Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Thực hành quyền công tố trong vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia Lai
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án làm hư hỏng tài sản
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THẾ BĂNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THẾ BĂNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH XUÂN NAM
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN THẾ BĂNG
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG
TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .......................................... 7
1.1. Những vẫn đề lý luận về công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ..................... 7
1.2. Những quy định của pháp luật về công tác thực hành quyền công tố vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ............21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI
SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI TRONG
NHỮNG NĂM QUA .....................................................................................33
2.1. Tình hình tội phạm về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa
bàn tỉnh Gia Lai...............................................................................................33
2.2. Đánh giá tình hình hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND tỉnh Gia Lai trong những
năm qua ...........................................................................................................36
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý
LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
GIA LAI .........................................................................................................55
3.1. Các giải pháp chung.................................................................................58
3.2. Các giải pháp cụ thể.................................................................................61
KẾT LUẬN....................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLHS Bộ luật Hình sự
2 CQ ĐT Cơ quan điều tra
3 KSV Kiểm sát viên
4 TAND Tòa án nhân dân
5 TNHS Trách nhiệm hình sự
6 TTHS Tố tụng hình sự
7 VKS Viện kiểm sát
8 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
9 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
6. DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1
Thống kê số vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên tổng số vụ án hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Gia Lai đã thụ lý giai đoạn năm 2014-2018
39
2.2
Thống kê kết quả điều tra vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 –
2018
41
2.3
Thống kê kết quả truy tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 –
2018
43
2.4
Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn
2014 – 2018
44
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của VKSND là thừa hành quyền lực từ Quốc hội, là hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước. Với vị trí, vai trò quan trọng đó,
Đảng ta đã dành sự quan tâm lớn đến công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc xét xử sơ thẩm của VKSND như: Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 01/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm
sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác...". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Trước
mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp... tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra”. "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp". Các chủ
trương, quan điểm đó đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013, tại
khoản 1, Điều 107 và khoản 2, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2014 khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công
tố...của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. “Thực hành quyền công
tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ
khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu
8. 2
rộng, các khu công nghiệp, khu chế xuất được đầu tư, xây dựng nhiều, do đó
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được tăng lên. Tuy
nhiên dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Gia Laitrong những năm vừa qua diễn ra
hết sức phức tạp, trung bình mỗi năm các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện,
điều tra, truy tố và đưa ra xét xử sơ thẩm từ 350 vụ - 600 vụ án hình sự, trong
đó có lúc tăng, lúc giảm nhưng nhìn chung luôn có chiều hướng gia tăng. Đặc
biệt các loại tội phạm như: Cố ý gây thương tích, cướp tài sản, trộm cắp tài
sản luôn có chiều hướng gia tăng cả về số lượng tội phạm, người phạm tội,
với tính chất ngày càng nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra ngày
càng lớn. Trước tình hình đó, CQĐT, VKSND, TAND tỉnh Gia Lai đã phối
hợp với các cơ quan hữu quan và quần chúng nhân dân tập trung đấu tranh
triệt phá nhiều loại tội phạm khác nhau đặc biệt là tội phạm huỷ hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản, tập trung chỉ đạo điều tra, phá án nhanh, đưa ra truy tố
và xét xử kịp thời, tổ chức một số phiên tòa xét xử lưu động các loại án điểm,
án điển hình phức tạp, đã được cấp ủy Đảng, chính quyền hoan nghênh, nhân
dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm của CQĐT, VKSND, TAND vẫn còn bộc
lộ những tồn tại, hạn chế nhất định như: Vẫn còn một số tội phạm chưa được
phát hiện (tội phạm ẩn) một số vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần
dẫn đến kéo dài thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; Một số vụ án vẫn bị kháng
cáo, kháng nghị và bị Tòa án cấp trên cải sửa, hủy án... Thực trạng đó có
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là
VKSND hai cấp tỉnh Gia Lai chưa thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố. Chính vì vậy, từ những phân tích nêu trên, việc lựa chọn vấn đề
“Thực hành quyền công tố trong vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm
9. 3
đề tài luận văn Thạc sĩ là đáp ứng yêu cầu cấp thiết khách quan cả về lý luận
và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Qua khảo sát tác giả thấy có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến luận
văn như sau:
- Lê Cảm (2011), Về Viện kiểm sát Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát số 21
tháng 11/2011.
- Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu
cải cách tư pháp, Sách tham khảo, Nxb chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, Nxb Tư pháp.
- Nguyễn Tiến Sơn (2012), Mối quan hệ Toà án nhân dân với Viện kiểm
sát nhân dân, Luận án Tiến sĩ.
- Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm của
công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Sách tham khảo, Nxb chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội.
Những công trình trên đã trình bày những lý luận căn bản về chức năng của
VKSND theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật TTHS, chỉ ra những đặc điểm
trong các khâu công tác của VKSND. Tuy nhiên, chưa có công trình này đi sâu
nghiên cứu đặc điểm công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và cố ý
làm hư hỏng tài sản của VKSND. Do vậy, đề tài của luận văn đã đáp ứng các yêu
cầu thực tiễn cũng như lý luận đang đặt ra hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố vụ
án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sảncủa VKSND thông qua thực tiễn tỉnh
10. 4
Gia Lai. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này trong thời
gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và các quy định của Hiến pháp
năm 2013.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận án đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ
như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để xác định
những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu;
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ các đặc điểm của công tác thực hành
quyền công tố của VKSND dưới góc độ Luật Hiến pháp và Bộ luật TTHS,
BLHS; xây dựng một số khái niệm, nội dung, phương pháp công tác thực
hành quyền công tố vụ án huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản;
- Khảo sát, thống kê, đánh giá tình hình thực tế của công tác thực hành
quyền công tố vụ án huỷ hoại làm và cố ý hư hỏng tài sản VKSND hai cấp tỉnh
Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2019;
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo những yếu tố ảnh hưởng và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố
vụ án huỷ hoại và có ý làm hư hỏng tài sản của VKSND.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn hoạt động thực
hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sảncủa VKSND từ
thực tiễn tỉnh Gia Lai .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Các hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND.
- Về đối tượng: Hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố
11. 5
ý làm hư hỏng tài sản của VKSND hai cấp tỉnh Gia Lai .
- Về địa bàn và thời gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai và thời
gian từ năm 2015 đến hết năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép luận
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động thực
hành quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn nghiên cứu theo chuyên ngành luật hiến pháp và tố tụng hình
sự cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan để làm rõ
tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về thực hành quyền
công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để thống kê
và phân tích tài liệu, báo cáo tổng kết hoạt động thực hành quyền công tố vụ án
huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND trong thực tiễn nhằm tổng
hợp rút ra những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc
- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để tiến hành nghiên
cứu, phân tích hoạt động thực hiện công tác thực hành quyền công tố ở một số
vụ án cụ thể để tìm ra những ưu điểm và khuyết điểm, thiếu sót mang tính phổ
biến. Từ đó rút ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến các vi phạm của
VKSND khi thực hiện công tác thực hành quyền công tố.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia được sử dụng để tọa đàm, trao đổi
với các chuyên gia nhằm tìm hiểu các kinh nghiệm trong hoạt động thực hành
quyền công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND.
- Phương pháp luận của khoa học tố tụng hình sự được sử dụng để xác
12. 6
định cơ sở pháp lý việc thực hiện công tác thực hành quyền công tố vụ án huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND; làm rõ quan hệ phối hợp và
chế ước giữa VKSND với các cơ quan tố tụng .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý
chuyên ngành kiểm sát; làm rõ nội dung thực thực hành quyền công tố vụ án
huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động này
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ kiểm sát trong Trường Đại học
kiểm sát Hà Nội, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố
Hồ Chí Minh;. Một số đề xuất giải pháp của luận án là tài liệu phục vụ để các
cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo khi sửa đổi, bổ sung BLHS và
Bộ Luật TTHS hiện hành của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được kết cấu thành 03 Chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và qui định
của pháp luật về thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố vụ án huỷ hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai trong
những năm qua.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố vụ án huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân
tỉnh Gia Lai.
13. 7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VỤ ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Những vẫn đề lý luận về công tác thực hành quyền công tố vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực
công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên
thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó.
Tuy vậy, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công
tố đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực hành
quyền công tố. Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử.
Trên cơ sở đó, theo tác giả thực hành quyền công tố là “ hoạt động thực
hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của cơ quan được
giao thực hiện quyền công tố thông qua các hành vi tố tụng theo định của Bộ
14. 8
luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”.
Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã
quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người
đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động
tố tụng này chính là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Khái niệm vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Hiện nay chưa có quy định và khái niệm cụ thể về vụ án hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản. Qua nghiên cứu quy định về thẩm quyền điều tra
trong Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, nội dung tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản, tác giả đưa ra khái niệm vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm
hỏng tài sản như sau:
Vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là vụ án hình sự phát sinh
khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố
vụ án hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và áp dụng các
biện pháp được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để xác định tội phạm
và xử lý người phạm tội.
Khái niệm thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hiện nay chưa nhiều, do đó chưa có quy định
15. 9
cũng như khái niệm về vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Trên cơ
sở tìm hiểu và nghiên cứu về thực hành quyền công tố và vụ án hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản ở trên. Thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại cố ý
hoặc làm hư hỏng tài sản được hiểu là “hoạt động thực hiện các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thông qua
các hành vi tố tụng theo định của Bộ luật tố tụng hình sự để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
1.1.2. Đối tượng công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là tội phạm và người
phạm tội. Từ đó có thể suy luận đối tượng của hoạt động thực hành quyền
công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội phạm và người
phạm tội hủy hoại hoặc hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định cụ thể tại
Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Huỷ hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng
hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản. Đây là tội phạm gồm hai
hành vi độc lập nhưng lại cùng tính chất, nên nhà làm luật quy định chung
trong cùng một điều luật. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định
người phạm tội huỷ hoại tài sản hay chỉ cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu người
phạm tội có cả hai hành vi huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản thì phải định
tội là huỷ hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản, chứ không định tội là huỷ
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Các yếu tố cấu thành tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
16. 10
phạm cụ thể được quy định trong Luật hình sự. Cấu thành tội phạm phải có
đầy đủ bốn yếu tố: mặt khách quan, khách thể, mặt chủ quan và chủ thể. Yếu
tố cấu thành tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản cũng có đầy đủ bốn yếu tố này.
Thứ nhất, mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có một trong hai hành vi:
Hành vi hủy hoại tài sản và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản.
Hành vi hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử
dụng; không thể khôi phục lại được hoặc khó có thể khôi phục lại được. Hành
vi này có thể được thực hiện dưới dạng: hành đồng (đập, đốt, phá,..) và không
hành động (bỏ mặc cho tài sản rơi vào tình trạng bị hư hại hoặc tiêu huỷ).
Hành vi có thể được người phạm tội thực hiện bằng các hình thức, công cụ,
phương tiện khác nhau (dùng dao, búa, gậy, hóa chất,….)
Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là hành vi làm tài sản
của người khác bị mất một phần hoặc giảm giá trị, giá trị sử dụng nhưng ở
mức độ có thể khôi phục lại được (ví dụ: Đập phá làm hư hỏng kính của xe
hơi nhưng các bộ phận khác của xe vẫn còn).
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản của người khác. Người phạm tội khi thực hiện hành vi hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng đối với những tài sản sau sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này: tài sản có trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc tài
sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác mà còn vi
phạm; đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật.
Thứ hai, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Cũng như những tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác, tội hủy hoại
17. 11
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của người khác. Tuy nhiên, khác với các tội xâm phạm đến quyền sở hữu
khác, những người phạm tội này không phải đều vì mục đích thu lợi bất
chính. Những người phạm tội này, nếu vì mục đích thu lời thì thường không
phải là chủ mưu mà chỉ đóng vai trò đồng phạm, tham gia hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản của người khác để nhận được một khoản tiền hoặc lợi ích
khác từ người chủ mưu.
Thứ ba, mặt chủ quan của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Người phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản luôn thực
hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý. Người phạm tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản của người khác luôn đặt ra mục đích trước khi thực hiện
hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác nên không thể
có trường hợp phạm tội do vô ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn huỷ hoại hoặc làm hư hỏng
tài sản của người khác. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục
đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm. Nếu người phạm tội có mục đích khác, còn việc huỷ hoại tài sản hoặc
làm hư hỏng tài sản chỉ là phương pháp để đạt được mục đích khác thì không
phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà
người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng.
Ví dụ: Người phạm tội đốt nhà với mục đích giết người thì sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về hai tội là tội hủy hoại tài sản và tội giết người.
Thứ tư, chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
18. 12
Chủ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác là
bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, những người từ
đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi thực
hiện các hành vi được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình
sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Người phạm tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ
nhiều động cơ khác nhau như: để trả thù, vì ghen tuông... nhưng chủ yếu là vì
tư thù. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, mà nó chỉ có
ý nghĩa trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là người thực
hiện hành vi tác động vào tài sản thuộc sở hữu của người khác, làm cho tài
sản đó bị mất giá trị sử dụng (hủy hoại tài sản) hoặc làm giảm đáng kể giá trị
sử dụng của tài sản (làm hư hỏng tài sản) với giá trị thiệt hại từ 2 triệu đồng
trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp được luật hình sự
quy định (Điều 178 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hay nói
cách khác, người phạm tội thực hiện hành vi thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như đã phân tích ở trên.
Người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải chịu trách
nhiệm hình sự với 04 khung hình phạt, cụ thể:
- Khung hình phạt quy định hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định
khung hình phạt.
- Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp dụng
đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ chức;
gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; tài
sản là bảo vật quốc gia; dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy
19. 13
hiểm khác; để che dấu tội phạm khác; vì lý do công vụ của người bị hại; tái
phạm nguy hiểm. Trong đó:
+ Dùng chất nổ, chất cháy phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản là trường hợp thực hiện các hành vi phạm tội nêu trên bằng chất nổ hoặc
chất cháy. Chất nổ là chất có khả năng gây nên một phản ứng hóa học nhanh,
mạnh, các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm, thuốc phóng v.v…Chất cháy
là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ô xi trong không khí, nước
hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ bị bốc cháy ở nhiệt
độ cao, diêm tiêu, phốt pho, thuốc đạn…
+ Dùng thủ đoạn nguy hiểm khác phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản là: sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm; sử dụng thuốc ngủ,
thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người
đang quản lý, trông coi để thực hiện việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản được dễ dàng.
+ Để che giấu tội phạm khác là trường hợp hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản nhằm mục đích che dấu một tội phạm khác đã được thực hiện.
Tài sản hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng có thể là những vật, tiền bạc có giá trị
chứng minh tội phạm và người phạm tội, bao gồm: vật, tiền bạc là công cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật, tiền bạc do phạm tội hoặc do mua
bán, đổi chác những thứ ấy mà có; vật khác mang dấu vết của tội phạm mà
người hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng nhằm mục đích che giấu.
+ Vì lý do công vụ của người bị hại là trường hợp người phạm tội thực
hiện hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xuất phát từ việc người
chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản thực hiện công vụ của mình. Mục đích của
việc hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là để trả thù người sở hữu hoặc
người quản lý tài sản.
- Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng
20. 14
đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng
đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Khung hình phạt quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm áp dụng
đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
- Khung hình phạt bổ sung, quy định hình phạt bổ sung là người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến
05 năm.
Tóm lại, có thể thấy, đối tượng của công tác thực hành quyền công tố vụ
án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội phạm là người phạm tội. Xác
định đúng đối tượng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố xét xử kịp thời nghiêm minh người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản; đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng
tội, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
1.1.3. Phạm vi công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản
Với mục tiêu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo
pháp luật của trách nhiệm hình sự, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy
ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Khi quyền công tố được phát
động thì đồng nghĩa với hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai
và khi quyền công tố không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng
được kết thúc.
Quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 thì thực hành quyền công tố là hoạt động “được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Như vậy, có thể xác định phạm vi thực hành quyền công tố vụ án hủy
21. 15
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bắt đầu từ khi giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và
kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ quy định trên, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố
vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thông qua những hoạt động
dưới đây:
- Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án.
- Điều tra một số loại tội phạm.
- Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự
của vụ án.
Phạm vi thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản bắt đầu từ khi giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp khi thực hành quyền công tố trong điều
tra vụ án hình sự về tội Hủy hoại hoặc Cố ý làm hư hỏng tài sản trên cơ sở các
quy định tại Điều 178 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (trước đây là
Điều 143 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009); Điều 14 Luật tổ chức
VKSND năm 2014; Điều 165 Bộ luật TTHS năm 2015; Thông tư liên tịch số:
05/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP, ngày 07/9/2005 giữa VKSND tối cao, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa VKSND tối cao và Bộ
22. 16
Công an, Bộ Quốc phòng “Trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
TTHS năm 2003”, (Nay là Thông tư liên tịch số: 04/2018/TTLT-VKSNDTC-
BCA-BQP ngày 19/10/2018 giữa VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng về quan hệ phối hợp giữa VKSND tối cao và Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng “Trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2015”;
Quy chế tạm thời Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sau đây gọi tắt
là Quy chế số 03/2017).
Vì vậy, khi thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các công tác sau: thực hành
quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản và kiến nghị khởi tố tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản; thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; thực hành quyền công tố trong giai đoạn
truy tố bị cáo về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Thứ nhất, thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và kiến nghị khởi tố tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Khi thực hành quyền công tố trong hoạt động này, Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền
công dân (cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh).
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
23. 17
tiến hành một số hoạt động điều tra).
- Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
(Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra) thực hiện khi cần thiết.
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu
hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
không được khắc phục.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội.
Những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trên được quy định tại
Điều 159, điều 160 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Thứ hai, thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát (Kiểm sát viên) trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gồm:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, khởi tố bị can.
- Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, quyết định không
khởi tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trái pháp luật; phê
chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can trái pháp luật.
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý
24. 18
làm hư hỏng tài sản, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng
hình sự quy định.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,
các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người,
quyền công dân theo quy định của luật.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ
hành vi của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, người phạm tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm
tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi
phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được
khắc phục.
- Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm.
- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ
án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công
25. 19
tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trên được quy định tại
Điều 161 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Thứ ba, thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố bị cáo về tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Đây là giai đoạn mà Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách
toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ
quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy
tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản.
Truy tố là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm áp dụng các
biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của
toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng;
để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ
lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước đó. Do đó, khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố, BLTTHS, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân quy định, Viện kiểm sát thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy
định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong trường hợp cần thiết.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung
tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra
26. 20
bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
- Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố
bị can trong trường hợpphát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người phạm
tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều
tra bổ sung.
- Quyết định việc tách, nhập vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, chuyển vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản để truy tố theo
thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn.
- Quyết định truy tố, không truy tố bị can.
- Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, bị can; quyết định phục hồi vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, bị can.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trên được quy định tại
Điều 236, điều 237 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Thứ tư, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử là hoạt động quan trọng
nhất của Viện kiểm sát, đây là hoạt động nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội đối với người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Để
đảm bảo cho hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thực hiện đúng quy định pháp luật,
truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội. Viện kiểm sát thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
27. 21
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
- Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ
án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tại phiên tòa.
- Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử và khi xét xử được quy định tại Điều 266, 267 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 và được cụ thể hóa tại các điều luật trong chương
XXI- Xét xử sơ thẩm của Bộ luật hình sự.
1.2. Những quy định của pháp luật về công tác thực hành quyền
công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát
nhân dân
1.2.1. Nhận thức chung về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
theo qui định của pháp luật hình sự Việt Nam
Nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật, cho nên bất kỳ một chế độ xã
hội nào cũng đều phải xây dựng hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định của xã hội, trật tự pháp luật cũng như bảo vệ
nhà nước. Ở nước ta, từ khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, chính
quyền thuộc về tay nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhà nước Việt Nam đã tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật để kịp
thời quản lý và điều hành đất nước, nhiều sắc lệnh, pháp lệnh đã ra đời, trong
đó có các văn bản Pháp luật hình sự để bảo vệ các quyền cơ bản của con
người. Mỗi công dân sống trong xã hội bao giờ cũng có những quyền và lợi
ích nhất định, quyền và lợi ích của công dân được quy định trong Hiến pháp.
28. 22
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được qui định tại điều 178
BLHS 2015 ( sửa đổi bổ sung 2017) như sau:
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị
giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định
tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng;
c) Tài sản là bảo vật quốc gia;
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Để che giấu tội phạm khác;
e) Vì lý do công vụ của người bị hại;
g) Tái phạm nguy hiểm,
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì
bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
29. 23
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Điều 178 Bộ luật Hình sự quy định có 4 khung hình phạt tương ứng với
4 khoản như sau:
- Người phạm tội quy định tại Khoản 1 thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Người phạm tội quy định tại Khoản 2 thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07
năm, áp dụng đối với các trường hợp phạm tội sau: Có tổ chức; Gây thiệt hại
cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;Tài sản là
bảo vật quốc gia;Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm
khác;Để che giấu tội phạm khác;Vì lý do công vụ của người bị hại; Tái phạm
quy hiểm.
- Người phạm tội quy định tại khoản 3 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10
năm, áp dụng đối vớitrường hợp gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ
200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
-Người phạm tội quy định tại khoản 4 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10
năm, áp dụng đối với trường hợp gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000
đồng trở lên
- Hình phạt bổ sung: ngoài các hình phạt chính nêu trên, người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến
05 năm.
1.2.2. Cơ sở lý luận của công tác thực hành quyền công tố vụ án hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Viện kiểm sát nhân dân
Quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất
30. 24
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Công hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Quốc hội làm
tất cả, mà có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, rành mạch giữa Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện
kiểm sát nhân dân là một bộ phận cấu thành của hệ thống cơ quan tư pháp
thuộc bộ máy nhà nước.
Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp”.Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 cụ thể hóa quy
định tại Hiến pháp năm 2013, theo đó “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng đó là thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nếu như công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng tuân thủ quy định của
pháp luật thì thực hành quyền công tố là hoạt động đảm bảo cho mọi hành vi
phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan
người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị
khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công
dân trái luật.Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến định, Viện kiểm sát
là cơ quan duy nhất được nhà nước trao quyền công tố để đảm bảo sự nghiêm
minh của pháp luật và sự nhất quán trong công cuộc đấu tranh phòng chống vi
31. 25
phạm và tội phạm.Công dân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (gọi chung là quyền sở hữu tài sản).
Quyền sở hữu tài sản này được pháp luật bảo vệ và khi có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu tài sản, tùy theo mức độ, tính chất vụ việc mà người xâm phạm
chịu trách nhiệm với hành vi tương ứng.
Tại Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định:
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị
giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định
tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng;
c) Tài sản là bảo vật quốc gia;
d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Để che giấu tội phạm khác;
e) Vì lý do công vụ của người bị hại;
g) Tái phạm nguy hiểm,
32. 26
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì
bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Hành vi hủy hoại tài sản có thể hiểu là hành vi làm cho tài sản của người
khác bị thiệt hại đến mức làm mất hẳn giá trị hoặc mất hẳn công năng, giá trị
sử dụng hoặc bị tiêu hủy hoàn toàn. Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản là hành
vi làm tài sản của người khác bị mất một phần hoặc giảm giá trị hoặc giảm giá
trị sử dụng nhưng ở mức độ có thể khôi phục, sửa chữa lại được. Khi phân
biệt tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản, thường phải căn cứ
vào một số dấu hiện sau:
Khi một người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của
người khác, thõa mãn các dấu hiệu tội phạm được quy định tại Điều 178 Bộ
luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) thì người đó phải chịu
trách nhiệm hình sự tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân là để
đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử kịp thời; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
trong vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác để bảo vệ
quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật quy định, trừng trị thích
đáng người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
Tóm lại, thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản là một trong những công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm
33. 27
sát nhân dân. Đây là chức năng được Nhà nước thừa nhận và ghi nhận. Thực
hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố vụ án hủy hoại tài
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
cá nhân - một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát. Qua đó
đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, trừng trị thích đáng người
phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị
và phòng ngừa tội phạm.
1.2.3. Những đặc trưng khác nhau để phân biệt giữa thực hành
quyền công tố với hoạt động kiểm sát điều tra trong điều tra tội Hủy
hoại hoặc Cố ý làm hư hỏng tài sản:
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 20014 thì giữa thực hành
quyền công tố với hoạt động kiểm sát điều tra trong điều tra tội Hủy hoại
hặc Cố ý làm hư hỏng tài sản cũng có sự khác nhau, bao gồm:
Tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự, bao gồm như sau:
Một là, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can.
Hai là, hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê
chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can trái pháp luật.
Ba là, khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
Bốn là, phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế
34. 28
quyền con người, quyền công dân.
Năm là, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật.
Sáu là, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
Bày là, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
Tám là, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm,
vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được
khắc phục.
Chín là, khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi
phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu
tội phạm.
Mười là, quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam,
chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Mười một là, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành
quyền công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tại Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự bao gồm như
sau:
35. 29
Một là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và
lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.
Hai là, kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng;
yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm
minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
Ba là, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
Bốn là, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết.
Năm là, kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố,
điều tra.
Sáu là, yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra;
xử lý nghiêm minh Điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt
động tố tụng.
Bảy là, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Tám là, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ
án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.2.4. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra tội Hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong điều
tra tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì giữa VKS và CQĐT luôn
tồn tại mối quan hệ có tính phối hợp và chế ước.
36. 30
Trong Mối quan hệ phối hợp: Sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự đó là sự hợp tác trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và của Cơ quan điều tra nhằm mục đích
phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý tội phạm theo đúng quy định của pháp
luật. Việc phối hợp dựa trên căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
nhiệm vụ quyền hạn của CQĐT và VKS trong đấu tranh phòng chống tội
phạm và bảo vệ Nhà Nước, tổ chức, xã hội và cá nhân. Về hình thức phối hợp
giữa VKS với CQĐT có thể theo quy chế hai bên đã ký kết, theo chương trình
kế hoạch công tác hoặc đột xuất thông qua việc giải quyết từng vụ án cụ thể.
Về chủ thể có thể phối hợp giữa lãnh đạo hai cơ quan hoặc giữa Điều tra viên
với Kiểm sát viên thông quan văn bản hoặc trao đổi trực tiếp đã được các bên
phối kết hợp trong quy chế đã ký kết. Về nội dung sự phối hợp trong từng chế
định tố tụng hình sự cụ thể như nắm, quản lý tin báo tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố ( nguồn tin về tội phạm), trong khám nghiệm hiện trường để xác
định thiệt hại bị xâm hại là như thế nào.... Chất lượng, hiệu quả công tác phối
hợp phụ thuộc vào sự nhiệt tình, chủ động, sự tích cực của các chủ thể này.
Các hoạt động trên của Viện kiểm sát nhằm giúp Cơ quan điều tra, Điều tra
viên nhanh chóng, phát hiện chính xác và xử lý các hành vi phạm tội và tội
phạm( người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội) theo đúng quy định của
pháp luật.
Trong Mối quan hệ chế ước: Giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra
trong tố tụng hình sự luôn có mối quan hệ tố tụng đặc biệt, trong đó VKS có
quyền giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi không có căn cứ và
trái pháp luật của Cơ quan điều tra và Điều tra viên. Quyền này của VKS đã
được hiến định và có hiệu lực rất cao vì vậy CQĐT phải chấp hành nên có thể
nói nó mang tính chế ước của VKS đối với CQĐT. Tính chế ước của Viện
kiểm sát nhằm bắt buộc Cơ quan điều tra, Điều tra viên thực hiện đúng các
37. 31
quy định của pháp luật về điều tra vụ án hình sự, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội, ngăn ngừa, loại bỏ các vi phạm pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm các quyền lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng. Thời điểm của Viện kiểm sát chế ước hoạt động điều
tra bắt đầu ngay từ khi Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố(Nguồn tin về tội phạm), đồng
thời thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền chế ước
này của VKS chỉ được tiến hành đối với hoạt động của CQĐT, có nghĩa là đối
tượng của sự chế ước chính là các quyết định, hành vi của CQĐT và Điều tra
viên, Cán bộ điều tra trong quá trình tố tụng còn những nội dung khác như tổ
chức, kỷ luật nội bộ... không phải là đối tượng chịu sự điều chỉnh của VKS.
Sự chế ước được thực hiện thông qua quyền kiểm sát của Viện kiểm sát đối
với hoạt động khám nghiệm hiện trường, quyền tham gia định giá tài sản của
Hội đồng định giá tài sản, lấy lời khai của người bị thiệt hại về tài sản, nhan
chứng, hỏi cung bị can... trong việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, yêu cầu
thay đổi, hủy bỏ các quyết định của cơ quan điều tra cũng như việc đề ra các
yêu cầu điều tra. Theo quy định tại Điều 162, 167 BLTTHS thì CQĐT, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm
thực hiện đầy đủ mọi yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạ
trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc khởi tố, điều tra
vụ án hình sự …
38. 32
Tiểu kết chương 1
Tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản là hai tội danh độc
lập nhưng được quy định chung trong một điều luật là Điều 178 BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) do có những đặc điểm
tương đồng nhau. Cũng chính vì như vậy, mà hiện nay trong nhiều vụ án vẫn
còn quan điểm khác nhau giữa tội hủy hoại tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài
sản.Thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng quan trọng của Viện
kiểm sát nhân dân được Hiến pháp ghi nhận. Qua tìm hiểu những cơ sở lý
luận và chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát mà cụ thể là
khái niệm, đối tượng, phạm vi của thực hành quyền công tố trong vụ án hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phần nào thấy được nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng hiến định,
thực hiện quyền lực Nhà nước. Thực hiện quyền công tố trong vụ án hủy hoại
tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nhằm mục đích bảo vệ quyền sở hữu tài
sản của công dân; đảm bảo mọi hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử kịp thời; góp phần bảo
đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Đồng thời, góp
phần răn đe, phòng ngừa tội phạm hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản nói riêng và tội phạm nói chung.
39. 33
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỤ
ÁN HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. Tình hình tội phạm về hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Trong điều tra các loại tội phạm nói chung và điều tra tội phạm hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng, việc xác định cụ thể và chính xác
những vấn đề phải chứng minh có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho điều tra
viên lập kế hoạch điều tra sát hợp, chính xác; tiến hành các bước điều tra, áp
dụng các phương pháp, biện pháp, thủ thuật điều tra hợp lý, khoa học… đặc
biệt từ việc hiểu rõ đối tượng cần chứng minh và biết vận dụng vào từng vụ
án cụ thể sẽ giúp cho điều tra viên thu thập chứng cứ chính xác, tạo điều kiện
giải quyết vụ án, xử lý người phạm tội được khách quan. Kiểm sát viên thông
qua đó cũng kiểm sát chặt chẽ hơn trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp
và thực hành quyền công tố của mình.
Tỉnh Gia Lai là tỉnh có diện tích lớn thứ hai của Việt Nam, nằm trong
vùng kinh tế Tây Nguyên.Tội phạm nói chung và tội phạm về hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai ngày càng có những diễn
biến phức tạp. Tội phạm nói chung và tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản nói riêng là một hiện tượng xã hội tiêu cực đang tồn tại trong xã
hội ta. Khi nghiên cứu tình hình của một loại tội phạm cụ thể cần phải nghiên
cứu tình hình tội phạm nói chung ở cùng thời điểm đó trên địa bàn tỉnh Gia
Lai. Qua nghiên cứu báo cáo tổng kết tình hình Thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử của VKSND tỉnh Gia Lai cho thấy tình hình
tội phạm có sự tăng giảm khác nhau. Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi một số
40. 34
loại tội phạm còn diễn biến phức tạp.
Trong 05 năm (từ 2014 đến 2018) tội phạm hình sự xảy ra 4098 vụ
chiếm tỉ lệ rất cao trong cơ cấu tội phạm nói chung ở tỉnh Gia Lai (98%),
trong đó tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là 300 vụ, chiếm tỷ
lệ không quá cao .Bên cạnh sự gia tăng về số lượng các vụ phạm pháp hình sự
xảy ra trên địa bàn thì thủ đoạn và tính chất hoạt động của tội phạm cũng
ngày càng phức tạp. Hoạt động của tội phạm kinh tế cũng diễn biến phức tạp,
tập trung nhất là những vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, trốn thuế, sản
xuất buôn bán hàng giả … đang là vấn đề bức xúc gây ảnh hưởng đến an ninh
trật tự. Điều này thể hiện qua số vụ mà lực lượng Công an tỉnh đã phát hiện
điều tra xử lý là 75 vụ. Tệ nạn mại dâm, cờ bạc, ma túy vẫn gây ảnh hưởng
xấu đến đời sống xã hội, đặc biệt là trong thanh thiếu niên. Tổng số vụ ma túy
được lực lượng Công an phát hiện điều tra là 54 vụ. Nhìn chung tình hình tội
phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh Gia Lai đang diễn biến theo chiều hướng gia
tăng và phức tạp, thực sự trở thành vấn đề bức xúc của xã hội, ảnh hưởng đến
sự ổn định ANTT và phát triển kinh tế xã hội hiện nay của tỉnh.
Ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả Kế hoạch số 09-KH/BCSĐ ngày 04/8/2014 của Ban cán sự
đảng VKSND tối cao về triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 28/7/2017 của VKSND tối cao về tăng cường công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp, bảo đảm đạt và vượt các chỉ tiêu nghiệp vụ của Quốc hội
và của Ngành đã đề ra; hai cấp Kiểm sát đã tổ chức thực hiện tốt việc tiếp
công dân theo quy định của pháp luật, nhất là trách nhiệm tiếp công dân của
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong Ngành; tăng cường công tác kiểm
41. 35
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, chủ động phối
hợp với các cơ quan tư pháp cùng cấp rà soát việc tiếp nhận đơn, thụ lý, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, nhất là những vụ việc khiếu
nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng kéo dài; tăng cường kiểm sát đối với các vụ
việc cụ thể, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm sát do pháp luật quy định,
kịp thời phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị, kiến nghị khắc phục vi
phạm và kiểm tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị; chú trọng nâng cao
chất lượng kháng nghị, kiến nghị, đảm bảo chặt chẽ, đúng pháp luật, có hiệu
quả. Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm
quyền, chú trọng đối thoại trong quá trình giải quyết khiếu nại, đảm bảo tính
khách quan, toàn diện của việc giải quyết khiếu nại.
Viện kiểm sát hai cấp đã kiểm sát chặt chẽ 100% vụ án hình sự ngay từ
khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra, kịp thời ban hành 1.366
bản yêu cầu điều tra vụ án; tham gia hỏi cung, trực tiếp hỏi cung, phúc cung
bị can ; thông qua đó đã yêu cầu thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố và quyết
định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can không có căn cứ của Cơ quan cảnh
sát điều tra.
Trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết định, kiên quyết không phê chuẩn
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam đối với những trường hợp không có căn cứ để
bắt theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự; từ chối phê chuẩn các quyết
định khởi tố bị can không có căn cứ nhằm bảo đảm các quyết định phê
chuẩn của Viện kiểm sát đều có căn cứ, đúng pháp luật; trực tiếp lấy lời khai
người bị bắt, người bị tạm giữ; ban hành 15 kiến nghị yêu cầu Cơ quan điều
tra khắc phục các vi phạm trong hoạt động điều tra. VKSND hai cấp chủ trì,
phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp rà soát, phân loại án tạm
đình chỉ theo đúng quy định của pháp luật, đối với những trường hợp đã hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc do thay đổi quy định của pháp
42. 36
luật mà hành vi phạm tội không bị coi là tội phạm nữa, VKSND hai cấp đã
kịp thời yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cùng cấp ra quyết
định đình chỉ hoặc tự mình ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của
pháp luật.
Viện kiểm sát hai cấp đã triển khai nhiều biện pháp phấn đấu thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Hầu hết các chỉ tiêu công tác đã đạt và
vượt so với kế hoạch đề ra. Hoạt động công tác kiểm sát đã có chuyển biến
tích cực: tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm được nâng lên, không để
xảy ra việc đình chỉ điều tra, truy tố, xét xử oan, sai; tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng được khống chế ở mức thấp; không
có trường hợp nào Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, việc phối hợp tổ chức
án điểm và án xét xử lưu động được quan tâm. Chất lượng và tiến độ giải
quyết các vụ án cả về hình sự và dân sự được nâng lên. Chất lượng, số lượng
kháng nghị và kiến nghị trong tất cả các khâu công tác kiểm sát đều đạt cao
hơn so với cùng kỳ năm
2.2. Đánh giá tình hình hoạt động thực hành quyền công tố đối với
tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND tỉnh Gia Lai
trong những năm qua
Hoạt động phòng ngừa của VKSND tỉnh Gia Lai đối với tội phạm hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là quá trình tiến hành các biện pháp phòng
ngừa xã hội và biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ theo chức năng và nhiệm vụ
đã được qui định, phù hợp với qui định của pháp luật nhằm làm hạn chế, tiến
tới loại trừ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm. Trong quá trình
phòng ngừa của VKSND tỉnh Gia Lai không bị đơn lẻ mà được sự chỉ đạo
của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhận được sự ủng hộ tích cực từ các tổ
chức xã hội và nhân dân. Cơ sở pháp luật cho hoạt động phòng ngừa VKSND
43. 37
tỉnh Gia Lai đối với tội phạm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là
BLHS, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản quy phạm pháp luật
khác. Biện pháp phòng ngừa của VKSND tỉnh Gia Lai đối với tội phạm hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản bao gồm: biện pháp phòng ngừa xã hội và
biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.
2.2.1. Những kết quả đạt được
Viện kiểm sát hai cấp xác định và thực hiện tốt 02 công tác đột phá, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác của Ngành; nhiều chỉ tiêu công tác
được tăng cường cả về số lượng và chất lượng so với năm trước, đạt và vượt
kế hoạch đề ra như: Tăng cường thực hành quyền công tố, trực tiếp kiểm sát
công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm tại Công an cấp xã; làm
tốt công tác chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tỷ lệ trả hồ sơ điều tra
bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng được khống chế ở mức thấp; việc
điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chất
lượng kháng nghị phúc thẩm án hình sự, dân sự được nâng cao; ban hành
nhiều kiến nghị đối với cơ quan hữu quan về nguyên nhân, điều kiện phát sinh
tội phạm và giải pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm; các phiên
tòa rút kinh nghiệm và phiên tòa xét xử lưu động được tăng cường cả về số
lượng và chất lượng; kỹ năng tranh tụng, tham gia phiên tòa xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hành chính được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật công vụ, nghiệp
vụ...Qua đó, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp được nâng lên.
Ví dụ: Qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết các vụ
án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai phát hiện
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mang Yang đã áp dụng,
44. 38
viện dẫn văn bản pháp luật hết hiệu lực thi hành để tiến hành định giá và ban
hành 05 kết luận định giá tài sản trong 01 vụ “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và
01 vụ“Hủy hoại tài sản”, là không đúng quy định của pháp luật. Lẽ ra phải
viện dẫn, áp dụng và tiến hành trình tự, thủ tục định giá theo Nghị định số
30/2018/NĐ-CPngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành
lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài
sản trong tố tụng hình sự có hiệu lực từ ngày 01/5/2018 và Thông tư số
43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018 của Bộ Tài chính về hướng dẫn một số điều
của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ có hiệu lực
kể từ ngày 25/6/2018 nhưng lại viện dẫn, áp dụng và tiến hành thủ tục định
giá theoNghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ và
Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính, là những
văn bản pháp luật đã hết hiệu lực thi hành.
Việc áp dụng sai quy định của pháp luật như đã nêu trên của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mang Yang là vi phạm nghiêm
trọng, tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sai lầm trong việc nhận định, đánh giá chứng
cứ, có thể dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để bảo đảm việc thu thập, đánh
giá chứng cứ khách quan, toàn diện, chống oan sai và chống bỏ lọt tội phạm,
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang đã ban hành Kiến nghị số 01/KN-
VKS ngày 10/7/2018 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự
huyện Mang Yang thu hồi 05 Kết luận định giá tài sản nêu trên và tiến hành
định giá lại theo quy định của pháp luật hiện hành
Có nhiều đổi mới trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành để thực hiện
toàn diện chức năng, nhiệm vụ của Ngành: Trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra được tăng cường; thực hiện kiểm sát sớm hơn, mở rộng hơn,
chặt chẽ và hiệu quả hơn trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
45. 39
kiến nghị khởi tố; chú trọng thực hiện các biện pháp chống oan, sai, chống bỏ
lọt tội phạm; tỷ lệ bắt, tạm giữ chuyển xử lý hình sự và tỷ lệ giải quyết án của
Viện kiểm sát đạt vượt chỉ tiêu; tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung được
khống chế ở mức thấp; chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự, dân sự,
hành chính đạt cao. Ban hành nhiều kiến nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp
khắc phục vi phạm, góp phần đảm bảo pháp chế trong hoạt động tư pháp.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ trọng
tâm, đột phá; Công tác thanh tra, kiểm tra có đổi mới; kỷ luật, kỷ cương trong
Ngành được giữ vững. Quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ
quan tư pháp cùng cấp được củng cố, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành
và địa phương.
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên
tổng số vụ án hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã thụ lý
giai đoạn năm 2014-2018
Năm
Số vụ án hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Tổng số vụ án hình sự
được thụ lý
Chiếm tỷ lệ
(%)
2014 63 1517 4,15%
2015 54 1516 3,56%
2016 65 1481 4,39%
2017 57 1451 3,92%
2018 33 1385 2,38%
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai
Dựa vào bảng thống kê số vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
trên tổng số vụ án hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã thụ lý.
Ta thấy tình hình thụ lý vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của
46. 40
VKSND tỉnh Gia Lai có biến động nhẹ qua từng năm. Cụ thể năm 2014 số vụ
đã thụ lý là 63 vụ trên tổng số 1517 vụ, chiếm tỷ lệ là 4,15 %. Trong năm
2015, VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý 54 vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên tổng số 1516 vụ án, chiếm tỷ lệ 3,56 %, giảm 09 vụ so với
năm 2014. Trong năm 2016, VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý 65 vụ án hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên tổng số 1481 vụ án, chiếm tỷ lệ 4,39 %,
tăng 11 vụ so với năm 2015. Đây là năm mà tỷ lệ số vụ án hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản được thụ lý chiếm tỷ lệ cao nhất trong vòng 05 năm được
đưa ra nghiên cứu, tuy nhiên tỷ lệ so với các năm có gia tăng nhưng không
đáng kể. Trong năm 2017 số vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
được VKSND tỉnh Gia Lai thụ lý là 57 vụ án, trên tổng số 1451 vụ án hình sự
được thụ lý, chiếm tỷ lệ 3,92%, giảm 08 vụ so với năm 2016. Và năm 2018
VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý 33 vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, trên tổng số 1385 vụ án hình sự được VKSND tỉnh thụ lý, chiếm tỷ lệ
2,38 %, giảm 24 vụ so với năm 2017. Đây là năm có tỷ lệ án về tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chiếm tỷ lệ thấp đáng kể trong 05 năm được
chọn nghiên cứu, giảm 2% số vụ án được VKSND thụ lý về tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản so với năm 2016 tương ứng với 32 vụ án. Và đặc
biệt trong 03 năm liền kề là 2016, 2017 và 2018 thì tình hình thụ lý vụ án về
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của VKSND tỉnh Gia Lai đều có
chiều hướng giảm đáng kể.
Có được những kết quả này là do VKSND tỉnh và các Viện kiểm sát cấp
huyện đã tổng hợp tình hình, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh và kịp
thời ban hànhcác kiến nghị, đề nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan đề ra các
giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm
trên địa bàn tỉnh.
47. 41
Bảng 2.2: Thống kê kết quả điều tra vụ án hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 2018
Năm
Tổng thụ lý Khởi tố mới
Đề nghị truy
tố
Đình chỉ
Tạm đình
chỉ
Vụ
Bị
can
Vụ
Bị
can
Vụ
Bị
can
Vụ
Bị
can
Vụ
Bị
can
2014 63 88 50 74 41 76 1 1 9 1
2015 54 63 34 47 24 46 2 2 15 0
2016 65 76 52 56 35 62 0 0 18 2
2017 57 46 40 35 24 36 0 0 24 1
2018 33 38 29 33 21 34 0 0 7 0
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai
Qua bảng thống kê kết quả điều tra vụ án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 2018 ta thấy nhìn
chung các thông số về tình hình tội phạm và tình hình điều tra vụ án về tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đều có chiều hướng giảm xuống. Cụ
thể : Vào năm 2014, VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý tổng số 63 vụ án, 88 bị
can về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Trong đó khởi tố mới 50
vụ với 74 bị can; đề nghị truy tố 41 vụ và 76 bị can; đình chỉ 01 vụ, 01 bị can;
tạm đình chỉ 09 vụ và 01 bị can. Vào năm 2015, tổng số vụ án hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản và số bị can mà VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý có
giảm hơn năm 2014. Cụ thể số vụ án thụ lý là 54 vụ ( giảm 09 vụ so với năm
2014), 63 bị can (giảm 25 bị can so với năm 2014). Khởi tố mới 34 vụ với 47
bị can. Đề nghị truy tố 24 vụ , 46 bị can. Đình chỉ 02 vụ và tạm đình chỉ 09
vụ. Nhìn chung trong năm 2015 số vụ án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản mà VKSND tỉnh Gia Lai đã thụ lý đều giảm cả về số lượng vụ án