SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA
NGỮ VĂN
ẶNG LAN ANH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
LIÊN HỆ TẢI BÀI KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
SỰ TRÌNH HIỆN NHÂN VẬT NỮ
TRONG CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN
TỪ TRUYỆN NGẮN ĐẾN ĐIỆN ẢNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA
NGỮ VĂN
sự trình hiện nhân vật nữ
trong cánh đồng bất tận
từ truyện ngắn đến điện ảnh
Người thực hiện: Đặng Lan Anh
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tôi tận tình trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để
hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó chính
là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi vô cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần
trách nhiệm của tiến sĩ Nguyễn Thị Minh trong suốt quá trình thực hiện luận văn
này.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn bộ quý thầy cô của khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã có vai
trò rất lớn trong suốt quá trình tôi theo học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
4
Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự
trình hiện trong các loại văn bản.............................................................................. 22
1.1. Khái niệm sự trình hiện ................................................................................. 22
1.1.1. Công cụ phân tích sự trình hiện............................................................... 22
1.1.2. Quá trình tạo nên sự trình hiện................................................................ 30
1.2. Sự dịch chuyển kí hiệu từ văn bản ngôn từ đến điện ảnh.............................. 38
1.2.1. Cơ sở diễn giải hệ thống kí hiệu trong tác phẩm điện ảnh cải biên ........ 38
1.2.2. Những khái niệm cần lưu ý trong diễn giải kí hiệu tác phẩm điện ảnh .. 40
Chương 2: Sự trình hiện nhân vật nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”........ 42
2.1. Nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Sương................................... 43
2.1.1. Nụ cười của Sương.................................................................................. 43
2.1.2. Nước mắt của Sương............................................................................... 60
2.2. Sự trình hiện nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Nương ............. 63
2.2.1. Nụ cười của Nương ................................................................................. 63
2.2.2 Nước mắt của Nương ............................................................................... 68
Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”.... 72
3.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng ........................... 72
3.1.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe ........................................... 73
3.1.2 Nhân vật Sương trong không gian cánh đồng.......................................... 85
3.2 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng........................... 89
3.2.1 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe........................................... 90
3.2.2 Nhân vật Nương trong không gian cánh đồng ......................................... 94
KẾT LUẬN............................................................................................................ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nghiên cứu văn hóa, sự trình hiện là yếu tố quan trọng để hiểu về đời sống
tinh thần của một cá nhân và tập thể. Chúng ta tư duy, nghi vấn và khám phá thế
giới bằng kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình tiếp xúc với các loại văn bản.
Ta dần chấp nhận sự trình hiện như một phần tất yếu của nhận thức mà thiếu tính
đối thoại về nó. Bất cứ một sự trình hiện nào, dù là khách quan nhất: bản tin thời sự,
kí sự, phim tài liệu… vẫn có sự sắp đặt của người khác. Hình ảnh được trình hiện
không bao giờ là hiện thực tuyệt đối. Vì thế, nghiên cứu về sự trình hiện không đơn
thuần chỉ là miêu tả, dựng lại cấu trúc của đối tượng mà còn phát hiện ý nghĩa văn
hóa, mang lại diễn giải mới về đối tượng.
Đồng bằng Tây Nam Bộ có nhiều tác giả trẻ. Văn học gắn bó mật thiết với thiên
nhiên và con người. Nhắc đến Tây Nam Bộ, ta thường hình dung ngay đến những
con người chân chất, mộc mạc, yêu nước: người chiến sĩ trong “Những đứa con
trong gia đình” của Nguyễn Thi, người thanh niên trẻ theo tiếng gọi cách mạng
trong “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi. Đến thời kì hiện đại, Nguyễn Ngọc
Tư là cây bút phác họa lên một góc nhìn khác trong cuộc sống đời thường ở miền
Tây Nam Bộ. Chân dung những người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
mang lại những diễn giải mới về con người.
Trong các bài phê bình và nghiên cứu về nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận”,
người phụ nữ thường được nhận định sống trong bi kịch vì nỗi cô đơn, tình yêu đơn
phương, chấp nhận nỗi đau như một thói quen. Nhưng liệu họ có thực sự đau khổ vì
chính tình yêu thương của mình hay không, hay còn vì một điều gì khác? Tập
truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được nhận giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
2006, giải thưởng Văn học ASEAN năm 2008 và Literaturpreis do Litprom - Hiệp
hội quảng bá văn học châu Á năm 2018. Bộ phim “Cánh đồng bất tận” nhận được
nhiều giải thưởng giá trị như giải Cánh diều vàng 2010 cho hạng mục phim truyện
nhựa xuất sắc nhất, đạo diễn phim xuất sắc nhất, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
6
hạng mục do báo chí bình chọn. Những thành công ấy phần nào thể hiện giá trị về
nhân vật trung tâm là người phụ nữ trong cả hai tác phẩm. Với một tác phẩm có sức
lan tỏa đến độc giả trong thời gian dài, có sức ảnh hưởng đến công chúng quốc tế,
liệu có đủ thỏa mãn khi chỉ chỉ dừng lại ở một cách diễn giải đơn giản hay không?
Khám phá ý nghĩa về người phụ nữ cần có thêm một lăng kính mới để khơi gợi tiềm
năng nghệ thuật trong hai tác phẩm truyện ngắn và phim điện ảnh. Thế giới nội tâm
và uẩn khúc trong quá khứ của mỗi nhân vật được Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn
Phan Quang Bình trình hiện như thế nào? Trong sự khác biệt về chất liệu, ý nghĩa
của nhân vật liệu có thay đổi hay không? Tác phẩm điện ảnh có phải là một sản
phẩm thứ cấp của văn học? Bằng việc khám phá sự trình hiện nhân vật nữ, chân
dung các nhân vật một lần nữa được hiện lên rõ ràng và ý nghĩa mới được tạo nên
trong sự đối sánh của phương pháp phân tích trình hiện theo Stuart Hall. Đây là
hướng nghiên cứu khác với các phương pháp nghiên cứu trước đó là phân tích, phân
loại các chi tiết về nhân vật theo các tiêu chí của khung lí thuyết rồi khái quát thành
đặc điểm. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong mối quan hệ tương đồng và
đối lập với các nhân vật khác trong cùng hệ thống để khám phá nhiều ý nghĩa hơn
nữa.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về nghệ thuật cải biên và phân tích sự trình
hiện nghệ thuật bằng kí hiệu
2.1.1. Các nghiên cứu quốc tế
a. Nghiên cứu của người viết tham khảo 4 cuốn sách quan trọng về phân tích sự
trình hiện nghệ thuật bằng kí hiệu:
Cuốn sách Representation: Cultural Representation and Signifying Practices của
tác giả Stuart Hall viết năm 1997 là hướng nghiên cứu về sự trình hiện hình ảnh
được đề cập và giảng dạy lần đầu tiên tại Mĩ. Đó là một trong những hướng nghiên
cứu thực hành kí hiệu học được phát triển bởi Stuart Hall. Những bài giảng của tác
giả Stuart Hall về sự trình hiện tập hợp thành 5 chương bao gồm cả lí thuyết và các
thực hành về sự trình hiện. Bằng các khái niệm công cụ liên quan đến phương pháp
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
7
phân tích kí hiệu và diễn ngôn, tác giả đã làm rõ những định kiến về sự trình hiện
người da đen trên các phương tiện truyền thông tại Mỹ và Anh. Đó là quá trình
truyền thông kiến tạo nên ý nghĩa cho một đối tượng và xây dựng nên một thế giới
có ý nghĩa theo một trật tự mới. Sự trình hiện có liên hệ mật thiết với ngôn ngữ, là
công cụ mạnh mẽ giúp trí tuệ con người thực hiện mong muốn tạo ra thế giới với
đầy đủ ý nghĩa. Lí thuyết về sự trình hiện trong bài luận chủ yếu được đúc kết từ lí
thuyết của Staurt Hall. Và hướng tiếp cận sự trình hiện cũng đi theo phương pháp
của Staurt Hall vận dụng trong chương 4: “Cảnh tượng của ‘Tha thể’” (The
spectacle of the ‘Other’). Tác giả khai thác các đặc trưng để tìm ra sự khác biệt
trong những trình hiện tưởng chừng như rập khuôn và được sắp xếp có chủ ý. Đồng
thời, tác giả lí giải về cách ta “nhìn” những kiểu mẫu và vai trò của chúng trong quá
trình diễn giải của con người.
Flim Studies the Basic của Amy Villarejo là cuốn sách được xuất bản ở nhiều
trường đại học liên quan đến nghiên cứu điện ảnh tại Mỹ và Canada. Nội dung trình
bày khái quát các khái niệm về điện ảnh. Điện ảnh là một hệ thống kí hiệu chuyên
biệt dùng sự liên tục của hình ảnh để truyền tải nội dung. Chương 2 “Ngôn ngữ của
điện ảnh” (The language of flim) cung cấp những khái niệm cơ bản trong kết cấu
một bộ phim và cũng là cách thức để người xem tiếp cận đến nội dung của bất kì tác
phẩm điện ảnh nào. Trong sự trình hiện một khái niệm lên màn ảnh phải là sự kết
hợp tổng hòa từ các yếu tố: dựng cảnh, khung hình, ánh sáng, phục trang, kĩ thuật
quay phim… Đọc được ngôn ngữ của hình ảnh chính là cách thức giúp ta tư duy sâu
hơn bên trong thế giới phim ảnh và hiểu được tầng sâu văn hóa mà bộ phim muốn
truyền tải.
Tokyo in transit: Japan Culture on the Rails and Road của tác giả Alisa Freedman
là nghiên cứu về văn hóa Nhật Bản thông qua phương tiện giao thông công cộng tàu
điện, xe buýt. Trong chương 4, tác giả khám phá hình tượng những cô gái xe buýt
như là biểu tượng văn hóa về những tác động nhanh chóng của công nghệ hiện đại
hóa. Ý nghĩa của những cô gái được những hành khách mà họ gặp nhìn nhận không
giống nhau. Tác giả đi sâu vào khai thác trong thực hành trình hiện cụ thể trong ba
diễn ngôn văn hóa hóa là tác phẩm truyện “Người đưa xác chết” (Shitai Shokainin)
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
8
của Kawabata Yasunari năm 1929, “Cuộc chạy tiếp sức giết người” (Murder Relay)
(Satsujin rire) năm 1934 của Yumeno Kyusaku (1889-1993) và “Nàng Okoma”
(Okoma-san) của Ibuse Masuji (1898-1936) vào năm 1940. Tác giả sử dụng ý nghĩa
về sự trình hiện của các cô gái trong so sánh tương đồng và khác biệt để nâng lên
tính khái quát về giá trị sống của một giai đoạn xã hội. Bài viết thể hiện những điểm
nhìn khác nhau (chủ yếu là các tác giả nam) về người phụ nữ gắn với sự nghèo hèn,
nhỏ bé và là đối tượng của ham muốn. Các cô nhân viên nữ lần đầu tiên được trình
hiện ra trước công chúng giống như một hình thức phục vụ của ‘geisha’. Đây là một
nghiên cứu về sự trình hiện người phụ nữ sử dụng lí thuyết nghiên cứu văn hóa
(cultural studies).
Cuốn sách Nghệ thuật điện ảnh (Dẫn luận giáo trình chuyên ngành điện ảnh) của
tác giả David Bordwell, Kristin Thompson cung cấp những khái niệm cơ bản nhất
về điện ảnh, cách đọc ý nghĩa trong một khung hình hay một cảnh quay. Trong
chương 2 “Ý nghĩa của hình thức phim”, cuốn sách trình bày cách hiểu của các nhà
làm phim trong cách dùng hình ảnh như một hình thức chứ không phải chất liệu –
“Kịch bản điện ảnh là một cấu trúc” (William Goldman, nhà biên kịch phim “Butch
Cassidy and the Sundance”). Cuốn sách phủ nhận quan điểm hình thức đối lập với
nội dung phim mà khẳng định mọi yếu tố bên trong hay bên ngoài đều có “chức
năng như phần toàn bộ của khuôn mẫu” [4]. Cuốn sách đề xuất cách phân tích phim
thông qua kí hiệu hình ảnh đặc thù hay những qui ước mang tính cố định thường
được sử dụng trong các bộ phim kinh điển.
2.3.2. Các nghiên cứu trong nước
Chân trời của hình ảnh từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurowasa
Akira của tác giả Đào Lê Na, có vai trò như một nền tảng lí thuyết vững chắc cho
nghiên cứu nội dung và hình thức cải biên tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh.
Trong đó, cơ sở của việc xem tác phẩm cải biên như một tác phẩm nghệ thuật độc
lập và hoàn chình là điều trọng tâm nhất. Sự phức hợp của nhiều lí thuyết như: liên
văn bản (Bakhtin), phiên dịch (James S.Holmes), văn hóa (hiểu theo quan niệm của
phương Tây và trường phái thực hành trình hiện của Mĩ với đại diện là Stuart Hall),
giải kiến tạo (Bakhtin). Các lí thuyết ấy là mắt xích quan trọng, làm tiền đề tiến
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
9
hành thâm nhập vào thế giới của bất kì tác phẩm cải biên nào. Cải biên không phải
là sự chuyển đổi hệ thống kí hiệu một cách võ đoán mà sự sắp đặt có tính toán của
người nghệ sĩ để tạo nên một thế giới nghệ thuật hoàn toàn mới.
2.2. Các nghiên cứu về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sáng tác của cô
2.2.1. Về phong cách tác giả Nguyễn Ngọc Tư
Luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” của tác giả Nguyễn Thành
Ngọc Bảo đã khái quát những nét nổi bật trong sáng tác tự sự Nguyễn Ngọc Tư
dưới góc độ thi pháp truyện ngắn truyền thống (cảm hứng sáng tác, hệ thống nhân
vật) và thi pháp văn xuôi hiện đại (đặc điểm thi pháp trần thuật và thi pháp ngôn từ).
Tác giả luận văn nhận định: “Cánh đồng bất tận là một ngã rẽ bất ngờ để thách
thức và làm mới bản thân tác giả, thấy những mặt đen tối xấu xa, dữ dằn của nông
thôn Nam Bộ” [2].
Theo tác giả, nhân vật được khái quát trong tính từ “cô đơn”. “Cô đơn là nỗi đau, là
bi kịch tinh thần lớn nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta
cảm thấy rõ niềm cô đơn mà không bi quan, tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức
về nỗi cô đơn. Họ chấp nhận bởi họ cảm thấy nỗi đau ấy là lẽ sống. Và, từ nỗi đau
ấy họ vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động
lực của cái đẹp, cái thiện” [2]. Nhân vật được xây dựng là nhân vật điển hình có
tầm nhìn rộng, tầm vóc ngang bằng hoặc cao hơn so với nguyên mẫu đời sống.
Nguyễn Ngọc Tư ít chịu ảnh hưởng của trào lưu văn chương thế giới, tác phẩm
chưa mang hơi thở của thời đại. Luận văn phân tích tác phẩm theo hướng làm rõ nội
dung, có tính toàn diện trên nhiều khía cạnh, chia đối tượng theo nhóm ngành nghề.
Đặc điểm truyện phân tích theo thi pháp truyền thống: cốt truyện, chi tiết, tình
huống.
Đối với công chúng lúc bấy giờ, phong cách Nguyễn Ngọc Tư đã gắn bó với sự mộc
mạc, giản dị của làng quê qua các sáng tác: “Ngọn đèn không tắt, Ông ngoại, Biển
người mênh mông”. Đến “Cánh đồng bất tận” là một sự thay đổi phong cách sáng
tác đầy bất ngờ. Trong bài báo "Tiếng thở dài với Cánh đồng bất tận", tác giả Đỗ
Hồng Ngọc không giấu nỗi sự thất vọng khi nhà văn miền Tây Nam Bộ dần mất
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
10
đi chất mộc mạc. Người viết cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đã quá chạy theo cái mới,
theo khuynh hướng văn học phương Tây mà quay lưng lại với cốt cách "đồng nội".
Nguyễn Ngọc Tư thay đổi văn phong của mình, một phần cũng vì chạy theo thị hiếu
độc giả, "sợ người ta đã ngán ngẩm mình, chán nản minh nên phải làm mới" [17].
Người viết không phủ nhận thành công và tầm ảnh hưởng của "Cánh đồng bất tận"
nhưng lại "hụt hẫng như đánh mất một đức tin" vì sự thay đổi phong cách sáng tác
của tác giả.
2.2.2 Về một số đặc trưng trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Trong bài viết “Thân phận cô đơn của người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư”, tác giả Lê Thị Kim Liên khẳng định: “Nhân vật nữ cô đơn là nét tiêu
biểu” [12]. Bài viết lí giải nguyên nhân của nỗi cô đơn ấy và giải thích nguyên nhân
vì sao điều đó trở thành bản chất của nhân vật. Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
được nhắc đến ba lần với sự minh họa cho hầu hết sắc thái cô đơn. Người vợ Út Vũ
là người phụ nữ cô đơn trong tình yêu. Nương là người phụ nữ cô đơn giữa hận thù
và cũng cô đơn trong chính hình hài hiện sinh (nhân vật Nương luôn day dứt về thân
thể của mình, về một hình hài giống với mẹ). Tác giả lí giải dựa trên thống kê các
chi tiết về hành động và cảm xúc biểu hiện sự cô đơn của nhân vật.
Hướng nghiên cứu của luận văn “Ẩn dụ tri nhận trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư” của Từ Thị Mỹ Hạnh lấy cơ sở là ngôn ngữ học tri nhận. Đó là con đường ý
niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua các từ ngữ gắn
liền với văn hóa dân tộc. Mục đích nghiên cứu của khóa luận là khái quát những ẩn
dụ tri nhận trong hơn 70 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư và khái quát tư duy của
người bản địa về ngôn ngữ. Tác giả lựa chọn tìm hiểu về ẩn dụ trong ngôn ngữ bởi
đó là công cụ tạo nghĩa cho khái niệm mới. Cơ sở xác lập nghĩa dựa trên hai yếu tố
là văn hóa địa phương và kinh nghiệm cá nhân của nhà văn. Luận văn có đóng góp
cho sự phát triển từ ngữ trong văn học, đặc biệt là văn học vùng Tây Nam Bộ. Đồng
thời, luận văn mở ra cách hiểu mới về con người và văn hóa Nam Bộ, phù hợp với
dòng phát triển tri nhận của nhân loại.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
11
Trong luận văn “Truyện ngắn và tản văn Nguyễn Ngọc Tư – một cái nhìn so sánh”,
tác giả Mai Nguyễn Bích Thuận đã so sánh phong cách sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư trên hai thể loại là truyện ngắn và tản văn. Tác giả đưa ra được những định nghĩa
xác đáng về thể loại “tản văn”, đang là khái niệm khá mơ hồ trong công chúng.
Đồng thời trong truyện ngắn, tác giả cũng tập trung làm rõ sự khác biệt với tản văn
trên hai phương diện là nội dung cảm hứng và phương thức tự sự. Đối với nhân vật
người phụ nữ, luận văn có những phát hiện độc đáo về giọng điệu trần thuật. Mượn
điểm nhìn trần thuật của Nương, nhà văn thể hiện thái độ thương xót cho thân phận
những cô gái điếm bán thân mưu sinh và mơ ước gia đình với họ là điều xa xỉ.
Trong luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ cấu trúc trần
thuật”, tác giả Đinh Thị Kiều Oanh trình bày khái niệm về cấu trúc trần thuật của
tác phẩm tự sự nói chung là “Đơn vị của cấu trúc trần thuật là cấu hình cảnh và
cấu hình diễn ngôn” [21]. Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa câu chuyện (sự kiện
được liệt kê theo trình tự thời gian) và nghệ thuật trần thuật. Trong đó, hành vi kể
được xem là yếu tố quan trọng, cấu tạo nên tác phẩm và thể hiện quan niệm của tác
giả. Luận văn chỉ ra sự khác nhau trong phối cảnh trần thuật và phối cảnh điện ảnh.
Phương pháp phân tích cảnh gồm sự phối hợp các thao tác phân tích hình tượng và
ngôn ngữ: phân tách cảnh, sắp xếp mô hình và trật tự, lập mô hình cảnh, đối chiếu
cảnh trước và cảnh sau để tái hiện lại mô hình cốt truyện. Tuy nhiên sự phân tách
này chỉ nhằm đối chiếu giữa truyện và truyện, chưa mở rộng trong lĩnh vực điện
ảnh. Luận văn có đề cập đến một số điểm lí thuyết trong việc phân chia cảnh và
diễn ngôn ứng dụng từ lí thuyết trong lĩnh vực điện ảnh của tác giả Lotman. Phối
cảnh điện ảnh là “trật tự sắp xếp các sự kiện quan điểm nhân sinh, ấn tượng chủ
quan (nội dung chính) của truyện chưa phác họa được mối quan hệ giữa cảnh và
nhân vật. Cảnh lấy nhân tố chính là sự kiện – thời gian (không gian ít được chú
trọng nhưng điều này thể hiện rõ trong điện ảnh)” [21]. Ngôi kể trong thể loại
truyện ngắn và điện ảnh đều xuất phát từ nhân vật thể hiện được chiều sâu nội tâm.
Luận văn phân tích yếu tố này có quan hệ chặt chẽ trong việc thể hiện các diễn
ngôn, đối thoại. Phân tích cấu hình cảnh trong truyện, luận văn phát hiện được kĩ
xảo chêm xen (cũng là kĩ xảo thông dụng trong điện ảnh) dừng lại miêu tả tạo độ
ngừng nghỉ, đồng thời tăng thêm mức độ chi tiết cho bối cảnh sự việc.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
12
2.2.3. Một số khía cạnh trong tác phẩm “Cánh đồng bất tận”
Bài báo "Cảm quan Phật giáo trong Cánh đồng bất tận" của Phan Thị Thu Hiền lí
giải tính cách, hành động của nhân vật ông Vũ, Nương, Điền và Sương bằng quan
niệm Phật giáo. Quan niệm này được Nguyễn Ngọc Tư nhắc đến trước đó trong
đoạn văn ngắn dẫn trước truyện: "Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương" [8]. Từ
không gian nghệ thuật là không gian tâm lí, tác giả bài viết đã khái quát thành hình
tượng nghệ thuật là "sa mạc thù hận". Thời gian nghệ thuật là "chuỗi dài của sự
trừng phạt". Sự đau khổ mà các nhân vật phải trải qua là hệ quả tất yếu, "nhân" từ
những "quả" đã gieo nên trước đó. Bài viết đã đóng góp sự diễn giải ý nghĩa hình
ảnh các nhân vật dưới góc nhìn tôn giáo Phật giáo. Tác giả sử dụng thao tác quy
chiếu tương đồng những hình ảnh, chi tiết hành động trong tác phẩm đến những
khái niệm trong tín ngưỡng Phật giáo để lí giải mối quan hệ giữa tính cách và hành
động của nhân vật.
Trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận”, tác giả Bùi Tùng Ảnh
đánh giá Nguyễn Ngọc Tư là người dự báo những vui buồn trong cuộc sống, dựng
nên được nhân vật điển hình của thời đại. “Nhân vật Nguyễn Ngọc Tư thường bị
nhấn chìm trong nỗi sợ hãi, hoặc “câm nín”, hoặc “nhẫn nhịn” (đúng hơn là nhẫn
nhục), “chấp nhận” (khi chấp nhận cũng là một thói quen, mà đạo đức chính là một
thói quen). Nhân vật bị dìm vào tình thế “xé toạc”, “đau đớn”. Con người bị nhốt
trong bi kịch gia đình, bi kịch xã hội” [1]. Bài báo còn thể hiện đóng góp của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc tạo nên phong vị Nam Bộ ở khía cạnh ngôn ngữ và tình
cách con người.
Đối thoại với những luận điểm trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất
tận”, bài báo “Môi trường và nhân tính tự sự của Nguyễn Ngọc Tư”, tác giả Đoàn
Ánh Dương làm rõ hơn ý nghĩa tác phẩm trong mối quan hệ giữa hệ thống biểu
tượng trong tên gọi và số phận của nhân vật. Ý nghĩa nhân vật không chỉ thể hiện
bằng hệ thống hành động, lời nói, như tác giả Bùi Tùng Ảnh đã dẫn, mà còn phụ
thuộc vào mối liên hệ trong cách đặt tên và các hình ảnh ẩn dụ quy chiếu đến nhân
vật. Bài viết khái quát cách xây dựng biểu tượng dựa trên sự song trùng đặc điểm,
tính chất của tên truyện và tên nhân vật. Cụ thể, nhân vật Điền gắn với tên yêu
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
13
thương, chở che, trở thành biểu tượng của tác phẩm, sự quy chiếu của các biểu
tượng thành tố lên biểu tượng mang ý trội trong hệ thống. Mối quan hệ giữa Điền và
cánh đồng thể hiện trong hai nét nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tình yêu thương. Nghĩa
thứ hai là những khiếm khuyết, né tránh nỗi đau, sự kìm hãm ham muốn thể xác
nhưng thực chất lại ẩn sâu khao khát giữ được giá trị con người, chống lại sự tha
hóa. Cốt truyện phân rã, cốt truyện tâm lí là chủ đạo thể hiện cảm thức lưu lạc của
con người Nam Bộ. Ngôn ngữ gắn liền với cảm xúc, sự hồi nguyên cảm xúc từ lâu
đã lắng đọng trong lòng.
Trong bài báo "Cánh đồng bất tận: Dữ dội và nhân tính", nhà văn Nguyễn Khắc Phê
khẳng định tầm ảnh hưởng của tác phẩm khi tạo nên một làn sóng dư luận sôi động
quanh sự tiếp nhận của văn bản. Nhà văn thành công trong việc tạo nên được một
thế giới nghệ thuật riêng là những cánh đồng và những phận người trôi nổi. Tác giả
đã chạm được vào những tầng vỉa sâu kín của cuộc sống con người, những góc
khuất ít được phơi bày và chú ý.
Trong bài viết “Tìm về với mẹ thiên nhiên: Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư
từ cách nhìn nữ quyền luận sinh thái”, tác giả Phạm Ngọc Lan có những lí giải mới
lạ về hình tượng nhân vật nữ. Tác giả nhìn nhận nhân vật nữ dưới lí thuyết nữ quyền
luận sinh thái, gắn người phụ nữ với các yếu tố thiên nhiên trong tác phẩm như bầy
vịt, dòng sông, cánh đồng. Các nhân vật nữ được đồng nhất với hình ảnh mẹ thiên
nhiên, bao dung, nhân từ và đầy ắp tình yêu thương. Biểu tượng không gian chứa
đựng người phụ nữ đều là những nơi đáng mơ ước với hai đứa trẻ Nương và Điền
bởi chúng khát khao được nối lại với cuộc sống của con người bình thường. Bài viết
làm nổi bật mối quan hệ của các nhân vật với môi trường tự nhiên đặc biệt là hình
tượng nhân vật nữ gắn với nước và mẹ thiên nhiên.
Trong bài báo khoa học “Biểu tượng cánh đồng trong Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư”, Lê Thị Thùy Vinh phân tích ý nghĩa biểu tượng cánh đồng dựa
trên lí thuyết về biểu tượng. Hình tượng cánh đồng được lí giải qua nhiều tầng ý
nghĩa: mang tính chất não nề, cô đơn, ẩn dụ cho nỗi đau; chứa đựng nỗi đau của con
người; biểu tượng của tình yêu thương; biểu tượng của niềm thương nỗi nhớ và thời
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
14
gian. Bài viết phân tích theo quan niệm của kí hiệu học, căn cứ vào hệ thống biểu
đạt trong nội tại tác phẩm để lí giải ý nghĩa của biểu tượng.
Trong "Thân phận các nhân vật chính trong Cánh đồng bất tận nhìn từ lí thuyết
chấn thương", Đặng Hoàng Oanh giải thích nỗi đau và lối ứng xử của các nhân vật
chính ông Vũ, Điền và Nương là sự tái hiện những nỗi đau trong quá khứ. Trong
hành trình bất tận của các nhân vật trên dòng sông cuộc đời, nỗi đau về sự phản bội
của người mẹ ám ảnh lên suy nghĩ của ba nhân vật. Ông Vũ mang nỗi đau nhuốm
màu phái tính, “cảm giác nhục nhã, ê chề của người đàn ông bị người đàn bà của
anh ta phụ tình" [20]. Nỗi đau của ông là những uẩn ức chìm sâu giết chết mọi cảm
xúc và khả năng yêu thương. Nhân vật Điền mang nặng tâm lí “hậu chấn thương” tự
trói mình vào cô đơn, từ bỏ sự phát triển như một con người bình thường. Nương đi
đến tận cùng nỗi đau để chính bản thân mình trải nghiệm nỗi đau trong quá khứ của
người mẹ. Bài báo đã góp phần diễn giải tâm lí, hành vi của nhân vật với sợi dây
liên kết là sự phản bội của người mẹ. Mỗi nhân vật mang trong mình những vết
thương lòng riêng biệt nhưng tất cả đều chung một nguồn gốc là sự phản bội.
Trong bài viết “Biểu đạt giới trong Cánh đồng bất tận và Chúa đất – những gặp gỡ
thú vị”, tác giả Hoàng Đăng Khoa tìm hiểu về điểm giao trong tư tưởng của hai tác
giả khi xây dựng kiểu nhân vật nữ bi kịch. Họ là những người chịu đựng nỗi khổ
của đàn ông. Mà nỗi khổ ấy mặc nhiên không bao giờ được coi là bắt nguồn từ họ.
Người phụ nữ có thiên phú sắc đẹp nhưng không giúp họ vơi bớt khổ đau. Phận
người đàn bà trong “Cánh đồng bất tận” bạc như vôi, đều “đau đớn thay”. Nhân vật
nữ với vẻ đẹp tận thiện, tận mĩ và vẻ đẹp của thiên tính nữ. Bài viết đứng trên lập
trường phân tích theo cảm tính là chủ yếu, chưa dựa trên một lí thuyết văn học cụ
thể nào. Sự khác và giống nhau giữa hai nhân vật nữ thuộc hai nền văn hóa tương
đối khác nhau có thể là sự ngẫu nhiên, tác giả bài viết chưa thể hiện được mối liên
hệ, mạch ngầm kết nối những biểu hiện ấy.
Khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên Nguyễn Thị Dung, trường Đại học Tây
Bắc: "Phức cảm mẹ trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư" nghiên cứu
hình ảnh người mẹ trong việc hình thành nhân vật Điền và Nương từ phương diện
phân tâm học. Hệ thống các chi tiết liên quan đến tính dục chi là yếu tố nền tảng để
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
15
thực hành lí thuyết nhằm lí giải về tương đồng và khác biệt giữa Nương, Điền và
người mẹ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ mênh mang của những đứa trẻ về hình ảnh
người mẹ và kết thúc cũng là những cảm nhận của Nương về mẹ trong quá khứ.
Tưởng tượng về mẹ, về tình yêu xoa dịu tâm hồn của hai đứa trẻ trong cuộc sống
khắc nghiệt với người cha. Tác giả luận văn khẳng định, mạch chính nối kết các
nhân vật là tính dục và đó cũng là nguồn gốc lí giải tâm lí, hành vi và ý nghĩa của
hình tượng nhân vật.
Tóm lại, nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận” là một vấn đề văn học được nhiều
tác giả quan tâm. Trong đó, nhân vật người phụ nữ được khai thác chủ yếu trong
niềm bi kịch về hạnh phúc. Các nghiên cứu đã lí giải mối quan hệ giữa tính cách
nhân vật đến hành động, lời nói bằng nhiều lí thuyết khác nhau, như khía cạnh tôn
giáo, phê bình sinh thái, phê bình giới… tạo nên môi trường diễn giải phong phú, đa
dạng về ý nghĩa. Các nghiên cứu đa số hướng đến ý nghĩa bi kịch cô đơn của người
phụ nữ từ nguyên nhân là người đàn ông. Phương pháp của các tác giả chủ yếu là
phân tích, hệ thống chi tiết có liên quan đến nhân vật và khái quát thành đặc điểm
của nhân vật ấy. Luận văn tiếp tục phát triển kết quả của các nghiên cứu trước về
nội dung nhân vật là bi kịch tình yêu và nỗi cô đơn nhưng theo một hướng diễn giải
mới. Nhân vật nữ cần được đặt trong hệ thống các chi tiết có cấu trúc tương tự ở các
nhân vật khác để tạo nên ý nghĩa. Nội dung được sản xuất dựa trên mối quan hệ
tương đồng và khác biệt giữa nhân vật nữ và các nhân vật cùng hệ thống. Với
phương pháp diễn giải mới, diễn giải về trình hiện nhân vật nữ trở nên phong phú
hơn, tiếp nối và đối thoại với các kết quả nghiên cứu trước đó.
2.2. Những tài liệu liên quan đến phê bình điện ảnh Cánh đồng bất tận
2.2.1. Những phê bình điện ảnh trong nước
Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình khởi quay
từ tháng 11 năm 2009 và công chiếu vào tháng 10 năm 2010 dựa trên truyện ngắn
cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim nhận được nhiều giải thưởng nghệ
thuật về điện ảnh như giải Cánh diều vàng cho nhiều hạng mục: nữ diễn viên chính
xuất sắc, nam phụ xuất sắc, nhạc phim xuất sắc, phim truyện nhựa và giải thưởng do
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
16
báo chí bình chọn. Những giải thưởng ấy cũng phần nào phản ánh được thành công
của bộ phim đối với khán giả trong nước. Đó là tiền đề tìm hiểu dư luận xoay quanh
bộ phim, những ý kiến đánh giá của người có chuyên môn và người trực tiếp tham
gia quá trình làm phim.
Trong bài báo “Mỗi người một Cánh đồng bất tận đăng trên tuoitre.vn ngày
27/10/2010, tác giả Phạm Xuân Nguyên nhận xét phim “Cánh đồng bất tận” là sự
chuyển thể khá tốt tác phẩm gốc theo đúng công thức làm phim của Hollywood. Bài
báo đề cập đến doanh thu ấn tượng của bộ phim trong bốn ngày đầu công chiếu là
3,8 tỷ đồng. Đó là con số đáng ngưỡng mộ cho dòng phim điện ảnh chiếu rạp lúc
bấy giờ.
Bên cạnh những thành công, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của phim khi có những
đoạn chưa bám sát nguyên tác và kết thúc phim khiên cưỡng. Hình ảnh của phim
đẹp nhưng quá nhiều, trôi qua trong đầu khán giả mà không thật ấn tượng, chưa đạt
được một ý nghĩa biểu tượng cụ thể nào. Tác giả Phạm Xuân Nguyên chỉ ra sự hấp
dẫn của bộ phim đến từ ảnh hưởng của tác phẩm gốc và dàn diễn viên tài năng chứ
chưa thực sự đến từ nghệ thuật quay phim. Theo ông, cảnh quay tốt nhất là khi
Nương bị hiếp đầy gợi cảm nhưng vẫn đúng mực, vừa phải. Đánh giá của bài báo
phần nào cho thấy cách nhìn nhận của công chúng đối với hình tượng người phụ nữ
nói riêng là Nương và những yếu tố đáng chú ý mà bộ phim mang lại.
Bài viết “Hành trình mênh mang của Cánh đồng bất tận” đăng trên vnexpress.vn
27/10/2010, tác giả Nguyên Minh đã tóm tắt lại mạch truyện trong phim đồng thời
có những nhận xét xác đáng trong diễn xuất của các nhân vật. Nhân vật Nương là cô
gái ăn sương có tâm hồn thanh cao nhưng giọng địa phương của diễn viên Hải Yến
chưa phù hợp với nhân vật Sương. Thành công nhất là nhân vật Nương với nét diễn
tự nhiên, mộc mạc. Bài viết cũng so sánh một số chi tiết chưa khớp hoặc chưa đạt
được độ biểu cảm như nguyên tác như cảnh Sương cùng ông Vũ quan hệ thân xác,
Sương lựa chọn ra đi.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
17
2.2.2. Những bài viết phê bình điện ảnh quốc tế
Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được công chiếu vào năm 2010 và tạo được tiếng
vang trong cộng đồng phê bình điện ảnh trên thế giới. Phim được công chiếu tại
nước ngoài dưới tên khác “Floating Lives” (Những cuộc đời trôi nổi). Nhiều trang
web nổi tiếng về phim như IMDb, Asianonfilm, Hollywood… đăng tải bài viết đánh
giá về nội dung và nghệ thuật quay phim của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình.
Trong đó có nhiều ý kiến đáng chú ý về sự phát hiện điểm sáng trong tác phẩm điện
ảnh này. Mặc dù những nhà phê bình ngoại quốc này có thể chưa từng tiếp xúc với
tác phẩm nguồn, đối tượng của họ chủ yếu là tác phẩm điện ảnh nhưng đánh giá của
họ rất cụ thể, chất lượng và khách quan.
Mục Film Review của trang Hollywoodreporter nhận xét “Floating Lives” là một bộ
phim cuốn hút về đề tài những người nông dân du cư ở vùng đồng bằng châu thổ
sông Mê Kông. Bộ phim chú ý khai thác hai khía cạnh là nỗi đau khổ, bất hạnh của
con người và niềm hạnh phúc, hi vọng nhỏ nhoi thoáng qua trong cuộc đời các nhân
vật. Bài viết đánh giá cao cách kể chuyện sáng tạo lồng ghép giữa hiện thực và quá
khứ của đạo diễn. Đồng thời điểm sáng đáng chú ý là sự phát hiện trong những hình
ảnh biểu tượng về tuổi dậy thì mà Sương đã chỉ cho Nương. “Nhân vật chính là hai
người phụ nữ gắn bó với nhau vượt lên cả huyết thống để trao cho nhau tình yêu
thương và niềm hi vọng về hạnh phúc giản đơn” [33].
Bài đánh giá của trang Asianonfilm đánh giá cao “Floating Lives” trong phần xử lí
hình ảnh và nhạc điệu gợi nên cuộc sống chân thực của con người vùng nông thôn
sông Mê Kông. Diễn xuất tinh tế của diễn viên đã mang lại sức sống cho nhân vật,
đặc biệt là Đỗ Thị Hải Yến thể hiện nhân vật Sương vừa mạnh mẽ nhưng cũng rất
yếu đuối khi mang trong mình thân phận của cô gái điếm. Bài viết chú ý đến hai chi
tiết khi Vũ trả tiền cho Nương trước mặt những đứa trẻ và cảnh Sương nhiều lần
ngoái lại mong chờ sự níu kéo từ Vũ khi cô phải đi làm “nhiệm vụ” của mình. Đó là
hai khoảnh khắc mà người phụ nữ mạnh mẽ ấy từ bỏ mọi hi vọng về cuộc sống bình
thường mà cô mơ ước trở về. Bài viết cũng thể hiện điểm nhìn tinh tế về nhân vật
Vũ, ông là người đàn ông đáng thương hơn đáng giận bởi trong con người ông có sự
đấu tranh để thay đổi, cũng từng mơ ước về hạnh phúc, sự tử tế và tình yêu.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
18
Nhưng tất cả đã bị nỗi cay đắng nhấn chìm vì cuộc đời ông bị ruồng rẫy bởi hai
người phụ nữ là vợ và sau đó là Sương.
Trong phần giới thiệu phim trên kênh đánh giá phim quốc tế IMDb, Nguyễn Phan
Quang Bình tự viết lời giới thiệu cho tác phẩm của mình. Bộ phim được đánh giá
7.1/10 với 281 lượt đánh giá tính đến ngày 2/10/2019. Tác giả khẳng định bộ phim
mang hơi hướng hiện đại với những mối quan hệ phức tạp về tình cảm vợ chồng,
dục vọng, mối quan hệ cha con, chị em. Đó là câu chuyện về một gia đình như bao
gia đình khác tìm kiếm lại sức mạnh và phương hướng những điều mà con người
cần thiết để tồn tại. Với lời giới thiệu như vậy, rõ ràng tác giả đang muốn người đọc
hướng tới không chỉ tri nhận bộ phim như thước phim tài liệu về cuộc sống nông
thôn Tây Nam Bộ mà còn là những giá trị nhân văn, giá trị khái quát triết học về sự
tồn tại của con người.
Các bài báo, phỏng vấn về bộ phim “Cánh đồng bất tận” lại được nhiều phản hồi tốt
từ phía khán giả. Bộ phim được đánh giá là vẫn giữ khá trọn vẹn tinh thần của văn
bản nguồn - truyện ngắn cùng tên của tác giả Nguyễn Ngọc Tư. Các diễn viên được
lựa chọn kĩ lưỡng và đủ kĩ năng để thấu hiểu và trình hiện được nhân vật của mình.
Tóm lại, các bài biết đánh giá về phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận” chỉ dừng lại ở
mức độ cảm nhận, đánh giá chủ quan, chưa có cơ sở từ lí thuyết phân tích trình hiện
trong văn bản điện ảnh. Các tác giả chưa làm rõ được sự khác biệt trong tinh thần
của văn bản điện ảnh so với tác phẩm nguồn là truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Từ
cơ sở đó, người viết làm rõ trong luận văn mối quan hệ của kí hiệu trình hiện người
phụ nữ trong hai tác phẩm truyện ngắn và điện ảnh “Cánh đồng bất tận” bằng
phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Các cảnh quay về người phụ
nữ cần được đặt song hành để làm rõ mối quan hệ đối lập hay tương đồng. Trình tự
kể chuyện của phim có nhiều thay đổi so với tác phẩm nguồn và trường đoạn cảnh
quay kết phim là một sáng tạo lớn. Điều đó chứng tỏ điện ảnh không phải là “bản
sao trung thành của văn học”. Nên người viết không đồng ý với ý kiến của tác giả
Phạm Xuân Nguyên và Nguyên Minh vì “Không thể xem tác phẩm điện ảnh cải
biên thuộc hàng hai bởi ngay chính bản thân tác phẩm văn học mà nó cải biên
không phải là tác phẩm gốc mà là cải biên, chuyển vị từ vô số hệ thống kí hiệu
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
19
khác” [17, tr.34]. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong sự đối sánh giữa chất
liệu ngôn từ và hình ảnh để khám phá những ý nghĩa mới chứ không phải phán xét
về tính trung thành.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là phân tích ý nghĩa của sự trình hiện nhân vật
nhân vật nữ trong tác phẩm truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” và phim điện ảnh
“Cánh đồng bất tận”, vận dụng các phương pháp phân tích sự trình hiện bằng
phương pháp kí hiệu học để phân tích các tầng ý nghĩa. Thông qua đó, người viết đề
xuất một cách đọc mới về sự thể hiện nhân vật so với các nghiên cứu trước đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự trình hiện về người phụ nữ trong truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm điện ảnh được cải biên
từ truyện ngắn cùng tên của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình. Phạm vi nghiên
cứu là chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động, trạng thái, không gian, màu sắc… là
yếu tố để tạo nên sự trình hiện của các nhân vật nữ và tìm hiểu mối tương quan giữa
những chi tiết ấy. Dữ liệu nghiên cứu của luận văn là tác phẩm truyện ngắn “Cánh
đồng bất tận” là truyện ngắn cuối cùng trong tập truyện ngắn gồm 14 truyện của tác
giả Nguyễn Ngọc Tư, được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2014. Về tác phẩm
điện ảnh, tôi chủ yếu dựa vào bản điện ảnh “Cánh đồng bất tận” do Vietnam Studio
Mega Media sản xuất, hãng Vietnam Media Corporationphát hành ngày 22 tháng 10
năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cơ bản của luận văn là phương pháp phân tích sự trình hiện nhân vật
trong các kiểu loại văn bản của Stuart Hall theo phương pháp kí hiệu học. Phù hợp
với đối tượng nghiên cứu là nhân vật trong văn bản văn học và văn bản điện ảnh,
các khái niệm công cụ phục vụ cho nghiên cứu này là kí hiệu. Người viết sẽ phân
tích mối quan hệ trong hệ thống kí hiệu nội tại của tác phẩm để diễn giải ý nghĩa đối
tượng là sự trình hiện về người phụ nữ.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
20
6. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lí thuyết, luận văn giới thiệu về lí thuyết trình hiện của Stuart Hall với bản
chất của sự trình hiện và cách thức để tạo nên sự trình hiện trên các phương tiện
truyền thông. Đây là hướng nghiên cứu triển vọng nối kết được hình ảnh văn hóa
trên các ấn phẩm truyền thông với văn hóa để khám phá nhiều hơn ý nghĩa trong tác
phẩm.
Về mặt thực hành, luận văn đóng góp về sự thực hành phương pháp diễn giải trình
hiện nhân vật nữ bằng phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Bài viết
thể hiện các tầng ý nghĩa văn hóa trong cách trình hiện nhân vật nữ từ văn học đến
điện ảnh thông qua cách hệ thống và phân tích kí hiệu nghệ thuật đặc thù. Phương
pháp phân tích giúp mở rộng thông điệp của văn bản, mở ra nhiều hướng phát triển
và cải biên cho các văn bản nguồn là tác phẩm văn chương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự
trình hiện trong các loại văn bản. Đây là chương có ý nghĩa trình bày khái niệm sự
trình hiện và những khái niệm công cụ, phương pháp thực hành sự trình hiện của
Stuart Hall trong các loại văn bản khác nhau. Người viết trình bày những khái niệm
cơ bản trong phân tích điện ảnh. Cơ sở diễn giải ý nghĩa là hệ thống kí hiệu của văn
bản.
Chương 2: Sự trình hiện nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất
tận”. Đây là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong tác phẩm truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư qua hệ thống kí hiệu nụ cười và
nước mắt. Nội dung chương không chỉ tái hiện, sắp xếp, phân loại kí hiệu về những
nhân vật nữ mà phân tích để hiểu được ý nghĩa, thông điệp tác giả gửi gắm qua nhân
vật. Đồng thời, ý nghĩa tự thân của nhân vật cũng được bộc lộ trong hệ thống tương
đồng và đối lập kí hiệu với các nhân vật khác.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
21
Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”. Đây
là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong bản cải biên điện ảnh “Cánh
đồng bất tận” của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình qua hệ thống kí hiệu không
gian con thuyền và cánh đồng. Nội dung chương miêu tả lại cách hình dung của
người đạo diễn, biên kịch và diễn viên về nhân vật người phụ nữ. Đây là bộ phim
nặng về tâm lí các cảnh quay nhân vật gắn liền với yếu tố không gian. Khung hình
xuất hiện nhân vật nữ đặt trong quan hệ song hành hoặc nối tiếp để khái quát sự
phản chiếu ý nghĩa trong tương quan với không gian và các nhân vật khác.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
22
Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp
phân tích sự trình hiện trong các loại văn bản
1.1. Khái niệm sự trình hiện
1.1.1. Công cụ phân tích sự trình hiện
Sự trình hiện (representation) là khái niệm chủ chốt trong nghiên cứu của văn hóa
(cultural studies). Mối quan hệ giữa sự trình hiện với nền văn hóa được làm rõ trong
chương 1 và chương 4 của nghiên cứu Representation: Cutural Representation and
signifying practices (Sự trình hiện: Trình hiện văn hóa và thực hành biểu đạt) của
tác giả người Anh – Stuart Hall.
Sự trình hiện là một quá trình tạo nên ý nghĩa và truyền tải những ý nghĩa ấy giữa
các thành viên trong một nền văn hóa. Sự trình hiện là một quá trình nối kết ba yếu
tố: ngôn ngữ, ý nghĩa và văn hóa. “Sự trình hiện là một phần thiết yếu của quá trình
sản xuất và trao đổi ý nghĩa giữa các thành viên của một nền văn hóa. Quá trình ấy
bao gồm việc sử dụng ngôn ngữ, kí hiệu và hình ảnh để đại diện hay thể hiện”
(Representation is an essential part of the process by which meaning is produce and
exchanged between members of a culture. It does involve the use of language, of
sign and images which stand for or represent) [34, tr.1]. Sự trình hiện sử dụng chất
liệu là ngôn ngữ để gợi nên những khái niệm đã tồn tại trong đầu người bản ngữ. Sự
trình hiện nốt kết kinh nghiệm của cá nhân đến những trải nghiệm thực tiễn để nhận
thức về thế giới. Văn chương trình hiện đối tượng bằng chất liệu ngôn từ, xâm nhập
vào trí tưởng tượng của ta để tạo nên một khái niệm về đối tượng. Điện ảnh khiến ta
phải trải nghiệm nhiều thực tại bằng sự kết hợp thính giác, thị giác. Sự trình hiện
trên nhiều chất liệu văn bản khiến đời sống tinh thần của con người thêm phong
phú, giàu trải nghiệm, liên tưởng. Dù ta chưa bao giờ gặp được một nhân vật nào
giống với tác phẩm văn học hay tác phẩm điện ảnh trong đời thực nhưng ta vẫn có
thể đồng cảm, suy nghĩ cùng của họ. Những ấn tượng ấy chính là kết quả của sự
trình hiện trên các sáng tác nghệ thuật.
Trong thực tế, quá trình ấy diễn ra phức tạp hơn thế, sự trình hiện có thể được lí giải
theo ba hướng lí thuyết. Thuyết thứ nhất là thuyết phản ánh – reflective, là khi ta
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
23
dùng ngôn ngữ để tái hiện lại một thế giới đã có sẵn, tồn tại khách quan. Thế giới ấy
không bị chi phối bởi suy nghĩ chủ quan của con người. Lí thuyết này giống như sự
vận hành của chiếc gương phẳng, bất cứ thứ gì được phản chiếu mang tính khách
quan và trung thực. Lí thuyết thứ hai là thuyết mục đích– intentional, hướng lí
thuyết này không quan tâm đến chất liệu và hình thức tạo nên quá trình mà hướng
đến mục đích của người nói, hay người sáng tạo. Cách diễn giải sự trình hiện theo
hướng lí thuyết này bị chi phối chủ yếu bởi tính chủ quan tuyệt đối của tác giả, hạn
chế khả năng can thiệp vào ý nghĩa của người đọc. Hướng lí thuyết thứ ba là thuyết
kiến tạo - contructionist, cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa. Trong
nghiên cứu này, tôi lựa chọn theo hướng lí thuyết cấu trúc luận, cũng là hướng
nghiên cứu chủ yếu của Stuart Hall trong toàn bộ cuốn sách của ông.
Thuyết kiến tạo về sự trình hiện gồm hai mô hình nghiên cứu sự trình hiện là: mô
hình theo phương pháp kí hiệu học với đại diện là Ferdinand de Saussure và mô
hình diễn ngôn với đại diện là Michel Foucault. Trong công trình nghiên cứu của
Hall, ông lựa chọn diễn giải sự trình hiện bằng cả hai mô hình để công chúng có
nhiều cơ hội thể hiện cách hiểu của mình về lĩnh vực phân tích khác nhau. Tuy
nhiên, trong dung lượng có hạn của nghiên cứu, người viết tập trung vào mô hình
thứ nhất của Saussure với nền tảng là nghiên cứu kí hiệu học.
1.1.1.1. Bản chất của sự trình hiện
Sự trình hiện được định nghĩa theo “Shorter Oxford English Dictionary” gồm hai
cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất, sự trình hiện là sự mô phỏng lại những gì được gợi lên
trong tâm trí của người nói – mental representation. Đối tượng được trình hiện có
thể rất cụ thể, tồn tại trong thế giới thực, trong khoảng thời gian đang được nhắc
đến. Nhưng đối tượng cũng có thể là những điều trừu tượng, mơ hồ, dự đoán. Ở cấp
độ thứ hai, sự trình hiện có khả năng đại diện, biểu tượng cho một ý nghĩa cố định
nào đó. Sự trình hiện ấy phải được đặt trong không gian văn hóa. Ví dụ, trong một
triển lãm nghệ thuật đa quốc gia, chiếc áo dài là biểu tượng cho trang phục truyền
thống người phụ nữ Việt Nam. Hay trong trường phổ thông, áo dài trắng là biểu
tượng trang phục của nữ sinh.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
24
Sự trình hiện là tất cả những gì được gợi lên bằng hình ảnh, khái niệm trong tâm trí
con người khi ta tiếp xúc với một dấu hiệu của vật đó. “Sự trình hiện là quá trình
tạo nên ý nghĩa của khái niệm trong tinh thần thông qua ngôn ngữ” (Representation
is the produce of the meaning of the concept in our minds through language) [34,
tr.2]. Những khái niệm đã tồn tại sẵn trong đầu óc của mỗi cá nhân nên khi nhắc đến
những dấu hiệu quen thuộc, ta vẫn nhận ra người đối thoại đang miêu tả điều gì.
Trong bài viết, Stuart Hall dùng ví dụ về cái cây. Khi ta nhìn thấy cái cây, khái niệm
về cái cây được lưu trữ trong tâm trí ta. Dù sau đó, không nhìn thấy cái cây trong
thực tế nữa nhưng khi nhắc đến khái niệm “cây”, trong đầu ta lập tức hiện lên hình
ảnh một thực thể có thân gỗ lớn, được bao quanh trên cao bằng những tán lá xòe
rộng xung quanh. Tất nhiên, cây trong cuộc sống có rất nhiều loại và không phải
cây nào cũng là thân gỗ, có cây thân leo, thân trữ nước, thân mềm… Nhưng trong
tâm trí ta sẽ thường hình dung về một cái cây tiêu biểu nhất, đại diện cho tất cả các
loại cây. Vậy ấn tượng hiện lên trong đầu ta chính là yếu tố của sự trình hiện.
Khái niệm công cụ để phân tích sự trình hiện là kí hiệu (sign). Sự trình hiện là quá
trình nối kết các yếu tố khái niệm thuộc một nền văn hóa trong hệ thống kí hiệu để
thể hiện một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa của sự trình hiện không phụ thuộc hoàn toàn
vào ý niệm của tác giả. Sự trình hiện phải được tạo nên từ những khái niệm về ý
nghĩa đã tồn tại trước trong đầu những người bản xứ. Vì thế, sự trình hiện phải được
nối kết giữa khái niệm và ngôn ngữ để đại diện cho thế giới khách quan và chủ quan
của con người.
1.1.1.2. Khái niệm công cụ phân tích sự trình hiện
Kí hiệu là công cụ chủ yếu trong tiến trình phân tích sự trình hiện. Nhưng để tạo nên
một hệ thống kí hiệu toàn vẹn và thống nhất, có thể vận hành trong đời sống xã hội
thì kí hiệu ấy phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Trong đó, mật thiết nhất để tạo
nên một kí hiệu là bản đồ khái niệm (conceptual maps) và ý nghĩa (meanings).
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
25
 Bản đồ khái niệm
Yếu tố đầu tiên là khái niệm (concept), đây là yếu tố sinh ra từ tính chất võ đoán của
văn hóa và ngôn ngữ. “Khái niệm được sinh ra trong cấu trúc của tâm trí như một
hệ thống trình hiện trong tâm trí với cách sắp đặt và tổ chức thế giới trong ý nghĩa
của nó” (The concepts which are formed in the mind function as a system of mental
representation which classifies and organizes the word into meaningful categories)
[34, tr.14]. Có khái niệm về thế giới, con người mới có thể nói ra những điều có ý
nghĩa. Nhưng nó không thể vận hành được nếu thiếu đi phương tiện để giao tiếp với
người khác là ngôn ngữ - chất liệu của kí hiệu.
Bản đồ khái niệm (conceptual maps) là một “danh sách” tổng hợp những hiểu biết,
hình dung của người bản xứ về đối tượng. Đó là sự trình hiện tự nhiên trong tâm trí
con người. Mỗi khi tiếp xúc với một đối tượng, sự kiện trong cuộc sống thực, con
người thường “dán nhãn” để phân biệt chúng với những đối tượng khác. Và mỗi khi
từ ngữ được nhắc lại, hình ảnh về vật thể ấy lại được tái hiện sống động trong tâm
trí ta. Sự tích lũy về khái niệm không ngừng tăng lên nhờ trải nghiệm của con người
với cuộc sống khách quan. Những thành viên trong cùng một nền văn hóa sẽ có thể
giao tiếp với nhau dựa trên sự tương đồng về bản đồ khái niệm ấy. Giới hạn của bản
đồ khái niệm không chỉ dừng lại trong đối tượng ở thực tại mà còn thể hiện những
điều trừu tượng hay thế giới giả tưởng. Bản đồ khái niệm mang tính cộng đồng, ý
nghĩa được thiết lập bằng sự võ đoán của ngôn ngữ. Văn hóa được xác định trong
quá trình những thành viên cùng chia sẻ với nhau bản đồ khái niệm trong giao tiếp,
sáng tác để truyền tải suy nghĩ, cảm xúc, quan niệm cá nhân.
 Kí hiệu
Yếu tố thứ hai là kí hiệu (sign). “Kí hiệu được tổ chức trong ngôn ngữ và chính sự
hiện hữu của ngôn ngữ chung là điều cho phép chúng ta phiên dịch suy nghĩ (khái
niệm) thành từ ngữ, âm thanh hay hình ảnh, sau đó việc sử dụng những yếu tố này,
vận hành như một ngôn ngữ, để thể hiện ý nghĩa và truyền đạt suy nghĩ với những
người khác.” (Sign are organized into language and it is the existence of common
languages which enable us to translate our thoughts (concepts) into words, sounds
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
26
or images, and then to use these, operating as a language, to express meanings and
communicate thoughts to other people) [34, tr.4]. Kí hiệu là khái niệm công cụ
trong nghiên cứu ngôn ngữ học, theo trường phái cấu trúc của nhà ngôn ngữ học
Saussure. Trong phân tích sự trình hiện văn hóa, kí hiệu chứa đựng cách hiểu của tất
cả cá nhân trong cùng nền văn hóa về một khái niệm nào đó. Kí hiệu có mối quan
hệ mật thiết với ngôn ngữ. Trong kí hiệu phải dung hòa cả hai hệ thống nền tảng của
sự trình hiện, là nối kết được ba yếu tố: khái niệm, kí hiệu và ý nghĩa.
Bản chất của kí hiệu là giá trị nhị nguyên đến từ hai mặt đối lập nhưng không thể
tách rời: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified).
Trong bài viết “Về cái biểu đạt và cái được biểu đạt của kí hiệu”, tác giả Nguyễn
Thị Minh phân tích khái niệm cái biểu đạt trong kí hiệu học là: “Cái biểu đạt không
phải âm vật chất mà là vết tâm lí, biểu tượng mà giác quan cung cấp”. Cái biểu đạt
xuất phát trong văn bản, không đơn giản chỉ là kí hiệu chữ viết hay âm đọc mà là
“hình ảnh âm học vật chất trong sự suy nghĩ, tưởng tượng của con người, mang yếu
tố tâm lí” [15]. Cái biểu đạt không phải là sự sáng tạo mang tính cá nhân mà là quy
ước chung được cộng đồng chấp nhận.
Do đó, trong sáng tạo nghệ thuật, tác giả có thể tạo nên một cái biểu đạt khác với
hình dung của công chúng về đối tượng đó. “Không phải đối tượng có trước quan
điểm mà dường như chính quan điểm tạo ra đối tượng” (Saussure) [15]. Nghĩa là,
khái niệm của tác giả về hiện tại sẽ khác với hiện tại đó trong hình dung của những
người khác. Nên khi tái diễn lại hiện tại là tác giả đang diễn giải khái niệm của hiện
tại ấy trong tâm trí mình, từ đó cho ra một kí hiệu hay cái biểu đạt. Trong tác phẩm
văn học, thực tại đời sống được khúc xạ qua “đôi mắt” của một cá nhân – tác giả -
đã khác biệt rất nhiều so với sự kiện ấy từng diễn ra trong đời sống. Mỗi tác phẩm
nghệ thuật đều chịu ảnh hưởng đậm nét về thời đại, phong cách và kinh nghiệm của
tác giả. Đặc biệt trong cải biên phim, người sản xuất là một tập thể, những kí hiệu
trong văn học được “giải mã” nhiều lần và tạo nên một hệ thống kí hiệu mới.
Một điều cần lưu ý trong khái niệm “cái biểu đạt” là “kí hiệu là hình thức, không
phải chất liệu” [15]. Khi tiếp xúc với một kí hiệu, chất liệu không phải là yếu tố làm
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
27
nên bản chất của đối tượng. Từ văn học đến điện ảnh là chặng đường dài trong
chuyển đổi chất liệu vì mỗi thể loại phải tuân thủ những nguyên tắc đặc thù của
chính nó. Từ đó, ta không thể đánh giá tác phẩm được thể hiện trên chất liệu nào là
hay hơn, vượt trội hơn bản kia mà phải có tính độc lập giữa hai văn bản. Tuy nhiên,
ta có thể xem xét kí hiệu trong cách kết cấu bởi đó là phần có sự tương tác mạnh mẽ
nhất với nhau dù tác phẩm có được thể hiện bằng bất kì hình thức nào.
Bên dưới sự thể hiện một kí hiệu bao giờ cũng là “cách thức theo đó cộng đồng
người chia cắt, kiến tạo hiện thực, áp đặt cấu trúc tư duy của mình lên khối hỗn
mang, mờ đục, liên tục, vô định hình thể của các thể liên tục âm thanh và tư tưởng”
[14]. Điều đó là quy luật tất yếu trong hình thành ngôn ngữ con người, và đối với
những nhà nghệ thuật có cá tính, việc kiến tạo lại thế giới hiện thực và tổ chức lại
ngôn ngữ lại càng phức tạp và phong phú hơn bao giờ hết. Cho nên, việc bình luận
về sự thể hiện kí hiệu trong sự chuyển đổi từ văn bản văn học sang văn bản điện ảnh
trong sự hơn thua, khiếm khuyết là không cần thiết. Điều cần tập trung là sự tương
tác qua lại giữa các kí hiệu này trong hai môi trường văn bản khác nhau, sự khác
biệt và gặp gỡ tạo nên một tác động nghệ thuật khiến người tiếp nhận có được
những ấn tượng riêng biệt. “Độ chênh” trong tiếp nhận hay giải mã kí hiệu cũng là
sức hút của tác phẩm “cải biên”. Quá trình giao tiếp lại được tiếp tục trong vòng
tròn tạo nên ý nghĩa của biểu tượng.
Trong bài viết “Những ngộ nhân trong cách hiểu bản chất “kí hiệu” của tác giả “Từ
kí hiệu học đến thi pháp học”, tác giả Nguyễn Thị Minh nhận định ra bản chất của
kí hiệu, hay chính cái được biểu đạt: “Kí hiệu phải có khả năng gợi ra một cái gì
nằm bên ngoài nó, nghĩa là tính đại diện của kí hiệu” [15]. Tác giả đưa ví dụ về
hình ảnh những cái lon trong phòng trưng bày, chúng tồn tại trong đầu óc của con
người là một kí hiệu, một loại thể. “Bên ngoài kí hiệu không có hiệu thực, mà cái
người ta tưởng là hiện thực phải qua trung gian của hệ thống kí hiệu” [15]. Vậy cái
lon trong phòng trưng bày không đồng nhất với chiếc lon trong thực tế ta thường sử
dụng để đựng nước. Cái lon trong phòng trưng bày không có tác dụng thực tiễn ấy
mà chỉ gợi ra cho ta ý nghĩ về lon hay khái niệm về cái lon trong tâm trí.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
28
Cái được biểu đạt của kí hiệu không chỉ đơn thuần là một bảng danh từ được ghép
với những sự vật tồn tại trong hiện thực. “Nghĩa sở biểu (connotation) mới đúng là
thành phần quan trọng trong cái được biểu đạt của từ” [14]. Trong thực tại khách
quan không tồn tại sẵn ngôn ngữ mà được tạo nên qua quá trình phạm trù hóa, khái
niệm hóa của một cộng đồng theo thời gian.
Saussure quan niệm ngôn ngữ giống như hai mặt của một tờ giấy đối lập và thống
nhất với nhau bởi cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Mỗi nhân tố trong hệ thống
ngôn ngữ được xác định bằng mối quan hệ của nó đối với những yếu tố còn lại
trong cùng hệ thống. Vì thế, cái biểu đạt không tự nhiên sinh ra, không sẵn có trong
môi trường tự nhiên mà là sự tư duy của con người. Con người tạo nên cái được
biểu đạt bằng cách tư duy nhị nguyên. Con người luôn tìm kiếm sự khác biệt trong
những khái niệm và qui chúng vào những lĩnh vực khác nhau. Lúc đầu đó là những
quy ước được nhiều người thừa nhận và rồi trở thành một phần như là văn hóa và
tập quán. Cái biểu đạt của ngôn ngữ đời sống tồn tại bên trong đầu người bản xứ và
thoát ra một cách tự nhiên. Ví dụ, ta hoàn toàn có thể phân biệt được “trăng” và
“trắng”, trước khi cả ta liên kết ý nghĩa của nó đến những vật có thật như “trăng” là
vật tròn phát sáng trên trời vào buổi tối và “trắng” là màu sắc. Tư duy nhị nguyên
giúp ngôn ngữ trở nên hệ thống và ý nghĩa được tạo nên từ những “hệ thống của
những khác biệt” (a system of differences).
Vậy kí hiệu là quá trình sử dụng ngôn ngữ để thể hiện khái niệm, ý niệm và cảm
xúc của cá nhân theo cách khiến cho người khác có thể giải mã được tương tự như
cách mà ta thể hiện. Kí hiệu hình thành giá trị cố định của một nền văn hóa và sự
độc đáo trong sáng tác nghệ thuật.
 Ý nghĩa
Yếu tố thứ ba là ý nghĩa (meaning) – “Ý nghĩa được cấu trúc bởi hệ thống sự trình
hiện” (Meaning is contructed by the system of representation) [34, tr.7]. Ý nghĩa
được kiến tạo bởi ngôn ngữ nhưng không bị giới hạn trong giá trị nhị nguyên của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu chứa đựng cái biểu đạt và cái được biểu
đạt. Quan niệm của Stuart Hall có sự tương đồng và điểm khác biệt với quan niệm
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
29
của nhà ngôn ngữ học Saussure, điều này được phát triển trong phần 2.2 “Phê phán
mô hình của Saussure” (Critique of Saussure’s mode) [34, tr.34].
Điều thứ nhất, Stuart Hall không tập trung vào việc ngôn ngữ đã chi phối như thế
nào trong cách nhìn của con người về thế giới thực tại, mà làm rõ cách mà ngôn ngữ
thực hiện điều đó. Làm cách nào ngôn ngữ duy trì được sự gắn kết giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt không thay đổi qua thời gian? Đó chính là đưa ngôn ngữ vào sự
thực hành – “Ý nghĩa được tạo ra từ sự thực hành, ‘một tác phẩm’, của sự trình
hiện. Nó được cấu trúc thông qua quá trình biểu đạt – ý nghĩa – thực hành”
(Meaning is produced by the practice, the ‘work’, of representation. It is contructed
through signifying – meaning – producing – practices) [34, tr.14]. Sự thực hành
ngôn ngữ bằng sản phẩm hữu hình chính là sự trình hiện. Ông không quan tâm đến
mối liên hệ gắn kết giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà chỉ quan tâm hai yếu
tố ấy đóng góp như thế nào trong sự qui chiếu (reference) – cách ta hiện thực hóa
khái niệm về thế giới trong đầu mình thành điều gì đó “thực”. Giống như việc ta
chơi trò đoán chữ, từ ngữ nằm trên mảnh giấy là “sách”, ta liên tưởng ngay rằng đó
là vật ghi chép kiến thức. Từ ngữ nằm trên giấy và suy nghĩ lập tức hiện lên trong
đầu ta là ngôn ngữ. Còn sự trình hiện là cách ta giúp đồng đội của mình cùng nghĩ
về khái niệm ấy bằng hình ảnh trực quan. Ta có thể dùng ngôn ngữ để nói ngay
“sách”, nhưng thường không ai làm như vậy. Ta có thể làm động tác ghi chép, chỉ
vào ngay một chồng sách đặt trên bàn ngay lúc đó và thế là ý nghĩa được truyền đi.
Điều thứ hai, Stuart Hall tập trung vào ý nghĩa của sự trình hiện là ngữ cảnh, trong
khi Saussure nhấn mạnh đến hình thức hay cách mà ngôn ngữ vận hành. Sự trình
hiện khiến ngôn ngữ không còn thông suốt, mạch lạc như cấu trúc mà các nhà ngôn
ngữ học đang cố khái quát nó thành ngữ pháp. Ngôn ngữ được thực hành trong hội
thoại. Chúng bị chi phối bởi ngữ cảnh, người nói và người nghe. Một vị thế người
giao tiếp thay đổi, bối cảnh giao tiếp thay đổi cũng khiến cho ý nghĩa được tạo nên
từ sự trình hiện rất khác nhau. Ý nghĩa ấy được liên tục sản sinh và đôi khi vượt qua
cả sự tính toán của người tạo ra chúng. Điều này đã khẳng định sự trường tồn của
các tác phẩm văn hóa có giá trị. Lý thuyết về tiếp nhận góp phần giải mã về sự sản
sinh vô cùng về ý nghĩa của sự trình hiện.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
30
Ý nghĩa của sự trình hiện là điều vượt lên cả cái được biểu đạt của ngôn ngữ. Cái
biểu đạt được tạo nên từ quy ước của xã hội. Ý nghĩa của sự trình hiện phát triển từ
những ước lệ ấy nhưng có sự mở rộng, sáng tạo của người nghệ sĩ. Ý nghĩa ngày
càng mở rộng khi sản phẩm trình hiện trải qua sự tiếp nhận và giải mã của cá nhân.
Cuối cùng, khi sự diễn giải đạt đến cao trào, có tính lặp lại và phổ biến, ý nghĩa trở
thành biểu tượng, định hình tư duy của con người.
1.1.2. Quá trình tạo nên sự trình hiện
Stuart Hall đã chia quá trình trình hiện hóa một khái niệm thành hai giai đoạn. Giai
đoạn đầu tiên là tập hợp tất cả sự trình hiện vật lí mà mỗi cá nhân hình thành trong
đầu. Ta tập hợp tất cả những thông tin, ý niệm được định sẵn cho vật đó trong tâm
trí như một hệ thống có trật tự và dễ triển khai nhất. Giai đoạn hai là liên kết khái
niệm với hình thức và cấu trúc kí hiệu phù hợp, làm sống dậy những khái niệm ấy
trong môi trường văn hóa cụ thể.
Trong quá trình giao tiếp xã hội, con người không ngừng bổ sung vào “bản đồ khái
niệm” của mình những hình ảnh gắn với khái niệm mới (có thể là những khái niệm
mang tính cá nhân hóa) từ đời sống thực. Những khái niệm và hình thức của ngôn
ngữ được dung nạp trong tâm trí mỗi người là khác nhau, vậy câu hỏi đặt ra là khi ta
thể hiện khái niệm đó ra bên ngoài một lần nữa thì cơ sở nào giúp những người khác
cùng hiểu giống như ta? Sự di chuyển kí hiệu từ cá nhân này đến cá nhân khác đã
đòi hỏi một thách thức lớn, và xa hơn nữa là sự chia sẻ trong một cộng đồng với
hàng triệu cá nhân. Vai trò của sự giải mã cần được nhấn mạnh trong quá trình hoàn
tất sự trình hiện. Quá trình này không kiến tạo nên sự trình hiện nhưng là quan trọng
để diễn giải mối yếu tố trong đó. Những người cùng dùng chung một ngôn ngữ cùng
nhau chia sẻ một “bản đồ khái niệm” (conceptal maps). Đó là lí do khi học ngôn
ngữ nước ngoài, ta không chỉ học cách vận hành của nó trong ngữ pháp và từ vựng
mà còn phải học cả văn hóa để hiểu sâu hơn kí hiệu trong nền văn hóa của người
bản địa.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
31
1.1.2.1. Thực hành sự trình hiện trên các loại văn bản
 Văn bản báo chí và quảng cáo
Hình 1.1: Hình ảnh vận động viên da đen đầu tiên nhận huy chương Vàng Thế vận
hội năm 1988, nguồn: trang bìa báo Sunday Times, nguồn: Sunday Times, số ra
ngày 9 tháng 10 năm 1988
Trong chương 4 “The spectacle of ‘the Other’”, Stuart Hall đã trình bày về cách
phân tích sự trình hiện về người da đen trong những văn bản phi hư cấu là báo chí
và quảng cáo. Đối tượng người da đen thường bị những người da trắng nhìn nhận
với chiều hướng tiêu cực. Vì thế, khi người da trắng thể hiện khái niệm ‘người da
đen’ trên các ấn phẩm văn hóa thường mang yếu tố bài trừ, chế giễu và kì thị sắc
tộc. Tác giả đã sử dụng những kí hiệu được lặp lại trong thời gian dài mà các ấn
phẩm được phát hành. Tác giả phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố kí hiệu để thể
hiện một ý nghĩa trọn vẹn về người da đen. Ví dụ Stuart Hall đưa ra là tiêu đề và
hình ảnh của một bài báo về thế vận hội Olympic năm 1998. Ảnh chụp một người
đàn ông da màu chiến thắng khi vượt qua vạch đích trên đường đua điền kinh với
dòng chữ “Người anh hùng và kẻ gian lận?” (Heroes and Villians?). Từ đó ông
phân tích ý nghĩa của sự trình hiện khi kết hợp hình ảnh của vận động viên da đen
với dòng chữ đính kèm. Trong xã hội phương Tây thời điểm xuất bản tờ báo đó,
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
32
người da đen vẫn đang bị xem là người có vị thế thấp kém trong xã hội. Chiến thắng
của vận động viên điền kinh da màu là bước ngoặt lịch sử khi khả năng của họ được
công nhận. Vận động viên Ben Jonhson đã giành huy chương vàng đầu tiên cho
người da màu trong lịch sử tham gia thi đấu thể thao Olympic. Thế nhưng, dòng chữ
đính kèm khiến người xem bị cố định vào suy nghĩ tiêu cực nhiều hơn là tích cực.
Kì thế vận hội ấy được gọi là “Chemiscal Olympic” (Kì vận hội của hóa chất) khi
nhiều vận động viên đã dùng chất kích thích để chiến thắng. Với tiêu đề như thế,
nhiều người đọc sẽ tiếp nhận sự trình hiện về người da đen theo hai chiều hướng.
Hoặc anh ta là một anh hùng thực sự, hoặc anh ta là người gian lận để có được chiến
thắng. Và dường như cả người viết cũng đang ngụ ý nghi ngờ về chiến thắng ấy khi
đặt tiêu đề như thế cùng hình ảnh chiến thắng của vận động viên người da màu.
Hình 1.2: Mẫu quảng cáo xà phòng Pears vào thập niên 80 – 90 của thế kỉ XX,
nguồn: http://www.jenniferhallock.com/tag/white-mans-burden/
Cách hiểu ấy được tạo ra không phải chỉ là quan niệm của một cá nhân mà đó là sự
tích lũy nhận thức từ các sự trình hiện khác trong một thời gian dài. Từ thế kỉ XVII
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
33
đến XX, khi người châu Âu tiến hành các cuộc viễn chinh khám phá thế giới và
xâm lược thuộc địa, họ đã đến châu Phi và bắt rất nhiều người ở đó làm nô lệ. Và từ
đó các ấn phẩm văn hóa bắt đầu xuất hiện người da đen. Mẫu quảng cáo xà phòng
của hãng Pear có hai mặt. Xà phòng lần đầu tiên được bán ở thị trường châu Phi và
được xem là một vật “thần thánh” có chức năng thanh tẩy và mang lại sự tinh khiết
(hơn là các hình thức vệ sinh trước đó người da đen sử dụng). Mặt trước in hình một
người đàn ông da trắng đang chế tác xà phòng và dưới góc bên phải là hình ảnh
người da đen đang quỳ và nâng hai tay nhận lấy một món quà từ người da trắng đội
nón và mặc áo khoác dài. Mặt sau là hai hình ảnh về cô bé da trắng mang tạp dề và
chăm sóc tắm rửa và chơi cùng một em bé da đen. Tấm quảng cáo ấy, nếu xét đơn
giản về mặt chất liệu thì chỉ là những hình ảnh khuyến khích người da đen hãy sử
dụng xà phòng để tắm rửa. Nhưng còn về ý nghĩa, nó hàm chứa định kiến về sắc
tộc. Thực tế, người da trắng chỉ xem người da đen là người làm thuê, là công cụ hay
một hàng hóa. Nhưng trên mẫu quảng cáo của mình họ lại nói “The white man’s
burden” (Gánh nặng của người da trắng) và hình ảnh chăm sóc em bé da đen như
một sứ mệnh của họ. Người châu Âu đã mang khái niệm khai hóa đến châu Phi và
áp đặt nền văn hóa của mình là sự văn minh vượt trội. Trong nhiều thế kỉ, người da
trắng luôn có khái niệm về người da đen là man rợ, lạc hậu và cần sự dẫn dắt của
người da trắng. Những quảng cáo này có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách thức
trình hiện người da đen trong các sản phẩm của người da trắng thời gian dài. Người
da đen đã bị ép vào những khuôn mẫu diễn ngôn cứng nhắc và khác hẳn hoàn toàn
với bản chất của họ trong thực tế. Người da đen luôn phải chịu sự ban ơn của người
da trắng và việc tẩy rửa màu da của họ để trắng sáng lên là một cách thức giúp họ
hòa nhập với cuộc sống văn minh thay vì cuộc sống man rợ, phóng túng và hoang
dại.
Cách thức tạo nên sự trình hiện cũng là cách con người áp đặt quyền lực của mình
lên một biểu tượng nào đó. Stuart Hall đã dẫn ra những ý niệm cộng đồng khác
nhau trong nguồn thông tin mà ta tiếp nhận hằng ngày. Đặc biệt là về vấn đề người
da đen, sự trình hiện không tương đồng với bản chất của họ. Sự trình hiện ấy khiến
ta có tư kiến, thậm chí là nhận định sai lầm khi tiếp xúc với người da đen trong thực
tế. Thế nhưng, ý nghĩa không bao giờ là cố định và đi đến diễn giải cuối cùng. Cách
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
34
thức trình hiện khái niệm trở nên thật phong phú và tạo thành một quá trình riêng,
không phụ thuộc hoàn toàn vào người sáng tạo nên chúng.
 Văn bản điện ảnh
Stuart Hall đã phân tích sự trình hiện của các nhân vật da đen trên phim ảnh của Mỹ
vào những thập niên 80 – 90 của thế kỉ XX. Sự trình hiện nhân vật người da đen
trong những phim điện ảnh Mỹ vào năm mươi thập kỉ sau của thế kỉ XX mang tính
điển hình cao. Những kí hiệu được lặp lại và giới phê bình lấy đó là cơ sở phân tích
đặc trưng văn hóa của người da đen.
Stuart Hall phân biệt sự trình hiện người da đen bằng những kí hiệu được lặp lại
trong các ấn phẩm điện ảnh. Ông thống kê, phân chia các kiểu nhân vật người da
đen có sự tương đồng với nhau thành một nhóm để tìm ra sự thống nhất trong ý
nghĩa văn hóa về trình hiện người da đen. Sự thống nhất trong cách thức trình hiện
tạo thành ý nghĩa về người da đen. Từ đó, dấu vết tâm lí được sinh ra khi người ta
nghĩ về người da đen hay đánh giá về những người da đen trong thực tế. Sau cuộc
nội chiến ở nước Mĩ, người da đen được giải phóng khỏi những đồn điền, công
xưởng của người da trắng. Trong thực tế, người da đen có được tự do hơn, nhưng
trên phim ảnh thì họ không được như thế. Người da đen thường xuất hiện trong các
ấn phẩm truyền thông như tranh vẽ, quảng cáo, tờ rơi dưới ánh nhìn thương cảm hay
khinh miệt của người da trắng. Và ngay cả sau nội chiến giải phóng cuộc sống nô lệ
cho người da đen thì họ vẫn được trình hiện không đúng với bản chất của họ.
Những người da đen được xem là "hạnh phúc" khi họ trình diễn những trò tiêu
khiển cho người khác, phải làm trò hề suốt ngày, và họ rất hợp với công việc kể
chuyện phiếm. Văn hóa của người da đen gắn liền với tính nguyên sơ trong văn hóa
và tính chất đen tự nhiên. Những thuộc tính ấy được xem là bản chất của người da
đen. Trong bài giảng "Representation and the Media - part 1", ông đã trình bày
những trình hiện tiêu biểu về người da đen được xây dựng bởi những nhà đạo diễn
da trắng. Những người da đen thường được đặt trong vai trò những người phục vụ,
ở vị trí thấp kém. Họ nói ngọng, mắt trợn trừng, nói chuyện tục một cách rất thuần
thục và bước đi phải giống như đang lướt. Giá trị của người da đen bị quyết định là
"thấp kém" hay "cao quý" phụ thuộc vào gia đình người da trắng mà họ phục vụ.
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
35
trong phim “Uncle's Tom Cabin" trình hiện nhân vật người vú nuôi là người da đen
và những người làm công khác. Bộ phim được Hollywood thực hiện và công chiếu
năm 1987. Đây là một bộ phim cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của Harriet Beecher
Stowe. Người vú nuôi da đen được trình hiện là một người da đen có những tính
chất như là người phụ nữ tần tảo, luôn gắn bó với gian bếp, chịu nhiều thiệt thòi. Bà
nhận được sự thương cảm từ mọi người vì là người ở tầng lớp thấp nhất trong xã
hội. Nhân vật Remus cũng là người da đen nhưng anh ta tạo ra ấn tượng về sự giải
trí thấp kém. Anh ta diễn trò hát rong, nhảy nhót và đùa nghịch, dùng những mánh
khóe lừa đảo xảo trá để tránh phải lao động nặng nhọc. Staurl Hall kết luận về đặc
điểm sự trình hiện người da đen từ những bộ phim nổi bật về người da đen là sự
lười biếng, lòng trung thành mù quáng, đầu óc "chậm phát triển", lừa đảo, tính cách
trẻ con được xem là tiêu biểu của người da đen.
Stuart Hall đã rút ra kết luận trong sự phát triển trình hiện của người da đen trong
các bộ phim và năm bài viết nghiên cứu và phê bình từ những năm 1973 đến 1978
là bản chất của họ luôn bị bóp méo để tạo nên cảm xúc đáng thương hay xem
thường nơi người xem. Họ luôn trình hiện trong sự đối lập với những người da
trắng. Người da trắng là những người ban ơn, mang đến hạnh phúc về vật chất cho
người da đen. Người da trắng luôn nghiêm túc và được trình hiện với phẩm chất tốt
đẹp, còn người da màu đôi khi là sự tham lam, quá khích, dễ nóng nảy. Những
người da trắng sỡ hữu những nô lệ da đen thường luôn áp đặt nhiều luật lệ lên họ để
buộc họ phải có trách nhiệm với chủ nhân, và thậm chí là đối xử với họ nghiêm
khắc như những đứa trẻ. Sự trình hiện về người da đen lặp lại những yếu tố mà ông
gọi là "cấu trúc của sự trình hiện". Những hình ảnh trong thời kì ấy về người da đen
trẻ tuổi là những kẻ "thấp hèn", "lạm dụng chất kích thích", tính cách "đỏng đảnh"...
Thông điệp tác giả Stuart Hall thể hiện trong nghiên cứu về sự trình hiện người da
đen trong phim điện ảnh là sự phá bỏ lối suy nghĩ phiến diện khi chưa hiểu rõ bản
chất của đối tượng ấy. Mọi nền văn hóa đều có bản sắc riêng đáng được trân trọng.
Ở phần cuối chương 4 “The spectacle of ‘the Other”, tác giả phân tích bối cảnh văn
hóa tạo nên bản sắc riêng của người da đen, như văn hóa phồn thực, ý thức hệ,
truyền thống văn hóa. Tóm lại, để phân tích sự thực hành quá trình trình hiện nhân
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
36
vật trong văn bản điện ảnh, tác giả đã sử dụng mô hình của Saussure trong việc
phân tích, sắp xếp các kiểu mẫu giống nhau và tìm kiếm sự vận hành của chúng
bằng các thao tác: tìm bản chất, đơn giản hóa, phân tích bối cảnh và đối lập nhị
nguyên.
 Văn bản văn học
Phương pháp diễn giải sự trình hiện thông qua hệ thống kí hiệu trong văn học không
được Stuart Hall đề cập trong nghiên cứu. Tuy nhiên, người viết phân tích một ví dụ
trong trình hiện văn học để làm rõ cách thức vận hành tạo nên ý nghĩa của kí hiệu.
Ngôn từ là chất liệu cơ bản của văn học. Nền tảng của ngôn từ cũng chính là ngôn
ngữ đời sống. Tác giả sáng tác phải có sẵn trong một bản đồ khái niệm chung phụ
thuộc vào nền văn hóa mà tác giả sinh sống. Trình hiện đối tượng nghệ thuật là vận
dụng những khái niệm có sẵn ấy để tạo nên điều gì đó mâu thuẫn với khái niệm của
người đọc. Trong sự đối thoại và lí giải những kí hiệu mới, ý nghĩa được tạo ra.
Cùng là kí hiệu "bướm" và "hoa" trong những hệ thống kí hiệu khác nhau sẽ tạo nên
những ý nghĩa khác nhau. Trong thực hành ngôn ngữ đời thường, bướm và hoa là
hình ảnh của thiên nhiên tươi đẹp, của khu vườn tràn ngập hương sắc. Trong văn
học dân gian, kí hiệu "bướm và hoa" thể hiện cho tình yêu nam nữ phù phiếm, dễ
tan vỡ: "Bướm vàng đậu đọt mù u/ Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn" (Ca
dao). Trong văn học viết, hình ảnh "bướm và hoa" mang sắc thái nghĩa tiêu cực
trong tình yêu: "Thiếp như hoa đã lìa cành/ Chàng như con bướm lượn vành mà
chơi" (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Hình ảnh "hoa" là kí hiệu truyền thống thể hiện
người phụ nữ đẹp nhưng trắc trở trong tình duyên. Hình ảnh "bướm" là những
người đàn ông quen thói trăng hoa, trong tình yêu không chung thủy. Trong Thơ
Mới, kí hiệu "bướm" và "hoa" được sáng tạo thêm nét nghĩa mới trong "Tương tư"
của Nguyễn Bính: "Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp
nhau". Kí hiệu "bướm" và "hoa" không còn mang ý nghĩa về tình yêu phù phiếm mà
đã trở thành một mối tình đẹp đầy nhớ mong, xao xuyến. Đây là kiểu mối tình đáng
mơ ước với thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Nét nghĩa mới được sáng tạo trong kí
hiệu bởi mối quan hệ của nó với các yếu tố khác cùng hệ thống. Ý nghĩa của
"bướm" và "hoa" khi đặt song hành cùng kí hiệu "bến" và "đò" mang nét nghĩa liên
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
37
tưởng về tình yêu thủy chung. lí tưởng. Nét nghĩa tiêu cực đã biến mất và ý nghĩa
mới về tình yêu được định nghĩa lại trong tác phẩm văn học.
Bằng phương pháp phân tích sự trình hiện kí hiệu văn học, người viết thực hiện các
thao tác tương tự như Stuart Hall dùng phân tích ý nghĩa về trình hiện người da đen.
Các thao tác gồm có: hệ thống các tác phẩm có xuất hiện kí hiệu, phân loại và xác
định ý nghĩa của từng nhóm kí hiệu. Sau đó, người viết kết luận về những tầng ý
nghĩa tồn tại xung quanh kí hiệu “bướm” và “hoa”, đối chiếu với bản chất của đối
tượng trong thực tế và quan niệm truyền thống về kí hiệu. Ý nghĩa mới được tạo nên
trong sự thực hành với giá trị biểu đạt phong phú, không bị áp đặt bởi quan niệm
truyền thống.
1.1.2.2. Vai trò của sự trình hiện
Sự trình hiện ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Từ bản tin thời sự đến
sáng tác nghệ thuật, mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày, đều có sự sắp đặt trình hiện
của người tạo ra chúng. Các tác giả trình hiện một khái niệm nào đó trong đầu óc
của họ bằng các hình ảnh, đoạn nhạc, đoạn phim… để tác động đến nhận thức và
cách hiểu của người khác. Xã hội không thể vận hành tốt khi mỗi cá nhân đều có
những bảng mã văn hóa riêng vì khi giao tiếp họ không thể hiểu được khái niệm mà
người khác đang muốn truyền tải. Chính vì thế, sự trình hiện có tính ổn định sẽ tạo
nên cách hiểu tương tự nhau của các cá nhân trong cùng một nền văn hóa.
Sự trình hiện giải thoát khái niệm trong đầu tác giả thành những yếu tố trực quan có
thể tri nhận được như hình ảnh, âm thanh, đoạn phim… và khi đến với người xem,
họ sẽ giải mã những kí hiệu ấy để tạo nên thế giới khái niệm của riêng mình. Khái
niệm mới được sản sinh không đối nghịch hay quá khác biệt với khái niệm xuất phát
từ tác giả mà sẽ được phát triển dựa trên cơ sở tương đồng văn hóa giữa tác giả và
người tiếp nhận.
Sự trình hiện giúp xã hội vận hành và không ngừng sáng tạo. Ngôn ngữ giúp sự
trình hiện được thực hành và ý nghĩa được truyền tải đến các cá nhân. Mỗi ngày,
chúng ta đều tiếp xúc với những hệ thống trình hiện khác nhau vì mỗi lĩnh vực đời
sống đều có một ngôn ngữ riêng. Trong ngành thời trang, quần áo, phụ kiện là ngôn
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM

More Related Content

Similar to BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM

Similar to BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM (20)

Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn QuốcLuận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
 
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
 
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng
Khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Vũ Trọng PhụngKhóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng
Khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng
 
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bảnPhức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
 
CHẤT LIỆU TRUYỆN DÂN GIAN TRONG CHUYỆN NGÀY XƯA MỘT TRĂM CỔ TÍCH CỦA TÔ HOÀI
CHẤT LIỆU TRUYỆN DÂN GIAN TRONG CHUYỆN NGÀY XƯA MỘT TRĂM CỔ TÍCH CỦA TÔ HOÀICHẤT LIỆU TRUYỆN DÂN GIAN TRONG CHUYỆN NGÀY XƯA MỘT TRĂM CỔ TÍCH CỦA TÔ HOÀI
CHẤT LIỆU TRUYỆN DÂN GIAN TRONG CHUYỆN NGÀY XƯA MỘT TRĂM CỔ TÍCH CỦA TÔ HOÀI
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
 
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện KiềuBút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
 
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
 
Bài mẫu Lí thuyết huyền thoại của Roland Barthes, HAY
Bài mẫu  Lí thuyết huyền thoại của Roland Barthes, HAYBài mẫu  Lí thuyết huyền thoại của Roland Barthes, HAY
Bài mẫu Lí thuyết huyền thoại của Roland Barthes, HAY
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
Gingvin36HC
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 

BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM

  • 1. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN ẶNG LAN ANH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LIÊN HỆ TẢI BÀI KẾT BẠN ZALO:0917 193 864 DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864 MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM SỰ TRÌNH HIỆN NHÂN VẬT NỮ TRONG CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN TỪ TRUYỆN NGẮN ĐẾN ĐIỆN ẢNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
  • 2. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN sự trình hiện nhân vật nữ trong cánh đồng bất tận từ truyện ngắn đến điện ảnh Người thực hiện: Đặng Lan Anh Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh
  • 3. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 3 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học. Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tôi tận tình trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này. Đặc biệt tôi vô cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần trách nhiệm của tiến sĩ Nguyễn Thị Minh trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn bộ quý thầy cô của khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã có vai trò rất lớn trong suốt quá trình tôi theo học tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn.
  • 4. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 4 Mục lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự trình hiện trong các loại văn bản.............................................................................. 22 1.1. Khái niệm sự trình hiện ................................................................................. 22 1.1.1. Công cụ phân tích sự trình hiện............................................................... 22 1.1.2. Quá trình tạo nên sự trình hiện................................................................ 30 1.2. Sự dịch chuyển kí hiệu từ văn bản ngôn từ đến điện ảnh.............................. 38 1.2.1. Cơ sở diễn giải hệ thống kí hiệu trong tác phẩm điện ảnh cải biên ........ 38 1.2.2. Những khái niệm cần lưu ý trong diễn giải kí hiệu tác phẩm điện ảnh .. 40 Chương 2: Sự trình hiện nhân vật nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”........ 42 2.1. Nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Sương................................... 43 2.1.1. Nụ cười của Sương.................................................................................. 43 2.1.2. Nước mắt của Sương............................................................................... 60 2.2. Sự trình hiện nụ cười và nước mắt trong cuộc đời nhân vật Nương ............. 63 2.2.1. Nụ cười của Nương ................................................................................. 63 2.2.2 Nước mắt của Nương ............................................................................... 68 Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”.... 72 3.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng ........................... 72 3.1.1 Nhân vật Sương trong không gian chiếc ghe ........................................... 73 3.1.2 Nhân vật Sương trong không gian cánh đồng.......................................... 85 3.2 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe và cánh đồng........................... 89 3.2.1 Nhân vật Nương trong không gian chiếc ghe........................................... 90 3.2.2 Nhân vật Nương trong không gian cánh đồng ......................................... 94 KẾT LUẬN............................................................................................................ 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong nghiên cứu văn hóa, sự trình hiện là yếu tố quan trọng để hiểu về đời sống tinh thần của một cá nhân và tập thể. Chúng ta tư duy, nghi vấn và khám phá thế giới bằng kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình tiếp xúc với các loại văn bản. Ta dần chấp nhận sự trình hiện như một phần tất yếu của nhận thức mà thiếu tính đối thoại về nó. Bất cứ một sự trình hiện nào, dù là khách quan nhất: bản tin thời sự, kí sự, phim tài liệu… vẫn có sự sắp đặt của người khác. Hình ảnh được trình hiện không bao giờ là hiện thực tuyệt đối. Vì thế, nghiên cứu về sự trình hiện không đơn thuần chỉ là miêu tả, dựng lại cấu trúc của đối tượng mà còn phát hiện ý nghĩa văn hóa, mang lại diễn giải mới về đối tượng. Đồng bằng Tây Nam Bộ có nhiều tác giả trẻ. Văn học gắn bó mật thiết với thiên nhiên và con người. Nhắc đến Tây Nam Bộ, ta thường hình dung ngay đến những con người chân chất, mộc mạc, yêu nước: người chiến sĩ trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, người thanh niên trẻ theo tiếng gọi cách mạng trong “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi. Đến thời kì hiện đại, Nguyễn Ngọc Tư là cây bút phác họa lên một góc nhìn khác trong cuộc sống đời thường ở miền Tây Nam Bộ. Chân dung những người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư mang lại những diễn giải mới về con người. Trong các bài phê bình và nghiên cứu về nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận”, người phụ nữ thường được nhận định sống trong bi kịch vì nỗi cô đơn, tình yêu đơn phương, chấp nhận nỗi đau như một thói quen. Nhưng liệu họ có thực sự đau khổ vì chính tình yêu thương của mình hay không, hay còn vì một điều gì khác? Tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được nhận giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2006, giải thưởng Văn học ASEAN năm 2008 và Literaturpreis do Litprom - Hiệp hội quảng bá văn học châu Á năm 2018. Bộ phim “Cánh đồng bất tận” nhận được nhiều giải thưởng giá trị như giải Cánh diều vàng 2010 cho hạng mục phim truyện nhựa xuất sắc nhất, đạo diễn phim xuất sắc nhất, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và
  • 6. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 6 hạng mục do báo chí bình chọn. Những thành công ấy phần nào thể hiện giá trị về nhân vật trung tâm là người phụ nữ trong cả hai tác phẩm. Với một tác phẩm có sức lan tỏa đến độc giả trong thời gian dài, có sức ảnh hưởng đến công chúng quốc tế, liệu có đủ thỏa mãn khi chỉ chỉ dừng lại ở một cách diễn giải đơn giản hay không? Khám phá ý nghĩa về người phụ nữ cần có thêm một lăng kính mới để khơi gợi tiềm năng nghệ thuật trong hai tác phẩm truyện ngắn và phim điện ảnh. Thế giới nội tâm và uẩn khúc trong quá khứ của mỗi nhân vật được Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Phan Quang Bình trình hiện như thế nào? Trong sự khác biệt về chất liệu, ý nghĩa của nhân vật liệu có thay đổi hay không? Tác phẩm điện ảnh có phải là một sản phẩm thứ cấp của văn học? Bằng việc khám phá sự trình hiện nhân vật nữ, chân dung các nhân vật một lần nữa được hiện lên rõ ràng và ý nghĩa mới được tạo nên trong sự đối sánh của phương pháp phân tích trình hiện theo Stuart Hall. Đây là hướng nghiên cứu khác với các phương pháp nghiên cứu trước đó là phân tích, phân loại các chi tiết về nhân vật theo các tiêu chí của khung lí thuyết rồi khái quát thành đặc điểm. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong mối quan hệ tương đồng và đối lập với các nhân vật khác trong cùng hệ thống để khám phá nhiều ý nghĩa hơn nữa. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Các công trình nghiên cứu về nghệ thuật cải biên và phân tích sự trình hiện nghệ thuật bằng kí hiệu 2.1.1. Các nghiên cứu quốc tế a. Nghiên cứu của người viết tham khảo 4 cuốn sách quan trọng về phân tích sự trình hiện nghệ thuật bằng kí hiệu: Cuốn sách Representation: Cultural Representation and Signifying Practices của tác giả Stuart Hall viết năm 1997 là hướng nghiên cứu về sự trình hiện hình ảnh được đề cập và giảng dạy lần đầu tiên tại Mĩ. Đó là một trong những hướng nghiên cứu thực hành kí hiệu học được phát triển bởi Stuart Hall. Những bài giảng của tác giả Stuart Hall về sự trình hiện tập hợp thành 5 chương bao gồm cả lí thuyết và các thực hành về sự trình hiện. Bằng các khái niệm công cụ liên quan đến phương pháp
  • 7. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 7 phân tích kí hiệu và diễn ngôn, tác giả đã làm rõ những định kiến về sự trình hiện người da đen trên các phương tiện truyền thông tại Mỹ và Anh. Đó là quá trình truyền thông kiến tạo nên ý nghĩa cho một đối tượng và xây dựng nên một thế giới có ý nghĩa theo một trật tự mới. Sự trình hiện có liên hệ mật thiết với ngôn ngữ, là công cụ mạnh mẽ giúp trí tuệ con người thực hiện mong muốn tạo ra thế giới với đầy đủ ý nghĩa. Lí thuyết về sự trình hiện trong bài luận chủ yếu được đúc kết từ lí thuyết của Staurt Hall. Và hướng tiếp cận sự trình hiện cũng đi theo phương pháp của Staurt Hall vận dụng trong chương 4: “Cảnh tượng của ‘Tha thể’” (The spectacle of the ‘Other’). Tác giả khai thác các đặc trưng để tìm ra sự khác biệt trong những trình hiện tưởng chừng như rập khuôn và được sắp xếp có chủ ý. Đồng thời, tác giả lí giải về cách ta “nhìn” những kiểu mẫu và vai trò của chúng trong quá trình diễn giải của con người. Flim Studies the Basic của Amy Villarejo là cuốn sách được xuất bản ở nhiều trường đại học liên quan đến nghiên cứu điện ảnh tại Mỹ và Canada. Nội dung trình bày khái quát các khái niệm về điện ảnh. Điện ảnh là một hệ thống kí hiệu chuyên biệt dùng sự liên tục của hình ảnh để truyền tải nội dung. Chương 2 “Ngôn ngữ của điện ảnh” (The language of flim) cung cấp những khái niệm cơ bản trong kết cấu một bộ phim và cũng là cách thức để người xem tiếp cận đến nội dung của bất kì tác phẩm điện ảnh nào. Trong sự trình hiện một khái niệm lên màn ảnh phải là sự kết hợp tổng hòa từ các yếu tố: dựng cảnh, khung hình, ánh sáng, phục trang, kĩ thuật quay phim… Đọc được ngôn ngữ của hình ảnh chính là cách thức giúp ta tư duy sâu hơn bên trong thế giới phim ảnh và hiểu được tầng sâu văn hóa mà bộ phim muốn truyền tải. Tokyo in transit: Japan Culture on the Rails and Road của tác giả Alisa Freedman là nghiên cứu về văn hóa Nhật Bản thông qua phương tiện giao thông công cộng tàu điện, xe buýt. Trong chương 4, tác giả khám phá hình tượng những cô gái xe buýt như là biểu tượng văn hóa về những tác động nhanh chóng của công nghệ hiện đại hóa. Ý nghĩa của những cô gái được những hành khách mà họ gặp nhìn nhận không giống nhau. Tác giả đi sâu vào khai thác trong thực hành trình hiện cụ thể trong ba diễn ngôn văn hóa hóa là tác phẩm truyện “Người đưa xác chết” (Shitai Shokainin)
  • 8. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 8 của Kawabata Yasunari năm 1929, “Cuộc chạy tiếp sức giết người” (Murder Relay) (Satsujin rire) năm 1934 của Yumeno Kyusaku (1889-1993) và “Nàng Okoma” (Okoma-san) của Ibuse Masuji (1898-1936) vào năm 1940. Tác giả sử dụng ý nghĩa về sự trình hiện của các cô gái trong so sánh tương đồng và khác biệt để nâng lên tính khái quát về giá trị sống của một giai đoạn xã hội. Bài viết thể hiện những điểm nhìn khác nhau (chủ yếu là các tác giả nam) về người phụ nữ gắn với sự nghèo hèn, nhỏ bé và là đối tượng của ham muốn. Các cô nhân viên nữ lần đầu tiên được trình hiện ra trước công chúng giống như một hình thức phục vụ của ‘geisha’. Đây là một nghiên cứu về sự trình hiện người phụ nữ sử dụng lí thuyết nghiên cứu văn hóa (cultural studies). Cuốn sách Nghệ thuật điện ảnh (Dẫn luận giáo trình chuyên ngành điện ảnh) của tác giả David Bordwell, Kristin Thompson cung cấp những khái niệm cơ bản nhất về điện ảnh, cách đọc ý nghĩa trong một khung hình hay một cảnh quay. Trong chương 2 “Ý nghĩa của hình thức phim”, cuốn sách trình bày cách hiểu của các nhà làm phim trong cách dùng hình ảnh như một hình thức chứ không phải chất liệu – “Kịch bản điện ảnh là một cấu trúc” (William Goldman, nhà biên kịch phim “Butch Cassidy and the Sundance”). Cuốn sách phủ nhận quan điểm hình thức đối lập với nội dung phim mà khẳng định mọi yếu tố bên trong hay bên ngoài đều có “chức năng như phần toàn bộ của khuôn mẫu” [4]. Cuốn sách đề xuất cách phân tích phim thông qua kí hiệu hình ảnh đặc thù hay những qui ước mang tính cố định thường được sử dụng trong các bộ phim kinh điển. 2.3.2. Các nghiên cứu trong nước Chân trời của hình ảnh từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurowasa Akira của tác giả Đào Lê Na, có vai trò như một nền tảng lí thuyết vững chắc cho nghiên cứu nội dung và hình thức cải biên tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh. Trong đó, cơ sở của việc xem tác phẩm cải biên như một tác phẩm nghệ thuật độc lập và hoàn chình là điều trọng tâm nhất. Sự phức hợp của nhiều lí thuyết như: liên văn bản (Bakhtin), phiên dịch (James S.Holmes), văn hóa (hiểu theo quan niệm của phương Tây và trường phái thực hành trình hiện của Mĩ với đại diện là Stuart Hall), giải kiến tạo (Bakhtin). Các lí thuyết ấy là mắt xích quan trọng, làm tiền đề tiến
  • 9. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 9 hành thâm nhập vào thế giới của bất kì tác phẩm cải biên nào. Cải biên không phải là sự chuyển đổi hệ thống kí hiệu một cách võ đoán mà sự sắp đặt có tính toán của người nghệ sĩ để tạo nên một thế giới nghệ thuật hoàn toàn mới. 2.2. Các nghiên cứu về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sáng tác của cô 2.2.1. Về phong cách tác giả Nguyễn Ngọc Tư Luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” của tác giả Nguyễn Thành Ngọc Bảo đã khái quát những nét nổi bật trong sáng tác tự sự Nguyễn Ngọc Tư dưới góc độ thi pháp truyện ngắn truyền thống (cảm hứng sáng tác, hệ thống nhân vật) và thi pháp văn xuôi hiện đại (đặc điểm thi pháp trần thuật và thi pháp ngôn từ). Tác giả luận văn nhận định: “Cánh đồng bất tận là một ngã rẽ bất ngờ để thách thức và làm mới bản thân tác giả, thấy những mặt đen tối xấu xa, dữ dằn của nông thôn Nam Bộ” [2]. Theo tác giả, nhân vật được khái quát trong tính từ “cô đơn”. “Cô đơn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm thấy rõ niềm cô đơn mà không bi quan, tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về nỗi cô đơn. Họ chấp nhận bởi họ cảm thấy nỗi đau ấy là lẽ sống. Và, từ nỗi đau ấy họ vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực của cái đẹp, cái thiện” [2]. Nhân vật được xây dựng là nhân vật điển hình có tầm nhìn rộng, tầm vóc ngang bằng hoặc cao hơn so với nguyên mẫu đời sống. Nguyễn Ngọc Tư ít chịu ảnh hưởng của trào lưu văn chương thế giới, tác phẩm chưa mang hơi thở của thời đại. Luận văn phân tích tác phẩm theo hướng làm rõ nội dung, có tính toàn diện trên nhiều khía cạnh, chia đối tượng theo nhóm ngành nghề. Đặc điểm truyện phân tích theo thi pháp truyền thống: cốt truyện, chi tiết, tình huống. Đối với công chúng lúc bấy giờ, phong cách Nguyễn Ngọc Tư đã gắn bó với sự mộc mạc, giản dị của làng quê qua các sáng tác: “Ngọn đèn không tắt, Ông ngoại, Biển người mênh mông”. Đến “Cánh đồng bất tận” là một sự thay đổi phong cách sáng tác đầy bất ngờ. Trong bài báo "Tiếng thở dài với Cánh đồng bất tận", tác giả Đỗ Hồng Ngọc không giấu nỗi sự thất vọng khi nhà văn miền Tây Nam Bộ dần mất
  • 10. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 10 đi chất mộc mạc. Người viết cho rằng, Nguyễn Ngọc Tư đã quá chạy theo cái mới, theo khuynh hướng văn học phương Tây mà quay lưng lại với cốt cách "đồng nội". Nguyễn Ngọc Tư thay đổi văn phong của mình, một phần cũng vì chạy theo thị hiếu độc giả, "sợ người ta đã ngán ngẩm mình, chán nản minh nên phải làm mới" [17]. Người viết không phủ nhận thành công và tầm ảnh hưởng của "Cánh đồng bất tận" nhưng lại "hụt hẫng như đánh mất một đức tin" vì sự thay đổi phong cách sáng tác của tác giả. 2.2.2 Về một số đặc trưng trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư Trong bài viết “Thân phận cô đơn của người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, tác giả Lê Thị Kim Liên khẳng định: “Nhân vật nữ cô đơn là nét tiêu biểu” [12]. Bài viết lí giải nguyên nhân của nỗi cô đơn ấy và giải thích nguyên nhân vì sao điều đó trở thành bản chất của nhân vật. Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được nhắc đến ba lần với sự minh họa cho hầu hết sắc thái cô đơn. Người vợ Út Vũ là người phụ nữ cô đơn trong tình yêu. Nương là người phụ nữ cô đơn giữa hận thù và cũng cô đơn trong chính hình hài hiện sinh (nhân vật Nương luôn day dứt về thân thể của mình, về một hình hài giống với mẹ). Tác giả lí giải dựa trên thống kê các chi tiết về hành động và cảm xúc biểu hiện sự cô đơn của nhân vật. Hướng nghiên cứu của luận văn “Ẩn dụ tri nhận trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” của Từ Thị Mỹ Hạnh lấy cơ sở là ngôn ngữ học tri nhận. Đó là con đường ý niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua các từ ngữ gắn liền với văn hóa dân tộc. Mục đích nghiên cứu của khóa luận là khái quát những ẩn dụ tri nhận trong hơn 70 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư và khái quát tư duy của người bản địa về ngôn ngữ. Tác giả lựa chọn tìm hiểu về ẩn dụ trong ngôn ngữ bởi đó là công cụ tạo nghĩa cho khái niệm mới. Cơ sở xác lập nghĩa dựa trên hai yếu tố là văn hóa địa phương và kinh nghiệm cá nhân của nhà văn. Luận văn có đóng góp cho sự phát triển từ ngữ trong văn học, đặc biệt là văn học vùng Tây Nam Bộ. Đồng thời, luận văn mở ra cách hiểu mới về con người và văn hóa Nam Bộ, phù hợp với dòng phát triển tri nhận của nhân loại.
  • 11. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 11 Trong luận văn “Truyện ngắn và tản văn Nguyễn Ngọc Tư – một cái nhìn so sánh”, tác giả Mai Nguyễn Bích Thuận đã so sánh phong cách sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trên hai thể loại là truyện ngắn và tản văn. Tác giả đưa ra được những định nghĩa xác đáng về thể loại “tản văn”, đang là khái niệm khá mơ hồ trong công chúng. Đồng thời trong truyện ngắn, tác giả cũng tập trung làm rõ sự khác biệt với tản văn trên hai phương diện là nội dung cảm hứng và phương thức tự sự. Đối với nhân vật người phụ nữ, luận văn có những phát hiện độc đáo về giọng điệu trần thuật. Mượn điểm nhìn trần thuật của Nương, nhà văn thể hiện thái độ thương xót cho thân phận những cô gái điếm bán thân mưu sinh và mơ ước gia đình với họ là điều xa xỉ. Trong luận văn “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ cấu trúc trần thuật”, tác giả Đinh Thị Kiều Oanh trình bày khái niệm về cấu trúc trần thuật của tác phẩm tự sự nói chung là “Đơn vị của cấu trúc trần thuật là cấu hình cảnh và cấu hình diễn ngôn” [21]. Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa câu chuyện (sự kiện được liệt kê theo trình tự thời gian) và nghệ thuật trần thuật. Trong đó, hành vi kể được xem là yếu tố quan trọng, cấu tạo nên tác phẩm và thể hiện quan niệm của tác giả. Luận văn chỉ ra sự khác nhau trong phối cảnh trần thuật và phối cảnh điện ảnh. Phương pháp phân tích cảnh gồm sự phối hợp các thao tác phân tích hình tượng và ngôn ngữ: phân tách cảnh, sắp xếp mô hình và trật tự, lập mô hình cảnh, đối chiếu cảnh trước và cảnh sau để tái hiện lại mô hình cốt truyện. Tuy nhiên sự phân tách này chỉ nhằm đối chiếu giữa truyện và truyện, chưa mở rộng trong lĩnh vực điện ảnh. Luận văn có đề cập đến một số điểm lí thuyết trong việc phân chia cảnh và diễn ngôn ứng dụng từ lí thuyết trong lĩnh vực điện ảnh của tác giả Lotman. Phối cảnh điện ảnh là “trật tự sắp xếp các sự kiện quan điểm nhân sinh, ấn tượng chủ quan (nội dung chính) của truyện chưa phác họa được mối quan hệ giữa cảnh và nhân vật. Cảnh lấy nhân tố chính là sự kiện – thời gian (không gian ít được chú trọng nhưng điều này thể hiện rõ trong điện ảnh)” [21]. Ngôi kể trong thể loại truyện ngắn và điện ảnh đều xuất phát từ nhân vật thể hiện được chiều sâu nội tâm. Luận văn phân tích yếu tố này có quan hệ chặt chẽ trong việc thể hiện các diễn ngôn, đối thoại. Phân tích cấu hình cảnh trong truyện, luận văn phát hiện được kĩ xảo chêm xen (cũng là kĩ xảo thông dụng trong điện ảnh) dừng lại miêu tả tạo độ ngừng nghỉ, đồng thời tăng thêm mức độ chi tiết cho bối cảnh sự việc.
  • 12. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 12 2.2.3. Một số khía cạnh trong tác phẩm “Cánh đồng bất tận” Bài báo "Cảm quan Phật giáo trong Cánh đồng bất tận" của Phan Thị Thu Hiền lí giải tính cách, hành động của nhân vật ông Vũ, Nương, Điền và Sương bằng quan niệm Phật giáo. Quan niệm này được Nguyễn Ngọc Tư nhắc đến trước đó trong đoạn văn ngắn dẫn trước truyện: "Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương" [8]. Từ không gian nghệ thuật là không gian tâm lí, tác giả bài viết đã khái quát thành hình tượng nghệ thuật là "sa mạc thù hận". Thời gian nghệ thuật là "chuỗi dài của sự trừng phạt". Sự đau khổ mà các nhân vật phải trải qua là hệ quả tất yếu, "nhân" từ những "quả" đã gieo nên trước đó. Bài viết đã đóng góp sự diễn giải ý nghĩa hình ảnh các nhân vật dưới góc nhìn tôn giáo Phật giáo. Tác giả sử dụng thao tác quy chiếu tương đồng những hình ảnh, chi tiết hành động trong tác phẩm đến những khái niệm trong tín ngưỡng Phật giáo để lí giải mối quan hệ giữa tính cách và hành động của nhân vật. Trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận”, tác giả Bùi Tùng Ảnh đánh giá Nguyễn Ngọc Tư là người dự báo những vui buồn trong cuộc sống, dựng nên được nhân vật điển hình của thời đại. “Nhân vật Nguyễn Ngọc Tư thường bị nhấn chìm trong nỗi sợ hãi, hoặc “câm nín”, hoặc “nhẫn nhịn” (đúng hơn là nhẫn nhục), “chấp nhận” (khi chấp nhận cũng là một thói quen, mà đạo đức chính là một thói quen). Nhân vật bị dìm vào tình thế “xé toạc”, “đau đớn”. Con người bị nhốt trong bi kịch gia đình, bi kịch xã hội” [1]. Bài báo còn thể hiện đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư trong việc tạo nên phong vị Nam Bộ ở khía cạnh ngôn ngữ và tình cách con người. Đối thoại với những luận điểm trong “Những bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận”, bài báo “Môi trường và nhân tính tự sự của Nguyễn Ngọc Tư”, tác giả Đoàn Ánh Dương làm rõ hơn ý nghĩa tác phẩm trong mối quan hệ giữa hệ thống biểu tượng trong tên gọi và số phận của nhân vật. Ý nghĩa nhân vật không chỉ thể hiện bằng hệ thống hành động, lời nói, như tác giả Bùi Tùng Ảnh đã dẫn, mà còn phụ thuộc vào mối liên hệ trong cách đặt tên và các hình ảnh ẩn dụ quy chiếu đến nhân vật. Bài viết khái quát cách xây dựng biểu tượng dựa trên sự song trùng đặc điểm, tính chất của tên truyện và tên nhân vật. Cụ thể, nhân vật Điền gắn với tên yêu
  • 13. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 13 thương, chở che, trở thành biểu tượng của tác phẩm, sự quy chiếu của các biểu tượng thành tố lên biểu tượng mang ý trội trong hệ thống. Mối quan hệ giữa Điền và cánh đồng thể hiện trong hai nét nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tình yêu thương. Nghĩa thứ hai là những khiếm khuyết, né tránh nỗi đau, sự kìm hãm ham muốn thể xác nhưng thực chất lại ẩn sâu khao khát giữ được giá trị con người, chống lại sự tha hóa. Cốt truyện phân rã, cốt truyện tâm lí là chủ đạo thể hiện cảm thức lưu lạc của con người Nam Bộ. Ngôn ngữ gắn liền với cảm xúc, sự hồi nguyên cảm xúc từ lâu đã lắng đọng trong lòng. Trong bài báo "Cánh đồng bất tận: Dữ dội và nhân tính", nhà văn Nguyễn Khắc Phê khẳng định tầm ảnh hưởng của tác phẩm khi tạo nên một làn sóng dư luận sôi động quanh sự tiếp nhận của văn bản. Nhà văn thành công trong việc tạo nên được một thế giới nghệ thuật riêng là những cánh đồng và những phận người trôi nổi. Tác giả đã chạm được vào những tầng vỉa sâu kín của cuộc sống con người, những góc khuất ít được phơi bày và chú ý. Trong bài viết “Tìm về với mẹ thiên nhiên: Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư từ cách nhìn nữ quyền luận sinh thái”, tác giả Phạm Ngọc Lan có những lí giải mới lạ về hình tượng nhân vật nữ. Tác giả nhìn nhận nhân vật nữ dưới lí thuyết nữ quyền luận sinh thái, gắn người phụ nữ với các yếu tố thiên nhiên trong tác phẩm như bầy vịt, dòng sông, cánh đồng. Các nhân vật nữ được đồng nhất với hình ảnh mẹ thiên nhiên, bao dung, nhân từ và đầy ắp tình yêu thương. Biểu tượng không gian chứa đựng người phụ nữ đều là những nơi đáng mơ ước với hai đứa trẻ Nương và Điền bởi chúng khát khao được nối lại với cuộc sống của con người bình thường. Bài viết làm nổi bật mối quan hệ của các nhân vật với môi trường tự nhiên đặc biệt là hình tượng nhân vật nữ gắn với nước và mẹ thiên nhiên. Trong bài báo khoa học “Biểu tượng cánh đồng trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư”, Lê Thị Thùy Vinh phân tích ý nghĩa biểu tượng cánh đồng dựa trên lí thuyết về biểu tượng. Hình tượng cánh đồng được lí giải qua nhiều tầng ý nghĩa: mang tính chất não nề, cô đơn, ẩn dụ cho nỗi đau; chứa đựng nỗi đau của con người; biểu tượng của tình yêu thương; biểu tượng của niềm thương nỗi nhớ và thời
  • 14. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 14 gian. Bài viết phân tích theo quan niệm của kí hiệu học, căn cứ vào hệ thống biểu đạt trong nội tại tác phẩm để lí giải ý nghĩa của biểu tượng. Trong "Thân phận các nhân vật chính trong Cánh đồng bất tận nhìn từ lí thuyết chấn thương", Đặng Hoàng Oanh giải thích nỗi đau và lối ứng xử của các nhân vật chính ông Vũ, Điền và Nương là sự tái hiện những nỗi đau trong quá khứ. Trong hành trình bất tận của các nhân vật trên dòng sông cuộc đời, nỗi đau về sự phản bội của người mẹ ám ảnh lên suy nghĩ của ba nhân vật. Ông Vũ mang nỗi đau nhuốm màu phái tính, “cảm giác nhục nhã, ê chề của người đàn ông bị người đàn bà của anh ta phụ tình" [20]. Nỗi đau của ông là những uẩn ức chìm sâu giết chết mọi cảm xúc và khả năng yêu thương. Nhân vật Điền mang nặng tâm lí “hậu chấn thương” tự trói mình vào cô đơn, từ bỏ sự phát triển như một con người bình thường. Nương đi đến tận cùng nỗi đau để chính bản thân mình trải nghiệm nỗi đau trong quá khứ của người mẹ. Bài báo đã góp phần diễn giải tâm lí, hành vi của nhân vật với sợi dây liên kết là sự phản bội của người mẹ. Mỗi nhân vật mang trong mình những vết thương lòng riêng biệt nhưng tất cả đều chung một nguồn gốc là sự phản bội. Trong bài viết “Biểu đạt giới trong Cánh đồng bất tận và Chúa đất – những gặp gỡ thú vị”, tác giả Hoàng Đăng Khoa tìm hiểu về điểm giao trong tư tưởng của hai tác giả khi xây dựng kiểu nhân vật nữ bi kịch. Họ là những người chịu đựng nỗi khổ của đàn ông. Mà nỗi khổ ấy mặc nhiên không bao giờ được coi là bắt nguồn từ họ. Người phụ nữ có thiên phú sắc đẹp nhưng không giúp họ vơi bớt khổ đau. Phận người đàn bà trong “Cánh đồng bất tận” bạc như vôi, đều “đau đớn thay”. Nhân vật nữ với vẻ đẹp tận thiện, tận mĩ và vẻ đẹp của thiên tính nữ. Bài viết đứng trên lập trường phân tích theo cảm tính là chủ yếu, chưa dựa trên một lí thuyết văn học cụ thể nào. Sự khác và giống nhau giữa hai nhân vật nữ thuộc hai nền văn hóa tương đối khác nhau có thể là sự ngẫu nhiên, tác giả bài viết chưa thể hiện được mối liên hệ, mạch ngầm kết nối những biểu hiện ấy. Khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên Nguyễn Thị Dung, trường Đại học Tây Bắc: "Phức cảm mẹ trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư" nghiên cứu hình ảnh người mẹ trong việc hình thành nhân vật Điền và Nương từ phương diện phân tâm học. Hệ thống các chi tiết liên quan đến tính dục chi là yếu tố nền tảng để
  • 15. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 15 thực hành lí thuyết nhằm lí giải về tương đồng và khác biệt giữa Nương, Điền và người mẹ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ mênh mang của những đứa trẻ về hình ảnh người mẹ và kết thúc cũng là những cảm nhận của Nương về mẹ trong quá khứ. Tưởng tượng về mẹ, về tình yêu xoa dịu tâm hồn của hai đứa trẻ trong cuộc sống khắc nghiệt với người cha. Tác giả luận văn khẳng định, mạch chính nối kết các nhân vật là tính dục và đó cũng là nguồn gốc lí giải tâm lí, hành vi và ý nghĩa của hình tượng nhân vật. Tóm lại, nhân vật nữ trong “Cánh đồng bất tận” là một vấn đề văn học được nhiều tác giả quan tâm. Trong đó, nhân vật người phụ nữ được khai thác chủ yếu trong niềm bi kịch về hạnh phúc. Các nghiên cứu đã lí giải mối quan hệ giữa tính cách nhân vật đến hành động, lời nói bằng nhiều lí thuyết khác nhau, như khía cạnh tôn giáo, phê bình sinh thái, phê bình giới… tạo nên môi trường diễn giải phong phú, đa dạng về ý nghĩa. Các nghiên cứu đa số hướng đến ý nghĩa bi kịch cô đơn của người phụ nữ từ nguyên nhân là người đàn ông. Phương pháp của các tác giả chủ yếu là phân tích, hệ thống chi tiết có liên quan đến nhân vật và khái quát thành đặc điểm của nhân vật ấy. Luận văn tiếp tục phát triển kết quả của các nghiên cứu trước về nội dung nhân vật là bi kịch tình yêu và nỗi cô đơn nhưng theo một hướng diễn giải mới. Nhân vật nữ cần được đặt trong hệ thống các chi tiết có cấu trúc tương tự ở các nhân vật khác để tạo nên ý nghĩa. Nội dung được sản xuất dựa trên mối quan hệ tương đồng và khác biệt giữa nhân vật nữ và các nhân vật cùng hệ thống. Với phương pháp diễn giải mới, diễn giải về trình hiện nhân vật nữ trở nên phong phú hơn, tiếp nối và đối thoại với các kết quả nghiên cứu trước đó. 2.2. Những tài liệu liên quan đến phê bình điện ảnh Cánh đồng bất tận 2.2.1. Những phê bình điện ảnh trong nước Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình khởi quay từ tháng 11 năm 2009 và công chiếu vào tháng 10 năm 2010 dựa trên truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim nhận được nhiều giải thưởng nghệ thuật về điện ảnh như giải Cánh diều vàng cho nhiều hạng mục: nữ diễn viên chính xuất sắc, nam phụ xuất sắc, nhạc phim xuất sắc, phim truyện nhựa và giải thưởng do
  • 16. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 16 báo chí bình chọn. Những giải thưởng ấy cũng phần nào phản ánh được thành công của bộ phim đối với khán giả trong nước. Đó là tiền đề tìm hiểu dư luận xoay quanh bộ phim, những ý kiến đánh giá của người có chuyên môn và người trực tiếp tham gia quá trình làm phim. Trong bài báo “Mỗi người một Cánh đồng bất tận đăng trên tuoitre.vn ngày 27/10/2010, tác giả Phạm Xuân Nguyên nhận xét phim “Cánh đồng bất tận” là sự chuyển thể khá tốt tác phẩm gốc theo đúng công thức làm phim của Hollywood. Bài báo đề cập đến doanh thu ấn tượng của bộ phim trong bốn ngày đầu công chiếu là 3,8 tỷ đồng. Đó là con số đáng ngưỡng mộ cho dòng phim điện ảnh chiếu rạp lúc bấy giờ. Bên cạnh những thành công, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của phim khi có những đoạn chưa bám sát nguyên tác và kết thúc phim khiên cưỡng. Hình ảnh của phim đẹp nhưng quá nhiều, trôi qua trong đầu khán giả mà không thật ấn tượng, chưa đạt được một ý nghĩa biểu tượng cụ thể nào. Tác giả Phạm Xuân Nguyên chỉ ra sự hấp dẫn của bộ phim đến từ ảnh hưởng của tác phẩm gốc và dàn diễn viên tài năng chứ chưa thực sự đến từ nghệ thuật quay phim. Theo ông, cảnh quay tốt nhất là khi Nương bị hiếp đầy gợi cảm nhưng vẫn đúng mực, vừa phải. Đánh giá của bài báo phần nào cho thấy cách nhìn nhận của công chúng đối với hình tượng người phụ nữ nói riêng là Nương và những yếu tố đáng chú ý mà bộ phim mang lại. Bài viết “Hành trình mênh mang của Cánh đồng bất tận” đăng trên vnexpress.vn 27/10/2010, tác giả Nguyên Minh đã tóm tắt lại mạch truyện trong phim đồng thời có những nhận xét xác đáng trong diễn xuất của các nhân vật. Nhân vật Nương là cô gái ăn sương có tâm hồn thanh cao nhưng giọng địa phương của diễn viên Hải Yến chưa phù hợp với nhân vật Sương. Thành công nhất là nhân vật Nương với nét diễn tự nhiên, mộc mạc. Bài viết cũng so sánh một số chi tiết chưa khớp hoặc chưa đạt được độ biểu cảm như nguyên tác như cảnh Sương cùng ông Vũ quan hệ thân xác, Sương lựa chọn ra đi.
  • 17. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 17 2.2.2. Những bài viết phê bình điện ảnh quốc tế Bộ phim “Cánh đồng bất tận” được công chiếu vào năm 2010 và tạo được tiếng vang trong cộng đồng phê bình điện ảnh trên thế giới. Phim được công chiếu tại nước ngoài dưới tên khác “Floating Lives” (Những cuộc đời trôi nổi). Nhiều trang web nổi tiếng về phim như IMDb, Asianonfilm, Hollywood… đăng tải bài viết đánh giá về nội dung và nghệ thuật quay phim của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình. Trong đó có nhiều ý kiến đáng chú ý về sự phát hiện điểm sáng trong tác phẩm điện ảnh này. Mặc dù những nhà phê bình ngoại quốc này có thể chưa từng tiếp xúc với tác phẩm nguồn, đối tượng của họ chủ yếu là tác phẩm điện ảnh nhưng đánh giá của họ rất cụ thể, chất lượng và khách quan. Mục Film Review của trang Hollywoodreporter nhận xét “Floating Lives” là một bộ phim cuốn hút về đề tài những người nông dân du cư ở vùng đồng bằng châu thổ sông Mê Kông. Bộ phim chú ý khai thác hai khía cạnh là nỗi đau khổ, bất hạnh của con người và niềm hạnh phúc, hi vọng nhỏ nhoi thoáng qua trong cuộc đời các nhân vật. Bài viết đánh giá cao cách kể chuyện sáng tạo lồng ghép giữa hiện thực và quá khứ của đạo diễn. Đồng thời điểm sáng đáng chú ý là sự phát hiện trong những hình ảnh biểu tượng về tuổi dậy thì mà Sương đã chỉ cho Nương. “Nhân vật chính là hai người phụ nữ gắn bó với nhau vượt lên cả huyết thống để trao cho nhau tình yêu thương và niềm hi vọng về hạnh phúc giản đơn” [33]. Bài đánh giá của trang Asianonfilm đánh giá cao “Floating Lives” trong phần xử lí hình ảnh và nhạc điệu gợi nên cuộc sống chân thực của con người vùng nông thôn sông Mê Kông. Diễn xuất tinh tế của diễn viên đã mang lại sức sống cho nhân vật, đặc biệt là Đỗ Thị Hải Yến thể hiện nhân vật Sương vừa mạnh mẽ nhưng cũng rất yếu đuối khi mang trong mình thân phận của cô gái điếm. Bài viết chú ý đến hai chi tiết khi Vũ trả tiền cho Nương trước mặt những đứa trẻ và cảnh Sương nhiều lần ngoái lại mong chờ sự níu kéo từ Vũ khi cô phải đi làm “nhiệm vụ” của mình. Đó là hai khoảnh khắc mà người phụ nữ mạnh mẽ ấy từ bỏ mọi hi vọng về cuộc sống bình thường mà cô mơ ước trở về. Bài viết cũng thể hiện điểm nhìn tinh tế về nhân vật Vũ, ông là người đàn ông đáng thương hơn đáng giận bởi trong con người ông có sự đấu tranh để thay đổi, cũng từng mơ ước về hạnh phúc, sự tử tế và tình yêu.
  • 18. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 18 Nhưng tất cả đã bị nỗi cay đắng nhấn chìm vì cuộc đời ông bị ruồng rẫy bởi hai người phụ nữ là vợ và sau đó là Sương. Trong phần giới thiệu phim trên kênh đánh giá phim quốc tế IMDb, Nguyễn Phan Quang Bình tự viết lời giới thiệu cho tác phẩm của mình. Bộ phim được đánh giá 7.1/10 với 281 lượt đánh giá tính đến ngày 2/10/2019. Tác giả khẳng định bộ phim mang hơi hướng hiện đại với những mối quan hệ phức tạp về tình cảm vợ chồng, dục vọng, mối quan hệ cha con, chị em. Đó là câu chuyện về một gia đình như bao gia đình khác tìm kiếm lại sức mạnh và phương hướng những điều mà con người cần thiết để tồn tại. Với lời giới thiệu như vậy, rõ ràng tác giả đang muốn người đọc hướng tới không chỉ tri nhận bộ phim như thước phim tài liệu về cuộc sống nông thôn Tây Nam Bộ mà còn là những giá trị nhân văn, giá trị khái quát triết học về sự tồn tại của con người. Các bài báo, phỏng vấn về bộ phim “Cánh đồng bất tận” lại được nhiều phản hồi tốt từ phía khán giả. Bộ phim được đánh giá là vẫn giữ khá trọn vẹn tinh thần của văn bản nguồn - truyện ngắn cùng tên của tác giả Nguyễn Ngọc Tư. Các diễn viên được lựa chọn kĩ lưỡng và đủ kĩ năng để thấu hiểu và trình hiện được nhân vật của mình. Tóm lại, các bài biết đánh giá về phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận” chỉ dừng lại ở mức độ cảm nhận, đánh giá chủ quan, chưa có cơ sở từ lí thuyết phân tích trình hiện trong văn bản điện ảnh. Các tác giả chưa làm rõ được sự khác biệt trong tinh thần của văn bản điện ảnh so với tác phẩm nguồn là truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Từ cơ sở đó, người viết làm rõ trong luận văn mối quan hệ của kí hiệu trình hiện người phụ nữ trong hai tác phẩm truyện ngắn và điện ảnh “Cánh đồng bất tận” bằng phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Các cảnh quay về người phụ nữ cần được đặt song hành để làm rõ mối quan hệ đối lập hay tương đồng. Trình tự kể chuyện của phim có nhiều thay đổi so với tác phẩm nguồn và trường đoạn cảnh quay kết phim là một sáng tạo lớn. Điều đó chứng tỏ điện ảnh không phải là “bản sao trung thành của văn học”. Nên người viết không đồng ý với ý kiến của tác giả Phạm Xuân Nguyên và Nguyên Minh vì “Không thể xem tác phẩm điện ảnh cải biên thuộc hàng hai bởi ngay chính bản thân tác phẩm văn học mà nó cải biên không phải là tác phẩm gốc mà là cải biên, chuyển vị từ vô số hệ thống kí hiệu
  • 19. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 19 khác” [17, tr.34]. Kí hiệu về người phụ nữ cần được đặt trong sự đối sánh giữa chất liệu ngôn từ và hình ảnh để khám phá những ý nghĩa mới chứ không phải phán xét về tính trung thành. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là phân tích ý nghĩa của sự trình hiện nhân vật nhân vật nữ trong tác phẩm truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” và phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”, vận dụng các phương pháp phân tích sự trình hiện bằng phương pháp kí hiệu học để phân tích các tầng ý nghĩa. Thông qua đó, người viết đề xuất một cách đọc mới về sự thể hiện nhân vật so với các nghiên cứu trước đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự trình hiện về người phụ nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm điện ảnh được cải biên từ truyện ngắn cùng tên của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình. Phạm vi nghiên cứu là chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động, trạng thái, không gian, màu sắc… là yếu tố để tạo nên sự trình hiện của các nhân vật nữ và tìm hiểu mối tương quan giữa những chi tiết ấy. Dữ liệu nghiên cứu của luận văn là tác phẩm truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” là truyện ngắn cuối cùng trong tập truyện ngắn gồm 14 truyện của tác giả Nguyễn Ngọc Tư, được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2014. Về tác phẩm điện ảnh, tôi chủ yếu dựa vào bản điện ảnh “Cánh đồng bất tận” do Vietnam Studio Mega Media sản xuất, hãng Vietnam Media Corporationphát hành ngày 22 tháng 10 năm 2010. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp cơ bản của luận văn là phương pháp phân tích sự trình hiện nhân vật trong các kiểu loại văn bản của Stuart Hall theo phương pháp kí hiệu học. Phù hợp với đối tượng nghiên cứu là nhân vật trong văn bản văn học và văn bản điện ảnh, các khái niệm công cụ phục vụ cho nghiên cứu này là kí hiệu. Người viết sẽ phân tích mối quan hệ trong hệ thống kí hiệu nội tại của tác phẩm để diễn giải ý nghĩa đối tượng là sự trình hiện về người phụ nữ.
  • 20. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 20 6. Những đóng góp của luận văn Về mặt lí thuyết, luận văn giới thiệu về lí thuyết trình hiện của Stuart Hall với bản chất của sự trình hiện và cách thức để tạo nên sự trình hiện trên các phương tiện truyền thông. Đây là hướng nghiên cứu triển vọng nối kết được hình ảnh văn hóa trên các ấn phẩm truyền thông với văn hóa để khám phá nhiều hơn ý nghĩa trong tác phẩm. Về mặt thực hành, luận văn đóng góp về sự thực hành phương pháp diễn giải trình hiện nhân vật nữ bằng phương pháp phân tích sự trình hiện của Stuart Hall. Bài viết thể hiện các tầng ý nghĩa văn hóa trong cách trình hiện nhân vật nữ từ văn học đến điện ảnh thông qua cách hệ thống và phân tích kí hiệu nghệ thuật đặc thù. Phương pháp phân tích giúp mở rộng thông điệp của văn bản, mở ra nhiều hướng phát triển và cải biên cho các văn bản nguồn là tác phẩm văn chương. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự trình hiện trong các loại văn bản. Đây là chương có ý nghĩa trình bày khái niệm sự trình hiện và những khái niệm công cụ, phương pháp thực hành sự trình hiện của Stuart Hall trong các loại văn bản khác nhau. Người viết trình bày những khái niệm cơ bản trong phân tích điện ảnh. Cơ sở diễn giải ý nghĩa là hệ thống kí hiệu của văn bản. Chương 2: Sự trình hiện nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Đây là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong tác phẩm truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư qua hệ thống kí hiệu nụ cười và nước mắt. Nội dung chương không chỉ tái hiện, sắp xếp, phân loại kí hiệu về những nhân vật nữ mà phân tích để hiểu được ý nghĩa, thông điệp tác giả gửi gắm qua nhân vật. Đồng thời, ý nghĩa tự thân của nhân vật cũng được bộc lộ trong hệ thống tương đồng và đối lập kí hiệu với các nhân vật khác.
  • 21. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 21 Chương 3: Sự trình hiện nhân vật nữ trong phim điện ảnh “Cánh đồng bất tận”. Đây là chương phân tích sự trình hiện về nhân vật nữ trong bản cải biên điện ảnh “Cánh đồng bất tận” của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình qua hệ thống kí hiệu không gian con thuyền và cánh đồng. Nội dung chương miêu tả lại cách hình dung của người đạo diễn, biên kịch và diễn viên về nhân vật người phụ nữ. Đây là bộ phim nặng về tâm lí các cảnh quay nhân vật gắn liền với yếu tố không gian. Khung hình xuất hiện nhân vật nữ đặt trong quan hệ song hành hoặc nối tiếp để khái quát sự phản chiếu ý nghĩa trong tương quan với không gian và các nhân vật khác.
  • 22. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 22 Chương 1: Khái niệm sự trình hiện của Stuart Hall và phương pháp phân tích sự trình hiện trong các loại văn bản 1.1. Khái niệm sự trình hiện 1.1.1. Công cụ phân tích sự trình hiện Sự trình hiện (representation) là khái niệm chủ chốt trong nghiên cứu của văn hóa (cultural studies). Mối quan hệ giữa sự trình hiện với nền văn hóa được làm rõ trong chương 1 và chương 4 của nghiên cứu Representation: Cutural Representation and signifying practices (Sự trình hiện: Trình hiện văn hóa và thực hành biểu đạt) của tác giả người Anh – Stuart Hall. Sự trình hiện là một quá trình tạo nên ý nghĩa và truyền tải những ý nghĩa ấy giữa các thành viên trong một nền văn hóa. Sự trình hiện là một quá trình nối kết ba yếu tố: ngôn ngữ, ý nghĩa và văn hóa. “Sự trình hiện là một phần thiết yếu của quá trình sản xuất và trao đổi ý nghĩa giữa các thành viên của một nền văn hóa. Quá trình ấy bao gồm việc sử dụng ngôn ngữ, kí hiệu và hình ảnh để đại diện hay thể hiện” (Representation is an essential part of the process by which meaning is produce and exchanged between members of a culture. It does involve the use of language, of sign and images which stand for or represent) [34, tr.1]. Sự trình hiện sử dụng chất liệu là ngôn ngữ để gợi nên những khái niệm đã tồn tại trong đầu người bản ngữ. Sự trình hiện nốt kết kinh nghiệm của cá nhân đến những trải nghiệm thực tiễn để nhận thức về thế giới. Văn chương trình hiện đối tượng bằng chất liệu ngôn từ, xâm nhập vào trí tưởng tượng của ta để tạo nên một khái niệm về đối tượng. Điện ảnh khiến ta phải trải nghiệm nhiều thực tại bằng sự kết hợp thính giác, thị giác. Sự trình hiện trên nhiều chất liệu văn bản khiến đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, giàu trải nghiệm, liên tưởng. Dù ta chưa bao giờ gặp được một nhân vật nào giống với tác phẩm văn học hay tác phẩm điện ảnh trong đời thực nhưng ta vẫn có thể đồng cảm, suy nghĩ cùng của họ. Những ấn tượng ấy chính là kết quả của sự trình hiện trên các sáng tác nghệ thuật. Trong thực tế, quá trình ấy diễn ra phức tạp hơn thế, sự trình hiện có thể được lí giải theo ba hướng lí thuyết. Thuyết thứ nhất là thuyết phản ánh – reflective, là khi ta
  • 23. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 23 dùng ngôn ngữ để tái hiện lại một thế giới đã có sẵn, tồn tại khách quan. Thế giới ấy không bị chi phối bởi suy nghĩ chủ quan của con người. Lí thuyết này giống như sự vận hành của chiếc gương phẳng, bất cứ thứ gì được phản chiếu mang tính khách quan và trung thực. Lí thuyết thứ hai là thuyết mục đích– intentional, hướng lí thuyết này không quan tâm đến chất liệu và hình thức tạo nên quá trình mà hướng đến mục đích của người nói, hay người sáng tạo. Cách diễn giải sự trình hiện theo hướng lí thuyết này bị chi phối chủ yếu bởi tính chủ quan tuyệt đối của tác giả, hạn chế khả năng can thiệp vào ý nghĩa của người đọc. Hướng lí thuyết thứ ba là thuyết kiến tạo - contructionist, cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ tạo nên ý nghĩa. Trong nghiên cứu này, tôi lựa chọn theo hướng lí thuyết cấu trúc luận, cũng là hướng nghiên cứu chủ yếu của Stuart Hall trong toàn bộ cuốn sách của ông. Thuyết kiến tạo về sự trình hiện gồm hai mô hình nghiên cứu sự trình hiện là: mô hình theo phương pháp kí hiệu học với đại diện là Ferdinand de Saussure và mô hình diễn ngôn với đại diện là Michel Foucault. Trong công trình nghiên cứu của Hall, ông lựa chọn diễn giải sự trình hiện bằng cả hai mô hình để công chúng có nhiều cơ hội thể hiện cách hiểu của mình về lĩnh vực phân tích khác nhau. Tuy nhiên, trong dung lượng có hạn của nghiên cứu, người viết tập trung vào mô hình thứ nhất của Saussure với nền tảng là nghiên cứu kí hiệu học. 1.1.1.1. Bản chất của sự trình hiện Sự trình hiện được định nghĩa theo “Shorter Oxford English Dictionary” gồm hai cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất, sự trình hiện là sự mô phỏng lại những gì được gợi lên trong tâm trí của người nói – mental representation. Đối tượng được trình hiện có thể rất cụ thể, tồn tại trong thế giới thực, trong khoảng thời gian đang được nhắc đến. Nhưng đối tượng cũng có thể là những điều trừu tượng, mơ hồ, dự đoán. Ở cấp độ thứ hai, sự trình hiện có khả năng đại diện, biểu tượng cho một ý nghĩa cố định nào đó. Sự trình hiện ấy phải được đặt trong không gian văn hóa. Ví dụ, trong một triển lãm nghệ thuật đa quốc gia, chiếc áo dài là biểu tượng cho trang phục truyền thống người phụ nữ Việt Nam. Hay trong trường phổ thông, áo dài trắng là biểu tượng trang phục của nữ sinh.
  • 24. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 24 Sự trình hiện là tất cả những gì được gợi lên bằng hình ảnh, khái niệm trong tâm trí con người khi ta tiếp xúc với một dấu hiệu của vật đó. “Sự trình hiện là quá trình tạo nên ý nghĩa của khái niệm trong tinh thần thông qua ngôn ngữ” (Representation is the produce of the meaning of the concept in our minds through language) [34, tr.2]. Những khái niệm đã tồn tại sẵn trong đầu óc của mỗi cá nhân nên khi nhắc đến những dấu hiệu quen thuộc, ta vẫn nhận ra người đối thoại đang miêu tả điều gì. Trong bài viết, Stuart Hall dùng ví dụ về cái cây. Khi ta nhìn thấy cái cây, khái niệm về cái cây được lưu trữ trong tâm trí ta. Dù sau đó, không nhìn thấy cái cây trong thực tế nữa nhưng khi nhắc đến khái niệm “cây”, trong đầu ta lập tức hiện lên hình ảnh một thực thể có thân gỗ lớn, được bao quanh trên cao bằng những tán lá xòe rộng xung quanh. Tất nhiên, cây trong cuộc sống có rất nhiều loại và không phải cây nào cũng là thân gỗ, có cây thân leo, thân trữ nước, thân mềm… Nhưng trong tâm trí ta sẽ thường hình dung về một cái cây tiêu biểu nhất, đại diện cho tất cả các loại cây. Vậy ấn tượng hiện lên trong đầu ta chính là yếu tố của sự trình hiện. Khái niệm công cụ để phân tích sự trình hiện là kí hiệu (sign). Sự trình hiện là quá trình nối kết các yếu tố khái niệm thuộc một nền văn hóa trong hệ thống kí hiệu để thể hiện một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa của sự trình hiện không phụ thuộc hoàn toàn vào ý niệm của tác giả. Sự trình hiện phải được tạo nên từ những khái niệm về ý nghĩa đã tồn tại trước trong đầu những người bản xứ. Vì thế, sự trình hiện phải được nối kết giữa khái niệm và ngôn ngữ để đại diện cho thế giới khách quan và chủ quan của con người. 1.1.1.2. Khái niệm công cụ phân tích sự trình hiện Kí hiệu là công cụ chủ yếu trong tiến trình phân tích sự trình hiện. Nhưng để tạo nên một hệ thống kí hiệu toàn vẹn và thống nhất, có thể vận hành trong đời sống xã hội thì kí hiệu ấy phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Trong đó, mật thiết nhất để tạo nên một kí hiệu là bản đồ khái niệm (conceptual maps) và ý nghĩa (meanings).
  • 25. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 25  Bản đồ khái niệm Yếu tố đầu tiên là khái niệm (concept), đây là yếu tố sinh ra từ tính chất võ đoán của văn hóa và ngôn ngữ. “Khái niệm được sinh ra trong cấu trúc của tâm trí như một hệ thống trình hiện trong tâm trí với cách sắp đặt và tổ chức thế giới trong ý nghĩa của nó” (The concepts which are formed in the mind function as a system of mental representation which classifies and organizes the word into meaningful categories) [34, tr.14]. Có khái niệm về thế giới, con người mới có thể nói ra những điều có ý nghĩa. Nhưng nó không thể vận hành được nếu thiếu đi phương tiện để giao tiếp với người khác là ngôn ngữ - chất liệu của kí hiệu. Bản đồ khái niệm (conceptual maps) là một “danh sách” tổng hợp những hiểu biết, hình dung của người bản xứ về đối tượng. Đó là sự trình hiện tự nhiên trong tâm trí con người. Mỗi khi tiếp xúc với một đối tượng, sự kiện trong cuộc sống thực, con người thường “dán nhãn” để phân biệt chúng với những đối tượng khác. Và mỗi khi từ ngữ được nhắc lại, hình ảnh về vật thể ấy lại được tái hiện sống động trong tâm trí ta. Sự tích lũy về khái niệm không ngừng tăng lên nhờ trải nghiệm của con người với cuộc sống khách quan. Những thành viên trong cùng một nền văn hóa sẽ có thể giao tiếp với nhau dựa trên sự tương đồng về bản đồ khái niệm ấy. Giới hạn của bản đồ khái niệm không chỉ dừng lại trong đối tượng ở thực tại mà còn thể hiện những điều trừu tượng hay thế giới giả tưởng. Bản đồ khái niệm mang tính cộng đồng, ý nghĩa được thiết lập bằng sự võ đoán của ngôn ngữ. Văn hóa được xác định trong quá trình những thành viên cùng chia sẻ với nhau bản đồ khái niệm trong giao tiếp, sáng tác để truyền tải suy nghĩ, cảm xúc, quan niệm cá nhân.  Kí hiệu Yếu tố thứ hai là kí hiệu (sign). “Kí hiệu được tổ chức trong ngôn ngữ và chính sự hiện hữu của ngôn ngữ chung là điều cho phép chúng ta phiên dịch suy nghĩ (khái niệm) thành từ ngữ, âm thanh hay hình ảnh, sau đó việc sử dụng những yếu tố này, vận hành như một ngôn ngữ, để thể hiện ý nghĩa và truyền đạt suy nghĩ với những người khác.” (Sign are organized into language and it is the existence of common languages which enable us to translate our thoughts (concepts) into words, sounds
  • 26. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 26 or images, and then to use these, operating as a language, to express meanings and communicate thoughts to other people) [34, tr.4]. Kí hiệu là khái niệm công cụ trong nghiên cứu ngôn ngữ học, theo trường phái cấu trúc của nhà ngôn ngữ học Saussure. Trong phân tích sự trình hiện văn hóa, kí hiệu chứa đựng cách hiểu của tất cả cá nhân trong cùng nền văn hóa về một khái niệm nào đó. Kí hiệu có mối quan hệ mật thiết với ngôn ngữ. Trong kí hiệu phải dung hòa cả hai hệ thống nền tảng của sự trình hiện, là nối kết được ba yếu tố: khái niệm, kí hiệu và ý nghĩa. Bản chất của kí hiệu là giá trị nhị nguyên đến từ hai mặt đối lập nhưng không thể tách rời: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Trong bài viết “Về cái biểu đạt và cái được biểu đạt của kí hiệu”, tác giả Nguyễn Thị Minh phân tích khái niệm cái biểu đạt trong kí hiệu học là: “Cái biểu đạt không phải âm vật chất mà là vết tâm lí, biểu tượng mà giác quan cung cấp”. Cái biểu đạt xuất phát trong văn bản, không đơn giản chỉ là kí hiệu chữ viết hay âm đọc mà là “hình ảnh âm học vật chất trong sự suy nghĩ, tưởng tượng của con người, mang yếu tố tâm lí” [15]. Cái biểu đạt không phải là sự sáng tạo mang tính cá nhân mà là quy ước chung được cộng đồng chấp nhận. Do đó, trong sáng tạo nghệ thuật, tác giả có thể tạo nên một cái biểu đạt khác với hình dung của công chúng về đối tượng đó. “Không phải đối tượng có trước quan điểm mà dường như chính quan điểm tạo ra đối tượng” (Saussure) [15]. Nghĩa là, khái niệm của tác giả về hiện tại sẽ khác với hiện tại đó trong hình dung của những người khác. Nên khi tái diễn lại hiện tại là tác giả đang diễn giải khái niệm của hiện tại ấy trong tâm trí mình, từ đó cho ra một kí hiệu hay cái biểu đạt. Trong tác phẩm văn học, thực tại đời sống được khúc xạ qua “đôi mắt” của một cá nhân – tác giả - đã khác biệt rất nhiều so với sự kiện ấy từng diễn ra trong đời sống. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều chịu ảnh hưởng đậm nét về thời đại, phong cách và kinh nghiệm của tác giả. Đặc biệt trong cải biên phim, người sản xuất là một tập thể, những kí hiệu trong văn học được “giải mã” nhiều lần và tạo nên một hệ thống kí hiệu mới. Một điều cần lưu ý trong khái niệm “cái biểu đạt” là “kí hiệu là hình thức, không phải chất liệu” [15]. Khi tiếp xúc với một kí hiệu, chất liệu không phải là yếu tố làm
  • 27. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 27 nên bản chất của đối tượng. Từ văn học đến điện ảnh là chặng đường dài trong chuyển đổi chất liệu vì mỗi thể loại phải tuân thủ những nguyên tắc đặc thù của chính nó. Từ đó, ta không thể đánh giá tác phẩm được thể hiện trên chất liệu nào là hay hơn, vượt trội hơn bản kia mà phải có tính độc lập giữa hai văn bản. Tuy nhiên, ta có thể xem xét kí hiệu trong cách kết cấu bởi đó là phần có sự tương tác mạnh mẽ nhất với nhau dù tác phẩm có được thể hiện bằng bất kì hình thức nào. Bên dưới sự thể hiện một kí hiệu bao giờ cũng là “cách thức theo đó cộng đồng người chia cắt, kiến tạo hiện thực, áp đặt cấu trúc tư duy của mình lên khối hỗn mang, mờ đục, liên tục, vô định hình thể của các thể liên tục âm thanh và tư tưởng” [14]. Điều đó là quy luật tất yếu trong hình thành ngôn ngữ con người, và đối với những nhà nghệ thuật có cá tính, việc kiến tạo lại thế giới hiện thực và tổ chức lại ngôn ngữ lại càng phức tạp và phong phú hơn bao giờ hết. Cho nên, việc bình luận về sự thể hiện kí hiệu trong sự chuyển đổi từ văn bản văn học sang văn bản điện ảnh trong sự hơn thua, khiếm khuyết là không cần thiết. Điều cần tập trung là sự tương tác qua lại giữa các kí hiệu này trong hai môi trường văn bản khác nhau, sự khác biệt và gặp gỡ tạo nên một tác động nghệ thuật khiến người tiếp nhận có được những ấn tượng riêng biệt. “Độ chênh” trong tiếp nhận hay giải mã kí hiệu cũng là sức hút của tác phẩm “cải biên”. Quá trình giao tiếp lại được tiếp tục trong vòng tròn tạo nên ý nghĩa của biểu tượng. Trong bài viết “Những ngộ nhân trong cách hiểu bản chất “kí hiệu” của tác giả “Từ kí hiệu học đến thi pháp học”, tác giả Nguyễn Thị Minh nhận định ra bản chất của kí hiệu, hay chính cái được biểu đạt: “Kí hiệu phải có khả năng gợi ra một cái gì nằm bên ngoài nó, nghĩa là tính đại diện của kí hiệu” [15]. Tác giả đưa ví dụ về hình ảnh những cái lon trong phòng trưng bày, chúng tồn tại trong đầu óc của con người là một kí hiệu, một loại thể. “Bên ngoài kí hiệu không có hiệu thực, mà cái người ta tưởng là hiện thực phải qua trung gian của hệ thống kí hiệu” [15]. Vậy cái lon trong phòng trưng bày không đồng nhất với chiếc lon trong thực tế ta thường sử dụng để đựng nước. Cái lon trong phòng trưng bày không có tác dụng thực tiễn ấy mà chỉ gợi ra cho ta ý nghĩ về lon hay khái niệm về cái lon trong tâm trí.
  • 28. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 28 Cái được biểu đạt của kí hiệu không chỉ đơn thuần là một bảng danh từ được ghép với những sự vật tồn tại trong hiện thực. “Nghĩa sở biểu (connotation) mới đúng là thành phần quan trọng trong cái được biểu đạt của từ” [14]. Trong thực tại khách quan không tồn tại sẵn ngôn ngữ mà được tạo nên qua quá trình phạm trù hóa, khái niệm hóa của một cộng đồng theo thời gian. Saussure quan niệm ngôn ngữ giống như hai mặt của một tờ giấy đối lập và thống nhất với nhau bởi cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Mỗi nhân tố trong hệ thống ngôn ngữ được xác định bằng mối quan hệ của nó đối với những yếu tố còn lại trong cùng hệ thống. Vì thế, cái biểu đạt không tự nhiên sinh ra, không sẵn có trong môi trường tự nhiên mà là sự tư duy của con người. Con người tạo nên cái được biểu đạt bằng cách tư duy nhị nguyên. Con người luôn tìm kiếm sự khác biệt trong những khái niệm và qui chúng vào những lĩnh vực khác nhau. Lúc đầu đó là những quy ước được nhiều người thừa nhận và rồi trở thành một phần như là văn hóa và tập quán. Cái biểu đạt của ngôn ngữ đời sống tồn tại bên trong đầu người bản xứ và thoát ra một cách tự nhiên. Ví dụ, ta hoàn toàn có thể phân biệt được “trăng” và “trắng”, trước khi cả ta liên kết ý nghĩa của nó đến những vật có thật như “trăng” là vật tròn phát sáng trên trời vào buổi tối và “trắng” là màu sắc. Tư duy nhị nguyên giúp ngôn ngữ trở nên hệ thống và ý nghĩa được tạo nên từ những “hệ thống của những khác biệt” (a system of differences). Vậy kí hiệu là quá trình sử dụng ngôn ngữ để thể hiện khái niệm, ý niệm và cảm xúc của cá nhân theo cách khiến cho người khác có thể giải mã được tương tự như cách mà ta thể hiện. Kí hiệu hình thành giá trị cố định của một nền văn hóa và sự độc đáo trong sáng tác nghệ thuật.  Ý nghĩa Yếu tố thứ ba là ý nghĩa (meaning) – “Ý nghĩa được cấu trúc bởi hệ thống sự trình hiện” (Meaning is contructed by the system of representation) [34, tr.7]. Ý nghĩa được kiến tạo bởi ngôn ngữ nhưng không bị giới hạn trong giá trị nhị nguyên của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu chứa đựng cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Quan niệm của Stuart Hall có sự tương đồng và điểm khác biệt với quan niệm
  • 29. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 29 của nhà ngôn ngữ học Saussure, điều này được phát triển trong phần 2.2 “Phê phán mô hình của Saussure” (Critique of Saussure’s mode) [34, tr.34]. Điều thứ nhất, Stuart Hall không tập trung vào việc ngôn ngữ đã chi phối như thế nào trong cách nhìn của con người về thế giới thực tại, mà làm rõ cách mà ngôn ngữ thực hiện điều đó. Làm cách nào ngôn ngữ duy trì được sự gắn kết giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không thay đổi qua thời gian? Đó chính là đưa ngôn ngữ vào sự thực hành – “Ý nghĩa được tạo ra từ sự thực hành, ‘một tác phẩm’, của sự trình hiện. Nó được cấu trúc thông qua quá trình biểu đạt – ý nghĩa – thực hành” (Meaning is produced by the practice, the ‘work’, of representation. It is contructed through signifying – meaning – producing – practices) [34, tr.14]. Sự thực hành ngôn ngữ bằng sản phẩm hữu hình chính là sự trình hiện. Ông không quan tâm đến mối liên hệ gắn kết giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà chỉ quan tâm hai yếu tố ấy đóng góp như thế nào trong sự qui chiếu (reference) – cách ta hiện thực hóa khái niệm về thế giới trong đầu mình thành điều gì đó “thực”. Giống như việc ta chơi trò đoán chữ, từ ngữ nằm trên mảnh giấy là “sách”, ta liên tưởng ngay rằng đó là vật ghi chép kiến thức. Từ ngữ nằm trên giấy và suy nghĩ lập tức hiện lên trong đầu ta là ngôn ngữ. Còn sự trình hiện là cách ta giúp đồng đội của mình cùng nghĩ về khái niệm ấy bằng hình ảnh trực quan. Ta có thể dùng ngôn ngữ để nói ngay “sách”, nhưng thường không ai làm như vậy. Ta có thể làm động tác ghi chép, chỉ vào ngay một chồng sách đặt trên bàn ngay lúc đó và thế là ý nghĩa được truyền đi. Điều thứ hai, Stuart Hall tập trung vào ý nghĩa của sự trình hiện là ngữ cảnh, trong khi Saussure nhấn mạnh đến hình thức hay cách mà ngôn ngữ vận hành. Sự trình hiện khiến ngôn ngữ không còn thông suốt, mạch lạc như cấu trúc mà các nhà ngôn ngữ học đang cố khái quát nó thành ngữ pháp. Ngôn ngữ được thực hành trong hội thoại. Chúng bị chi phối bởi ngữ cảnh, người nói và người nghe. Một vị thế người giao tiếp thay đổi, bối cảnh giao tiếp thay đổi cũng khiến cho ý nghĩa được tạo nên từ sự trình hiện rất khác nhau. Ý nghĩa ấy được liên tục sản sinh và đôi khi vượt qua cả sự tính toán của người tạo ra chúng. Điều này đã khẳng định sự trường tồn của các tác phẩm văn hóa có giá trị. Lý thuyết về tiếp nhận góp phần giải mã về sự sản sinh vô cùng về ý nghĩa của sự trình hiện.
  • 30. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 30 Ý nghĩa của sự trình hiện là điều vượt lên cả cái được biểu đạt của ngôn ngữ. Cái biểu đạt được tạo nên từ quy ước của xã hội. Ý nghĩa của sự trình hiện phát triển từ những ước lệ ấy nhưng có sự mở rộng, sáng tạo của người nghệ sĩ. Ý nghĩa ngày càng mở rộng khi sản phẩm trình hiện trải qua sự tiếp nhận và giải mã của cá nhân. Cuối cùng, khi sự diễn giải đạt đến cao trào, có tính lặp lại và phổ biến, ý nghĩa trở thành biểu tượng, định hình tư duy của con người. 1.1.2. Quá trình tạo nên sự trình hiện Stuart Hall đã chia quá trình trình hiện hóa một khái niệm thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là tập hợp tất cả sự trình hiện vật lí mà mỗi cá nhân hình thành trong đầu. Ta tập hợp tất cả những thông tin, ý niệm được định sẵn cho vật đó trong tâm trí như một hệ thống có trật tự và dễ triển khai nhất. Giai đoạn hai là liên kết khái niệm với hình thức và cấu trúc kí hiệu phù hợp, làm sống dậy những khái niệm ấy trong môi trường văn hóa cụ thể. Trong quá trình giao tiếp xã hội, con người không ngừng bổ sung vào “bản đồ khái niệm” của mình những hình ảnh gắn với khái niệm mới (có thể là những khái niệm mang tính cá nhân hóa) từ đời sống thực. Những khái niệm và hình thức của ngôn ngữ được dung nạp trong tâm trí mỗi người là khác nhau, vậy câu hỏi đặt ra là khi ta thể hiện khái niệm đó ra bên ngoài một lần nữa thì cơ sở nào giúp những người khác cùng hiểu giống như ta? Sự di chuyển kí hiệu từ cá nhân này đến cá nhân khác đã đòi hỏi một thách thức lớn, và xa hơn nữa là sự chia sẻ trong một cộng đồng với hàng triệu cá nhân. Vai trò của sự giải mã cần được nhấn mạnh trong quá trình hoàn tất sự trình hiện. Quá trình này không kiến tạo nên sự trình hiện nhưng là quan trọng để diễn giải mối yếu tố trong đó. Những người cùng dùng chung một ngôn ngữ cùng nhau chia sẻ một “bản đồ khái niệm” (conceptal maps). Đó là lí do khi học ngôn ngữ nước ngoài, ta không chỉ học cách vận hành của nó trong ngữ pháp và từ vựng mà còn phải học cả văn hóa để hiểu sâu hơn kí hiệu trong nền văn hóa của người bản địa.
  • 31. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 31 1.1.2.1. Thực hành sự trình hiện trên các loại văn bản  Văn bản báo chí và quảng cáo Hình 1.1: Hình ảnh vận động viên da đen đầu tiên nhận huy chương Vàng Thế vận hội năm 1988, nguồn: trang bìa báo Sunday Times, nguồn: Sunday Times, số ra ngày 9 tháng 10 năm 1988 Trong chương 4 “The spectacle of ‘the Other’”, Stuart Hall đã trình bày về cách phân tích sự trình hiện về người da đen trong những văn bản phi hư cấu là báo chí và quảng cáo. Đối tượng người da đen thường bị những người da trắng nhìn nhận với chiều hướng tiêu cực. Vì thế, khi người da trắng thể hiện khái niệm ‘người da đen’ trên các ấn phẩm văn hóa thường mang yếu tố bài trừ, chế giễu và kì thị sắc tộc. Tác giả đã sử dụng những kí hiệu được lặp lại trong thời gian dài mà các ấn phẩm được phát hành. Tác giả phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố kí hiệu để thể hiện một ý nghĩa trọn vẹn về người da đen. Ví dụ Stuart Hall đưa ra là tiêu đề và hình ảnh của một bài báo về thế vận hội Olympic năm 1998. Ảnh chụp một người đàn ông da màu chiến thắng khi vượt qua vạch đích trên đường đua điền kinh với dòng chữ “Người anh hùng và kẻ gian lận?” (Heroes and Villians?). Từ đó ông phân tích ý nghĩa của sự trình hiện khi kết hợp hình ảnh của vận động viên da đen với dòng chữ đính kèm. Trong xã hội phương Tây thời điểm xuất bản tờ báo đó,
  • 32. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 32 người da đen vẫn đang bị xem là người có vị thế thấp kém trong xã hội. Chiến thắng của vận động viên điền kinh da màu là bước ngoặt lịch sử khi khả năng của họ được công nhận. Vận động viên Ben Jonhson đã giành huy chương vàng đầu tiên cho người da màu trong lịch sử tham gia thi đấu thể thao Olympic. Thế nhưng, dòng chữ đính kèm khiến người xem bị cố định vào suy nghĩ tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Kì thế vận hội ấy được gọi là “Chemiscal Olympic” (Kì vận hội của hóa chất) khi nhiều vận động viên đã dùng chất kích thích để chiến thắng. Với tiêu đề như thế, nhiều người đọc sẽ tiếp nhận sự trình hiện về người da đen theo hai chiều hướng. Hoặc anh ta là một anh hùng thực sự, hoặc anh ta là người gian lận để có được chiến thắng. Và dường như cả người viết cũng đang ngụ ý nghi ngờ về chiến thắng ấy khi đặt tiêu đề như thế cùng hình ảnh chiến thắng của vận động viên người da màu. Hình 1.2: Mẫu quảng cáo xà phòng Pears vào thập niên 80 – 90 của thế kỉ XX, nguồn: http://www.jenniferhallock.com/tag/white-mans-burden/ Cách hiểu ấy được tạo ra không phải chỉ là quan niệm của một cá nhân mà đó là sự tích lũy nhận thức từ các sự trình hiện khác trong một thời gian dài. Từ thế kỉ XVII
  • 33. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 33 đến XX, khi người châu Âu tiến hành các cuộc viễn chinh khám phá thế giới và xâm lược thuộc địa, họ đã đến châu Phi và bắt rất nhiều người ở đó làm nô lệ. Và từ đó các ấn phẩm văn hóa bắt đầu xuất hiện người da đen. Mẫu quảng cáo xà phòng của hãng Pear có hai mặt. Xà phòng lần đầu tiên được bán ở thị trường châu Phi và được xem là một vật “thần thánh” có chức năng thanh tẩy và mang lại sự tinh khiết (hơn là các hình thức vệ sinh trước đó người da đen sử dụng). Mặt trước in hình một người đàn ông da trắng đang chế tác xà phòng và dưới góc bên phải là hình ảnh người da đen đang quỳ và nâng hai tay nhận lấy một món quà từ người da trắng đội nón và mặc áo khoác dài. Mặt sau là hai hình ảnh về cô bé da trắng mang tạp dề và chăm sóc tắm rửa và chơi cùng một em bé da đen. Tấm quảng cáo ấy, nếu xét đơn giản về mặt chất liệu thì chỉ là những hình ảnh khuyến khích người da đen hãy sử dụng xà phòng để tắm rửa. Nhưng còn về ý nghĩa, nó hàm chứa định kiến về sắc tộc. Thực tế, người da trắng chỉ xem người da đen là người làm thuê, là công cụ hay một hàng hóa. Nhưng trên mẫu quảng cáo của mình họ lại nói “The white man’s burden” (Gánh nặng của người da trắng) và hình ảnh chăm sóc em bé da đen như một sứ mệnh của họ. Người châu Âu đã mang khái niệm khai hóa đến châu Phi và áp đặt nền văn hóa của mình là sự văn minh vượt trội. Trong nhiều thế kỉ, người da trắng luôn có khái niệm về người da đen là man rợ, lạc hậu và cần sự dẫn dắt của người da trắng. Những quảng cáo này có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách thức trình hiện người da đen trong các sản phẩm của người da trắng thời gian dài. Người da đen đã bị ép vào những khuôn mẫu diễn ngôn cứng nhắc và khác hẳn hoàn toàn với bản chất của họ trong thực tế. Người da đen luôn phải chịu sự ban ơn của người da trắng và việc tẩy rửa màu da của họ để trắng sáng lên là một cách thức giúp họ hòa nhập với cuộc sống văn minh thay vì cuộc sống man rợ, phóng túng và hoang dại. Cách thức tạo nên sự trình hiện cũng là cách con người áp đặt quyền lực của mình lên một biểu tượng nào đó. Stuart Hall đã dẫn ra những ý niệm cộng đồng khác nhau trong nguồn thông tin mà ta tiếp nhận hằng ngày. Đặc biệt là về vấn đề người da đen, sự trình hiện không tương đồng với bản chất của họ. Sự trình hiện ấy khiến ta có tư kiến, thậm chí là nhận định sai lầm khi tiếp xúc với người da đen trong thực tế. Thế nhưng, ý nghĩa không bao giờ là cố định và đi đến diễn giải cuối cùng. Cách
  • 34. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 34 thức trình hiện khái niệm trở nên thật phong phú và tạo thành một quá trình riêng, không phụ thuộc hoàn toàn vào người sáng tạo nên chúng.  Văn bản điện ảnh Stuart Hall đã phân tích sự trình hiện của các nhân vật da đen trên phim ảnh của Mỹ vào những thập niên 80 – 90 của thế kỉ XX. Sự trình hiện nhân vật người da đen trong những phim điện ảnh Mỹ vào năm mươi thập kỉ sau của thế kỉ XX mang tính điển hình cao. Những kí hiệu được lặp lại và giới phê bình lấy đó là cơ sở phân tích đặc trưng văn hóa của người da đen. Stuart Hall phân biệt sự trình hiện người da đen bằng những kí hiệu được lặp lại trong các ấn phẩm điện ảnh. Ông thống kê, phân chia các kiểu nhân vật người da đen có sự tương đồng với nhau thành một nhóm để tìm ra sự thống nhất trong ý nghĩa văn hóa về trình hiện người da đen. Sự thống nhất trong cách thức trình hiện tạo thành ý nghĩa về người da đen. Từ đó, dấu vết tâm lí được sinh ra khi người ta nghĩ về người da đen hay đánh giá về những người da đen trong thực tế. Sau cuộc nội chiến ở nước Mĩ, người da đen được giải phóng khỏi những đồn điền, công xưởng của người da trắng. Trong thực tế, người da đen có được tự do hơn, nhưng trên phim ảnh thì họ không được như thế. Người da đen thường xuất hiện trong các ấn phẩm truyền thông như tranh vẽ, quảng cáo, tờ rơi dưới ánh nhìn thương cảm hay khinh miệt của người da trắng. Và ngay cả sau nội chiến giải phóng cuộc sống nô lệ cho người da đen thì họ vẫn được trình hiện không đúng với bản chất của họ. Những người da đen được xem là "hạnh phúc" khi họ trình diễn những trò tiêu khiển cho người khác, phải làm trò hề suốt ngày, và họ rất hợp với công việc kể chuyện phiếm. Văn hóa của người da đen gắn liền với tính nguyên sơ trong văn hóa và tính chất đen tự nhiên. Những thuộc tính ấy được xem là bản chất của người da đen. Trong bài giảng "Representation and the Media - part 1", ông đã trình bày những trình hiện tiêu biểu về người da đen được xây dựng bởi những nhà đạo diễn da trắng. Những người da đen thường được đặt trong vai trò những người phục vụ, ở vị trí thấp kém. Họ nói ngọng, mắt trợn trừng, nói chuyện tục một cách rất thuần thục và bước đi phải giống như đang lướt. Giá trị của người da đen bị quyết định là "thấp kém" hay "cao quý" phụ thuộc vào gia đình người da trắng mà họ phục vụ.
  • 35. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 35 trong phim “Uncle's Tom Cabin" trình hiện nhân vật người vú nuôi là người da đen và những người làm công khác. Bộ phim được Hollywood thực hiện và công chiếu năm 1987. Đây là một bộ phim cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của Harriet Beecher Stowe. Người vú nuôi da đen được trình hiện là một người da đen có những tính chất như là người phụ nữ tần tảo, luôn gắn bó với gian bếp, chịu nhiều thiệt thòi. Bà nhận được sự thương cảm từ mọi người vì là người ở tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Nhân vật Remus cũng là người da đen nhưng anh ta tạo ra ấn tượng về sự giải trí thấp kém. Anh ta diễn trò hát rong, nhảy nhót và đùa nghịch, dùng những mánh khóe lừa đảo xảo trá để tránh phải lao động nặng nhọc. Staurl Hall kết luận về đặc điểm sự trình hiện người da đen từ những bộ phim nổi bật về người da đen là sự lười biếng, lòng trung thành mù quáng, đầu óc "chậm phát triển", lừa đảo, tính cách trẻ con được xem là tiêu biểu của người da đen. Stuart Hall đã rút ra kết luận trong sự phát triển trình hiện của người da đen trong các bộ phim và năm bài viết nghiên cứu và phê bình từ những năm 1973 đến 1978 là bản chất của họ luôn bị bóp méo để tạo nên cảm xúc đáng thương hay xem thường nơi người xem. Họ luôn trình hiện trong sự đối lập với những người da trắng. Người da trắng là những người ban ơn, mang đến hạnh phúc về vật chất cho người da đen. Người da trắng luôn nghiêm túc và được trình hiện với phẩm chất tốt đẹp, còn người da màu đôi khi là sự tham lam, quá khích, dễ nóng nảy. Những người da trắng sỡ hữu những nô lệ da đen thường luôn áp đặt nhiều luật lệ lên họ để buộc họ phải có trách nhiệm với chủ nhân, và thậm chí là đối xử với họ nghiêm khắc như những đứa trẻ. Sự trình hiện về người da đen lặp lại những yếu tố mà ông gọi là "cấu trúc của sự trình hiện". Những hình ảnh trong thời kì ấy về người da đen trẻ tuổi là những kẻ "thấp hèn", "lạm dụng chất kích thích", tính cách "đỏng đảnh"... Thông điệp tác giả Stuart Hall thể hiện trong nghiên cứu về sự trình hiện người da đen trong phim điện ảnh là sự phá bỏ lối suy nghĩ phiến diện khi chưa hiểu rõ bản chất của đối tượng ấy. Mọi nền văn hóa đều có bản sắc riêng đáng được trân trọng. Ở phần cuối chương 4 “The spectacle of ‘the Other”, tác giả phân tích bối cảnh văn hóa tạo nên bản sắc riêng của người da đen, như văn hóa phồn thực, ý thức hệ, truyền thống văn hóa. Tóm lại, để phân tích sự thực hành quá trình trình hiện nhân
  • 36. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 36 vật trong văn bản điện ảnh, tác giả đã sử dụng mô hình của Saussure trong việc phân tích, sắp xếp các kiểu mẫu giống nhau và tìm kiếm sự vận hành của chúng bằng các thao tác: tìm bản chất, đơn giản hóa, phân tích bối cảnh và đối lập nhị nguyên.  Văn bản văn học Phương pháp diễn giải sự trình hiện thông qua hệ thống kí hiệu trong văn học không được Stuart Hall đề cập trong nghiên cứu. Tuy nhiên, người viết phân tích một ví dụ trong trình hiện văn học để làm rõ cách thức vận hành tạo nên ý nghĩa của kí hiệu. Ngôn từ là chất liệu cơ bản của văn học. Nền tảng của ngôn từ cũng chính là ngôn ngữ đời sống. Tác giả sáng tác phải có sẵn trong một bản đồ khái niệm chung phụ thuộc vào nền văn hóa mà tác giả sinh sống. Trình hiện đối tượng nghệ thuật là vận dụng những khái niệm có sẵn ấy để tạo nên điều gì đó mâu thuẫn với khái niệm của người đọc. Trong sự đối thoại và lí giải những kí hiệu mới, ý nghĩa được tạo ra. Cùng là kí hiệu "bướm" và "hoa" trong những hệ thống kí hiệu khác nhau sẽ tạo nên những ý nghĩa khác nhau. Trong thực hành ngôn ngữ đời thường, bướm và hoa là hình ảnh của thiên nhiên tươi đẹp, của khu vườn tràn ngập hương sắc. Trong văn học dân gian, kí hiệu "bướm và hoa" thể hiện cho tình yêu nam nữ phù phiếm, dễ tan vỡ: "Bướm vàng đậu đọt mù u/ Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn" (Ca dao). Trong văn học viết, hình ảnh "bướm và hoa" mang sắc thái nghĩa tiêu cực trong tình yêu: "Thiếp như hoa đã lìa cành/ Chàng như con bướm lượn vành mà chơi" (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Hình ảnh "hoa" là kí hiệu truyền thống thể hiện người phụ nữ đẹp nhưng trắc trở trong tình duyên. Hình ảnh "bướm" là những người đàn ông quen thói trăng hoa, trong tình yêu không chung thủy. Trong Thơ Mới, kí hiệu "bướm" và "hoa" được sáng tạo thêm nét nghĩa mới trong "Tương tư" của Nguyễn Bính: "Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau". Kí hiệu "bướm" và "hoa" không còn mang ý nghĩa về tình yêu phù phiếm mà đã trở thành một mối tình đẹp đầy nhớ mong, xao xuyến. Đây là kiểu mối tình đáng mơ ước với thế hệ thanh niên lúc bấy giờ. Nét nghĩa mới được sáng tạo trong kí hiệu bởi mối quan hệ của nó với các yếu tố khác cùng hệ thống. Ý nghĩa của "bướm" và "hoa" khi đặt song hành cùng kí hiệu "bến" và "đò" mang nét nghĩa liên
  • 37. DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 37 tưởng về tình yêu thủy chung. lí tưởng. Nét nghĩa tiêu cực đã biến mất và ý nghĩa mới về tình yêu được định nghĩa lại trong tác phẩm văn học. Bằng phương pháp phân tích sự trình hiện kí hiệu văn học, người viết thực hiện các thao tác tương tự như Stuart Hall dùng phân tích ý nghĩa về trình hiện người da đen. Các thao tác gồm có: hệ thống các tác phẩm có xuất hiện kí hiệu, phân loại và xác định ý nghĩa của từng nhóm kí hiệu. Sau đó, người viết kết luận về những tầng ý nghĩa tồn tại xung quanh kí hiệu “bướm” và “hoa”, đối chiếu với bản chất của đối tượng trong thực tế và quan niệm truyền thống về kí hiệu. Ý nghĩa mới được tạo nên trong sự thực hành với giá trị biểu đạt phong phú, không bị áp đặt bởi quan niệm truyền thống. 1.1.2.2. Vai trò của sự trình hiện Sự trình hiện ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Từ bản tin thời sự đến sáng tác nghệ thuật, mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày, đều có sự sắp đặt trình hiện của người tạo ra chúng. Các tác giả trình hiện một khái niệm nào đó trong đầu óc của họ bằng các hình ảnh, đoạn nhạc, đoạn phim… để tác động đến nhận thức và cách hiểu của người khác. Xã hội không thể vận hành tốt khi mỗi cá nhân đều có những bảng mã văn hóa riêng vì khi giao tiếp họ không thể hiểu được khái niệm mà người khác đang muốn truyền tải. Chính vì thế, sự trình hiện có tính ổn định sẽ tạo nên cách hiểu tương tự nhau của các cá nhân trong cùng một nền văn hóa. Sự trình hiện giải thoát khái niệm trong đầu tác giả thành những yếu tố trực quan có thể tri nhận được như hình ảnh, âm thanh, đoạn phim… và khi đến với người xem, họ sẽ giải mã những kí hiệu ấy để tạo nên thế giới khái niệm của riêng mình. Khái niệm mới được sản sinh không đối nghịch hay quá khác biệt với khái niệm xuất phát từ tác giả mà sẽ được phát triển dựa trên cơ sở tương đồng văn hóa giữa tác giả và người tiếp nhận. Sự trình hiện giúp xã hội vận hành và không ngừng sáng tạo. Ngôn ngữ giúp sự trình hiện được thực hành và ý nghĩa được truyền tải đến các cá nhân. Mỗi ngày, chúng ta đều tiếp xúc với những hệ thống trình hiện khác nhau vì mỗi lĩnh vực đời sống đều có một ngôn ngữ riêng. Trong ngành thời trang, quần áo, phụ kiện là ngôn