SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Thủy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................... 9
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................. 9
1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo đức,
kinh tế và pháp luật .............................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam......... 12
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam ........... 16
1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 18
1.2.1. Yêu cầu đối xử công bằng giữa những người phạm tội..................... 19
1.2.2. Yêu cầu tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân người phạm tội................................................................... 20
1.3. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN NAY....................................................................... 22
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1985 ................................................................................... 22
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến nay ...................................................................................... 31
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC
CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI............................................... 33
2.1. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM..................... 33
2.1.1. Sự thể hiện nội dung trong nguyên tắc xử lý tội phạm...................... 33
2.1.2. Sự thể hiện nội dung trong việc phân loại, phân hóa tội phạm.......... 35
2.1.3. Sự thể hiện nội dung trong các quy định về hình phạt, quyết
định hình phạt..................................................................................... 43
2.1.4. Sự thể hiện nội dung trong quy định về các tội phạm cụ thể............. 52
2.2. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ................................. 59
2.2.1. Yêu cầu của pháp luật quốc tế về nguyên tắc công bằng trong
pháp luật hình sự ................................................................................ 60
2.2.2. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình
sự Liên bang Nga ............................................................................... 62
2.2.3. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình
sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa...................................................... 64
Chương 3: THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM............................................ 66
3.1. THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC
TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ........................ 66
3.1.1. Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk ....................... 66
3.1.2. Tình hình thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk................................................................... 67
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực thi nguyên tắc công
bằng và các nguyên nhân cơ bản........................................................ 71
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM....................................................................... 86
3.2.1. Sự cần thiết của việc ghi nhận nguyên tắc công bằng trong Bộ
luật hình sự Việt Nam ........................................................................ 86
3.2.2. Nội dung nguyên tắc công bằng trong Bộ luật hình sự Việt Nam.......... 88
3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH ....................................... 90
3.3.1. Nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ
cán bộ áp dụng pháp luật.................................................................... 91
3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
hình sự ................................................................................................ 91
3.3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 93
KẾT LUẬN.................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 98
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1. Hệ thống các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk 66
Bảng 3.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013) 68
Bảng 3.3. Khảo sát 287 bị cáo trong 150 vụ án hình sự sơ thẩm do
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử trong giai đoạn 05
năm (2009-2013) 69
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại
tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm
2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách
mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Nghiên cứu
Hiến pháp năm 2013 và hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước cho
thấy, cùng với nhân đạo, pháp chế, dân chủ thì công bằng “không chỉ là một
trong các giá trị xã hội liên quan chặt chẽ với pháp luật và các giá trị xã hội
khác, mà còn là định hướng cơ bản đối với hoạt động thực tiễn của các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền vì mục đích
cao quý chung - lợi ích của toàn thể xã hội và nhân dân” [2, tr.50]. Đối với tư
pháp, công bằng là nền tảng để tồn tại như một nhà luật học danh tiếng
(A.M.Jekovev, GS. TS. Võ Khánh Vinh dẫn) đã viết: “Thiếu sự cưỡng chế tư
pháp hình sự sẽ không có sức mạnh, thiếu sự giáo dục tư pháp sẽ vô nhân
đạo. Nhưng thiếu công bằng tư pháp nói chung sẽ không tồn tại” [42, tr.47].
Chính vì vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tư tưởng công bằng được thể hiện
xuyên suốt quy định của Bộ luật hình sự từ Phần chung cho đến Phần các tội
phạm, là cơ sở chủ yếu trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng của
các bản án hình sự.
Hiện nay, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý người
phạm tội, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ những
nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc công bằng nói riêng, bảo
đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mặc dù có ý nghĩa to lớn như
2
vậy nhưng nguyên tắc công bằng chưa được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu
trong khoa học luật hình sự mà chủ yếu được đặt trong các nghiên cứu chung
về hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật hình sự hoặc chỉ tập trung nghiên cứu
lồng ghép về các chế định thuộc Phần chung pháp luật hình sự. Do đó, việc
nghiên cứu có ý nghĩa lý luận, lập pháp và thực tiễn sau đây:
* Về phương diện lý luận, còn nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến
nguyên tắc công bằng chưa được làm rõ (khái niệm, nội dung, ý nghĩa, mối
quan hệ giữa nguyên tắc công bằng với các nguyên tắc khác trong luật hình
sự, chuẩn mực quốc tế và pháp luật các nước; v.v...).
* Về phương diện lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 mặc dù đã có những bước tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm
1985 và các văn bản pháp luật thời kỳ trước đó trong việc thể hiện tư tưởng
và nội dung của nguyên tắc công bằng nhưng cũng chưa chính thức ghi nhận
nguyên tắc này; cũng như sự thể hiện nội dung của nó vẫn chứa đựng một số
nội dung dễ dẫn đến không bảo đảm công bằng, bình đẳng... Chính vì vậy,
vấn đề hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và các giải pháp
bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng là một vấn đề cấp thiết trong công tác
xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự hiện nay.
* Về phương diện thực tiễn, vì những lý do chủ quan và khách quan
khác nhau nên nguyên tắc công bằng ít nhiều vẫn chưa được thực thi triệt
để ở nhiều khía cạnh, điều đó dẫn đến còn có hiện tượng oan, sai, bất công
làm phát sinh tâm lý tiêu cực trong xã hội, đánh mất niềm tin của nhân dân
vào pháp luật của nhà nước, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa
học những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên
tắc công bằng; sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự
3
Việt Nam hiện hành, cũng như yêu cầu quốc tế và pháp luật hình sự một số
nước; thực tiễn thực thi để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực thi nguyên tắc này không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan
trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng
cho việc học viên quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học với tên
gọi: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, nguyên tắc công bằng
còn ít được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu. Vấn đề chủ yếu được đề cập
đến bởi các nghiên cứu chung về hệ thống các nguyên tắc của luật hình sự.
Tham khảo tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy liên quan đến nguyên
tắc công bằng trong luật hình sự có những công trình tiêu biểu sau đây:
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở nước ngoài: 1)
Nhikifôrôv B.X, Về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự Liên Xô,
Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1960; 2) Melesko Iu. B, Về khái niệm và bản
chất của các nguyên tắc của luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
6/1973; 3) Kêlina X. G. và V. N. Kudriaxev, Những nguyên tắc của luật hình
sự Xô viết, Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1988 [4, tr.992]; 4) Ashworth, Các
nguyên tắc của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Oxford University
Press, 1995; 5) David Brown, David Farrier, Neal, Các nguyên tắc chung của
luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Federation Ress, Sydney,
Australia, 1996; 6) Michael Bogdan (chủ biên), Chương 2 - Các nguyên tắc
của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự Vương quốc Thụy Điển trong thiên
niên kỷ mới, Nxb. Elanders Gotab, Stockholm, Thụy Điển, 2000; v.v...
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở trong nước: 1)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam,
4
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ
ba - Đạo luật hình sự, mục III - Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt
Nam, trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 3) GS.TSKH.
Lê Cảm, Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học,
số 3/2000; 4) GS. TSKH. Đào Trí Úc, Chương V - Các nguyên tắc cơ bản của
luật hình sự Việt Nam, trong sách chuyên khảo: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1
- Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; 5) GS.TSKH.
Đào Trí Úc, Bản chất và vai trò của các nguyên tắc luật hình sự Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1999; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chính sách xử
lý tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/2005; Nguyễn
Tấn Hùng, Quan niệm của chủ nghĩa Mác về vấn đề bình đẳng và công bằng xã
hội, Tạp chí Thông tin Khoa học, số 5/1996; v.v...
* Dưới góc độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước: Luận án tiến
sĩ luật học của tác giả Võ Khánh Vinh với tên gọi: “Nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam” (Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 1993). Đến nay,
trên 20 năm, không có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học nào.
Nhìn chung, trong tất cả các tác phẩm nói trên, nguyên tắc công bằng
được nghiên cứu với tư cách là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật hình
sự và được đề cập với tư cách là một mục nhỏ trong Chương, mục về các
nguyên tắc cơ bản chứ không phải đối tượng nghiên cứu riêng của tác phẩm.
Đặc biệt, cuốn sách chuyên khảo: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
Việt Nam” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân dân năm 1994 đã
nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc này nhưng thời gian xuất bản đã trên 20
năm, cơ sở thực tiễn trong nghiên cứu còn là nội dung quy định Bộ luật hình
sự năm 1985 và có ba chương tiếp cận như sau: Chương 1: Khái niệm nguyên
tắc công bằng trong luật hình sự; Chương 2: Nguyên tắc công bằng và việc
5
quy định tội phạm và hình phạt; Chương 3: Nguyên tắc công bằng và việc
quyết định hình sự [42, tr.206].
Như vậy, đến nay chưa có công trình nào tiếp tục nghiên cứu chuyên
sâu và có hệ thống về những vấn đề lý luận cơ bản của nguyên tắc công bằng,
đồng thời đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong các quy định
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực thi để làm cơ sở cho
việc đề xuất giải pháp bảo đảm nguyên tắc này. Nói một cách khác, các vấn
đề lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc công bằng của luật hình sự đòi
hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu hơn, đặc
biệt là trong bối cảnh sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn thực thi của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phương diện lý luận, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ
bản như: khái niệm công bằng dưới các góc độ khác nhau (triết học, chính trị,
đạo đức, kinh tế, pháp luật), làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cũng như
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong
lịch sử luật hình sự Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, luận văn nghiên cứu sự thể hiện của nguyên
tắc này trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, so sánh với yêu cầu liên
quan của pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới
(Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa); đánh giá thực tiễn thực
thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thực tiễn
xét xử trên địa bàn tỉnh giai đoạn 05 năm (2009-2013), chỉ ra tồn tại, hạn chế
6
và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực thi nguyên tắc này trong
thực tiễn xét xử.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Tiếp cận khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo
đức, kinh tế và pháp luật, từ đó đưa ra khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích nội dung nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam;
- Hệ thống hóa sự hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến nay để rút ra nhận xét;
- Phân tích sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình
sự Liên bang Nga và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, để rút ra nhận xét;
- Đánh giá việc thực thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế
và các nguyên nhân cơ bản, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự
Việt Nam về nguyên tắc công bằng, cũng như các giải pháp khác bảo đảm
thực thi nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc công
bằng trong xây dựng, tổ chức Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm; cũng như thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử Nhà nước và pháp luật, lý luận về Nhà nước và
7
pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự; những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí
của một số nhà hình sự học ở Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để luận chứng về các vấn
đề khoa học của đề tài là: hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, điều tra xã hội
học, phân tích số liệu thực tiễn, từ đó tổng hợp các tri thức khoa học luật hình
sự và giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình
sự; khái quát quá trình phát triển của nguyên tắc công bằng trong lịch sử pháp
luật Việt Nam; phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng
trong quy định pháp luật hình sự nước ta hiện hành; đánh giá việc thực thi
nguyên tắc công bằng trong xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn
của tỉnh Đắk Lắk; từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những giải
pháp bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử.
5.2. Điểm mới về mặt khoa học
Ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu
chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999 đến nay. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một
vấn đề mang tính nguyên tắc đòi hỏi khi phải sửa đổi toàn diện Bộ luật hình
sự năm 1999 hiện hành, cũng như thực tiễn cải cách tư pháp đang đặt ra.
Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các
cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao
học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
8
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp
luật hình sự Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới.
Chương 3: Thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk và những kiến nghị.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Công bằng là một khái niệm đa chiều, tiếp cận dưới nhiều góc độ sẽ
cho ra những nội hàm khác nhau. Để có thể phân tích, đánh giá sự thể hiện
của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự, nhất định phải làm rõ khái
niệm này ở bình diện pháp lý và chỉ ra những biểu hiện, ý nghĩa của nó trong
pháp luật hình sự.
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo
đức, kinh tế và pháp luật
Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại
tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm
2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách
mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Công bằng là
một phạm trù, khái niệm đa chiều, tiếp cận và đứng trên lập trường khác nhau
về văn hóa hoặc xuất phát từ những phương diện, ở không gian và thời gian
khác nhau sẽ cho ra những quan niệm, đánh giá khác nhau về vấn đề này.
Dưới góc độ triết học, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Bản chất của công bằng là sự phù hợp giữa một loạt khía
cạnh thể hiện các phương diện khác nhau giữa cái mà cá nhân (hay
nhóm xã hội) làm và cái mà họ được hưởng từ xã hội. Cái mà cá
nhân làm cho xã hội có thể là điều tốt lành (lao động, cống hiến,
nghĩa vụ, công lao…), hoặc cũng có thể là điều xấu, có hại cho xã
10
hội (ví dụ: tội phạm). Còn cái mà cá nhân được hưởng từ xã hội có
thể là địa vị xã hội, quyền lợi, tiền công, phần thưởng, sự đánh giá,
ghi công của xã hội… và cũng có thể là sự trừng phạt bằng những
hình thức từ thấp đến cao [10, tr.61].
Theo đó, công bằng - một cách đơn giản nhất - được hiểu là sự phù hợp
giữa cái mà cá nhân làm cho xã hội với cái mà cá nhân nhận được từ xã hội.
Nếu làm những điều có ích cho xã hội thì được hưởng quyền lợi, ngược lại
làm những điều có hại cho xã hội thì bị trừng phạt ở những mức độ nặng nhẹ
tùy theo tính có hại của việc làm thấp hay cao.
Dưới góc độ xã hội, công bằng chủ yếu được nhìn nhận là sự ngang bằng
nhau giữa người và người về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo
nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Điều này
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến khi nói về nguyên tắc phân phối
dưới chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già
yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom” [14, tr.175]. Theo đó,
công bằng xã hội đi đôi với hợp lý. Công bằng thể hiện qua việc mức độ
hưởng thụ tương xứng với cống hiến; còn hợp lý ở chỗ có sự hỗ trợ để những
đối tượng không có khả năng cống hiến (chứ không phải có khả năng mà
không cống hiến) vẫn được hưởng thụ những nhu cầu thiết yếu.
Dưới góc độ đạo đức, theo Từ điển bách khoa Blackwell về đạo đức
kinh doanh:
Khái niệm công bằng (fairness) liên quan chặt chẽ với một số
khái niệm đạo đức khác như bình đẳng (equality), không thiên vị
(impartiality) và công lý (justice). Giống như các khái niệm kia, nó
tập trung vào cách mọi người được đối xử bởi những người khác
với yêu cầu đặc biệt rằng họ phải được đối xử như nhau trong
trường hợp giữa họ không có sự khác biệt đáng kể [49, p.272].
11
Như vậy, công bằng chính là yêu cầu về cách đối xử với con người và ở
góc độ này công bằng đòi hỏi rằng trong những điều kiện tương tự, mọi người
phải được đối xử như nhau.
Dưới góc độ kinh tế, “người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về
công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal
justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau
và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là đối xử khác
nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc
có các điều kiện sống khác nhau” [32]. Cũng giống như quan niệm ở phương
diện đạo đức, quan niệm này nhìn nhận công bằng có nghĩa là đối xử như
nhau giữa những người có đóng góp như nhau. Tuy nhiên, theo quan niệm thể
hiện ở đây, công bằng không mang nghĩa cào bằng mà còn có khía cạnh phân
hóa, tức là đối xử tương xứng với khả năng, mức độ đóng góp.
Dưới góc độ pháp luật, nhà triết học pháp luật người Mỹ John Rawls
cho rằng “công bằng là ý nghĩa cơ bản của khái niệm công lý” [48, p.164].
Hoặc cụ thể hơn, Ambrose Bierce cho rằng công bằng là sự phản ánh mối
quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân (nhóm xã hội) qua tính tương ứng giữa cái
mà nhà nước trả lại cho công dân so với cái mà anh ta (họ) làm cho nhà nước
[47, p.116]. Theo cách hiểu này, sự công bằng trong pháp luật thể hiện ở hai
khía cạnh: sự ghi nhận, quyền lợi Nhà nước trao cho chủ thể thực hiện tốt các
nghĩa vụ đối với Nhà nước; sự trừng phạt, lên án của Nhà nước dành cho chủ
thể vi phạm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Xử sự của Nhà nước đối với các chủ
thể thông qua quy định pháp luật dù theo hướng tích cực (ghi nhận) hay tiêu
cực (trừng phạt) cũng phải đảm bảo tương xứng với cách ứng xử tốt hay xấu
mà chủ thể đã thể hiện mới công bằng.
Như vậy, dưới những khía cạnh nghiên cứu khác nhau, công bằng có ý
nghĩa và tiêu chí đánh giá rất khác nhau. Tuy nhiên, có hai điểm chung phải
thừa nhận ở khái niệm công bằng trong mọi góc độ đánh giá là:
12
Một là, con người ở những điều kiện giống nhau phải được hưởng sự
đối xử như nhau từ phía Nhà nước, xã hội;
Hai là, việc đối xử của Nhà nước, xã hội đối với con người cụ thể phải
tương xứng với xử sự của họ.
Trên cơ sở tiếp cận đó, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu được
định nghĩa như sau: Công bằng là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong
xã hội được hưởng, trong đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi
người trong điều kiện tương tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng
với xử sự của bản thân họ.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Nguyên tắc theo nghĩa Từ điển là “Điều định ra, nhất định phải tuân
theo trong một loạt việc làm” [38, tr.637]. Nói một cách khác, nguyên tắc là
quy tắc cơ bản, tư tưởng chỉ đạo của một quá trình hay hoạt động nào đó. Ý
nghĩa này đều được các nhà khoa học pháp lý sử dụng khi xây dựng khái
niệm về nguyên tắc của luật hình sự.
GS.TSKH. Đào Trí Úc định nghĩa: “Nguyên tắc của luật hình sự là những
tư tưởng chỉ đạo và các định hướng đường lối cho toàn bộ quá trình quy định tội
phạm và hình phạt, áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn” [33, tr.7].
GS. TSKH. Lê Văn Cảm lại quan niệm: “Nguyên tắc cơ bản của luật hình
sự là tư tuởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật
hình sự, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự thông qua một hay nhiều quy phạm hoặc chế định của nó” [4, tr.200-201].
Chia sẻ với quan điểm này, PGS.TS. Kiều Đình Thụ cho rằng: “Các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là các tư tưởng chủ đạo, nền tảng của việc
xây dựng và thực hiện luật hình sự, phản ánh tính quy luật của cuộc đấu
tranh phòng chống và phòng ngừa tội phạm” [13, tr.16]; v.v...
Như vậy, trong khoa học luật hình sự cơ bản đều thống nhất quan điểm:
13
nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên suốt
quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Theo đó, có thể suy ra bằng
phương pháp logic rằng nguyên tắc công bằng trong luật hình sự là sự thể
hiện xuyên suốt của tư tưởng công bằng trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật hình sự.
Nội hàm của khái niệm công bằng dưới góc độ chung như đã nêu ở
trên, là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong xã hội được hưởng, trong
đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi người trong điều kiện tương
tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng với xử sự của bản thân họ.
Do đó, đặt trong mối tương quan với pháp luật hình sự - lĩnh vực điều chỉnh
mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh khi tội phạm được
thực hiện [3, tr.6], nguyên tắc công bằng thể hiện thông qua “đối xử” của Nhà
nước đối với người phạm tội như thế nào. Rõ ràng, việc đối xử của Nhà nước
đối với người phạm tội chỉ công bằng khi thể hiện đầy đủ các khía cạnh: Một
là, đối xử công bằng giữa những người phạm tội và hai là, đối xử với mỗi
người phạm tội tương xứng với hành vi phạm tội của họ. Những khía cạnh
này cũng được các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam thừa nhận khi đề cập
đến nội dung của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự.
Trong nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc công bằng của luật hình
sự, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: trong pháp luật hình sự, công bằng
được khai thác trên hai khía cạnh công bằng ngang nhau và công bằng phân
phối [42, tr.48]. Công bằng ngang nhau được hiểu là việc xây dựng những
quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự, tội phạm và hình phạt bảo đảm sự
bình đẳng của mọi người trước pháp luật, có nghĩa là Nhà nước sẽ quy định
đạo luật hình sự thống nhất và những người có hành vi xâm phạm các khách
thể mà luật hình sự bảo vệ đều phải chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm của
đạo luật này mà không có bất cứ sự thiên vị nào. Đối với công bằng phân
14
phối, sự công bằng thể hiện ở việc các chế định pháp lý hình sự (hình phạt,
các biện pháp tư pháp, các chế định pháp lý hình sự khác) được áp dụng đối
với người phạm tội cần bảo đảm sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội,
nhân thân người phạm tội, cũng như hậu quả do hành vi phạm tội gây ra…
Nhấn mạnh hơn, tác giả cho rằng hai khía cạnh trên của công bằng tồn tại mối
quan hệ gắn bó mật thiết: trong công bằng ngang nhau có công bằng phân
phối, ngược lại, trong công bằng phân phối có công bằng ngang nhau, và
chính mối quan hệ qua lại này đã đem lại một sự hiểu đầy đủ về công bằng
dưới khía cạnh pháp luật hình sự. Từ phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm
như sau: “Nguyên tắc công bằng là phạm trù pháp lý bao gồm những nguyên
lý (đòi hỏi) chung đối với việc quy định giới hạn của sự tác động pháp lý
hình sự; cơ sở của trách nhiệm hình sự; các quy định về tội phạm và hình
phạt; các quy định về quyết định hình phạt và một số chế định khác” [42,
tr.59]. Xem xét quan điểm này cho thấy, đây là công trình nghiên cứu
tương đối công phu và những đánh giá về nội dung của nguyên tắc công
bằng trong luật hình sự rất sâu sắc, song trong khái niệm nguyên tắc công
bằng vẫn còn một điểm là chưa thể hiện được rõ vai trò của một nguyên tắc
là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt nội dung quy định pháp luật cũng như hoạt
động áp dụng quy định đó.
Không “gọi tên” là nguyên tắc công bằng, GS.TSKH. Lê Văn Cảm
nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc này với với tên gọi là nguyên tắc
công minh. Trong nghiên cứu của mình, tác giả không xây dựng khái niệm
mà chỉ phân tích những nội dung của nguyên tắc công minh trong pháp luật
hình sự, bao gồm:
1) Hình phạt, các biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý
hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội cần đảm bảo sự
15
công minh, tức là phải phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng
của hậu quả tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm
tội, mức độ lỗi cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân
thân người phạm tội; 2) Trong Bộ luật hình sự có các quy định để
đảm bảo cho Tòa án có thể (hoặc phải) lựa chọn loại và mức hình
phạt phù hợp hơn cả đối với người phạm tội căn cứ vào các tình tiết
cụ thể của việc thực hiện tội phạm (ví dụ: danh mục các hình phạt
từ nặng đến nhẹ, các chế tài lực chọn, các chế tài xác định tương
đối, danh mục các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình
sự, v.v…; 3) Không người phạm tội nào có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự hai lần về cùng một tội phạm [4, tr.206-207].
Những nội dung của nguyên tắc công minh ở đây tập trung ở hai khía
cạnh: một là, nội dung quy định cũng như việc áp dụng các chế tài của luật
hình sự phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội; hai là, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự một lần về tội mình đã phạm. Do đó, có thể đánh giá rằng, hai khía
cạnh này đã được tác giả mô tả rất cụ thể, tuy nhiên tác giả mới tập trung đề
cập đến tính tương xứng giữa tội phạm với trách nhiệm hình sự nhưng yêu
cầu của nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi phải đề cập đến yêu cầu được đối
xử công bằng giữa những người phạm tội. Bởi lẽ, yêu cầu không ai phải chịu
trách nhiệm hai lần về một tội phạm cũng nhằm bảo đảm sự công bằng giữa
những người phạm tội nhưng chưa thật đầy đủ. Sự công bằng giữa những
người phạm tội còn đòi hỏi mọi tội phạm phải bị xử lý và mọi người phạm tội
bình đẳng trước pháp luật hình sự. Rõ ràng, sẽ không thể có công bằng nếu
hành vi phạm tội này bị xử lý và hành vi phạm tội khác được bỏ qua hay nội
dung quy định pháp luật hình sự cũng như việc áp dụng quy định đó dựa trên
cơ sở sự phân biệt đối xử.
16
Tóm lại, khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
dù diễn giải theo cách nào cũng phải phản ánh được đầy đủ những biểu hiện
về nội dung, ý nghĩa của nó. Về ý nghĩa, đã là nguyên tắc của luật hình sự
nghĩa là nó phải mang tính tư tưởng chỉ đạo, được quán triệt xuyên suốt, bao
trùm mọi quy định của luật hình sự. Về nội dung, nguyên tắc công bằng thể
hiện ở hai phương diện: công bằng giữa những người phạm tội và tương xứng
giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Trên cơ sở khái quát nội dung và ý nghĩa này, chúng tôi đưa ra khái
niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo định hướng cho toàn bộ quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nước ta, trong đó đòi hỏi nội dung
quy định của pháp luật hình sự, cũng như việc áp dụng các quy định đó phải
thể hiện được sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính tương
xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội.
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Là một nguyên tắc của luật hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam
nói riêng, nguyên tắc công bằng trước hết có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng việc
xây dựng, hoàn thiện và áp dụng quy định pháp luật hình sự bảo đảm sự phản
ánh ý chí của Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân. Mục tiêu cách mạng của
Việt Nam là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn
minh. Tính công bằng của nhà nước phải thể hiện trên mọi phương diện chính
trị, kinh tế, xã hội và chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua chính sách,
pháp luật về các lĩnh vực của đời sống, bao gồm trong đó lĩnh vực pháp luật
hình sự. Như vậy, nguyên tắc công bằng được đặt ra trong pháp luật hình sự
chính là một trong những khía cạnh bảo đảm mục tiêu công bằng xã hội là ý
chí của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Do đó, có các ý nghĩa chính
trên các bình diện sau đây:
17
* Nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc tiến bộ, văn
minh của nhân loại nói chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng
Nguyên tắc công bằng phù hợp và phản ánh tư tưởng pháp lý tiến bộ của
nhân loại đã được thừa nhận chung: pháp luật là nghệ thuật của sự thật và công
lý - “Jus est ars borny aequi” [4, tr.207]. Tư tưởng “pháp luật là nghệ thuật
của sự thật và công lý” này cũng đã được pháp luật quốc tế ghi nhận thông
quan các quyền con người cơ bản là quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền
được xét xử không bằng, quyền không bị buộc tội hay chịu trách nhiệm hai lần
về một tội phạm trong các đạo luật nhân quyền như Tuyên ngôn toàn thế giới
về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên
Hợp quốc năm 1966. Hay ngay cả Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng đã thừa
nhận những quyền cơ bản này ở các Điều 16 và 31. Do vậy, sự thể hiện của
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam không chỉ phản ánh tư
tưởng pháp lý tiến bộ mà còn đáp ứng yêu cầu của pháp luật quốc tế và bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cùng vị trí tối cao của Hiến pháp.
* Nguyên tắc công bằng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực
hiện hiệu quả các nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam
Ba nhiệm vụ chính của luật hình sự tương ứng với ba chức năng của
luật hình sự - chức năng bảo vệ, phòng ngừa (tội phạm) và giáo dục (giáo dục
người phạm tội và những người khác trong xã hội). Ba chức năng hay ba
nhiệm vụ này có mối liên hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong các nhiệm
vụ trên thì nhiệm vụ bảo vệ là nhiệm vụ quan trọng trước tiên. Bởi lẽ,
Là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống tư pháp
hình sự, luật hình sự được coi là công cụ phản xạ tự vệ của xã hội
chống lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà
nước, cho con người. Chính vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của luật hình
sự là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia nào, luật hình sự
cũng có nhiệm vụ ấy... [34, tr.90].
18
Do đó, các nhiệm vụ của luật hình sự “gắn liền với việc thực hiện chính
sách hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước và với thực
tiễn các quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội” [39, tr.50]. Bên cạnh
nhiệm vụ trừng trị tội phạm để bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích
của con người, của xã hội, luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người ý
thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mục đích đó chỉ
đạt được khi các biện pháp xử lý tội phạm được quy định và áp dụng chính
xác, công bằng, tương xứng với hành vi phạm tội. Biện pháp xử lý quá nhẹ
vừa không đủ để trừng trị người phạm tội một cách thích đáng, vừa làm giảm
ý nghĩa phòng ngừa của chế tài hình sự, bởi nó có thể làm phát sinh thái độ vô
trách nhiệm, coi thường pháp luật, nảy sinh ý định phạm tội. Biện pháp xử lý
quá nặng tạo ra tâm lý oán hận, thái độ chống đối xã hội ở người phạm tội.
Việc tội phạm bị bỏ lọt, xử nặng quá hay nhẹ quá đều làm mất niềm tin của
quần chúng nhân dân vào Nhà nước, pháp luật.
Tóm lại, nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định pháp luật
hình sự phải công bằng thì nhiệm vụ giáo dục ý thức pháp luật của ngành luật
này mới được bảo đảm thực hiện. Chính vì những ý nghĩa trên mà sự hiện diện
của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự nói chung, luật hình sự Việt Nam
nói riêng làm rõ tính ưu việt của chế độ pháp luật, củng cố niềm tin của nhân
dân vào công lý, chính quyền, góp phần tạo dựng nền tảng công bằng xã hội.
1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Như thể hiện trong khái niệm đã nêu trên, nguyên tắc công bằng đòi hỏi
nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định luật hình sự phải thể hiện
được hai yếu tố: sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính
tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với hành vi phạm tội và nhân
thân người phạm tội. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự.
19
1.2.1. Yêu cầu đối xử công bằng giữa những người phạm tội
Luật hình sự Việt Nam điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với
người phạm tội nên đối xử của Nhà nước với người phạm tội chính là nền
tảng của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. Nguyên tắc này chỉ đạt
được với điều kiện trước tiên là luật hình sự phải thể hiện thái độ đối xử công
bằng giữa những người phạm tội từ phía Nhà nước. Thái độ đối xử công bằng
đó thể hiện ở những nội dung sau:
* Tất cả các tội phạm phải bị xử lý
Bị trừng phạt là thuộc tính của tội phạm nhằm bảo đảm công bằng cho
xã hội, cho người bị hại vì người phạm tội đã gây thiệt hại cho nhưng đối
tượng này, cần trả giá bằng việc gánh chịu thiệt hại tương ứng. Đã là thuộc
tính thì có nghĩa mọi tội phạm đều như vậy, đều bị trừng phạt. Vì vậy, pháp
luật hình sự khi tội phạm hóa một hành vi bao giờ cũng đi kèm với việc quy
định biện pháp xử lý (hình phạt) đối với hành vi đó. Việc tội phạm này bị xử
lý, tội phạm khác được bỏ qua là bất công giữa những người phạm tội, trong
trường hợp tội phạm bị bỏ lọt cũng còn là bất công đối với xã hội, đối với
người bị hại. Vì lẽ đó, mọi tội phạm phải bị xử lý.
* Tất cả các người phạm tội được đối xử bình đẳng, ngang nhau
Nội dung này thể hiện ở việc quy định pháp luật hình sự không được
thể hiện sự phân biệt đối xử giữa những người phạm tội, việc áp dụng những
quy định này cũng thống nhất như nhau trong mọi trường hợp. Theo đó, hai
người phạm tội giống nhau với những tình tiết tương tự sẽ phải chịu biện
pháp xử lý tương đương nhau bất kể họ là ai.
Trong thực tế, pháp luật hình sự các nước trên thế giới thường có
những đối xử khoan hồng đặc biệt đối với một số đối tượng người phạm tội
như: người già, phụ nữ, phụ nữ mang thai, trẻ em. Điều này không phải sự bất
công, bất bình đẳng mà nhằm thể hiện khía cạnh nhân đạo trong chính sách
20
hình sự. Thậm chí, nó vẫn thể hiện nguyên tắc công bằng ở chỗ xét về nhân
thân những đối tượng này ít nguy hiểm hơn đối tượng phạm tội thông thường
nên biện pháp xử lý ít nghiêm khắc hơn là phù hợp.
* Không ai phải chịu trách nhiệm hai lần về một tội phạm
Phạm tội phải bị trừng phạt là lẽ công bằng, tuy nhiên bị trừng phạt
nhiều lần về việc thực hiện một tội phạm lại là bất công. Nếu ví việc bị
trừng phạt của người phạm tội giống như phải trả tiền cho một món hàng
đã lấy thì trừng phạt nhiều lần nghĩa là trả tiền nhiều lần cho cùng một món
hàng. Đó là sự phi lý rõ ràng không thể chấp nhận. Tương tự như vậy
nhưng ở cấp độ cụ thể hơn, một tình tiết của việc phạm tội cũng không
được sử dụng nhiều lần trong khi cân nhắc trách nhiệm hình sự đối với một
người phạm tội về một tội phạm. Điều đó cũng như được hưởng lợi hoặc
trả giá nhiều lần về cùng một món hàng.
Như vậy, nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự trước hết thể
hiện ở việc đối xử công bằng giữa những người phạm tội. Đối xử giữa những
người phạm tội chỉ được coi là công bằng khi: mọi tội phạm phải bị xử lý,
mọi người phạm tội được đối xử bình đẳng và không ai phải chịu trách nhiệm
hai lần về một tội phạm.
1.2.2. Yêu cầu tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân
thân người phạm tội
Đây chính là sự công bằng theo chiều dọc, hay công bằng phân phối
như đã phân tích trong các quan điểm về công bằng nói chung, công bằng
trong luật hình sự nói riêng ở phần trên.
Tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân [42, tr.48] người phạm tội
được xem xét về mặt tương quan giữa các hành vi phạm tội chứ không mang
21
tính “đền bù ngang giá” giữa thiệt hại tội phạm đã gây ra với biện pháp trừng
phạt. Sự công bằng kiểu trả thù ngang bằng thường hay được thể hiện trong
những nền pháp luật cổ xưa. Ví dụ như Bộ luật Hamurapi của người Babilon
cổ đại quy định trường hợp làm gãy xương của người khác thì sẽ bị trừng phạt
bằng cách làm gãy xương, làm chết con của người khác thì con của người
phạm tội cũng bị xử chết [11, tr.43]. Vì vậy, Bộ luật này được gọi là “Lex
talionis” [15, tr.192] trong tiếng Latin, dịch ra tiếng Anh là “Law of talion” -
Luật của sự trả thù. Kiểu công bằng cổ đại đó được phản ánh trong câu thành
ngữ phương Tây là “an eye for an eye” (một mắt cho một mắt), hoặc tương tự
ở phương Đông là “nợ máu trả bằng máu”. Sự trừng phạt mang tính trả thù
được coi công bằng đó thực chất lại là bất công bởi vì cùng một giá trị nhân
thân hay tài sản đối với mỗi cá nhân lại có tầm quan trọng khác nhau. Ví dụ
bẻ gẫy chân một vũ công khác với bẻ gẫy chân một người bình thường khác.
Sự trả thù ngang bằng đó đôi khi còn khiến những người không phạm tội
cũng phải chịu trách nhiệm.
Bởi vậy, như đã nói, tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình
sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người
phạm tội phải được xem xét trong mối tương quan giữa các hành vi phạm tội.
Theo đó, loại tội phạm nguy hiểm hơn phải bị trừng phạt nặng hơn và ngược
lại, loại tội phạm ít nguy hiểm hơn được hưởng hình phạt nhẹ hơn. Trong
trường hợp phạm cùng một tội, hành vi phạm tội và người phạm tội thể hiện
tính nguy hiểm cao đối với xã hội phải chịu biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn
hành vi phạm tội và người phạm tội thể hiện tính nguy hiểm thấp và ngược
lại. Chính vì thế, để bảo đảm được tính tương xứng này, đòi hỏi:
- Về phương diện lập pháp, luật hình sự cần phải có sự phân loại, phân
hóa tội phạm; có hệ thống chế tài đa dạng về loại và mức; có quy định cụ thể
về hình phạt tương ứng với tội phạm cụ thể và khung, mức hình phạt tương
ứng với những mức độ thể hiện khác nhau của cùng tội phạm; có cơ chế
22
(nguyên tắc, căn cứ) để bảo đảm việc lựa chọn chế tài áp dụng đối với tội
phạm là tương xứng, đúng quy định pháp luật;
- Về phương diện áp dụng, luật hình sự cần được áp dụng thống nhất,
chính xác và khách quan, vô tư trên cơ sở xem xét toàn diện mọi tình tiết liên
quan đến việc thực hiện tội phạm và bản thân người phạm tội. Việc bỏ sót bất
kể tình tiết nào của việc thực hiện tội phạm hay nhân thân người phạm tội có
thể làm thay đổi tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm dẫn đến biện pháp
xử lý được áp dụng không còn tương xứng. Cho nên, nếu việc áp dụng pháp
luật dưới tác động của những thiên kiến, thiếu khách quan, vô tư cũng dẫn đến
biện pháp xử lý không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm khiến nguyên tắc công bằng không được thực thi cũng là điều dễ hiểu.
1.3. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY
Được xác định là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình xây dựng và áp
dụng pháp luật hình sự nhưng nguyên tắc công bằng (cũng như các nguyên
tắc cơ bản khác của luật hình sự) chưa bao giờ được ghi nhận chính thức về
mặt pháp lý trong pháp luật thực định của nước ta. Nguyên tắc công bằng chỉ
được thể hiện thông qua nguyên tắc xử lý tội phạm, các quy định thể hiện
chính sách phân hóa tội phạm, quy định cụ thể về tội phạm và hình phạt tương
ứng. Tuy nhiên mức độ thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật
hình sự nước ta không cố định mà có sự phát triển từ đơn giản đến sâu sắc
qua những giai đoạn lịch sử khác nhau.
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
Từ sau khi giành được chính quyền cách mạng năm 1945 đến trước
23
năm 1985, luật hình sự Việt Nam chưa được pháp điển hóa nên các quy định
của luật hình sự nằm ở rất nhiều các văn bản khác nhau. Do đó, tư tưởng
nguyên tắc công bằng được thể hiện ở những mức độ khác nhau qua các
nguyên tắc xử lý, chính sách phân hóa tội phạm trong các văn bản quy định
về tội phạm cụ thể, thậm chí, tồn tại dưới dạng các tổng kết thực tiễn, hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong ngành Tòa án.
* Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong nguyên tắc
xử lý tội phạm
Nguyên tắc xử lý tội phạm lần đầu tiên được đặt ra trong pháp luật
nước ta ở Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều 2 Pháp
lệnh quy định:
Nguyên tắc trừng trị bọn phản cách mạng là: nghiêm trị bọn
chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn ngoan cố chống lại cách
mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm
đường và những kẻ thật thà hối cải; giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn
hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội [27, tr.193].
Chính sách nghiêm trị người phạm tội có vai trò chủ mưu, cầm đầu
hoặc có hành vi thủ ác, ngoan cố; khoan hồng đối với người biết ăn năn hối
cải, lập công chuộc tội áp dụng đối với các tội phản cách mạng lần đầu tiên
thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa tội phạm để có biện pháp xử lý thích đáng,
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, bảo đảm
tính công bằng.
Tiếp theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 12/10/1970 đã phát triển các
nguyên tắc xử lý tội phạm, bổ sung nguyên tắc mọi tội phạm phải bị xử lý
24
nghiêm minh. Phần nguyên tắc chung trong cả hai Pháp lệnh đều khẳng định:
“Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa/tài sản riêng của công
dân phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh” [27, tr.203].
Bên cạnh đó, nguyên tắc phân hóa tội phạm để xử lý công bằng như
vẫn được hai Pháp lệnh tiếp tục khẳng định và bổ sung nhiều yếu tố để phân
hóa tội phạm mới. Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa nêu:
Nguyên tắc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa là nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn
phạm tội có tổ chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội, bọn gây thiệt hại nặng; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt
cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự
nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra [27, tr.203].
Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tương tự ở Điều 2 Pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Những nguyên tắc xử lý các loại tội phạm cụ thể trong các Pháp lệnh
trên đã được kế thừa, phát triển thành nguyên tắc xử lý tội phạm nói chung
của Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999 sau này.
* Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong sự phân hóa
về đối tượng người phạm tội và mức độ thực hiện tội phạm
Tuy chưa có quy định mang tính khái quát nhưng các văn bản pháp luật
trong giai đoạn này cũng đã đề cập đến vấn đề phân hóa đối tượng người
phạm tội và phân hóa mức độ thực hiện hành vi phạm tội để có biện pháp xử
lý công bằng, nghiêm minh. Vấn đề phân hóa đối tượng người phạm tội được
đặt ra giữa những người đồng phạm hoặc giữa người phạm tội thành niên với
chưa thành niên. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985, pháp luật
nước ta chưa có quy định riêng để định nghĩa và phân hóa giữa những người
25
đồng phạm mà việc phân hóa đối tượng này chỉ được đề cập đến trong nguyên
tắc xử lý tội phạm như đã nêu trên. Theo đó, những người chủ mưu, cầm đầu,
tổ chức bị trừng trị nặng hơn so với những người tham gia, tham gia do bị lừa
dối, ép buộc…
Sự phân hóa đối tượng phạm tội giữa người thành niên và chưa thành
niên để có chính sách khoan hồng nhằm bảo đảm công bằng cho người chưa
thành niên phạm tội được đặt ra lần đầu trong Báo cáo tổng kết công tác 4
năm (1965-1968) của Tòa án nhân dân tối cao khi hướng dẫn đường lối xử lý
người chưa thành niên phạm tội đã xác định:
- Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách
nhiệm về mặt hình sự. Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì
chỉ nên truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm
trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm... Riêng về hiếp dâm nói
chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong
trường hợp nghiêm trọng.
- Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18, nếu hành vi phạm pháp có
tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng so
với người lớn cần xử nhẹ hơn.
Những điểm trên đây chỉ là hướng dẫn đại cương, còn cần
được thực tiễn kiểm nghiệm và bổ sung thêm. Có trường hợp phạm
tội giết người, cướp của, can phạm trên 13 tuổi, dưới 14 tuổi giữa ba
ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án chưa nhất trí với nhau về vấn đề có
nên truy tố hay không ? Có trường hợp vị thành niên trên 16 tuổi tụ
tập với một số khác gây ra nhiều vụ trộm cắp nghiêm trọng, nhưng
chỉ xử án treo vì chiếu cố quá đáng tới tuổi còn non trẻ của bị cáo,
sau đó bị cáo lại phạm tội giết người. Ngược lại, có trường hợp chưa
chú ý đúng mức tới trình độ nhận thức của bị cáo còn thiếu chín
chắn, thiếu vững vàng nên đã xử phạt quá nặng... [27, tr.14].
26
Sau đó, tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án về
người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày
16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao đã nhấn mạnh:
Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một
trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa
thành niên hơn người lớn tuổi phạm tội trong những điều kiện tương
tự. Đó là một nguyên tắc cần được quán triệt. Việc xử phạt nhiều, ít
là tùy thuộc ở trình độ nhận thức và trạng thái tâm sinh lý của người
chưa thành niên đến mức độ nào được thể hiện nói chung qua lứa
tuổi cao thấp khác nhau, ở hoàn cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy
hiểm nhiều hay ít của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm
tội cũng như ở yêu cầu của tình hình chung [27, tr.34]; v.v...
Bên cạnh phân hóa đối tượng người phạm tội, việc phân hóa về mức độ
thực hiện tội phạm để xử lý cũng thể hiện nguyên tắc công bằng của pháp luật
hình sự. Yêu cầu việc xử lý tội phạm chưa hoàn thành phải khác tội phạm
hoàn thành sớm được đề cập trong các hướng dẫn xét xử của ngành Tòa án.
Trong Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 1965 nêu:
Trong các trường hợp “giết người chưa đạt” khi lượng hình,
không nên chỉ nặng nhìn vào hậu quả chết người không xảy ra mà
xử quá nhẹ, mà phải nhìn toàn diện vào thủ đoạn, vào động cơ
phạm pháp, vào thái độ quyết tâm nhiều hay ít; v.v... kết hợp với
các tình tiết khác như: tình hình thương tật đã gây ra, nhân thân của
bị cáo, tình hình cụ thể của địa phương... mà cân nhắc mức án cho
thích đáng [27, tr.19].
Nội dung của Báo cáo cho thấy trong thực tiễn xét xử ở giai đoạn này
các Tòa án đã xử nhẹ trường hợp giết người chưa đạt so với giết người hoàn
thành. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các
27
Tòa án không nên xử quá nhẹ mà phải xem xét toàn diện các yếu tố khách
quan, chủ quan để “cân nhắc mức án cho thích đáng”.
Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao
về thực tiễn xét xử loại tội giết người tiếp tục thể hiện sự phân hóa sâu sắc, cụ
thể hơn về chính sách xử lý tội phạm với các mức độ thực hiện khác nhau:
Về hậu quả, giết người đã thành thường bị xử phạt nặng hơn
giết người chưa đạt vì hậu quả nghiêm trọng hơn. Cũng vì lẽ đó,
trong những trường hợp giết người chưa đạt, những trường hợp đã
gây thương tích nặng thường bị xử phạt nặng hơn những trường
hợp chỉ gây thương tích nhẹ. Những trường hợp đã gây thương
tích nhẹ thường bị xử phạt nặng hơn những trường hợp chưa gây
thương tích [27, tr.18].
Theo hướng dẫn này, giết người chưa đạt phải được xử phạt nhẹ hơn
giết người đã hoàn thành. Giữa các trường hợp giết người chưa đạt cũng phải
phân hóa để xử phạt theo hậu quả gây ra: đã gây hậu quả phải xử phạt nặng
hơn chưa gây hậu quả, gây hậu quả nặng phải xử phạt nặng hơn gây hậu quả
nhẹ. Chính sách phân hóa sâu sắc này tuy thể hiện trong hướng dẫn riêng đối
với tội giết người nhưng cũng có thể áp dụng đối với các tội phạm khác để
đưa ra được mức hình phạt công bằng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm.
Ngoài ra, phân hóa độ tuổi đối với người chưa thành niên phạm tội giết
người, Bản tổng kết còn nêu rõ: “Vì tội giết người là một tội hết sức nguy
hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính
chất, cho nên, nói chung, cần truy tố xét xử các trường hợp giết người mà can
phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của các can phạm đó
còn non nớt, cho nên cần xử nhẹ hơn so với người đã lớn... Mức hình phạt đối
với các can phạm này nói chung chỉ nên từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối
28
với các can phạm đã có từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít
cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại
can phạm này, nói chung, không nên áp dụng hình phạt tử hình” [27, tr.19].
Theo hướng dẫn này, tội giết người chưa đạt phạt được xử phạt nhẹ hơn tội
giết người đã hoàn thành. Giữa các trường hợp giết người chưa đạt cũng phải
phân hóa để xử phạt theo hậu quả gây ra: đã gây hậu quả phải xử phạt nặng
hơn chưa gây hậu quả, gây hậu quả nặng phải xử phạt nặng hơn gây hậu quả
nhẹ. Chính sách phân hóa sâu sắc này tuy thể hiện trong hướng dẫn riêng đối
với tội giết người nhưng cũng có thể áp dụng đối với các tội phạm khác để
đưa ra được mức hình phạt công bằng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm.
* Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong quy định về
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - căn cứ để xác
định mức độ trách nhiệm hình sự nặng, nhẹ tương xứng với hành vi phạm tội
- lần đầu tiên được đề cập một cách chính thức ở Pháp lệnh trừng trị các tội
phản cách mạng ngày 30/10/1967. Điều 19 của Pháp lệnh quy định về tám
trường hợp phạm tội phản cách mạng cần xử phạt nặng như sau:
1. Làm thiệt hại trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, đến sự nghiệp quốc phòng;
2. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, có thiên
tai hoặc có những khó khăn khác để thực hiện tội phản cách mạng;
3. Hoạt động phản cách mạng có tổ chức;
4. Lợi dụng chức quyền để hoạt động phản cách mạng;
5. Dùng thủ đoạn cực kỳ gian ác, phương pháp đặc biệt nguy
hiểm để tiến hành tội phản cách mạng;
6. Hành động phạm tội đã gây hậu quả nghiêm trọng;
29
7. Kẻ phạm tội trước đây đã có án phản cách mạng hoặc có
tội ác đối với nhân dân;
8. Kẻ phạm tội là những phần tử ngoan cố không chịu cải
tạo [27, tr.197].
Tiếp ngay sau các trường hợp phải xử nặng, Điều 20 của Pháp lệnh quy
định sáu trường hợp phạm tội phản cách mạng được giảm nhẹ hoặc miễn hình
phạt, bao gồm:
1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện
tội phạm;
2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ
những âm mưu và hành động của mình và của đồng bọn;
3. Cố ý không thi hành đầy đủ hoặc khuyên bảo đồng bọn
không thi hành đầy đủ âm mưu của bọn cầm đầu phản cách mạng;
4. Có những hành động làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
5. Phạm tội vì bị ép buộc, bị lừa phỉnh và chưa gây thiệt hại lớn;
6. Bị bắt, nhưng trước khi bị xét xử đã tỏ ra thành thật hối
cải, lập công chuộc tội [27, tr.20].
Tuy đây là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình sự được quy định
riêng đối với các tội phản cách mạng nhưng có tính điển hình, có thể áp dụng
tương tự để phân hóa trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm các loại
tội khác và hầu hết những tình tiết này đã được kế thừa, khái quát hóa để trở
thành những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chung trong luật hình sự hiện nay.
Sau Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, hai Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân năm
1970 một lần nữa hệ thống hóa các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự. Các trường hợp cần xử nặng mà hai Pháp lệnh quy định bao gồm:
30
1. Gây thiệt hại trực tiếp đến sản xuất, đời sống của nhân dân
hoặc đến an ninh, quốc phòng;
2. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, có thiên
tai hoặc có những khó khăn khác để phạm tội;
3. Giả tạo hoặc cố ý làm sai lệch những số liệu, những kết
quả thực hiện kế hoạch kinh tế hay là kế hoạch công tác để che giấu
tội phạm;
4. Cầm đầu việc phạm tội hoặc tích cực thực hiện tội phạm;
5. Tái phạm hoặc kẻ phạm tội là phần tử xấu [27, tr.21].
Bên cạnh đó, là các trường hợp được xử nhẹ hoặc miễn hình phạt:
1. Tội phạm chưa bị phát giác mà kẻ phạm tội thành thật thú
tội với cơ quan chuyên trách, khai rõ hành động của mình và của
đồng bọn;
2. Kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm
giảm bớt tác hại của tội phạm;
3. Trước khi bị xét xử, kẻ phạm tội tự nguyện bồi thường
hoặc sửa chữa thiệt hại đã gây ra;
4. Phạm tội gây thiệt hại không lớn [27, tr.22].
Tuy các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy
định trong các văn bản trên là áp dụng riêng đối với các tội phạm thuộc đối
tượng điều chỉnh của các văn bản ấy nhưng đã thể hiện quan điểm xem xét
toàn diện hành vi phạm tội; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm trên cơ sở
cân đối, tổng hợp mọi biểu hiện khách quan, chủ quan của nó. Quan điểm
đánh giá đó là cơ sở để tạo ra những bản án công bằng, nghiêm minh.
* Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong quy định về
tội phạm cụ thể
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985, các tội phạm được
31
quy định ở nhiều văn bản riêng lẻ khác nhau nên khó có thể đánh giá nguyên
tắc công bằng thể hiện xuyên suốt những quy định này. Tuy nhiên, qua một số
ví dụ cụ thể phần nào có thể khẳng định sự tồn tại của nguyên tắc công bằng ở
đây. Chẳng hạn như so sánh tương quan giữa các loại tội phạm có thể thấy
rằng hình phạt áp dụng đối với các tội phản cách mạng nghiêm khắc hơn các
tội xâm phạm sở hữu, hình phạt đối với tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
hà khắc hơn tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Đơn cử như khung hình
phạt cơ bản đối với tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là 05 đến 15 năm tù thì
khung hình phạt tương ứng của tội cướp tài sản riêng của công dân chỉ là 02
đến 12 năm tù. Khung hình phạt được quy định đối với các tội phạm trong
Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng phần lớn lên đến mức tù chung
thân và tử hình còn khung hình phạt đối với các tội phạm trong hai Pháp lệnh
về các tội xâm phạm tài sản chủ yếu ở mức tù có thời hạn… Những quy định
này thể hiện sự công bằng ở chỗ khách thể xâm hại quan trọng hơn thì hình
phạt gánh chịu phải nghiêm khắc hơn.
Ngoài ra, quy định về hình phạt đối với các tội phạm cụ thể ở giai đoạn
này tuy còn kém đa dạng về loại hình nhưng bao giờ cũng quy định bằng một
khung có giới hạn tối thiểu, tối đa chứ không chỉ một mức duy nhất. Phải quy
định như vậy mới có thể trao cho Tòa án cơ hội quyền lựa chọn linh hoạt mức
hình phạt sao cho tương xứng với hành vi phạm tội cụ thể, bảo đảm xét xử
đúng pháp luật và công bằng.
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến nay
Kể từ khi được pháp điển hóa lần đầu tiên luật hình sự năm 1985, Bộ
luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trở thành văn
bản duy nhất quy định thống nhất về tội phạm và hình phạt. Trải qua nhiều
lần sửa đổi, luật hình sự nước ta được pháp điển hóa lần thứ hai vào năm
32
1999. Trong quá trình áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 và hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành. Tuy đã được pháp điển hóa,
cập nhật, bổ sung nhiều lần và đã thể hiện tư tưởng công bằng trong các quy
định về tội phạm và hình phạt nhưng trong hai Bộ luật hình sự của nước ta,
nguyên tắc công bằng vẫn chưa được chính thức ghi nhận về mặt lập pháp mà
chỉ là một tư tưởng thể hiện xuyên suốt những quy định của Bộ luật.
Như ở giai đoạn trước pháp điển hóa, nguyên tắc công bằng thể hiện
trong hai Bộ luật hình sự qua các khía cạnh như: nguyên tắc xử lý tội phạm,
phân hóa tội phạm và trách nhiệm hình sự, quy định về hình phạt, quyết định
hình phạt và các tội phạm cụ thể... Tuy nhiên, sự thể hiện của nguyên tắc công
bằng trong pháp luật hình sự ở giai đoạn này có tính khái quát cao hơn và
mức độ thể hiện ngày càng sâu sắc hơn. Nội dung thể hiện cụ thể của nguyên
tắc công bằng trong hai đạo luật này sẽ được phân tích, so sánh ở phần sau
của luận văn liên quan đến vấn đề thực trạng pháp luật và việc thực thi
nguyên tắc công bằng.
33
Chương 2
SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Như đã nêu trên, mặc dù trải qua hai lần pháp điển hóa trở thành văn
bản duy nhất quy định thống nhất về tội phạm và hình phạt và nhiều lần được
sửa đổi, bổ sung nhưng Bộ luật hình sự Việt Nam đến nay vẫn chưa ghi nhận
chính thức nguyên tắc công bằng. Nguyên tắc vẫn này tồn tại dưới dạng tư
tưởng được thể hiện thông qua các chế định, quy định cụ thể ở Phần chung
cũng như Phần các tội phạm của Bộ luật như được phân tích dưới đây.
2.1.1. Sự thể hiện nội dung trong nguyên tắc xử lý tội phạm
Ở cả Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009, nguyên tắc xử lý đều được quy định ở Điều 3. Đây là các
nguyên tắc xử lý chung áp dụng đối với mọi loại tội phạm chứ không phải
nguyên tắc xử lý xác định cho loại tội phạm cụ thể như ở giai đoạn trước. Bản
thân sự thống nhất về chính sách xử lý đó đã thể hiện tính công bằng của pháp
luật hình sự. Nguyên tắc xử lý không chỉ phản ánh phương châm cơ bản trong
đường lối xử lý - “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với
giáo dục, thuyết phục”, mà còn “bảo đảm tính kịp thời khi phát hiện, xử lý tội
phạm, phản ánh việc giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự và hình phạt
của người phạm tội” [41, tr.23-24]. Khái quát hơn, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
cho rằng, có bốn yêu cầu của chính sách xử lý tội phạm trong luật hình sự
Việt Nam phải tuân thủ bao gồm:
34
- Xử lý tội phạm phải tuân thủ pháp chế (đúng luật);
- Xử lý tội phạm phải bảo đảm sự bình đẳng (không phân
biệt người phạm tội là ai);
- Xử lý tội phạm phải có sự phân hóa (nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng);
- Xử lý tội phạm phải thể hiện tính giáo dục và tính nhân
đạo [8, tr.30].
Do đó, sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong nguyên tắc xử
lý như sau:
- Xử lý công bằng mọi hành vi tội phạm thể hiện qua việc xác định:
“Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng pháp luật” (khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ
luật hình sự năm 1999). Theo quy định này, mọi tội phạm đều phải bị xử lý,
không có ngoại lệ và bị xử lý một cách công bằng, nghiêm minh, trên cơ sở
quy định pháp luật. Bị trừng trị là thuộc tính vốn có của tội phạm nên việc bỏ
lọt hay dung túng, bao che, không xử lý một tội phạm nào đó là đã tạo ra
ngoại lệ bất công. Không chỉ bất công giữa người phạm tội bị xử lý với người
phạm tội không bị xử lý mà còn bất công đối với xã hội, đối với người bị hại.
Không chỉ xử lý mọi tội phạm mà việc xử lý tất cả những tội phạm phải tiến
hành trên cơ sở những quy tắc chung thống nhất (quy định pháp luật) mới bảo
đảm công bằng.
- Bảo đảm sự bình đẳng trước luật hình sự của mọi người phạm tội. Đây
là một điểm tiến bộ, mới được ghi nhận ở khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm
1999 mà chưa có ở Bộ luật hình sự năm 1985: “Mọi người phạm tội đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần, địa vị xã hội” [15]. Nguyên tắc này yêu cầu trong nội dung quy định
pháp luật cũng như việc áp dụng quy định pháp luật đó đều không được phép
35
chứa đựng sự phân biệt đối xử với người phạm tội bất kể giới tính, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người đó. Khi khẳng định nguyên tắc này,
chính là “chống lại những biểu hiện phân biệt đối xử giữa người phạm tội có địa
vị xã hội khác nhau “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ” [16, tr.15].
- Bảo đảm tính tương xứng giữa tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội với biện pháp (chế tài) xử lý. Những hành vi phạm tội có tính
nguy hiểm cao phải bị trừng trị nghiêm khắc, ngược lại khi có những tình tiết
làm giảm bớt tính nguy hiểm của tội phạm thì biện pháp xử lý áp dụng phải
thể hiện sự khoan hồng. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nghiêm trị những
người phạm tội mà chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu
manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội,
dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây
hậu quả nghiêm trọng; khoan hồng, giảm nhẹ đối với người tự thú, thành
khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải,
tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng (khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999). Quy định phân hóa
người phạm tội để có biện pháp xử lý phù hợp và thích đáng này được kế thừa
từ Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng ở Bộ luật hình sự năm 1999 có sự chính
xác hơn về thuật ngữ mô tả và bổ sung hai trường hợp phạm tội cần nghiêm
trị là dùng thủ đoạn xảo quyệt và có tính chất chuyên nghiệp. Như vậy, mặc
dù không được gọi tên là nguyên tắc của luật hình sự nhưng các nguyên tắc
xử lý tội phạm ở đây đã thể hiện những nội dung cơ bản của nguyên tắc công
bằng trong luật hình sự.
2.1.2. Sự thể hiện nội dung trong việc phân loại, phân hóa tội phạm
Việc phân loại, phân hóa tội phạm đơn thuần không thể hiện nguyên tắc
công bằng mà chỉ khi nó được sử dụng làm cơ sở cho việc áp dụng chính sách
xử lý tương ứng với từng loại tội phạm thì mới có được ý nghĩa đó.
36
Phân loại tội phạm trong luật hình sự nước ta được tiến hành trên cơ sở
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tuy
nhiên ở Bộ luật hình sự năm 1999, cơ sở phân loại này được nêu rõ còn Bộ
luật hình sự năm 1985 thì không. Cùng sử dụng tiêu chí nhưng Bộ luật hình
sự năm 1985 chỉ phân chia tội phạm thành hai loại, Bộ luật hình sự năm 1999
lại chia tội phạm thành bốn loại.
Hai loại tội phạm được phân chia tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự
năm 1985 là: tội phạm nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù,
tù chung thân hoặc tử hình) và tội phạm ít nghiêm trọng (những tội phạm
khác). Đây là lần đầu tiên về mặt lập pháp các nhà làm luật nước ta quy định
về việc phân loại tội phạm, phản ánh đường lối đấu tranh phòng, chống tội
phạm có phân hóa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Theo thời gian
và sự phát triển của trình độ lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999 phân hóa sâu
sắc hơn qua việc phân chia bốn loại tội phạm với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội được xác định từ thấp đến cao là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Tương ứng với các loại tội phạm, chế tài cũng tăng nặng dần, phản ánh
tính nghiêm khắc của chính sách xử lý. Theo đó, mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm
trọng là đến bảy năm tù, tội phạm rất nghiêm trọng là đến mười lăm năm tù
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là trên mười lăm năm tù, chung thân hoặc
tử hình (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999). Như vậy, mặc dù phân
loại sâu sắc hay đơn giản nhưng cả hai Bộ luật hình sự của nước ta đều quy
định cụ thể hậu quả pháp lý ở các mức tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của từng loại tội phạm. Đồng thời, phân loại tội phạm còn là một trong
những yếu tố căn cứ của việc xác định loại hình phạt áp dụng trong các quy
37
định về hình phạt của luật hình sự. Ví dụ như Bộ luật hình sự năm 1985 quy
định những hình phạt ít nghiêm khắc như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
chỉ được áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng (Điều 22, 24). Bộ luật hình
sự năm 1999 quy định cả hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt
tiền đều chỉ được áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; các hình phạt đặc
biệt hà khắc như tù chung thân, tử hình chỉ áp dụng đối với tội phạm nghiêm
trọng. Rõ ràng, xác định mức hình phạt, loại hình phạt tương ứng với loại tội
phạm như vậy chính là một khía cạnh phản án chính sách xử lý công bằng.
Bên cạnh đó, phân loại tội phạm trong hai Bộ luật hình sự còn được sử
dụng làm căn cứ để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự một cách
công bằng bởi vì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định dài
hay ngắn tùy theo tính nguy hiểm cao hay thấp của loại tội phạm đó. Điều 45
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ba mức thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự: 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà bị quy định hình
phạt từ 02 năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn; 10 năm đối với các
loại tội phạm ít nghiêm trọng bị quy định hình phạt tù trên 02 năm; 15 năm
đối với các loại tội phạm nghiêm trọng, thời hiệu. Điều 23 Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định bốn mức thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tương
ứng với bốn loại tội phạm: 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; 10
năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; 15 đối với các tội phạm rất nghiêm
trọng; 20 đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Song song với việc phân loại tội phạm, việc phân hóa tội phạm trên cơ sở
các yếu tố như: hình thức lỗi, mức độ thực hiện tội phạm, vai trò trong việc thực
hiện tội phạm, đối tượng người phạm tội cũng được các Bộ luật hình sự nước ta
sử dụng làm cơ sở xác định đường lối xử lý tội phạm một cách thích đáng.
- Về hình thức lỗi, Điều 9, Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ
luật hình sự 1999 đều xác định tội phạm được thực hiện với một trong hai
38
dạng lỗi, cố ý hoặc vô ý. Trong mỗi dạng lỗi lại gồm những hình thức thể hiện
khác nhau mà Bộ luật hình sự chỉ mô tả, không nêu tên gọi song khoa học luật
hình sự Việt Nam đã phân chia và đặt tên thành các hình thức lỗi cố ý trực
tiếp và lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý vì quá tự tin. Như vậy,
mặc dù các Bộ luật hình sự không khẳng định tội phạm thực hiện với hình
thức lỗi nào nguy hiểm hơn nhưng qua chế tài quy định ở Phần các tội phạm
cho thấy tội phạm do cố ý bị trừng phạt nghiêm khắc hơn tội phạm do vô ý.
Ví dụ như tội giết người ở Điều 94 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình
phạt cao nhất lên đến tù chung thân, tử hình trong khi tội vô ý làm chết người
ở Điều 98 có mức hình phạt cao nhất chỉ 10 năm tù. Tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản (Điều 143) phải chịu hình phạt cao nhất đến tù chung
thân, trong khi vô ý gây thiệt hại tài sản chỉ bị trừng phạt nếu thiệt hại gây ra
nghiêm trọng và hình phạt cao nhất cũng chỉ là 03 năm tù.
- Về mức độ thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt Nam có sự phân hóa
giữa tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành. Các tội phạm hoàn
thành phải chịu trách nhiệm theo quy định chung và quy định tương ứng về tội
phạm trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Tội phạm chưa hoàn thành bao
gồm chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Giữa các trường hợp này cũng có
sự phân hóa về chế độ trách nhiệm. Đối với chuẩn bị phạm tội, luật chỉ trừng
phạt những trường hợp có tính nguy hiểm cao. Do phân loại tội phạm khác
nhau, Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ trừng phạt hành vi chuẩn bị phạm tội
nghiêm trọng (Điều 15), Bộ luật hình sự năm 1999 trừng phạt hành vi chuẩn bị
phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (Điều 17). Phạm tội chưa
đạt được cho là nguy hiểm hơn nên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi
trường hợp (Điều 15 Bộ luật năm 1985, Điều 18 Bộ luật năm 1999).
Tuy đánh giá mức độ nghiêm trọng của phạm tội chưa đạt cao hơn
chuẩn bị phạm tội nhưng Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định phân
39
hóa về hình phạt áp dụng giữa hai trường hợp này. Bộ luật hình sự năm 1999
đã đề cập đến sự phân hóa này khi quy định về loại hình phạt và mức hình
phạt áp dụng trong hai trường hợp. Đối với chuẩn bị phạm tội, khoản 2 Điều
52 của Bộ luật loại trừ việc áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình. Các
hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ do chỉ áp dụng trong
trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nên không áp dụng
đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Do đó, loại hình phạt được áp dụng
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội bao gồm tù có thời hạn, trục xuất và các
hình phạt bổ sung. Đối với phạm tội chưa đạt, Bộ luật hình sự năm 1999
không loại trừ hình phạt nào mà chỉ giới hạn việc áp dụng hình phạt tù chung
thân và tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 Điều 52).
Vậy nên, loại hình phạt được áp dụng đối với phạm tội chưa đạt là bất kỳ hình
phạt nào quy định đối với tội phạm hoàn thành tương ứng. Về mức hình phạt
áp dụng, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có sự phân biệt giữa hai trường hợp
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Đối với chuẩn bị phạm tội, khoản 2
Điều 52 giới hạn mức áp dụng là 20 năm tù nếu tội phạm hoàn thành tương
ứng phải chịu hình phạt tù chung thân, tử hình; 1/2 mức phạt tù được quy
định nếu hình phạt áp dụng đối với tội phạm hoàn thành tương ứng là tù có
thời hạn. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ
đặt ra giới hạn về mức phạt tù có thời hạn là không quá 3/4 mức phạt được
quy định đối với tội phạm hoàn thành tương ứng (khoản 3 Điều 52). Nhìn
chung, quy định về chế độ trách nhiệm, loại hình phạt và mức hình phạt được
áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt như phân
tích ở trên thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc, giúp cho
hình phạt được quyết định chính xác, tương xứng với tính chất, mức độ của
hành vi phạm tội.
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sảnLuận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAYLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...KhoTi1
 

Similar to Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam (20)

Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
 
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sựBảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAYĐề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luậtLuận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
 
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOTĐề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH THỦY NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH THỦY NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Thị Thanh Thủy
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................... 9 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................. 9 1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo đức, kinh tế và pháp luật .............................................................................. 9 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam......... 12 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam ........... 16 1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 18 1.2.1. Yêu cầu đối xử công bằng giữa những người phạm tội..................... 19 1.2.2. Yêu cầu tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội................................................................... 20 1.3. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY....................................................................... 22 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ................................................................................... 22
  • 5. 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến nay ...................................................................................... 31 Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI............................................... 33 2.1. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM..................... 33 2.1.1. Sự thể hiện nội dung trong nguyên tắc xử lý tội phạm...................... 33 2.1.2. Sự thể hiện nội dung trong việc phân loại, phân hóa tội phạm.......... 35 2.1.3. Sự thể hiện nội dung trong các quy định về hình phạt, quyết định hình phạt..................................................................................... 43 2.1.4. Sự thể hiện nội dung trong quy định về các tội phạm cụ thể............. 52 2.2. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ................................. 59 2.2.1. Yêu cầu của pháp luật quốc tế về nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự ................................................................................ 60 2.2.2. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự Liên bang Nga ............................................................................... 62 2.2.3. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa...................................................... 64 Chương 3: THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM............................................ 66 3.1. THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ........................ 66 3.1.1. Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk ....................... 66
  • 6. 3.1.2. Tình hình thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk................................................................... 67 3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực thi nguyên tắc công bằng và các nguyên nhân cơ bản........................................................ 71 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM....................................................................... 86 3.2.1. Sự cần thiết của việc ghi nhận nguyên tắc công bằng trong Bộ luật hình sự Việt Nam ........................................................................ 86 3.2.2. Nội dung nguyên tắc công bằng trong Bộ luật hình sự Việt Nam.......... 88 3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH ....................................... 90 3.3.1. Nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật.................................................................... 91 3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự ................................................................................................ 91 3.3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 93 KẾT LUẬN.................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 98
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1. Hệ thống các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk 66 Bảng 3.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013) 68 Bảng 3.3. Khảo sát 287 bị cáo trong 150 vụ án hình sự sơ thẩm do Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử trong giai đoạn 05 năm (2009-2013) 69
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Nghiên cứu Hiến pháp năm 2013 và hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước cho thấy, cùng với nhân đạo, pháp chế, dân chủ thì công bằng “không chỉ là một trong các giá trị xã hội liên quan chặt chẽ với pháp luật và các giá trị xã hội khác, mà còn là định hướng cơ bản đối với hoạt động thực tiễn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền vì mục đích cao quý chung - lợi ích của toàn thể xã hội và nhân dân” [2, tr.50]. Đối với tư pháp, công bằng là nền tảng để tồn tại như một nhà luật học danh tiếng (A.M.Jekovev, GS. TS. Võ Khánh Vinh dẫn) đã viết: “Thiếu sự cưỡng chế tư pháp hình sự sẽ không có sức mạnh, thiếu sự giáo dục tư pháp sẽ vô nhân đạo. Nhưng thiếu công bằng tư pháp nói chung sẽ không tồn tại” [42, tr.47]. Chính vì vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tư tưởng công bằng được thể hiện xuyên suốt quy định của Bộ luật hình sự từ Phần chung cho đến Phần các tội phạm, là cơ sở chủ yếu trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng của các bản án hình sự. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý người phạm tội, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ những nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc công bằng nói riêng, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mặc dù có ý nghĩa to lớn như
  • 9. 2 vậy nhưng nguyên tắc công bằng chưa được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu trong khoa học luật hình sự mà chủ yếu được đặt trong các nghiên cứu chung về hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật hình sự hoặc chỉ tập trung nghiên cứu lồng ghép về các chế định thuộc Phần chung pháp luật hình sự. Do đó, việc nghiên cứu có ý nghĩa lý luận, lập pháp và thực tiễn sau đây: * Về phương diện lý luận, còn nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến nguyên tắc công bằng chưa được làm rõ (khái niệm, nội dung, ý nghĩa, mối quan hệ giữa nguyên tắc công bằng với các nguyên tắc khác trong luật hình sự, chuẩn mực quốc tế và pháp luật các nước; v.v...). * Về phương diện lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mặc dù đã có những bước tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm 1985 và các văn bản pháp luật thời kỳ trước đó trong việc thể hiện tư tưởng và nội dung của nguyên tắc công bằng nhưng cũng chưa chính thức ghi nhận nguyên tắc này; cũng như sự thể hiện nội dung của nó vẫn chứa đựng một số nội dung dễ dẫn đến không bảo đảm công bằng, bình đẳng... Chính vì vậy, vấn đề hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và các giải pháp bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng là một vấn đề cấp thiết trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự hiện nay. * Về phương diện thực tiễn, vì những lý do chủ quan và khách quan khác nhau nên nguyên tắc công bằng ít nhiều vẫn chưa được thực thi triệt để ở nhiều khía cạnh, điều đó dẫn đến còn có hiện tượng oan, sai, bất công làm phát sinh tâm lý tiêu cực trong xã hội, đánh mất niềm tin của nhân dân vào pháp luật của nhà nước, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc công bằng; sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự
  • 10. 3 Việt Nam hiện hành, cũng như yêu cầu quốc tế và pháp luật hình sự một số nước; thực tiễn thực thi để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi nguyên tắc này không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học với tên gọi: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”. 2. Tình hình nghiên cứu Như đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, nguyên tắc công bằng còn ít được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu. Vấn đề chủ yếu được đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về hệ thống các nguyên tắc của luật hình sự. Tham khảo tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy liên quan đến nguyên tắc công bằng trong luật hình sự có những công trình tiêu biểu sau đây: * Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở nước ngoài: 1) Nhikifôrôv B.X, Về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự Liên Xô, Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1960; 2) Melesko Iu. B, Về khái niệm và bản chất của các nguyên tắc của luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/1973; 3) Kêlina X. G. và V. N. Kudriaxev, Những nguyên tắc của luật hình sự Xô viết, Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1988 [4, tr.992]; 4) Ashworth, Các nguyên tắc của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Oxford University Press, 1995; 5) David Brown, David Farrier, Neal, Các nguyên tắc chung của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Federation Ress, Sydney, Australia, 1996; 6) Michael Bogdan (chủ biên), Chương 2 - Các nguyên tắc của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự Vương quốc Thụy Điển trong thiên niên kỷ mới, Nxb. Elanders Gotab, Stockholm, Thụy Điển, 2000; v.v... * Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở trong nước: 1) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam,
  • 11. 4 Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ ba - Đạo luật hình sự, mục III - Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 3) GS.TSKH. Lê Cảm, Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/2000; 4) GS. TSKH. Đào Trí Úc, Chương V - Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, trong sách chuyên khảo: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1 - Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; 5) GS.TSKH. Đào Trí Úc, Bản chất và vai trò của các nguyên tắc luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1999; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chính sách xử lý tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/2005; Nguyễn Tấn Hùng, Quan niệm của chủ nghĩa Mác về vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội, Tạp chí Thông tin Khoa học, số 5/1996; v.v... * Dưới góc độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước: Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Võ Khánh Vinh với tên gọi: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam” (Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 1993). Đến nay, trên 20 năm, không có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học nào. Nhìn chung, trong tất cả các tác phẩm nói trên, nguyên tắc công bằng được nghiên cứu với tư cách là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự và được đề cập với tư cách là một mục nhỏ trong Chương, mục về các nguyên tắc cơ bản chứ không phải đối tượng nghiên cứu riêng của tác phẩm. Đặc biệt, cuốn sách chuyên khảo: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân dân năm 1994 đã nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc này nhưng thời gian xuất bản đã trên 20 năm, cơ sở thực tiễn trong nghiên cứu còn là nội dung quy định Bộ luật hình sự năm 1985 và có ba chương tiếp cận như sau: Chương 1: Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự; Chương 2: Nguyên tắc công bằng và việc
  • 12. 5 quy định tội phạm và hình phạt; Chương 3: Nguyên tắc công bằng và việc quyết định hình sự [42, tr.206]. Như vậy, đến nay chưa có công trình nào tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về những vấn đề lý luận cơ bản của nguyên tắc công bằng, đồng thời đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong các quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực thi để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp bảo đảm nguyên tắc này. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc công bằng của luật hình sự đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu hơn, đặc biệt là trong bối cảnh sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự nước ta. 3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn thực thi của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về phương diện lý luận, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm công bằng dưới các góc độ khác nhau (triết học, chính trị, đạo đức, kinh tế, pháp luật), làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cũng như quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong lịch sử luật hình sự Việt Nam. Về phương diện thực tiễn, luận văn nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc này trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, so sánh với yêu cầu liên quan của pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới (Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa); đánh giá thực tiễn thực thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh giai đoạn 05 năm (2009-2013), chỉ ra tồn tại, hạn chế
  • 13. 6 và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực thi nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Tiếp cận khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo đức, kinh tế và pháp luật, từ đó đưa ra khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam; - Phân tích nội dung nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam; - Hệ thống hóa sự hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay để rút ra nhận xét; - Phân tích sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự Liên bang Nga và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, để rút ra nhận xét; - Đánh giá việc thực thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc công bằng, cũng như các giải pháp khác bảo đảm thực thi nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc công bằng trong xây dựng, tổ chức Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đấu tranh phòng và chống tội phạm; cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử Nhà nước và pháp luật, lý luận về Nhà nước và
  • 14. 7 pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà hình sự học ở Việt Nam và nước ngoài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để luận chứng về các vấn đề khoa học của đề tài là: hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, phân tích số liệu thực tiễn, từ đó tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu 5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn 5.1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự; khái quát quá trình phát triển của nguyên tắc công bằng trong lịch sử pháp luật Việt Nam; phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong quy định pháp luật hình sự nước ta hiện hành; đánh giá việc thực thi nguyên tắc công bằng trong xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn của tỉnh Đắk Lắk; từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử. 5.2. Điểm mới về mặt khoa học Ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc đòi hỏi khi phải sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, cũng như thực tiễn cải cách tư pháp đang đặt ra. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
  • 15. 8 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. Chương 3: Thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và những kiến nghị.
  • 16. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Công bằng là một khái niệm đa chiều, tiếp cận dưới nhiều góc độ sẽ cho ra những nội hàm khác nhau. Để có thể phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự, nhất định phải làm rõ khái niệm này ở bình diện pháp lý và chỉ ra những biểu hiện, ý nghĩa của nó trong pháp luật hình sự. 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo đức, kinh tế và pháp luật Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Công bằng là một phạm trù, khái niệm đa chiều, tiếp cận và đứng trên lập trường khác nhau về văn hóa hoặc xuất phát từ những phương diện, ở không gian và thời gian khác nhau sẽ cho ra những quan niệm, đánh giá khác nhau về vấn đề này. Dưới góc độ triết học, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Bản chất của công bằng là sự phù hợp giữa một loạt khía cạnh thể hiện các phương diện khác nhau giữa cái mà cá nhân (hay nhóm xã hội) làm và cái mà họ được hưởng từ xã hội. Cái mà cá nhân làm cho xã hội có thể là điều tốt lành (lao động, cống hiến, nghĩa vụ, công lao…), hoặc cũng có thể là điều xấu, có hại cho xã
  • 17. 10 hội (ví dụ: tội phạm). Còn cái mà cá nhân được hưởng từ xã hội có thể là địa vị xã hội, quyền lợi, tiền công, phần thưởng, sự đánh giá, ghi công của xã hội… và cũng có thể là sự trừng phạt bằng những hình thức từ thấp đến cao [10, tr.61]. Theo đó, công bằng - một cách đơn giản nhất - được hiểu là sự phù hợp giữa cái mà cá nhân làm cho xã hội với cái mà cá nhân nhận được từ xã hội. Nếu làm những điều có ích cho xã hội thì được hưởng quyền lợi, ngược lại làm những điều có hại cho xã hội thì bị trừng phạt ở những mức độ nặng nhẹ tùy theo tính có hại của việc làm thấp hay cao. Dưới góc độ xã hội, công bằng chủ yếu được nhìn nhận là sự ngang bằng nhau giữa người và người về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến khi nói về nguyên tắc phân phối dưới chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom” [14, tr.175]. Theo đó, công bằng xã hội đi đôi với hợp lý. Công bằng thể hiện qua việc mức độ hưởng thụ tương xứng với cống hiến; còn hợp lý ở chỗ có sự hỗ trợ để những đối tượng không có khả năng cống hiến (chứ không phải có khả năng mà không cống hiến) vẫn được hưởng thụ những nhu cầu thiết yếu. Dưới góc độ đạo đức, theo Từ điển bách khoa Blackwell về đạo đức kinh doanh: Khái niệm công bằng (fairness) liên quan chặt chẽ với một số khái niệm đạo đức khác như bình đẳng (equality), không thiên vị (impartiality) và công lý (justice). Giống như các khái niệm kia, nó tập trung vào cách mọi người được đối xử bởi những người khác với yêu cầu đặc biệt rằng họ phải được đối xử như nhau trong trường hợp giữa họ không có sự khác biệt đáng kể [49, p.272].
  • 18. 11 Như vậy, công bằng chính là yêu cầu về cách đối xử với con người và ở góc độ này công bằng đòi hỏi rằng trong những điều kiện tương tự, mọi người phải được đối xử như nhau. Dưới góc độ kinh tế, “người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau” [32]. Cũng giống như quan niệm ở phương diện đạo đức, quan niệm này nhìn nhận công bằng có nghĩa là đối xử như nhau giữa những người có đóng góp như nhau. Tuy nhiên, theo quan niệm thể hiện ở đây, công bằng không mang nghĩa cào bằng mà còn có khía cạnh phân hóa, tức là đối xử tương xứng với khả năng, mức độ đóng góp. Dưới góc độ pháp luật, nhà triết học pháp luật người Mỹ John Rawls cho rằng “công bằng là ý nghĩa cơ bản của khái niệm công lý” [48, p.164]. Hoặc cụ thể hơn, Ambrose Bierce cho rằng công bằng là sự phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân (nhóm xã hội) qua tính tương ứng giữa cái mà nhà nước trả lại cho công dân so với cái mà anh ta (họ) làm cho nhà nước [47, p.116]. Theo cách hiểu này, sự công bằng trong pháp luật thể hiện ở hai khía cạnh: sự ghi nhận, quyền lợi Nhà nước trao cho chủ thể thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước; sự trừng phạt, lên án của Nhà nước dành cho chủ thể vi phạm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Xử sự của Nhà nước đối với các chủ thể thông qua quy định pháp luật dù theo hướng tích cực (ghi nhận) hay tiêu cực (trừng phạt) cũng phải đảm bảo tương xứng với cách ứng xử tốt hay xấu mà chủ thể đã thể hiện mới công bằng. Như vậy, dưới những khía cạnh nghiên cứu khác nhau, công bằng có ý nghĩa và tiêu chí đánh giá rất khác nhau. Tuy nhiên, có hai điểm chung phải thừa nhận ở khái niệm công bằng trong mọi góc độ đánh giá là:
  • 19. 12 Một là, con người ở những điều kiện giống nhau phải được hưởng sự đối xử như nhau từ phía Nhà nước, xã hội; Hai là, việc đối xử của Nhà nước, xã hội đối với con người cụ thể phải tương xứng với xử sự của họ. Trên cơ sở tiếp cận đó, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Công bằng là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong xã hội được hưởng, trong đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi người trong điều kiện tương tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng với xử sự của bản thân họ. 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam Nguyên tắc theo nghĩa Từ điển là “Điều định ra, nhất định phải tuân theo trong một loạt việc làm” [38, tr.637]. Nói một cách khác, nguyên tắc là quy tắc cơ bản, tư tưởng chỉ đạo của một quá trình hay hoạt động nào đó. Ý nghĩa này đều được các nhà khoa học pháp lý sử dụng khi xây dựng khái niệm về nguyên tắc của luật hình sự. GS.TSKH. Đào Trí Úc định nghĩa: “Nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo và các định hướng đường lối cho toàn bộ quá trình quy định tội phạm và hình phạt, áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn” [33, tr.7]. GS. TSKH. Lê Văn Cảm lại quan niệm: “Nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là tư tuởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật hình sự, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm hoặc chế định của nó” [4, tr.200-201]. Chia sẻ với quan điểm này, PGS.TS. Kiều Đình Thụ cho rằng: “Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là các tư tưởng chủ đạo, nền tảng của việc xây dựng và thực hiện luật hình sự, phản ánh tính quy luật của cuộc đấu tranh phòng chống và phòng ngừa tội phạm” [13, tr.16]; v.v... Như vậy, trong khoa học luật hình sự cơ bản đều thống nhất quan điểm:
  • 20. 13 nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Theo đó, có thể suy ra bằng phương pháp logic rằng nguyên tắc công bằng trong luật hình sự là sự thể hiện xuyên suốt của tư tưởng công bằng trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Nội hàm của khái niệm công bằng dưới góc độ chung như đã nêu ở trên, là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong xã hội được hưởng, trong đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi người trong điều kiện tương tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng với xử sự của bản thân họ. Do đó, đặt trong mối tương quan với pháp luật hình sự - lĩnh vực điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh khi tội phạm được thực hiện [3, tr.6], nguyên tắc công bằng thể hiện thông qua “đối xử” của Nhà nước đối với người phạm tội như thế nào. Rõ ràng, việc đối xử của Nhà nước đối với người phạm tội chỉ công bằng khi thể hiện đầy đủ các khía cạnh: Một là, đối xử công bằng giữa những người phạm tội và hai là, đối xử với mỗi người phạm tội tương xứng với hành vi phạm tội của họ. Những khía cạnh này cũng được các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam thừa nhận khi đề cập đến nội dung của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. Trong nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc công bằng của luật hình sự, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: trong pháp luật hình sự, công bằng được khai thác trên hai khía cạnh công bằng ngang nhau và công bằng phân phối [42, tr.48]. Công bằng ngang nhau được hiểu là việc xây dựng những quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự, tội phạm và hình phạt bảo đảm sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật, có nghĩa là Nhà nước sẽ quy định đạo luật hình sự thống nhất và những người có hành vi xâm phạm các khách thể mà luật hình sự bảo vệ đều phải chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm của đạo luật này mà không có bất cứ sự thiên vị nào. Đối với công bằng phân
  • 21. 14 phối, sự công bằng thể hiện ở việc các chế định pháp lý hình sự (hình phạt, các biện pháp tư pháp, các chế định pháp lý hình sự khác) được áp dụng đối với người phạm tội cần bảo đảm sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội, cũng như hậu quả do hành vi phạm tội gây ra… Nhấn mạnh hơn, tác giả cho rằng hai khía cạnh trên của công bằng tồn tại mối quan hệ gắn bó mật thiết: trong công bằng ngang nhau có công bằng phân phối, ngược lại, trong công bằng phân phối có công bằng ngang nhau, và chính mối quan hệ qua lại này đã đem lại một sự hiểu đầy đủ về công bằng dưới khía cạnh pháp luật hình sự. Từ phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm như sau: “Nguyên tắc công bằng là phạm trù pháp lý bao gồm những nguyên lý (đòi hỏi) chung đối với việc quy định giới hạn của sự tác động pháp lý hình sự; cơ sở của trách nhiệm hình sự; các quy định về tội phạm và hình phạt; các quy định về quyết định hình phạt và một số chế định khác” [42, tr.59]. Xem xét quan điểm này cho thấy, đây là công trình nghiên cứu tương đối công phu và những đánh giá về nội dung của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự rất sâu sắc, song trong khái niệm nguyên tắc công bằng vẫn còn một điểm là chưa thể hiện được rõ vai trò của một nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt nội dung quy định pháp luật cũng như hoạt động áp dụng quy định đó. Không “gọi tên” là nguyên tắc công bằng, GS.TSKH. Lê Văn Cảm nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc này với với tên gọi là nguyên tắc công minh. Trong nghiên cứu của mình, tác giả không xây dựng khái niệm mà chỉ phân tích những nội dung của nguyên tắc công minh trong pháp luật hình sự, bao gồm: 1) Hình phạt, các biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội cần đảm bảo sự
  • 22. 15 công minh, tức là phải phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hậu quả tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm tội, mức độ lỗi cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội; 2) Trong Bộ luật hình sự có các quy định để đảm bảo cho Tòa án có thể (hoặc phải) lựa chọn loại và mức hình phạt phù hợp hơn cả đối với người phạm tội căn cứ vào các tình tiết cụ thể của việc thực hiện tội phạm (ví dụ: danh mục các hình phạt từ nặng đến nhẹ, các chế tài lực chọn, các chế tài xác định tương đối, danh mục các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, v.v…; 3) Không người phạm tội nào có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hai lần về cùng một tội phạm [4, tr.206-207]. Những nội dung của nguyên tắc công minh ở đây tập trung ở hai khía cạnh: một là, nội dung quy định cũng như việc áp dụng các chế tài của luật hình sự phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội; hai là, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự một lần về tội mình đã phạm. Do đó, có thể đánh giá rằng, hai khía cạnh này đã được tác giả mô tả rất cụ thể, tuy nhiên tác giả mới tập trung đề cập đến tính tương xứng giữa tội phạm với trách nhiệm hình sự nhưng yêu cầu của nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi phải đề cập đến yêu cầu được đối xử công bằng giữa những người phạm tội. Bởi lẽ, yêu cầu không ai phải chịu trách nhiệm hai lần về một tội phạm cũng nhằm bảo đảm sự công bằng giữa những người phạm tội nhưng chưa thật đầy đủ. Sự công bằng giữa những người phạm tội còn đòi hỏi mọi tội phạm phải bị xử lý và mọi người phạm tội bình đẳng trước pháp luật hình sự. Rõ ràng, sẽ không thể có công bằng nếu hành vi phạm tội này bị xử lý và hành vi phạm tội khác được bỏ qua hay nội dung quy định pháp luật hình sự cũng như việc áp dụng quy định đó dựa trên cơ sở sự phân biệt đối xử.
  • 23. 16 Tóm lại, khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam dù diễn giải theo cách nào cũng phải phản ánh được đầy đủ những biểu hiện về nội dung, ý nghĩa của nó. Về ý nghĩa, đã là nguyên tắc của luật hình sự nghĩa là nó phải mang tính tư tưởng chỉ đạo, được quán triệt xuyên suốt, bao trùm mọi quy định của luật hình sự. Về nội dung, nguyên tắc công bằng thể hiện ở hai phương diện: công bằng giữa những người phạm tội và tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Trên cơ sở khái quát nội dung và ý nghĩa này, chúng tôi đưa ra khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nước ta, trong đó đòi hỏi nội dung quy định của pháp luật hình sự, cũng như việc áp dụng các quy định đó phải thể hiện được sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội. 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam Là một nguyên tắc của luật hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng, nguyên tắc công bằng trước hết có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng việc xây dựng, hoàn thiện và áp dụng quy định pháp luật hình sự bảo đảm sự phản ánh ý chí của Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân. Mục tiêu cách mạng của Việt Nam là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn minh. Tính công bằng của nhà nước phải thể hiện trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội và chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua chính sách, pháp luật về các lĩnh vực của đời sống, bao gồm trong đó lĩnh vực pháp luật hình sự. Như vậy, nguyên tắc công bằng được đặt ra trong pháp luật hình sự chính là một trong những khía cạnh bảo đảm mục tiêu công bằng xã hội là ý chí của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Do đó, có các ý nghĩa chính trên các bình diện sau đây:
  • 24. 17 * Nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc tiến bộ, văn minh của nhân loại nói chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng Nguyên tắc công bằng phù hợp và phản ánh tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại đã được thừa nhận chung: pháp luật là nghệ thuật của sự thật và công lý - “Jus est ars borny aequi” [4, tr.207]. Tư tưởng “pháp luật là nghệ thuật của sự thật và công lý” này cũng đã được pháp luật quốc tế ghi nhận thông quan các quyền con người cơ bản là quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được xét xử không bằng, quyền không bị buộc tội hay chịu trách nhiệm hai lần về một tội phạm trong các đạo luật nhân quyền như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên Hợp quốc năm 1966. Hay ngay cả Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng đã thừa nhận những quyền cơ bản này ở các Điều 16 và 31. Do vậy, sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam không chỉ phản ánh tư tưởng pháp lý tiến bộ mà còn đáp ứng yêu cầu của pháp luật quốc tế và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cùng vị trí tối cao của Hiến pháp. * Nguyên tắc công bằng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam Ba nhiệm vụ chính của luật hình sự tương ứng với ba chức năng của luật hình sự - chức năng bảo vệ, phòng ngừa (tội phạm) và giáo dục (giáo dục người phạm tội và những người khác trong xã hội). Ba chức năng hay ba nhiệm vụ này có mối liên hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong các nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ bảo vệ là nhiệm vụ quan trọng trước tiên. Bởi lẽ, Là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ phản xạ tự vệ của xã hội chống lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người. Chính vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của luật hình sự là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy... [34, tr.90].
  • 25. 18 Do đó, các nhiệm vụ của luật hình sự “gắn liền với việc thực hiện chính sách hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước và với thực tiễn các quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội” [39, tr.50]. Bên cạnh nhiệm vụ trừng trị tội phạm để bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích của con người, của xã hội, luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mục đích đó chỉ đạt được khi các biện pháp xử lý tội phạm được quy định và áp dụng chính xác, công bằng, tương xứng với hành vi phạm tội. Biện pháp xử lý quá nhẹ vừa không đủ để trừng trị người phạm tội một cách thích đáng, vừa làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của chế tài hình sự, bởi nó có thể làm phát sinh thái độ vô trách nhiệm, coi thường pháp luật, nảy sinh ý định phạm tội. Biện pháp xử lý quá nặng tạo ra tâm lý oán hận, thái độ chống đối xã hội ở người phạm tội. Việc tội phạm bị bỏ lọt, xử nặng quá hay nhẹ quá đều làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước, pháp luật. Tóm lại, nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định pháp luật hình sự phải công bằng thì nhiệm vụ giáo dục ý thức pháp luật của ngành luật này mới được bảo đảm thực hiện. Chính vì những ý nghĩa trên mà sự hiện diện của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự nói chung, luật hình sự Việt Nam nói riêng làm rõ tính ưu việt của chế độ pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý, chính quyền, góp phần tạo dựng nền tảng công bằng xã hội. 1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Như thể hiện trong khái niệm đã nêu trên, nguyên tắc công bằng đòi hỏi nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định luật hình sự phải thể hiện được hai yếu tố: sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự.
  • 26. 19 1.2.1. Yêu cầu đối xử công bằng giữa những người phạm tội Luật hình sự Việt Nam điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội nên đối xử của Nhà nước với người phạm tội chính là nền tảng của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. Nguyên tắc này chỉ đạt được với điều kiện trước tiên là luật hình sự phải thể hiện thái độ đối xử công bằng giữa những người phạm tội từ phía Nhà nước. Thái độ đối xử công bằng đó thể hiện ở những nội dung sau: * Tất cả các tội phạm phải bị xử lý Bị trừng phạt là thuộc tính của tội phạm nhằm bảo đảm công bằng cho xã hội, cho người bị hại vì người phạm tội đã gây thiệt hại cho nhưng đối tượng này, cần trả giá bằng việc gánh chịu thiệt hại tương ứng. Đã là thuộc tính thì có nghĩa mọi tội phạm đều như vậy, đều bị trừng phạt. Vì vậy, pháp luật hình sự khi tội phạm hóa một hành vi bao giờ cũng đi kèm với việc quy định biện pháp xử lý (hình phạt) đối với hành vi đó. Việc tội phạm này bị xử lý, tội phạm khác được bỏ qua là bất công giữa những người phạm tội, trong trường hợp tội phạm bị bỏ lọt cũng còn là bất công đối với xã hội, đối với người bị hại. Vì lẽ đó, mọi tội phạm phải bị xử lý. * Tất cả các người phạm tội được đối xử bình đẳng, ngang nhau Nội dung này thể hiện ở việc quy định pháp luật hình sự không được thể hiện sự phân biệt đối xử giữa những người phạm tội, việc áp dụng những quy định này cũng thống nhất như nhau trong mọi trường hợp. Theo đó, hai người phạm tội giống nhau với những tình tiết tương tự sẽ phải chịu biện pháp xử lý tương đương nhau bất kể họ là ai. Trong thực tế, pháp luật hình sự các nước trên thế giới thường có những đối xử khoan hồng đặc biệt đối với một số đối tượng người phạm tội như: người già, phụ nữ, phụ nữ mang thai, trẻ em. Điều này không phải sự bất công, bất bình đẳng mà nhằm thể hiện khía cạnh nhân đạo trong chính sách
  • 27. 20 hình sự. Thậm chí, nó vẫn thể hiện nguyên tắc công bằng ở chỗ xét về nhân thân những đối tượng này ít nguy hiểm hơn đối tượng phạm tội thông thường nên biện pháp xử lý ít nghiêm khắc hơn là phù hợp. * Không ai phải chịu trách nhiệm hai lần về một tội phạm Phạm tội phải bị trừng phạt là lẽ công bằng, tuy nhiên bị trừng phạt nhiều lần về việc thực hiện một tội phạm lại là bất công. Nếu ví việc bị trừng phạt của người phạm tội giống như phải trả tiền cho một món hàng đã lấy thì trừng phạt nhiều lần nghĩa là trả tiền nhiều lần cho cùng một món hàng. Đó là sự phi lý rõ ràng không thể chấp nhận. Tương tự như vậy nhưng ở cấp độ cụ thể hơn, một tình tiết của việc phạm tội cũng không được sử dụng nhiều lần trong khi cân nhắc trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội về một tội phạm. Điều đó cũng như được hưởng lợi hoặc trả giá nhiều lần về cùng một món hàng. Như vậy, nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự trước hết thể hiện ở việc đối xử công bằng giữa những người phạm tội. Đối xử giữa những người phạm tội chỉ được coi là công bằng khi: mọi tội phạm phải bị xử lý, mọi người phạm tội được đối xử bình đẳng và không ai phải chịu trách nhiệm hai lần về một tội phạm. 1.2.2. Yêu cầu tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội Đây chính là sự công bằng theo chiều dọc, hay công bằng phân phối như đã phân tích trong các quan điểm về công bằng nói chung, công bằng trong luật hình sự nói riêng ở phần trên. Tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân [42, tr.48] người phạm tội được xem xét về mặt tương quan giữa các hành vi phạm tội chứ không mang
  • 28. 21 tính “đền bù ngang giá” giữa thiệt hại tội phạm đã gây ra với biện pháp trừng phạt. Sự công bằng kiểu trả thù ngang bằng thường hay được thể hiện trong những nền pháp luật cổ xưa. Ví dụ như Bộ luật Hamurapi của người Babilon cổ đại quy định trường hợp làm gãy xương của người khác thì sẽ bị trừng phạt bằng cách làm gãy xương, làm chết con của người khác thì con của người phạm tội cũng bị xử chết [11, tr.43]. Vì vậy, Bộ luật này được gọi là “Lex talionis” [15, tr.192] trong tiếng Latin, dịch ra tiếng Anh là “Law of talion” - Luật của sự trả thù. Kiểu công bằng cổ đại đó được phản ánh trong câu thành ngữ phương Tây là “an eye for an eye” (một mắt cho một mắt), hoặc tương tự ở phương Đông là “nợ máu trả bằng máu”. Sự trừng phạt mang tính trả thù được coi công bằng đó thực chất lại là bất công bởi vì cùng một giá trị nhân thân hay tài sản đối với mỗi cá nhân lại có tầm quan trọng khác nhau. Ví dụ bẻ gẫy chân một vũ công khác với bẻ gẫy chân một người bình thường khác. Sự trả thù ngang bằng đó đôi khi còn khiến những người không phạm tội cũng phải chịu trách nhiệm. Bởi vậy, như đã nói, tính tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội phải được xem xét trong mối tương quan giữa các hành vi phạm tội. Theo đó, loại tội phạm nguy hiểm hơn phải bị trừng phạt nặng hơn và ngược lại, loại tội phạm ít nguy hiểm hơn được hưởng hình phạt nhẹ hơn. Trong trường hợp phạm cùng một tội, hành vi phạm tội và người phạm tội thể hiện tính nguy hiểm cao đối với xã hội phải chịu biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn hành vi phạm tội và người phạm tội thể hiện tính nguy hiểm thấp và ngược lại. Chính vì thế, để bảo đảm được tính tương xứng này, đòi hỏi: - Về phương diện lập pháp, luật hình sự cần phải có sự phân loại, phân hóa tội phạm; có hệ thống chế tài đa dạng về loại và mức; có quy định cụ thể về hình phạt tương ứng với tội phạm cụ thể và khung, mức hình phạt tương ứng với những mức độ thể hiện khác nhau của cùng tội phạm; có cơ chế
  • 29. 22 (nguyên tắc, căn cứ) để bảo đảm việc lựa chọn chế tài áp dụng đối với tội phạm là tương xứng, đúng quy định pháp luật; - Về phương diện áp dụng, luật hình sự cần được áp dụng thống nhất, chính xác và khách quan, vô tư trên cơ sở xem xét toàn diện mọi tình tiết liên quan đến việc thực hiện tội phạm và bản thân người phạm tội. Việc bỏ sót bất kể tình tiết nào của việc thực hiện tội phạm hay nhân thân người phạm tội có thể làm thay đổi tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm dẫn đến biện pháp xử lý được áp dụng không còn tương xứng. Cho nên, nếu việc áp dụng pháp luật dưới tác động của những thiên kiến, thiếu khách quan, vô tư cũng dẫn đến biện pháp xử lý không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm khiến nguyên tắc công bằng không được thực thi cũng là điều dễ hiểu. 1.3. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY Được xác định là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nhưng nguyên tắc công bằng (cũng như các nguyên tắc cơ bản khác của luật hình sự) chưa bao giờ được ghi nhận chính thức về mặt pháp lý trong pháp luật thực định của nước ta. Nguyên tắc công bằng chỉ được thể hiện thông qua nguyên tắc xử lý tội phạm, các quy định thể hiện chính sách phân hóa tội phạm, quy định cụ thể về tội phạm và hình phạt tương ứng. Tuy nhiên mức độ thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự nước ta không cố định mà có sự phát triển từ đơn giản đến sâu sắc qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Từ sau khi giành được chính quyền cách mạng năm 1945 đến trước
  • 30. 23 năm 1985, luật hình sự Việt Nam chưa được pháp điển hóa nên các quy định của luật hình sự nằm ở rất nhiều các văn bản khác nhau. Do đó, tư tưởng nguyên tắc công bằng được thể hiện ở những mức độ khác nhau qua các nguyên tắc xử lý, chính sách phân hóa tội phạm trong các văn bản quy định về tội phạm cụ thể, thậm chí, tồn tại dưới dạng các tổng kết thực tiễn, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong ngành Tòa án. * Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong nguyên tắc xử lý tội phạm Nguyên tắc xử lý tội phạm lần đầu tiên được đặt ra trong pháp luật nước ta ở Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều 2 Pháp lệnh quy định: Nguyên tắc trừng trị bọn phản cách mạng là: nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải; giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội [27, tr.193]. Chính sách nghiêm trị người phạm tội có vai trò chủ mưu, cầm đầu hoặc có hành vi thủ ác, ngoan cố; khoan hồng đối với người biết ăn năn hối cải, lập công chuộc tội áp dụng đối với các tội phản cách mạng lần đầu tiên thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa tội phạm để có biện pháp xử lý thích đáng, tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, bảo đảm tính công bằng. Tiếp theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 12/10/1970 đã phát triển các nguyên tắc xử lý tội phạm, bổ sung nguyên tắc mọi tội phạm phải bị xử lý
  • 31. 24 nghiêm minh. Phần nguyên tắc chung trong cả hai Pháp lệnh đều khẳng định: “Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa/tài sản riêng của công dân phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh” [27, tr.203]. Bên cạnh đó, nguyên tắc phân hóa tội phạm để xử lý công bằng như vẫn được hai Pháp lệnh tiếp tục khẳng định và bổ sung nhiều yếu tố để phân hóa tội phạm mới. Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa nêu: Nguyên tắc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa là nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, bọn gây thiệt hại nặng; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra [27, tr.203]. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tương tự ở Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Những nguyên tắc xử lý các loại tội phạm cụ thể trong các Pháp lệnh trên đã được kế thừa, phát triển thành nguyên tắc xử lý tội phạm nói chung của Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999 sau này. * Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong sự phân hóa về đối tượng người phạm tội và mức độ thực hiện tội phạm Tuy chưa có quy định mang tính khái quát nhưng các văn bản pháp luật trong giai đoạn này cũng đã đề cập đến vấn đề phân hóa đối tượng người phạm tội và phân hóa mức độ thực hiện hành vi phạm tội để có biện pháp xử lý công bằng, nghiêm minh. Vấn đề phân hóa đối tượng người phạm tội được đặt ra giữa những người đồng phạm hoặc giữa người phạm tội thành niên với chưa thành niên. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985, pháp luật nước ta chưa có quy định riêng để định nghĩa và phân hóa giữa những người
  • 32. 25 đồng phạm mà việc phân hóa đối tượng này chỉ được đề cập đến trong nguyên tắc xử lý tội phạm như đã nêu trên. Theo đó, những người chủ mưu, cầm đầu, tổ chức bị trừng trị nặng hơn so với những người tham gia, tham gia do bị lừa dối, ép buộc… Sự phân hóa đối tượng phạm tội giữa người thành niên và chưa thành niên để có chính sách khoan hồng nhằm bảo đảm công bằng cho người chưa thành niên phạm tội được đặt ra lần đầu trong Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) của Tòa án nhân dân tối cao khi hướng dẫn đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội đã xác định: - Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách nhiệm về mặt hình sự. Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ nên truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm... Riêng về hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong trường hợp nghiêm trọng. - Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18, nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn. Những điểm trên đây chỉ là hướng dẫn đại cương, còn cần được thực tiễn kiểm nghiệm và bổ sung thêm. Có trường hợp phạm tội giết người, cướp của, can phạm trên 13 tuổi, dưới 14 tuổi giữa ba ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án chưa nhất trí với nhau về vấn đề có nên truy tố hay không ? Có trường hợp vị thành niên trên 16 tuổi tụ tập với một số khác gây ra nhiều vụ trộm cắp nghiêm trọng, nhưng chỉ xử án treo vì chiếu cố quá đáng tới tuổi còn non trẻ của bị cáo, sau đó bị cáo lại phạm tội giết người. Ngược lại, có trường hợp chưa chú ý đúng mức tới trình độ nhận thức của bị cáo còn thiếu chín chắn, thiếu vững vàng nên đã xử phạt quá nặng... [27, tr.14].
  • 33. 26 Sau đó, tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao đã nhấn mạnh: Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa thành niên hơn người lớn tuổi phạm tội trong những điều kiện tương tự. Đó là một nguyên tắc cần được quán triệt. Việc xử phạt nhiều, ít là tùy thuộc ở trình độ nhận thức và trạng thái tâm sinh lý của người chưa thành niên đến mức độ nào được thể hiện nói chung qua lứa tuổi cao thấp khác nhau, ở hoàn cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy hiểm nhiều hay ít của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội cũng như ở yêu cầu của tình hình chung [27, tr.34]; v.v... Bên cạnh phân hóa đối tượng người phạm tội, việc phân hóa về mức độ thực hiện tội phạm để xử lý cũng thể hiện nguyên tắc công bằng của pháp luật hình sự. Yêu cầu việc xử lý tội phạm chưa hoàn thành phải khác tội phạm hoàn thành sớm được đề cập trong các hướng dẫn xét xử của ngành Tòa án. Trong Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 1965 nêu: Trong các trường hợp “giết người chưa đạt” khi lượng hình, không nên chỉ nặng nhìn vào hậu quả chết người không xảy ra mà xử quá nhẹ, mà phải nhìn toàn diện vào thủ đoạn, vào động cơ phạm pháp, vào thái độ quyết tâm nhiều hay ít; v.v... kết hợp với các tình tiết khác như: tình hình thương tật đã gây ra, nhân thân của bị cáo, tình hình cụ thể của địa phương... mà cân nhắc mức án cho thích đáng [27, tr.19]. Nội dung của Báo cáo cho thấy trong thực tiễn xét xử ở giai đoạn này các Tòa án đã xử nhẹ trường hợp giết người chưa đạt so với giết người hoàn thành. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các
  • 34. 27 Tòa án không nên xử quá nhẹ mà phải xem xét toàn diện các yếu tố khách quan, chủ quan để “cân nhắc mức án cho thích đáng”. Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người tiếp tục thể hiện sự phân hóa sâu sắc, cụ thể hơn về chính sách xử lý tội phạm với các mức độ thực hiện khác nhau: Về hậu quả, giết người đã thành thường bị xử phạt nặng hơn giết người chưa đạt vì hậu quả nghiêm trọng hơn. Cũng vì lẽ đó, trong những trường hợp giết người chưa đạt, những trường hợp đã gây thương tích nặng thường bị xử phạt nặng hơn những trường hợp chỉ gây thương tích nhẹ. Những trường hợp đã gây thương tích nhẹ thường bị xử phạt nặng hơn những trường hợp chưa gây thương tích [27, tr.18]. Theo hướng dẫn này, giết người chưa đạt phải được xử phạt nhẹ hơn giết người đã hoàn thành. Giữa các trường hợp giết người chưa đạt cũng phải phân hóa để xử phạt theo hậu quả gây ra: đã gây hậu quả phải xử phạt nặng hơn chưa gây hậu quả, gây hậu quả nặng phải xử phạt nặng hơn gây hậu quả nhẹ. Chính sách phân hóa sâu sắc này tuy thể hiện trong hướng dẫn riêng đối với tội giết người nhưng cũng có thể áp dụng đối với các tội phạm khác để đưa ra được mức hình phạt công bằng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Ngoài ra, phân hóa độ tuổi đối với người chưa thành niên phạm tội giết người, Bản tổng kết còn nêu rõ: “Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính chất, cho nên, nói chung, cần truy tố xét xử các trường hợp giết người mà can phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của các can phạm đó còn non nớt, cho nên cần xử nhẹ hơn so với người đã lớn... Mức hình phạt đối với các can phạm này nói chung chỉ nên từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối
  • 35. 28 với các can phạm đã có từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại can phạm này, nói chung, không nên áp dụng hình phạt tử hình” [27, tr.19]. Theo hướng dẫn này, tội giết người chưa đạt phạt được xử phạt nhẹ hơn tội giết người đã hoàn thành. Giữa các trường hợp giết người chưa đạt cũng phải phân hóa để xử phạt theo hậu quả gây ra: đã gây hậu quả phải xử phạt nặng hơn chưa gây hậu quả, gây hậu quả nặng phải xử phạt nặng hơn gây hậu quả nhẹ. Chính sách phân hóa sâu sắc này tuy thể hiện trong hướng dẫn riêng đối với tội giết người nhưng cũng có thể áp dụng đối với các tội phạm khác để đưa ra được mức hình phạt công bằng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. * Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - căn cứ để xác định mức độ trách nhiệm hình sự nặng, nhẹ tương xứng với hành vi phạm tội - lần đầu tiên được đề cập một cách chính thức ở Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967. Điều 19 của Pháp lệnh quy định về tám trường hợp phạm tội phản cách mạng cần xử phạt nặng như sau: 1. Làm thiệt hại trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đến sự nghiệp quốc phòng; 2. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, có thiên tai hoặc có những khó khăn khác để thực hiện tội phản cách mạng; 3. Hoạt động phản cách mạng có tổ chức; 4. Lợi dụng chức quyền để hoạt động phản cách mạng; 5. Dùng thủ đoạn cực kỳ gian ác, phương pháp đặc biệt nguy hiểm để tiến hành tội phản cách mạng; 6. Hành động phạm tội đã gây hậu quả nghiêm trọng;
  • 36. 29 7. Kẻ phạm tội trước đây đã có án phản cách mạng hoặc có tội ác đối với nhân dân; 8. Kẻ phạm tội là những phần tử ngoan cố không chịu cải tạo [27, tr.197]. Tiếp ngay sau các trường hợp phải xử nặng, Điều 20 của Pháp lệnh quy định sáu trường hợp phạm tội phản cách mạng được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt, bao gồm: 1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm; 2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ những âm mưu và hành động của mình và của đồng bọn; 3. Cố ý không thi hành đầy đủ hoặc khuyên bảo đồng bọn không thi hành đầy đủ âm mưu của bọn cầm đầu phản cách mạng; 4. Có những hành động làm giảm bớt tác hại của tội phạm; 5. Phạm tội vì bị ép buộc, bị lừa phỉnh và chưa gây thiệt hại lớn; 6. Bị bắt, nhưng trước khi bị xét xử đã tỏ ra thành thật hối cải, lập công chuộc tội [27, tr.20]. Tuy đây là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình sự được quy định riêng đối với các tội phản cách mạng nhưng có tính điển hình, có thể áp dụng tương tự để phân hóa trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm các loại tội khác và hầu hết những tình tiết này đã được kế thừa, khái quát hóa để trở thành những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chung trong luật hình sự hiện nay. Sau Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản riêng của công dân năm 1970 một lần nữa hệ thống hóa các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các trường hợp cần xử nặng mà hai Pháp lệnh quy định bao gồm:
  • 37. 30 1. Gây thiệt hại trực tiếp đến sản xuất, đời sống của nhân dân hoặc đến an ninh, quốc phòng; 2. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, có thiên tai hoặc có những khó khăn khác để phạm tội; 3. Giả tạo hoặc cố ý làm sai lệch những số liệu, những kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế hay là kế hoạch công tác để che giấu tội phạm; 4. Cầm đầu việc phạm tội hoặc tích cực thực hiện tội phạm; 5. Tái phạm hoặc kẻ phạm tội là phần tử xấu [27, tr.21]. Bên cạnh đó, là các trường hợp được xử nhẹ hoặc miễn hình phạt: 1. Tội phạm chưa bị phát giác mà kẻ phạm tội thành thật thú tội với cơ quan chuyên trách, khai rõ hành động của mình và của đồng bọn; 2. Kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; 3. Trước khi bị xét xử, kẻ phạm tội tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa thiệt hại đã gây ra; 4. Phạm tội gây thiệt hại không lớn [27, tr.22]. Tuy các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong các văn bản trên là áp dụng riêng đối với các tội phạm thuộc đối tượng điều chỉnh của các văn bản ấy nhưng đã thể hiện quan điểm xem xét toàn diện hành vi phạm tội; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm trên cơ sở cân đối, tổng hợp mọi biểu hiện khách quan, chủ quan của nó. Quan điểm đánh giá đó là cơ sở để tạo ra những bản án công bằng, nghiêm minh. * Sự thể hiện tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong quy định về tội phạm cụ thể Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985, các tội phạm được
  • 38. 31 quy định ở nhiều văn bản riêng lẻ khác nhau nên khó có thể đánh giá nguyên tắc công bằng thể hiện xuyên suốt những quy định này. Tuy nhiên, qua một số ví dụ cụ thể phần nào có thể khẳng định sự tồn tại của nguyên tắc công bằng ở đây. Chẳng hạn như so sánh tương quan giữa các loại tội phạm có thể thấy rằng hình phạt áp dụng đối với các tội phản cách mạng nghiêm khắc hơn các tội xâm phạm sở hữu, hình phạt đối với tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa hà khắc hơn tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Đơn cử như khung hình phạt cơ bản đối với tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa là 05 đến 15 năm tù thì khung hình phạt tương ứng của tội cướp tài sản riêng của công dân chỉ là 02 đến 12 năm tù. Khung hình phạt được quy định đối với các tội phạm trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng phần lớn lên đến mức tù chung thân và tử hình còn khung hình phạt đối với các tội phạm trong hai Pháp lệnh về các tội xâm phạm tài sản chủ yếu ở mức tù có thời hạn… Những quy định này thể hiện sự công bằng ở chỗ khách thể xâm hại quan trọng hơn thì hình phạt gánh chịu phải nghiêm khắc hơn. Ngoài ra, quy định về hình phạt đối với các tội phạm cụ thể ở giai đoạn này tuy còn kém đa dạng về loại hình nhưng bao giờ cũng quy định bằng một khung có giới hạn tối thiểu, tối đa chứ không chỉ một mức duy nhất. Phải quy định như vậy mới có thể trao cho Tòa án cơ hội quyền lựa chọn linh hoạt mức hình phạt sao cho tương xứng với hành vi phạm tội cụ thể, bảo đảm xét xử đúng pháp luật và công bằng. 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến nay Kể từ khi được pháp điển hóa lần đầu tiên luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trở thành văn bản duy nhất quy định thống nhất về tội phạm và hình phạt. Trải qua nhiều lần sửa đổi, luật hình sự nước ta được pháp điển hóa lần thứ hai vào năm
  • 39. 32 1999. Trong quá trình áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành. Tuy đã được pháp điển hóa, cập nhật, bổ sung nhiều lần và đã thể hiện tư tưởng công bằng trong các quy định về tội phạm và hình phạt nhưng trong hai Bộ luật hình sự của nước ta, nguyên tắc công bằng vẫn chưa được chính thức ghi nhận về mặt lập pháp mà chỉ là một tư tưởng thể hiện xuyên suốt những quy định của Bộ luật. Như ở giai đoạn trước pháp điển hóa, nguyên tắc công bằng thể hiện trong hai Bộ luật hình sự qua các khía cạnh như: nguyên tắc xử lý tội phạm, phân hóa tội phạm và trách nhiệm hình sự, quy định về hình phạt, quyết định hình phạt và các tội phạm cụ thể... Tuy nhiên, sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự ở giai đoạn này có tính khái quát cao hơn và mức độ thể hiện ngày càng sâu sắc hơn. Nội dung thể hiện cụ thể của nguyên tắc công bằng trong hai đạo luật này sẽ được phân tích, so sánh ở phần sau của luận văn liên quan đến vấn đề thực trạng pháp luật và việc thực thi nguyên tắc công bằng.
  • 40. 33 Chương 2 SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Như đã nêu trên, mặc dù trải qua hai lần pháp điển hóa trở thành văn bản duy nhất quy định thống nhất về tội phạm và hình phạt và nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng Bộ luật hình sự Việt Nam đến nay vẫn chưa ghi nhận chính thức nguyên tắc công bằng. Nguyên tắc vẫn này tồn tại dưới dạng tư tưởng được thể hiện thông qua các chế định, quy định cụ thể ở Phần chung cũng như Phần các tội phạm của Bộ luật như được phân tích dưới đây. 2.1.1. Sự thể hiện nội dung trong nguyên tắc xử lý tội phạm Ở cả Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, nguyên tắc xử lý đều được quy định ở Điều 3. Đây là các nguyên tắc xử lý chung áp dụng đối với mọi loại tội phạm chứ không phải nguyên tắc xử lý xác định cho loại tội phạm cụ thể như ở giai đoạn trước. Bản thân sự thống nhất về chính sách xử lý đó đã thể hiện tính công bằng của pháp luật hình sự. Nguyên tắc xử lý không chỉ phản ánh phương châm cơ bản trong đường lối xử lý - “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục”, mà còn “bảo đảm tính kịp thời khi phát hiện, xử lý tội phạm, phản ánh việc giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội” [41, tr.23-24]. Khái quát hơn, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng, có bốn yêu cầu của chính sách xử lý tội phạm trong luật hình sự Việt Nam phải tuân thủ bao gồm:
  • 41. 34 - Xử lý tội phạm phải tuân thủ pháp chế (đúng luật); - Xử lý tội phạm phải bảo đảm sự bình đẳng (không phân biệt người phạm tội là ai); - Xử lý tội phạm phải có sự phân hóa (nghiêm trị kết hợp với khoan hồng); - Xử lý tội phạm phải thể hiện tính giáo dục và tính nhân đạo [8, tr.30]. Do đó, sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong nguyên tắc xử lý như sau: - Xử lý công bằng mọi hành vi tội phạm thể hiện qua việc xác định: “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật” (khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999). Theo quy định này, mọi tội phạm đều phải bị xử lý, không có ngoại lệ và bị xử lý một cách công bằng, nghiêm minh, trên cơ sở quy định pháp luật. Bị trừng trị là thuộc tính vốn có của tội phạm nên việc bỏ lọt hay dung túng, bao che, không xử lý một tội phạm nào đó là đã tạo ra ngoại lệ bất công. Không chỉ bất công giữa người phạm tội bị xử lý với người phạm tội không bị xử lý mà còn bất công đối với xã hội, đối với người bị hại. Không chỉ xử lý mọi tội phạm mà việc xử lý tất cả những tội phạm phải tiến hành trên cơ sở những quy tắc chung thống nhất (quy định pháp luật) mới bảo đảm công bằng. - Bảo đảm sự bình đẳng trước luật hình sự của mọi người phạm tội. Đây là một điểm tiến bộ, mới được ghi nhận ở khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999 mà chưa có ở Bộ luật hình sự năm 1985: “Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội” [15]. Nguyên tắc này yêu cầu trong nội dung quy định pháp luật cũng như việc áp dụng quy định pháp luật đó đều không được phép
  • 42. 35 chứa đựng sự phân biệt đối xử với người phạm tội bất kể giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người đó. Khi khẳng định nguyên tắc này, chính là “chống lại những biểu hiện phân biệt đối xử giữa người phạm tội có địa vị xã hội khác nhau “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ” [16, tr.15]. - Bảo đảm tính tương xứng giữa tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với biện pháp (chế tài) xử lý. Những hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cao phải bị trừng trị nghiêm khắc, ngược lại khi có những tình tiết làm giảm bớt tính nguy hiểm của tội phạm thì biện pháp xử lý áp dụng phải thể hiện sự khoan hồng. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nghiêm trị những người phạm tội mà chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng; khoan hồng, giảm nhẹ đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng (khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999). Quy định phân hóa người phạm tội để có biện pháp xử lý phù hợp và thích đáng này được kế thừa từ Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng ở Bộ luật hình sự năm 1999 có sự chính xác hơn về thuật ngữ mô tả và bổ sung hai trường hợp phạm tội cần nghiêm trị là dùng thủ đoạn xảo quyệt và có tính chất chuyên nghiệp. Như vậy, mặc dù không được gọi tên là nguyên tắc của luật hình sự nhưng các nguyên tắc xử lý tội phạm ở đây đã thể hiện những nội dung cơ bản của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. 2.1.2. Sự thể hiện nội dung trong việc phân loại, phân hóa tội phạm Việc phân loại, phân hóa tội phạm đơn thuần không thể hiện nguyên tắc công bằng mà chỉ khi nó được sử dụng làm cơ sở cho việc áp dụng chính sách xử lý tương ứng với từng loại tội phạm thì mới có được ý nghĩa đó.
  • 43. 36 Phân loại tội phạm trong luật hình sự nước ta được tiến hành trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tuy nhiên ở Bộ luật hình sự năm 1999, cơ sở phân loại này được nêu rõ còn Bộ luật hình sự năm 1985 thì không. Cùng sử dụng tiêu chí nhưng Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ phân chia tội phạm thành hai loại, Bộ luật hình sự năm 1999 lại chia tội phạm thành bốn loại. Hai loại tội phạm được phân chia tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 là: tội phạm nghiêm trọng (tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình) và tội phạm ít nghiêm trọng (những tội phạm khác). Đây là lần đầu tiên về mặt lập pháp các nhà làm luật nước ta quy định về việc phân loại tội phạm, phản ánh đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm có phân hóa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Theo thời gian và sự phát triển của trình độ lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999 phân hóa sâu sắc hơn qua việc phân chia bốn loại tội phạm với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội được xác định từ thấp đến cao là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tương ứng với các loại tội phạm, chế tài cũng tăng nặng dần, phản ánh tính nghiêm khắc của chính sách xử lý. Theo đó, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là đến bảy năm tù, tội phạm rất nghiêm trọng là đến mười lăm năm tù và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là trên mười lăm năm tù, chung thân hoặc tử hình (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999). Như vậy, mặc dù phân loại sâu sắc hay đơn giản nhưng cả hai Bộ luật hình sự của nước ta đều quy định cụ thể hậu quả pháp lý ở các mức tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng loại tội phạm. Đồng thời, phân loại tội phạm còn là một trong những yếu tố căn cứ của việc xác định loại hình phạt áp dụng trong các quy
  • 44. 37 định về hình phạt của luật hình sự. Ví dụ như Bộ luật hình sự năm 1985 quy định những hình phạt ít nghiêm khắc như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng (Điều 22, 24). Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cả hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và phạt tiền đều chỉ được áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; các hình phạt đặc biệt hà khắc như tù chung thân, tử hình chỉ áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng. Rõ ràng, xác định mức hình phạt, loại hình phạt tương ứng với loại tội phạm như vậy chính là một khía cạnh phản án chính sách xử lý công bằng. Bên cạnh đó, phân loại tội phạm trong hai Bộ luật hình sự còn được sử dụng làm căn cứ để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự một cách công bằng bởi vì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định dài hay ngắn tùy theo tính nguy hiểm cao hay thấp của loại tội phạm đó. Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ba mức thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà bị quy định hình phạt từ 02 năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn; 10 năm đối với các loại tội phạm ít nghiêm trọng bị quy định hình phạt tù trên 02 năm; 15 năm đối với các loại tội phạm nghiêm trọng, thời hiệu. Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bốn mức thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với bốn loại tội phạm: 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; 15 đối với các tội phạm rất nghiêm trọng; 20 đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Song song với việc phân loại tội phạm, việc phân hóa tội phạm trên cơ sở các yếu tố như: hình thức lỗi, mức độ thực hiện tội phạm, vai trò trong việc thực hiện tội phạm, đối tượng người phạm tội cũng được các Bộ luật hình sự nước ta sử dụng làm cơ sở xác định đường lối xử lý tội phạm một cách thích đáng. - Về hình thức lỗi, Điều 9, Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự 1999 đều xác định tội phạm được thực hiện với một trong hai
  • 45. 38 dạng lỗi, cố ý hoặc vô ý. Trong mỗi dạng lỗi lại gồm những hình thức thể hiện khác nhau mà Bộ luật hình sự chỉ mô tả, không nêu tên gọi song khoa học luật hình sự Việt Nam đã phân chia và đặt tên thành các hình thức lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý vì quá tự tin. Như vậy, mặc dù các Bộ luật hình sự không khẳng định tội phạm thực hiện với hình thức lỗi nào nguy hiểm hơn nhưng qua chế tài quy định ở Phần các tội phạm cho thấy tội phạm do cố ý bị trừng phạt nghiêm khắc hơn tội phạm do vô ý. Ví dụ như tội giết người ở Điều 94 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân, tử hình trong khi tội vô ý làm chết người ở Điều 98 có mức hình phạt cao nhất chỉ 10 năm tù. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143) phải chịu hình phạt cao nhất đến tù chung thân, trong khi vô ý gây thiệt hại tài sản chỉ bị trừng phạt nếu thiệt hại gây ra nghiêm trọng và hình phạt cao nhất cũng chỉ là 03 năm tù. - Về mức độ thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt Nam có sự phân hóa giữa tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành. Các tội phạm hoàn thành phải chịu trách nhiệm theo quy định chung và quy định tương ứng về tội phạm trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Tội phạm chưa hoàn thành bao gồm chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Giữa các trường hợp này cũng có sự phân hóa về chế độ trách nhiệm. Đối với chuẩn bị phạm tội, luật chỉ trừng phạt những trường hợp có tính nguy hiểm cao. Do phân loại tội phạm khác nhau, Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ trừng phạt hành vi chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng (Điều 15), Bộ luật hình sự năm 1999 trừng phạt hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (Điều 17). Phạm tội chưa đạt được cho là nguy hiểm hơn nên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp (Điều 15 Bộ luật năm 1985, Điều 18 Bộ luật năm 1999). Tuy đánh giá mức độ nghiêm trọng của phạm tội chưa đạt cao hơn chuẩn bị phạm tội nhưng Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định phân
  • 46. 39 hóa về hình phạt áp dụng giữa hai trường hợp này. Bộ luật hình sự năm 1999 đã đề cập đến sự phân hóa này khi quy định về loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng trong hai trường hợp. Đối với chuẩn bị phạm tội, khoản 2 Điều 52 của Bộ luật loại trừ việc áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình. Các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ do chỉ áp dụng trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nên không áp dụng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Do đó, loại hình phạt được áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội bao gồm tù có thời hạn, trục xuất và các hình phạt bổ sung. Đối với phạm tội chưa đạt, Bộ luật hình sự năm 1999 không loại trừ hình phạt nào mà chỉ giới hạn việc áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 Điều 52). Vậy nên, loại hình phạt được áp dụng đối với phạm tội chưa đạt là bất kỳ hình phạt nào quy định đối với tội phạm hoàn thành tương ứng. Về mức hình phạt áp dụng, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có sự phân biệt giữa hai trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Đối với chuẩn bị phạm tội, khoản 2 Điều 52 giới hạn mức áp dụng là 20 năm tù nếu tội phạm hoàn thành tương ứng phải chịu hình phạt tù chung thân, tử hình; 1/2 mức phạt tù được quy định nếu hình phạt áp dụng đối với tội phạm hoàn thành tương ứng là tù có thời hạn. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ đặt ra giới hạn về mức phạt tù có thời hạn là không quá 3/4 mức phạt được quy định đối với tội phạm hoàn thành tương ứng (khoản 3 Điều 52). Nhìn chung, quy định về chế độ trách nhiệm, loại hình phạt và mức hình phạt được áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt như phân tích ở trên thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc, giúp cho hình phạt được quyết định chính xác, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.