SlideShare a Scribd company logo
1 of 83
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
TRẦN THỊ THANH THỦY
c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù
trong luËt h×nh sù viÖt nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
TRẦN THỊ THANH THỦY
c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù
trong luËt h×nh sù viÖt nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
HÀ NỘI – 2015
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Trang
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI
TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ................................................................. 7
1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự................................. 7
1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự............................................................................................................... 7
1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự.............................................................................................................13
1.2. Phạm vi các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ...................................21
1.3. Phân biệt các tình tiết loại trừ TNHS với những trường hợp không có
TNHS và miễn TNHS .....................................................................................23
1.4. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự.............................................................................................................26
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ......................................................26
1.4.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay............28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..............................................................................30
CHƢƠNG 2: CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH .......................32
2.1. Loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng..........................32
2.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng.........................................................32
2.1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng.............................................34
2.2. Loại trừ trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết.................................43
2.2.1. Khái niệm tình thế cấp thiết................................................................43
2.2.2. Các điều kiện của tình thế cấp thiết....................................................45
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..............................................................................50
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM......52
3.1. Đánh giá các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam..................52
3.2. Hoàn thiện BLHS quy định về các tình tiết loại trừ TNHS.....................57
3.2.1. Hoàn thiện quy định về phòng vệ chính đáng.......................................58
3.2.2. Bổ sung quy định về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự khác ...60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..............................................................................69
KẾT LUẬN....................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................73
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu, các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Ngƣời cam đoan
Trần Thị Thanh Thủy
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CHLB: Cộng hòa Liên bang
CHND: Cộng hòa nhân dân
CTTP: Cấu thành tội phạm
PLHS: Pháp luật hình sự
PVCĐ: Phòng vệ chính đáng
TTCT: Tình thế cấp thiết
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc
người phạm tội phải chịu chế tài hình sự được luật hình sự quy định. Theo đó,
luật hình sự có nhiệm vụ xác định các hành vi vi phạm pháp luật là tội phạm
và phải chịu TNHS. Bên cạnh đó, luật hình sự cũng có những quy định về các
trường hợp mà hành vi đã thực hiện về hình thức tuy có các dấu hiệu của tội
phạm nhưng vì có những tình tiết đặc biệt nên không bị coi là tội phạm và
không phải chịu TNHS. Luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như Bộ luật
hình sự (BLHS) hiện hành chưa có tên gọi cho các tình tiết này mà chỉ có tên
gọi cho từng tình tiết cụ thể, đó là phòng vệ chính đáng (Điều 15) và tình thế
cấp thiết (Điều 16). Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết này được các
nhà khoa học gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Các tên gọi khác nhau đó là:
“căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”; “những trường hợp
(tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “các yếu tố loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi”; “những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã
hội và tính trái pháp luật hình sự”; “các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi” và “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự”... Mặc
dù chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ như kể trên nhưng
xét về nội dung, các trường hợp này đều được hiểu không khác nhau và hậu
quả pháp lý mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống
nhau – không phải chịu TNHS. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả chọn thuật ngữ
“các tình tiết loại trừ TNHS” theo cách gọi trong Giáo trình Luật hình sự
(Phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2003).
Cùng với chế định TNHS, chế định “các tình tiết loại trừ TNHS” có ý
nghĩa trong việc giải quyết TNHS, là “cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước pháp
2
quyền XHCN Việt Nam trên con đường đổi mới” [9, tr.280]. Tuy nhiên, trong
khoa học luật hình sự và trong thực tiễn, nhận thức và áp dụng các tình tiết
loại trừ TNHS đang còn có một số vướng mắc. Bản thân hai tình tiết được
quy định trong BLHS hiện hành (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết)
vẫn còn nhận thức và áp dụng chưa thống nhất; bên cạnh đó, phạm vi các tình
tiết loại trừ TNHS gồm những trường hợp nào vẫn còn nhiều tranh luận.
Hơn nữa, việc Dự thảo BLHS (sửa đổi) đã quy định thêm một số
trường hợp cùng với “phòng vệ chính đáng” (PVCĐ) và “tình thế cấp thiết”
(TTCT) trong chương mới - chương IV - “Những trường hợp loại trừ TNHS”
cũng đòi hỏi có sự nghiên cứu về các trường hợp bổ sung này để làm rõ hơn
chế định “các tình tiết loại trừ TNHS”.
Với lý do như vậy, tác giả lựa chọn đề tài “các tình tiết loại trừ trách
nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề luận văn thạc sỹ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự” trong luật hình sự
có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội cũng như về mặt pháp lý hình sự. Do đó,
vấn đề này được nhiều nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, các Giáo trình Luật hình sự - Phần chung của các cơ sở đào
tạo đại học đều có nội dung trình bày những kiến thức cơ bản về chế định này
cũng như về nội dung của hai điều luật trong BLHS quy định về phòng vệ
chính đáng và tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là những kiến thức cơ
bản, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sâu về lý luận cũng như thực tiễn.
Các công trình nghiên cứu khác về vấn đề mà tác giả luận văn nghiên
cứu bao gồm các luận án, luận văn, các sách và các bài báo. Các công trình
này có thể được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm nghiên cứu về nhiều vấn đề của Luật hình sự trong đó có nội
dung về chế định mà tác giả luận văn nghiên cứu. Ví dụ: Lê Văn Cảm, Những
3
vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo
Sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Nguyễn Ngọc Hòa, Tội
phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (2010); Trịnh
Tiến Việt, Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Lao động, Hà Nội (2013);
- Nhóm nghiên cứu “các trường hợp (tình tiết) loại trừ trách nhiệm hình
sự” được hiểu bao gồm cả các trường hợp không có TNHS khác. Do vậy,
trong các công trình này, vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu chỉ là một nội
dung trong nhiều nội dung khác được nghiên cứu. Ví dụ: Nguyễn Ngọc Chí,
Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4
(1999); Giang Sơn, Các yếu tố loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, Luận án tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2002); Trịnh
Tiến Việt, Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi
sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQG, Luật
học, tập 29, số 4 (2013); Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện chế định loại trừ
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 2
(2014);...
Như vậy, hai nhóm nghiên cứu này có nội dung nghiên cứu tương đối
rộng và nội dung thuộc đề tài luận văn của tác giả không phải là nội dung
được tập trung nghiên cứu của các công trình này.
- Nhóm nghiên cứu chuyên về chế định phòng vệ chính đáng hoặc về
tình tiết cấp thiết. Đây là nhóm có nhiều công trình nghiên cứu để phục vụ
trực tiếp việc giải thích, bình luận các điều luật của BLHS. Điểm chung của
các công trình này là tập trung giải thích nội dung quy định của BLHS về
phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết, từ cơ sở, nội dung, phạm vi đến các
vướng mắc có liên quan. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Tìm hiểu về bản chất của
tình thế cấp thiết, Tạp chí Luật học số 5/1999; Nguyễn Đức Mai, Phòng vệ
chính đáng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 6 (2000); Giang Sơn, Quy định về chế định phòng vệ chính đáng theo
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
4
Nhà nước và pháp luật, số 8 (2001); Phạm Quốc Hưng, Phòng vệ chính đáng
trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật
Hà Nội (2001); Đinh Văn Quế, Một số vấn đề phòng vệ chính đáng, vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng và những vướng mắc trong thực tiễn xét xử,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 (2009); Nguyễn Hương Giang, Tình thế cấp
thiết trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội (2011); Nguyễn Sơn, Phòng vệ chính đáng và vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014); v.v… Các công trình
này đều nghiên cứu từng điều luật trong BLHS mà không gắn kết các điều
luật này với nội dung của chế định chung “các tình tiết loại TNHS”.
- Nhóm nghiên cứu “các tình tiết loại trừ TNHS” theo nghĩa như cách
hiểu trong luận văn của tác giả. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Các tình tiết loại trừ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (1999);… Các công trình
công trình nghiên cứu này tuy đã làm rõ hơn cơ sở lí luận về các tình tiết loại
trừ TNHS nhưng mới chỉ tập trung vào hai tình tiết đã được quy định trong
BLHS.
Tóm lại, các công trình đã được công bố đã góp phần làm rõ cơ sở lý
luận cũng như những vướng mắc trong thực tiễn của chế định các tình tiết loại
trừ TNHS. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn pháp lý, vẫn còn một số vấn
đề yêu cầu cần được làm rõ hơn như: làm rõ hơn bản chất của các trường hợp
được loại trừ TNHS; mối quan hệ giữa chế định này với các trường hợp
không có TNHS và miễn TNHS; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định
các tình tiết loại trừ TNHS, cũng như làm rõ nội dung của các quy định mới
được bổ sung trong Dự thảo BLHS (sửa đổi) hoặc nội dung liên quan đến
thực tiễn gần đây như vấn đề thi hành công vụ và phòng vệ chính đáng.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ hơn về lý luận chế định các tình tiết loại
trừ TNHS để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của BLHS
Việt Nam về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự;
- Giải thích các quy định của BLHS năm 1999 về phòng vệ chính đáng
và tình thế cấp thiết trong sự so sánh với lý luận và thực tiễn lập pháp của một
số quốc gia trên thế giới.
Từ đó, tác giả luận văn đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế định
các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Ngoài cơ sở lý luận của chế định các tình tiết loại trừ TNHS, luận văn
còn có các đối tượng nghiên cứu là: các quy định của BLHS Việt Nam năm
1999, của Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi) và luật hình sự một số quốc gia
khác trên thế giới về các tình tiết này. Cụ thể: Các điều luật được nghiên cứu
là các điều 15, 16 BLHS Việt Nam năm 1999; các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25,
26 Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi); các điều 37, 38, 39, 40, 41,42 BLHS
Liên bang Nga; các điều 1, 2, 4, 8, (chương 24) BLHS Thụy Điển; các điều
25, 27, 34 BLHS Cannada; các điều 32, 33, 34 BLHS Cộng hòa Liên bang
Đức; các điều 20, 21 BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, so
sánh, tổng hợp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
6
- Chương 1. Một số vấn đề chung về các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự
- Chương 2. Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành
- Chương 3. Hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam
7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự
1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách
nhiệm hình sự
Các tình tiết loại trừ TNHS là chế định không thể thiếu trong luật hình
sự của mỗi quốc gia, có quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS cũng như các
chế định khác để tạo thành cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc truy cứu TNHS.
Một người chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại cho xã
hội khi họ có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm và có lỗi khi thực hiện
hành vi gây thiệt hại. Trái lại, họ sẽ không có TNHS khi thuộc về một trong
các trường hợp sau:
- Chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự (PLHS);
- Là người đang trong tình trạng mắc bệnh nên mất khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội hoặc
- Không có lỗi (có thể là trường hợp bất khả kháng hoặc trường hợp sự
kiện bất ngờ).
Các trường hợp này có thể được gọi là các trường hợp không có TNHS.
Ngoài các trường hợp trên đây, một người cũng không phải chịu TNHS
về hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà mình đã thực hiện nếu việc thực hiện
được PLHS cho phép vì có những tình tiết nhất định (như phòng vệ chính
đáng hay tình thế cấp thiết). Những tình tiết này có thể được gọi là các tình
tiết loại trừ TNHS.
Như vậy, các trường hợp không có TNHS và các tình tiết loại trừ
TNHS có sự khác nhau. Tuy nhiên, về vấn đề này hiện có các ý kiến khác
nhau. Từ đó dẫn đến có những cách hiểu khác nhau về các tình tiết loại trừ
TNHS. Cụ thể: các tình tiết loại trừ TNHS có thể được hiểu theo nghĩa không
bao gồm các trường hợp không có TNHS. Cách hiểu khác lại cho rằng, các
tình tiết loại trừ TNHS bao gồm tất cả các trường hợp đã được nêu trên.
8
Khái niệm “các tình tiết loại trừ TNHS” trong luận văn của tác giả
được sử dụng theo các hiểu thứ nhất (không bao gồm các trường hợp không
có TNHS) như đã được khẳng định trong Phần mở đầu. Cách hiểu này cũng
được Giáo trình luật hình sự Việt Nam của nhiều cơ sở giáo dục đại học tại
Việt Nam sử dụng như trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Huế.
Khác với quan điểm trên đây, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần
chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003) khẳng định các
tình loại trừ TNHS còn bao gồm cả “Sự kiện bất ngờ; tuổi chịu trách nhiệm
hình sự; không có năng lực trách nhiệm hình sự …” [9, tr. 291].
Cùng với quan điểm trên đây, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã xác định 10
tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: tình tiết chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng
không có năng lực TNHS; tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng
kể; sự kiện bất ngờ; tình trạng bất khả kháng; phòng vệ chính đáng; tình thế
cấp thiết; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; chấp hành chỉ thị,
mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro chấp nhận được về kinh tế hoặc nghề nghiệp
[8, các tr.514, tr.515].
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Loại trừ trách nhiệm hình sự
bao gồm nhiều quy định tạo thành một nhóm quy phạm điều chỉnh hành vi
gây hậu quả về hình sự nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự” [11, tr.35].
Theo đó, tác giả xác định 9 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: Sự kiện bất ngờ;
tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết;
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; chưa đủ tuổi chịu TNHS; bắt người
phạm tội; chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu
khoa học, trong sản xuất [11; tr.33].
TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là
trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng
đối chiếu (căn cứ) vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Nói một cách khác, trong hành vi
9
của một người khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội do không thỏa
mãn ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên tính chất tội
phạm của hành vi đó được loại trừ, và logic tương ứng, người thực hiện nó
không phải chịu trách nhiệm hình sự hay được loại trừ trách nhiệm hình sự”
[54, các tr.17, tr.18]. Theo đó, tác giả xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao
gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ
tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng;
tình thế cấp thiết; sự kiện bất khả kháng; không có lỗi trong tình trạng say do
dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác; gây thiệt hại hợp pháp khi bắt
người phạm tội; rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học; thi hành quyết
định của cấp trên; giúp người đã thành niên tự sát theo yêu cầu tự nguyện của
người đó; người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo; hành vi phạm
tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm [54, các tr.18, tr.26 – tr.28].
TS. Nguyễn Tuyết Mai định nghĩa: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là
những trường hợp người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội nhưng
được pháp luật xác định không phải chịu trách nhiệm hình sự do: tính nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể; hoặc thiếu yếu tố của tội phạm; hoặc có căn
cứ hợp pháp của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội” [22, tr.12]. Tác
giả cũng xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất
nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ tuổi chịu
TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng; tình thế
cấp thiết; không tố giác tội phạm; bị ép buộc đưa hối lộ; tình trạng bất khả
kháng; không có lỗi với tình trạng say; bị cưỡng bức; thi hành mệnh lệnh của
cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ; bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [22, các tr.12, tr.13].
Tác giả Đinh Văn Quế còn mở rộng hơn nữa khái niệm này khi xác
định 18 trường hợp loại trừ TNHS và phân chia thành 3 nhóm: a) Nhóm thứ
nhất - những trường hợp “không có năng lực TNHS” (bao gồm ba trường hợp
là: tình trạng không có năng lực TNHS; chưa đến tuổi chịu TNHS; chưa bị kết
10
án, chưa bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật, chưa được giáo dục); b)
Nhóm thứ hai - những trường hợp “không bị coi là có lỗi” (bao gồm 9 trường
hợp là: phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; sự kiện bất ngờ; tình trạng
không thể khắc phục được; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã;
chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; rủi ro trong nghề nghiệp hoặc
trong sản xuất; không phải chịu TNHS về hành vi thái quá của người thực
hành trong vụ án có đồng phạm); c) Nhóm thứ ba - những trường hợp được
loại trừ TNHS theo quy định của pháp luật (bao gồm 6 trường hợp là: tính
chất nguy hiểm không đáng kể của hành vi; tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội; chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại chưa tới mức phải truy cứu
TNHS; được miễn TNHS; hết thời hiệu truy cứu TNHS; hành vi nguy hiểm
cho xã hội không thuộc phạm vi áp dụng BLHS) [24, các tr.18, tr.19].
Trong khoa học hình sự nước ngoài, GS. TSKH luật Xlutxki I.I của
Liên bang Nga đã phân các trường hợp loại trừ TNHS thành ba nhóm: a)
Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của
hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để
bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành mệnh lệnh hợp pháp,
thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình
và bắt buộc phải tuân thủ); b) Nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính chất
nguy hiểm cho xã hội và tính phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện
đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm
pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã
hội, hết thời hiệu truy tố hình sự, hết thời hiệu thi hành của bản án); c) Nhóm
thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao
gồm: sự cưỡng bức về thể xác và, sức mạnh không thể chống lại được) [8; các
tr.510, tr.511].
Tóm lại, các tình tiết loại trừ TNHS có thể được các tác giả hiểu theo
nhiều phạm vi khác nhau. Bên cạnh đó, tên gọi của các trường hợp này cũng
có sự không thống nhất.
11
Tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” là tên gọi được sử dụng trong
Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội (2003). Tác giả của Giáo trình này cho rằng “TNHS là hậu
quả pháp lý của trường hợp hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm và đối lập
với TNHS là không có hay loại trừ TNHS, là hậu quả pháp lý của hành vi gây
hậu quả về hình sự nhưng không bị coi là tội phạm” [9, tr.284]. Tác giả luận
văn chọn cách gọi này vì nó “… xác định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của luật
hình sự, đồng thời phù hợp với nhận thức chung của cán bộ áp dụng pháp
luật đã được thống nhất lâu nay ở nước ta” [24, tr.9].
Khác với Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa
Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, các giáo trình Luật hình sự Việt Nam
của hầu hết các cơ sở đào tạo luật khác như trường Đại học Luật Hà Nội
(2013), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), trường Đại học
Huế (2001) đều đặt tên cho nhóm các quy phạm này là: “Những tình tiết loại
trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Sở dĩ tên gọi này được lựa
chọn vì các tác giả cho rằng “hành vi đã thực hiện, xét về khách quan đã gây
ra thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa
chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội... Do không có lỗi nên hành vi
gây thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [47,
tr.201]. Các tác giả cho rằng, hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS
vì “xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử
sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội”. Do vậy, hành vi được thực hiện tuy gây
thiệt hại nhưng không phải là tội phạm. Theo đó, “gốc” của vấn đề là tính chất
nguy hiểm cho xã hội bị loại trừ. Từ đó, các tác giả đưa ra định nghĩa về
những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là “những
tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại nên
được quy định trong luật hình sự để xác định những trường hợp bình thường
là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực hiện trong những
điều kiện kèm theo tình tiết đó” [47, tr.202]. Như vậy, các tác giả đã xuất phát
12
từ đặc điểm (dấu hiệu) về nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội)
khi đặt tên gọi riêng cho nhóm các quy phạm này. Ở đây, tính chất nguy hiểm
cho xã hội được hiểu bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi
về chủ quan. Nếu hiểu tính nguy hiểm cho xã hội chỉ là tính gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại thì tên gọi trên đây sẽ không chính xác vì đặc điểm này
“… của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện luôn tồn tại không phụ
thuộc vào có hay không có tình tiết phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp
thiết” [15, tr.39].
Khác với cách đặt tên trên đây, GS. TSKH. Lê Văn Cảm gọi các tình
tiết đó là “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi”. Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung)”, tác giả cho rằng, “tính chất tội phạm của hành vi là phạm trù rộng
hơn và bao trùm lên tất cả các tính chất khác – tính nguy hiểm cho xã hội,
tính chất lỗi, và tính chất trái pháp luật hình sự” [8, tr.516]. Theo đó, “những
trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là những tình
tiết được điều chỉnh trong pháp luật hình sự mà khi có căn cứ do luật định thì
việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm và do vậy,
người gây ra thiệt hại đó không phải chịu TNHS” [8; tr.504].
Một tên gọi khác được GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu trong cuốn “Tội
phạm và cấu thành tội phạm” là “các căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm
cho xã hội”. Cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho rằng “hành vi nguy
hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong
BLHS và không thuộc những trường hợp có căn cứ hợp pháp khác. Theo đó,
hành vi đã thực hiện tuy được quy định trong BLHS nhưng vẫn không phải là
tội phạm nếu chủ thể có căn cứ hợp pháp được quy định trong BLHS khi thực
hiện hành vi này” [15, tr.38]. Tác giả của tên gọi này cho rằng, các hành vi
được quy định trong BLHS là các hành vi bị cấm nhưng một người vẫn có thể
được quyền thực hiện những hành vi có tính gây thiệt hại đã được quy định
đó trong trường hợp có căn cứ (tình tiết) nhất định được Bộ luật quy định. Do
13
vậy, những căn cứ (tình tiết) này được coi là các căn cứ hợp pháp của hành vi.
Các căn cứ này làm cho hành vi đã thực hiện “...không còn tính trái pháp luật
hình sự” [15, tr.39].
Bên cạnh các quan điểm về các tình tiết loại trừ TNHS được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau như đã trình ở trên, còn có quan điểm khoa học
của một số nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề loại trừ
TNHS.
Mỗi nhóm quan điểm nêu trên đều có lập luận khoa học và nhân tố hợp
lý riêng của mình. Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu các quan điểm khác nhau
được giới thiệu khái quát trên đây, tác giả luận văn lựa chọn tên gọi “các tình
tiết loại trừ TNHS” và hiểu các tình tiết này theo phạm vi chỉ bao gồm những
tình tiết cho phép được thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự
Các tình tiết loại trừ TNHS là các tình tiết mà khi có một trong các tình
tiết này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật
hình sự vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, các tình tiết loại trừ TNHS chỉ được đề cập đến trong trường
hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội và về hình thức
đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm (CTTP). Nếu không có
một trong các tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi của họ đã CTTP, TNHS đã
được đặt ra và họ phải gánh chịu trách nhiệm này. Nhưng TNHS đã không
được đặt ra vì hành vi được thực hiện có một trong các tình tiết đặc biệt này,
hay nói cách khác, các tình tiết đặc biệt này đã làm mất đi TNHS. Do có đặc
điểm làm mất đi TNHS mà các tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết
loại trừ TNHS. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp về mặt ngôn ngữ. Theo Từ
điển Tiếng Việt, loại trừ có nghĩa là “làm cho mất đi, …” [21, tr.574] và như
vậy các tình tiết loại trừ TNHS có nghĩa là các tình tiết làm mất đi TNHS.
Khác với các tình tiết loại trừ TNHS, các tình khác như tình tiết chưa đủ tuổi
14
trách nhiệm hình sự hay tình tiết trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự hay tình tiết sự kiện bất ngờ là các tình tiết phản ánh hành vi
thiếu dấu hiệu của tội phạm (dấu hiệu về chủ thể hoặc dấu hiệu về lỗi) và do
vậy vấn đề TNHS không được đặt ra. Câu hỏi được đặt ra là tại sao các tình
tiết loại trừ TNHS lại có thể làm mất trách nhiệm hình sự mặc dù chủ thể đã
có hành vi gây thiệt hại và hành vi này đã được quy định trong luật hình sự?
Xét về mặt khách quan, người được loại trừ trách nhiệm hình sự đã có
hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội và hành vi này được quy định
trong luật hình sự. Xét về mặt chủ quan, họ cũng thấy trước khả năng gây ra
thiệt hại. Tuy nhiên, động cơ thực hiện các hành vi này không phải là động cơ
phạm tội mà là động cơ có ích và mục đích hướng tới không phải là gây thiệt
hại mà cũng là lợi ích chung, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác. Ví dụ: Trường hợp phải gây thiệt hại cho kẻ tấn công để bảo vệ chính
mình hay người khác là trường hợp mà hành vi gây thiệt hại có động cơ và
mục đích như vậy. Chính động cơ và mục đích này đã loại trừ trách nhiệm
hình sự. Do đó, phòng vệ được coi là một tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy,
trong trường hợp có tình tiết loại trừ TNHS, chủ thể tuy lựa chọn hành vi gây
thiệt hại nhưng không phải là lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội mà là
lựa chọn hành vi cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này
cũng có nghĩa, chủ thể không có lỗi (theo đúng nghĩa) đối với hành vi khách
quan đã gây thiệt hại.
Cũng như trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS cũng cần
phải được luật hóa để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Cơ sở của TNHS phải
được luật quy định. Điều này cũng đòi các tình tiết cụ thể cũng như các dấu
hiệu của các tình tiết đó cũng phải được luật quy định. Việc được quy định
này chính là cơ sở pháp lý cho phép cá nhân được thực hiện hành vi gây thiệt
hại mà bình thường là tội phạm. Đây cũng là lý do giải thích tại sao có tác giả
gọi các tình tiết này là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại.
15
Từ các phân tích khái quát trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của
các tình tiết loại trừ TNHS như sau:
* Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự luôn gắn với hành vi gây thiệt
hại có dấu hiệu về hình thức của một tội phạm.
Hành vi đã thực hiện khi có tình tiết loại trừ TNHS là hành vi về mặt
hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP hay nói cách khác hành vi
đã là hành vi phạm tội nếu giả sử không có tình tiết này. Cụ thể:
- Chủ thể đã thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại và hành vi này đã
được mô tả trong một CTTP. Trong đó, hành vi được coi là biểu hiện cơ bản
nhất trong mặt khách quan của CTTP, đã “làm biến đổi tình trạng của đối
tượng tác động và do vậy là nguyên nhân gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là
khách thể của tội phạm” [15, tr.63];
- Khi thực hiện hành vi đó, chủ thể nhận thức được tính gây thiệt hại và
thấy trước hậu quả thiệt hại mà hành vi có thể gây ra cho các quan hệ xã hội và
- Chủ thể thực hiện là người có đủ điều kiện về chủ thể.
Như vậy, xét về về tổng thể, hành vi đã thực hiện là hành vi có đủ dấu
hiệu của một CTTP. Nếu không xét đến sự có mặt của tình tiết loại trừ TNHS
thì hành vi đã cấu thành một tội phạm cụ thể. Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích
hay tội giết người hay tội hủy hoại tài sản v.v…
* Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho hành vi gây
thiệt hại mất tính nguy hiểm của một tội phạm.
Hành vi gây thiệt hại khi có tình tiết loại trừ TNHS tuy về hình thức
thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP nhưng xét trong mối quan hệ với tình
tiết loại trừ TNHS thì hành vi đó không có tính nguy hiểm của tội phạm. Các
tình tiết này tuy khác nhau nhưng đều gắn với động cơ và mục đích của hành
vi đã thực hiện. Động cơ thúc đẩy là vì lợi ích chung hoặc lợi ích chính đáng
của cá nhân được xã hội chấp nhận; mục đích không phải để gây thiệt hại mà
để bảo vệ hoặc mang lại lợi ích chung. Chính tính chất đặc biệt và phù hợp
với đòi hỏi của xã hội, được xã hội chấp nhận của động cơ và mục đích của
16
hành vi như vậy đã làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây
thiệt hại. Ví dụ: Việc chọn và thực hiện hành vi gây thương tích cho người
khác trong điều kiện bình thường là trường hợp cố ý gây thương tích và có thể
cấu thành tội cố ý gây thương tích nhưng khi gắn với tình tiết “phòng vệ”
nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ tính mạng người khác thì hành vi
gây thương tích không còn tính nguy hiểm cho xã hội. Động cơ ngăn chặn sự
tấn công và mục đích bảo vệ tính mạng con người đã loại trừ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi gây thương tích. Việc gây thiệt hại trong những trường
hợp với động cơ, mục đích như vậy được coi là hành vi có ích, được xã hội
chấp nhận và do vậy không thể là hành vi tội phạm để buộc chủ thể phải chịu
TNHS.
* Các tình tiết loại trừ TNHS được quy định trong luật hình sự
Hai đặc điểm nêu trên là đặc điểm về nội dung nhưng chỉ với hai đặc
điểm đó thì các tình tiết loại trừ TNHS chưa thể là cơ sở pháp lý cho việc loại
trừ TNHS. Các tình tiết này phải được luật hóa, phải được quy định rõ ràng
trong luật và khi đó các quy định này mới là căn cứ hợp pháp của các hành vi
gây thiệt hại.
Việc phải xác định các tình tiết nào là tình tiết loại trừ TNHS và các
dấu hiệu cụ thể của từng tiết để quy định trong luật là cần thiết để đảm bảo
nguyên tắc pháp chế và qua đó bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và áp
dụng các tình tiết này.
Việc các tình tiết này được quy định trong luật hình sự không chỉ là xác
định các tình tiết loại trừ TNHS cụ thể mà quan trọng hơn là xác định rõ ràng
cơ sở cũng như phạm vi được phép thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại, hay nói cách khác là phải xác định rõ các dấu hiệu của từng tình
tiết loại trừ TNHS. Việc xác định tình tiết loại trừ TNHS cụ thể và dấu hiệu
của từng tình tiết đó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
Từ các phân tích trên có thể định nghĩa các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự như sau: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là các tình tiết
17
được luật hình sự quy định mà khi có một trong những tình tiết đó thì người
đã thực hiện hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu của tội phạm được loại trừ
trách nhiệm hình sự vì hành vi của họ không có tính nguy hiểm của tội phạm.
1.1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết loại trừ
trách nhiệm hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt, từ „cơ sở” được hiểu là “cái làm nền tảng
trong quan hệ với những cái được xây dựng trên nó hoặc dựa trên nó mà tồn
tại, phát triển” [23, tr.215]. Nếu cho rằng cơ sở của TNHS là việc cá nhân
thực hiện một hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm thì cơ sở làm loại
trừ TNHS của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự chính là động cơ có
ích – vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác đã làm đi mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây
thiệt hại.
Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là vô cùng quan
trọng, nó tạo cơ sở pháp lý cho người dân được quyền hành động để bảo vệ
lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước
cũng như của tổ chức; đồng thời, nó động viên quần chúng nhân dân tích cực
tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, tích cực, tự giác bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của công dân.
Như đã phân tích ở trên, các tình tiết loại trừ TNHS về hình thức đã có
những dấu hiệu của tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất kì hành vi nào thỏa
mãn các dấu hiệu của tội phạm cũng làm phát sinh TNHS. Hành vi được biểu
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan có thể giống nhau nhưng diễn biến tâm
lý bên trong của người thực hiện hành vi trong từng hoàn cảnh cụ thể lại rất
phức tạp. Đặc biệt, đối với những hành vi mặc dù xét về hình thức đã hội đủ
các yếu tố CTTP nhưng do mục đích, động cơ của người thực hiện hành vi là
nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội, của người khác hoặc lợi ích hợp pháp của
chính bản thân mình thì những hành vi đó cần được loại trừ TNHS. Chẳng
hạn như: trong trường hợp PVCĐ, TTCT, hay bắt giữ người phạm tội...., rõ
18
ràng hậu quả gây thiệt hại không phải là mong muốn của chủ thể. Việc lựa
chọn hành vi gây thiệt hại trong những trường hợp này xuất phát từ động cơ
nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp khác và quan trọng hơn là cần thiết và phù
hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, nó được coi là những tình tiết loại
trừ TNHS đối với người thực hiện hành vi gây thiệt hại đó. Do vậy, BLHS
cần thiết phải qui định các tình tiết loại trừ TNHS để tạo cơ sở pháp lý cho
người dân được hành động, được gây thiệt hại nhất định vì lợi ích chung, vì
bảo vệ những quan hệ xã hội đã được pháp luật bảo vệ. Chỉ trên cơ sở pháp
luật ghi nhận chính thức (về mặt pháp lý) công dân được phép làm gì (cũng
như không được phép làm gì) thì khi đó người dân mới dám thực hiện hành vi
pháp luật cho phép, mới xử sự trên cơ sở qui định pháp luật. Khi quyền lợi
chính đáng của mình được bảo vệ, được ghi nhận chính thức trong luật, người
dân mới dám chống trả lại hành vi đang xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tổ
chức, lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mới dám “cống hiến”
và góp sức để phát triển xã hội. Bên cạnh đó, đối với người thi hành công vụ,
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, việc gây thiệt hại nhất định vì lợi
ích chung cũng vẫn phải trên cơ sở qui định của pháp luật, không được trái
pháp luật. Mặc dù đây là những hành vi có ích cho xã hội, tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là công dân “tùy tiện” muốn làm gì thì làm. Pháp luật đòi hỏi
họ phải thực hiện hành vi có ích trên cơ sở qui định của pháp luật. Trong một
xã hội mà “tinh thần thượng tôn pháp luật” là tối cao thì điều này lại càng có
ý nghĩa.
Trên thực tế, tình hình tội phạm ở nước ta nói riêng cũng như trên thế
giới nói chung diễn ra ngày càng phức tạp. Hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, của tập thể, của công dân có xu hướng ngày càng gia tăng.
Công cuộc đấu tranh chống tội phạm muốn hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham
gia tích cực của đông đảo người dân trong xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể
thấy hiện tượng nhiều người dân thường có thái độ bàng quan, thờ ơ khi
chứng kiến tội phạm xảy ra (như trông thấy tên lưu manh đang trộm cắp,
19
cướp tài sản, hoặc gặp trường hợp một số người đang hành hung người khác...
mà không dám phản ứng ngăn cản), thậm chí có người bị tội phạm trực tiếp
xâm phạm đến lợi ích chính đáng của chính bản thân mình mà cũng không
dám phản kháng. Việc người dân không tích cực tham gia chống tội phạm,
bảo vệ các lợi ích hợp pháp đã được pháp luật bảo vệ thì càng tạo điều kiện
cho phạm tội ngang nhiên hoành hành, càng gây mất trật tự trị an xã hội.
Nguyên nhân một phần cũng bởi họ sợ người phạm tội, sợ bị liên lụy hoặc
không biết về sự đảm bảo quyền chính đáng của mình trong pháp luật... Hay
đối với những người say mê nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, ham muốn tìm
tòi, sáng tạo, muốn góp một phần trí tuệ của mình vào công cuộc phát triển
đất nước nhưng chẳng may xảy ra sự cố ngoài ý muốn trong quá trình nghiên
cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, gây thiệt hại cho xã hội cũng rất lo lắng về
trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Điều đó đã khiến cho công dân trong xã
hội không dám đấu tranh chống lại hành vi trái pháp luật, không dám tìm tòi,
đổi mới... Những hành vi nguy hiểm cho xã hội được chủ thể thực hiện trong
những trường hợp như vậy là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
quyền và lợi ích chính đáng của công dân hoặc nhằm đem lại lợi ích cho xã
hội, xây dựng, phát triển xã hội, do vậy, rất cần được khuyến khích, nhân rộng
trong xã hội. Do vậy, nếu không qui định rõ trong luật về các tình tiết loại trừ
TNHS, người dân sẽ không dám đương đầu với tội phạm hoặc nguồn nguy
hiểm để bảo vệ những lợi ích hợp pháp hoặc không dám dũng cảm say mê,
tìm tòi nghiên cứu khoa học vì lợi ích chung. Việc ghi nhận các tình tiết loại
trừ TNHS trong PLHS là ghi nhận quyền hợp pháp của công dân, đồng thời,
định hướng công dân thực hiện được đúng các quyền của mình cũng như phát
huy tính tích cực của mỗi người, quan trọng hơn nữa là khẳng định đó là
những hành vi có ích được pháp luật cho phép, khuyến khích thực hiện. Chính
vì vậy, các tình tiết loại trừ TNHS cần phải được quy định trong luật hình sự
của mỗi quốc gia, có như vậy PLHS mới phát huy được tối đa tính chủ động,
tích cực của mọi người trong quản lý trật tự xã hội, đồng thời cũng tạo cơ sở
cho PLHS thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả.
20
Việc qui định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là thể hiện
nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự tuân thủ pháp luật triệt để từ phía các
cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Do đó, chính việc quy định
cụ thể, rõ ràng về các tình tiết loại trừ TNHS trong PLHS là cơ sở pháp lí để
người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuân thủ pháp luật. Trong
xã hội, công dân xử sự phải trên cơ sở quy định của pháp luật, ngay cả khi
công dân thực hiện hành vi có ích vì lợi ích. Đối với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, việc xác định một hành vi có phải là tình tiết loại trừ TNHS hay
không (như có phải là phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết) cũng phải
trên cơ sở qui định của pháp luật. Cơ quan áp dụng luật không thể tự ý thêm
hoặc bớt phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS mà việc giải quyết vụ việc trên
thực tế phải dựa vào quy định của BLHS. Trong thực tế, việc áp dụng pháp
luật thực định của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc xác định một
hành vi có phải là tình tiết loại trừ TNHS hay không phải là tình tiết loại trừ
TNHS là hết sức phức tạp và không hề đơn giản. Điều này đặt ra yêu cầu là
BLHS qui định về các tình tiết loại trừ TNHS phải minh bạch, rõ ràng. Việc
quy định về vấn đề này càng rõ thì cơ quan áp dụng luật càng thuận lợi trong
xử lí trên thực tế, từ đó hạn chế hiệu quả oan sai trong thực tiễn.
Tóm lại, việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là hoàn
toàn có cơ sở lí luận và thực tiễn. Vấn đề quan trọng là ở chỗ, tùy theo chính
sách hình sự ở từng quốc gia, truyền thống lập pháp cũng như xuất phát từ
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở quốc gia đó mà phạm vi cũng như
tên gọi của các tình tiết loại trừ TNHS là khác nhau. Việc quy định về các tình
tiết loại trừ TNHS là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật và đồng thời còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích quần
chúng nhân dân tích cực chống và phòng ngừa tội phạm, khuyến khích mọi
công dân xây dựng và phát triển xã hội. Đây có thể coi là nền tảng đối với sự
phát triển của xã hội và vì thế, các tình tiết loại trừ TNHS cần được quy định
21
cụ thể, rõ ràng trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia trong thời kì đổi mới,
hội nhập quốc tế, trong đó có Việt Nam.
1.2. Phạm vi các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự
Việc xác định phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS cụ thể cũng như đặt
tên và xác định các dấu hiệu cho từng tình tiết là thuộc quyền lập pháp của
mỗi quốc gia. Ở đây không có sự giống nhau hoàn toàn giữa luật hình sự của
các quốc gia trên thế giới.
Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS có thể bao
gồm: phòng vệ; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội; rủi ro (trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học); thi hành mệnh lệnh cấp
trên v.v… Trong đó, mỗi tình tiết có nội dung khái quát sau:
- Phòng vệ
Phòng vệ là tình tiết loại trừ TNHS cho phép công dân có quyền được
tự chống trả người tấn công để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người
khác hay bảo vệ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội.
Mỗi quốc gia có thể có cách riêng trong đặt tên cụ thể và xác định các
dấu hiệu của phòng vệ nhưng đều phải xác định rõ mục đích (ngăn chặn sự
tấn công); cơ sở của quyền phòng vệ (hành vi trái pháp luật) và phạm vi của
quyền phòng vệ (đủ đạt được mục đích). Theo đó, trường hợp này được
BLHS Liên bang Nga đặt tên là phòng vệ chính đáng (Điều 37); BLHS CHLB
Đức đặt tên là “phòng vệ khẩn cấp” (Điều 32); BLHS CHND Trung Hoa đặt
tên là “phòng vệ chính đáng” (Điều 20); BLHS Thụy Điển đặt tên là “phòng
vệ” (Điều 1 chương 24); BLHS Canada đặt tên là “Sử dụng sức mạnh để
chống lại việc thực hiện hành vi phạm tội (Điều 27) và “phòng vệ đối với sự
tấn công bị khiêu khích” (Điều 34).
- Tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là tình tiết loại trừ TNHS cho phép mọi người có
quyền lựa chọn hành vi gây thiệt hại khi đứng trước xung đột giữa hai lợi ích
22
(lợi ích cần bảo vệ và lợi ích phải “hy sinh”). Việc quy định tình tiết này phải
đảm bảo hai lợi ích đều là hợp pháp và lợi ích phải “hy sinh” phải nhỏ hơn lợi
ích cần bảo vệ và việc lựa chọn phải trong tình thế bắt buộc, không còn cách
nào khác. Tình tiết này có tên trong BLHS Liên bang Nga là tình thế cấp thiết
(Điều 39), BLHS CHND Trung Hoa cũng được gọi là tình thế cấp thiết (Điều
21), BLHS Thụy Điển gọi là tình thế cấp thiết (Điều 4 chương 24), trong khi
đó BLHS CHLB Đức gọi trường hợp này là “tình trạng khẩn cấp hợp pháp”
(Điều 34) và tình “trạng khẩn cấp không có lỗi” (Điều 33).
- Gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội
Gây thiệt hại khi bắt người phạm tội là tình tiết loại trừ TNHS cho phép
mọi người có quyền được gây thiệt hại cho người phạm tội để bắt giữ người
này giao họ cho cơ quan có thẩm quyền và ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội khi
không còn cách khác. BLHS Liên bang Nga gọi đây là trường hợp “gây thiệt
hại trong khi bắt giữ người phạm pháp” (Điều 38); còn BLHS Thụy Điển gọi
đây là trường hợp “dùng vũ lực để ngăn chặn việc bỏ trốn hoặc duy trì trật tự”
(Điều 2 chương 24); BLHS Canada gọi đây là trường hợp “bảo vệ những
người thực thi thẩm quyền” (Điều 25)
- Rủi ro
Rủi ro là tình tiết loại trừ TNHS cho phép người tiến hành thử nghiệm
nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ không phải chịu
TNHS đối với thiệt hại mà họ chẳng may gây ra trong khi thực hiện các công
việc đó vì sự phát triển chung của xã hội. BLHS Liên bang Nga gọi trường
hợp này là “mạo hiểm có căn cứ” (Điều 41).
- Chấp hành mệnh lệnh cấp trên
Chấp hành mệnh lệnh cấp trên là tình tiết loại trừ TNHS cho phép
thường là quân nhân không phải chịu TNHS đối với gây thiệt hại đã gây ra do
thực hiện lệnh bắt buộc của cấp trên. Đối với tình tiết loại trừ này, về lý
thuyết, đòi hỏi phải quy định rất chặt chẽ tránh các trường hợp lạm dụng tình
tiết này để trốn tránh trách nhiệm. BLHS Liên bang Nga gọi trường hợp này
23
là “thi hành mệnh lệnh hoặc chỉ thị” (Điều 42); BLHS Thụy Điển gọi trường
hợp này là “thực hiện hành vi phạm tội theo mệnh lệnh của cấp trên phụ
trách” (Điều 8 chương 24); BLHS Canada gọi trường hợp này là “người hành
động theo sự chỉ đạo của cán bộ nhà nước” (mục 10, 25.1, Điều 25).
Ngoài các tình tiết loại trừ TNHS có tính phổ biến nói trên, trong luật
hình sự một số quốc gia còn có thể quy định tình tiết “gây thiệt hại do bị
cưỡng bức”. Đây là tình tiết cho phép một người không phải chịu TNHS về
thiệt hại do hành vi của mình gây ra nếu việc thực hiện hành vi đó là do sự
cưỡng bức của người khác mà họ không thể làm khác được để tránh thiệt hại
nhỏ hơn có thể gây ra cho mình hoặc người thân. BLHS Liên bang Nga gọi
tình tiết này là “gây thiệt hại do bị cưỡng bức thể chất và tinh thần” (Điều 40).
1.3. Phân biệt các tình tiết loại trừ TNHS với những trƣờng hợp không có
TNHS và miễn TNHS
Như đã phân tích ở trên, các tình tiết loại trừ TNHS có bản chất pháp lý
khác biệt đối với những trường hợp không có TNHS hoặc được miễn TNHS.
Các tình tiết loại trừ TNHS và các trường hợp không có TNHS là hai
loại trường hợp khác nhau. Mặc dù về hậu quả pháp lý cuối cùng của cả hai
loại trường hợp này đều là “chủ thể không có TNHS, nhưng giữa chúng có sự
khác nhau về bản chất” [15, tr.39].
Các tình tiết loại trừ TNHS gắn với quyền của người thực hiện hành vi
gây thiệt hại và những hành vi gây thiệt hại này được xã hội chấp nhận vì
nhằm mục đích có lợi. Trách nhiệm hình sự đối với họ được loại trừ và xã hội
không cần có biện pháp nào khác để phòng ngừa. Trái lại, hành vi gây thiệt
hại trong các trường hợp không có TNHS không phải là hành vi có động cơ
và mục đích có lợi cho xã hội. Đó cũng phải là quyền được ghi nhận trong
luật hình sự. Chủ thể không phải chịu trách nhiệm chỉ vì hành vi gây thiệt hại
không phải là tội phạm do thiếu dấu hiệu nhất định. Các trường hợp này có
thể là thiếu dấu hiệu về chủ thể của tội phạm (chưa đủ tuổi chịu TNHS hoặc
24
trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển); thiếu dấu
hiệu lỗi do thuộc trường hợp sự kiện bất ngờ hoặc thuộc trường hợp bất khả
kháng. Cụ thể:
- Trường hợp chưa đủ tuổi chịu TNHS là trường hợp người thực hiện
hành vi gây thiệt hại cho xã hội chưa đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật
hình sự. Đó là độ tuổi đủ đảm bảo cho chủ thể có năng lực lỗi (năng lực nhận
thức ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi
của xã hội) cũng như phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước đối với
người chưa thành niên. Độ tuổi là một dấu hiệu của chủ thể của tội phạm.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại khi chưa đạt tuổi chịu TNHS sẽ không
phải chịu TNHS vì họ chưa phải là chủ thể của tội phạm và hành vi đã thực
hiện không phải là tội phạm. Tuy không phải là tội phạm nhưng xã hội không
thể chấp nhận những hành vi này và cần có biện pháp phòng ngừa.
- Trường hợp trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển hành vi (năng lực TNHS) là trường hợp người thực hiện hành
vi gây thiệt hại là người do bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh lý khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều kiển hành vi của mình. Trong khi đó,
năng lực này là một dấu hiệu của chủ thể của tội phạm. Như vậy, người thực
hiện hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không có đủ dấu hiệu của chủ
thể của tội phạm. Trường hợp này thiếu yếu tố chủ thể nên không có tội phạm
và vấn đề TNHS không được đặt ra. Tuy nhiên, biện pháp phòng ngừa những
hành vi này vẫn được đặt ra.
- Trường hợp sự kiện bất ngờ là trường hợp chủ thể đã thực hiện hành
vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể không có lỗi đối với việc gây thiệt
hại do không có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi
của mình. Họ không thể thấy trước và cũng không buộc phải thấy trước khả
năng hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Như vậy,
hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này thiếu dấu hiệu lỗi của chủ thể. Do
đó, hành vi gây thiệt hại không phải là tội phạm và chủ thể thực hiện hành vi
đó không phải chịu TNHS.
25
- Trường hợp bất khả kháng cũng là trường hợp thiếu dấu hiệu lỗi do
chủ thể thực hiện không có khả năng xử sự khác. Hành vi gây thiệt hại là bất
khả kháng nên không phải là tội phạm và trách nhiệm TNHS không được đặt ra.
Có thể thấy các trường hợp không có TNHS nêu trên là những trường
hợp thiếu yếu tố của tội phạm, nên không phải là tội phạm, vì vậy mà không
có TNHS. Đó không phải là những trường hợp gây thiệt hại nhằm bảo vệ lợi
ích cho xã hội nên xã hội không khuyến khích thực hiện. Nhà nước và xã hội
không khuyến khích người chưa đủ tuổi chịu TNHS, người bị mắc các bệnh
tâm thần hoặc các bệnh lý khác khiến họ không nhận thức hoặc điều khiển
được hành vi của mình (người trong tình trạng không có năng lực TNHS)
thực hiện các hành vi như đâm chết người, hủy hoại tài sản... Họ không phải
chịu TNHS vì không thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Các tình tiết loại trừ TNHS so với các trường hợp miễn TNHS cũng có
bản chất pháp lý khác nhau. Khi nghiên cứu các quan điểm của các nhà khoa
học trong nước về các tình tiết loại trừ TNHS, chúng tôi nhận thấy có tác giả
mặc dù khi tiến hành phân tích loại trừ TNHS cho thấy có bản chất pháp lý
hoàn toàn khác với miễn TNHS, với không có sự việc phạm tội nhưng tác giả
lại khẳng định “... suy cho cùng miễn TNHS cũng là không bị truy cứu TNHS
(căn cứ vào hậu quả - nếu người phạm tội không bị áp dụng biện pháp xử lí
nào)...” [24, tr.7]. Nếu coi các trường hợp miễn TNHS là những tình tiết
(trường hợp) loại trừ TNHS là chưa đúng với bản chất pháp lý của khái niệm
này. Bởi lẽ, không thể dựa trên sự giống nhau về hậu quả pháp lý cuối cùng là
“đều không phải chịu TNHS” để xếp chúng cùng bản chất được. Miễn TNHS
là “không buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà người đó đã phạm”
[47, tr.221]. Điều đó có nghĩa, hành vi mà người phạm tội được miễn TNHS
thực hiện đã thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một CTTP tương ứng được
PLHS quy định phải chịu TNHS nhưng do có những điều kiện nhất định và
xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS nên họ được miễn TNHS. Hậu
quả pháp lý đối với người được miễn TNHS là “miễn bị kết tội, miễn phải
26
chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS và miễn bị mang án tích” [33, tr.19].
Như vậy, miễn TNHS là miễn hậu quả pháp lý đặt ra đối với người phạm tội,
còn các tình tiết loại trừ TNHS là trường hợp khi có một trong các tình tiết
này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật
hình sự không phải chịu TNHS do động cơ của hành vi đã làm mất tính tội
phạm của hành vi, vì thế mà không có tội phạm. Vì vậy, quan điểm đồng nhất
loại trừ TNHS với miễn TNHS là không có căn cứ.
1.4. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ trách
nhiệm hình sự
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của PLHS
về các tình tiết loại trừ TNHS với mục đích tìm hiểu quy định về vấn đề này
trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đó, “xác định cho được những khả
năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật chính là sự kế thừa văn hóa và
truyền thống” [50, tr.415]. Trong phạm vi luận văn, tác giả tìm hiểu khái quát
lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ TNHS từ sau cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến nay.
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban
hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám (1945) cho đến trước khi pháp điển hóa BLHS Việt Nam lần thứ nhất
cho thấy, các tình tiết loại trừ TNHS chưa được quy định trong văn bản tập
trung, thống nhất mà được quy định rải rác tại các văn bản khác nhau với kĩ
thuật lập pháp còn hạn chế. Cụ thể:
Nghị định 301-TTg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định
về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư
tín của nhân dân đã bước đầu đề cập đến tình tiết loại trừ TNHS. Điều 22 có
quy định về quyền được sử dụng vũ lực của người thi hành công vụ trong một
số trường hợp cụ thể. Cụ thể như sau:
27
...Khi thi hành việc bắt, giữ, giam, khám mà gặp sự kháng cự của kẻ
phạm pháp, cần bảo vệ tính mạng của mình hoặc của người khác đang bị đe
dọa nghiêm trọng.
Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội chính trị hoặc hình sự
quan trọng có hành động trốn tránh pháp luật.
Khi người bị giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng
chạy trốn trong lúc đang bị dẫn giải.
Khi có các điều kiện như trên, luật pháp cho phép sử dụng vũ khí nên
việc bắn chết được coi là cần thiết, không có tội [36, các tr.24, tr.25].
Quy định trên mặc dù còn sơ lược và chưa toàn diện nhưng nó đã phản
ánh được ở mức độ nhất định nội dung của các tình tiết phòng vệ chính đáng,
bắt người phạm tội, đặc biệt là khi điều luật đã ghi nhận về mặt pháp lí những
trường hợp đó được coi là “cần thiết, không có tội”.
Bản tổng kết số 452 – HS2 ngày 10/6/1970 của Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) về “thực tiễn xét xử loại tội giết người” có đề cập đến trường hợp
giết người trong trường hợp vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết”. Bản tổng
kết nêu rõ mục đích của “phòng vệ cần thiết” là nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng (lợi ích cách mạng, lợi ích của nhân dân). Đồng thời, Bản tổng kết số
452 –HS2 cũng đã xác định sự tấn công trong “phòng vệ cần thiết” phải là
hành vi trái pháp luật và việc phòng vệ với phương pháp, phương tiện khác
nhau phải gây thiệt hại cho chính kẻ tấn công; thiệt hại gây ra phải tương
xứng với mức độ của mối nguy hiểm đang đe dọa [36, tr.24]. Trường hợp giết
người do vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết” thì được xử mức án nhẹ hơn
trường hợp giết người thông thường. So với quy định của Nghị định 301-TTg
thì những quy định ở Bản tổng kết số 452 – HS2 là bước tiến bộ đáng kể khi
đã làm rõ nội hàm của „phòng vệ cần thiết” cũng như đã phân hóa được
đường lối xử lí giữa hành vi vượt quá “phòng vệ cần thiết” với hành vi giết
người thông thường.
28
Tiếp đó, Chỉ thị số 07/HS2 ngày 22/12/1983 của TANDTC khi đề cập
đến “thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do
vượt quá giới hạn PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ” đã đề cập ở mức
độ nhất định về PVCĐ, đồng thời, văn bản này đã hướng dẫn tương đối cụ thể
đường lối xử lí các trường hợp xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân
do vượt quá giới hạn PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ [38].
Tóm lại, trong thời kì này, về hình thức, các tình tiết loại trừ TNHS
chưa được qui định thống nhất trong một văn bản; bên cạnh đó, về nội dung,
các tình tiết loại trừ TNHS cũng chưa được đề cập một cách toàn diện.
1.4.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về kĩ thuật lập
pháp hình sự Việt Nam. Lần đầu tiên, các tình tiết loại trừ TNHS đã được ghi
nhận chính thức trong BLHS với nội dung pháp lý khá toàn diện. Các tình tiết
loại trừ TNHS bao gồm: phòng vệ chính đáng (Điều 13) và tình thế cấp thiết
(Điều 14).
Để việc áp dụng hai tình tiết PVCĐ và TTCT trong thực tiễn được
thống nhất, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ra Nghị quyết số 02/HĐTP
ngày 5/1/1986 hướng dẫn thi hành một số điều trong BLHS, trong đó có đề
cập đến chế định PVCĐ như sau: “Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của người khác được coi là PVCĐ khi có đầy đủ các điều kiện sau: a) hành vi
xâm hại những lợi ích cần bảo vệ phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng có
tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội; b) hành vi nguy hiểm cho xã hội
đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho
những lợi ích cần phải bảo vệ; c) PVCĐ không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi
sự tấn công mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho
chính người xâm hại; d) hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm
hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại…”[38, tr.149]. Có thể nói,
29
Nghị quyết số 02/1986 của TANDTC đã mô tả và xác định rõ các điều kiện
của PVCĐ, đồng thời văn bản này đã chỉ ra các dấu hiệu để nhận biết trường
hợp vượt quá giới hạn của PVCĐ. Mặc dù đây chỉ là văn bản hướng dẫn,
nhưng thực tiễn xét xử đã cho thấy văn bản này có ý nghĩa quan trọng trong
việc tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng luật
được chính xác.
Sau gần 15 năm thi hành (1985 -1999) với bốn lần sửa đổi và bổ sung
một số điều của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua vào các ngày
28/12/1989, 12/8/1991, 22/12/1992 và 10/5/1997, BLHS năm 1985 đã được
thay thế bằng BLHS năm 1999. BLHS này, về cơ bản vẫn giữ nguyên nội
dung hai điều luật về PVCĐ và TTCT. Tuy nhiên, xét về cụ thể, BLHS năm
1999 đã thay thế dấu hiệu “tương xứng” bằng dấu hiệu “cần thiết”. Đây “ …
là một sự sửa đổi có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm góp phần phát huy
tính chủ động trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm... Việc thay đổi
này cũng chính là để khuyến khích nhân dân tích cực tham gia chống trả các
hành vi phạm tội, đồng thời để khắc phục những nhược điểm nêu trên” [4,
tr.36]. Như vậy, sự thay đổi này là hợp lí, thể hiện rõ hơn bản chất pháp lý của
chế định PVCĐ trong luật hình sự Việt Nam.
Tóm lại, việc quy định về các tình tiết loại trừ TNHS trong luật hình sự
Việt Nam là kết quả của quá trình kế thừa và phát triển trong giai đoạn lịch sử
tương đối lâu dài. Qui định về PVCĐ và TTCT trong BLHS hiện hành đã thể
hiện bước tiến đáng kể trong lập pháp hình sự. Tuy nhiên, sự phát triển không
ngừng của xã hội đã cho thấy qui định về các tình tiết loại trừ TNHS nói
chung cũng như qui định về hai chế định này nói riêng đã dần bộc lộ những
bất cập nhất định đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
“Các tình tiết loại trừ TNHS” là vấn đề được nhiều nhà khoa học trong
và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam,
xuất phát từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, đã có nhiều cách hiểu và tên
gọi không thống nhất về các tình tiết loại trừ TNHS. Trên cơ sở lý luận về tội
phạm và TNHS, tác giả luận văn nhận thấy các tình tiết loại trừ TNHS có
những đặc điểm cơ bản là: luôn gắn với hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu về
hình thức của một tội phạm; là tình tiết làm cho hành vi gây thiệt hại mất tính
nguy hiểm của một tội phạm và là tình tiết được quy định trong luật hình sự.
Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa về các tình tiết loại trừ TNHS như sau: Các
tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là các tình tiết được luật hình sự quy định
mà khi có một trong những tình tiết đó thì người đã thực hiện hành vi gây
thiệt hại có dấu hiệu của tội phạm được loại trừ trách nhiệm hình sự vì hành
vi của họ không có tính nguy hiểm của tội phạm.
Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS xuất phát từ cơ sở lý luận và
thực tiễn của PLHS và yêu cầu của xã hội. Với thực trạng tình hình tội phạm
ngày càng phức tạp, trước yêu cầu đổi mới và phát triển không ngừng của xã
hội, PLHS cần có những quy định cụ thể về các tình tiết loại trừ TNHS, tạo cơ
sở pháp lý cho người dân thực hiện quyền được hành động vì lợi ích chung
của toàn xã hội. Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong PLHS thể
hiện nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật.
Việc xác định tình tiết loại trừ TNHS cụ thể cũng như đặt tên và xác
định các dấu hiệu cho từng tình tiết là thuộc quyền lập pháp của mỗi quốc gia.
Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS có thể bao gồm:
phòng vệ; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; thi
hành mệnh lệnh cấp trên; rủi ro (trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học,
công nghệ), gây thiệt hại do bị cưỡng bức v.v…
Khi nghiên cứu về các tình tiết loại trừ TNHS cần đặt nó trong sự so
sánh với trường hợp không có TNHS và miễn TNHS, bởi mặc dù hậu pháp lý
31
cuối cùng của các loại trường hợp này đều giống nhau là chủ thể không phải
chịu TNHS, nhưng bản chất của chúng là khác nhau. Việc phân biệt các loại
trường hợp này giúp xác định phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS và quy định
chúng trong BLHS, đồng thời cũng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự
xác định chính xác các loại trường hợp này trong thực tiễn áp dụng PLHS.
Nghiên cứu quy định về các tình tiết loại trừ TNHS trong lịch sử lập
pháp Việt Nam cho thấy, các tình tiết này có quá trình phát triển ngày càng
được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống và tiếp thu kỹ thuật
lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
32
CHƢƠNG 2
CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng
2.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là một trong những tình tiết loại trừ TNHS được
quy định trong BLHS Việt Nam năm 1999.
Khoản 1 Điều 15 BLHS quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của
người vì bảo vệ ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả một cách cần thiết người
đang có hành vi xâm phạm các lợi ích trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Từ nội dung của điều luật về PVCĐ và trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
áp dụng quy định này cho thấy, hành vi gây thiệt hại do PVCĐ là hành vi về
mặt hình thức có những dấu hiệu của hành vi bị luật hình sự quy định là tội
phạm. Hành vi mà người phòng vệ chính đáng thực hiện đã gây thiệt hại cho
người đang có hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
với mục đích chống trả, ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của người
này để bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc người khác. Đối với hành vi gây thiệt hại này, nếu xét về mặt
chủ quan, chủ thể cũng nhận thức được tính gây thiệt hại và thấy trước thiệt
hại đã gây ra. Chính vì vậy, “hành vi gây thiệt hại do sự phòng vệ chính đáng
bao giờ cũng được thực hiện với thái độ tâm lí là lỗi cố ý của chủ thể” [8,
tr.548]. Như vậy, xét về hình thức, hành vi phòng vệ có các dấu hiệu khách
quan và chủ quan của một hành vi được quy định trong BLHS. Mặc dù vậy,
hành vi này không bị coi là tội phạm. Tình tiết phòng vệ chính đáng hay nói
cách khác động cơ phòng vệ trong phạm vi cho phép đã loại trừ tính chất tội
33
phạm của hành vi đã thực hiện. Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi xâm
hại các lợi ích được pháp luật bảo vệ là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy, hành vi
chống trả hành vi xâm hại nhằm bảo vệ các lợi ích này là hành vi có lợi cho
xã hội, không những không bị coi là tội phạm mà còn được xã hội khuyến
khích thực hiện. “Phòng vệ chính đáng là việc làm hoàn toàn phù hợp với lợi
ích xã hội và được pháp luật xác nhận là quyền của mỗi công dân, là căn cứ
hợp pháp, loại trừ tính trái pháp luật hình sự của hành vi” [15, tr.41]. Phòng
vệ chính đáng làm cho hành vi gây thiệt hại không có tính trái với lợi ích của
xã hội mà ngược lại có tính phù hợp với lợi ích của xã hội. Do vậy, pháp luật
nói chung cũng như BLHS nói riêng cho phép người dân được thực hiện hành
vi như vậy. Từ đó, quy định về PVCĐ trở thành căn cứ pháp lý cho quyền
phòng vệ của mỗi người, là căn cứ hợp pháp, căn cứ biện minh cho các hành
vi gây thiệt hại mà về hình thức “giống” như một tội phạm.
Phòng vệ chính đáng được coi là quyền của mọi người. Khi có hành vi
xâm hại các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác thì mọi người đều có thể sử dụng quyền chống
trả, gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại ngay cả trong trường hợp còn
có cách khác để bảo vệ các lợi ích này. Hành vi chống trả trong PVCĐ thực
chất là hành vi đấu tranh trực tiếp chống lại hành vi phạm tội cũng như hành
vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết trong mọi trường hợp. Mọi người
có quyền thực hiện phòng vệ mà không phụ thuộc vào bất cứ quyết định của
tổ chức hay cá nhân nào. Khi thực hiện quyền này, mọi người “… không cần
phải xin phép nhà chức trách có thẩm quyền bởi do yêu cầu cấp bách cần
ngăn chặn hành vi xâm hại, bảo vệ các lợi ích hợp pháp, nếu phải xin phép
nhà chức trách thì mục đích của PVCĐ không thực hiện được” [9, tr.293].
Phòng vệ chính đáng là quyền của người dân nhưng việc thực hiện quyền đó
cũng gắn liền với khả năng bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản nên
pháp luật không đòi hỏi mọi người khi thấy có hành vi xâm hại các lợi ích
hợp pháp phải có nghĩa vụ chống trả người có hành vi xâm hại. Đứng trước
34
sự xâm hại các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi chính đáng
của mình hoặc của người khác, nếu người dân không thực hiện hành vi chống
trả thì chỉ có thể bị lên án về mặt đạo đức chứ không thể bị truy cứu trách
nhiệm pháp lý nói chung cũng như TNHS nói riêng. Do vậy, PVCĐ là quyền
chứ không phải là nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, đối với một số người do có
tính chất đặc biệt của công việc, nghề nghiệp được giao, họ phải có trách
nhiệm đối với việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội thì phòng vệ lại là nghĩa
vụ pháp lý. Đó là những người như nhân viên bảo vệ của các cơ quan, tổ
chức, cảnh sát bảo vệ trật tự đường phố, chiến sĩ công an làm nhiệm vụ đấu
tranh chống tội phạm… Nếu trong những hoàn cảnh nhất định, khi có hành vi
xâm hại nhưng những người này không thực hiện nghĩa vụ chống trả người có
hành vi xâm hại thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý (trong đó có cả TNHS),
tùy theo mức độ của sự vi phạm.
Với chế định PVCĐ, Nhà nước cho phép mọi người có quyền được bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích của xã hội trong
điều kiện có thể bảo vệ được. Tuy nhiên, PVCĐ không có nghĩa là “tự xử lý”
hay “muốn làm gì thì làm” mà phòng vệ phải được thực hiện trong giới hạn
pháp luật cho phép. Một hành vi được coi là PVCĐ khi thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện chứng minh sự phòng vệ là “chính đáng”, phù hợp với lợi ích xã hội
mà những điều kiện đó đã được cụ thể hóa trong quy định của pháp luật. Do
vậy, để nhận thức và áp dụng chặt chẽ về PVCĐ, cần hiểu đúng về các điều
kiện của PVCĐ.
2.1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng
2.1.2.1. Điều kiện thuộc về cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng
Cơ sở làm phát sinh quyền PVCĐ là hành vi xâm hại lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của tổ chức, quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân đang xảy
ra hoặc đe doạ xảy ra ngay tức khắc.
35
Điều kiện thứ nhất trên đây trả lời cho câu hỏi khi nào thì người dân
được phép thực hiện quyền phòng vệ. Người dân được phép thực hiện quyền
phòng vệ khi hành vi xâm hại đang xảy ra hoặc đe doạ xảy ra ngay tức khắc.
- Hành vi xâm hại ở đây trước hết phải là hành vi có tính gây thiệt hại
đáng kể cho xã hội, hành vi này có thể thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm
nhưng cũng có thể không phải là tội phạm. Việc cho phép PVCĐ đối với cả
hành vi không CTTP là do những hành vi như vậy vẫn cần phải được ngăn
chặn kịp thời để tránh những thiệt hại cho xã hội (như hành vi đâm, chém
người của người không có năng lực TNHS do mắc bệnh tâm thần). “…Hơn
nữa, khi đứng trước sự xâm hại, mỗi cá nhân khó có thể luôn khẳng định
được ngay hành vi xâm hại đó có phải là tội phạm hay không” [15, tr.42]. Do
vậy, BLHS không đặt vấn đề hành vi xâm hại phải CTTP cũng như người
phòng vệ phải nhận thức được hành vi xâm hại là tội phạm. Vấn đề mấu chốt
là ở chỗ, hành vi xâm hại nhất thiết phải là hành vi có tính gây thiệt hại đáng
kể cho xã hội. Nếu hành vi xâm hại có tính gây thiệt hại không đáng kể mà
một người đã phòng vệ bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của
người xâm hại thì hành vi này không được coi là PVCĐ.
Ví dụ: Chiều 21.1.2009, bà Phạm Thị Ng cùng một số phụ nữ có trèo
vào trang trại của Cty TNHH TN thuộc thành phố Buôn Ma Thuột để nhặt cà
phê rụng (cà phê của trang trại đã được thu hoạch chỉ còn sót lại cà phê rụng
trên mặt đất). Khi vừa trèo vào, thấy một con chó becgiê cao to xông ra, một
số người nhanh chân trèo lên những cây sầu riêng gần đó. Riêng bà Phạm Thị
Ng (nhà ở đối diện trang trại) chưa kịp trèo lên cây thì bị Nguyễn Đình S xuỵt
con chó này tấn công bà Ng làm bà Ng ngã. Mặc cho bà Ng và những phụ nữ
khác van xin, S. vẫn lạnh lùng nhìn và nói “Cho cắn chết. Ai bảo trèo vào?”.
Ngay sau đó, 5 con chó khác xuất hiện và cùng với con chó lúc đầu cắn bà
Ng. Khoảng 25 phút sau, khi bà Ng bị đàn chó cắn chết thì S mới huýt sáo gọi
chúng về”…[62]. Trong trường hợp này, hành vi xâm hại – trèo vào trang trại
nhặt cà phê rụng của bà Ng tuy có xâm hại lợi ích của trang trại, nhưng không
36
phải là có tính gây thiệt hại đáng kể. Do vậy, Nguyễn Đình S không thể dựa
vào đó để thực hiện quyền xuỵt đàn chó cắn bà Ng đến chết. Hành vi của S
không phải là PVCĐ mà là hành vi giết người.
- Hành vi xâm hại của con người là cơ sở của quyền PVCĐ nhưng chỉ
là cơ sở chừng nào hành vi xâm hại phải đang xảy ra hoặc đe doạ xảy ra ngay
tức khắc.
Hành vi xâm hại đang xảy ra được hiểu là hành vi xâm hại đang diễn ra
và chưa kết thúc như người xâm hại đang đâm, chém nạn nhân hoặc người
xâm hại đang vật ngã nạn nhân và xé quần áo của nạn nhân để hiếp dâm nạn
nhân… Trường hợp hành vi xâm hại tuy chưa diễn ra nhưng có biểu hiện là
đe dọa xảy ra ngay tức khắc cũng được coi là cơ sở cho phép PVCĐ. Việc gây
thiệt hại là khả năng hiện thực sẽ xảy ra chỉ trong vài khoảnh khắc. Ví dụ: A
thù hằn B và có ý định đốt nhà B. A đã tưới xăng quanh nhà chủ tài sản, khi A
lấy bao diêm ra định châm lửa đốt thì đã có người kịp thời lao tới ngăn chặn.
Trong trường hợp này, hành vi xâm hại của A (hành vi đốt) tuy chưa xảy ra
nhưng đã có biểu hiện rất rõ là hành vi đốt sẽ xảy ra ngay tức khắc (tưới xăng;
lấy bao diêm ra). Như vậy, hành vi xâm hại trong trường hợp này thuộc
trường hợp đe doạ xảy ra ngay tức khắc. BLHS cho phép được thực hiện
quyền PVCĐ ngay khi hành vi xâm hại mới đe dọa xảy ra ngay tức khắc là
cần thiết vì cũng đã có cơ sở thực tế và để đảm bảo cho người PVCĐ chủ
động thực hiện quyền và kịp thời ngăn chặn hành vi xâm hại.
Nếu chưa có biểu hiện là có sự xâm hại xảy ra ngay tức khắc mà một
người đã có hành vi phòng vệ thì hành vi đó không được coi là PVCĐ. BLHS
không quy định trực tiếp cũng như đặt tên cho trường hợp này. Khoa học luật
hình sự gọi trường hợp này là phòng vệ quá sớm. Trái lại, nếu hành vi xâm
hại đã kết thúc, không còn xảy ra nữa do người xâm hại đã đạt được mục
đích, đã tự dừng lại hoặc đã bị ngăn chặn mà vẫn có hành vi phòng vệ thì
hành vi này không được coi là PVCĐ vì lúc này hành vi không thể đạt được
mục đích của PVCĐ. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là phòng vệ
37
quá muộn. Phòng vệ quá sớm và phòng vệ quá muộn đều không được coi là
những tình tiết loại trừ TNHS, người phòng vệ trong trường hợp này phải
chịu TNHS về những thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Ví dụ: Sau khi uống rượu, Hứa Văn Y đến nhà chị H để chơi bi-a,
nhưng không có ai chơi với Y, nên Y bực tức, vứt gậy bi-a ra đường. Thấy
vậy, chị H chạy ra nhặt gậy và nói không cho Y chơi nữa. Y lại tiếp tục ném
quả bi-a ra đường, rồi quay lại dùng tay đập vào vai chị H, tiếp đến Y hất đổ
bàn bi-a và dẫm chân lên mặt bàn làm mặt bàn bị vỡ, rồi Y tiếp tục dùng tay
đánh mạnh vào đầu chị H. Anh V vào can ngăn cũng bị Y đánh. Nông Văn L
đang bế con cách nhà khoảng 20m nghe tin vợ bị đánh, nên đã về nhà lấy
súng AK (L là dân quân nên được trang bị súng) chĩa vào người Y (khi Y
đang đứng chống nạnh thách thức) bắn ba phát, làm Y bị chết. Sau đó, L cầm
súng chạy đến đồn biên phòng tự thú [39]. Trong vụ án này, hành vi của Y
tuy là hành vi xâm phạm sức khỏe và xâm phạm sở hữu của người khác là
những khách thể được luật hình sự bảo vệ nhưng hành vi này đã không còn
xảy ra khi anh L dùng súng bắn vào Y. Điều này có nghĩa anh L không còn cơ
sở cho việc thực hiện quyền phòng vệ. Hành vi của anh L là hành vi phòng vệ
quá muộn. Anh L không được coi là có hành vi PVCĐ mà bị coi là phạm tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trường hợp ngoại lệ vẫn được coi là PVCĐ mặc dù hành vi phòng vệ
xảy ra sau khi hành vi xâm hại vừa kết thúc là trường hợp hành vi phòng vệ
đó đi liền ngay sau hành vi xâm hại và nhằm khắc phục thiệt hại đã xảy. Ví
dụ: trường hợp người bị cướp giật đã đuổi theo người đã cướp giật được túi
xách tay của mình và đã quật ngã người này để lấy lại túi xách của mình. Do
bị quật ngã mà người phạm tội cướp giật đã bị thương tích. Trong trường hợp
này, hành vi gây thương tích tuy xảy ra sau khi hành vi cướp giật đã kết thúc
nhưng vẫn được coi là PVCĐ vì hành vi này xảy ra ngay sau hành vi xâm hại
và nhằm khắc phục thiệt hại.
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự

More Related Content

What's hot

Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Nguyen Trang
 

What's hot (20)

Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOTTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAYLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 

Similar to Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự

Similar to Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự (20)

Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự Việt Nam.docPhòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- TRẦN THỊ THANH THỦY c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù trong luËt h×nh sù viÖt nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- TRẦN THỊ THANH THỦY c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù trong luËt h×nh sù viÖt nam Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa HÀ NỘI – 2015
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Trang CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ................................................................. 7 1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự................................. 7 1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự............................................................................................................... 7 1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................................................................................13 1.2. Phạm vi các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ...................................21 1.3. Phân biệt các tình tiết loại trừ TNHS với những trường hợp không có TNHS và miễn TNHS .....................................................................................23 1.4. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.............................................................................................................26 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ......................................................26 1.4.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay............28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..............................................................................30 CHƢƠNG 2: CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH .......................32 2.1. Loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng..........................32 2.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng.........................................................32 2.1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng.............................................34 2.2. Loại trừ trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết.................................43 2.2.1. Khái niệm tình thế cấp thiết................................................................43
  • 4. 2.2.2. Các điều kiện của tình thế cấp thiết....................................................45 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..............................................................................50 CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM......52 3.1. Đánh giá các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam..................52 3.2. Hoàn thiện BLHS quy định về các tình tiết loại trừ TNHS.....................57 3.2.1. Hoàn thiện quy định về phòng vệ chính đáng.......................................58 3.2.2. Bổ sung quy định về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự khác ...60 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..............................................................................69 KẾT LUẬN....................................................................................................70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................73
  • 5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu, các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Ngƣời cam đoan Trần Thị Thanh Thủy
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CHLB: Cộng hòa Liên bang CHND: Cộng hòa nhân dân CTTP: Cấu thành tội phạm PLHS: Pháp luật hình sự PVCĐ: Phòng vệ chính đáng TTCT: Tình thế cấp thiết TNHS: Trách nhiệm hình sự TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc người phạm tội phải chịu chế tài hình sự được luật hình sự quy định. Theo đó, luật hình sự có nhiệm vụ xác định các hành vi vi phạm pháp luật là tội phạm và phải chịu TNHS. Bên cạnh đó, luật hình sự cũng có những quy định về các trường hợp mà hành vi đã thực hiện về hình thức tuy có các dấu hiệu của tội phạm nhưng vì có những tình tiết đặc biệt nên không bị coi là tội phạm và không phải chịu TNHS. Luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành chưa có tên gọi cho các tình tiết này mà chỉ có tên gọi cho từng tình tiết cụ thể, đó là phòng vệ chính đáng (Điều 15) và tình thế cấp thiết (Điều 16). Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết này được các nhà khoa học gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Các tên gọi khác nhau đó là: “căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”; “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự”; “các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi” và “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự”... Mặc dù chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ như kể trên nhưng xét về nội dung, các trường hợp này đều được hiểu không khác nhau và hậu quả pháp lý mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – không phải chịu TNHS. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả chọn thuật ngữ “các tình tiết loại trừ TNHS” theo cách gọi trong Giáo trình Luật hình sự (Phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2003). Cùng với chế định TNHS, chế định “các tình tiết loại trừ TNHS” có ý nghĩa trong việc giải quyết TNHS, là “cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước pháp
  • 8. 2 quyền XHCN Việt Nam trên con đường đổi mới” [9, tr.280]. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn, nhận thức và áp dụng các tình tiết loại trừ TNHS đang còn có một số vướng mắc. Bản thân hai tình tiết được quy định trong BLHS hiện hành (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết) vẫn còn nhận thức và áp dụng chưa thống nhất; bên cạnh đó, phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS gồm những trường hợp nào vẫn còn nhiều tranh luận. Hơn nữa, việc Dự thảo BLHS (sửa đổi) đã quy định thêm một số trường hợp cùng với “phòng vệ chính đáng” (PVCĐ) và “tình thế cấp thiết” (TTCT) trong chương mới - chương IV - “Những trường hợp loại trừ TNHS” cũng đòi hỏi có sự nghiên cứu về các trường hợp bổ sung này để làm rõ hơn chế định “các tình tiết loại trừ TNHS”. Với lý do như vậy, tác giả lựa chọn đề tài “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự” trong luật hình sự có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội cũng như về mặt pháp lý hình sự. Do đó, vấn đề này được nhiều nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, các Giáo trình Luật hình sự - Phần chung của các cơ sở đào tạo đại học đều có nội dung trình bày những kiến thức cơ bản về chế định này cũng như về nội dung của hai điều luật trong BLHS quy định về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là những kiến thức cơ bản, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sâu về lý luận cũng như thực tiễn. Các công trình nghiên cứu khác về vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu bao gồm các luận án, luận văn, các sách và các bài báo. Các công trình này có thể được chia thành các nhóm sau: - Nhóm nghiên cứu về nhiều vấn đề của Luật hình sự trong đó có nội dung về chế định mà tác giả luận văn nghiên cứu. Ví dụ: Lê Văn Cảm, Những
  • 9. 3 vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo Sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (2010); Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Lao động, Hà Nội (2013); - Nhóm nghiên cứu “các trường hợp (tình tiết) loại trừ trách nhiệm hình sự” được hiểu bao gồm cả các trường hợp không có TNHS khác. Do vậy, trong các công trình này, vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu chỉ là một nội dung trong nhiều nội dung khác được nghiên cứu. Ví dụ: Nguyễn Ngọc Chí, Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4 (1999); Giang Sơn, Các yếu tố loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, Luận án tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2002); Trịnh Tiến Việt, Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQG, Luật học, tập 29, số 4 (2013); Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 2 (2014);... Như vậy, hai nhóm nghiên cứu này có nội dung nghiên cứu tương đối rộng và nội dung thuộc đề tài luận văn của tác giả không phải là nội dung được tập trung nghiên cứu của các công trình này. - Nhóm nghiên cứu chuyên về chế định phòng vệ chính đáng hoặc về tình tiết cấp thiết. Đây là nhóm có nhiều công trình nghiên cứu để phục vụ trực tiếp việc giải thích, bình luận các điều luật của BLHS. Điểm chung của các công trình này là tập trung giải thích nội dung quy định của BLHS về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết, từ cơ sở, nội dung, phạm vi đến các vướng mắc có liên quan. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Tìm hiểu về bản chất của tình thế cấp thiết, Tạp chí Luật học số 5/1999; Nguyễn Đức Mai, Phòng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 (2000); Giang Sơn, Quy định về chế định phòng vệ chính đáng theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
  • 10. 4 Nhà nước và pháp luật, số 8 (2001); Phạm Quốc Hưng, Phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Đinh Văn Quế, Một số vấn đề phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và những vướng mắc trong thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 (2009); Nguyễn Hương Giang, Tình thế cấp thiết trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011); Nguyễn Sơn, Phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014); v.v… Các công trình này đều nghiên cứu từng điều luật trong BLHS mà không gắn kết các điều luật này với nội dung của chế định chung “các tình tiết loại TNHS”. - Nhóm nghiên cứu “các tình tiết loại trừ TNHS” theo nghĩa như cách hiểu trong luận văn của tác giả. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (1999);… Các công trình công trình nghiên cứu này tuy đã làm rõ hơn cơ sở lí luận về các tình tiết loại trừ TNHS nhưng mới chỉ tập trung vào hai tình tiết đã được quy định trong BLHS. Tóm lại, các công trình đã được công bố đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận cũng như những vướng mắc trong thực tiễn của chế định các tình tiết loại trừ TNHS. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn pháp lý, vẫn còn một số vấn đề yêu cầu cần được làm rõ hơn như: làm rõ hơn bản chất của các trường hợp được loại trừ TNHS; mối quan hệ giữa chế định này với các trường hợp không có TNHS và miễn TNHS; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS, cũng như làm rõ nội dung của các quy định mới được bổ sung trong Dự thảo BLHS (sửa đổi) hoặc nội dung liên quan đến thực tiễn gần đây như vấn đề thi hành công vụ và phòng vệ chính đáng.
  • 11. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích làm rõ hơn về lý luận chế định các tình tiết loại trừ TNHS để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về vấn đề này. Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự; - Giải thích các quy định của BLHS năm 1999 về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết trong sự so sánh với lý luận và thực tiễn lập pháp của một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, tác giả luận văn đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Ngoài cơ sở lý luận của chế định các tình tiết loại trừ TNHS, luận văn còn có các đối tượng nghiên cứu là: các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, của Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi) và luật hình sự một số quốc gia khác trên thế giới về các tình tiết này. Cụ thể: Các điều luật được nghiên cứu là các điều 15, 16 BLHS Việt Nam năm 1999; các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi); các điều 37, 38, 39, 40, 41,42 BLHS Liên bang Nga; các điều 1, 2, 4, 8, (chương 24) BLHS Thụy Điển; các điều 25, 27, 34 BLHS Cannada; các điều 32, 33, 34 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức; các điều 20, 21 BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, so sánh, tổng hợp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
  • 12. 6 - Chương 1. Một số vấn đề chung về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự - Chương 2. Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành - Chương 3. Hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam
  • 13. 7 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự 1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Các tình tiết loại trừ TNHS là chế định không thể thiếu trong luật hình sự của mỗi quốc gia, có quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS cũng như các chế định khác để tạo thành cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc truy cứu TNHS. Một người chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại cho xã hội khi họ có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm và có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại. Trái lại, họ sẽ không có TNHS khi thuộc về một trong các trường hợp sau: - Chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự (PLHS); - Là người đang trong tình trạng mắc bệnh nên mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội hoặc - Không có lỗi (có thể là trường hợp bất khả kháng hoặc trường hợp sự kiện bất ngờ). Các trường hợp này có thể được gọi là các trường hợp không có TNHS. Ngoài các trường hợp trên đây, một người cũng không phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà mình đã thực hiện nếu việc thực hiện được PLHS cho phép vì có những tình tiết nhất định (như phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết). Những tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy, các trường hợp không có TNHS và các tình tiết loại trừ TNHS có sự khác nhau. Tuy nhiên, về vấn đề này hiện có các ý kiến khác nhau. Từ đó dẫn đến có những cách hiểu khác nhau về các tình tiết loại trừ TNHS. Cụ thể: các tình tiết loại trừ TNHS có thể được hiểu theo nghĩa không bao gồm các trường hợp không có TNHS. Cách hiểu khác lại cho rằng, các tình tiết loại trừ TNHS bao gồm tất cả các trường hợp đã được nêu trên.
  • 14. 8 Khái niệm “các tình tiết loại trừ TNHS” trong luận văn của tác giả được sử dụng theo các hiểu thứ nhất (không bao gồm các trường hợp không có TNHS) như đã được khẳng định trong Phần mở đầu. Cách hiểu này cũng được Giáo trình luật hình sự Việt Nam của nhiều cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam sử dụng như trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Huế. Khác với quan điểm trên đây, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003) khẳng định các tình loại trừ TNHS còn bao gồm cả “Sự kiện bất ngờ; tuổi chịu trách nhiệm hình sự; không có năng lực trách nhiệm hình sự …” [9, tr. 291]. Cùng với quan điểm trên đây, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã xác định 10 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: tình tiết chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể; sự kiện bất ngờ; tình trạng bất khả kháng; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro chấp nhận được về kinh tế hoặc nghề nghiệp [8, các tr.514, tr.515]. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm nhiều quy định tạo thành một nhóm quy phạm điều chỉnh hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự” [11, tr.35]. Theo đó, tác giả xác định 9 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; chưa đủ tuổi chịu TNHS; bắt người phạm tội; chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu khoa học, trong sản xuất [11; tr.33]. TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng đối chiếu (căn cứ) vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Nói một cách khác, trong hành vi
  • 15. 9 của một người khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội do không thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên tính chất tội phạm của hành vi đó được loại trừ, và logic tương ứng, người thực hiện nó không phải chịu trách nhiệm hình sự hay được loại trừ trách nhiệm hình sự” [54, các tr.17, tr.18]. Theo đó, tác giả xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; sự kiện bất khả kháng; không có lỗi trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác; gây thiệt hại hợp pháp khi bắt người phạm tội; rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học; thi hành quyết định của cấp trên; giúp người đã thành niên tự sát theo yêu cầu tự nguyện của người đó; người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo; hành vi phạm tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm [54, các tr.18, tr.26 – tr.28]. TS. Nguyễn Tuyết Mai định nghĩa: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội nhưng được pháp luật xác định không phải chịu trách nhiệm hình sự do: tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; hoặc thiếu yếu tố của tội phạm; hoặc có căn cứ hợp pháp của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội” [22, tr.12]. Tác giả cũng xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; không tố giác tội phạm; bị ép buộc đưa hối lộ; tình trạng bất khả kháng; không có lỗi với tình trạng say; bị cưỡng bức; thi hành mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [22, các tr.12, tr.13]. Tác giả Đinh Văn Quế còn mở rộng hơn nữa khái niệm này khi xác định 18 trường hợp loại trừ TNHS và phân chia thành 3 nhóm: a) Nhóm thứ nhất - những trường hợp “không có năng lực TNHS” (bao gồm ba trường hợp là: tình trạng không có năng lực TNHS; chưa đến tuổi chịu TNHS; chưa bị kết
  • 16. 10 án, chưa bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật, chưa được giáo dục); b) Nhóm thứ hai - những trường hợp “không bị coi là có lỗi” (bao gồm 9 trường hợp là: phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; sự kiện bất ngờ; tình trạng không thể khắc phục được; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất; không phải chịu TNHS về hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm); c) Nhóm thứ ba - những trường hợp được loại trừ TNHS theo quy định của pháp luật (bao gồm 6 trường hợp là: tính chất nguy hiểm không đáng kể của hành vi; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại chưa tới mức phải truy cứu TNHS; được miễn TNHS; hết thời hiệu truy cứu TNHS; hành vi nguy hiểm cho xã hội không thuộc phạm vi áp dụng BLHS) [24, các tr.18, tr.19]. Trong khoa học hình sự nước ngoài, GS. TSKH luật Xlutxki I.I của Liên bang Nga đã phân các trường hợp loại trừ TNHS thành ba nhóm: a) Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành mệnh lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); b) Nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội và tính phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự, hết thời hiệu thi hành của bản án); c) Nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác và, sức mạnh không thể chống lại được) [8; các tr.510, tr.511]. Tóm lại, các tình tiết loại trừ TNHS có thể được các tác giả hiểu theo nhiều phạm vi khác nhau. Bên cạnh đó, tên gọi của các trường hợp này cũng có sự không thống nhất.
  • 17. 11 Tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” là tên gọi được sử dụng trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003). Tác giả của Giáo trình này cho rằng “TNHS là hậu quả pháp lý của trường hợp hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm và đối lập với TNHS là không có hay loại trừ TNHS, là hậu quả pháp lý của hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng không bị coi là tội phạm” [9, tr.284]. Tác giả luận văn chọn cách gọi này vì nó “… xác định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của luật hình sự, đồng thời phù hợp với nhận thức chung của cán bộ áp dụng pháp luật đã được thống nhất lâu nay ở nước ta” [24, tr.9]. Khác với Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của hầu hết các cơ sở đào tạo luật khác như trường Đại học Luật Hà Nội (2013), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), trường Đại học Huế (2001) đều đặt tên cho nhóm các quy phạm này là: “Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Sở dĩ tên gọi này được lựa chọn vì các tác giả cho rằng “hành vi đã thực hiện, xét về khách quan đã gây ra thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội... Do không có lỗi nên hành vi gây thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [47, tr.201]. Các tác giả cho rằng, hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS vì “xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội”. Do vậy, hành vi được thực hiện tuy gây thiệt hại nhưng không phải là tội phạm. Theo đó, “gốc” của vấn đề là tính chất nguy hiểm cho xã hội bị loại trừ. Từ đó, các tác giả đưa ra định nghĩa về những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là “những tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại nên được quy định trong luật hình sự để xác định những trường hợp bình thường là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực hiện trong những điều kiện kèm theo tình tiết đó” [47, tr.202]. Như vậy, các tác giả đã xuất phát
  • 18. 12 từ đặc điểm (dấu hiệu) về nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội) khi đặt tên gọi riêng cho nhóm các quy phạm này. Ở đây, tính chất nguy hiểm cho xã hội được hiểu bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan. Nếu hiểu tính nguy hiểm cho xã hội chỉ là tính gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thì tên gọi trên đây sẽ không chính xác vì đặc điểm này “… của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện luôn tồn tại không phụ thuộc vào có hay không có tình tiết phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết” [15, tr.39]. Khác với cách đặt tên trên đây, GS. TSKH. Lê Văn Cảm gọi các tình tiết đó là “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)”, tác giả cho rằng, “tính chất tội phạm của hành vi là phạm trù rộng hơn và bao trùm lên tất cả các tính chất khác – tính nguy hiểm cho xã hội, tính chất lỗi, và tính chất trái pháp luật hình sự” [8, tr.516]. Theo đó, “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là những tình tiết được điều chỉnh trong pháp luật hình sự mà khi có căn cứ do luật định thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm và do vậy, người gây ra thiệt hại đó không phải chịu TNHS” [8; tr.504]. Một tên gọi khác được GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu trong cuốn “Tội phạm và cấu thành tội phạm” là “các căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”. Cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho rằng “hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong BLHS và không thuộc những trường hợp có căn cứ hợp pháp khác. Theo đó, hành vi đã thực hiện tuy được quy định trong BLHS nhưng vẫn không phải là tội phạm nếu chủ thể có căn cứ hợp pháp được quy định trong BLHS khi thực hiện hành vi này” [15, tr.38]. Tác giả của tên gọi này cho rằng, các hành vi được quy định trong BLHS là các hành vi bị cấm nhưng một người vẫn có thể được quyền thực hiện những hành vi có tính gây thiệt hại đã được quy định đó trong trường hợp có căn cứ (tình tiết) nhất định được Bộ luật quy định. Do
  • 19. 13 vậy, những căn cứ (tình tiết) này được coi là các căn cứ hợp pháp của hành vi. Các căn cứ này làm cho hành vi đã thực hiện “...không còn tính trái pháp luật hình sự” [15, tr.39]. Bên cạnh các quan điểm về các tình tiết loại trừ TNHS được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như đã trình ở trên, còn có quan điểm khoa học của một số nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề loại trừ TNHS. Mỗi nhóm quan điểm nêu trên đều có lập luận khoa học và nhân tố hợp lý riêng của mình. Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu các quan điểm khác nhau được giới thiệu khái quát trên đây, tác giả luận văn lựa chọn tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” và hiểu các tình tiết này theo phạm vi chỉ bao gồm những tình tiết cho phép được thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội. 1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Các tình tiết loại trừ TNHS là các tình tiết mà khi có một trong các tình tiết này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật hình sự vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, các tình tiết loại trừ TNHS chỉ được đề cập đến trong trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội và về hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm (CTTP). Nếu không có một trong các tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi của họ đã CTTP, TNHS đã được đặt ra và họ phải gánh chịu trách nhiệm này. Nhưng TNHS đã không được đặt ra vì hành vi được thực hiện có một trong các tình tiết đặc biệt này, hay nói cách khác, các tình tiết đặc biệt này đã làm mất đi TNHS. Do có đặc điểm làm mất đi TNHS mà các tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết loại trừ TNHS. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp về mặt ngôn ngữ. Theo Từ điển Tiếng Việt, loại trừ có nghĩa là “làm cho mất đi, …” [21, tr.574] và như vậy các tình tiết loại trừ TNHS có nghĩa là các tình tiết làm mất đi TNHS. Khác với các tình tiết loại trừ TNHS, các tình khác như tình tiết chưa đủ tuổi
  • 20. 14 trách nhiệm hình sự hay tình tiết trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay tình tiết sự kiện bất ngờ là các tình tiết phản ánh hành vi thiếu dấu hiệu của tội phạm (dấu hiệu về chủ thể hoặc dấu hiệu về lỗi) và do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra. Câu hỏi được đặt ra là tại sao các tình tiết loại trừ TNHS lại có thể làm mất trách nhiệm hình sự mặc dù chủ thể đã có hành vi gây thiệt hại và hành vi này đã được quy định trong luật hình sự? Xét về mặt khách quan, người được loại trừ trách nhiệm hình sự đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội và hành vi này được quy định trong luật hình sự. Xét về mặt chủ quan, họ cũng thấy trước khả năng gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, động cơ thực hiện các hành vi này không phải là động cơ phạm tội mà là động cơ có ích và mục đích hướng tới không phải là gây thiệt hại mà cũng là lợi ích chung, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác. Ví dụ: Trường hợp phải gây thiệt hại cho kẻ tấn công để bảo vệ chính mình hay người khác là trường hợp mà hành vi gây thiệt hại có động cơ và mục đích như vậy. Chính động cơ và mục đích này đã loại trừ trách nhiệm hình sự. Do đó, phòng vệ được coi là một tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy, trong trường hợp có tình tiết loại trừ TNHS, chủ thể tuy lựa chọn hành vi gây thiệt hại nhưng không phải là lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội mà là lựa chọn hành vi cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này cũng có nghĩa, chủ thể không có lỗi (theo đúng nghĩa) đối với hành vi khách quan đã gây thiệt hại. Cũng như trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS cũng cần phải được luật hóa để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Cơ sở của TNHS phải được luật quy định. Điều này cũng đòi các tình tiết cụ thể cũng như các dấu hiệu của các tình tiết đó cũng phải được luật quy định. Việc được quy định này chính là cơ sở pháp lý cho phép cá nhân được thực hiện hành vi gây thiệt hại mà bình thường là tội phạm. Đây cũng là lý do giải thích tại sao có tác giả gọi các tình tiết này là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại.
  • 21. 15 Từ các phân tích khái quát trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của các tình tiết loại trừ TNHS như sau: * Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự luôn gắn với hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu về hình thức của một tội phạm. Hành vi đã thực hiện khi có tình tiết loại trừ TNHS là hành vi về mặt hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP hay nói cách khác hành vi đã là hành vi phạm tội nếu giả sử không có tình tiết này. Cụ thể: - Chủ thể đã thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại và hành vi này đã được mô tả trong một CTTP. Trong đó, hành vi được coi là biểu hiện cơ bản nhất trong mặt khách quan của CTTP, đã “làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động và do vậy là nguyên nhân gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm” [15, tr.63]; - Khi thực hiện hành vi đó, chủ thể nhận thức được tính gây thiệt hại và thấy trước hậu quả thiệt hại mà hành vi có thể gây ra cho các quan hệ xã hội và - Chủ thể thực hiện là người có đủ điều kiện về chủ thể. Như vậy, xét về về tổng thể, hành vi đã thực hiện là hành vi có đủ dấu hiệu của một CTTP. Nếu không xét đến sự có mặt của tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi đã cấu thành một tội phạm cụ thể. Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hay tội giết người hay tội hủy hoại tài sản v.v… * Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho hành vi gây thiệt hại mất tính nguy hiểm của một tội phạm. Hành vi gây thiệt hại khi có tình tiết loại trừ TNHS tuy về hình thức thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP nhưng xét trong mối quan hệ với tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi đó không có tính nguy hiểm của tội phạm. Các tình tiết này tuy khác nhau nhưng đều gắn với động cơ và mục đích của hành vi đã thực hiện. Động cơ thúc đẩy là vì lợi ích chung hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân được xã hội chấp nhận; mục đích không phải để gây thiệt hại mà để bảo vệ hoặc mang lại lợi ích chung. Chính tính chất đặc biệt và phù hợp với đòi hỏi của xã hội, được xã hội chấp nhận của động cơ và mục đích của
  • 22. 16 hành vi như vậy đã làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại. Ví dụ: Việc chọn và thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác trong điều kiện bình thường là trường hợp cố ý gây thương tích và có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích nhưng khi gắn với tình tiết “phòng vệ” nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ tính mạng người khác thì hành vi gây thương tích không còn tính nguy hiểm cho xã hội. Động cơ ngăn chặn sự tấn công và mục đích bảo vệ tính mạng con người đã loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích. Việc gây thiệt hại trong những trường hợp với động cơ, mục đích như vậy được coi là hành vi có ích, được xã hội chấp nhận và do vậy không thể là hành vi tội phạm để buộc chủ thể phải chịu TNHS. * Các tình tiết loại trừ TNHS được quy định trong luật hình sự Hai đặc điểm nêu trên là đặc điểm về nội dung nhưng chỉ với hai đặc điểm đó thì các tình tiết loại trừ TNHS chưa thể là cơ sở pháp lý cho việc loại trừ TNHS. Các tình tiết này phải được luật hóa, phải được quy định rõ ràng trong luật và khi đó các quy định này mới là căn cứ hợp pháp của các hành vi gây thiệt hại. Việc phải xác định các tình tiết nào là tình tiết loại trừ TNHS và các dấu hiệu cụ thể của từng tiết để quy định trong luật là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc pháp chế và qua đó bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và áp dụng các tình tiết này. Việc các tình tiết này được quy định trong luật hình sự không chỉ là xác định các tình tiết loại trừ TNHS cụ thể mà quan trọng hơn là xác định rõ ràng cơ sở cũng như phạm vi được phép thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại, hay nói cách khác là phải xác định rõ các dấu hiệu của từng tình tiết loại trừ TNHS. Việc xác định tình tiết loại trừ TNHS cụ thể và dấu hiệu của từng tình tiết đó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự như sau: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là các tình tiết
  • 23. 17 được luật hình sự quy định mà khi có một trong những tình tiết đó thì người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu của tội phạm được loại trừ trách nhiệm hình sự vì hành vi của họ không có tính nguy hiểm của tội phạm. 1.1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Theo Từ điển Tiếng Việt, từ „cơ sở” được hiểu là “cái làm nền tảng trong quan hệ với những cái được xây dựng trên nó hoặc dựa trên nó mà tồn tại, phát triển” [23, tr.215]. Nếu cho rằng cơ sở của TNHS là việc cá nhân thực hiện một hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm thì cơ sở làm loại trừ TNHS của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự chính là động cơ có ích – vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác đã làm đi mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại. Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là vô cùng quan trọng, nó tạo cơ sở pháp lý cho người dân được quyền hành động để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như của tổ chức; đồng thời, nó động viên quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, tích cực, tự giác bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của công dân. Như đã phân tích ở trên, các tình tiết loại trừ TNHS về hình thức đã có những dấu hiệu của tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất kì hành vi nào thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm cũng làm phát sinh TNHS. Hành vi được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan có thể giống nhau nhưng diễn biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi trong từng hoàn cảnh cụ thể lại rất phức tạp. Đặc biệt, đối với những hành vi mặc dù xét về hình thức đã hội đủ các yếu tố CTTP nhưng do mục đích, động cơ của người thực hiện hành vi là nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội, của người khác hoặc lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình thì những hành vi đó cần được loại trừ TNHS. Chẳng hạn như: trong trường hợp PVCĐ, TTCT, hay bắt giữ người phạm tội...., rõ
  • 24. 18 ràng hậu quả gây thiệt hại không phải là mong muốn của chủ thể. Việc lựa chọn hành vi gây thiệt hại trong những trường hợp này xuất phát từ động cơ nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp khác và quan trọng hơn là cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, nó được coi là những tình tiết loại trừ TNHS đối với người thực hiện hành vi gây thiệt hại đó. Do vậy, BLHS cần thiết phải qui định các tình tiết loại trừ TNHS để tạo cơ sở pháp lý cho người dân được hành động, được gây thiệt hại nhất định vì lợi ích chung, vì bảo vệ những quan hệ xã hội đã được pháp luật bảo vệ. Chỉ trên cơ sở pháp luật ghi nhận chính thức (về mặt pháp lý) công dân được phép làm gì (cũng như không được phép làm gì) thì khi đó người dân mới dám thực hiện hành vi pháp luật cho phép, mới xử sự trên cơ sở qui định pháp luật. Khi quyền lợi chính đáng của mình được bảo vệ, được ghi nhận chính thức trong luật, người dân mới dám chống trả lại hành vi đang xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mới dám “cống hiến” và góp sức để phát triển xã hội. Bên cạnh đó, đối với người thi hành công vụ, trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, việc gây thiệt hại nhất định vì lợi ích chung cũng vẫn phải trên cơ sở qui định của pháp luật, không được trái pháp luật. Mặc dù đây là những hành vi có ích cho xã hội, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là công dân “tùy tiện” muốn làm gì thì làm. Pháp luật đòi hỏi họ phải thực hiện hành vi có ích trên cơ sở qui định của pháp luật. Trong một xã hội mà “tinh thần thượng tôn pháp luật” là tối cao thì điều này lại càng có ý nghĩa. Trên thực tế, tình hình tội phạm ở nước ta nói riêng cũng như trên thế giới nói chung diễn ra ngày càng phức tạp. Hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của tập thể, của công dân có xu hướng ngày càng gia tăng. Công cuộc đấu tranh chống tội phạm muốn hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của đông đảo người dân trong xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy hiện tượng nhiều người dân thường có thái độ bàng quan, thờ ơ khi chứng kiến tội phạm xảy ra (như trông thấy tên lưu manh đang trộm cắp,
  • 25. 19 cướp tài sản, hoặc gặp trường hợp một số người đang hành hung người khác... mà không dám phản ứng ngăn cản), thậm chí có người bị tội phạm trực tiếp xâm phạm đến lợi ích chính đáng của chính bản thân mình mà cũng không dám phản kháng. Việc người dân không tích cực tham gia chống tội phạm, bảo vệ các lợi ích hợp pháp đã được pháp luật bảo vệ thì càng tạo điều kiện cho phạm tội ngang nhiên hoành hành, càng gây mất trật tự trị an xã hội. Nguyên nhân một phần cũng bởi họ sợ người phạm tội, sợ bị liên lụy hoặc không biết về sự đảm bảo quyền chính đáng của mình trong pháp luật... Hay đối với những người say mê nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, ham muốn tìm tòi, sáng tạo, muốn góp một phần trí tuệ của mình vào công cuộc phát triển đất nước nhưng chẳng may xảy ra sự cố ngoài ý muốn trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, gây thiệt hại cho xã hội cũng rất lo lắng về trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Điều đó đã khiến cho công dân trong xã hội không dám đấu tranh chống lại hành vi trái pháp luật, không dám tìm tòi, đổi mới... Những hành vi nguy hiểm cho xã hội được chủ thể thực hiện trong những trường hợp như vậy là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của công dân hoặc nhằm đem lại lợi ích cho xã hội, xây dựng, phát triển xã hội, do vậy, rất cần được khuyến khích, nhân rộng trong xã hội. Do vậy, nếu không qui định rõ trong luật về các tình tiết loại trừ TNHS, người dân sẽ không dám đương đầu với tội phạm hoặc nguồn nguy hiểm để bảo vệ những lợi ích hợp pháp hoặc không dám dũng cảm say mê, tìm tòi nghiên cứu khoa học vì lợi ích chung. Việc ghi nhận các tình tiết loại trừ TNHS trong PLHS là ghi nhận quyền hợp pháp của công dân, đồng thời, định hướng công dân thực hiện được đúng các quyền của mình cũng như phát huy tính tích cực của mỗi người, quan trọng hơn nữa là khẳng định đó là những hành vi có ích được pháp luật cho phép, khuyến khích thực hiện. Chính vì vậy, các tình tiết loại trừ TNHS cần phải được quy định trong luật hình sự của mỗi quốc gia, có như vậy PLHS mới phát huy được tối đa tính chủ động, tích cực của mọi người trong quản lý trật tự xã hội, đồng thời cũng tạo cơ sở cho PLHS thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả.
  • 26. 20 Việc qui định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là thể hiện nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự tuân thủ pháp luật triệt để từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Do đó, chính việc quy định cụ thể, rõ ràng về các tình tiết loại trừ TNHS trong PLHS là cơ sở pháp lí để người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuân thủ pháp luật. Trong xã hội, công dân xử sự phải trên cơ sở quy định của pháp luật, ngay cả khi công dân thực hiện hành vi có ích vì lợi ích. Đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc xác định một hành vi có phải là tình tiết loại trừ TNHS hay không (như có phải là phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết) cũng phải trên cơ sở qui định của pháp luật. Cơ quan áp dụng luật không thể tự ý thêm hoặc bớt phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS mà việc giải quyết vụ việc trên thực tế phải dựa vào quy định của BLHS. Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật thực định của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc xác định một hành vi có phải là tình tiết loại trừ TNHS hay không phải là tình tiết loại trừ TNHS là hết sức phức tạp và không hề đơn giản. Điều này đặt ra yêu cầu là BLHS qui định về các tình tiết loại trừ TNHS phải minh bạch, rõ ràng. Việc quy định về vấn đề này càng rõ thì cơ quan áp dụng luật càng thuận lợi trong xử lí trên thực tế, từ đó hạn chế hiệu quả oan sai trong thực tiễn. Tóm lại, việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là hoàn toàn có cơ sở lí luận và thực tiễn. Vấn đề quan trọng là ở chỗ, tùy theo chính sách hình sự ở từng quốc gia, truyền thống lập pháp cũng như xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở quốc gia đó mà phạm vi cũng như tên gọi của các tình tiết loại trừ TNHS là khác nhau. Việc quy định về các tình tiết loại trừ TNHS là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đồng thời còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực chống và phòng ngừa tội phạm, khuyến khích mọi công dân xây dựng và phát triển xã hội. Đây có thể coi là nền tảng đối với sự phát triển của xã hội và vì thế, các tình tiết loại trừ TNHS cần được quy định
  • 27. 21 cụ thể, rõ ràng trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế, trong đó có Việt Nam. 1.2. Phạm vi các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Việc xác định phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS cụ thể cũng như đặt tên và xác định các dấu hiệu cho từng tình tiết là thuộc quyền lập pháp của mỗi quốc gia. Ở đây không có sự giống nhau hoàn toàn giữa luật hình sự của các quốc gia trên thế giới. Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS có thể bao gồm: phòng vệ; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro (trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học); thi hành mệnh lệnh cấp trên v.v… Trong đó, mỗi tình tiết có nội dung khái quát sau: - Phòng vệ Phòng vệ là tình tiết loại trừ TNHS cho phép công dân có quyền được tự chống trả người tấn công để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay bảo vệ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội. Mỗi quốc gia có thể có cách riêng trong đặt tên cụ thể và xác định các dấu hiệu của phòng vệ nhưng đều phải xác định rõ mục đích (ngăn chặn sự tấn công); cơ sở của quyền phòng vệ (hành vi trái pháp luật) và phạm vi của quyền phòng vệ (đủ đạt được mục đích). Theo đó, trường hợp này được BLHS Liên bang Nga đặt tên là phòng vệ chính đáng (Điều 37); BLHS CHLB Đức đặt tên là “phòng vệ khẩn cấp” (Điều 32); BLHS CHND Trung Hoa đặt tên là “phòng vệ chính đáng” (Điều 20); BLHS Thụy Điển đặt tên là “phòng vệ” (Điều 1 chương 24); BLHS Canada đặt tên là “Sử dụng sức mạnh để chống lại việc thực hiện hành vi phạm tội (Điều 27) và “phòng vệ đối với sự tấn công bị khiêu khích” (Điều 34). - Tình thế cấp thiết Tình thế cấp thiết là tình tiết loại trừ TNHS cho phép mọi người có quyền lựa chọn hành vi gây thiệt hại khi đứng trước xung đột giữa hai lợi ích
  • 28. 22 (lợi ích cần bảo vệ và lợi ích phải “hy sinh”). Việc quy định tình tiết này phải đảm bảo hai lợi ích đều là hợp pháp và lợi ích phải “hy sinh” phải nhỏ hơn lợi ích cần bảo vệ và việc lựa chọn phải trong tình thế bắt buộc, không còn cách nào khác. Tình tiết này có tên trong BLHS Liên bang Nga là tình thế cấp thiết (Điều 39), BLHS CHND Trung Hoa cũng được gọi là tình thế cấp thiết (Điều 21), BLHS Thụy Điển gọi là tình thế cấp thiết (Điều 4 chương 24), trong khi đó BLHS CHLB Đức gọi trường hợp này là “tình trạng khẩn cấp hợp pháp” (Điều 34) và tình “trạng khẩn cấp không có lỗi” (Điều 33). - Gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội Gây thiệt hại khi bắt người phạm tội là tình tiết loại trừ TNHS cho phép mọi người có quyền được gây thiệt hại cho người phạm tội để bắt giữ người này giao họ cho cơ quan có thẩm quyền và ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội khi không còn cách khác. BLHS Liên bang Nga gọi đây là trường hợp “gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp” (Điều 38); còn BLHS Thụy Điển gọi đây là trường hợp “dùng vũ lực để ngăn chặn việc bỏ trốn hoặc duy trì trật tự” (Điều 2 chương 24); BLHS Canada gọi đây là trường hợp “bảo vệ những người thực thi thẩm quyền” (Điều 25) - Rủi ro Rủi ro là tình tiết loại trừ TNHS cho phép người tiến hành thử nghiệm nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ không phải chịu TNHS đối với thiệt hại mà họ chẳng may gây ra trong khi thực hiện các công việc đó vì sự phát triển chung của xã hội. BLHS Liên bang Nga gọi trường hợp này là “mạo hiểm có căn cứ” (Điều 41). - Chấp hành mệnh lệnh cấp trên Chấp hành mệnh lệnh cấp trên là tình tiết loại trừ TNHS cho phép thường là quân nhân không phải chịu TNHS đối với gây thiệt hại đã gây ra do thực hiện lệnh bắt buộc của cấp trên. Đối với tình tiết loại trừ này, về lý thuyết, đòi hỏi phải quy định rất chặt chẽ tránh các trường hợp lạm dụng tình tiết này để trốn tránh trách nhiệm. BLHS Liên bang Nga gọi trường hợp này
  • 29. 23 là “thi hành mệnh lệnh hoặc chỉ thị” (Điều 42); BLHS Thụy Điển gọi trường hợp này là “thực hiện hành vi phạm tội theo mệnh lệnh của cấp trên phụ trách” (Điều 8 chương 24); BLHS Canada gọi trường hợp này là “người hành động theo sự chỉ đạo của cán bộ nhà nước” (mục 10, 25.1, Điều 25). Ngoài các tình tiết loại trừ TNHS có tính phổ biến nói trên, trong luật hình sự một số quốc gia còn có thể quy định tình tiết “gây thiệt hại do bị cưỡng bức”. Đây là tình tiết cho phép một người không phải chịu TNHS về thiệt hại do hành vi của mình gây ra nếu việc thực hiện hành vi đó là do sự cưỡng bức của người khác mà họ không thể làm khác được để tránh thiệt hại nhỏ hơn có thể gây ra cho mình hoặc người thân. BLHS Liên bang Nga gọi tình tiết này là “gây thiệt hại do bị cưỡng bức thể chất và tinh thần” (Điều 40). 1.3. Phân biệt các tình tiết loại trừ TNHS với những trƣờng hợp không có TNHS và miễn TNHS Như đã phân tích ở trên, các tình tiết loại trừ TNHS có bản chất pháp lý khác biệt đối với những trường hợp không có TNHS hoặc được miễn TNHS. Các tình tiết loại trừ TNHS và các trường hợp không có TNHS là hai loại trường hợp khác nhau. Mặc dù về hậu quả pháp lý cuối cùng của cả hai loại trường hợp này đều là “chủ thể không có TNHS, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về bản chất” [15, tr.39]. Các tình tiết loại trừ TNHS gắn với quyền của người thực hiện hành vi gây thiệt hại và những hành vi gây thiệt hại này được xã hội chấp nhận vì nhằm mục đích có lợi. Trách nhiệm hình sự đối với họ được loại trừ và xã hội không cần có biện pháp nào khác để phòng ngừa. Trái lại, hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp không có TNHS không phải là hành vi có động cơ và mục đích có lợi cho xã hội. Đó cũng phải là quyền được ghi nhận trong luật hình sự. Chủ thể không phải chịu trách nhiệm chỉ vì hành vi gây thiệt hại không phải là tội phạm do thiếu dấu hiệu nhất định. Các trường hợp này có thể là thiếu dấu hiệu về chủ thể của tội phạm (chưa đủ tuổi chịu TNHS hoặc
  • 30. 24 trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển); thiếu dấu hiệu lỗi do thuộc trường hợp sự kiện bất ngờ hoặc thuộc trường hợp bất khả kháng. Cụ thể: - Trường hợp chưa đủ tuổi chịu TNHS là trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội chưa đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự. Đó là độ tuổi đủ đảm bảo cho chủ thể có năng lực lỗi (năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội) cũng như phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên. Độ tuổi là một dấu hiệu của chủ thể của tội phạm. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại khi chưa đạt tuổi chịu TNHS sẽ không phải chịu TNHS vì họ chưa phải là chủ thể của tội phạm và hành vi đã thực hiện không phải là tội phạm. Tuy không phải là tội phạm nhưng xã hội không thể chấp nhận những hành vi này và cần có biện pháp phòng ngừa. - Trường hợp trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi (năng lực TNHS) là trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại là người do bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều kiển hành vi của mình. Trong khi đó, năng lực này là một dấu hiệu của chủ thể của tội phạm. Như vậy, người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không có đủ dấu hiệu của chủ thể của tội phạm. Trường hợp này thiếu yếu tố chủ thể nên không có tội phạm và vấn đề TNHS không được đặt ra. Tuy nhiên, biện pháp phòng ngừa những hành vi này vẫn được đặt ra. - Trường hợp sự kiện bất ngờ là trường hợp chủ thể đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể không có lỗi đối với việc gây thiệt hại do không có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi của mình. Họ không thể thấy trước và cũng không buộc phải thấy trước khả năng hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này thiếu dấu hiệu lỗi của chủ thể. Do đó, hành vi gây thiệt hại không phải là tội phạm và chủ thể thực hiện hành vi đó không phải chịu TNHS.
  • 31. 25 - Trường hợp bất khả kháng cũng là trường hợp thiếu dấu hiệu lỗi do chủ thể thực hiện không có khả năng xử sự khác. Hành vi gây thiệt hại là bất khả kháng nên không phải là tội phạm và trách nhiệm TNHS không được đặt ra. Có thể thấy các trường hợp không có TNHS nêu trên là những trường hợp thiếu yếu tố của tội phạm, nên không phải là tội phạm, vì vậy mà không có TNHS. Đó không phải là những trường hợp gây thiệt hại nhằm bảo vệ lợi ích cho xã hội nên xã hội không khuyến khích thực hiện. Nhà nước và xã hội không khuyến khích người chưa đủ tuổi chịu TNHS, người bị mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý khác khiến họ không nhận thức hoặc điều khiển được hành vi của mình (người trong tình trạng không có năng lực TNHS) thực hiện các hành vi như đâm chết người, hủy hoại tài sản... Họ không phải chịu TNHS vì không thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Các tình tiết loại trừ TNHS so với các trường hợp miễn TNHS cũng có bản chất pháp lý khác nhau. Khi nghiên cứu các quan điểm của các nhà khoa học trong nước về các tình tiết loại trừ TNHS, chúng tôi nhận thấy có tác giả mặc dù khi tiến hành phân tích loại trừ TNHS cho thấy có bản chất pháp lý hoàn toàn khác với miễn TNHS, với không có sự việc phạm tội nhưng tác giả lại khẳng định “... suy cho cùng miễn TNHS cũng là không bị truy cứu TNHS (căn cứ vào hậu quả - nếu người phạm tội không bị áp dụng biện pháp xử lí nào)...” [24, tr.7]. Nếu coi các trường hợp miễn TNHS là những tình tiết (trường hợp) loại trừ TNHS là chưa đúng với bản chất pháp lý của khái niệm này. Bởi lẽ, không thể dựa trên sự giống nhau về hậu quả pháp lý cuối cùng là “đều không phải chịu TNHS” để xếp chúng cùng bản chất được. Miễn TNHS là “không buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà người đó đã phạm” [47, tr.221]. Điều đó có nghĩa, hành vi mà người phạm tội được miễn TNHS thực hiện đã thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một CTTP tương ứng được PLHS quy định phải chịu TNHS nhưng do có những điều kiện nhất định và xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS nên họ được miễn TNHS. Hậu quả pháp lý đối với người được miễn TNHS là “miễn bị kết tội, miễn phải
  • 32. 26 chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS và miễn bị mang án tích” [33, tr.19]. Như vậy, miễn TNHS là miễn hậu quả pháp lý đặt ra đối với người phạm tội, còn các tình tiết loại trừ TNHS là trường hợp khi có một trong các tình tiết này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật hình sự không phải chịu TNHS do động cơ của hành vi đã làm mất tính tội phạm của hành vi, vì thế mà không có tội phạm. Vì vậy, quan điểm đồng nhất loại trừ TNHS với miễn TNHS là không có căn cứ. 1.4. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của PLHS về các tình tiết loại trừ TNHS với mục đích tìm hiểu quy định về vấn đề này trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đó, “xác định cho được những khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật chính là sự kế thừa văn hóa và truyền thống” [50, tr.415]. Trong phạm vi luận văn, tác giả tìm hiểu khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ TNHS từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) cho đến trước khi pháp điển hóa BLHS Việt Nam lần thứ nhất cho thấy, các tình tiết loại trừ TNHS chưa được quy định trong văn bản tập trung, thống nhất mà được quy định rải rác tại các văn bản khác nhau với kĩ thuật lập pháp còn hạn chế. Cụ thể: Nghị định 301-TTg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân đã bước đầu đề cập đến tình tiết loại trừ TNHS. Điều 22 có quy định về quyền được sử dụng vũ lực của người thi hành công vụ trong một số trường hợp cụ thể. Cụ thể như sau:
  • 33. 27 ...Khi thi hành việc bắt, giữ, giam, khám mà gặp sự kháng cự của kẻ phạm pháp, cần bảo vệ tính mạng của mình hoặc của người khác đang bị đe dọa nghiêm trọng. Khi cần phải ngăn chặn những người phạm tội chính trị hoặc hình sự quan trọng có hành động trốn tránh pháp luật. Khi người bị giam đang vượt trại giam hoặc khi can phạm quan trọng chạy trốn trong lúc đang bị dẫn giải. Khi có các điều kiện như trên, luật pháp cho phép sử dụng vũ khí nên việc bắn chết được coi là cần thiết, không có tội [36, các tr.24, tr.25]. Quy định trên mặc dù còn sơ lược và chưa toàn diện nhưng nó đã phản ánh được ở mức độ nhất định nội dung của các tình tiết phòng vệ chính đáng, bắt người phạm tội, đặc biệt là khi điều luật đã ghi nhận về mặt pháp lí những trường hợp đó được coi là “cần thiết, không có tội”. Bản tổng kết số 452 – HS2 ngày 10/6/1970 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về “thực tiễn xét xử loại tội giết người” có đề cập đến trường hợp giết người trong trường hợp vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết”. Bản tổng kết nêu rõ mục đích của “phòng vệ cần thiết” là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng (lợi ích cách mạng, lợi ích của nhân dân). Đồng thời, Bản tổng kết số 452 –HS2 cũng đã xác định sự tấn công trong “phòng vệ cần thiết” phải là hành vi trái pháp luật và việc phòng vệ với phương pháp, phương tiện khác nhau phải gây thiệt hại cho chính kẻ tấn công; thiệt hại gây ra phải tương xứng với mức độ của mối nguy hiểm đang đe dọa [36, tr.24]. Trường hợp giết người do vượt quá phạm vi “phòng vệ cần thiết” thì được xử mức án nhẹ hơn trường hợp giết người thông thường. So với quy định của Nghị định 301-TTg thì những quy định ở Bản tổng kết số 452 – HS2 là bước tiến bộ đáng kể khi đã làm rõ nội hàm của „phòng vệ cần thiết” cũng như đã phân hóa được đường lối xử lí giữa hành vi vượt quá “phòng vệ cần thiết” với hành vi giết người thông thường.
  • 34. 28 Tiếp đó, Chỉ thị số 07/HS2 ngày 22/12/1983 của TANDTC khi đề cập đến “thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do vượt quá giới hạn PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ” đã đề cập ở mức độ nhất định về PVCĐ, đồng thời, văn bản này đã hướng dẫn tương đối cụ thể đường lối xử lí các trường hợp xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do vượt quá giới hạn PVCĐ hoặc trong khi thi hành công vụ [38]. Tóm lại, trong thời kì này, về hình thức, các tình tiết loại trừ TNHS chưa được qui định thống nhất trong một văn bản; bên cạnh đó, về nội dung, các tình tiết loại trừ TNHS cũng chưa được đề cập một cách toàn diện. 1.4.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về kĩ thuật lập pháp hình sự Việt Nam. Lần đầu tiên, các tình tiết loại trừ TNHS đã được ghi nhận chính thức trong BLHS với nội dung pháp lý khá toàn diện. Các tình tiết loại trừ TNHS bao gồm: phòng vệ chính đáng (Điều 13) và tình thế cấp thiết (Điều 14). Để việc áp dụng hai tình tiết PVCĐ và TTCT trong thực tiễn được thống nhất, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ra Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 hướng dẫn thi hành một số điều trong BLHS, trong đó có đề cập đến chế định PVCĐ như sau: “Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác được coi là PVCĐ khi có đầy đủ các điều kiện sau: a) hành vi xâm hại những lợi ích cần bảo vệ phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội; b) hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ; c) PVCĐ không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại; d) hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại…”[38, tr.149]. Có thể nói,
  • 35. 29 Nghị quyết số 02/1986 của TANDTC đã mô tả và xác định rõ các điều kiện của PVCĐ, đồng thời văn bản này đã chỉ ra các dấu hiệu để nhận biết trường hợp vượt quá giới hạn của PVCĐ. Mặc dù đây chỉ là văn bản hướng dẫn, nhưng thực tiễn xét xử đã cho thấy văn bản này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng luật được chính xác. Sau gần 15 năm thi hành (1985 -1999) với bốn lần sửa đổi và bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua vào các ngày 28/12/1989, 12/8/1991, 22/12/1992 và 10/5/1997, BLHS năm 1985 đã được thay thế bằng BLHS năm 1999. BLHS này, về cơ bản vẫn giữ nguyên nội dung hai điều luật về PVCĐ và TTCT. Tuy nhiên, xét về cụ thể, BLHS năm 1999 đã thay thế dấu hiệu “tương xứng” bằng dấu hiệu “cần thiết”. Đây “ … là một sự sửa đổi có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm góp phần phát huy tính chủ động trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm... Việc thay đổi này cũng chính là để khuyến khích nhân dân tích cực tham gia chống trả các hành vi phạm tội, đồng thời để khắc phục những nhược điểm nêu trên” [4, tr.36]. Như vậy, sự thay đổi này là hợp lí, thể hiện rõ hơn bản chất pháp lý của chế định PVCĐ trong luật hình sự Việt Nam. Tóm lại, việc quy định về các tình tiết loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam là kết quả của quá trình kế thừa và phát triển trong giai đoạn lịch sử tương đối lâu dài. Qui định về PVCĐ và TTCT trong BLHS hiện hành đã thể hiện bước tiến đáng kể trong lập pháp hình sự. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng của xã hội đã cho thấy qui định về các tình tiết loại trừ TNHS nói chung cũng như qui định về hai chế định này nói riêng đã dần bộc lộ những bất cập nhất định đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
  • 36. 30 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 “Các tình tiết loại trừ TNHS” là vấn đề được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xuất phát từ nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, đã có nhiều cách hiểu và tên gọi không thống nhất về các tình tiết loại trừ TNHS. Trên cơ sở lý luận về tội phạm và TNHS, tác giả luận văn nhận thấy các tình tiết loại trừ TNHS có những đặc điểm cơ bản là: luôn gắn với hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu về hình thức của một tội phạm; là tình tiết làm cho hành vi gây thiệt hại mất tính nguy hiểm của một tội phạm và là tình tiết được quy định trong luật hình sự. Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa về các tình tiết loại trừ TNHS như sau: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là các tình tiết được luật hình sự quy định mà khi có một trong những tình tiết đó thì người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu của tội phạm được loại trừ trách nhiệm hình sự vì hành vi của họ không có tính nguy hiểm của tội phạm. Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của PLHS và yêu cầu của xã hội. Với thực trạng tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, trước yêu cầu đổi mới và phát triển không ngừng của xã hội, PLHS cần có những quy định cụ thể về các tình tiết loại trừ TNHS, tạo cơ sở pháp lý cho người dân thực hiện quyền được hành động vì lợi ích chung của toàn xã hội. Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong PLHS thể hiện nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật. Việc xác định tình tiết loại trừ TNHS cụ thể cũng như đặt tên và xác định các dấu hiệu cho từng tình tiết là thuộc quyền lập pháp của mỗi quốc gia. Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS có thể bao gồm: phòng vệ; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; thi hành mệnh lệnh cấp trên; rủi ro (trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ), gây thiệt hại do bị cưỡng bức v.v… Khi nghiên cứu về các tình tiết loại trừ TNHS cần đặt nó trong sự so sánh với trường hợp không có TNHS và miễn TNHS, bởi mặc dù hậu pháp lý
  • 37. 31 cuối cùng của các loại trường hợp này đều giống nhau là chủ thể không phải chịu TNHS, nhưng bản chất của chúng là khác nhau. Việc phân biệt các loại trường hợp này giúp xác định phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS và quy định chúng trong BLHS, đồng thời cũng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự xác định chính xác các loại trường hợp này trong thực tiễn áp dụng PLHS. Nghiên cứu quy định về các tình tiết loại trừ TNHS trong lịch sử lập pháp Việt Nam cho thấy, các tình tiết này có quá trình phát triển ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống và tiếp thu kỹ thuật lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
  • 38. 32 CHƢƠNG 2 CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng 2.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng Phòng vệ chính đáng là một trong những tình tiết loại trừ TNHS được quy định trong BLHS Việt Nam năm 1999. Khoản 1 Điều 15 BLHS quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Từ nội dung của điều luật về PVCĐ và trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy, hành vi gây thiệt hại do PVCĐ là hành vi về mặt hình thức có những dấu hiệu của hành vi bị luật hình sự quy định là tội phạm. Hành vi mà người phòng vệ chính đáng thực hiện đã gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ với mục đích chống trả, ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của người này để bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, lợi ích hợp pháp của mình hoặc người khác. Đối với hành vi gây thiệt hại này, nếu xét về mặt chủ quan, chủ thể cũng nhận thức được tính gây thiệt hại và thấy trước thiệt hại đã gây ra. Chính vì vậy, “hành vi gây thiệt hại do sự phòng vệ chính đáng bao giờ cũng được thực hiện với thái độ tâm lí là lỗi cố ý của chủ thể” [8, tr.548]. Như vậy, xét về hình thức, hành vi phòng vệ có các dấu hiệu khách quan và chủ quan của một hành vi được quy định trong BLHS. Mặc dù vậy, hành vi này không bị coi là tội phạm. Tình tiết phòng vệ chính đáng hay nói cách khác động cơ phòng vệ trong phạm vi cho phép đã loại trừ tính chất tội
  • 39. 33 phạm của hành vi đã thực hiện. Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi xâm hại các lợi ích được pháp luật bảo vệ là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy, hành vi chống trả hành vi xâm hại nhằm bảo vệ các lợi ích này là hành vi có lợi cho xã hội, không những không bị coi là tội phạm mà còn được xã hội khuyến khích thực hiện. “Phòng vệ chính đáng là việc làm hoàn toàn phù hợp với lợi ích xã hội và được pháp luật xác nhận là quyền của mỗi công dân, là căn cứ hợp pháp, loại trừ tính trái pháp luật hình sự của hành vi” [15, tr.41]. Phòng vệ chính đáng làm cho hành vi gây thiệt hại không có tính trái với lợi ích của xã hội mà ngược lại có tính phù hợp với lợi ích của xã hội. Do vậy, pháp luật nói chung cũng như BLHS nói riêng cho phép người dân được thực hiện hành vi như vậy. Từ đó, quy định về PVCĐ trở thành căn cứ pháp lý cho quyền phòng vệ của mỗi người, là căn cứ hợp pháp, căn cứ biện minh cho các hành vi gây thiệt hại mà về hình thức “giống” như một tội phạm. Phòng vệ chính đáng được coi là quyền của mọi người. Khi có hành vi xâm hại các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác thì mọi người đều có thể sử dụng quyền chống trả, gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại ngay cả trong trường hợp còn có cách khác để bảo vệ các lợi ích này. Hành vi chống trả trong PVCĐ thực chất là hành vi đấu tranh trực tiếp chống lại hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết trong mọi trường hợp. Mọi người có quyền thực hiện phòng vệ mà không phụ thuộc vào bất cứ quyết định của tổ chức hay cá nhân nào. Khi thực hiện quyền này, mọi người “… không cần phải xin phép nhà chức trách có thẩm quyền bởi do yêu cầu cấp bách cần ngăn chặn hành vi xâm hại, bảo vệ các lợi ích hợp pháp, nếu phải xin phép nhà chức trách thì mục đích của PVCĐ không thực hiện được” [9, tr.293]. Phòng vệ chính đáng là quyền của người dân nhưng việc thực hiện quyền đó cũng gắn liền với khả năng bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản nên pháp luật không đòi hỏi mọi người khi thấy có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ chống trả người có hành vi xâm hại. Đứng trước
  • 40. 34 sự xâm hại các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi chính đáng của mình hoặc của người khác, nếu người dân không thực hiện hành vi chống trả thì chỉ có thể bị lên án về mặt đạo đức chứ không thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý nói chung cũng như TNHS nói riêng. Do vậy, PVCĐ là quyền chứ không phải là nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, đối với một số người do có tính chất đặc biệt của công việc, nghề nghiệp được giao, họ phải có trách nhiệm đối với việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội thì phòng vệ lại là nghĩa vụ pháp lý. Đó là những người như nhân viên bảo vệ của các cơ quan, tổ chức, cảnh sát bảo vệ trật tự đường phố, chiến sĩ công an làm nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm… Nếu trong những hoàn cảnh nhất định, khi có hành vi xâm hại nhưng những người này không thực hiện nghĩa vụ chống trả người có hành vi xâm hại thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý (trong đó có cả TNHS), tùy theo mức độ của sự vi phạm. Với chế định PVCĐ, Nhà nước cho phép mọi người có quyền được bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích của xã hội trong điều kiện có thể bảo vệ được. Tuy nhiên, PVCĐ không có nghĩa là “tự xử lý” hay “muốn làm gì thì làm” mà phòng vệ phải được thực hiện trong giới hạn pháp luật cho phép. Một hành vi được coi là PVCĐ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện chứng minh sự phòng vệ là “chính đáng”, phù hợp với lợi ích xã hội mà những điều kiện đó đã được cụ thể hóa trong quy định của pháp luật. Do vậy, để nhận thức và áp dụng chặt chẽ về PVCĐ, cần hiểu đúng về các điều kiện của PVCĐ. 2.1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng 2.1.2.1. Điều kiện thuộc về cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng Cơ sở làm phát sinh quyền PVCĐ là hành vi xâm hại lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tổ chức, quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân đang xảy ra hoặc đe doạ xảy ra ngay tức khắc.
  • 41. 35 Điều kiện thứ nhất trên đây trả lời cho câu hỏi khi nào thì người dân được phép thực hiện quyền phòng vệ. Người dân được phép thực hiện quyền phòng vệ khi hành vi xâm hại đang xảy ra hoặc đe doạ xảy ra ngay tức khắc. - Hành vi xâm hại ở đây trước hết phải là hành vi có tính gây thiệt hại đáng kể cho xã hội, hành vi này có thể thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm nhưng cũng có thể không phải là tội phạm. Việc cho phép PVCĐ đối với cả hành vi không CTTP là do những hành vi như vậy vẫn cần phải được ngăn chặn kịp thời để tránh những thiệt hại cho xã hội (như hành vi đâm, chém người của người không có năng lực TNHS do mắc bệnh tâm thần). “…Hơn nữa, khi đứng trước sự xâm hại, mỗi cá nhân khó có thể luôn khẳng định được ngay hành vi xâm hại đó có phải là tội phạm hay không” [15, tr.42]. Do vậy, BLHS không đặt vấn đề hành vi xâm hại phải CTTP cũng như người phòng vệ phải nhận thức được hành vi xâm hại là tội phạm. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ, hành vi xâm hại nhất thiết phải là hành vi có tính gây thiệt hại đáng kể cho xã hội. Nếu hành vi xâm hại có tính gây thiệt hại không đáng kể mà một người đã phòng vệ bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người xâm hại thì hành vi này không được coi là PVCĐ. Ví dụ: Chiều 21.1.2009, bà Phạm Thị Ng cùng một số phụ nữ có trèo vào trang trại của Cty TNHH TN thuộc thành phố Buôn Ma Thuột để nhặt cà phê rụng (cà phê của trang trại đã được thu hoạch chỉ còn sót lại cà phê rụng trên mặt đất). Khi vừa trèo vào, thấy một con chó becgiê cao to xông ra, một số người nhanh chân trèo lên những cây sầu riêng gần đó. Riêng bà Phạm Thị Ng (nhà ở đối diện trang trại) chưa kịp trèo lên cây thì bị Nguyễn Đình S xuỵt con chó này tấn công bà Ng làm bà Ng ngã. Mặc cho bà Ng và những phụ nữ khác van xin, S. vẫn lạnh lùng nhìn và nói “Cho cắn chết. Ai bảo trèo vào?”. Ngay sau đó, 5 con chó khác xuất hiện và cùng với con chó lúc đầu cắn bà Ng. Khoảng 25 phút sau, khi bà Ng bị đàn chó cắn chết thì S mới huýt sáo gọi chúng về”…[62]. Trong trường hợp này, hành vi xâm hại – trèo vào trang trại nhặt cà phê rụng của bà Ng tuy có xâm hại lợi ích của trang trại, nhưng không
  • 42. 36 phải là có tính gây thiệt hại đáng kể. Do vậy, Nguyễn Đình S không thể dựa vào đó để thực hiện quyền xuỵt đàn chó cắn bà Ng đến chết. Hành vi của S không phải là PVCĐ mà là hành vi giết người. - Hành vi xâm hại của con người là cơ sở của quyền PVCĐ nhưng chỉ là cơ sở chừng nào hành vi xâm hại phải đang xảy ra hoặc đe doạ xảy ra ngay tức khắc. Hành vi xâm hại đang xảy ra được hiểu là hành vi xâm hại đang diễn ra và chưa kết thúc như người xâm hại đang đâm, chém nạn nhân hoặc người xâm hại đang vật ngã nạn nhân và xé quần áo của nạn nhân để hiếp dâm nạn nhân… Trường hợp hành vi xâm hại tuy chưa diễn ra nhưng có biểu hiện là đe dọa xảy ra ngay tức khắc cũng được coi là cơ sở cho phép PVCĐ. Việc gây thiệt hại là khả năng hiện thực sẽ xảy ra chỉ trong vài khoảnh khắc. Ví dụ: A thù hằn B và có ý định đốt nhà B. A đã tưới xăng quanh nhà chủ tài sản, khi A lấy bao diêm ra định châm lửa đốt thì đã có người kịp thời lao tới ngăn chặn. Trong trường hợp này, hành vi xâm hại của A (hành vi đốt) tuy chưa xảy ra nhưng đã có biểu hiện rất rõ là hành vi đốt sẽ xảy ra ngay tức khắc (tưới xăng; lấy bao diêm ra). Như vậy, hành vi xâm hại trong trường hợp này thuộc trường hợp đe doạ xảy ra ngay tức khắc. BLHS cho phép được thực hiện quyền PVCĐ ngay khi hành vi xâm hại mới đe dọa xảy ra ngay tức khắc là cần thiết vì cũng đã có cơ sở thực tế và để đảm bảo cho người PVCĐ chủ động thực hiện quyền và kịp thời ngăn chặn hành vi xâm hại. Nếu chưa có biểu hiện là có sự xâm hại xảy ra ngay tức khắc mà một người đã có hành vi phòng vệ thì hành vi đó không được coi là PVCĐ. BLHS không quy định trực tiếp cũng như đặt tên cho trường hợp này. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là phòng vệ quá sớm. Trái lại, nếu hành vi xâm hại đã kết thúc, không còn xảy ra nữa do người xâm hại đã đạt được mục đích, đã tự dừng lại hoặc đã bị ngăn chặn mà vẫn có hành vi phòng vệ thì hành vi này không được coi là PVCĐ vì lúc này hành vi không thể đạt được mục đích của PVCĐ. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là phòng vệ
  • 43. 37 quá muộn. Phòng vệ quá sớm và phòng vệ quá muộn đều không được coi là những tình tiết loại trừ TNHS, người phòng vệ trong trường hợp này phải chịu TNHS về những thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Ví dụ: Sau khi uống rượu, Hứa Văn Y đến nhà chị H để chơi bi-a, nhưng không có ai chơi với Y, nên Y bực tức, vứt gậy bi-a ra đường. Thấy vậy, chị H chạy ra nhặt gậy và nói không cho Y chơi nữa. Y lại tiếp tục ném quả bi-a ra đường, rồi quay lại dùng tay đập vào vai chị H, tiếp đến Y hất đổ bàn bi-a và dẫm chân lên mặt bàn làm mặt bàn bị vỡ, rồi Y tiếp tục dùng tay đánh mạnh vào đầu chị H. Anh V vào can ngăn cũng bị Y đánh. Nông Văn L đang bế con cách nhà khoảng 20m nghe tin vợ bị đánh, nên đã về nhà lấy súng AK (L là dân quân nên được trang bị súng) chĩa vào người Y (khi Y đang đứng chống nạnh thách thức) bắn ba phát, làm Y bị chết. Sau đó, L cầm súng chạy đến đồn biên phòng tự thú [39]. Trong vụ án này, hành vi của Y tuy là hành vi xâm phạm sức khỏe và xâm phạm sở hữu của người khác là những khách thể được luật hình sự bảo vệ nhưng hành vi này đã không còn xảy ra khi anh L dùng súng bắn vào Y. Điều này có nghĩa anh L không còn cơ sở cho việc thực hiện quyền phòng vệ. Hành vi của anh L là hành vi phòng vệ quá muộn. Anh L không được coi là có hành vi PVCĐ mà bị coi là phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trường hợp ngoại lệ vẫn được coi là PVCĐ mặc dù hành vi phòng vệ xảy ra sau khi hành vi xâm hại vừa kết thúc là trường hợp hành vi phòng vệ đó đi liền ngay sau hành vi xâm hại và nhằm khắc phục thiệt hại đã xảy. Ví dụ: trường hợp người bị cướp giật đã đuổi theo người đã cướp giật được túi xách tay của mình và đã quật ngã người này để lấy lại túi xách của mình. Do bị quật ngã mà người phạm tội cướp giật đã bị thương tích. Trong trường hợp này, hành vi gây thương tích tuy xảy ra sau khi hành vi cướp giật đã kết thúc nhưng vẫn được coi là PVCĐ vì hành vi này xảy ra ngay sau hành vi xâm hại và nhằm khắc phục thiệt hại.