. Như vậy,
trong trường hợp này, người phạm tội nhận thức được rằng mình đã không
thực hiện được tất cả những hành vi cần thiết để hoàn thành tội phạm. Đây là
trường hợp chưa hoàn thành về hành vi và cũng chưa đạt được hậu quả.
b) Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt
nhưng người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mà họ tin chắc rằng đó là
hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nhằm đạt được mục đích của họ, đã có sự
tính toán trước khi thực hiện hành vi phạm tội và thực tế họ đã thực hiện đầy
đủ hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Lý Văn C. muốn giết Trần Hữu D. nên quyết tâm dùng dao chém
liên tiếp vào đầu và ngực của D., thấy D. ngã nằm bất động, C. nghĩ là D. đã
31
chết nên không chém nữa và bỏ đi nhưng do D. được cấp cứu kịp thời nên
không chết. Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã
gây ra hậu quả chết người như mình mong muốn. Như vậy, người phạm tội đã
hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng hậu quả không xảy
ra, trường hợp này người phạm tội dừng lại hành vi của mình mặc dù không
có gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa dừng chấm dứt
việc thực hiện tội phạm và người phạm tội đã hoàn thành về hành vi nhưng
chưa hoàn thành về hậu quả.
Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã kết
thúc hành vi phạm tội của mình và cho rằng những hành vi đó đã đủ và cần
thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan của người phạm tội
cũng tin rằng hậu quả tội phạm tất yếu sẽ xảy ra. Trường hợp phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành, người phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình, trong
trường hợp ý thức chủ quan của họ cũng biết rằng hành vi của mình chưa đủ
để gây ra hậu quả của tội phạm. So với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành thì phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có mức độ thực hiện
tội phạm gần nhất với tội phạm hoàn thành. Vì vậy, phạm tội chưa đạt đã
hoàn thành có mức độ nguy hiểm nhất trong các trường hợp phạm tội chưa
đạt. Bởi lẽ, một người đã thực hiện hết hành vi mặt khách quan của cấu thành
tội phạm mà hậu quả vẫn không xảy ra hoặc hậu quả xảy ra nhưng đó không
phải là ý muốn của người phạm tội. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành bao giờ
cũng nguy hiểm cho xã hội hơn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành, vì người phạm tội chưa thực hiện hết hành vi mà mình có ý định thực
hiện. Do đó, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã
hoàn thành phải nghiêm khắc hơn đối với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
Thứ hai, căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt, khoa
học luật hình sự còn phân chia thành phạm tội chưa đạt vô hiệu với các
trường hợp chưa đạt do các nguyên nhân khác.
32
Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt mà
nguyên nhân khách quan dẫn đến chưa đạt gắn liền với công cụ, phương tiện
phạm tội chưa đạt và đối tượng tác động của tội phạm phạm tội chưa đạt vô
hiệu được thể hiện ở hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại
cho khách thể nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng tác
động (ví dụ: mở két sắt của cơ quan, đơn vị nhưng không lấy được tiền do tiền
không có trong két sắt) hoặc đối tượng tác động của tội phạm không có tính
chất mà người phạm tội mong muốn (ví dụ: đưa hối lộ cho người tưởng là có
chức vụ, quyền hạn nhưng thực tế người đó không có chức vụ, quyền hạn);
v.v...
Trường hợp thứ hai, người phạm tội đã sử dụng nhầm công cụ,
phương tiện mà người đó muốn. Trường hợp này, phương tiện mà người đó
sử dụng lại không có khả năng gây ra hậu quả của tội phạm đó. Ví dụ:
Nguyễn Hồng A. đầu độc Lê Văn B. nhưng do thuốc độc là giả (hoặc kém
chất lượng) nên B. không chết. Tuy nhiên, trường hợp này cũng cần được
phân biệt với những trường hợp mà chủ thể sử dụng những phương tiện rõ
ràng là không thể gây thiệt hại được, như trường hợp một người vì mê tín
nghe lời thầy bói mà đã bỏ bùa để giết người khác.
Nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt vô hiệu là nguyên nhân
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội, trách nhiệm hình
sự đối với phạm tội chưa đạt vô hiệu được xác định như trong những trường
hợp phạm tội chưa đạt khác trên những cơ sở chung.
Ngoài ra, còn trường hợp chưa đạt do các nguyên nhân khác không
thuộc các trường hợp trên. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi trong giai đoạn phạm tội chưa đạt vô hiệu được xác định như
trong những trường hợp phạm tội chưa đạt khác trên những cơ sở chung.
33
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học, GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) còn chỉ ra ba trường hợp phạm tội chưa đạt
thường gặp trong thực tiễn xét xử là [13, tr. 444-445]:
Trường hợp thứ nhất, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý không
xác định - trong đó căn cứ vào hậu quả thực tế đã xảy ra đến đâu thì phải chịu
trách nhiệm hình sự đến đó, vì hậu quả xảy ra dù đến mức độ nào cũng là do sự
cố ý của người phạm tội mong muốn đạt được (đây là trường hợp phổ biến nhất).
Trường hợp thứ hai, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác
định (lựa chọn) - trong đó trách nhiệm hình sự chỉ có thể có khi nào người
phạm tội gây nên hậu quả ít nghiêm trọng hơn trong số hai (hoặc nhiều hơn)
hậu quả do người này mong muốn đạt được.
Ví dụ: A. mong muốn giết B. mà nếu không giết được thì gây thương
tích cho B. cũng được, và thực tế là do những nguyên nhân khách quan xảy ra
ngoài ý muốn của A. (cái chết của B.) nên hậu quả thứ hai đã xảy ra - B. chỉ
bị gây thương tích nặng và trong trường hợp này A. vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi phạm tội giết người (chưa đạt) - là tội phạm thứ nhất
mà hắn dự định thực hiện (nhưng chưa hoàn thành).
Trường hợp thứ ba, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác
định (đơn giản) - trong đó đã xảy ra hậu quả ít nghiêm trọng hơn hậu quả
nghiêm trọng mà người phạm tội mong muốn đạt được, nhưng người này phải
chịu trách nhiệm hình sự đối với cả hành vi phạm tội chưa đạt để gây nên hậu
quả nghiêm trọng.
Ví dụ: A. đốt nhà của B. và mong muốn giết B. đang nằm ngủ trong
đó, nhưng B. được những người hàng xóm cứu khỏi ngọn lửa đang bén đến
gần giường ngủ nên còn sống, trong trường hợp này A. phải chịu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi phạm nhiều tội (tổng hợp trừu tượng), tức là không
những chỉ đối với tội thứ nhất - tội cố ý hủy hoại tài sản, mà còn đối với cả tội
thứ hai nữa - tội giết người (nhưng chưa đạt).
34
Tóm lại, việc phân loại phạm tội chưa đạt theo các tiêu chí này hay tiêu
chí khác có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định đúng đắn
và chính xác trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm cá thể hóa trách
nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với họ có căn cứ, công minh và đúng
pháp luật. Đặc biệt, việc phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành còn có ý nghĩa xác định các điều kiện của tự
ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trên cơ sở đó, các nhà làm luật sẽ có
những biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với mọi hành vi
phạm tội được thực hiện dù đã hoàn thành hay chưa hoàn thành, qua đó bảo
vệ các quan hệ xã hội không để cho tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại
đến.
1.2. PHÂN BIỆT PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT VỚI MỘT SỐ HÌNH THỨC
PHẠM TỘI KHÁC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN TỘI PHẠM DO CỐ Ý
Như đã đề cập, cùng với việc thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thì pháp luật hình sự đặt ra yêu cầu phải bảo vệ các quan hệ
xã hội trong tất cả các thời điểm khác nhau, đồng thời xác định chính xác
từng giai đoạn phạm tội để có đường lối xử lý công bằng và thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội.
Do đó, để làm tốt điều này đòi hỏi phải có sự phân định ranh giới chính
xác không chỉ trên phương diện khoa học mà cả dưới phương diện thực tiễn
áp dụng giữa phạm tội chưa đạt với một số hình thức phạm tội khác trong quá
trình thực hiện tội phạm do cố ý. Lẽ dĩ nhiên, trong số các hình thức phạm tội, có
hình thức là "ý định phạm tội" thực ra gọi là hình thức phạm tội chưa chính xác,
mà là một dạng đặc biệt, vì ý định phạm tội chưa thể hiện là hành vi, nhưng có
trường hợp ý định phạm tội vẫn cấu thành tội phạm, nếu có căn cứ hợp pháp
chứng minh đối với một (hoặc số tội phạm do các nhà làm luật quy định), nên
chúng tôi vẫn xếp chung vào các trường hợp này để phân biệt với phạm tội
chưa đạt.
35
1.2.1. Phân biệt phạm tội chƣa đạt với ý định phạm tội, chuẩn bị
phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
* Phạm tội chưa đạt và ý định phạm tội
Ý định phạm tội được hiểu là trường hợp một người trước khi thực
hiện tội phạm thì những ý định, dự định phạm tội trong tư tưởng, suy nghĩ của
họ được biểu lộ ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời nói, cử
chỉ, chữ viết, hình vẽ, thái độ... hoặc cũng có thể không được biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, tính chất nguy
hiểm cho xã hội của dạng này là rất nhỏ và vô cùng khó khăn để chứng minh
được mức độ nguy hiểm cho xã hội, vì trên thực tế dù một người rõ ràng có ý
định phạm tội nhưng ý định đó chưa hoàn toàn chắc chắn đã được họ thực
hiện. Tuy nhiên, khi mới chỉ nảy sinh ý định phạm tội thì còn rất nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan tác động đến làm cho chủ thể có ý định đó - hoặc là
sẽ phát triển lớn dần ý định của chủ thể thành những toan tính, nghĩ suy, sau
đó dẫn đến quyết định hành động phạm tội, nhưng - cũng có thể sẽ bị loại bỏ
ngay tức khắc ý nghĩ đó của chủ thể vì các nguyên nhân bất kỳ khác nhau [80,
tr. 128].
Cho nên, phạm tội chưa đạt khác với ý định phạm tội là ở chỗ, trường
hợp thứ nhất (phạm tội chưa đạt), chủ thể từ khi có ý định phạm tội đã bắt đầu
có những biểu hiện là hành động, đồng thời bắt tay vào việc thực hiện một
hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong mặt khách quan của cấu thành
tội phạm tương ứng thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, - có nghĩa hành
vi của người này đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác
lập và bảo vệ, mặc dù hành vi đó chưa (hoặc không) thực hiện được đến cùng
do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của chủ thể, song dưới góc
độ pháp lý, người này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội
chưa đạt trên những cơ sở chung. Trong khi đó, về mặt khách quan, đối với
trường hợp thứ hai (ý định phạm tội) thì rõ ràng chưa hề xâm phạm đến các
36
quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ, cũng như chưa gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội nên ở đây, người có ý định phạm tội không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Điều này đúng như C. Mác đã viết, nếu chỉ có sự biểu lộ ý
định đơn giản làm cái này hoặc cái khác thì không thể lấy đó làm cái để truy tố
về mặt hình sự, cũng như về mặt chính sách cải tạo. Nói một cách khác, đến
chừng nào ý định đó chưa được cụ thể hóa bằng các biểu hiện thực tế ra bên
ngoài thế giới khách quan thông qua các việc làm cụ thể thì chừng đó, ý định
của chủ thể chưa thể xác lập và tạo ra cấu thành bất kỳ vi phạm nào, dù là vi
phạm pháp luật (chứ chưa nói đến không cấu thành tội phạm), đồng thời ý
định đó nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của cái gọi là "pháp luật". Mặc dù vậy,
pháp luật hình sự Việt Nam nước ta cũng có trường hợp đặc biệt, đó là riêng
trường hợp khi ý định phạm tội được biểu lộ ra bên ngoài có căn cứ thì sẽ cấu
thành tội phạm và bị xử lý ở tội đe dọa giết người (Điều 103 Bộ luật hình sự)
vì nếu cứ để ý định đó biểu lộ ra phát triển thành hành vi, thì mức độ nguy
hiểm cho xã hội sẽ tăng lên gấp bội, thậm chí sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm lớn
cho xã hội.
Ngoài ra, trước đây, đối với các tội phản cách mạng do tính chất nghiêm
trọng của nhóm tội phạm này mà Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách
mạng ngày 30/10/1967 đã quy định: "Âm mưu phạm tội và hành động phạm
tội đều bị trừng trị" và sau đó được nhắc lại trong Báo cáo giải thích của Tòa
án nhân dân tối cao về Pháp lệnh các tội phản cách mạng tại Hội nghị tổng kết
công tác năm 1967 của Tòa án nhân dân tối cao quy định:
Do tội phản cách mạng là những tội rất nghiêm trọng, cho
nên cần trấn áp ngay từ khi kẻ phạm tội bắt đầu biểu hiện ý nghĩ
phản cách mạng của mình ra ngoài thế giới khách quan...
Âm mưu là giai đoạn đầu của việc tiến hành các tội phản
cách mạng, trừ đối với tội âm mưu lật đổ chính quyền dân chủ nhân
dân thì tội phạm hoàn thành và không thể chấm dứt nửa chừng nữa
37
khi hai tên phản cách mạng (hoặc hơn nữa) đã bàn bạc và quyết
định việc thực hiện tội phạm [63, tr. 25-26].
Riêng các trường hợp đã nêu này do tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi nếu được thực hiện sẽ tăng lên đáng kể và xâm hại đến các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ, nên cần phải ngăn chặn ngay từ khi chưa được cụ thể hóa ý
định thành hành vi phạm tội, còn nói chung, khi ý định phạm tội của một người
chưa được thể hiện ra thế giới khách quan bên ngoài bằng hành vi hay hành động
cụ thể nào đó, thì không thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó
được.
* Phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội
Dưới góc độ khoa học, chuẩn bị phạm tội được hiểu là trường hợp một
người tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những
điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội phạm.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu của hành động phạm tội, là bước
tiếp theo để cụ thể hóa ý định phạm tội. Về nguyên tắc, việc chủ thể chuẩn bị
phạm tội càng chu đáo, kỹ càng bao nhiêu thì khả năng thực hiện được ý định
và kế hoạch phạm tội càng chính xác cao và ngược lại.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc chuẩn bị phạm tội còn phụ thuộc vào các
điều kiện khách quan, chủ quan của tội phạm như: loại tội phạm mà người
phạm tội dự định thực hiện, thời gian, không gian, địa điểm, công cụ, phương
tiện, hoàn cảnh phạm tội... nên việc chuẩn bị phạm tội và từng trường hợp
phạm tội cụ thể cũng không giống nhau, điều này phản ánh tính đa dạng và
phức tạp của các tội phạm trong thực tiễn.
Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều là những dạng của trường
hợp tội phạm chưa hoàn thành để phân biệt với tội phạm hoàn thành (các
trường hợp còn gọi là trường hợp hoạt động phạm tội sơ bộ theo cách gọi của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm) [13, tr. 442]. Hai giai đoạn này là các trường hợp
38
phạm tội đều bị dừng lại là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của chủ thể thực hiện hành vi, đồng thời "do nguyên nhân ngoài ý muốn"
chính là căn cứ pháp lý chung cho cả hai trường hợp đã nêu, cũng như phân
biệt chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội không chỉ trên phương diện pháp lý, mà cả trên
phương diện thực tiễn áp dụng. Tuy vậy, qua nghiên cứu Bộ luật hình sự năm
1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cho
thấy, đúng như theo PGS.TS. Lê Thị Sơn (Trường Đại học Luật Hà Nội), thì
sự thể hiện nội dung này mới chỉ được cụ thể hóa qua quy định về phạm tội
chưa đạt mà chưa thể hiện trong quy định về chuẩn bị phạm tội của Bộ luật
hình sự [57, tr. 46]. Do đó, các nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
vấn đề này cho phù hợp.
Ngoài ra, ở trường hợp thứ nhất (chuẩn bị phạm tội), người phạm tội
chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong mặt
khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng thuộc Phần các tội phạm Bộ
luật hình sự (có nghĩa là chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật
hình sự xác lập và bảo vệ), mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm nhanh chóng về sau.
Trong khi đó, ở trường hợp thứ hai (phạm tội chưa đạt), chủ thể đã thực
sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự xác
lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại hoặc đã bị trực tiếp xâm hại, nên mức độ
nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này rõ ràng cao hơn so với trường hợp
thứ nhất, đồng thời sẽ đặc biệt nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ "do nguyên
nhân khách quan ngoài ý muốn" của người phạm tội ngăn cản. Cho nên, về hậu
quả pháp lý, người thực hiện hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại
không phải chịu trách nhiệm hình sự, riêng có hai trường hợp đặc biệt - khi
một người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt
nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt thì tất cả mọi trường hợp không phân biệt loại tội,
39
người thực hiện hành vi đó đều phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ
sở chung và được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành.
* Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Dưới góc độ khoa học, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường
hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan
không có gì ngăn cản. Để một người được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội phải đáp ứng ba điều kiện sau đây:
Một là, việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người
phạm tội phải "tự nguyện" và "dứt khoát", tức là người đó phải từ bỏ thực sự
ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm
thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội thuận lợi khác hoặc chuẩn bị kỹ lưỡng
hơn công cụ, phương tiện phạm tội sẽ tiếp tục phạm tội;
Hai là, việc chấm dứt hành vi phạm tội phải và chỉ xảy ra trong trường
hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm
tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành. Vấn đề này cũng đã
được Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự
ghi nhận thành hướng dẫn áp dụng thống nhất. Bởi lẽ, ở những trường hợp
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành thì người
phạm tội đã thực hiện được đầy đủ những dấu hiệu khách quan và chủ quan
của tội phạm và việc dừng lại không thực hiện tội phạm hoàn toàn không làm
thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người đó thực hiện;
Ba là, điều kiện khách quan bên ngoài hoàn toàn không có gì ngăn cản
việc thực hiện, nếu người phạm tội muốn thực hiện tội phạm, họ đương nhiên
có thể tiến hành được. Nói một cách khác, việc chấm dứt việc thực hiện tội
phạm phải và do chính bản thân người đó tự quyết định, mặc dù vào thời
điểm thực tế quyết định chấm dứt việc thực hiện tội phạm, người phạm tội
40
vẫn nhận thức được khả năng thực tế khách quan hoàn toàn vẫn cho phép tiếp
tục thực hiện tội phạm.
Còn phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị phạm tội, là một
giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, đồng thời là
trường hợp một người đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành
vi đó đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó
ngăn cản.
Như vậy, nếu người phạm tội do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội là xuất phát từ do ý muốn chủ quan của bản thân họ quyết định không tiếp
tục thực hiện tội phạm nữa nên hành vi này được coi là đã mất tính nguy hiểm
cho xã hội. Trong khi đó, đối với hành vi phạm tội chưa đạt việc người phạm
tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa lại là do nguyên nhân khách quan
tác động (chứ không phải do chủ quan) mà không thực hiện được tội phạm
đến cùng. Do đó, nếu người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự
trên những cơ sở chung, thì người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội lại
được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nếu hành vi phạm tội của họ
không cấu thành tội phạm khác. Còn trường hợp nếu cấu thành tội phạm khác,
thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung.
Tuy nhiên, hiện nay do phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành như khoa
học luật hình sự đã phân chia ở một mức độ nhất định hoàn toàn có thể khắc
phục và ngăn chặn được hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra nên thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn cho người phạm tội được hưởng chế
định nhân đạo này, mặc dù giữa tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và
phạm tội chưa đạt là hoàn toàn khác nhau [77, tr. 43]. Vì vậy, ở đây nếu dựa
trên ý nghĩa chính trị - xã hội và khả năng khắc phục hậu quả thì có thể áp
dụng được, còn nếu dựa trên lý luận và căn cứ vào ý thức chủ quan của người
phạm tội thì lại chưa phù hợp và chính xác khi áp dụng tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội trong trường hợp đã nêu này.
41
1.2.2. Phân biệt phạm tội chƣa đạt với tội phạm hoàn thành và tội
phạm kết thúc
* Phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành
Tội phạm hoàn thành, về cơ bản được hiểu là trường hợp một người
đã thực hiện hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành
tội phạm tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Do đó, về phương
diện khoa học, sự khác nhau cơ bản giữa tội phạm hoàn thành với tội phạm chưa
hoàn thành (bao gồm cả chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) là ở mức độ
thỏa mãn các dấu hiệu trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Cho nên,
đối với trường hợp phạm tội chưa đạt (mà đặc biệt là trường hợp phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành) rất gần với tội phạm hoàn thành của một loại tội phạm tương
ứng. Còn trường hợp tội phạm hoàn thành thì hậu quả của tội phạm đã xảy ra,
còn trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì hậu quả của tội phạm chưa
xảy ra hoặc nếu có xảy ra nhưng không thỏa mãn như cấu thành tội phạm mà
điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự đã quy định [80, tr.
130].
Bên cạnh đó, trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, để phân biệt
chính xác tội phạm chưa hoàn thành hay đã hoàn thành chỉ cần làm sáng tỏ
hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự hay chưa. Cụ thể hóa
điều này, nếu giai đoạn phạm tội chưa đạt được tính từ thời điểm người phạm
tội đã bắt tay vào thực hiện tội phạm, có nghĩa họ bắt đầu thực hiện bất kỳ
hành vi nào được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm hoặc
thậm chí là các hành vi đi liền trước hành vi khách quan đó, thì trong khi đó,
đối với giai đoạn tội phạm hoàn thành, thì người phạm tội đã thực hiện hết các
hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm
tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Vì vậy, xem xét về mức độ
nguy hiểm cho xã hội thì hành vi trong trường hợp tội phạm hoàn thành rõ
ràng có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn và do đó, có tính nghiêm trọng
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sựĐề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
Nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội trong pháp luật Việt Nam - TẢI FREE ZALO...
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sựĐề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hayLuan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Nguyen Trang
 
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOTDấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt NamCác Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hayLuan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOTDấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt NamCác Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các Giai Đoạn Thực Hiện Tội Phạm Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 

Recently uploaded (10)

BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 

Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG ĐỨC NGỌC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG ĐỨC NGỌC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm Hµ néi - 2010
  • 3. 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các sơ đồ Mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chƣa đạt trong luật hình sự 9 1.1. Khái niệm và phân loại phạm tội chưa đạt 9 1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý 9 1.1.2. Khái niệm phạm tội chưa đạt 18 1.1.3. Phân loại phạm tội chưa đạt 24 1.2. Phân biệt phạm tội chưa đạt với một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý 28 1.2.1. Phân biệt phạm tội chưa đạt với ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 29 1.2.2. Phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc 35 1.3. Các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về phạm tội chưa đạt 37 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 37 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 39 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 40
  • 4. 2 1.3.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 43 Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội chƣa đạt 47 2.1. Các quy định của pháp luật hình sự từ thời kỳ phong kiến đến trước ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt 47 2.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 47 2.1.2. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 51 2.1.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 55 2.2. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về phạm tội chưa đạt 58 2.2.1. Hành vi phạm tội chưa đạt 58 2.2.2. Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt 63 2.2.3. Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa hoàn thành 77 Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 về phạm tội chƣa đạt 80 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt 80 3.1.1. Những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn 84 3.1.2. Vướng mắc trong quy định của Bộ luật hình sự 103 3.2. Việc hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 109 3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 109 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 111
  • 5. 3 Kết luận 118 Danh mục Tài liệu tham khảo 121
  • 6. 4 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc và tổng số vụ án đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm 2005-2009 80 3.2 Tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc và tổng số bị cáo đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm 2005-2009 81 3.3 Tỷ lệ bản án có phạm tội chưa đạt trong tổng số các bản án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình sự của Tòa án nhân dân 81 3.4 Tội danh, số vụ, số bị cáo và tỷ lệ số vụ án trên các bản án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình sự của Tòa án nhân dân 82
  • 7. 5 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang 2.1 Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt tồn tại trong thực tiễn 79
  • 8. 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Các giai đoạn phạm tội khác nhau chính là ở những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội - tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng [13, tr. 287]. Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (và hình phạt) đối với những người đã thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội - pháp lý, "tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người" [78, tr. 7]. Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự là do có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà còn là thuộc tính khách quan, tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng hành vi phạm tội cụ thể. Ngoài ra, tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với hình thức lỗi cố ý và vô ý. Còn đối với những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm, thì luật quy định, người thực hiện hành vi đó sẽ bị xử lý bằng biện pháp khác.
  • 9. 7 Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần tiến đến thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành từng bước để thực hiện hành vi phạm tội, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội mà họ phải dừng lại khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện tội phạm hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành tội phạm. Theo đó, về mặt chủ quan hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn cố ý thực hiện tiếp hành vi phạm tội của mình, vì trong suy nghĩ, tư tưởng của họ bao giờ cũng mong muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả mong muốn đã được đặt ra. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, có không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ dự định của mình hay không tiến hành thực hiện tội phạm được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ, mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau. Nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật hình sự Việt Nam không những trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm mà cả điều chỉnh xử lý các hành vi phạm tội chưa đạt - hành vi chưa hoàn thành. Việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành không chỉ để ngăn chặn tội phạm, mà còn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Điều này còn thể hiện đường lối xử lý trong chính sách hình sự - không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục,
  • 10. 8 phòng chống, đồng thời điều này cũng đã được cụ thể hóa trong Điều 1 về nhiệm vụ của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong diễn biến thực hiện tội phạm, việc xác định những hành vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, quyết định hình phạt đối với những người thực hiện hành vi ấy giúp cho cơ quan điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội không phải bao giờ cũng đơn giản và dễ dàng. Mặt khác, để quyết định một hình phạt được chính xác và công bằng thường gặp một số khó khăn nhất định hay còn có nhiều sai sót, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội. Thời gian vừa qua, dưới góc độ khoa học luật hình sự xung quanh những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, việc phân định ranh giới giữa chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội phạm hoàn thành và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn có nhiều quan điểm khác nhau, có một số trường hợp do phân biệt không chính xác sẽ dẫn tới nhiều trường hợp xử oan, sai hoặc không đúng pháp luật. Bên cạnh đó, dưới góc độ thực tiễn áp dụng, có nhiều trường hợp đánh giá chưa đúng khi thực tế là chuẩn bị phạm tội nhưng người phạm tội lại phải chịu trách nhiệm hình sự về phạm tội chưa đạt, có trường hợp người phạm tội đáng lẽ phải chịu trách nhiệm hình sự lại không phải chịu hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nhưng lại cho là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội dẫn đến họ được miễn trách nhiệm hình sự; v.v... Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về phạm tội chưa đạt trong khoa học và việc áp dụng nó trong thực tiễn để trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu
  • 11. 9 đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Phạm tội chưa đạt là một vấn đề hẹp và thuộc chế định các giai đoạn phạm tội, đồng thời nó cũng có liên hệ mật thiết đến nhiều quy phạm và chế định khác trong luật hình sự như: tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự, chuẩn bị phạm tội, tội phạm hoàn thành, tội phạm kết thúc, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; v.v... Ngoài ra, mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những quy định thay đổi đáng kể về tội phạm và về phạm tội chưa đạt như tách khoản 2 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thành Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 (về quyết định hình phạt) được tách thành Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 với ba khoản cụ thể tương ứng với từng hành vi phạm tội ở các giai đoạn phạm tội khác nhau - chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nhưng xung quanh chế định này còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu và đòi hỏi có quan điểm thống nhất. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, vấn đề phạm tội chưa đạt cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của TS. Nguyễn Ngọc Chí, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003, 2007); 2) Chương IX - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Võ Khánh Vinh, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) Chương VII - Các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 5) Lâm Minh Hạnh. Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong
  • 12. 10 sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986; v.v... Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam cũng đã dành không ít công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của GS.TSKH. Lê Văn Cảm: 1) Mục V - Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, Chương thứ tư, trong Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), (Sách chuyên khảo Sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; v.v... Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 1) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1999, của PGS.TS. Trần Văn Độ; 2) Một số vấn đề về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Luật học, số 6/1995; 3) Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của PGS.TS. Lê Thị Sơn; 4) Hoàn thiện hình phạt tử hình, tù có thời hạn và phạt tiền theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 5/2008 5) Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002, của TS. Trịnh Quốc Toản; 6) Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của TS. Dương Tuyết Miên; 7) Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 2/2006; 8) Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Luật học), số 2/2009, của TS. Trịnh Tiến Việt; 9) Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/1993, của tác giả Nguyễn Thị Mai; v.v... Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội chưa đạt nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem xét qua các
  • 13. 11 trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù đây là một giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt nếu việc phát hiện và ngăn chặn sớm hành vi phạm tội chưa đạt sẽ làm giảm khả năng gây ra thiệt hại về nhiều hậu quả như: chính trị, vật chất, thể chất và tinh thần, cũng như tài sản của Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội chưa đạt cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm tội chưa đạt là một nội dung tương đối hẹp và phức tạp, nghiên cứu về chế định này đã có nhiều nghiên cứu chung trong các giai đoạn phạm tội do cố ý mà ít có nghiên cứu chuyên sâu và riêng rẽ về từng trường hợp cụ thể của vấn đề phạm tội chưa đạt, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số vấn đề cơ bản xung quanh chế định phạm tội chưa đạt như sau: 1) Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý; 2) Khái niệm, các đặc điểm và phân loại phạm tội chưa đạt; 3) Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt; 4) Nghiên cứu so sánh các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới; 5) Các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự Việt Nam; 6) Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt;
  • 14. 12 7) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt. 4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở này, mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, so sánh hành vi phạm tội chưa đạt với các hành vi khác trong quá trình thực hiện tội phạm, cũng như so sánh vấn đề này với một số nước trên thế giới. Ngoài ra, luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tồn tại trong các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội chưa đạt để từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện sửa đổi, bổ sung chế định này trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành. 5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình sự và một số ngành khoa học khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, nghiên cứu (điều tra) án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn Cơ sở khoa học của luận văn là quan điểm chính thống của các nhà làm luật được thể hiện trong Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về phạm tội chưa đạt, cũng như hệ thống lý luận trong các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến chế định này.
  • 15. 13 Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng việc áp dụng các bản án của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn quốc về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam trong phạm vi khoảng 10 năm gần đây (2000- 2009) và qua đó để rút ra những nhận xét, đánh giá. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, khái niệm, bản chất pháp lý của phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, nội dung và các căn cứ của các trường hợp phạm tội chưa đạt trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định tương ứng đó ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt trong luật hình sự. Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt.
  • 16. 14 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT 1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, dần từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội; v.v... Trước đây và hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Bên cạnh việc xử lý hành vi phạm tội đã hoàn thành thì việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Như vậy, việc nghiên cứu khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong từng thời điểm, cũng như việc phân hóa trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật. Hiện nay, các giai đoạn này có nhiều tên gọi khác nhau trong khoa học và trên các sách báo pháp lý - các giai đoạn thực hiện tội phạm, các giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý; các giai đoạn phạm tội; v.v... Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ "các giai đoạn phạm tội do cố ý" nhằm mục đích cho đơn giản, ngắn gọn và gắn liền
  • 17. 15 với quá trình (diễn biến khách quan) của chủ thể thực hiện các hành vi phạm tội trên thực tiễn do cố ý, đồng thời phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội ở từng thời điểm khác nhau của hành vi phạm tội, cũng như phản ánh có trường hợp hành vi phạm tội là tội phạm và có trường hợp không phải là tội phạm, qua đó phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người thực hiện hành vi đó. Trước hết, trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga quan niệm về các giai đoạn phạm tội do cố ý là: 1) Các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của những hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômxlôv); 2) Các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt những hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô); v.v... [13, tr. 440-441]. Hay trong luật hình sự Cộng hòa Pháp gọi là "các giai đoạn thực hiện các tội phạm do cố ý" [14, tr. 60]; v.v... Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về tên gọi có sự khác nhau nhưng về bản chất pháp lý là giống nhau mặc dù cách thể hiện nội dung có sự khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét. GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định nghĩa: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thực hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể" [10, tr. 114]. Theo đó, đây là quan điểm tương đối chính xác về mặt khoa học và đầy đủ về mặt nội dung khi phản ánh sự thống nhất giữa phương diện khách quan và chủ
  • 18. 16 quan trong tội phạm, dựa trên cơ sở khoa học - các quy định của pháp luật cũng như cơ sở thực tiễn - các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ tồn tại trong lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, nhận thức về nội dung của định nghĩa này có nhiều quan điểm khác nhau mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Trường Đại học Luật Hà Nội) cho rằng: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [29, tr. 119]. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những tội phạm cố ý khi thực hiện thì hành vi phạm tội mới trải qua các giai đoạn - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành và nhấn mạnh sự khác nhau giữa các giai đoạn là mức độ thực hiện tội phạm cố ý. Tác giả Trần Văn Đượm (Học viện Cảnh sát nhân dân) khẳng định luôn là các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm và định nghĩa đây là "các bước trong quá trình thực hiện tội phạm, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [18, tr. 176]. Quan điểm này chỉ khẳng định được các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình thực hiện tội phạm gồm có: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong khi đó, cũng khẳng định như vậy, nhưng tác giả Lâm Minh Hạnh (Viện Nhà nước và pháp luật) lại quan niệm có hai giai đoạn chính trong các giai đoạn phạm tội: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm việc chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội phạm. Trong giai đoạn thực hiện tội phạm có thể có hai trường hợp hoặc đã hoàn thành tội phạm hoặc đã phạm tội chưa đạt" [23, tr. 117], vì theo tác giả, phạm tội chưa đạt và hoàn thành tội phạm chỉ là các trường hợp riêng biệt trong các giai đoạn thực hiện tội phạm chứ không thể coi là giai đoạn chính thức được. Quan niệm như vậy có phần đúng, nhưng chưa phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng sự khác nhau giữa các giai đoạn là mức độ thực hiện tội phạm do cố ý.
  • 19. 17 Gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) đưa ra khái niệm các giai đoạn phạm tội phản ánh hình thức lỗi và các giai đoạn cụ thể trong các giai đoạn phạm tội, nhưng theo chúng tôi cũng cần phản ánh rõ hơn mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa các giai đoạn phạm tội do cố ý thì sẽ đầy đủ hơn: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [80, tr. 126]; v.v... Như vậy, về cơ bản, các quan điểm khoa học trong lý luận luật hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng, các giai đoạn phạm tội chỉ tồn tại dưới hình thức lỗi cố ý, không tồn tại dưới hình thức lỗi vô ý, bởi vì, trong lỗi vô ý, người phạm tội không nhận thức được hành vi mà mình thực hiện sẽ nguy hiểm cho xã hội, cũng không thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và họ cũng không mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Tuy nhiên, một vấn đề khác lại đặt ra ở đây là tội cố ý có bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp hay không. Mặc dù vậy, về cơ bản, "đa số các nhà khoa học pháp lý hình sự đều cho rằng quá trình phạm tội chỉ có ở hình thức lỗi cố ý trực tiếp" [16, tr. 223]. Còn đối với những tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội và không có tội mà thôi. Tất nhiên, cũng có quan điểm cho rằng "đối với những tội có cấu thành hình thức thực hiện bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt". Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự), tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự) [71, tr. 113]. Đặc biệt, cũng có quan điểm lại cho rằng: các giai đoạn phạm tội có cả ở hình thức lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, "cũng như trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải
  • 20. 18 đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc: các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp" [28, tr. 68-69]. Chúng tôi nhận thấy, ý kiến này cũng chứa đựng điểm hợp lý, tuy nhiên, thực tiễn xét xử ở Việt Nam chỉ thừa nhận có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với loại tội cố ý trực tiếp, đối với trường hợp phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhận thức được hậu quả do hành vi của mình có thể gây ra nhưng hậu quả đó không phải là mục đích chính của người phạm tội. Chính vì không mong muốn gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự hay nói cách khác là không xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở đây vì thái độ của họ là thờ ơ, bỏ mặc. Cho nên, khoa học luật hình sự và thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cũng như tội phạm hoàn thành chỉ xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp mà thôi. Vấn đề tiếp theo là các giai đoạn phạm tội do cố ý có thể chỉ được đặt ra với tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cả với những tội có cấu thành hình thức; có thể chỉ đặt ra với hành vi khách quan được thực hiện ở dạng hành động hay còn cả ở dạng không hành động. Theo quan điểm được thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự nhiều nước và Việt Nam thì: trong các tội thực hiện do cố ý trực tiếp chỉ đối với các tội có cấu thành tội phạm vật chất mới có đầy đủ các giai đoạn thực hiện thành phần (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành), ví dụ: Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự). Còn trong các tội có cấu thành tội phạm hình thức do hậu quả không phải là điều kiện bắt buộc của tội phạm nên trong các loại tội này chỉ có thể có tội phạm hoàn thành có chuẩn bị phạm tội mà không có phạm tội
  • 21. 19 chưa đạt. Bởi vì, khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của cấu thành tội phạm thì cũng là lúc tội phạm hoàn thành và không thể coi là phạm tội chưa đạt được. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng bạo lực tấn công người khác nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản của người đó thì đã cấu thành tội cướp tài sản; hay tương tự là tội phản bội Tổ quốc (Điều 78), tội gián điệp (Điều 80 Bộ luật hình sự); v.v... Ngoài ra, riêng đối với tội có cấu thành tội phạm cắt xén thì không có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà chỉ có tội phạm hoàn thành. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm có cấu thành hình thức có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt, vì các tác giả này cho rằng phạm tội chưa đạt có thể xảy ra trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 111), tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 Bộ luật hình sự). Với quan điểm này, chúng tôi không đồng tình bởi vì riêng đối với tội hiếp dâm có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội này bao gồm: Một là, hành vi dùng vũ lực (hoặc dùng thủ đoạn khác) để thực hiện, hai là, hành vi giao cấu trái với ý muốn của người phụ nữ. Nếu người phạm tội đã cố ý dùng vũ lực rồi mặc dù chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì sẽ cấu thành tội hiếp dâm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Bởi vì, ở tội này có cấu thành có cấu thành vật chất chứ không phải có cấu thành hình thức. Còn đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hay hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc bất kỳ một hành vi nào được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thì tội phạm đã hoàn thành. Như vậy, chúng tôi không đồng ý với quan điểm trên vì nó không phù hợp với bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt.
  • 22. 20 Cũng như mọi trường hợp phạm tội nói chung, các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều được thực hiện bằng hành vi phạm tội. Và các hành vi này chỉ có thể dưới dạng hành động. Ví dụ: Tội phản bội Tổ quốc (Điều 78 Bộ luật hình sự). Còn loại tội được thực hiện bằng không hành động chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm hoàn thành chứ không thể xảy ra trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được, tuy nhiên loại tội này chỉ chiếm một tỷ lệ không nhiều trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Ví dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); v.v... Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam các giai đoạn phạm tội do cố ý đều thống nhất là bao gồm - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Với quy định này, việc xác định mức hình phạt áp dụng đối với người thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt cụ thể hơn và quy định tỷ lệ hình phạt tối đa so với hình phạt có thể được áp dụng trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Việc quy định các giai đoạn phạm tội nói chung và quy định chính xác tội phạm chưa hoàn thành nói riêng (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) trong từng trường hợp cụ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội bao giờ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng thấp hơn ở giai đoạn phạm tội chưa đạt và tương ứng như vậy, ở giai đoạn phạm tội chưa đạt luôn thấp hơn so với giai đoạn tội phạm hoàn thành. Quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, xác định đúng mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ trong quyết định hình phạt một cách công minh, không để oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội theo đúng cơ sở của trách nhiệm hình sự: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 Bộ
  • 23. 21 luật hình sự). Theo đó, quy định cơ sở của trách hình sự như đã nêu chính là thể hiện các nguyên tắc pháp chế và công bằng trong luật hình sự nước ta. Với pháp chế, - chính là sự thể hiện cơ sở duy nhất, rõ ràng và dứt khoát nội dung "... phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định..." của trách nhiệm hình sự, còn với công bằng, - có nghĩa bảo đảm sự bình đẳng ngang nhau trong đánh giá hành vi phạm tội của những người phạm tội, bình đẳng trước pháp luật đối với tất cả mọi người với nội dung "người nào..." có nghĩa không trừ bất kỳ một ai trong xã hội [79, tr. 1-2]. Về điều này, C. Mác đã viết: "... dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi do chính người đó - do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của y phải là giới hạn của sự trừng phạt..." [42, tr. 169]. Quy định về các giai đoạn phạm tội do cố ý có ý nghĩa rất quan trọng, nó là căn cứ để định tội danh. Điều này có nghĩa, việc xác định hành vi chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội chưa đạt đã thực hiện mà phạm vào một tội gì có trong số những tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Việc xác định hành vi của một người đã phạm tội gì chính là quá trình xác định hành vi của họ có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm trong Bộ luật hình sự. Khi xác định tội danh đó phải căn cứ vào các quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và các tội phạm cụ thể được pháp luật hình sự quy định thì mới định tội và định tội đối với đúng người và đúng pháp luật. Tóm lại, các giai đoạn phạm tội là những bước phát triển trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong từng thời điểm khác nhau - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Như vậy, dưới góc độ khoa học, việc phân chia các giai đoạn phạm tội trong luật hình sự dựa trên các căn cứ sau:
  • 24. 22 Thứ nhất, dựa trên diễn biến khách quan của quá trình phạm tội mà cụ thể là dựa vào dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Theo đó, tội phạm hoàn thành là tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan được quy định trong luật. Trong khi đó, phạm tội chưa đạt là trường hợp tội phạm không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội ngăn cản, nói cách khác đó là hành vi chưa thỏa mãn các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm. Còn chuẩn bị phạm tội là người phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ thực hiện tội phạm chứ chưa thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm. Như vậy, các giai đoạn phạm tội là những thang bậc khác nhau của quá trình thực hiện tội phạm, mỗi thang bậc này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không giống nhau và được xếp theo trật tự nhẹ, nặng: từ chuẩn bị phạm tội đến tội phạm hoàn thành. Nói một cách khác, các giai đoạn phạm tội phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm ở từng thời điểm. Trên quan điểm này, về mặt nội dung, một hành vi phạm tội được coi là hoàn thành khi đã có những đặc điểm thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của mọi loại tội phạm cụ thể, còn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội chưa thể hiện hết tính chất nguy hiểm của một loại tội phạm. Thứ hai, ngoài dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả, khi phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý, luật hình sự nước ta còn căn cứ vào tính chất khách thể tội phạm. Tính chất của quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại phần nào phản ánh tính chất nguy hiểm của tội phạm. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội được xác định bằng nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có yếu tố khách thể của tội phạm - những quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập, bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. Vì vậy, để bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng một cách nghiêm ngặt, luật hình sự quy định thời điểm hoàn thành của tội phạm sớm hơn [16, tr. 226-227]. Do đó, việc phân chia các giai đoạn phạm tội cũng rõ ràng và chính xác hơn.
  • 25. 23 Thứ ba, cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý còn dựa vào thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể. Như vậy, việc căn cứ vào thời điểm chấm dứt của hành vi phạm tội do chủ thể thực hiện trên thực tế là căn cứ để xác định giai đoạn phạm tội, cũng như phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Trong khi đó, mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể mặc dù không quyết định việc phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý, nhưng nó có mối liên hệ mật thiết với các hành vi phạm tội trên thực tế và có thể không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan (là chủ yếu) hoặc nguyên nhân chủ quan quyết định - nếu không có gì ngăn cản hoàn toàn thực hiện được, nếu có gì ngăn cản - không thể thực hiện được. 1.1.2. Khái niệm phạm tội chƣa đạt Trong quá trình thực hiện tội phạm có những trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ những hành vi để hoàn thành tội phạm, hoặc không đạt được kết quả mong muốn, do những nguyên nhân kết quả ngoài ý muốn của người phạm tội. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, trong khoa học pháp lý Việt Nam, để chỉ hành vi phạm tội chưa đạt người ta thường dùng thuật ngữ "tương hành vi toại" có nghĩa là hành động chưa đạt được ý muốn, hay "vị toại". Sau đó, vào những năm 60 của thế kỷ XX, trong khoa học luật hình sự Việt Nam thể hiện ở một số văn bản pháp lý, cũng như nhiều tài liệu, bài báo, trong tài liệu giảng dạy tại Trường Cán bộ Tòa án (Tòa án nhân dân tối cao) sử dụng khá phổ biến thuật ngữ "toan" phạm tội để chỉ trường hợp phạm tội chưa đạt trong luật hình sự [23, tr. 29-31]. Như vậy, trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, trong luật lệ hình sự của nước ta cũng đưa ra thuật ngữ "phạm tội chưa đạt" nhưng chưa có văn bản nào giải thích khái niệm phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, có thể vận dụng nội dung hướng dẫn về tội giết người chưa đạt để giải thích phạm tội chưa
  • 26. 24 đạt, theo bản tổng kết chuyên đề của Tòa án nhân dân tối cao: "Tội giết người hoàn thành khi người bị nạn chết đối với trường hợp giết người nhưng không chết nên thống nhất gọi là phạm tội chưa đạt". Việc sử dụng thuật ngữ "toan phạm tội" trước đây có thể dẫn đến sự hiểu nhầm về bản chất đó là cho rằng toan phạm tội là mới có ý định mà thôi và như vậy cho rằng luật hình sự đặt vấn đề trách nhiệm hình sự với cả "tư tưởng" cái không phải là hành vi. Tuy nhiên, thực sự ở đây người phạm tội không chỉ mới có ý định phạm tội mà đã bắt tay vào thực hiện hành vi phạm tội. Điều này có nghĩa, nguyên tắc "hành vi" được luật hình sự Việt Nam tôn trọng triệt để và chấp hành nghiêm chỉnh, nhưng mặt khác để tránh sự hiểu nhầm trên nên trong Bộ luật hình sự đầu tiên và trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam đều dùng thuật ngữ "phạm tội chưa đạt". Về quá trình phát triển chế định này sẽ được tác giả đề cập trong Chương 2 luận văn này, tuy vậy, dưới góc độ lập pháp, trong Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta năm 1985, lần đầu tiên khái niệm phạm tội chưa đạt được quy định cụ thể - "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" (khoản 2 Điều 15) và đến Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 18) về cơ bản cũng không có gì thay đổi ngoài tách nội dung việc quyết định hình phạt đối với trường hợp này thành một khoản trong điều luật mới (Điều 52). Như vậy, bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt thể hiện ở chỗ - đây là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị phạm tội và là một giai đoạn phản ánh việc người phạm tội đã bắt đầu có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nói một cách khác, khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ đó bị đe dọa thực tế gây ra thiệt hại, nhưng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên thiệt hại thực tế có thể không xảy ra hoặc có thể xảy ra. Trong trường hợp gây ra thiệt hại thì đó không phải là thiệt hại mà người phạm tội dự tính.
  • 27. 25 Còn dưới góc độ khoa học luật hình sự, cũng giống như các giai đoạn phạm tội, khái niệm phạm tội chưa đạt còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt đánh giá. Nhóm quan điểm cùng nêu rõ hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, theo đó GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định nghĩa: "Phạm tội chưa đạt trong khoa học luật hình sự có thể được hiểu là hành vi cố ý trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm nhưng tội phạm đã không được thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [13, tr. 444]. Hay TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) có nêu quan điểm về phạm tội chưa đạt nhưng mô tả hành vi khách quan của nó như sau: Phạm tội chưa đạt là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, đồng thời là trường hợp một người đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành vi đó đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó [80, tr. 127]. Nhóm quan điểm khác có nội dung tương tự, nhưng khẳng định phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai trong quá trình thực hiện tội phạm, TS. Nguyễn Ngọc Chí (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) viết: Phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, ở giai đoạn này người phạm tội sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị để thực hiện hành vi được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm, nhưng họ không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân khách quan ngăn cản [16, tr. 233]. Tương tự, GS. TS. Võ Khánh Vinh (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) định nghĩa: "Phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai của quá trình thực hiện tội
  • 28. 26 phạm cố ý, là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [81, tr. 275]. Còn tác giả Lâm Minh Hạnh (Viện Nhà nước và pháp luật) không nêu khái niệm, mà chỉ đề cập nội dung của phạm tội chưa đạt, theo đó, "trong quá trình thực hiện tội phạm có những trường hợp kẻ phạm tội không thực hiện được đầy đủ những hành vi để hoàn thành tội phạm, hoặc không đạt được kết quả mong muốn, do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của y" [23, tr. 130]. Bên cạnh đó, một số cuốn từ điển cũng định nghĩa và về cơ bản đều thể hiện rõ bản chất của hành vi và căn cứ, nội dung trong giai đoạn này, nhưng còn chưa khẳng định rõ phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý (bên cạnh hai giai đoạn khác là chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành). Từ điển Luật học viết: "Phạm tội chưa đạt là (chủ thể) đã cố ý thực hiện tội phạm nhưng vì nguyên nhân khách quan hành vi đã thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm" [75, tr. 600]; hay Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng định nghĩa: "Phạm tội chưa đạt là hành vi cố ý tiến hành tội phạm nào đó nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội mà không thực hiện được đến cùng" [36, tr. 266]; v.v... Tuy nhiên, theo chúng tôi, trước khi đưa ra khái niệm phạm tội chưa đạt, chúng ta cần làm sáng tỏ các đặc điểm (dấu hiệu) trên các bình diện khách quan và chủ quan vốn có của nó. Trước hết, về bình diện khách quan, phạm tội chưa đạt bao gồm các dấu hiệu sau: Dấu hiệu thứ nhất, phạm tội chưa đạt là một giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành (hay sơ bộ) thứ hai trong các giai đoạn phạm tội do cố ý trực tiếp; Dấu hiệu thứ hai, chủ thể đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật
  • 29. 27 hình sự. Nói một cách khác, hành vi phạm tội chưa đạt đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ [80, tr. 127]; Dấu hiệu thứ ba, chủ thể chưa thực hiện hoặc không thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng, có nghĩa hành vi của người này chưa thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm là do nguyên nhân khách quan khác nhau nào đó ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng "đến cùng" ở đây là đề cập dưới góc độ pháp lý chứ không phải là theo ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cơ sở để xác định một người đã thực hiện tội phạm đến cùng (tội phạm hoàn thành hay không thực hiện được tội phạm đến cùng (phạm tội chưa đạt) là ở chỗ hành vi của một người đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể hay chưa. - Trường hợp thứ nhất, nếu một người thực hiện hành vi thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự thì hành vi của người đó được coi là đã thực hiện đến cùng. - Trường hợp thứ hai, ngược lại, một người thực hiện hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự do những nguyên nhân ngoài ý muốn thì được coi là chưa thực hiện tội phạm đến cùng. Theo đó, các nguyên nhân ngoài ý muốn này có thể là do người bị hại hoặc những người khác phát hiện thấy hành vi phạm tội chưa đạt đã ngăn cản việc tội phạm không thực hiện được đến cùng; do thời tiết hoặc những điều kiện tự nhiên khác cản trở mà tội phạm không thực hiện được đến cùng; do những nguyên nhân khách quan thuộc về bản thân người phạm tội mà tội phạm không thực hiện được đến cùng (sai lầm về đối tượng tác động của hành vi tội phạm hay sử dụng nhầm công cụ, phương tiện phạm tội, sự không thành thạo trong hành động, tính cẩu thả, hấp tấp, vội vàng khi hành động phạm tội...). Do đó, chưa thực hiện tội phạm đến cùng có thể xảy ra ở những dạng điển hình mà thực tiễn xét xử vẫn thừa nhận như sau:
  • 30. 28 a) Chủ thể của tội phạm chưa thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà chỉ mới thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi phạm tội (kết quả). Ví dụ: Người phạm tội hiếp dâm chỉ mới thực hiện được hành vi dùng vũ lực mà chưa thực hiện được hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân đã bị mọi người xung quanh bắt giữ. b) Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả) nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm như trong điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định (mô tả). Ví dụ: Người phạm tội giết người đã đâm được nạn nhân nhưng do mọi người đến và đưa nạn nhân đến trạm y tế cấp cứu và do được cấp cứu kịp thời nên nạn nhân không chết. c) Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả) nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, chỉ mới xô ngã, đẩy... được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì bị bắt giữ. d) Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng nó không có quan hệ nhân quả đối với hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện nhưng đó không phải là hậu quả mà người phạm tội dự tính (mong muốn). Ví dụ: Người phạm tội giết người đã đâm nạn nhân nhưng trước đó nạn nhân đã chết vì một lý do khác [41, tr. 58]. Dấu hiệu thứ tư, hậu quả của tội phạm mà người phạm tội mong muốn đạt được đã không xảy ra hoặc nếu có thể xảy ra thì chưa thỏa mãn với hậu quả được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Trong khi đó, về bình diện chủ quan, phạm tội chưa đạt bao gồm hai dấu hiệu cơ bản như sau: Dấu hiệu thứ nhất, lỗi của người phạm tội trong giai đoạn này là cố ý trực tiếp (chúng tôi nhấn mạnh - tác giả), vì khoa học luật hình sự đã thống nhất, về mặt lập pháp hình sự đã ghi nhận trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
  • 31. 29 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, đồng thời thực tiễn xét xử đã thừa nhận - chỉ có lỗi cố ý trực tiếp mới tồn tại các giai đoạn phạm tội; Dấu hiệu thứ hai, mục đích phạm tội là mong muốn thực hiện hoàn thành hành vi phạm tội và mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra, nhưng hậu quả không xảy ra đúng theo các dự định của người phạm tội. Tóm lại, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và kết hợp với thực tiễn áp dụng, cũng như dựa trên các đặc điểm (dấu hiệu) thể hiện trên các bình diện khách quan và chủ quan đã nêu, theo chúng tôi khái niệm này có thể được hiểu như sau: Phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, khi một người đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành vi đó đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó ngăn cản. 1.1.3. Phân loại phạm tội chƣa đạt Trong lý luận cũng như thực tiễn, việc tiến hành phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt được hiểu là chia tất cả các trường hợp phạm tội chưa đạt thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định nhằm vào những mục đích nhất định, cũng như để phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt, bảo đảm hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm khác nhau trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Mặt khác, phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt còn có ý nghĩa lớn trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thể hiện ý định phạm tội từ đó đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp. Các trường hợp phạm tội chưa đạt có thể được phân chia bằng nhiều
  • 32. 30 cách khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau tùy theo mục đích của sự phân loại chứ không nhất thiết phải dựa trên cơ sở của một căn cứ nhất định. Thứ nhất, căn cứ vào mục đích thực hiện ý định phạm tội mà người phạm tội dự định thực hiện phạm tội chưa đạt. Theo căn cứ này, có thể được chia thành phạm tội chưa đạt thành hai dạng như sau: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Về căn cứ này, cũng có quan điểm lấy căn cứ là - thái độ, tâm lý của người phạm tội [41, tr. 58] để phân chia thành phạm tội chưa đạt hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Chúng tôi cho rằng, nếu căn cứ vào thái độ, tâm lý của người phạm tội để chia thành phạm tội chưa đạt hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là chưa thật chính xác vì quá rộng, đồng thời chưa phản ánh được cụ thể mức độ thực hiện hành vi đến đâu và ranh giới giữa giai đoạn phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. a) Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt trong đó người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các hành vi thuộc mặt khách quan trong cấu thành tội phạm và hậu quả của tội phạm chưa xảy ra. Ví dụ: Nguyễn Văn A. muốn giết Lê Vinh B., A. dùng dao đâm vào ngực, đầu B. nhưng B. đã kịp thời tránh được chỉ bị thương nhẹ ở vai. Như vậy, trong trường hợp này, người phạm tội nhận thức được rằng mình đã không thực hiện được tất cả những hành vi cần thiết để hoàn thành tội phạm. Đây là trường hợp chưa hoàn thành về hành vi và cũng chưa đạt được hậu quả. b) Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mà họ tin chắc rằng đó là hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nhằm đạt được mục đích của họ, đã có sự tính toán trước khi thực hiện hành vi phạm tội và thực tế họ đã thực hiện đầy đủ hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: Lý Văn C. muốn giết Trần Hữu D. nên quyết tâm dùng dao chém liên tiếp vào đầu và ngực của D., thấy D. ngã nằm bất động, C. nghĩ là D. đã
  • 33. 31 chết nên không chém nữa và bỏ đi nhưng do D. được cấp cứu kịp thời nên không chết. Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người như mình mong muốn. Như vậy, người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng hậu quả không xảy ra, trường hợp này người phạm tội dừng lại hành vi của mình mặc dù không có gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa dừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm và người phạm tội đã hoàn thành về hành vi nhưng chưa hoàn thành về hậu quả. Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã kết thúc hành vi phạm tội của mình và cho rằng những hành vi đó đã đủ và cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan của người phạm tội cũng tin rằng hậu quả tội phạm tất yếu sẽ xảy ra. Trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, người phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình, trong trường hợp ý thức chủ quan của họ cũng biết rằng hành vi của mình chưa đủ để gây ra hậu quả của tội phạm. So với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành thì phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có mức độ thực hiện tội phạm gần nhất với tội phạm hoàn thành. Vì vậy, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có mức độ nguy hiểm nhất trong các trường hợp phạm tội chưa đạt. Bởi lẽ, một người đã thực hiện hết hành vi mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà hậu quả vẫn không xảy ra hoặc hậu quả xảy ra nhưng đó không phải là ý muốn của người phạm tội. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành bao giờ cũng nguy hiểm cho xã hội hơn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, vì người phạm tội chưa thực hiện hết hành vi mà mình có ý định thực hiện. Do đó, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành phải nghiêm khắc hơn đối với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Thứ hai, căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt, khoa học luật hình sự còn phân chia thành phạm tội chưa đạt vô hiệu với các trường hợp chưa đạt do các nguyên nhân khác.
  • 34. 32 Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan dẫn đến chưa đạt gắn liền với công cụ, phương tiện phạm tội chưa đạt và đối tượng tác động của tội phạm phạm tội chưa đạt vô hiệu được thể hiện ở hai trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại cho khách thể nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng tác động (ví dụ: mở két sắt của cơ quan, đơn vị nhưng không lấy được tiền do tiền không có trong két sắt) hoặc đối tượng tác động của tội phạm không có tính chất mà người phạm tội mong muốn (ví dụ: đưa hối lộ cho người tưởng là có chức vụ, quyền hạn nhưng thực tế người đó không có chức vụ, quyền hạn); v.v... Trường hợp thứ hai, người phạm tội đã sử dụng nhầm công cụ, phương tiện mà người đó muốn. Trường hợp này, phương tiện mà người đó sử dụng lại không có khả năng gây ra hậu quả của tội phạm đó. Ví dụ: Nguyễn Hồng A. đầu độc Lê Văn B. nhưng do thuốc độc là giả (hoặc kém chất lượng) nên B. không chết. Tuy nhiên, trường hợp này cũng cần được phân biệt với những trường hợp mà chủ thể sử dụng những phương tiện rõ ràng là không thể gây thiệt hại được, như trường hợp một người vì mê tín nghe lời thầy bói mà đã bỏ bùa để giết người khác. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt vô hiệu là nguyên nhân khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội, trách nhiệm hình sự đối với phạm tội chưa đạt vô hiệu được xác định như trong những trường hợp phạm tội chưa đạt khác trên những cơ sở chung. Ngoài ra, còn trường hợp chưa đạt do các nguyên nhân khác không thuộc các trường hợp trên. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi trong giai đoạn phạm tội chưa đạt vô hiệu được xác định như trong những trường hợp phạm tội chưa đạt khác trên những cơ sở chung.
  • 35. 33 Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học, GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) còn chỉ ra ba trường hợp phạm tội chưa đạt thường gặp trong thực tiễn xét xử là [13, tr. 444-445]: Trường hợp thứ nhất, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý không xác định - trong đó căn cứ vào hậu quả thực tế đã xảy ra đến đâu thì phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó, vì hậu quả xảy ra dù đến mức độ nào cũng là do sự cố ý của người phạm tội mong muốn đạt được (đây là trường hợp phổ biến nhất). Trường hợp thứ hai, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác định (lựa chọn) - trong đó trách nhiệm hình sự chỉ có thể có khi nào người phạm tội gây nên hậu quả ít nghiêm trọng hơn trong số hai (hoặc nhiều hơn) hậu quả do người này mong muốn đạt được. Ví dụ: A. mong muốn giết B. mà nếu không giết được thì gây thương tích cho B. cũng được, và thực tế là do những nguyên nhân khách quan xảy ra ngoài ý muốn của A. (cái chết của B.) nên hậu quả thứ hai đã xảy ra - B. chỉ bị gây thương tích nặng và trong trường hợp này A. vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội giết người (chưa đạt) - là tội phạm thứ nhất mà hắn dự định thực hiện (nhưng chưa hoàn thành). Trường hợp thứ ba, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác định (đơn giản) - trong đó đã xảy ra hậu quả ít nghiêm trọng hơn hậu quả nghiêm trọng mà người phạm tội mong muốn đạt được, nhưng người này phải chịu trách nhiệm hình sự đối với cả hành vi phạm tội chưa đạt để gây nên hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: A. đốt nhà của B. và mong muốn giết B. đang nằm ngủ trong đó, nhưng B. được những người hàng xóm cứu khỏi ngọn lửa đang bén đến gần giường ngủ nên còn sống, trong trường hợp này A. phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm nhiều tội (tổng hợp trừu tượng), tức là không những chỉ đối với tội thứ nhất - tội cố ý hủy hoại tài sản, mà còn đối với cả tội thứ hai nữa - tội giết người (nhưng chưa đạt).
  • 36. 34 Tóm lại, việc phân loại phạm tội chưa đạt theo các tiêu chí này hay tiêu chí khác có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định đúng đắn và chính xác trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với họ có căn cứ, công minh và đúng pháp luật. Đặc biệt, việc phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành còn có ý nghĩa xác định các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trên cơ sở đó, các nhà làm luật sẽ có những biện pháp đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện dù đã hoàn thành hay chưa hoàn thành, qua đó bảo vệ các quan hệ xã hội không để cho tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. 1.2. PHÂN BIỆT PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT VỚI MỘT SỐ HÌNH THỨC PHẠM TỘI KHÁC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN TỘI PHẠM DO CỐ Ý Như đã đề cập, cùng với việc thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, thì pháp luật hình sự đặt ra yêu cầu phải bảo vệ các quan hệ xã hội trong tất cả các thời điểm khác nhau, đồng thời xác định chính xác từng giai đoạn phạm tội để có đường lối xử lý công bằng và thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Do đó, để làm tốt điều này đòi hỏi phải có sự phân định ranh giới chính xác không chỉ trên phương diện khoa học mà cả dưới phương diện thực tiễn áp dụng giữa phạm tội chưa đạt với một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Lẽ dĩ nhiên, trong số các hình thức phạm tội, có hình thức là "ý định phạm tội" thực ra gọi là hình thức phạm tội chưa chính xác, mà là một dạng đặc biệt, vì ý định phạm tội chưa thể hiện là hành vi, nhưng có trường hợp ý định phạm tội vẫn cấu thành tội phạm, nếu có căn cứ hợp pháp chứng minh đối với một (hoặc số tội phạm do các nhà làm luật quy định), nên chúng tôi vẫn xếp chung vào các trường hợp này để phân biệt với phạm tội chưa đạt.
  • 37. 35 1.2.1. Phân biệt phạm tội chƣa đạt với ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội * Phạm tội chưa đạt và ý định phạm tội Ý định phạm tội được hiểu là trường hợp một người trước khi thực hiện tội phạm thì những ý định, dự định phạm tội trong tư tưởng, suy nghĩ của họ được biểu lộ ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời nói, cử chỉ, chữ viết, hình vẽ, thái độ... hoặc cũng có thể không được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, tính chất nguy hiểm cho xã hội của dạng này là rất nhỏ và vô cùng khó khăn để chứng minh được mức độ nguy hiểm cho xã hội, vì trên thực tế dù một người rõ ràng có ý định phạm tội nhưng ý định đó chưa hoàn toàn chắc chắn đã được họ thực hiện. Tuy nhiên, khi mới chỉ nảy sinh ý định phạm tội thì còn rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến làm cho chủ thể có ý định đó - hoặc là sẽ phát triển lớn dần ý định của chủ thể thành những toan tính, nghĩ suy, sau đó dẫn đến quyết định hành động phạm tội, nhưng - cũng có thể sẽ bị loại bỏ ngay tức khắc ý nghĩ đó của chủ thể vì các nguyên nhân bất kỳ khác nhau [80, tr. 128]. Cho nên, phạm tội chưa đạt khác với ý định phạm tội là ở chỗ, trường hợp thứ nhất (phạm tội chưa đạt), chủ thể từ khi có ý định phạm tội đã bắt đầu có những biểu hiện là hành động, đồng thời bắt tay vào việc thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, - có nghĩa hành vi của người này đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ, mặc dù hành vi đó chưa (hoặc không) thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của chủ thể, song dưới góc độ pháp lý, người này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội chưa đạt trên những cơ sở chung. Trong khi đó, về mặt khách quan, đối với trường hợp thứ hai (ý định phạm tội) thì rõ ràng chưa hề xâm phạm đến các
  • 38. 36 quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ, cũng như chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nên ở đây, người có ý định phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này đúng như C. Mác đã viết, nếu chỉ có sự biểu lộ ý định đơn giản làm cái này hoặc cái khác thì không thể lấy đó làm cái để truy tố về mặt hình sự, cũng như về mặt chính sách cải tạo. Nói một cách khác, đến chừng nào ý định đó chưa được cụ thể hóa bằng các biểu hiện thực tế ra bên ngoài thế giới khách quan thông qua các việc làm cụ thể thì chừng đó, ý định của chủ thể chưa thể xác lập và tạo ra cấu thành bất kỳ vi phạm nào, dù là vi phạm pháp luật (chứ chưa nói đến không cấu thành tội phạm), đồng thời ý định đó nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của cái gọi là "pháp luật". Mặc dù vậy, pháp luật hình sự Việt Nam nước ta cũng có trường hợp đặc biệt, đó là riêng trường hợp khi ý định phạm tội được biểu lộ ra bên ngoài có căn cứ thì sẽ cấu thành tội phạm và bị xử lý ở tội đe dọa giết người (Điều 103 Bộ luật hình sự) vì nếu cứ để ý định đó biểu lộ ra phát triển thành hành vi, thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ tăng lên gấp bội, thậm chí sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm lớn cho xã hội. Ngoài ra, trước đây, đối với các tội phản cách mạng do tính chất nghiêm trọng của nhóm tội phạm này mà Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 đã quy định: "Âm mưu phạm tội và hành động phạm tội đều bị trừng trị" và sau đó được nhắc lại trong Báo cáo giải thích của Tòa án nhân dân tối cao về Pháp lệnh các tội phản cách mạng tại Hội nghị tổng kết công tác năm 1967 của Tòa án nhân dân tối cao quy định: Do tội phản cách mạng là những tội rất nghiêm trọng, cho nên cần trấn áp ngay từ khi kẻ phạm tội bắt đầu biểu hiện ý nghĩ phản cách mạng của mình ra ngoài thế giới khách quan... Âm mưu là giai đoạn đầu của việc tiến hành các tội phản cách mạng, trừ đối với tội âm mưu lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân thì tội phạm hoàn thành và không thể chấm dứt nửa chừng nữa
  • 39. 37 khi hai tên phản cách mạng (hoặc hơn nữa) đã bàn bạc và quyết định việc thực hiện tội phạm [63, tr. 25-26]. Riêng các trường hợp đã nêu này do tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi nếu được thực hiện sẽ tăng lên đáng kể và xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, nên cần phải ngăn chặn ngay từ khi chưa được cụ thể hóa ý định thành hành vi phạm tội, còn nói chung, khi ý định phạm tội của một người chưa được thể hiện ra thế giới khách quan bên ngoài bằng hành vi hay hành động cụ thể nào đó, thì không thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó được. * Phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội Dưới góc độ khoa học, chuẩn bị phạm tội được hiểu là trường hợp một người tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội phạm. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu của hành động phạm tội, là bước tiếp theo để cụ thể hóa ý định phạm tội. Về nguyên tắc, việc chủ thể chuẩn bị phạm tội càng chu đáo, kỹ càng bao nhiêu thì khả năng thực hiện được ý định và kế hoạch phạm tội càng chính xác cao và ngược lại. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chuẩn bị phạm tội còn phụ thuộc vào các điều kiện khách quan, chủ quan của tội phạm như: loại tội phạm mà người phạm tội dự định thực hiện, thời gian, không gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội... nên việc chuẩn bị phạm tội và từng trường hợp phạm tội cụ thể cũng không giống nhau, điều này phản ánh tính đa dạng và phức tạp của các tội phạm trong thực tiễn. Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều là những dạng của trường hợp tội phạm chưa hoàn thành để phân biệt với tội phạm hoàn thành (các trường hợp còn gọi là trường hợp hoạt động phạm tội sơ bộ theo cách gọi của GS.TSKH. Lê Văn Cảm) [13, tr. 442]. Hai giai đoạn này là các trường hợp
  • 40. 38 phạm tội đều bị dừng lại là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của chủ thể thực hiện hành vi, đồng thời "do nguyên nhân ngoài ý muốn" chính là căn cứ pháp lý chung cho cả hai trường hợp đã nêu, cũng như phân biệt chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không chỉ trên phương diện pháp lý, mà cả trên phương diện thực tiễn áp dụng. Tuy vậy, qua nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cho thấy, đúng như theo PGS.TS. Lê Thị Sơn (Trường Đại học Luật Hà Nội), thì sự thể hiện nội dung này mới chỉ được cụ thể hóa qua quy định về phạm tội chưa đạt mà chưa thể hiện trong quy định về chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự [57, tr. 46]. Do đó, các nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vấn đề này cho phù hợp. Ngoài ra, ở trường hợp thứ nhất (chuẩn bị phạm tội), người phạm tội chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự (có nghĩa là chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ), mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm nhanh chóng về sau. Trong khi đó, ở trường hợp thứ hai (phạm tội chưa đạt), chủ thể đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại hoặc đã bị trực tiếp xâm hại, nên mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này rõ ràng cao hơn so với trường hợp thứ nhất, đồng thời sẽ đặc biệt nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ "do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn" của người phạm tội ngăn cản. Cho nên, về hậu quả pháp lý, người thực hiện hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại không phải chịu trách nhiệm hình sự, riêng có hai trường hợp đặc biệt - khi một người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, đối với trường hợp phạm tội chưa đạt thì tất cả mọi trường hợp không phân biệt loại tội,
  • 41. 39 người thực hiện hành vi đó đều phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung và được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành. * Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Dưới góc độ khoa học, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan không có gì ngăn cản. Để một người được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải đáp ứng ba điều kiện sau đây: Một là, việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người phạm tội phải "tự nguyện" và "dứt khoát", tức là người đó phải từ bỏ thực sự ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội thuận lợi khác hoặc chuẩn bị kỹ lưỡng hơn công cụ, phương tiện phạm tội sẽ tiếp tục phạm tội; Hai là, việc chấm dứt hành vi phạm tội phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành. Vấn đề này cũng đã được Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự ghi nhận thành hướng dẫn áp dụng thống nhất. Bởi lẽ, ở những trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành thì người phạm tội đã thực hiện được đầy đủ những dấu hiệu khách quan và chủ quan của tội phạm và việc dừng lại không thực hiện tội phạm hoàn toàn không làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người đó thực hiện; Ba là, điều kiện khách quan bên ngoài hoàn toàn không có gì ngăn cản việc thực hiện, nếu người phạm tội muốn thực hiện tội phạm, họ đương nhiên có thể tiến hành được. Nói một cách khác, việc chấm dứt việc thực hiện tội phạm phải và do chính bản thân người đó tự quyết định, mặc dù vào thời điểm thực tế quyết định chấm dứt việc thực hiện tội phạm, người phạm tội
  • 42. 40 vẫn nhận thức được khả năng thực tế khách quan hoàn toàn vẫn cho phép tiếp tục thực hiện tội phạm. Còn phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị phạm tội, là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, đồng thời là trường hợp một người đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không thực hiện được hành vi đó đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó ngăn cản. Như vậy, nếu người phạm tội do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là xuất phát từ do ý muốn chủ quan của bản thân họ quyết định không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa nên hành vi này được coi là đã mất tính nguy hiểm cho xã hội. Trong khi đó, đối với hành vi phạm tội chưa đạt việc người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa lại là do nguyên nhân khách quan tác động (chứ không phải do chủ quan) mà không thực hiện được tội phạm đến cùng. Do đó, nếu người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung, thì người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội lại được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nếu hành vi phạm tội của họ không cấu thành tội phạm khác. Còn trường hợp nếu cấu thành tội phạm khác, thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung. Tuy nhiên, hiện nay do phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành như khoa học luật hình sự đã phân chia ở một mức độ nhất định hoàn toàn có thể khắc phục và ngăn chặn được hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra nên thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn cho người phạm tội được hưởng chế định nhân đạo này, mặc dù giữa tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và phạm tội chưa đạt là hoàn toàn khác nhau [77, tr. 43]. Vì vậy, ở đây nếu dựa trên ý nghĩa chính trị - xã hội và khả năng khắc phục hậu quả thì có thể áp dụng được, còn nếu dựa trên lý luận và căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội thì lại chưa phù hợp và chính xác khi áp dụng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong trường hợp đã nêu này.
  • 43. 41 1.2.2. Phân biệt phạm tội chƣa đạt với tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc * Phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành Tội phạm hoàn thành, về cơ bản được hiểu là trường hợp một người đã thực hiện hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Do đó, về phương diện khoa học, sự khác nhau cơ bản giữa tội phạm hoàn thành với tội phạm chưa hoàn thành (bao gồm cả chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) là ở mức độ thỏa mãn các dấu hiệu trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Cho nên, đối với trường hợp phạm tội chưa đạt (mà đặc biệt là trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) rất gần với tội phạm hoàn thành của một loại tội phạm tương ứng. Còn trường hợp tội phạm hoàn thành thì hậu quả của tội phạm đã xảy ra, còn trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì hậu quả của tội phạm chưa xảy ra hoặc nếu có xảy ra nhưng không thỏa mãn như cấu thành tội phạm mà điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự đã quy định [80, tr. 130]. Bên cạnh đó, trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, để phân biệt chính xác tội phạm chưa hoàn thành hay đã hoàn thành chỉ cần làm sáng tỏ hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự hay chưa. Cụ thể hóa điều này, nếu giai đoạn phạm tội chưa đạt được tính từ thời điểm người phạm tội đã bắt tay vào thực hiện tội phạm, có nghĩa họ bắt đầu thực hiện bất kỳ hành vi nào được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm hoặc thậm chí là các hành vi đi liền trước hành vi khách quan đó, thì trong khi đó, đối với giai đoạn tội phạm hoàn thành, thì người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm tương ứng của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Vì vậy, xem xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi trong trường hợp tội phạm hoàn thành rõ ràng có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn và do đó, có tính nghiêm trọng