SlideShare a Scribd company logo
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO PHÚ NGHĨA
NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG “LÀM ĐĨ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ “XÓM RÁ” CỦA NGỌC GIAO
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Vũ Thị Trang
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung trong luận văn này hoàn toàn được hình thành và
phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Vũ Thị Trang. Các trích dẫn rõ ràng, các dữ liệu, kết quả nghiên cứu trong luận
văn là trung thực.
Tác giả
Đào Phú Nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG ............................................................................................................7
Chương 1. TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN
NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX ..7
1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam.........................................7
1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX..........................14
Chương 2. NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNGVÀ XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN
HÓA XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI ............................................................................21
2.1. Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng nhìn từ không gian
văn hóa xã hội đương thời....................................................................................21
2.2. Nhân vật gái điếm trong Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa
xã hội đương thời .................................................................................................34
Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬTGÁI
ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNGVA XÓM RÁ CỦA
NGỌC GIAO........................................................................................................52
3.1. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng
Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao .......................................................................52
3.2. Vấn đề giao thoa thể loại phóng sự - tiểu thuyết ..........................................63
KẾT LUẬN..........................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................73
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa, trong xã hội Việt Nam, người phụ nữ luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt
thòi với quan niệm phong kiến: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Trong các tài
liệu sử học, văn hóa học cũng như văn học, rất nhiều công trình, tác phẩm thể hiện rõ
vấn đề này, thậm chí đến ngày hôm nay người phụ nữ cũng chưa thể có được một vị trí
và sự bình đẳng với nam giới. Sự xuất hiện của thực dân Pháp ở nước ta cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, xã hội chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ, “cũ mới tranh nhau, Á
Âu xáo trộn”, dẫn đến sự xuất hiện của một bộ phận những cô gái bán dâm để tồn tại.
Vào đầu thế kỉ XX, ở nước ta vấn đề đó thực sự là một vấn nạn được ghi lại trong
nhiều tài liệu nói chung cũng như trong văn học nói riêng. Hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ
Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao đều nói về cuộc đời, số phận của những người
phụ nữ không chỉ đớn đau về thân xác mà quan trọng hơn họ phải gánh chịu nỗi đau về
tinh thần. Về thân xác họ bị hành hạ, bị hãm hiếp đến bầm dập. Về tinh thần, họ bị tha
hóa, biến chất: từ chỗ là những cô gái ngây thơ, trong sáng để rồi phải ê chề, nhục nhã
chịu cảnh gái điếm. Trong cảnh đời gái điếm, họ luôn luôn bị dày vò, muốn quẫy đạp,
bứt phá khỏi hoàn cảnh nhưng dòng đời xô đẩy khiến họ rơi vào bi kịch không lối
thoát. Điều đó khiến độc giả luôn trăn trở, day dứt, cảm thương. Hiện tượng gái điếm
không chỉ có tính thời sự đối với xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX mà mãi là
nỗi đau, sự nghiệt ngã trong xã hội hôm nay và có lẽ là cả mai sau. Tìm hiểu nhân vật
gái điếm không những cho ta hiểu hơn về hiện thực xã hội cũ, hiểu hơn về giá trị nhân
văn sâu sắc của văn học thời kỳ này mà còn giúp ta phải nhìn nhận lại, phải băn khoăn,
day dứt, trăn trở. Cũng qua đó gióng lên hồi chuông khiến ta phải giật mình, thảng thốt,
đó là sự méo mó về nhân cách con người, sự suy đồi, xuống cấp một cách trầm trọng
về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong xã hội ngày nay.
Nhân vật gái điếm thực ra đã xuất hiện trong văn học trung đại với tên gọi khác
là kĩ nữ trong những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Long thành cầm gia
2
ca, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ... Tuy nhiên, trong văn học giai đoạn đó, người
ta mới chỉ quan tâm đến những anh hùng liệt nữ chứ không mấy quan tâm đến những
nhân vật được cho là “bên lề” như vậy. Đầu thế kỉ XX, cũng có những sáng tác về vấn
đề này nhưng cũng không có nhiều những công trình nghiên cứu về nhân vật gái điếm.
Thực ra, về bản chất triết học của cuộc sống, có lẽ hiện tượng/nhân vật này sẽ tồn tại
muôn đời cùng với nhu cầu của con người. Xã hội càng hiện đại, con người dần có cái
nhìn bớt khắc nghiệt hơn và càng ngày càng khẳng định sự tồn tại của ngành công
nghiệp mại dâm với những cơ chế quản lý cụ thể. Vì vậy, cần có nhiều hơn nữa những
công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Lựa chọn đề tài nghiên cứu Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng
Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao chúng tôi hi vọng hiểu hơn về nhóm nhân vật/con
người này cũng như mong muốn tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội văn hóa đầu thế kỉ
XX qua hai tác phẩm văn học nổi tiếng của hai nhà văn tài hoa. Từ đó có những nắm
bắt về hiện tượng được miêu tả cũng như giá trị nhân văn và nghệ thuật của hai tác
phẩm. Đồng thời góp phần nhìn nhận lại số phận của những con người chịu nhiều thiệt
thòi trong cuộc sống, bước đầu lí giải hoàn cảnh dẫn đến bước đường bán thân của
những cô gái từ góc nhìn văn học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về đề tài kĩ nữ, gái đĩ, gái điếm không phải là đề tài mới. Trong
công trình Bàn về Truyện Kiều trích trong cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa
đầu thế kỷ XVIII, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, do Đình Gia Khánh chủ biên, Đặng
Thai Mai cũng nhấn mạnh số phận của nhân vật Thúy Kiều: “Qua tập truyện của
Nguyễn Du, người ta thấy những cảnh đáng thương nhất trong xã hội phong kiến:… cô
thiếu nữ bị mua về bán đi trên thị trường thương mại. Bị đày đọa trong chốn thanh lâu,
hy sinh cho thú tính của một hạng người ích kỷ, đi làm nô tỳ dưới một chế độ bán nô
lệ. Kiều chính là hiện thân của một giai nhân, một thiên tài bị đày đọa qua những cảnh
sống éo le, đau đớn” [16, tr. 49]. Hay Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ
3
chữ Hán Nguyễn Du, tác giả Lê Thu Yến cũng đã đề cập đến thân phận những người ca
nữ tài sắc nhưng số phận thật nghiệt ngã, bi thương: “Hình tượng con người đau khổ
còn là hình ảnh những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh. Họ dù là hạng người nào:
một bà phi, một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết
sức trân trọng” [56, tr. 68]. Cũng trong luận án này, tác giả Lê Thu Yến còn nhấn
mạnh: “Nguyễn Du đặc biệt thương cảm đối với những người phụ nữ tài hoa nhưng bất
hạnh. Tất cả họ đều là người có tài, có sắc, nức tiếng một thời. Đó là nàng Tiểu Thanh,
người ca nữ đất La Thành, người hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành… Thời
tuổi trẻ các nàng tài sắc không thua kém ai… nhưng rồi người ca nữ đất La Thành chết
trẻ, Tiểu Thanh oan thác, người hầu cũ của em tàn tạ, rách nát, cô Cầm tiều tụy, xác
xơ… Hình ảnh ấy gây một mối thương tâm lớn lao trong Nguyễn Du. Những con
người tài hoa không dễ dàng tồn tại một cách bình yên trong cuộc đời” [56, tr. 70].
Lâm Khang trong Những bi kịch của ả đào xưa đã viết thật xúc động: “Các cô đào, dù
hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà,
giấu đi cái hành trang một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống
mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con
cái các đào kép một thời lừng lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu
sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào,
người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho
phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách - khách bỏ về Tàu,
lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”. Các ca nữ thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm
sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước
chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để
độ nhật. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của
mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, có bà không dám nói hay nhận
mình là cô đầu...”. Kỹ nữ sử (Lịch sử kỹ nữ) của Từ Quân và Dương Hải là một tác
phẩm nghiên cứu về nghề kỹ nữ ở Trung Hoa. Mặc dù các dẫn chứng trong tác phẩm
4
chủ yếu lấy từ lịch sử Trung Hoa song tác phẩm vẫn có giá trị tổng kết chung nhất
định. Tác phẩm nói về lịch sử kỹ nữ ở Trung Hoa, không phải ở Việt Nam. Nhưng với
sự tương đồng về mặt văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa thời phong kiến, ta có thể
tưởng tượng được phần nào cuộc sống của kỹ nữ Việt Nam ngày xưa. Số phận người
phụ nữ nói chung và người kỹ nữ nói riêng ở nơi nào, giai đoạn nào cũng đều đáng
thương như nhau.
Điểm qua những ý kiến ở trên, có thể thấy rõ đề tài kỹ nữ trong văn học trung
đại đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu. Và đề tài ấy tiếp tục được nghiên cứu và đi
vào trong các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX. Chẳng hạn, Khái Hưng và Nhất Linh đã
xuất bản cuốn Đời mưa gió hay Nguyên Hồng với Bỉ vỏ. Các tác phẩm này, lâu nay
vẫn được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm. Đã có biết bao công trình nghiên
cứu, biết bao giấy mực đề cập đến những nội dung của những tác phẩm này. Và trong
những năm gần đây, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Hoàng Yến với đề tài Hình
ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam đã để lại ấn tượng sâu sắc với người
đọc. Trong luận văn tác giả viết: “Người kỹ nữ vẫn bị xem là hạng người dưới đáy xã
hội, bị toàn xã hội coi thường và tước đoạt quyền sống, quyền làm một con người bình
thường, quyền hạnh phúc. Vậy mà, người kỹ nữ chưa bao giờ để cho khát vọng của
mình bị dập tắt bởi bất cứ thế lực nào. Họ luôn tìm mọi con đường để giải thoát mình
và hướng tới một cuộc sống hạnh phúc. Từ những người ca nữ chưa được thể hiện sâu
sắc trong những tác phẩm thuộc thời kỳ đầu của văn học trung đại, cho đến những kỹ
nữ được mô tả một cách sinh động với đầy đủ mọi cung bậc tâm trạng, tích cách, số
phận ở giai đoạn sau, tất cả đều là những con người luôn khát khao hạnh phúc và có ý
thức về bản thân rất cao trên con đường đi tìm hạnh phúc”[57, tr. 97]. Trong dòng chảy
đó, người viết góp thêm một tiếng nói, một suy nghĩ, một cái nhìn qua luận văn Nhân
vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Những
công trình nghiên cứu đi trước chính là tiền đề để người viết tham khảo, lựa chọn và
5
thực hiện đề tài. Hy vọng luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói về một vấn đề không
kém phần nhạy cảm và có tính thời sự trong xã hội ngày nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của
Ngọc Giao, luận văn nhằm phân tích hình ảnh nhân vật gái điếm được thể hiện trong
hai tác phẩm. Luận văn sẽ đi sâu vào phân tích đặc điểm tính cách nhân vật và đặc biệt
là số phận của những con người này. Trong quá trình phân tích, ta sẽ cảm nhận được
những ngóc ngách tình cảm, nội tâm, những nỗi đau, tủi nhục, ê chề và những khát
khao của những thân phận yếu đuối, mỏng manh, bất hạnh. Từ đó sẽ cho ta thấy rõ hơn
về hiện thực xã hội, tình cảm, thái độ của nhà văn đối với lớp người này. Đó cũng là
giá trị hiện thực và giá trị nhân văn cao cả mà các tác phẩm hướng tới.
Bên cạnh đó, luận văn làm rõ nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua ngoại
hình, hành động, ngôn ngữ, giọng điệu; đặc biệt là vấn đề giao thoa thể loại tiểu thuyết
- phóng sự với tính chân thực, tính thời sự, chất tiểu thuyết tâm lí - luận đề, thời gian và
không gian nghệ thuật trong hai tác phẩm. Từ đó thấy được tài năng của hai nhà văn
Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhân vật gái điếm – từ đó để tìm ra cái
hay trong cách xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao.
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng
Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao trong tương quan mở rộng với các sáng tác khác của
hai nhà văn này và các sáng tác khác của các nhà văn có cùng về chủ đề này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp
nghiên cứu loại hình, văn hóa – lịch sử, liên ngành, phê bình phân tâm học, lí thuyết thi
pháp học và tự sự học...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6
Về mặt lý luận, luận văn góp một cái nhìn về cách xây dựng nhân vật gái điếm
trong hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Luận văn
đã thể hiện nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình tiết; nghệ thuật xây dựng nhân vật...
Từ đó giúp ta có thể khái quát về cách xây dựng loại hình nhân vật này nói chung.
Về mặt thực tiễn, luận văn giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử văn hóa giai đoạn
này, hiểu hơn về thân phận người phụ nữ nói chung và nhân vật gái điếm nói riêng
trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo về các chủ đề liên quan, làm tài liệu cho giảng dạy tác phẩm trong chương trình
phổ thông…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận
văn chia làm ba chương:
Chương 1: Từ hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại đến nhân vật gái điếm
trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX
Chương 2: Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của
Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời
Chương 3: Một số vấn đề về nghệ thuật thể hiện nhân vật gái điếm trong Làm đĩ
của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao
7
NỘI DUNG
Chương 1
TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN NHÂN VẬT
GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại phản ánh chân thực xã hội phong kiến Việt Nam. Đây là một
thời kì đầy biến động mà qua văn chương ta có thể thấy được bối cảnh lịch sử thời ấy.
Từ vận mệnh đất nước, dân tộc đến những nỗi niềm của người dân trong cuộc sống
hằng ngày đều được phản ánh trong văn học. Trong đó, có cả chất hào sảng của hào khí
Đông A trong thời Lý Trần với tinh thần quyết chiến, quyết thắng chống lại kẻ thù của
dân tộc, có cả tiếng nói đau thương, bi ai, thống thiết cho số kiếp của những con người
“thấp cổ bé họng” trong xã hội thế kỉ XVIII – XIX. Hiện thực được phản ánh chủ yếu
trong tác phẩm chính là những mặt trái của xã hội. Đó là Chuyện người con gái Nam
Xương của Nguyễn Dữ với bộ mặt xấu xa, vô nhân đạo của xã hội phong kiến dưới chế
độ nam quyền, là sự rối ren, chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra bao bất hạnh cho
con người. Đó là Vũ trung tùy bút của Phạm Hổ phản ánh cuộc sống xa hoa của tầng
lớp vua chúa, sự nhũng nhiễu của bọn quan lại Lê - Trịnh. Đó là Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô gia văn phái tái hiện sự hỗn loạn của xã hội phong kiến thông qua số phận
bi thảm, bộ mặt hèn nhát của lũ vua quan bán nước, hại dân. Chất nhân văn luôn thấm
đẫm từng trang viết trong các tác phẩm văn chương. Bởi vậy, cất tiếng nói để ca ngợi,
để thông cảm với con người là nội dung ta dễ dàng nhận thấy trong văn học trung đại.
Đặc biệt là số phận người phụ nữ - những con người luôn phải chịu thiệt thòi, bất hạnh.
Đó là số phận oan trái, bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
của Nguyễn Dữ. Đó là số phận chìm nổi của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Trong Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã rất nhiều lần nói về sự bất hạnh của
những con người tài sắc: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai
đâu?”; “Phận sao bạc chẳng vừa thôi/ Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan”;
8
“Đầu xanh có tội tình gì/ Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”. Đúng là “hồng nhan bạc
phận”, “hồng nhan đa truân”. Người đẹp, đặc biệt là người tài sắc hay gánh chịu một số
phận gian nan: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Đất nước ta phải chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, bởi vậy có sự giao thoa về văn
hóa rất gần gũi với Trung Hoa. Nét văn hóa mà ta chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất đó là
đạo Nho của Khổng Tử. Đạo Nho của Khổng Tử là một tôn giáo đã trói buộc con
người vào khuôn mẫu, vào những phép tắc lễ nghĩa. Những trói buộc đó tác động rất
lớn đến cuộc sống của những người phụ nữ. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử”. Thân phận người phụ nữ phải chịu bao đắng cay, nhục nhã, ê chề. Họ hoàn
toàn phụ thuộc, lệ thuộc vào người đàn ông. Ca dao đã từng cất lên lời than thân, trách
phận ngậm ngùi, chua xót: “Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra ruộng
cày”; “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Với những người
có tài sắc thì tài sắc càng là mối tai họa hơn. Họ thường bất hạnh vì chính tài sắc của
mình. Họ trở thành nạn nhân của vua chúa, quan lại, địa chủ, cường hào. Họ hoàn toàn
không chủ động được cuộc sống của mình, không có quyền lựa chọn riêng cho mình
cách sống, cách ứng xử, thậm chí là làm chủ thân xác và tâm hồn mình. Họ bị tuyển
mộ, dâng nạp, gả bán cho quan lại, vua chúa, cường hào, địa chủ để rồi trở thành công
cụ thỏa mãn nhục dục của tầng lớp trên. Khi sắc đẹp phai tàn, số phận của họ trở nên
thật bi đát. Bên cạnh là công cụ mua vui, người tài sắc còn là một phương tiện để tầng
lớp thống trị thực hiện những mưu đồ chính trị. Đau đớn thay, khi cần thì tầng lớp
thống trị dùng sắc đẹp của người phụ nữ vào việc tranh giành quyền lực, còn khi thực
hiện thành công mưu đồ thì có thể họ sẽ kết thúc cuộc đời của các mỹ nhân một cách
tàn ác, không thương tiếc. Rõ ràng, xã hội nam quyền với sự lạm dụng vô hạn quyền
lực của nam giới đối với người phụ nữ đã gây ra bao thảm cảnh. Hiện thực ấy đã giúp
rất nhiều tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong những giai
đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt làm nên giá trị hiện thực - một trong những phương
diện tư tưởng quan trọng của tác phẩm. Thông qua hiện thực ấy, các tác giả đã lên
9
tiếng tố cáo đanh thép xã hội phong kiến, thể hiện sự bất bình cao độ, đặc biệt là cất lên
tiếng nói đồng cảm, xót xa, bênh vực và bảo vệ con người.
Điểm qua một vài nét về không gian văn hóa xã hội Việt Nam trung đại để có
cái nhìn bao quát về sự xuất hiện và tồn tại của hình ảnh người kỹ nữ trong văn học giai
đoạn này.
Theo Từ điển Hán Việt của Nguyễn Tôn Nhan, Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa, 2003, thì từ kỹ nữ có các nét nghĩa sau:
Chữ “kỹ” (nhân + chi): Có nghề, có tài năng; Nữ nhạc công, con hát Thời cổ
[32, tr. 28].
Chữ “kỹ” (nữ + chi): Gái đẹp; Người phụ nữ làm nghề ca hát; Tục gọi gái đĩ
[32, tr. 190].
Chữ “kỹ” (thủ + chi): Tài năng, có nghề; Thợ giỏi [32, tr. 325].
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thể thao, 2005, trang 1095 thì
kỹ nữ là người con gái đẹp, đào hát, gái làm nghề mại dâm. Theo Từ điển từ và ngữ
Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 980 thì kỹ nữ là người
con gái làm nghề ca hát và mại dâm trong chế độ cũ. Theo Từ điển tiếng Việt phổ
thông, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 638 thì kỹ nữ là gái hành
nghề tại các thanh lâu, kỹ viện.
Như vậy, chúng ta thấy một điều rằng kỹ nữ ban đầu không phải là loại phụ nữ
làm nghề bán thân mà vốn là những người hát, ca múa, mang tính chất nghệ thuật. Qua
thời gian, càng về sau, cách hiểu về từ kỹ nữ càng xa so với ý nghĩa ban đầu của nó. So
với ý nghĩa ban đầu thì càng về sau, khái niệm kỹ nữ càng gần với việc bán dâm.
Thái Thuận đã diễn tả tâm trạng của kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu
thưở ăn chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng
ngắm/ Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền
quyên nhớ một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão
kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là sự nuối tiếc đến khắc khoải của
10
người ca kĩ khi đến tuổi xế chiều. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm văn học
đầu tiên có hình ảnh của người kỹ nữ của văn học trung đại.
Đến thế kỉ XVI, giai cấp phong kiến suy tàn, đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm
than, cơ cực. Thơ văn đã cất lên tiếng nói phê phán bè lũ thống trị, cảm thông với những
số phận “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Hình ảnh những con người với cuộc sống cùng
cực đã trở thành hình tượng trung tâm trong những sáng tác. Đặc biệt, một trong những
hình ảnh gợi lên nhiều nỗi thương tâm, suy nghĩ, trăn trở nhất là số phận của những
người phụ nữ. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tạo tiền đề cho việc xuất
hiện phổ biến hơn hình ảnh người kỹ nữ trong thơ văn trung đại. Các truyện Chuyện
nghiệp oan của Đào Thị và Chuyện nàng Túy Tiêu là những truyện có xuất hiện hình ảnh
nhân vật nữ có những biểu hiện đặc trưng của người làm nghề kỹ nữ.
Thế kỷ XVIII, người kỹ nữ đã xuất hiện hàng loạt trong những sáng tác mà tiêu
biểu hơn cả là những sáng tác của Nguyễn Du như Long Thành cầm giả ca (trích trong
Bắc hành tạp lục), La Thành mại ca giả (trích trong Thanh Hiên thi tập), Ngộ gia đệ
cựu ca cơ (trích trong Bắc hành tạp lục), Văn chiêu hồn, Truyện Kiều... Với những tác
phẩm trên, những nhân vật kỹ nữ tiêu biểu đó là Thúy Kiều trong Truyện Kiều, cô Cầm
trong Long Thành cầm giả ca, người ca nữ đất La Thành trong La Thành mại ca giả.
Tất cả những người kỹ nữ trên đều có chung một điểm, đó là “hồng nhan bạc mệnh”.
Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi khác là cô
đầu. Một số tác phẩm của các tác giả giai đoạn này có sự xuất hiện hình ảnh cô đầu:
Dương Khuê có các tác phẩm: Gặp đào Hồng đào Tuyết, Gặp cô đầu cũ, Tặng cô đầu
Hai, Tặng cô đầu Cúc, Thăm cô đầu ốm; Nguyễn Công Trứ có các tác phẩm: Một ngày
là nghĩa, Cảnh biệt ly, Yêu hoa, Bỡn cô đầu già; Trần Tế Xương có các tác phẩm: Hát
cô đầu, Thú cô đầu, Tết cô đầu, Chơi ả đào, Hỏi ông trời; Nguyễn Khuyến có các tác
phẩm: Đĩ cầu Nôm, Bóng đè cô đầu. Cô đầu trong văn học trung đại được miêu tả theo
hai chiều hướng: cô đầu là truyền nhân của nghệ thuật và cô đầu đã bị biến tướng cùng
thời gian.
11
Như vậy, ở mỗi giai đoạn, hình ảnh người kỹ nữ mang những nét màu sắc khác
nhau. Giai đoạn đầu của thời trung đại, người kỹ nữ được nhắc đến với tư cách là tên
gọi của một hạng người trong xã hội. Đến khi xã hội suy tàn, người kỹ nữ tiêu biểu cho
tiếng nói thống thiết của thân phận con người. Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người
kỹ nữ xuất hiện với tên gọi là cô đầu. Dù ở giai đoạn nào thì họ đều là những “thân sâu,
cánh kiến”, bé nhỏ, tội nghiệp, đáng thương; nhưng trong họ ngời lên nét đẹp về ngoại
hình và tâm hồn rất đáng ngợi ca, trân trọng.
Sắc đẹp là điều đầu tiên khi nói về người kỹ nữ. Truyện Đào Nương trích trong
Dư công tiệp ký của Vũ Phương Đề hình ảnh kỹ nữ đã được nói tới là Đào Nương.
Nàng đã lập công giết giặc nhờ vào sắc đẹp và tài ca hát của mình. Chuyện nàng Túy
Tiêu trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh
Túy Tiêu với sắc đẹp dịu dàng, duyên dáng khiến Dư Nhuận Chi - chàng thư sinh nổi
tiếng hay thơ nhất kinh thành phải đắm say, mê mệt. Hàn Than trong Chuyện nghiệp
oan của Đào Thị trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng là một giai nhân
tuyệt sắc. Nguyễn Du sẽ cho ta thấy rõ hơn về điều này. Ông miêu tả Thúy Kiều trong
Truyện Kiều, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca, người hầu cũ của em trong Ngộ
gia đệ cựu ca cơ... đều là những bậc “tuyệt sắc giai nhân”. Chẳng hạn, khi miêu tả
Thúy Kiều, Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu
hờn kém xanh/ Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Như vậy, vẻ đẹp mỗi người một
vẻ. Người thì duyên dáng, dịu dàng, người thì tuyệt sắc giai nhân, có người sắc sảo,
mặn mà đến cả thiên nhiên cũng phải ghen hờn. Nhan sắc chính là công cụ kiếm tiền,
là vũ khí mê hoặc khách làng chơi.
Bên cạnh sắc đẹp là tài hoa. Tài hoa của kỹ nữ ở đây là tài cầm, kì, thi, họa, ca,
múa, hát. Chuyện nàng Túy Tiêu trích từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Túy Tiêu
được miêu tả “vốn có khiếu thông tuệ”, mỗi khi Sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà
rồi thuộc được. Sinh dạy nàng thơ từ, chưa đầy một năm, nàng đã làm được thơ từ
ngang với Sinh. Đặc biệt là Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Thông
12
minh vốn sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm/ Cung thương làu bậc ngũ
âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Hay Cô Cầm trong Long Thành cầm giả
ca có tài năng đặc biệt với ngón đàn cầm. Tiếng đàn của nàng thật tuyệt vời trong chốn
nhân gian: “Khoan như gió nhẹ lướt qua rừng thông/ Trong như tiếng hạc kêu nơi xa
xăm/ Mạnh như tiếng sét đánh vào bia Tiến Phúc vỡ tan/ Buồn như tiếng rên của Trang
Tích, ốm nhưng giọng quê vẫn không quên”. Người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ
cựu ca cơ lưu lại trong trí nhớ của Nguyễn Du một ấn tượng về sự trẻ trung, duyên
dáng cùng giọng ca lôi cuốn, chinh phục hết thảy người nghe: “Hồng tụ tằng văn ca
uyển chuyển” (Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng).
Bên cạnh tài năng hơn người, người kỹ nữ cũng có những nét đẹp trong tâm hồn.
Trước hết, đó là khát vọng về tình yêu và hạnh phúc. Mặc dù bị xã hội coi thường, xem
là hạng đàn bà lẳng lơ, nhưng người kỹ nữ vẫn dám sống vì tình yêu và cháy hết mình
vì tình yêu. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều đến với Kim Trọng khi còn là
một thiếu nữ ngây thơ, trong sáng: “Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong
bướm đi về mặc ai”. Bởi vậy, mối tình Kim - Kiều thật đẹp, thật thánh thiện. Và sau
này, ta chứng kiến mối tình giữa Kiều và Thúc Sinh cũng thật lưu luyến, mặn nồng;
mối tình giữa Kiều và Từ Hải không chỉ là tình yêu mà còn là ân tình, ân nghĩa. Rõ
ràng, khát vọng về một tình yêu chân thành, khát vọng về một hạnh phúc đong đầy
luôn luôn nồng nàn, rực cháy trong những người kỹ nữ.
Người kỹ nữ đẹp là thế, tài năng hơn người là thế, nhưng “hồng nhan bạc
mệnh”, “tài sắc tương đố”. Họ phải chịu số phận đau thương, bi đát. Trước hết, Thái
Thuận đã diễn tả tâm trạng của người kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu thủơ ăn
chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm/
Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền quyên nhớ
một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão kỹ ngâm –
Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là nỗi đau nhói lòng của người ca kĩ khi đến
tuổi xế chiều. Khi nhan sắc đã tàn phai theo tháng năm, khi không còn sự mê hoặc đối
13
với khách làng chơi, người kỹ nữ phải sống một cuộc đời cô đơn, buồn tủi. Hàn Than
trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị là một trong những nhân vật có số phận bi kịch
mà Nguyễn Dữ dày công xây dựng. Nàng đã phải trải qua bao kiếp nạn. Mỗi lần nỗi
khát khao hạnh phúc trỗi dậy là mỗi lần nàng bị xã hội vùi dập, đọa đày không thương
tiếc. Khi vua Dụ Tôn băng hà, nàng bị vất ra ngoài phố. Từ một người tài giỏi thơ văn,
được vua sủng ái, nàng trở thành vật thừa thãi, bỏ đi, không giá trị. Trong Truyện Kiều
của nguyễn Du, mặc dù Đạm Tiên chỉ là hồn ma thoáng qua nhưng ta cũng đủ cảm
nhận số phận của những người kỹ nữ nói chung và Đạm Tiên nói riêng: “Sống làm vợ
khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Khi còn sống nàng xinh đẹp
là thế, tài năng là thế mà khi chết đi, nấm mồ của nàng chơ vơ, đơn côi, không hương
khói giữa chốn người qua kẻ lại. Hay cũng trong Truyện Kiều, nàng Kiều từ một thiếu
nữ “Êm đềm trướng rủ màn che” phải trở thành kỹ nữ. Nàng bị xã hội nam quyền vầy
vò, mua đi bán lại, lưu lạc suốt mười lăm năm trời. Với một ngoại hình “Một hai
nghiêng nước nghiêng thành”, với tài hoa hơn người cả cầm, kì, thi, họa, đáng ra nàng
phải có được hạnh phúc, nhưng “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời Thúy Kiều là một
chuỗi những đau đớn, tủi hờn: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”. Đúng là: “Đau
đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều – Nguyễn
Du). Lời than của Kiều trước hết là lời than cho cuộc đời của Đạm Tiên, lời than cho
số phận những người kỹ nữ trong đó có nàng, nhưng cũng là lời than chung cho “phận
đàn bà”.
Thực dân Pháp sau khi xâm lược được đất nước ta, với chiêu bài “bảo hộ” và
“khai hóa”, chúng ra sức đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn và văn hóa
đồi trụy. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ. Ca trù trở nên suy bại.
Người nghe toàn những kẻ mê sắc dục. Cô đầu trở thành kẻ buôn phấn bán hương, trở
thành gái lầu xanh. Trần Tế Xương đã viết những vần thơ thật chua chát: “Cái thú cô
đầu nghĩ cũng hay/ Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày/ Năm canh to nhỏ tình dơi
chuột/ Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây (Thú cô đầu – Tú Xương). Nguyễn
14
Khuyến cũng với giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng lại sâu sắc và có phần đau đớn:
“Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ/ Trời sinh ra cũng để mà chơi/ Dễ mấy khi làm đĩ một
thời/ Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích/ Đĩ bao tử càng chơi càng lịch/ Tha hồ
cho khúc khích chị em cười/ Người ba đấng của ba loài/ Nếu những như ai thì đĩ mốc/
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc/ Khá khen thay làm đĩ có tông!/ Khắp
giang hồ chẳng chốn nào không/ Suốt Nam, Bắc, Tây, Đông đều biết tiếng/ Đĩ mười
phương chơi cho đủ chín/ Còn một phương để nhịn lấy chồng/ Chém cha cái kiếp đào
hồng/ Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số/ Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó/ Mai sau
ngày giỗ có văn nôm/ Cha đời con đĩ cầu Nôm. (Đĩ cầu Nôm – Nguyễn Khuyến). Tuy
giọng thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến có vẻ châm biếm, đả kích, nhưng cái
chính vẫn là tấm lòng nhà thơ trước cảnh “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn” của đất
nước. Đó là sự xót xa cho những số phận cô đầu lắm truân chuyên.
1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thiết lập sự thống trị Việt Nam và thi
hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng bộ máy quân sự, cảnh sát,
nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ; đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối với chính sách
“chia để trị” - chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Thực dân
Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai
để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn
áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực với hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân,
thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả là nền kinh tế nước ta là nền
kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp với chính sách nô dịch văn hoá, xoá
bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân, mở nhà tù, trại
giam nhiều hơn trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc,
rượu chè, mại dâm, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả là hơn
90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài.
15
Văn học là tấm gương phản ánh đời sống. Các nhà văn đã phô bày hiện thực xã
hội Việt Nam thật phũ phàng, cay đắng. Phạm Duy Tốn đã viết truyện ngắn Sống chết
mặc bay, chỉ vì ham mê cờ bạc mà quan phụ mẫu sẵn sàng bỏ mặc dân. Trước cơn vỡ
đê vì nạn mưa lũ, quan phụ mẫu đã vô trách nhiệm tới táng tận lương tâm đối với tính
mạng và tài sản của nhân dân. Hậu quả của điều đó là “nước tràn lênh láng, xoáy thành
vực sâu”. Quan phụ mẫu không thiệt hại nhưng những người dân “chân lấm tay bùn”,
“thấp cổ bé họng”, “thân sâu cánh kiến” lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, dở sống dở
chết. Thạch Lam trong truyện Nhà mẹ Lê thể hiện nỗi xót xa của ông về hình ảnh một
bà mẹ nông dân nghèo phải vật lộn với “miếng cơm manh áo” từng ngày, từng giờ để
nuôi đàn con hơn chục đứa. Những đêm đông trời lạnh như cắt da cắt thịt, mẹ Lê cùng
các con “rải ổ rơm đầy nhà” để ngủ. Số phận của con người không khác gì con vật.
Nhà văn Thạch Lam nức nở, thốt lên trong trang truyện: “mẹ con cùng ngủ trên đó
trông như một cái ổ chó, chó mẹ, chó con lúc nhúc”. Khi mẹ Lê phải đi vay gạo thì ông
Bá - một người giàu có nhất trong làng - không những không cho vay mà còn thả chó
cắn. Người mẹ tội nghiệp, khốn khổ ấy buồn bã bước về nhà với nhiều vết thương đẫm
máu. Mẹ Lê sốt cao rồi chết một cách tức tưởi. Lũ con sẽ ra sao khi người mẹ qua đời?
Câu chuyện khiến người đọc không khỏi xót xa, day dứt. Ngô Tất Tố với tác phẩm Tắt
đèn đã phản ánh được nỗi thống khổ của người dân trong nạn sưu cao thuế nặng. Chỉ vì
sưu thuế mà cả gia đình chị Dậu phải tan nát, chia lìa. Chị Dậu đau như đứt từng khúc
ruột, đành phải đem con đi bán cho nhà Nghị Quế. Ta xúc động, nghẹn ngào bao nhiêu
thì cảm thấy bất bình, phẫn nộ bấy nhiêu khi chứng kiến cảnh cái Tí ngoan hiền, hiểu
chuyện, bị gia đình Nghị Quế đối xử không bằng con vật. Đó là cảnh gia đình Nghị
Quế bắt em phải ăn cơm thừa của chó. Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng đã vẽ
lên bức tranh thối nát của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là bè
lũ quan lại thật tham lam, độc ác. Nghị Lại đã bày đủ trăm mưu ngàn kế để cướp ruộng
đất của nông dân. Anh Pha là một trong số những nạn nhân của xã hội. Khi anh đứng
lên chống Nghị Lại thì bị bọn chúng bắt trói khiêng đi như con vật trong đau đớn, căm
16
thù. Nam Cao trong Lão Hạc đã miêu tả cuộc sống nghèo nàn, khốn khổ, thương tâm
của Lão Hạc. Lão Hạc chọn cái chết thê lương để giữ mảnh vườn nhỏ cho đứa con trai
cũng như bảo toàn nhân phẩm và danh dự cho mình mãi mãi là hình ảnh ám ảnh trong
tâm trí mọi người.
“Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, các phong trào yêu nước diễn ra theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản. Các cuộc khởi nghĩa đó khẳng định tinh thần yêu
nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất
nặng nề. Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là lịch sử của các phong trào yêu nước và lịch sử
chuyển dịch cơ cấu xã hội theo hướng hiện đại hóa. Văn học cũng được hiện đại hóa.
Bối cảnh ấy đã mở ra hai khả năng lựa chọn cơ bản cho hoạt động tiếp thu các tư tưởng
văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Đó là tiếp thu tư tưởng văn nghệ hiện đại Tây Âu,
chủ yếu từ Pháp và tiếp thu tư tưởng mĩ học Mác – Lênin từ Liên Xô và Trung Quốc.
Ở nửa đầu thế kỉ XX, các tư tưởng văn nghệ Tây Âu được tiếp thu vào Việt Nam như
quan niệm về đặc trưng của nghệ thuật, đặc trưng thể loại của tác phẩm, quan niệm về
nghiên cứu, phê bình văn nghệ...
Như đã nói ở trên, thực dân Pháp đầu độc nhân dân ta bằng con đường ma túy,
cờ bạc, rượu chè, mại dâm để ru ngủ đồng bào, để làm mất tinh thần dân tộc. Xã hội
Việt Nam lúc đó thật nhầy nhụa, nhơ nhớp. Và một trong những vấn nạn nhơ nhớp đó
là cảnh gái điếm. Hiện tượng gái điếm thủ phạm chính do thực dân Pháp gây nên.
Theo Bách khoa toàn thư mở thì gái điếm hay còn gọi là gái mại dâm, gái đĩ... là
những người phụ nữ phục vụ đàn ông thỏa mãn hành vi tình dục để được trả tiền hoặc
được hưởng các lợi ích vật chất khác. Nhân vật gái điếm xuất hiện khá nhiều trong văn
học Việt Nam đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong tiểu thuyết và phóng sự.
Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh bắt đầu từ câu chuyện của Chương -
một người đàn ông bị người yêu phản bội. Anh đã mang nặng một vết thương lòng và
nỗi oán hận đến mức tận cùng. Anh không thể mở lòng với bất kỳ người đàn bà nào.
Đối với Chương, phụ nữ tất thảy đều giả dối, lọc lừa. Thế nhưng, như một trò đùa quái
17
ác của cuộc sống, định mệnh đã sắp đặt cho một ông giáo đạo mạo với “bầu trời tư
cách” gặp phải một cô gái giang hồ chai sạn, từng trải giữa sóng gió cuộc đời. Chương
yêu Tuyết không phải là tình yêu sét đánh, không phải là tình yêu lóe lên rồi vụt tắt.
Anh yêu Tuyết bằng cả trái tim, tâm hồn mình. Trong mắt anh, Tuyết “như một cô gái
thượng lưu và tử tế”. Thế nhưng, người đàn bà mà Chương yêu tha thiết, yêu mãnh liệt,
yêu đến dại khờ lại là một cô gái giang hồ chai sạn trước cuộc đời, trước tình người.
Đời đã khiến cô có một phương châm sống thật ghê gớm: “Không tình, không cảm, chỉ
coi lạc thú ở đời như một vị thuốc trường sinh”… Hoàn toàn vô cảm, luôn muốn “nổi
loạn” để vượt thoát sự gò bó, khuôn phép, Tuyết đã hai lần phản bội lại Chương - một
lần ra đi cùng người tình cũ và một lần dan díu, tằng tịu cùng Giang. Rồi một ngày
Tuyết rời bỏ Chương và đi trong mưa phùn lặng lẽ. Tại sao Tuyết bỏ Chương? Có phải
nàng là con đàn bà gian trá, phản trắc, đa dâm? Không! Đối với nàng, thà liều thân với
một đời mưa gió, khổ sở, đê tiện, còn hơn là sống lừa dối mình, lừa dối người. Nàng
luôn luôn ý thức được địa vị của nàng: một con đĩ. “Trời ơi, anh yêu được em ư? Anh
chưa biết em là ai đấy, em chỉ là một đứa giả dối, man trá, em là một con đĩ khốn nạn,
đê hèn. Em sẽ lừa dối người yêu, vì em đã trở thành một đứa vứt đi, tiêm nhiễm hết
mọi thứ xấu xa của xã hội này”. Đó là những câu nói của một người tự ý thức về bản
thân để từ đó mà bẽ bàng, chua xót. Tuyết đã chọn con đường đi riêng của nàng: lang
thang, thất thểu, không nhà, không cửa, không tình thân. Nàng dấn thân vào cuộc đời ô
trọc, nhục nhã, ê chề, cay đắng.
Bỉ vỏ của Nguyên Hồng xoay quanh số phận nhân vật Tám Bính. Tám Bính là
một cô gái nghèo xinh đẹp, khỏe mạnh làng Sòi. Vì nhẹ dạ cả tin, ngây thơ trong sáng,
Bính đã yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị
chính cha mẹ đẻ hắt hủi, đay nghiến, chửi bới, nhiếc móc. Và đứa bé sinh ra phải đem
bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, bần cùng không lối thoát, Bính trốn nhà đi Hải
Phòng với một hy vọng mong tìm được người tình. Sau những ngày đêm lang thang
đói khát, Bính gặp một gã công tử trẻ tuổi, nhà giàu nhưng đểu cáng. Gã lừa Bính vào
18
nhà hãm hiếp rồi đổ bệnh lậu cho cô. Vợ gã bắt gặp đã đánh đập Bính dã man, tàn nhẫn
và lôi cô ra Sở cẩm, vu là gái đĩ. Lối rẽ cuộc đời của Bính cũng từ đây. Bính bị đưa vào
nhà “lục xì”. Sau đó dòng đời đã ra sức xô đẩy, hủy hoại, tàn phá từ thể xác đến tâm
hồn cô. Bính bị ném vào nhà chứa và đã trở thành gái điếm từ đây. Nhân vật “bỉ vỏ”
gái điếm Tám Bính vừa đáng thương vừa đáng giận. Con đường đời của Bính ngày
càng đi vào ngõ cụt, tối tăm, khắc nghiệt và bế tắc. Vì cả tin khờ dại nên Bính đã sa
chân, tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác của xã hội hành hạ, giết chết dần từng ngày.
Chắc chắn cho đến lúc chết, nỗi nhục nhã, đau đớn tột cùng kia sẽ không bao giờ phôi
pha trong tâm hồn Bính. Nguyên Hồng đã xuyên thấu vào tầng lớp dân nghèo thành thị
nói chung và nhân vật Tám Bính nói riêng để nhìn ra sự bế tắc, bi đát của họ khi họ
chưa tìm thấy lối thoát và phương hướng đấu tranh để giành lại quyền sống, quyền
được tồn tại của một con người. Qua đây, nhà văn giúp ta cảm thông với những nỗi đau
khổ mà họ phải chịu đựng trong xã hội cũ.
Lục xì là phóng sự của Vũ Trọng Phụng xuất bản từ năm 1937. Trước đấy một
năm đã nổ ra cuộc bút chiến dữ dội giữa Thái Phỉ chủ báo Tin văn với Vũ Trọng
Phụng. Thái Phỉ lên án các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là “văn chương dâm uế”. Vũ
Trọng Phụng đã trả lời về Lục xì: “Viết thiên phóng sự Lục xì tôi không phải chỉ là một
nhà văn, nhưng còn là một nhà báo. Nhà báo thì phải nói sự thật cho mọi người biết.
Nếu một việc đã có thực thì bổn phận của tôi chỉ là thông báo cho mọi người biết, chứ
không phải là lo sợ rằng cái việc làm phận sự ấy lợi hại cho ai”. Và sự thật ấy là gì?
Qua Lục xì, Vũ trọng Phụng tái hiện lại nạn mại dâm, gái điếm đến rùng mình: “Trong
thành phố Hà Nội, ít ra cũng có năm nghìn gái sống về nghề mại dâm. Năm nghìn!
Nhưng làm thế nào biết họ cho khắp mặt được, nhất là từ khi bị lôi cuốn vào cuộc biến
hóa của phong tục cái đức hạnh người đàn bà An Nam xưa kia kiên cố biết bao, thì nay
đã hóa ra quá đỗi mỏng manh!...Chúng ta thử làm một cái tính chơi, số dân Hà thành là
mười tám vạn, vậy mà có đến năm nghìn người làm đĩ, thế nghĩa là cứ ba mươi lăm
người lương thiện lại có một người thường nhật sinh sống bằng sự gieo rắc vi trùng hoa
19
liễu”. Người viết phải quan tâm sâu sắc đến vấn đề xã hội mới có thể trăn trở, day dứt
để viết về một vấn nạn đau lòng như thế. Và trong năm nghìn gái điếm kia, có những
người là nạn nhân thật đáng thương, tội nghiệp: “Những gái quê thì hoặc đã chê chồng
vì đã ăn phải bả tân thời, hoặc đã ra tỉnh làm con đòi, con sen mà không xong, hoặc đã
đập trống ngực thình thình khi, ngồi ở vệ hè, đương đói khát mà lại được vài ba cậu
“công tử bột” Hà thành nói vào tai những câu ân ái với thái độ săn sóc gian dối của
thằng mất dạy bên cạnh một con “bò lạc”, vừa quê mùa lại vừa “chắc chắn” cả trăm
phần trăm”. Nguyên nhân nào xô đẩy những nạn nhân tội nghiệp trở thành gái điếm để
rồi mắc bệnh phong tình? Vũ Trọng Phụng cũng đã giúp độc giả dễ dàng nhận thấy:
“Dù là thành thị, dù là gái quê, dù vì hư hỏng, dù tại đói khát, thì tất cả những gái ấy
đều đã bị cái xảo quyệt của mụ chủ tiệm thuốc phiện, của thằng bồi săm, của thằng ma
cô, của thằng phu xe đêm, chúng họp nhau lại thành một cái lưới nhện đáng sợ để làm
việc cho ngót bốn trăm cái phòng cho thuê rải rác khắp Hà Nội này!”. Xã hội với muôn
vàn cạm bẫy bủa vây khiến con mồi khó lòng thoát nạn.
Hà Nội lầm than (1938) là thiên phóng sự đặc sắc của Trọng Lang. Ở đó, tác giả
tái hiện lại giai tầng dưới đáy cùng của xã hội. Đó là những hạng người, hạng nghề bị
đặt trong sự dè bỉu, coi thường của xã hội. Trọng Lang đã chứng kiến và phản ánh sự
thật đau lòng, trần trụi tình cảnh của những gái điếm được coi là “nô lệ tạm thời” tại
các quán ba, tiệm nhảy, nhà thổ… Đây là nơi lui tới thường xuyên của những kẻ động
cỡn, dâm loàn. Trọng Lang đã phơi bày sự đê tiện với các mánh khóe buôn da bán thịt,
những thân tàn ma dại. Hà Nội lầm than là tiếng kêu cứu thương tâm, đã khía rất sâu
vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán
dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình
dục trá hình. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang đã cảm thương những cô
đầu, gái nhảy bị bóc lột, bị gạt ra rìa cuộc sống. Ông phê phán xã hội và chỉ ra thảm
trạng bi đát đó mà người gái điếm đang chịu đựng. Nhà văn vừa giận vừa xót xa, cảm
thông đối với nghề mại dâm, gái điếm. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình
20
trong sự chua chát, đắng cay: chẳng có một giọt nước cam khổng lồ nào đủ tưới hàng
vạn người lầm than. Dù ông có dấn thân quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là
“tiếng kêu thương” cơ cực, thống thiết mà thôi.
Tiểu kết: Qua khảo sát ở một số tác phẩm từ văn học trung đại đến văn học đầu
thế kỉ XX của Việt Nam, hầu hết các nhân vật từ kĩ nữ đến gái điếm đều có số phận bất
hạnh, trái ngang. Họ phải gánh chịu nỗi đau đớn, sự hành hạ về cả thể xác lẫn tâm hồn.
Nhưng vết đau về thể xác theo tháng năm có thể lành còn nỗi đau về tinh thần không
bao giờ, không khi nào, không thể nào chữa khỏi. Có thể nói đây là tầng lớp bị coi là
cặn bã nhất của xã hội. Nói đến họ, người đời luôn coi khinh, miệt thị. Nhưng từ trong
sâu thẳm của những con người tưởng chừng chỉ biết lọc lừa, gian dối, tưởng chừng chỉ
biết “bán thân nuôi miệng ấy” vẫn ánh lên những tia sáng nhân đạo, vẫn còn lòng
thương yêu, sự thuỷ chung, lòng hy sinh, dám xả thân vì một nghĩa cử, dám sống chết
để bảo vệ đồng đội… Và đọng lại là khát vọng luôn luôn canh cánh, luôn luôn thường
trực muốn thoát khỏi cuộc đời tội lỗi, nhơ bẩn. Ước vọng trở về như tia sáng nhỏ trong
tâm trí, luôn ngấm ngầm tồn tại nhưng rất xa vời, khó lòng chạm tới. Họ muốn chạm
tay vào ánh sáng, muốn một lần đứng dậy từ bãi bùn nhơ nhuốc. Họ quằn quại
trong đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn ngoi lên ánh sáng như những
mầm cây xanh. Và mỗi nhân vật trong tác phẩm của các nhà văn là cả một bản án, câu
chuyện đời bi thảm được phơi bày. Đó là một thời ngập chìm trong lọc lừa giả dối,
những thủ đoạn đàn áp vô nhân đạo của bè lũ thống trị, nỗi đau khổ đến tận cùng của
người dân, trong đó có người gái điếm.
21
Chương 2
NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA
XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI
2.1. Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng nhìn từ không gian văn
hóa xã hội đương thời
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX. Sáng tác của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên. Vũ Trọng Phụng
sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, mồ côi cha từ lúc
bảy tháng tuổi, được người mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi tốt nghiệp tiểu
học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng
buôn Goddard, ông bị đuổi. Tiếp theo, ông đánh máy cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai
năm sau lại bị đuổi và thất nghiệp. Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên
nghiệp. Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo, một cây bút phóng sự với nhiều bài
tiêu biểu. Năm 1930, ông có bài đăng trên Ngọ báo. Năm 1931, vở kịnh Không một tiếng
vang ra đời đã gây được sự chú ý của bạn đọc. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt
cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phòng tuần báo. Năm 1936,
ông cho ra đời bốn tác phẩm đã thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng. Đó là tiểu
thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ. Không chỉ nổi tiếng với những tác phẩm văn
học, tiểu thuyết, truyện ngắn, Vũ Trọng Phụng còn được mệnh danh là “ông vua phóng
sự đất Bắc”. Phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh
Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934,
báo Nhật Tân cho đăng Kỹ nghệ lấy Tây. Nhắc đến cái tên Vũ Trọng Phụng, người ta
liên tưởng đến một tài năng trong nhiều lĩnh vực. Thế nhưng khi đang ở độ tuổi tài năng
nở rộ, ông ra đi vì bệnh lao phổi do làm việc quá sức để nuôi sống bản thân và gia đình
khi mới 27 tuổi đời. Sự ra đi của Vũ Trọng Phụng để lại trong làng văn và trong lòng độc
22
giả nỗi đau, sự tổn thất, một chỗ trống không dễ gì khỏa lấp. Với giọng văn sắc sảo,
mang đậm chất châm biếm, đả kích, mỉa mai và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám – một xã hội mục nát, thối ruỗng mà chính bản thân
tác giả ví nó là xã hội “chó đểu”, xã hội “khốn nạn” với những tấn trò đời đầy bi kịch.
Vũ Trọng Phụng được ví như Balzac của Việt Nam. Đọc những trang văn của ông,
người đọc không khỏi ngậm ngùi, chua chát.
Làm đĩ là một trong số những tác phẩm gây ra nhiều cuộc tranh luận trong suốt
thế kỷ qua. Đó là Nhất Linh, Thái Phỉ, Hoài Thanh trước đây đã có khá nhiều bài đăng
trên các báo Tân văn, Tương lai, Ngày nay, Hà Nội báo... phê phán quan niệm văn
chương của Vũ Trọng Phụng xung quanh tiểu thuyết Làm đĩ của ông. Và Hoàng Văn
Hoan sau này cũng phê phán Làm đĩ là một cuốn sách dâm uế, có hại cho sự giáo dục
đạo đức và luân lý đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Trong khi đó, một số người khác,
chẳng hạn như nhà nghiên cứu, phê bình văn học Hoàng Thiếu Sơn lại cho rằng Vũ
Trọng Phụng viết Làm đĩ là nhằm mục đích giáo dục cho thanh thiếu niên những hiểu
biết sơ đẳng về quan hệ tình dục khác giới. Nhìn nhận của Hoàng Thiếu Sơn quả là
đúng đắn trong xã hội ngày nay bởi ý nghĩa giáo dục của Làm đĩ là quá rõ. Nhưng quan
trọng hơn, Làm đĩ được đông đảo công chúng đón nhận, yêu thích là sự hấp dẫn của đề
tài, chủ đề; đặc biệt là ở giá trị nhân bản của nó và tài năng nghệ thuật của người nghệ
sĩ Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm làm bật lên những vết thương rướm máu của xã hội
được che phủ bên ngoài bởi lớp sơn văn minh “Âu hóa” lố lăng, đồi bại. Vũ Trọng
Phụng căm hờn, phỉ báng sự giảo quyệt, đê tiện, bẩn thỉu, thối nát của cả một xã hội;
đồng thời nói lên tiếng nói đồng cảm cho những nạn nhân đáng thương, tội
nghiệp. Vượt lên tất cả những đề tài và chủ đề của văn chương đương thời theo khuynh
hướng ngợi ca tình yêu lý tưởng đầy tính ủy mị, sướt mướt của các cậu ấm, cô chiêu
còn đang mải choáng ngợp với những sắc màu của văn minh vật chất Tây phương, Vũ
Trọng Phụng đã đi thẳng vào một vấn đề nhức nhối của đời sống xã hội Việt Nam
23
những năm ba mươi của thế kỷ trước, đó là hiện tượng Làm đĩ. Cho đến hôm nay, tác
phẩm vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa về thời sự vô cùng to lớn.
“Hồi ấy, một trận cuồng phong dữ dội thổi đến xã hội ta. Cái phong trào vật chất
đến với ta bằng những danh từ điêu trá: tiến bộ, duy tân, tân sinh hoạt... nó có một sức
mầu nhiệm là lường gạt nổi hầu hết mọi người. Bao nhiêu lề thói, bao nhiêu nề nếp đã bị
lôi cuốn đi theo trận cuồng phong. Một trật tự của xã hội thuần túy trọng tinh thần đã bị
vật chất đảo lộn ngược cả... Báo giới đầy rẫy những mục bàn luận cách tìm khoái lạc cho
xác thịt... Những tiệm khiêu vũ phá tan hạnh phúc của gia đình, làm cho đàn bà hóa ra đĩ
thõa, làm cho đàn ông mọc sừng, hoặc chê vợ, làm cho bọn chủ săm đắc thế kiếm lợi,
bọn “vua thuốc lậu” tha hồ vênh vang... Những mốt y phục của phụ nữ, làm cho đàn bà
mỗi ngày phô thêm một ít đùi, một ít đít, một ít vú... Ở những nơi thành thị, chỗ nào
cũng có tiếng gọi của xác thịt, cũng có sức cám dỗ của dâm thần. Tại những nơi thôn
quê, thì vẫn nguyên những cảnh đói khát, nheo nhóc, bùn lầy nước đọng, nạn cường hào,
nạn mê tín, nạn hối lộ, nạn bã rượu lậu... Ba đêm liền chỉ hết bia lại thuốc phiện, uống
xong tức khắc thấy cái cần phải hút cho khỏi say, rã rượu rồi lại thấy phải hút để có sức
thức mà nghe, hút xong rồi thì lại thấy cần phải uống nữa cho đỡ ráo cổ... Ấy sự đời luẩn
quẩn loanh quanh chạy vòng đèn cù như thế...”. Chỉ bằng ngần ấy ngôn từ, Vũ Trọng
Phụng giúp ta có cái nhìn về toàn cảnh xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Đó là
một xã hội “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn”. Đó là xã hội mà người người, nhà nhà
chạy theo lối sống Tây phương để muốn phủ nhận sạch trơn thuần phong mĩ tục, nếp
sống truyền thống cha ông hàng ngàn năm lưu giữ. Bởi vậy, cái được gọi là “Phong trào
Thể dục Thể thao” hay “Giải phóng nữ quyền” cứ tha hồ được tung hê, ca tụng. Cái
được gọi là văn minh, tân tiến, tân thời sống cùng với sự cổ hủ, lạc hậu nó khiến con
người ta rơi vào tấn trò đời thật bi hài, chua chát. Cho nên, tác giả để cho Huyền nhớ
cũng là để tái hiện lại bức tranh của xã hội đương thời: vào một buổi tối, trời rả rích mưa,
mẹ ôm đứa em bé xì xụt khóc vì cha bỏ nhà đi chơi gái, đi theo mấy ông bạn già “phá
gia chi tử”, chị cãi nhau với đầy tớ dưới bếp, anh đi theo bọn con giai mất dạy bỏ học
24
hành, Huyền thì cặm cụi ngồi viết bài Pháp văn tả cảnh gia đình hạnh phúc có bố ngồi
đọc báo, anh ngồi học bài, mẹ đan áo, em bé chơi ngoan, mình làm bài... Tìm cái bút chì,
mở cặp sách của ông anh rơi ra một tập ảnh khiêu dâm, nam nữ trần truồng... Rồi Huyền
có người anh họ xa là Lưu ở nhờ nhà mình để đi học. Họ đã yêu nhau chân thành nhưng
chưa dám hở môi ra với ai. Một đêm thức giấc, chỉ có cách cái bức vách gỗ, nghe rộn lên
âm thanh của ái tình giữa ông bố già và cô vợ bé, những cái hôn kêu choen choét, những
hơi thở ỳ ạch, sự rung động lắc rắc của cái giường lò xo, những tiếng rú khoái lạc. Huyền
rón rén bỏ xuống nhà dưới, tình cờ gặp Lưu không ngủ được và “đã xảy ra cái sự không
thể không xảy ra được”... Rồi thằng Ngôn chứng kiến cảnh bố mẹ làm chuyện người lớn
thì việc nó làm chuyện chồng vợ với Huyền khi mồm chưa hết hơi sữa là chuyện thường
tình. Kiểu ăn ngủ của người ta, lối cẩu thả hớ hênh của cha mẹ, sách báo, tranh ảnh đồi
trụy, truyền thông cổ vũ cho lối sống “Tân thời”...; tất cả kết hợp với nhau để đưa đẩy
Huyền rơi vào cảnh gái điếm. Ta giật mình với câu nói của chồng Huyền tên Kim khi
mắc bệnh giang mai: “Đàn ông bây giờ mắc bệnh phong tình, đó có là sự quái gở gì đâu!
Thiếu niên mắc nhan nhản ra đấy. Mà họ còn năm lần bảy lượt. Đàn ông như tôi là đã
ngoan lắm, mợ biết chưa”. Không gian xã hội Việt Nam trong Làm đĩ của Vũ Trọng
Phụng là như thế!
Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ là Huyền. Ngay từ khi còn nhỏ, Huyền là đứa
bé bụ bẫm, xinh xắn, đáng yêu: “Cái tuổi tốt đẹp nhất đời! Họ hàng nhà em ai cũng
khen em xinh, hôn hít em, cho em tiền, cắn má, cắn tay em nữa”. Thêm nữa, hoàn cảnh
xuất thân rất đáng tự hào: “con gái nhà giàu, bố có chức phận, mẹ là người đứng đắn,
dòng dõi nhà quan, lại thêm có chú ruột là một vị bác sĩ y khoa, lại được cắp sách đến
trường”. Huyền đã được tạo hóa ưu ái hơn người từ khi còn chứng nước. Huyền sống
trong nhung lụa với cuộc sống vật chất dư thừa, đầy đủ. Họ hàng nội ngoại, những
người thân thích ruột thịt, ai ai cũng thương yêu, quý mến em. Có thể nói xuất phát
điểm của Huyền đầy may mắn. Lớn lên một chút, Huyền càng hạnh phúc khi ý thức
được ngoại hình, gia thế của mình. Khi mười sáu tuổi: “Cả một xã hội nức nở khen em
25
đẹp, kính phục em ngoan”. Huyền là niềm tự hào, kiêu hãnh của gia đình, dòng họ.
Thầy mẹ em vênh váo, kiêu ngạo với đời! Ai mà chẳng hãnh diện khi có cô con gái
xinh đẹp, ngoan hiền, đẹp người đẹp nết như thế! Cha mẹ Huyền có đầy đủ lí do để tự
hào về Huyền. Đặc biệt, cả lớp học anh nào cũng có thể phải lòng Huyền và Huyền
được tôn vinh là một “nữ lang”. Cái nét đẹp thuần túy đương tuổi xuân thì khiến đám
con trai đứng ngồi không yên, nét đẹp mà chỉ cần nhìn qua người ta cũng tự cho mình
cái quyền dự đoán được tương lai tốt đẹp của Huyền sau này. Vẻ đẹp của Huyền là vẻ
đẹp của người ngây thơ, trong sạch, thánh thiện, mai sau sẽ trở nên đức phụ, cái thứ
đẹp đáng kính trọng của bông hoa mỏng manh. Huyền được tôn vinh bằng những cái
tên mĩ miều do những chàng si mê nàng đặt cho như Tây Thi, Hằng Nga, Nàng Thơ,
Mỹ Nhân... Vẻ đẹp về ngoại hình của Huyền khiến người ta mê đắm là như thế!
Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình là nét đẹp tâm hồn. Trước hết, đó là trí tuệ thông
minh: “Rồi em đi học. Vốn thông minh tính bẩm, em được các cô giáo yêu chiều, được
họ hàng khen”. Tác giả không miêu tả chi tiết, ít nói trực tiếp về trí tuệ của Huyền,
nhưng qua thái độ, tình cảm của bạn bè, đặc biệt là của Quý cho thấy Huyền thông minh,
tài hoa hơn người. Sự thông minh, nhất là trong cách cư xử, ứng xử của Huyền đã mê
hoặc biết bao đàn ông. Những người mê mệt Huyền có tới ba mươi thằng bạn bè của
Quý, rồi Kim – chồng Huyền và sau này cả Tân – tên tình nhân Sở Khanh đểu cáng.
Ngay cả khi làm đĩ rồi, tài năng của Huyền cũng vẫn tỏa sáng: “Dẫu sao, tôi cũng thấy
Huyền là khả ái, ở chỗ thông minh hơn đa số - nếu không tất cả - những gái giang hồ”.
Là con gái, Huyền luôn ý thức để trau dồi tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh đủ
đường”. Huyền được mọi người ca ngợi bởi em là một cô gái “ngoan, đứng đắn”.
Không ngoan, không đứng đắn sao khi Huyền không bao giờ có nhân tình như số đông
bạn gái. Huyền tự nhủ sẽ lấy chồng theo lối cổ mà thôi. Những thanh niên đương thời
cố nặn ra những dáng điệu lễ độ, đứng đắn, chung tình, trong sạch, thanh cao, vẫn gửi
đến nhà Huyền những bức thư tha thiết, nồng nàn. Nhưng Huyền đã bóp bẹp mất bao
nhiêu trái tim bởi sự tinh sạch, sáng trong vô ngần. Huyền đã vượt lên trên dục vọng,
26
khát khao cháy bỏng tầm thường để trở nên mạnh mẽ, đủ sức kiềm chế sự rung động
của xác thịt. Huyền đã chiến thắng mọi cảnh vật xấu xa đầy rẫy theo đuổi quanh mình,
mọi kích thích của bao nhiêu cơn giông tố ô trọc, phũ phàng. Huyền chưa bị vết tì ố
nào. Rõ ràng, giữa một xã hội với bao cảnh đồi trụy, dâm loàn, bao cám dỗ và cạm bẫy
luôn luôn rình rập; Huyền vẫn giữ mình. Huyền ý thức rất rõ giá trị của bản thân và
những thói trăng hoa, lừa dối. Bởi vậy, em “chỉ ham vui đèn sách, học tập nữ công”.
Vẻ đẹp tâm hồn Huyền không thể không đáng trân trọng, ngợi ca.
Cũng giống bao người con gái ngoan hiền khác, Huyền mơ ước về hạnh phúc
chân chính, tràn đầy: “Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ đương làm gì, hễ khối óc em
mà rảnh việc là em lại phác họa ra một cảnh hạnh phúc gia đình trong đó có đôi chúng
em, giữa cái không khí nồng mặn những ái ân, giữa một cảnh bài trí nhũn nhặn như của
những cặp vợ chồng trẻ và thanh bần khác. Đáng lẽ ao ước ô tô, nhà lầu, đầy tớ hàng
lũ, có thể góp mặt với đời bằng cách nay tiệc, mai hội, em đã vui lòng chịu nhận một
căn phòng nhỏ, một bộ ghế tầm thường, một người chồng kiếm được một số tiền đủ
sống, một số bạn hữu không biết nói đến khiêu vũ, chợ phiên”. Huyền khát khao tình
yêu và hạnh phúc! Em mơ ước về mái ấm gia đình ngập tràn tình yêu thương, sự chung
thủy. Em muốn được là vợ ngoan, dâu hiền hiếu thảo. Và không cần cao sang mĩ miều,
em mơ về hạnh phúc bình dị, ấm áp, giản đơn. Giữa một xã hội chạy theo đồng tiền với
muôn vàn trò lố lăng, đồi bại, nhí nhố, Huyền quả là một bông hoa nhài tinh khiết. Ai
ai cũng coi đồng tiền là vạn năng, ai ai cũng a dua đua đòi thì Huyền là thanh âm trong
trẻo lọt giữa bản đàn xô bồ, méo mó.
Như vậy, những gì mà Huyền có, đáng lẽ ra em phải được sống sung sướng và
hạnh phúc như dự đoán. Nhưng đời thật trái ngang, phũ phàng và cay đắng. Mọi thứ
không diễn ra theo ý đáng lẽ phải diễn ra. Mọi thứ như trêu ngươi cuộc đời, như trò đùa
quái ác của cuộc sống. Đáng lẽ ra Huyền xứng đáng được hưởng hạnh phúc thì hạnh
phúc đã rời xa em, tuột khỏi tầm tay em mà em càng với càng không thể nắm bắt.
Huyền càng muốn bứt phá, vẫy vùng thì Huyền lại càng rơi vào hố sâu, vực thẳm, để
27
rồi trở thành một gái đĩ chuyên nghiệp, lành nghề. Thật chua chát và cay đắng! Một cô
gái vượt bao cám dỗ để trau dồi công, dung, ngôn, hạnh thì lại chính là người dẫm đạp
lên cái mà mình dày công vun đắp.
Vết xe đổ của Huyền bắt đầu bằng mối tình vụng trộm với Lưu, một người anh
họ. Thật ra, Lưu cũng đáng được yêu bởi Lưu là một thiếu niên có nhiều nết tốt và rất ít
tính xấu: “Khác hẳn với những bạn hữu của anh em thường lười biếng, ham chơi, đua ăn
đua mặc và coi sự chim gái là những thủ đoạn anh hùng thì Lưu tỏ hẳn ra cái vẻ hơn đời
ở chỗ siêng năng chăm chỉ, lại thêm được nết đứng đắn lạ lùng, không hề để những
chuyện giai gái lọt được vào tai”. Việc yêu Lưu ở một khía cạnh nào đó cũng nói lên tính
cách đáng trân trọng của Huyền. Chắc chắn một điều rằng Huyền là một cô gái tốt mới
yêu Lưu như thế! Bằng không, Huyền phải ham hố, vồ vập những thiếu niên tân thời ăn
chơi trác táng với những trò “Âu hóa” dị hợm. Yêu Lưu, Huyền xây đắp bao mộng đẹp.
Cho nên, khi bị ép gả cho Kim, Huyền tỏ ra là cô gái mạnh mẽ, thủy chung son sắt. Cũng
chính vì việc Huyền bị ép gả, Lưu không tìm được lối thoát trong tình yêu nên tự tử.
Chứng kiến cái chết của Lưu “em thấy tinh thần tán loạn, chân tay bủn rủn, muốn chừng
không thể đứng vững được”. Qua đó, để thấy được Huyền cũng đã từng yêu Lưu biết
nhường nào. Và Huyền quyết bảo vệ thanh danh cho người yêu đến cùng: “Dẫu Lưu có
chết đi, thì Huyền này cũng không để việc của đôi ta bại lộ. Cũng phải giữ cho tiếng Lưu
được trong sạch”. Đặc biệt, trong tư tưởng của Huyền cũng từng nổi loạn, cũng từng
phản kháng dữ dội để trả thù cho người yêu mà theo suy nghĩ của Huyền thì bố mẹ
Huyền và chồng Huyền là thủ phạm: “Về phần riêng của em thì cái đau đớn ấy đã khiến
em muốn báo thù bố mẹ, làm nhục người chồng sắp cưới mình bằng cái hư hỏng của
mình. Em sẽ làm cho tan hoang, cho điêu đứng, ê chề cho ai cũng phải nhục nhã vì em,
vì rằng em cho ai cũng là có trách nhiệm về cái chết của Lưu. Mất tân! Thì lợn nhị hỉ sẽ
bị cắt tai chứ sao! Thì nhục cho thầy me em chứ sao! May mà em đã mất tân, chứ nếu
không thì lấy cách gì mà trả thù đời cho có thể độc địa hơn nữa?”
28
Tại sao Huyền yêu Lưu? Tại sao Huyền đánh mất đời con gái? Có thể khẳng
định một điều rằng, việc Huyền yêu Lưu thật dễ dàng lí giải bởi nam nữ gần nhau như
lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén. Đặc biệt, việc Huyền đánh mất đời con gái, lỗi này là do
yếu tố gia đình của muôn đời người Việt Nam cộng thêm xã hội đương thời đầy rẫy
những cám dỗ chết người. Những gì mà Huyền có về gia đình, nhìn bề ngoài là niềm
mơ ước của biết bao người con gái. Tuy nhiên, chính những thứ có được ấy lại là một
trong những thủ phạm xô đẩy Huyền đến với cuộc đời gái điếm. Sinh ra trong một gia
đình có cha làm việc cho Tây nhưng cực kỳ cổ hủ, lại thêm tính trăng hoa đồi bại, phá
gia chi tử. Anh trai sớm tiêm nhiễm những thói hư tật xấu của xã hội, ăn chơi trụy lạc.
Từ nhỏ Huyền đã bị người lớn lảng tránh, nạt nộ, thậm chí bị bạo hành khi thắc mắc về
vấn đề giới tính. Thứ cô tiếp thu được chỉ là lời nói thô tục của kẻ ăn người ở trong nhà
và những bài học giới tính tự học của đám trẻ trâu. Cô đã làm trò chồng vợ với Ngôn
trong cái tuổi ấu thơ tội nghiệp. Đáng lí ra, gia đình, xã hội chung tay dạy dỗ, giáo dục
giới tính thì đâu có việc đáng tiếc xảy ra giữa Ngôn và Huyền! Lớn lên chút nữa, sự tò
mò về giới tính làm bùng lên nỗi khát khao mãnh liệt ở người thiếu nữ bước vào tuổi
dậy thì. Rồi trong cái đêm mất ngủ vì bị ám ảnh bởi những bức ảnh nam nữ trần truồng
của anh trai và âm thanh giường chiếu giữa cha và vợ bé chỉ cách giường cô một bức
vách, lại thêm vào đó những lời nói yêu đương chân thành rút ra từ gan ruột Lưu, “Ấy
thế là xảy ra cái sự không thể không xảy ra được”. Lưu đã chiếm đoạt được em, cả
phần xác cũng như phần hồn. “Mất tân! Em đã lo sợ, bối rối, đau đớn, bâng khuâng, hổ
thẹn”. Rõ ràng, Huyền là một cô gái đoan trang, luôn có ý thức giữ gìn trinh tiết và
phẩm hạnh của một người con gái. Nên khi mất đời con gái em đã rơi vào sự khủng
hoảng vô cùng.
Đoạn đường sa chân lỡ bước của Huyền bắt đầu từ chỗ lấy chồng. Đây là một
cuộc hôn nhân ép buộc. Huyền bị ép duyên với Kim. Kim là một viên tham tá, công
chức hành chính thời Pháp thuộc. Huyền được hắn hỏi về làm vợ. Mẹ Huyền - bà mẹ
khốn khổ, tội nghiệp có chồng ngoại tình rồi chồng có vợ bé. Bà mẹ sợ chết đi để lại
29
đàn con bơ vơ trong cảnh mẹ ghẻ con chồng nên đã van xin Huyền nhận lời, dù nhà trai
đòi cưới chóng vánh chỉ trong vòng nửa tháng. Huyền chưa kịp mở miệng, ông bố đã
nổi cơn thịnh nộ o ép, áp đặt: “mày câm đi! ông là bố mày, ông có quyền gả chồng cho
mày lắm, ông bắt mày ngồi đâu thì mày phải ngồi đấy!”. Một gia đình những tưởng là
văn minh, tân tiến mà lại không phải như thế! Vẫn là ép duyên, vẫn là “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” đã ăn sâu bén rễ từ muôn đời muôn kiếp không dễ gì thay đổi được. Mối
tình vụng dại giữa Huyền và Lưu kết thúc hết sức bi thảm. Đến bước đường cùng,
không có cách nào bảo vệ được tình yêu, Lưu tự tử để lại thư tuyệt mệnh và không hề
đả động gì đến tình yêu với Huyền. Rồi Huyền về nhà chồng. Cảnh vợ chồng Huyền
với Kim thật kì lạ, thật oái oăm. Tối tân hôn, lang quân rất mực lịch sự, chẳng ép nài
vợ mây mưa. Rồi cả tuần cứ như thế! Thì ra Kim mắc bệnh giang mai do thói ăn chơi,
chung đụng bừa bãi. Thật trơ trẽn, Kim đã thanh minh: “Đàn ông bây giờ mắc bệnh
phong tình, đó có là sự quái gở gì đâu! Thiếu niên mắc nhan nhản ra đấy. Mà họ còn
năm lần bảy lượt. Đàn ông như tôi là đã ngoan lắm, mợ biết chưa”. Kim kiêng quan hệ
tình dục với vợ cho đến khi khỏi bệnh. Nhưng không đêm nào là Kim không quấy rầy
vợ bằng cách “nửa đời nửa đoạn” làm cho Huyền cứ bị khiêu khích dữ dội rồi lại
chưng hửng khi chưa thỏa mãn. Trong khi đó, ban ngày Huyền được chồng đem đi dự
các trò chơi bời lố lăng của xã hội thượng lưu tân thời: xem phim, ăn hiệu, chợ phiên,
nhảy đầm, đua ngựa, cá độ... Đây là nơi mà xã hội thượng lưu “hiện nguyên hình là
một lũ bợm đĩ dưới hình thức choáng lộn, và tiến bộ, và văn minh... lẫn lộn với bọn
nam nhi cũng đánh phấn, bôi môi gần như đàn bà, và bọn đàn bà thì nhờ những mốt y
phục tối tân kỳ lạ nó phô phang cả đùi lẫn ngực ra dưới làn voan mỏng một cách rất
lịch sự”. Huyền là phụ nữ có chồng. Bởi vậy, khát vọng về hạnh phúc gối chăn luôn
luôn âm ỉ trong lòng. Nhu cầu về hạnh phúc xác thịt của Huyền là hoàn toàn chính
đáng. Vậy mà vô hình trung Kim đã hành hạ Huyền một cách ghê gớm. Việc Kim “nửa
đời nửa đoạn” với Huyền đã là một sự hành hạ không hề nhỏ, sự hành hạ lớn hơn là
khích lệ, cổ súy cho vợ gia nhập xã hội thượng lưu thành thị nửa mùa nhầy nhụa và
30
kệch cỡm vô đối. Cho nên, việc Huyền sa chân lỡ bước để rồi ngoại tình là một việc
như được dự báo từ trước.
Con đường tha hóa, biến chất để trở thành gái điếm của Huyền đau lòng, bất
hạnh nhất chính là ở giữa đám người ăn chơi động cỡn của xã hội thị thành nửa mùa,
Huyền gặp Tân. Vì muốn khoe khoang, sĩ diện, a dua đua đòi, Kim như đem vợ ra làm
mồi nhử Tân. Kim tự đắc khoe với vợ rằng Tân là bạn cũ, là con một viên Tổng đốc rất
giàu, lấy vợ từ năm mười tám, bỏ vợ sang Pháp du học rồi về nước chẳng làm gì cả,
sống một mình để hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Kim tấm tắc khen: “Thật là một người
sung sướng nhất đời! Có danh vọng, có học thức, có tiền bạc, lại không bận bịu vợ con!
Tự do đủ mọi đường, sướng thật”. Tân là thần tượng của Kim. Kim tự hào, hãnh diện
có một người bạn sang giàu như thế, danh giá như thế, ga lăng như thế! Tân đã đưa
Kim và Huyền về đến tận nhà bằng ô tô riêng của mình. Khi mà Huyền còn giữ khoảng
cách, Kim mắng vợ: “Mợ lại tiếp đãi người ta nhạt nhẽo như thế. Nói thế mà cứ cãi thì
chó cũng không nhịn được!... Thì mợ cứ tiếp đãi người ta cho mặn mà hơn nữa thì đã
sao? Mợ là nhà quê đấy à? Mợ ngu đần xưa nay đấy à?”. Những ngày sau, thấy Huyền
“tự nhiên như đầm, đáng mặt phụ nữ tân thời”, nghĩa là Huyền bạo dạn tiếp đãi Tân
thân mật, Kim tỏ vẻ sung sướng, mãn nguyện: “tốt lắm, thế là rất phải”, “mình đã
thành ra một phu nhân của giới thượng lưu rồi đấy”. Cuộc đời lắm cạm bẫy luôn rình
rập, vây bủa lấy Huyền! Đó là việc Tân kiếm cớ mời Huyền đi Lạng Sơn, Huyền tỏ ý
ngại, Kim cổ vũ: “Nghi hoặc thì là người cả ghen... Thế thì lọ lắm! Sống cuộc đời mới,
theo Âu hóa thì không được nghi ngờ như người cổ hủ... Thôi đi, mợ cũng hủ bại vừa
chứ! Đừng hỏi nữa! Đồ ngu!”. Thái độ sùng bái “Tân thời”, “Âu hóa” của Kim đã đẩy
vợ vào tay bạn, vẽ đường cho Huyền và Tân cùng nhau ngoại tình. Thử hỏi rằng cuộc
sống gối chăn của Huyền với chồng như thế, giữa bao cạm bẫy như thế, Huyền làm sao
mà không thể không ngoại tình! Huyền là người bằng da bằng thịt chứ không phải là
tượng đá hay khúc gỗ. Nhu cầu yêu và được yêu, nhu cầu về hạnh phúc gối chăn là
điều hết sức chính đáng! Nhưng tất cả những thứ đó, Kim - chồng Huyền không đem
31
lại cho Huyền. Bởi vậy, ta không đồng tình với việc Huyền ngoại tình nhưng ta dễ
dàng cảm thông cho một cô gái trẻ đẹp tràn đầy sức xuân ngã vào vòng tay của kẻ cáo
già trong tình trường, dạn dày kinh nghiệm trong việc chinh phục và lừa gạt đàn bà là
Tân. Đến khi việc vỡ lở, bộ mặt tàn nhẫn của Kim thật đê tiện: “Em chưa nói hết thì
một cái đấm rất độc địa thúc vào mặt em khiến em ngã lộn nhào... Bất tỉnh nhân sự, em
không biết gì nữa”; “Lúc ấy em vẫn còn bàng hoàng... cả một bên mặt đau tê tái, cái
xương quai hàm tựa hồ như đã long khớp, hàm răng như muốn rơi ra. Rồi em sợ hãi, sợ
hãi quá đi mất!”. Hành động nhẫn tâm chưa đủ, Kim còn thóa mạ Huyền bằng những
lời lẽ cay độc: “Thế nào? Ly dị nhé? Bằng lòng không? Để tao dắt mày về nhà mà cho
bố mẹ mày nghe những chuyện đê nhục của mày! Rồi tao lại dắt mày đến tòa cho mày
nhận tội trước mặt những ông quan tòa! Rồi thì mày muốn lấy đứa nào thì lấy, đi theo
thằng nào thì theo!”. Huyền đau đớn, nhục nhã đến ê chề: “Thế thì chết! Thế thì đến tự
tử! Bố mẹ em mà biết em thế này thì em không sống được! Trời ơi! Thì ra em đã có
một người bố, một người mẹ! Em chưa làm nổi sự gì để đền ơn trả nghĩa mà sao em lại
còn ăn ở đê mạt để cho bố mẹ phải nhục nhã như thế, hử em? Sao lại mãi đến bây giờ
em mới nhớ đến bố mẹ? Rồi thầy em sẽ ra thế nào? Liệu me em có sống nổi nữa
không? Hở Trời? Em chắp tay như trước một bức tượng Phật, thất thanh kêu van rất
thê thảm”. Hành động độc ác của Kim lên đến tận cùng, sự bỉ ổi của Kim lên đến đỉnh
điểm khi bắt vợ chép lại cái gọi là lời thú tội do chính y soạn thảo. Và tất nhiên, trong
cái gọi là lời thú tội ấy, Kim bắt Huyền chép cả những việc mà Huyền không hề làm
như đã đem nhiều tiền của chồng ra cùng nhân tình tiêu hoang: “Tôi, viết những dòng
này và ký tên dưới đây, vợ chính thất và chính thức của ông... xin thú tội rằng đã trót
phạm tội lừa chồng tôi, đã nhiều lần ngoại tình với một người bạn chồng tôi là Tân. Tôi
đã đem nhiều tiền của chồng ra cùng với nhân tình tiêu hoang vào những cuộc chơi bời
lãng phí”. Kim đã trở mặt như trở bàn tay. Hắn đã đem hết mánh khóe pháp luật để trói
buộc Huyền – nạn nhân khốn khổ khốn nạn. Từ đó, Huyền sống với thân phận như tôi
đòi, chỉ được ăn ở với người giúp việc. Thật tàn nhẫn và độc ác! Sự tàn nhẫn và độc ác
32
của Kim cũng chính là sự tàn nhẫn và độc ác của chế độ nam quyền đầy rẫy những bất
công ngang trái! Thì ra Kim chung chạ bầy đàn đến mắc bệnh nhưng lại tự cho mình
cái quyền được đánh đập, hành hạ, mạt sát Huyền khi lỡ ngoại tình thật khủng khiếp,
dữ dội, ghê gớm. Huyền ngây thơ, trong sáng, nhẹ dạ, mỏng manh như thế làm sao có
thể chống chọi lại được Kim cũng như xã hội như miệng hùm, hang sói! Ấy vậy mà xã
hội vẫn tung hô cái gọi là giải phóng nữ quyền! Rõ ràng, xã hội Việt Nam những năm
ba mươi của thế kỉ trước quả là lố bịch, kệch cỡm, rởm đời lên đến tận cùng.
Bị hắt hủi, ghẻ lạnh; bị bạo hành cả thể xác lẫn tinh thần; đau đớn không chỗ
bấu víu, Huyền tìm kiếm Tân. Tân hiện nguyên hình là kẻ Sở Khanh đểu giả dưới vỏ
bọc của một người tỏ ra tử tế: “Tôi cho mục đích của ái tình không phải là hôn sự... Tôi
sợ hôn nhân lắm... Tôi tin hôn nhân làm hại ái tình... Em muốn li dị chồng à? Để lấy
Tân à? Ồ! Không! Không đời nào! Tất em đã rõ là anh thù ghét hôn sự!... Yêu nhau thì
phải lấy nhau, ấy những cái “gai” của ái tình chính là hôn sự. Cho nên ở những nước
văn minh, cái lý tưởng của người đàn ông là có một người vợ chung tình để mà lừa vợ
với một số nhân tình khác, cũng như cái lý tưởng của người đàn bà là có một người
chồng mù lòa để cho mình san sẻ cái tinh hoa của ái tình cho một người nhân ngãi... ”.
Và Tân “cười nhạt” trơ trẽn: “Lúc nào anh cũng có dăm bảy cô nhân tình!” và y nói
đều xem họ “là những thứ đồ chơi tạm bợ”. Đến đây, ta không thể không bức xúc trước
lí lẽ khốn nạn, đểu cáng của Tân. Con người đạo đức giả ấy thật sự không còn ngôn từ
nào để diễn tả sự bỉ ổi của y. Và rồi, Khi Huyền biết Tân - kẻ Sở Khanh đang được cả
xã hội tung hô - đang chấm thi hoa hậu ở Sài Gòn, Huyền bỏ nhà vào tìm Tân để quyết
giết chết kẻ phụ tình. Không tìm được Tân, tiền hết, không còn để trả tiền buồng, đành
nghe lão chủ khách sạn dụ dỗ tiếp khách làng chơi, cùng quẫn, khiến Huyền trở thành
gái điếm. Quá trình tha hóa trở thành gái điếm của Huyền tưởng vô lí, không thể xảy ra
mà cuối cùng lại là có lí và đã xảy ra. Từ việc không được giáo dục giới tính, làm
chuyện chồng vợ với thằng Ngôn đến việc mất trinh, lấy chồng, ngoại tình, sa cơ lỡ
bước làm đĩ một lần, rồi nhiều lần, rồi trở thành gái điếm chuyên nghiệp, lành nghề lúc
33
nào không hay diễn ra một cách thật lôgich. Điều không tưởng mà lại rất đỗi tự nhiên.
Việc Huyền làm đĩ gióng lên hồi chuông đau lòng, thống thiết về khoảng cách, ranh
giới giữa người lương thiện và gái điếm quả là rất mong manh. Vẫn còn thực trang xã
hội như thế này thì việc con người trở thành gái điếm dễ dàng như trở bàn tay.
Rõ ràng, gia đình và xã hội đã đẩy Huyền đến chỗ làm đĩ. Vũ Trọng Phụng tả
con đường từ gái tân thời đến gái đĩ của Huyền, đẩy Huyền vào con đường ấy là hai kẻ
đàn ông: Kim - thằng chồng đê tiện, độc ác và Tân - thằng tình nhân đểu giả, lọc lừa.
Cả hai đều bỉ ổi, khốn nạn, ích kỷ đến cùng cực. Huyền là nạn nhân, là con mồi tội
nghiệp, đáng thương. Đẩy Huyền vào con đường làm đĩ còn có sự nguy hiểm của
những phương tiện truyền thông, những loại hình nghệ thuật, nhất là phim ảnh, tiểu
thuyết tình cảm lãng mạn, Vũ Trọng Phụng đã để cho Huyền nhận định “đã nhiễm phải
ảnh hưởng của mấy tờ báo mà ngày nào người ta cũng bàn bạc om sòm về các ngôi sao
chớp bóng... mà người ta cứ viết thẳng một cách ngây thơ chẳng ngượng ngòi bút là
sex appeal... em đã làm cho một người phải ham muốn em... bằng cách khiêu dâm...
Không, bằng sex appeal, nói thế hơn, vì nói tiếng mẹ đẻ thì việc ấy mất hết thi vị,
không có vẻ mỹ thuật nữa mà lại dâm đãng một cách bản xứ, mặc lòng nghĩa lý của hai
thứ tiếng vẫn chỉ là một!... Vạn tuế cho bọn “văn sĩ” của mấy rạp chớp bóng!”. Hay khi
Huyền tìm một cái bút chì trong cặp sách của ông anh thì một tập ảnh rơi tung tóe ra
trước mặt... Ảnh trai gái khỏa thân, trần truồng hoàn toàn. Như vậy, “hoàn cảnh xấu,
những bạn hữu xấu, một nền giáo dục sai lầm ngần ấy cái đã làm cho em hóa ra đến
nỗi như này”. Số phận của Huyền thật ê chề, nhục nhã và bi thảm. Quá trình tha hóa,
biến chất của Huyền thật xót xa. Chính thiếu đi sự giáo dục của gia đình, thêm vào đó
là cạm bẫy chết người của xã hội đã biến Huyền từ một cô gái ngây thơ, trong sáng,
ngoan hiền trở thành một gái điếm chuyên nghiệp.
34
2.2. Nhân vật gái điếm trong Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa
xã hội đương thời
Ngọc Giao sinh năm 1911 mất năm 1997 tại Huế trong một gia đình trung lưu.
Năm 7 tuổi, ông theo gia đình ra Bắc, học ở Quảng Yên rồi lên Hà Nội. Sau khi đỗ
bằng Thành chung (1928), ông ra làm báo và viết văn. Từ năm 1934 cho đến năm
1945, ông là một trong số cây bút chuyên viết truyện ngắn cho báo Tiểu thuyết thứ Bảy.
Ông từng làm Thư ký tòa soạn cho báo này. Ông còn là cộng tác với nhà xuất bản Tân
Dân trong việc in ấn các loại sách báo: Tiểu thuyết thứ Bảy, Những tác phẩm hay, Phổ
thông bán nguyệt san, Tao Đàn, Truyền bá. Tác phẩm đầu tay của nhà văn Ngọc Giao
là tập truyện ngắn Một đêm vui đăng trên Phổ thông bán nguyệt san số 3 ra ngày 1
tháng 2 năm 1937. Thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954), ông cùng gia đình tản
cư lên ở Nhã Nam (Yên Thế, Bắc Giang) một thời gian ngắn. Sau đó ông trở lại Hà
Nội, tiếp tục viết văn, làm báo. Lúc này ông viết cho các tờ: Phổ thông, Thế kỷ, Sinh
lực, Lẽ sống, Lên đường, Công tội, Tiểu thuyết thứ Bảy... Những tác phẩm của ông viết
trước năm 1945 như tiểu thuyết Nhà quê và các tập truyện Một đêm vui, Phấn hương, Cô
gái làng Sơn Hạ đã làm nên tên tuổi một nhà văn nghiêng về những cảnh đời của trí thức
nghèo và những thân phận dưới đáy xã hội, nhất là phận kiếp cầm ca, gái điếm. Thời kỳ ở
Hà Nội tạm chiếm, ông vẫn tiếp tục viết và có những tác phẩm đáng chú ý như Quán
gió (1948), Ðất (1950), Cầu sương (1953). Với khoảng ba trăm truyện ngắn và mười tiểu
thuyết, Ngọc Giao là một tác gia văn học lẽ ra phải cần được nghiên cứu, tìm hiểu, sau
một thời gian dài im lặng, chìm khuất.
Một tác phẩm của Ngọc Giao tưởng đã thất lạc lại được tìm thấy. Ðó là phóng sự -
tiểu thuyết Xóm Rá. Trong lời đầu sách viết năm 1995, nhà văn cho biết ông đã thâm
nhập Xóm Rá ở Sài Gòn năm 1949. Nơi đây là một cõi địa ngục, một chốn mại dâm, một
vùng đất cấm: “Nếu nói đến hiện thực thì đây là một tác phẩm đủ sức ghi lại một phần
lớn sự kiện về con người và xã hội Sài Gòn ngày ấy”. Nhà văn Ngọc Giao viết truyện
ngắn này năm 1957 tại Hà Nội. Nhưng hoàn cảnh xã hội thời ấy đã khiến ông buông bút
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao

More Related Content

What's hot

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
PinkHandmade
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpLiên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Man_Ebook
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAYLuận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Man_Ebook
 
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAYDấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpLiên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAYLuận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
Luận văn: Motif li tán trong thần thoại các tộc người thiểu số, HAY
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAYDấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 

Similar to Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao

Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdfĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
NuioKila
 
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.docÝ Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảoTh s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
https://www.facebook.com/garmentspace
 
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docxCHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
TRNH287864
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bảnPhức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAYLuận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.docNhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
NguynHiu415274
 
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Trần Đức Anh
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Mở bài
Mở bài Mở bài
Mở bài
TrnNgcLy
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao (20)

Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
 
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdfĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
 
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.docÝ Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
 
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảoTh s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
 
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docxCHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ.docx
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
 
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bảnPhức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAYLuận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
 
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.docNhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
Nhân Vật Nữ Trong Truyện Ngắn Võ Thị Xuân Hà.doc
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận văn học Việt Nam, HAY, 9 ĐIỂM
 
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
 
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
Tiểu Thuyết Đề Tài Chiến Tranh Của Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Từ Góc Nhìn Phân T...
 
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Mở bài
Mở bài Mở bài
Mở bài
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (10)

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 

Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO PHÚ NGHĨA NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG “LÀM ĐĨ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ “XÓM RÁ” CỦA NGỌC GIAO Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Vũ Thị Trang Hà Nội, 2019
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các nội dung trong luận văn này hoàn toàn được hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Trang. Các trích dẫn rõ ràng, các dữ liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Tác giả Đào Phú Nghĩa
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................1 NỘI DUNG ............................................................................................................7 Chương 1. TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX ..7 1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam.........................................7 1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX..........................14 Chương 2. NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNGVÀ XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI ............................................................................21 2.1. Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời....................................................................................21 2.2. Nhân vật gái điếm trong Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời .................................................................................................34 Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬTGÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNGVA XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO........................................................................................................52 3.1. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao .......................................................................52 3.2. Vấn đề giao thoa thể loại phóng sự - tiểu thuyết ..........................................63 KẾT LUẬN..........................................................................................................72 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................73
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa, trong xã hội Việt Nam, người phụ nữ luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi với quan niệm phong kiến: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Trong các tài liệu sử học, văn hóa học cũng như văn học, rất nhiều công trình, tác phẩm thể hiện rõ vấn đề này, thậm chí đến ngày hôm nay người phụ nữ cũng chưa thể có được một vị trí và sự bình đẳng với nam giới. Sự xuất hiện của thực dân Pháp ở nước ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ, “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn”, dẫn đến sự xuất hiện của một bộ phận những cô gái bán dâm để tồn tại. Vào đầu thế kỉ XX, ở nước ta vấn đề đó thực sự là một vấn nạn được ghi lại trong nhiều tài liệu nói chung cũng như trong văn học nói riêng. Hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao đều nói về cuộc đời, số phận của những người phụ nữ không chỉ đớn đau về thân xác mà quan trọng hơn họ phải gánh chịu nỗi đau về tinh thần. Về thân xác họ bị hành hạ, bị hãm hiếp đến bầm dập. Về tinh thần, họ bị tha hóa, biến chất: từ chỗ là những cô gái ngây thơ, trong sáng để rồi phải ê chề, nhục nhã chịu cảnh gái điếm. Trong cảnh đời gái điếm, họ luôn luôn bị dày vò, muốn quẫy đạp, bứt phá khỏi hoàn cảnh nhưng dòng đời xô đẩy khiến họ rơi vào bi kịch không lối thoát. Điều đó khiến độc giả luôn trăn trở, day dứt, cảm thương. Hiện tượng gái điếm không chỉ có tính thời sự đối với xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX mà mãi là nỗi đau, sự nghiệt ngã trong xã hội hôm nay và có lẽ là cả mai sau. Tìm hiểu nhân vật gái điếm không những cho ta hiểu hơn về hiện thực xã hội cũ, hiểu hơn về giá trị nhân văn sâu sắc của văn học thời kỳ này mà còn giúp ta phải nhìn nhận lại, phải băn khoăn, day dứt, trăn trở. Cũng qua đó gióng lên hồi chuông khiến ta phải giật mình, thảng thốt, đó là sự méo mó về nhân cách con người, sự suy đồi, xuống cấp một cách trầm trọng về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong xã hội ngày nay. Nhân vật gái điếm thực ra đã xuất hiện trong văn học trung đại với tên gọi khác là kĩ nữ trong những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Long thành cầm gia
  • 5. 2 ca, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ... Tuy nhiên, trong văn học giai đoạn đó, người ta mới chỉ quan tâm đến những anh hùng liệt nữ chứ không mấy quan tâm đến những nhân vật được cho là “bên lề” như vậy. Đầu thế kỉ XX, cũng có những sáng tác về vấn đề này nhưng cũng không có nhiều những công trình nghiên cứu về nhân vật gái điếm. Thực ra, về bản chất triết học của cuộc sống, có lẽ hiện tượng/nhân vật này sẽ tồn tại muôn đời cùng với nhu cầu của con người. Xã hội càng hiện đại, con người dần có cái nhìn bớt khắc nghiệt hơn và càng ngày càng khẳng định sự tồn tại của ngành công nghiệp mại dâm với những cơ chế quản lý cụ thể. Vì vậy, cần có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Lựa chọn đề tài nghiên cứu Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao chúng tôi hi vọng hiểu hơn về nhóm nhân vật/con người này cũng như mong muốn tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội văn hóa đầu thế kỉ XX qua hai tác phẩm văn học nổi tiếng của hai nhà văn tài hoa. Từ đó có những nắm bắt về hiện tượng được miêu tả cũng như giá trị nhân văn và nghệ thuật của hai tác phẩm. Đồng thời góp phần nhìn nhận lại số phận của những con người chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, bước đầu lí giải hoàn cảnh dẫn đến bước đường bán thân của những cô gái từ góc nhìn văn học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về đề tài kĩ nữ, gái đĩ, gái điếm không phải là đề tài mới. Trong công trình Bàn về Truyện Kiều trích trong cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, do Đình Gia Khánh chủ biên, Đặng Thai Mai cũng nhấn mạnh số phận của nhân vật Thúy Kiều: “Qua tập truyện của Nguyễn Du, người ta thấy những cảnh đáng thương nhất trong xã hội phong kiến:… cô thiếu nữ bị mua về bán đi trên thị trường thương mại. Bị đày đọa trong chốn thanh lâu, hy sinh cho thú tính của một hạng người ích kỷ, đi làm nô tỳ dưới một chế độ bán nô lệ. Kiều chính là hiện thân của một giai nhân, một thiên tài bị đày đọa qua những cảnh sống éo le, đau đớn” [16, tr. 49]. Hay Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ
  • 6. 3 chữ Hán Nguyễn Du, tác giả Lê Thu Yến cũng đã đề cập đến thân phận những người ca nữ tài sắc nhưng số phận thật nghiệt ngã, bi thương: “Hình tượng con người đau khổ còn là hình ảnh những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh. Họ dù là hạng người nào: một bà phi, một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết sức trân trọng” [56, tr. 68]. Cũng trong luận án này, tác giả Lê Thu Yến còn nhấn mạnh: “Nguyễn Du đặc biệt thương cảm đối với những người phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Tất cả họ đều là người có tài, có sắc, nức tiếng một thời. Đó là nàng Tiểu Thanh, người ca nữ đất La Thành, người hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành… Thời tuổi trẻ các nàng tài sắc không thua kém ai… nhưng rồi người ca nữ đất La Thành chết trẻ, Tiểu Thanh oan thác, người hầu cũ của em tàn tạ, rách nát, cô Cầm tiều tụy, xác xơ… Hình ảnh ấy gây một mối thương tâm lớn lao trong Nguyễn Du. Những con người tài hoa không dễ dàng tồn tại một cách bình yên trong cuộc đời” [56, tr. 70]. Lâm Khang trong Những bi kịch của ả đào xưa đã viết thật xúc động: “Các cô đào, dù hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà, giấu đi cái hành trang một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lừng lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách - khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”. Các ca nữ thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để độ nhật. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, có bà không dám nói hay nhận mình là cô đầu...”. Kỹ nữ sử (Lịch sử kỹ nữ) của Từ Quân và Dương Hải là một tác phẩm nghiên cứu về nghề kỹ nữ ở Trung Hoa. Mặc dù các dẫn chứng trong tác phẩm
  • 7. 4 chủ yếu lấy từ lịch sử Trung Hoa song tác phẩm vẫn có giá trị tổng kết chung nhất định. Tác phẩm nói về lịch sử kỹ nữ ở Trung Hoa, không phải ở Việt Nam. Nhưng với sự tương đồng về mặt văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa thời phong kiến, ta có thể tưởng tượng được phần nào cuộc sống của kỹ nữ Việt Nam ngày xưa. Số phận người phụ nữ nói chung và người kỹ nữ nói riêng ở nơi nào, giai đoạn nào cũng đều đáng thương như nhau. Điểm qua những ý kiến ở trên, có thể thấy rõ đề tài kỹ nữ trong văn học trung đại đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu. Và đề tài ấy tiếp tục được nghiên cứu và đi vào trong các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX. Chẳng hạn, Khái Hưng và Nhất Linh đã xuất bản cuốn Đời mưa gió hay Nguyên Hồng với Bỉ vỏ. Các tác phẩm này, lâu nay vẫn được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm. Đã có biết bao công trình nghiên cứu, biết bao giấy mực đề cập đến những nội dung của những tác phẩm này. Và trong những năm gần đây, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Hoàng Yến với đề tài Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam đã để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trong luận văn tác giả viết: “Người kỹ nữ vẫn bị xem là hạng người dưới đáy xã hội, bị toàn xã hội coi thường và tước đoạt quyền sống, quyền làm một con người bình thường, quyền hạnh phúc. Vậy mà, người kỹ nữ chưa bao giờ để cho khát vọng của mình bị dập tắt bởi bất cứ thế lực nào. Họ luôn tìm mọi con đường để giải thoát mình và hướng tới một cuộc sống hạnh phúc. Từ những người ca nữ chưa được thể hiện sâu sắc trong những tác phẩm thuộc thời kỳ đầu của văn học trung đại, cho đến những kỹ nữ được mô tả một cách sinh động với đầy đủ mọi cung bậc tâm trạng, tích cách, số phận ở giai đoạn sau, tất cả đều là những con người luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức về bản thân rất cao trên con đường đi tìm hạnh phúc”[57, tr. 97]. Trong dòng chảy đó, người viết góp thêm một tiếng nói, một suy nghĩ, một cái nhìn qua luận văn Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Những công trình nghiên cứu đi trước chính là tiền đề để người viết tham khảo, lựa chọn và
  • 8. 5 thực hiện đề tài. Hy vọng luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói về một vấn đề không kém phần nhạy cảm và có tính thời sự trong xã hội ngày nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao, luận văn nhằm phân tích hình ảnh nhân vật gái điếm được thể hiện trong hai tác phẩm. Luận văn sẽ đi sâu vào phân tích đặc điểm tính cách nhân vật và đặc biệt là số phận của những con người này. Trong quá trình phân tích, ta sẽ cảm nhận được những ngóc ngách tình cảm, nội tâm, những nỗi đau, tủi nhục, ê chề và những khát khao của những thân phận yếu đuối, mỏng manh, bất hạnh. Từ đó sẽ cho ta thấy rõ hơn về hiện thực xã hội, tình cảm, thái độ của nhà văn đối với lớp người này. Đó cũng là giá trị hiện thực và giá trị nhân văn cao cả mà các tác phẩm hướng tới. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, giọng điệu; đặc biệt là vấn đề giao thoa thể loại tiểu thuyết - phóng sự với tính chân thực, tính thời sự, chất tiểu thuyết tâm lí - luận đề, thời gian và không gian nghệ thuật trong hai tác phẩm. Từ đó thấy được tài năng của hai nhà văn Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhân vật gái điếm – từ đó để tìm ra cái hay trong cách xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao. Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao trong tương quan mở rộng với các sáng tác khác của hai nhà văn này và các sáng tác khác của các nhà văn có cùng về chủ đề này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp nghiên cứu loại hình, văn hóa – lịch sử, liên ngành, phê bình phân tâm học, lí thuyết thi pháp học và tự sự học... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
  • 9. 6 Về mặt lý luận, luận văn góp một cái nhìn về cách xây dựng nhân vật gái điếm trong hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Luận văn đã thể hiện nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình tiết; nghệ thuật xây dựng nhân vật... Từ đó giúp ta có thể khái quát về cách xây dựng loại hình nhân vật này nói chung. Về mặt thực tiễn, luận văn giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử văn hóa giai đoạn này, hiểu hơn về thân phận người phụ nữ nói chung và nhân vật gái điếm nói riêng trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về các chủ đề liên quan, làm tài liệu cho giảng dạy tác phẩm trong chương trình phổ thông… 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn chia làm ba chương: Chương 1: Từ hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại đến nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX Chương 2: Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời Chương 3: Một số vấn đề về nghệ thuật thể hiện nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao
  • 10. 7 NỘI DUNG Chương 1 TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX 1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam Văn học trung đại phản ánh chân thực xã hội phong kiến Việt Nam. Đây là một thời kì đầy biến động mà qua văn chương ta có thể thấy được bối cảnh lịch sử thời ấy. Từ vận mệnh đất nước, dân tộc đến những nỗi niềm của người dân trong cuộc sống hằng ngày đều được phản ánh trong văn học. Trong đó, có cả chất hào sảng của hào khí Đông A trong thời Lý Trần với tinh thần quyết chiến, quyết thắng chống lại kẻ thù của dân tộc, có cả tiếng nói đau thương, bi ai, thống thiết cho số kiếp của những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội thế kỉ XVIII – XIX. Hiện thực được phản ánh chủ yếu trong tác phẩm chính là những mặt trái của xã hội. Đó là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ với bộ mặt xấu xa, vô nhân đạo của xã hội phong kiến dưới chế độ nam quyền, là sự rối ren, chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra bao bất hạnh cho con người. Đó là Vũ trung tùy bút của Phạm Hổ phản ánh cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa, sự nhũng nhiễu của bọn quan lại Lê - Trịnh. Đó là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái tái hiện sự hỗn loạn của xã hội phong kiến thông qua số phận bi thảm, bộ mặt hèn nhát của lũ vua quan bán nước, hại dân. Chất nhân văn luôn thấm đẫm từng trang viết trong các tác phẩm văn chương. Bởi vậy, cất tiếng nói để ca ngợi, để thông cảm với con người là nội dung ta dễ dàng nhận thấy trong văn học trung đại. Đặc biệt là số phận người phụ nữ - những con người luôn phải chịu thiệt thòi, bất hạnh. Đó là số phận oan trái, bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đó là số phận chìm nổi của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã rất nhiều lần nói về sự bất hạnh của những con người tài sắc: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?”; “Phận sao bạc chẳng vừa thôi/ Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan”;
  • 11. 8 “Đầu xanh có tội tình gì/ Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”. Đúng là “hồng nhan bạc phận”, “hồng nhan đa truân”. Người đẹp, đặc biệt là người tài sắc hay gánh chịu một số phận gian nan: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Đất nước ta phải chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, bởi vậy có sự giao thoa về văn hóa rất gần gũi với Trung Hoa. Nét văn hóa mà ta chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất đó là đạo Nho của Khổng Tử. Đạo Nho của Khổng Tử là một tôn giáo đã trói buộc con người vào khuôn mẫu, vào những phép tắc lễ nghĩa. Những trói buộc đó tác động rất lớn đến cuộc sống của những người phụ nữ. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Thân phận người phụ nữ phải chịu bao đắng cay, nhục nhã, ê chề. Họ hoàn toàn phụ thuộc, lệ thuộc vào người đàn ông. Ca dao đã từng cất lên lời than thân, trách phận ngậm ngùi, chua xót: “Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”; “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Với những người có tài sắc thì tài sắc càng là mối tai họa hơn. Họ thường bất hạnh vì chính tài sắc của mình. Họ trở thành nạn nhân của vua chúa, quan lại, địa chủ, cường hào. Họ hoàn toàn không chủ động được cuộc sống của mình, không có quyền lựa chọn riêng cho mình cách sống, cách ứng xử, thậm chí là làm chủ thân xác và tâm hồn mình. Họ bị tuyển mộ, dâng nạp, gả bán cho quan lại, vua chúa, cường hào, địa chủ để rồi trở thành công cụ thỏa mãn nhục dục của tầng lớp trên. Khi sắc đẹp phai tàn, số phận của họ trở nên thật bi đát. Bên cạnh là công cụ mua vui, người tài sắc còn là một phương tiện để tầng lớp thống trị thực hiện những mưu đồ chính trị. Đau đớn thay, khi cần thì tầng lớp thống trị dùng sắc đẹp của người phụ nữ vào việc tranh giành quyền lực, còn khi thực hiện thành công mưu đồ thì có thể họ sẽ kết thúc cuộc đời của các mỹ nhân một cách tàn ác, không thương tiếc. Rõ ràng, xã hội nam quyền với sự lạm dụng vô hạn quyền lực của nam giới đối với người phụ nữ đã gây ra bao thảm cảnh. Hiện thực ấy đã giúp rất nhiều tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt làm nên giá trị hiện thực - một trong những phương diện tư tưởng quan trọng của tác phẩm. Thông qua hiện thực ấy, các tác giả đã lên
  • 12. 9 tiếng tố cáo đanh thép xã hội phong kiến, thể hiện sự bất bình cao độ, đặc biệt là cất lên tiếng nói đồng cảm, xót xa, bênh vực và bảo vệ con người. Điểm qua một vài nét về không gian văn hóa xã hội Việt Nam trung đại để có cái nhìn bao quát về sự xuất hiện và tồn tại của hình ảnh người kỹ nữ trong văn học giai đoạn này. Theo Từ điển Hán Việt của Nguyễn Tôn Nhan, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2003, thì từ kỹ nữ có các nét nghĩa sau: Chữ “kỹ” (nhân + chi): Có nghề, có tài năng; Nữ nhạc công, con hát Thời cổ [32, tr. 28]. Chữ “kỹ” (nữ + chi): Gái đẹp; Người phụ nữ làm nghề ca hát; Tục gọi gái đĩ [32, tr. 190]. Chữ “kỹ” (thủ + chi): Tài năng, có nghề; Thợ giỏi [32, tr. 325]. Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thể thao, 2005, trang 1095 thì kỹ nữ là người con gái đẹp, đào hát, gái làm nghề mại dâm. Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 980 thì kỹ nữ là người con gái làm nghề ca hát và mại dâm trong chế độ cũ. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 638 thì kỹ nữ là gái hành nghề tại các thanh lâu, kỹ viện. Như vậy, chúng ta thấy một điều rằng kỹ nữ ban đầu không phải là loại phụ nữ làm nghề bán thân mà vốn là những người hát, ca múa, mang tính chất nghệ thuật. Qua thời gian, càng về sau, cách hiểu về từ kỹ nữ càng xa so với ý nghĩa ban đầu của nó. So với ý nghĩa ban đầu thì càng về sau, khái niệm kỹ nữ càng gần với việc bán dâm. Thái Thuận đã diễn tả tâm trạng của kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu thưở ăn chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm/ Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền quyên nhớ một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là sự nuối tiếc đến khắc khoải của
  • 13. 10 người ca kĩ khi đến tuổi xế chiều. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm văn học đầu tiên có hình ảnh của người kỹ nữ của văn học trung đại. Đến thế kỉ XVI, giai cấp phong kiến suy tàn, đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than, cơ cực. Thơ văn đã cất lên tiếng nói phê phán bè lũ thống trị, cảm thông với những số phận “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Hình ảnh những con người với cuộc sống cùng cực đã trở thành hình tượng trung tâm trong những sáng tác. Đặc biệt, một trong những hình ảnh gợi lên nhiều nỗi thương tâm, suy nghĩ, trăn trở nhất là số phận của những người phụ nữ. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tạo tiền đề cho việc xuất hiện phổ biến hơn hình ảnh người kỹ nữ trong thơ văn trung đại. Các truyện Chuyện nghiệp oan của Đào Thị và Chuyện nàng Túy Tiêu là những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật nữ có những biểu hiện đặc trưng của người làm nghề kỹ nữ. Thế kỷ XVIII, người kỹ nữ đã xuất hiện hàng loạt trong những sáng tác mà tiêu biểu hơn cả là những sáng tác của Nguyễn Du như Long Thành cầm giả ca (trích trong Bắc hành tạp lục), La Thành mại ca giả (trích trong Thanh Hiên thi tập), Ngộ gia đệ cựu ca cơ (trích trong Bắc hành tạp lục), Văn chiêu hồn, Truyện Kiều... Với những tác phẩm trên, những nhân vật kỹ nữ tiêu biểu đó là Thúy Kiều trong Truyện Kiều, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca, người ca nữ đất La Thành trong La Thành mại ca giả. Tất cả những người kỹ nữ trên đều có chung một điểm, đó là “hồng nhan bạc mệnh”. Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi khác là cô đầu. Một số tác phẩm của các tác giả giai đoạn này có sự xuất hiện hình ảnh cô đầu: Dương Khuê có các tác phẩm: Gặp đào Hồng đào Tuyết, Gặp cô đầu cũ, Tặng cô đầu Hai, Tặng cô đầu Cúc, Thăm cô đầu ốm; Nguyễn Công Trứ có các tác phẩm: Một ngày là nghĩa, Cảnh biệt ly, Yêu hoa, Bỡn cô đầu già; Trần Tế Xương có các tác phẩm: Hát cô đầu, Thú cô đầu, Tết cô đầu, Chơi ả đào, Hỏi ông trời; Nguyễn Khuyến có các tác phẩm: Đĩ cầu Nôm, Bóng đè cô đầu. Cô đầu trong văn học trung đại được miêu tả theo hai chiều hướng: cô đầu là truyền nhân của nghệ thuật và cô đầu đã bị biến tướng cùng thời gian.
  • 14. 11 Như vậy, ở mỗi giai đoạn, hình ảnh người kỹ nữ mang những nét màu sắc khác nhau. Giai đoạn đầu của thời trung đại, người kỹ nữ được nhắc đến với tư cách là tên gọi của một hạng người trong xã hội. Đến khi xã hội suy tàn, người kỹ nữ tiêu biểu cho tiếng nói thống thiết của thân phận con người. Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi là cô đầu. Dù ở giai đoạn nào thì họ đều là những “thân sâu, cánh kiến”, bé nhỏ, tội nghiệp, đáng thương; nhưng trong họ ngời lên nét đẹp về ngoại hình và tâm hồn rất đáng ngợi ca, trân trọng. Sắc đẹp là điều đầu tiên khi nói về người kỹ nữ. Truyện Đào Nương trích trong Dư công tiệp ký của Vũ Phương Đề hình ảnh kỹ nữ đã được nói tới là Đào Nương. Nàng đã lập công giết giặc nhờ vào sắc đẹp và tài ca hát của mình. Chuyện nàng Túy Tiêu trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh Túy Tiêu với sắc đẹp dịu dàng, duyên dáng khiến Dư Nhuận Chi - chàng thư sinh nổi tiếng hay thơ nhất kinh thành phải đắm say, mê mệt. Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng là một giai nhân tuyệt sắc. Nguyễn Du sẽ cho ta thấy rõ hơn về điều này. Ông miêu tả Thúy Kiều trong Truyện Kiều, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca, người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ cựu ca cơ... đều là những bậc “tuyệt sắc giai nhân”. Chẳng hạn, khi miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh/ Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Như vậy, vẻ đẹp mỗi người một vẻ. Người thì duyên dáng, dịu dàng, người thì tuyệt sắc giai nhân, có người sắc sảo, mặn mà đến cả thiên nhiên cũng phải ghen hờn. Nhan sắc chính là công cụ kiếm tiền, là vũ khí mê hoặc khách làng chơi. Bên cạnh sắc đẹp là tài hoa. Tài hoa của kỹ nữ ở đây là tài cầm, kì, thi, họa, ca, múa, hát. Chuyện nàng Túy Tiêu trích từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Túy Tiêu được miêu tả “vốn có khiếu thông tuệ”, mỗi khi Sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà rồi thuộc được. Sinh dạy nàng thơ từ, chưa đầy một năm, nàng đã làm được thơ từ ngang với Sinh. Đặc biệt là Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Thông
  • 15. 12 minh vốn sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm/ Cung thương làu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Hay Cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca có tài năng đặc biệt với ngón đàn cầm. Tiếng đàn của nàng thật tuyệt vời trong chốn nhân gian: “Khoan như gió nhẹ lướt qua rừng thông/ Trong như tiếng hạc kêu nơi xa xăm/ Mạnh như tiếng sét đánh vào bia Tiến Phúc vỡ tan/ Buồn như tiếng rên của Trang Tích, ốm nhưng giọng quê vẫn không quên”. Người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ cựu ca cơ lưu lại trong trí nhớ của Nguyễn Du một ấn tượng về sự trẻ trung, duyên dáng cùng giọng ca lôi cuốn, chinh phục hết thảy người nghe: “Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển” (Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng). Bên cạnh tài năng hơn người, người kỹ nữ cũng có những nét đẹp trong tâm hồn. Trước hết, đó là khát vọng về tình yêu và hạnh phúc. Mặc dù bị xã hội coi thường, xem là hạng đàn bà lẳng lơ, nhưng người kỹ nữ vẫn dám sống vì tình yêu và cháy hết mình vì tình yêu. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều đến với Kim Trọng khi còn là một thiếu nữ ngây thơ, trong sáng: “Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Bởi vậy, mối tình Kim - Kiều thật đẹp, thật thánh thiện. Và sau này, ta chứng kiến mối tình giữa Kiều và Thúc Sinh cũng thật lưu luyến, mặn nồng; mối tình giữa Kiều và Từ Hải không chỉ là tình yêu mà còn là ân tình, ân nghĩa. Rõ ràng, khát vọng về một tình yêu chân thành, khát vọng về một hạnh phúc đong đầy luôn luôn nồng nàn, rực cháy trong những người kỹ nữ. Người kỹ nữ đẹp là thế, tài năng hơn người là thế, nhưng “hồng nhan bạc mệnh”, “tài sắc tương đố”. Họ phải chịu số phận đau thương, bi đát. Trước hết, Thái Thuận đã diễn tả tâm trạng của người kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu thủơ ăn chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm/ Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền quyên nhớ một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là nỗi đau nhói lòng của người ca kĩ khi đến tuổi xế chiều. Khi nhan sắc đã tàn phai theo tháng năm, khi không còn sự mê hoặc đối
  • 16. 13 với khách làng chơi, người kỹ nữ phải sống một cuộc đời cô đơn, buồn tủi. Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị là một trong những nhân vật có số phận bi kịch mà Nguyễn Dữ dày công xây dựng. Nàng đã phải trải qua bao kiếp nạn. Mỗi lần nỗi khát khao hạnh phúc trỗi dậy là mỗi lần nàng bị xã hội vùi dập, đọa đày không thương tiếc. Khi vua Dụ Tôn băng hà, nàng bị vất ra ngoài phố. Từ một người tài giỏi thơ văn, được vua sủng ái, nàng trở thành vật thừa thãi, bỏ đi, không giá trị. Trong Truyện Kiều của nguyễn Du, mặc dù Đạm Tiên chỉ là hồn ma thoáng qua nhưng ta cũng đủ cảm nhận số phận của những người kỹ nữ nói chung và Đạm Tiên nói riêng: “Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Khi còn sống nàng xinh đẹp là thế, tài năng là thế mà khi chết đi, nấm mồ của nàng chơ vơ, đơn côi, không hương khói giữa chốn người qua kẻ lại. Hay cũng trong Truyện Kiều, nàng Kiều từ một thiếu nữ “Êm đềm trướng rủ màn che” phải trở thành kỹ nữ. Nàng bị xã hội nam quyền vầy vò, mua đi bán lại, lưu lạc suốt mười lăm năm trời. Với một ngoại hình “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”, với tài hoa hơn người cả cầm, kì, thi, họa, đáng ra nàng phải có được hạnh phúc, nhưng “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời Thúy Kiều là một chuỗi những đau đớn, tủi hờn: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”. Đúng là: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Lời than của Kiều trước hết là lời than cho cuộc đời của Đạm Tiên, lời than cho số phận những người kỹ nữ trong đó có nàng, nhưng cũng là lời than chung cho “phận đàn bà”. Thực dân Pháp sau khi xâm lược được đất nước ta, với chiêu bài “bảo hộ” và “khai hóa”, chúng ra sức đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn và văn hóa đồi trụy. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ. Ca trù trở nên suy bại. Người nghe toàn những kẻ mê sắc dục. Cô đầu trở thành kẻ buôn phấn bán hương, trở thành gái lầu xanh. Trần Tế Xương đã viết những vần thơ thật chua chát: “Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay/ Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày/ Năm canh to nhỏ tình dơi chuột/ Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây (Thú cô đầu – Tú Xương). Nguyễn
  • 17. 14 Khuyến cũng với giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng lại sâu sắc và có phần đau đớn: “Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ/ Trời sinh ra cũng để mà chơi/ Dễ mấy khi làm đĩ một thời/ Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích/ Đĩ bao tử càng chơi càng lịch/ Tha hồ cho khúc khích chị em cười/ Người ba đấng của ba loài/ Nếu những như ai thì đĩ mốc/ Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc/ Khá khen thay làm đĩ có tông!/ Khắp giang hồ chẳng chốn nào không/ Suốt Nam, Bắc, Tây, Đông đều biết tiếng/ Đĩ mười phương chơi cho đủ chín/ Còn một phương để nhịn lấy chồng/ Chém cha cái kiếp đào hồng/ Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số/ Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó/ Mai sau ngày giỗ có văn nôm/ Cha đời con đĩ cầu Nôm. (Đĩ cầu Nôm – Nguyễn Khuyến). Tuy giọng thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến có vẻ châm biếm, đả kích, nhưng cái chính vẫn là tấm lòng nhà thơ trước cảnh “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn” của đất nước. Đó là sự xót xa cho những số phận cô đầu lắm truân chuyên. 1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thiết lập sự thống trị Việt Nam và thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ; đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối với chính sách “chia để trị” - chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực với hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả là nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp với chính sách nô dịch văn hoá, xoá bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân, mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài.
  • 18. 15 Văn học là tấm gương phản ánh đời sống. Các nhà văn đã phô bày hiện thực xã hội Việt Nam thật phũ phàng, cay đắng. Phạm Duy Tốn đã viết truyện ngắn Sống chết mặc bay, chỉ vì ham mê cờ bạc mà quan phụ mẫu sẵn sàng bỏ mặc dân. Trước cơn vỡ đê vì nạn mưa lũ, quan phụ mẫu đã vô trách nhiệm tới táng tận lương tâm đối với tính mạng và tài sản của nhân dân. Hậu quả của điều đó là “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu”. Quan phụ mẫu không thiệt hại nhưng những người dân “chân lấm tay bùn”, “thấp cổ bé họng”, “thân sâu cánh kiến” lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, dở sống dở chết. Thạch Lam trong truyện Nhà mẹ Lê thể hiện nỗi xót xa của ông về hình ảnh một bà mẹ nông dân nghèo phải vật lộn với “miếng cơm manh áo” từng ngày, từng giờ để nuôi đàn con hơn chục đứa. Những đêm đông trời lạnh như cắt da cắt thịt, mẹ Lê cùng các con “rải ổ rơm đầy nhà” để ngủ. Số phận của con người không khác gì con vật. Nhà văn Thạch Lam nức nở, thốt lên trong trang truyện: “mẹ con cùng ngủ trên đó trông như một cái ổ chó, chó mẹ, chó con lúc nhúc”. Khi mẹ Lê phải đi vay gạo thì ông Bá - một người giàu có nhất trong làng - không những không cho vay mà còn thả chó cắn. Người mẹ tội nghiệp, khốn khổ ấy buồn bã bước về nhà với nhiều vết thương đẫm máu. Mẹ Lê sốt cao rồi chết một cách tức tưởi. Lũ con sẽ ra sao khi người mẹ qua đời? Câu chuyện khiến người đọc không khỏi xót xa, day dứt. Ngô Tất Tố với tác phẩm Tắt đèn đã phản ánh được nỗi thống khổ của người dân trong nạn sưu cao thuế nặng. Chỉ vì sưu thuế mà cả gia đình chị Dậu phải tan nát, chia lìa. Chị Dậu đau như đứt từng khúc ruột, đành phải đem con đi bán cho nhà Nghị Quế. Ta xúc động, nghẹn ngào bao nhiêu thì cảm thấy bất bình, phẫn nộ bấy nhiêu khi chứng kiến cảnh cái Tí ngoan hiền, hiểu chuyện, bị gia đình Nghị Quế đối xử không bằng con vật. Đó là cảnh gia đình Nghị Quế bắt em phải ăn cơm thừa của chó. Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng đã vẽ lên bức tranh thối nát của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là bè lũ quan lại thật tham lam, độc ác. Nghị Lại đã bày đủ trăm mưu ngàn kế để cướp ruộng đất của nông dân. Anh Pha là một trong số những nạn nhân của xã hội. Khi anh đứng lên chống Nghị Lại thì bị bọn chúng bắt trói khiêng đi như con vật trong đau đớn, căm
  • 19. 16 thù. Nam Cao trong Lão Hạc đã miêu tả cuộc sống nghèo nàn, khốn khổ, thương tâm của Lão Hạc. Lão Hạc chọn cái chết thê lương để giữ mảnh vườn nhỏ cho đứa con trai cũng như bảo toàn nhân phẩm và danh dự cho mình mãi mãi là hình ảnh ám ảnh trong tâm trí mọi người. “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, các phong trào yêu nước diễn ra theo khuynh hướng phong kiến và tư sản. Các cuộc khởi nghĩa đó khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề. Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là lịch sử của các phong trào yêu nước và lịch sử chuyển dịch cơ cấu xã hội theo hướng hiện đại hóa. Văn học cũng được hiện đại hóa. Bối cảnh ấy đã mở ra hai khả năng lựa chọn cơ bản cho hoạt động tiếp thu các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Đó là tiếp thu tư tưởng văn nghệ hiện đại Tây Âu, chủ yếu từ Pháp và tiếp thu tư tưởng mĩ học Mác – Lênin từ Liên Xô và Trung Quốc. Ở nửa đầu thế kỉ XX, các tư tưởng văn nghệ Tây Âu được tiếp thu vào Việt Nam như quan niệm về đặc trưng của nghệ thuật, đặc trưng thể loại của tác phẩm, quan niệm về nghiên cứu, phê bình văn nghệ... Như đã nói ở trên, thực dân Pháp đầu độc nhân dân ta bằng con đường ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm để ru ngủ đồng bào, để làm mất tinh thần dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc đó thật nhầy nhụa, nhơ nhớp. Và một trong những vấn nạn nhơ nhớp đó là cảnh gái điếm. Hiện tượng gái điếm thủ phạm chính do thực dân Pháp gây nên. Theo Bách khoa toàn thư mở thì gái điếm hay còn gọi là gái mại dâm, gái đĩ... là những người phụ nữ phục vụ đàn ông thỏa mãn hành vi tình dục để được trả tiền hoặc được hưởng các lợi ích vật chất khác. Nhân vật gái điếm xuất hiện khá nhiều trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong tiểu thuyết và phóng sự. Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh bắt đầu từ câu chuyện của Chương - một người đàn ông bị người yêu phản bội. Anh đã mang nặng một vết thương lòng và nỗi oán hận đến mức tận cùng. Anh không thể mở lòng với bất kỳ người đàn bà nào. Đối với Chương, phụ nữ tất thảy đều giả dối, lọc lừa. Thế nhưng, như một trò đùa quái
  • 20. 17 ác của cuộc sống, định mệnh đã sắp đặt cho một ông giáo đạo mạo với “bầu trời tư cách” gặp phải một cô gái giang hồ chai sạn, từng trải giữa sóng gió cuộc đời. Chương yêu Tuyết không phải là tình yêu sét đánh, không phải là tình yêu lóe lên rồi vụt tắt. Anh yêu Tuyết bằng cả trái tim, tâm hồn mình. Trong mắt anh, Tuyết “như một cô gái thượng lưu và tử tế”. Thế nhưng, người đàn bà mà Chương yêu tha thiết, yêu mãnh liệt, yêu đến dại khờ lại là một cô gái giang hồ chai sạn trước cuộc đời, trước tình người. Đời đã khiến cô có một phương châm sống thật ghê gớm: “Không tình, không cảm, chỉ coi lạc thú ở đời như một vị thuốc trường sinh”… Hoàn toàn vô cảm, luôn muốn “nổi loạn” để vượt thoát sự gò bó, khuôn phép, Tuyết đã hai lần phản bội lại Chương - một lần ra đi cùng người tình cũ và một lần dan díu, tằng tịu cùng Giang. Rồi một ngày Tuyết rời bỏ Chương và đi trong mưa phùn lặng lẽ. Tại sao Tuyết bỏ Chương? Có phải nàng là con đàn bà gian trá, phản trắc, đa dâm? Không! Đối với nàng, thà liều thân với một đời mưa gió, khổ sở, đê tiện, còn hơn là sống lừa dối mình, lừa dối người. Nàng luôn luôn ý thức được địa vị của nàng: một con đĩ. “Trời ơi, anh yêu được em ư? Anh chưa biết em là ai đấy, em chỉ là một đứa giả dối, man trá, em là một con đĩ khốn nạn, đê hèn. Em sẽ lừa dối người yêu, vì em đã trở thành một đứa vứt đi, tiêm nhiễm hết mọi thứ xấu xa của xã hội này”. Đó là những câu nói của một người tự ý thức về bản thân để từ đó mà bẽ bàng, chua xót. Tuyết đã chọn con đường đi riêng của nàng: lang thang, thất thểu, không nhà, không cửa, không tình thân. Nàng dấn thân vào cuộc đời ô trọc, nhục nhã, ê chề, cay đắng. Bỉ vỏ của Nguyên Hồng xoay quanh số phận nhân vật Tám Bính. Tám Bính là một cô gái nghèo xinh đẹp, khỏe mạnh làng Sòi. Vì nhẹ dạ cả tin, ngây thơ trong sáng, Bính đã yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị chính cha mẹ đẻ hắt hủi, đay nghiến, chửi bới, nhiếc móc. Và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, bần cùng không lối thoát, Bính trốn nhà đi Hải Phòng với một hy vọng mong tìm được người tình. Sau những ngày đêm lang thang đói khát, Bính gặp một gã công tử trẻ tuổi, nhà giàu nhưng đểu cáng. Gã lừa Bính vào
  • 21. 18 nhà hãm hiếp rồi đổ bệnh lậu cho cô. Vợ gã bắt gặp đã đánh đập Bính dã man, tàn nhẫn và lôi cô ra Sở cẩm, vu là gái đĩ. Lối rẽ cuộc đời của Bính cũng từ đây. Bính bị đưa vào nhà “lục xì”. Sau đó dòng đời đã ra sức xô đẩy, hủy hoại, tàn phá từ thể xác đến tâm hồn cô. Bính bị ném vào nhà chứa và đã trở thành gái điếm từ đây. Nhân vật “bỉ vỏ” gái điếm Tám Bính vừa đáng thương vừa đáng giận. Con đường đời của Bính ngày càng đi vào ngõ cụt, tối tăm, khắc nghiệt và bế tắc. Vì cả tin khờ dại nên Bính đã sa chân, tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác của xã hội hành hạ, giết chết dần từng ngày. Chắc chắn cho đến lúc chết, nỗi nhục nhã, đau đớn tột cùng kia sẽ không bao giờ phôi pha trong tâm hồn Bính. Nguyên Hồng đã xuyên thấu vào tầng lớp dân nghèo thành thị nói chung và nhân vật Tám Bính nói riêng để nhìn ra sự bế tắc, bi đát của họ khi họ chưa tìm thấy lối thoát và phương hướng đấu tranh để giành lại quyền sống, quyền được tồn tại của một con người. Qua đây, nhà văn giúp ta cảm thông với những nỗi đau khổ mà họ phải chịu đựng trong xã hội cũ. Lục xì là phóng sự của Vũ Trọng Phụng xuất bản từ năm 1937. Trước đấy một năm đã nổ ra cuộc bút chiến dữ dội giữa Thái Phỉ chủ báo Tin văn với Vũ Trọng Phụng. Thái Phỉ lên án các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là “văn chương dâm uế”. Vũ Trọng Phụng đã trả lời về Lục xì: “Viết thiên phóng sự Lục xì tôi không phải chỉ là một nhà văn, nhưng còn là một nhà báo. Nhà báo thì phải nói sự thật cho mọi người biết. Nếu một việc đã có thực thì bổn phận của tôi chỉ là thông báo cho mọi người biết, chứ không phải là lo sợ rằng cái việc làm phận sự ấy lợi hại cho ai”. Và sự thật ấy là gì? Qua Lục xì, Vũ trọng Phụng tái hiện lại nạn mại dâm, gái điếm đến rùng mình: “Trong thành phố Hà Nội, ít ra cũng có năm nghìn gái sống về nghề mại dâm. Năm nghìn! Nhưng làm thế nào biết họ cho khắp mặt được, nhất là từ khi bị lôi cuốn vào cuộc biến hóa của phong tục cái đức hạnh người đàn bà An Nam xưa kia kiên cố biết bao, thì nay đã hóa ra quá đỗi mỏng manh!...Chúng ta thử làm một cái tính chơi, số dân Hà thành là mười tám vạn, vậy mà có đến năm nghìn người làm đĩ, thế nghĩa là cứ ba mươi lăm người lương thiện lại có một người thường nhật sinh sống bằng sự gieo rắc vi trùng hoa
  • 22. 19 liễu”. Người viết phải quan tâm sâu sắc đến vấn đề xã hội mới có thể trăn trở, day dứt để viết về một vấn nạn đau lòng như thế. Và trong năm nghìn gái điếm kia, có những người là nạn nhân thật đáng thương, tội nghiệp: “Những gái quê thì hoặc đã chê chồng vì đã ăn phải bả tân thời, hoặc đã ra tỉnh làm con đòi, con sen mà không xong, hoặc đã đập trống ngực thình thình khi, ngồi ở vệ hè, đương đói khát mà lại được vài ba cậu “công tử bột” Hà thành nói vào tai những câu ân ái với thái độ săn sóc gian dối của thằng mất dạy bên cạnh một con “bò lạc”, vừa quê mùa lại vừa “chắc chắn” cả trăm phần trăm”. Nguyên nhân nào xô đẩy những nạn nhân tội nghiệp trở thành gái điếm để rồi mắc bệnh phong tình? Vũ Trọng Phụng cũng đã giúp độc giả dễ dàng nhận thấy: “Dù là thành thị, dù là gái quê, dù vì hư hỏng, dù tại đói khát, thì tất cả những gái ấy đều đã bị cái xảo quyệt của mụ chủ tiệm thuốc phiện, của thằng bồi săm, của thằng ma cô, của thằng phu xe đêm, chúng họp nhau lại thành một cái lưới nhện đáng sợ để làm việc cho ngót bốn trăm cái phòng cho thuê rải rác khắp Hà Nội này!”. Xã hội với muôn vàn cạm bẫy bủa vây khiến con mồi khó lòng thoát nạn. Hà Nội lầm than (1938) là thiên phóng sự đặc sắc của Trọng Lang. Ở đó, tác giả tái hiện lại giai tầng dưới đáy cùng của xã hội. Đó là những hạng người, hạng nghề bị đặt trong sự dè bỉu, coi thường của xã hội. Trọng Lang đã chứng kiến và phản ánh sự thật đau lòng, trần trụi tình cảnh của những gái điếm được coi là “nô lệ tạm thời” tại các quán ba, tiệm nhảy, nhà thổ… Đây là nơi lui tới thường xuyên của những kẻ động cỡn, dâm loàn. Trọng Lang đã phơi bày sự đê tiện với các mánh khóe buôn da bán thịt, những thân tàn ma dại. Hà Nội lầm than là tiếng kêu cứu thương tâm, đã khía rất sâu vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình dục trá hình. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang đã cảm thương những cô đầu, gái nhảy bị bóc lột, bị gạt ra rìa cuộc sống. Ông phê phán xã hội và chỉ ra thảm trạng bi đát đó mà người gái điếm đang chịu đựng. Nhà văn vừa giận vừa xót xa, cảm thông đối với nghề mại dâm, gái điếm. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình
  • 23. 20 trong sự chua chát, đắng cay: chẳng có một giọt nước cam khổng lồ nào đủ tưới hàng vạn người lầm than. Dù ông có dấn thân quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là “tiếng kêu thương” cơ cực, thống thiết mà thôi. Tiểu kết: Qua khảo sát ở một số tác phẩm từ văn học trung đại đến văn học đầu thế kỉ XX của Việt Nam, hầu hết các nhân vật từ kĩ nữ đến gái điếm đều có số phận bất hạnh, trái ngang. Họ phải gánh chịu nỗi đau đớn, sự hành hạ về cả thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng vết đau về thể xác theo tháng năm có thể lành còn nỗi đau về tinh thần không bao giờ, không khi nào, không thể nào chữa khỏi. Có thể nói đây là tầng lớp bị coi là cặn bã nhất của xã hội. Nói đến họ, người đời luôn coi khinh, miệt thị. Nhưng từ trong sâu thẳm của những con người tưởng chừng chỉ biết lọc lừa, gian dối, tưởng chừng chỉ biết “bán thân nuôi miệng ấy” vẫn ánh lên những tia sáng nhân đạo, vẫn còn lòng thương yêu, sự thuỷ chung, lòng hy sinh, dám xả thân vì một nghĩa cử, dám sống chết để bảo vệ đồng đội… Và đọng lại là khát vọng luôn luôn canh cánh, luôn luôn thường trực muốn thoát khỏi cuộc đời tội lỗi, nhơ bẩn. Ước vọng trở về như tia sáng nhỏ trong tâm trí, luôn ngấm ngầm tồn tại nhưng rất xa vời, khó lòng chạm tới. Họ muốn chạm tay vào ánh sáng, muốn một lần đứng dậy từ bãi bùn nhơ nhuốc. Họ quằn quại trong đau khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn muốn ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh. Và mỗi nhân vật trong tác phẩm của các nhà văn là cả một bản án, câu chuyện đời bi thảm được phơi bày. Đó là một thời ngập chìm trong lọc lừa giả dối, những thủ đoạn đàn áp vô nhân đạo của bè lũ thống trị, nỗi đau khổ đến tận cùng của người dân, trong đó có người gái điếm.
  • 24. 21 Chương 2 NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI 2.1. Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời Vũ Trọng Phụng là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Sáng tác của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên. Vũ Trọng Phụng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, mồ côi cha từ lúc bảy tháng tuổi, được người mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi. Tiếp theo, ông đánh máy cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi và thất nghiệp. Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo, một cây bút phóng sự với nhiều bài tiêu biểu. Năm 1930, ông có bài đăng trên Ngọ báo. Năm 1931, vở kịnh Không một tiếng vang ra đời đã gây được sự chú ý của bạn đọc. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phòng tuần báo. Năm 1936, ông cho ra đời bốn tác phẩm đã thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng. Đó là tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ. Không chỉ nổi tiếng với những tác phẩm văn học, tiểu thuyết, truyện ngắn, Vũ Trọng Phụng còn được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934, báo Nhật Tân cho đăng Kỹ nghệ lấy Tây. Nhắc đến cái tên Vũ Trọng Phụng, người ta liên tưởng đến một tài năng trong nhiều lĩnh vực. Thế nhưng khi đang ở độ tuổi tài năng nở rộ, ông ra đi vì bệnh lao phổi do làm việc quá sức để nuôi sống bản thân và gia đình khi mới 27 tuổi đời. Sự ra đi của Vũ Trọng Phụng để lại trong làng văn và trong lòng độc
  • 25. 22 giả nỗi đau, sự tổn thất, một chỗ trống không dễ gì khỏa lấp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, đả kích, mỉa mai và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – một xã hội mục nát, thối ruỗng mà chính bản thân tác giả ví nó là xã hội “chó đểu”, xã hội “khốn nạn” với những tấn trò đời đầy bi kịch. Vũ Trọng Phụng được ví như Balzac của Việt Nam. Đọc những trang văn của ông, người đọc không khỏi ngậm ngùi, chua chát. Làm đĩ là một trong số những tác phẩm gây ra nhiều cuộc tranh luận trong suốt thế kỷ qua. Đó là Nhất Linh, Thái Phỉ, Hoài Thanh trước đây đã có khá nhiều bài đăng trên các báo Tân văn, Tương lai, Ngày nay, Hà Nội báo... phê phán quan niệm văn chương của Vũ Trọng Phụng xung quanh tiểu thuyết Làm đĩ của ông. Và Hoàng Văn Hoan sau này cũng phê phán Làm đĩ là một cuốn sách dâm uế, có hại cho sự giáo dục đạo đức và luân lý đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Trong khi đó, một số người khác, chẳng hạn như nhà nghiên cứu, phê bình văn học Hoàng Thiếu Sơn lại cho rằng Vũ Trọng Phụng viết Làm đĩ là nhằm mục đích giáo dục cho thanh thiếu niên những hiểu biết sơ đẳng về quan hệ tình dục khác giới. Nhìn nhận của Hoàng Thiếu Sơn quả là đúng đắn trong xã hội ngày nay bởi ý nghĩa giáo dục của Làm đĩ là quá rõ. Nhưng quan trọng hơn, Làm đĩ được đông đảo công chúng đón nhận, yêu thích là sự hấp dẫn của đề tài, chủ đề; đặc biệt là ở giá trị nhân bản của nó và tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm làm bật lên những vết thương rướm máu của xã hội được che phủ bên ngoài bởi lớp sơn văn minh “Âu hóa” lố lăng, đồi bại. Vũ Trọng Phụng căm hờn, phỉ báng sự giảo quyệt, đê tiện, bẩn thỉu, thối nát của cả một xã hội; đồng thời nói lên tiếng nói đồng cảm cho những nạn nhân đáng thương, tội nghiệp. Vượt lên tất cả những đề tài và chủ đề của văn chương đương thời theo khuynh hướng ngợi ca tình yêu lý tưởng đầy tính ủy mị, sướt mướt của các cậu ấm, cô chiêu còn đang mải choáng ngợp với những sắc màu của văn minh vật chất Tây phương, Vũ Trọng Phụng đã đi thẳng vào một vấn đề nhức nhối của đời sống xã hội Việt Nam
  • 26. 23 những năm ba mươi của thế kỷ trước, đó là hiện tượng Làm đĩ. Cho đến hôm nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa về thời sự vô cùng to lớn. “Hồi ấy, một trận cuồng phong dữ dội thổi đến xã hội ta. Cái phong trào vật chất đến với ta bằng những danh từ điêu trá: tiến bộ, duy tân, tân sinh hoạt... nó có một sức mầu nhiệm là lường gạt nổi hầu hết mọi người. Bao nhiêu lề thói, bao nhiêu nề nếp đã bị lôi cuốn đi theo trận cuồng phong. Một trật tự của xã hội thuần túy trọng tinh thần đã bị vật chất đảo lộn ngược cả... Báo giới đầy rẫy những mục bàn luận cách tìm khoái lạc cho xác thịt... Những tiệm khiêu vũ phá tan hạnh phúc của gia đình, làm cho đàn bà hóa ra đĩ thõa, làm cho đàn ông mọc sừng, hoặc chê vợ, làm cho bọn chủ săm đắc thế kiếm lợi, bọn “vua thuốc lậu” tha hồ vênh vang... Những mốt y phục của phụ nữ, làm cho đàn bà mỗi ngày phô thêm một ít đùi, một ít đít, một ít vú... Ở những nơi thành thị, chỗ nào cũng có tiếng gọi của xác thịt, cũng có sức cám dỗ của dâm thần. Tại những nơi thôn quê, thì vẫn nguyên những cảnh đói khát, nheo nhóc, bùn lầy nước đọng, nạn cường hào, nạn mê tín, nạn hối lộ, nạn bã rượu lậu... Ba đêm liền chỉ hết bia lại thuốc phiện, uống xong tức khắc thấy cái cần phải hút cho khỏi say, rã rượu rồi lại thấy phải hút để có sức thức mà nghe, hút xong rồi thì lại thấy cần phải uống nữa cho đỡ ráo cổ... Ấy sự đời luẩn quẩn loanh quanh chạy vòng đèn cù như thế...”. Chỉ bằng ngần ấy ngôn từ, Vũ Trọng Phụng giúp ta có cái nhìn về toàn cảnh xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Đó là một xã hội “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn”. Đó là xã hội mà người người, nhà nhà chạy theo lối sống Tây phương để muốn phủ nhận sạch trơn thuần phong mĩ tục, nếp sống truyền thống cha ông hàng ngàn năm lưu giữ. Bởi vậy, cái được gọi là “Phong trào Thể dục Thể thao” hay “Giải phóng nữ quyền” cứ tha hồ được tung hê, ca tụng. Cái được gọi là văn minh, tân tiến, tân thời sống cùng với sự cổ hủ, lạc hậu nó khiến con người ta rơi vào tấn trò đời thật bi hài, chua chát. Cho nên, tác giả để cho Huyền nhớ cũng là để tái hiện lại bức tranh của xã hội đương thời: vào một buổi tối, trời rả rích mưa, mẹ ôm đứa em bé xì xụt khóc vì cha bỏ nhà đi chơi gái, đi theo mấy ông bạn già “phá gia chi tử”, chị cãi nhau với đầy tớ dưới bếp, anh đi theo bọn con giai mất dạy bỏ học
  • 27. 24 hành, Huyền thì cặm cụi ngồi viết bài Pháp văn tả cảnh gia đình hạnh phúc có bố ngồi đọc báo, anh ngồi học bài, mẹ đan áo, em bé chơi ngoan, mình làm bài... Tìm cái bút chì, mở cặp sách của ông anh rơi ra một tập ảnh khiêu dâm, nam nữ trần truồng... Rồi Huyền có người anh họ xa là Lưu ở nhờ nhà mình để đi học. Họ đã yêu nhau chân thành nhưng chưa dám hở môi ra với ai. Một đêm thức giấc, chỉ có cách cái bức vách gỗ, nghe rộn lên âm thanh của ái tình giữa ông bố già và cô vợ bé, những cái hôn kêu choen choét, những hơi thở ỳ ạch, sự rung động lắc rắc của cái giường lò xo, những tiếng rú khoái lạc. Huyền rón rén bỏ xuống nhà dưới, tình cờ gặp Lưu không ngủ được và “đã xảy ra cái sự không thể không xảy ra được”... Rồi thằng Ngôn chứng kiến cảnh bố mẹ làm chuyện người lớn thì việc nó làm chuyện chồng vợ với Huyền khi mồm chưa hết hơi sữa là chuyện thường tình. Kiểu ăn ngủ của người ta, lối cẩu thả hớ hênh của cha mẹ, sách báo, tranh ảnh đồi trụy, truyền thông cổ vũ cho lối sống “Tân thời”...; tất cả kết hợp với nhau để đưa đẩy Huyền rơi vào cảnh gái điếm. Ta giật mình với câu nói của chồng Huyền tên Kim khi mắc bệnh giang mai: “Đàn ông bây giờ mắc bệnh phong tình, đó có là sự quái gở gì đâu! Thiếu niên mắc nhan nhản ra đấy. Mà họ còn năm lần bảy lượt. Đàn ông như tôi là đã ngoan lắm, mợ biết chưa”. Không gian xã hội Việt Nam trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng là như thế! Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ là Huyền. Ngay từ khi còn nhỏ, Huyền là đứa bé bụ bẫm, xinh xắn, đáng yêu: “Cái tuổi tốt đẹp nhất đời! Họ hàng nhà em ai cũng khen em xinh, hôn hít em, cho em tiền, cắn má, cắn tay em nữa”. Thêm nữa, hoàn cảnh xuất thân rất đáng tự hào: “con gái nhà giàu, bố có chức phận, mẹ là người đứng đắn, dòng dõi nhà quan, lại thêm có chú ruột là một vị bác sĩ y khoa, lại được cắp sách đến trường”. Huyền đã được tạo hóa ưu ái hơn người từ khi còn chứng nước. Huyền sống trong nhung lụa với cuộc sống vật chất dư thừa, đầy đủ. Họ hàng nội ngoại, những người thân thích ruột thịt, ai ai cũng thương yêu, quý mến em. Có thể nói xuất phát điểm của Huyền đầy may mắn. Lớn lên một chút, Huyền càng hạnh phúc khi ý thức được ngoại hình, gia thế của mình. Khi mười sáu tuổi: “Cả một xã hội nức nở khen em
  • 28. 25 đẹp, kính phục em ngoan”. Huyền là niềm tự hào, kiêu hãnh của gia đình, dòng họ. Thầy mẹ em vênh váo, kiêu ngạo với đời! Ai mà chẳng hãnh diện khi có cô con gái xinh đẹp, ngoan hiền, đẹp người đẹp nết như thế! Cha mẹ Huyền có đầy đủ lí do để tự hào về Huyền. Đặc biệt, cả lớp học anh nào cũng có thể phải lòng Huyền và Huyền được tôn vinh là một “nữ lang”. Cái nét đẹp thuần túy đương tuổi xuân thì khiến đám con trai đứng ngồi không yên, nét đẹp mà chỉ cần nhìn qua người ta cũng tự cho mình cái quyền dự đoán được tương lai tốt đẹp của Huyền sau này. Vẻ đẹp của Huyền là vẻ đẹp của người ngây thơ, trong sạch, thánh thiện, mai sau sẽ trở nên đức phụ, cái thứ đẹp đáng kính trọng của bông hoa mỏng manh. Huyền được tôn vinh bằng những cái tên mĩ miều do những chàng si mê nàng đặt cho như Tây Thi, Hằng Nga, Nàng Thơ, Mỹ Nhân... Vẻ đẹp về ngoại hình của Huyền khiến người ta mê đắm là như thế! Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình là nét đẹp tâm hồn. Trước hết, đó là trí tuệ thông minh: “Rồi em đi học. Vốn thông minh tính bẩm, em được các cô giáo yêu chiều, được họ hàng khen”. Tác giả không miêu tả chi tiết, ít nói trực tiếp về trí tuệ của Huyền, nhưng qua thái độ, tình cảm của bạn bè, đặc biệt là của Quý cho thấy Huyền thông minh, tài hoa hơn người. Sự thông minh, nhất là trong cách cư xử, ứng xử của Huyền đã mê hoặc biết bao đàn ông. Những người mê mệt Huyền có tới ba mươi thằng bạn bè của Quý, rồi Kim – chồng Huyền và sau này cả Tân – tên tình nhân Sở Khanh đểu cáng. Ngay cả khi làm đĩ rồi, tài năng của Huyền cũng vẫn tỏa sáng: “Dẫu sao, tôi cũng thấy Huyền là khả ái, ở chỗ thông minh hơn đa số - nếu không tất cả - những gái giang hồ”. Là con gái, Huyền luôn ý thức để trau dồi tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh đủ đường”. Huyền được mọi người ca ngợi bởi em là một cô gái “ngoan, đứng đắn”. Không ngoan, không đứng đắn sao khi Huyền không bao giờ có nhân tình như số đông bạn gái. Huyền tự nhủ sẽ lấy chồng theo lối cổ mà thôi. Những thanh niên đương thời cố nặn ra những dáng điệu lễ độ, đứng đắn, chung tình, trong sạch, thanh cao, vẫn gửi đến nhà Huyền những bức thư tha thiết, nồng nàn. Nhưng Huyền đã bóp bẹp mất bao nhiêu trái tim bởi sự tinh sạch, sáng trong vô ngần. Huyền đã vượt lên trên dục vọng,
  • 29. 26 khát khao cháy bỏng tầm thường để trở nên mạnh mẽ, đủ sức kiềm chế sự rung động của xác thịt. Huyền đã chiến thắng mọi cảnh vật xấu xa đầy rẫy theo đuổi quanh mình, mọi kích thích của bao nhiêu cơn giông tố ô trọc, phũ phàng. Huyền chưa bị vết tì ố nào. Rõ ràng, giữa một xã hội với bao cảnh đồi trụy, dâm loàn, bao cám dỗ và cạm bẫy luôn luôn rình rập; Huyền vẫn giữ mình. Huyền ý thức rất rõ giá trị của bản thân và những thói trăng hoa, lừa dối. Bởi vậy, em “chỉ ham vui đèn sách, học tập nữ công”. Vẻ đẹp tâm hồn Huyền không thể không đáng trân trọng, ngợi ca. Cũng giống bao người con gái ngoan hiền khác, Huyền mơ ước về hạnh phúc chân chính, tràn đầy: “Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ đương làm gì, hễ khối óc em mà rảnh việc là em lại phác họa ra một cảnh hạnh phúc gia đình trong đó có đôi chúng em, giữa cái không khí nồng mặn những ái ân, giữa một cảnh bài trí nhũn nhặn như của những cặp vợ chồng trẻ và thanh bần khác. Đáng lẽ ao ước ô tô, nhà lầu, đầy tớ hàng lũ, có thể góp mặt với đời bằng cách nay tiệc, mai hội, em đã vui lòng chịu nhận một căn phòng nhỏ, một bộ ghế tầm thường, một người chồng kiếm được một số tiền đủ sống, một số bạn hữu không biết nói đến khiêu vũ, chợ phiên”. Huyền khát khao tình yêu và hạnh phúc! Em mơ ước về mái ấm gia đình ngập tràn tình yêu thương, sự chung thủy. Em muốn được là vợ ngoan, dâu hiền hiếu thảo. Và không cần cao sang mĩ miều, em mơ về hạnh phúc bình dị, ấm áp, giản đơn. Giữa một xã hội chạy theo đồng tiền với muôn vàn trò lố lăng, đồi bại, nhí nhố, Huyền quả là một bông hoa nhài tinh khiết. Ai ai cũng coi đồng tiền là vạn năng, ai ai cũng a dua đua đòi thì Huyền là thanh âm trong trẻo lọt giữa bản đàn xô bồ, méo mó. Như vậy, những gì mà Huyền có, đáng lẽ ra em phải được sống sung sướng và hạnh phúc như dự đoán. Nhưng đời thật trái ngang, phũ phàng và cay đắng. Mọi thứ không diễn ra theo ý đáng lẽ phải diễn ra. Mọi thứ như trêu ngươi cuộc đời, như trò đùa quái ác của cuộc sống. Đáng lẽ ra Huyền xứng đáng được hưởng hạnh phúc thì hạnh phúc đã rời xa em, tuột khỏi tầm tay em mà em càng với càng không thể nắm bắt. Huyền càng muốn bứt phá, vẫy vùng thì Huyền lại càng rơi vào hố sâu, vực thẳm, để
  • 30. 27 rồi trở thành một gái đĩ chuyên nghiệp, lành nghề. Thật chua chát và cay đắng! Một cô gái vượt bao cám dỗ để trau dồi công, dung, ngôn, hạnh thì lại chính là người dẫm đạp lên cái mà mình dày công vun đắp. Vết xe đổ của Huyền bắt đầu bằng mối tình vụng trộm với Lưu, một người anh họ. Thật ra, Lưu cũng đáng được yêu bởi Lưu là một thiếu niên có nhiều nết tốt và rất ít tính xấu: “Khác hẳn với những bạn hữu của anh em thường lười biếng, ham chơi, đua ăn đua mặc và coi sự chim gái là những thủ đoạn anh hùng thì Lưu tỏ hẳn ra cái vẻ hơn đời ở chỗ siêng năng chăm chỉ, lại thêm được nết đứng đắn lạ lùng, không hề để những chuyện giai gái lọt được vào tai”. Việc yêu Lưu ở một khía cạnh nào đó cũng nói lên tính cách đáng trân trọng của Huyền. Chắc chắn một điều rằng Huyền là một cô gái tốt mới yêu Lưu như thế! Bằng không, Huyền phải ham hố, vồ vập những thiếu niên tân thời ăn chơi trác táng với những trò “Âu hóa” dị hợm. Yêu Lưu, Huyền xây đắp bao mộng đẹp. Cho nên, khi bị ép gả cho Kim, Huyền tỏ ra là cô gái mạnh mẽ, thủy chung son sắt. Cũng chính vì việc Huyền bị ép gả, Lưu không tìm được lối thoát trong tình yêu nên tự tử. Chứng kiến cái chết của Lưu “em thấy tinh thần tán loạn, chân tay bủn rủn, muốn chừng không thể đứng vững được”. Qua đó, để thấy được Huyền cũng đã từng yêu Lưu biết nhường nào. Và Huyền quyết bảo vệ thanh danh cho người yêu đến cùng: “Dẫu Lưu có chết đi, thì Huyền này cũng không để việc của đôi ta bại lộ. Cũng phải giữ cho tiếng Lưu được trong sạch”. Đặc biệt, trong tư tưởng của Huyền cũng từng nổi loạn, cũng từng phản kháng dữ dội để trả thù cho người yêu mà theo suy nghĩ của Huyền thì bố mẹ Huyền và chồng Huyền là thủ phạm: “Về phần riêng của em thì cái đau đớn ấy đã khiến em muốn báo thù bố mẹ, làm nhục người chồng sắp cưới mình bằng cái hư hỏng của mình. Em sẽ làm cho tan hoang, cho điêu đứng, ê chề cho ai cũng phải nhục nhã vì em, vì rằng em cho ai cũng là có trách nhiệm về cái chết của Lưu. Mất tân! Thì lợn nhị hỉ sẽ bị cắt tai chứ sao! Thì nhục cho thầy me em chứ sao! May mà em đã mất tân, chứ nếu không thì lấy cách gì mà trả thù đời cho có thể độc địa hơn nữa?”
  • 31. 28 Tại sao Huyền yêu Lưu? Tại sao Huyền đánh mất đời con gái? Có thể khẳng định một điều rằng, việc Huyền yêu Lưu thật dễ dàng lí giải bởi nam nữ gần nhau như lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén. Đặc biệt, việc Huyền đánh mất đời con gái, lỗi này là do yếu tố gia đình của muôn đời người Việt Nam cộng thêm xã hội đương thời đầy rẫy những cám dỗ chết người. Những gì mà Huyền có về gia đình, nhìn bề ngoài là niềm mơ ước của biết bao người con gái. Tuy nhiên, chính những thứ có được ấy lại là một trong những thủ phạm xô đẩy Huyền đến với cuộc đời gái điếm. Sinh ra trong một gia đình có cha làm việc cho Tây nhưng cực kỳ cổ hủ, lại thêm tính trăng hoa đồi bại, phá gia chi tử. Anh trai sớm tiêm nhiễm những thói hư tật xấu của xã hội, ăn chơi trụy lạc. Từ nhỏ Huyền đã bị người lớn lảng tránh, nạt nộ, thậm chí bị bạo hành khi thắc mắc về vấn đề giới tính. Thứ cô tiếp thu được chỉ là lời nói thô tục của kẻ ăn người ở trong nhà và những bài học giới tính tự học của đám trẻ trâu. Cô đã làm trò chồng vợ với Ngôn trong cái tuổi ấu thơ tội nghiệp. Đáng lí ra, gia đình, xã hội chung tay dạy dỗ, giáo dục giới tính thì đâu có việc đáng tiếc xảy ra giữa Ngôn và Huyền! Lớn lên chút nữa, sự tò mò về giới tính làm bùng lên nỗi khát khao mãnh liệt ở người thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì. Rồi trong cái đêm mất ngủ vì bị ám ảnh bởi những bức ảnh nam nữ trần truồng của anh trai và âm thanh giường chiếu giữa cha và vợ bé chỉ cách giường cô một bức vách, lại thêm vào đó những lời nói yêu đương chân thành rút ra từ gan ruột Lưu, “Ấy thế là xảy ra cái sự không thể không xảy ra được”. Lưu đã chiếm đoạt được em, cả phần xác cũng như phần hồn. “Mất tân! Em đã lo sợ, bối rối, đau đớn, bâng khuâng, hổ thẹn”. Rõ ràng, Huyền là một cô gái đoan trang, luôn có ý thức giữ gìn trinh tiết và phẩm hạnh của một người con gái. Nên khi mất đời con gái em đã rơi vào sự khủng hoảng vô cùng. Đoạn đường sa chân lỡ bước của Huyền bắt đầu từ chỗ lấy chồng. Đây là một cuộc hôn nhân ép buộc. Huyền bị ép duyên với Kim. Kim là một viên tham tá, công chức hành chính thời Pháp thuộc. Huyền được hắn hỏi về làm vợ. Mẹ Huyền - bà mẹ khốn khổ, tội nghiệp có chồng ngoại tình rồi chồng có vợ bé. Bà mẹ sợ chết đi để lại
  • 32. 29 đàn con bơ vơ trong cảnh mẹ ghẻ con chồng nên đã van xin Huyền nhận lời, dù nhà trai đòi cưới chóng vánh chỉ trong vòng nửa tháng. Huyền chưa kịp mở miệng, ông bố đã nổi cơn thịnh nộ o ép, áp đặt: “mày câm đi! ông là bố mày, ông có quyền gả chồng cho mày lắm, ông bắt mày ngồi đâu thì mày phải ngồi đấy!”. Một gia đình những tưởng là văn minh, tân tiến mà lại không phải như thế! Vẫn là ép duyên, vẫn là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã ăn sâu bén rễ từ muôn đời muôn kiếp không dễ gì thay đổi được. Mối tình vụng dại giữa Huyền và Lưu kết thúc hết sức bi thảm. Đến bước đường cùng, không có cách nào bảo vệ được tình yêu, Lưu tự tử để lại thư tuyệt mệnh và không hề đả động gì đến tình yêu với Huyền. Rồi Huyền về nhà chồng. Cảnh vợ chồng Huyền với Kim thật kì lạ, thật oái oăm. Tối tân hôn, lang quân rất mực lịch sự, chẳng ép nài vợ mây mưa. Rồi cả tuần cứ như thế! Thì ra Kim mắc bệnh giang mai do thói ăn chơi, chung đụng bừa bãi. Thật trơ trẽn, Kim đã thanh minh: “Đàn ông bây giờ mắc bệnh phong tình, đó có là sự quái gở gì đâu! Thiếu niên mắc nhan nhản ra đấy. Mà họ còn năm lần bảy lượt. Đàn ông như tôi là đã ngoan lắm, mợ biết chưa”. Kim kiêng quan hệ tình dục với vợ cho đến khi khỏi bệnh. Nhưng không đêm nào là Kim không quấy rầy vợ bằng cách “nửa đời nửa đoạn” làm cho Huyền cứ bị khiêu khích dữ dội rồi lại chưng hửng khi chưa thỏa mãn. Trong khi đó, ban ngày Huyền được chồng đem đi dự các trò chơi bời lố lăng của xã hội thượng lưu tân thời: xem phim, ăn hiệu, chợ phiên, nhảy đầm, đua ngựa, cá độ... Đây là nơi mà xã hội thượng lưu “hiện nguyên hình là một lũ bợm đĩ dưới hình thức choáng lộn, và tiến bộ, và văn minh... lẫn lộn với bọn nam nhi cũng đánh phấn, bôi môi gần như đàn bà, và bọn đàn bà thì nhờ những mốt y phục tối tân kỳ lạ nó phô phang cả đùi lẫn ngực ra dưới làn voan mỏng một cách rất lịch sự”. Huyền là phụ nữ có chồng. Bởi vậy, khát vọng về hạnh phúc gối chăn luôn luôn âm ỉ trong lòng. Nhu cầu về hạnh phúc xác thịt của Huyền là hoàn toàn chính đáng. Vậy mà vô hình trung Kim đã hành hạ Huyền một cách ghê gớm. Việc Kim “nửa đời nửa đoạn” với Huyền đã là một sự hành hạ không hề nhỏ, sự hành hạ lớn hơn là khích lệ, cổ súy cho vợ gia nhập xã hội thượng lưu thành thị nửa mùa nhầy nhụa và
  • 33. 30 kệch cỡm vô đối. Cho nên, việc Huyền sa chân lỡ bước để rồi ngoại tình là một việc như được dự báo từ trước. Con đường tha hóa, biến chất để trở thành gái điếm của Huyền đau lòng, bất hạnh nhất chính là ở giữa đám người ăn chơi động cỡn của xã hội thị thành nửa mùa, Huyền gặp Tân. Vì muốn khoe khoang, sĩ diện, a dua đua đòi, Kim như đem vợ ra làm mồi nhử Tân. Kim tự đắc khoe với vợ rằng Tân là bạn cũ, là con một viên Tổng đốc rất giàu, lấy vợ từ năm mười tám, bỏ vợ sang Pháp du học rồi về nước chẳng làm gì cả, sống một mình để hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Kim tấm tắc khen: “Thật là một người sung sướng nhất đời! Có danh vọng, có học thức, có tiền bạc, lại không bận bịu vợ con! Tự do đủ mọi đường, sướng thật”. Tân là thần tượng của Kim. Kim tự hào, hãnh diện có một người bạn sang giàu như thế, danh giá như thế, ga lăng như thế! Tân đã đưa Kim và Huyền về đến tận nhà bằng ô tô riêng của mình. Khi mà Huyền còn giữ khoảng cách, Kim mắng vợ: “Mợ lại tiếp đãi người ta nhạt nhẽo như thế. Nói thế mà cứ cãi thì chó cũng không nhịn được!... Thì mợ cứ tiếp đãi người ta cho mặn mà hơn nữa thì đã sao? Mợ là nhà quê đấy à? Mợ ngu đần xưa nay đấy à?”. Những ngày sau, thấy Huyền “tự nhiên như đầm, đáng mặt phụ nữ tân thời”, nghĩa là Huyền bạo dạn tiếp đãi Tân thân mật, Kim tỏ vẻ sung sướng, mãn nguyện: “tốt lắm, thế là rất phải”, “mình đã thành ra một phu nhân của giới thượng lưu rồi đấy”. Cuộc đời lắm cạm bẫy luôn rình rập, vây bủa lấy Huyền! Đó là việc Tân kiếm cớ mời Huyền đi Lạng Sơn, Huyền tỏ ý ngại, Kim cổ vũ: “Nghi hoặc thì là người cả ghen... Thế thì lọ lắm! Sống cuộc đời mới, theo Âu hóa thì không được nghi ngờ như người cổ hủ... Thôi đi, mợ cũng hủ bại vừa chứ! Đừng hỏi nữa! Đồ ngu!”. Thái độ sùng bái “Tân thời”, “Âu hóa” của Kim đã đẩy vợ vào tay bạn, vẽ đường cho Huyền và Tân cùng nhau ngoại tình. Thử hỏi rằng cuộc sống gối chăn của Huyền với chồng như thế, giữa bao cạm bẫy như thế, Huyền làm sao mà không thể không ngoại tình! Huyền là người bằng da bằng thịt chứ không phải là tượng đá hay khúc gỗ. Nhu cầu yêu và được yêu, nhu cầu về hạnh phúc gối chăn là điều hết sức chính đáng! Nhưng tất cả những thứ đó, Kim - chồng Huyền không đem
  • 34. 31 lại cho Huyền. Bởi vậy, ta không đồng tình với việc Huyền ngoại tình nhưng ta dễ dàng cảm thông cho một cô gái trẻ đẹp tràn đầy sức xuân ngã vào vòng tay của kẻ cáo già trong tình trường, dạn dày kinh nghiệm trong việc chinh phục và lừa gạt đàn bà là Tân. Đến khi việc vỡ lở, bộ mặt tàn nhẫn của Kim thật đê tiện: “Em chưa nói hết thì một cái đấm rất độc địa thúc vào mặt em khiến em ngã lộn nhào... Bất tỉnh nhân sự, em không biết gì nữa”; “Lúc ấy em vẫn còn bàng hoàng... cả một bên mặt đau tê tái, cái xương quai hàm tựa hồ như đã long khớp, hàm răng như muốn rơi ra. Rồi em sợ hãi, sợ hãi quá đi mất!”. Hành động nhẫn tâm chưa đủ, Kim còn thóa mạ Huyền bằng những lời lẽ cay độc: “Thế nào? Ly dị nhé? Bằng lòng không? Để tao dắt mày về nhà mà cho bố mẹ mày nghe những chuyện đê nhục của mày! Rồi tao lại dắt mày đến tòa cho mày nhận tội trước mặt những ông quan tòa! Rồi thì mày muốn lấy đứa nào thì lấy, đi theo thằng nào thì theo!”. Huyền đau đớn, nhục nhã đến ê chề: “Thế thì chết! Thế thì đến tự tử! Bố mẹ em mà biết em thế này thì em không sống được! Trời ơi! Thì ra em đã có một người bố, một người mẹ! Em chưa làm nổi sự gì để đền ơn trả nghĩa mà sao em lại còn ăn ở đê mạt để cho bố mẹ phải nhục nhã như thế, hử em? Sao lại mãi đến bây giờ em mới nhớ đến bố mẹ? Rồi thầy em sẽ ra thế nào? Liệu me em có sống nổi nữa không? Hở Trời? Em chắp tay như trước một bức tượng Phật, thất thanh kêu van rất thê thảm”. Hành động độc ác của Kim lên đến tận cùng, sự bỉ ổi của Kim lên đến đỉnh điểm khi bắt vợ chép lại cái gọi là lời thú tội do chính y soạn thảo. Và tất nhiên, trong cái gọi là lời thú tội ấy, Kim bắt Huyền chép cả những việc mà Huyền không hề làm như đã đem nhiều tiền của chồng ra cùng nhân tình tiêu hoang: “Tôi, viết những dòng này và ký tên dưới đây, vợ chính thất và chính thức của ông... xin thú tội rằng đã trót phạm tội lừa chồng tôi, đã nhiều lần ngoại tình với một người bạn chồng tôi là Tân. Tôi đã đem nhiều tiền của chồng ra cùng với nhân tình tiêu hoang vào những cuộc chơi bời lãng phí”. Kim đã trở mặt như trở bàn tay. Hắn đã đem hết mánh khóe pháp luật để trói buộc Huyền – nạn nhân khốn khổ khốn nạn. Từ đó, Huyền sống với thân phận như tôi đòi, chỉ được ăn ở với người giúp việc. Thật tàn nhẫn và độc ác! Sự tàn nhẫn và độc ác
  • 35. 32 của Kim cũng chính là sự tàn nhẫn và độc ác của chế độ nam quyền đầy rẫy những bất công ngang trái! Thì ra Kim chung chạ bầy đàn đến mắc bệnh nhưng lại tự cho mình cái quyền được đánh đập, hành hạ, mạt sát Huyền khi lỡ ngoại tình thật khủng khiếp, dữ dội, ghê gớm. Huyền ngây thơ, trong sáng, nhẹ dạ, mỏng manh như thế làm sao có thể chống chọi lại được Kim cũng như xã hội như miệng hùm, hang sói! Ấy vậy mà xã hội vẫn tung hô cái gọi là giải phóng nữ quyền! Rõ ràng, xã hội Việt Nam những năm ba mươi của thế kỉ trước quả là lố bịch, kệch cỡm, rởm đời lên đến tận cùng. Bị hắt hủi, ghẻ lạnh; bị bạo hành cả thể xác lẫn tinh thần; đau đớn không chỗ bấu víu, Huyền tìm kiếm Tân. Tân hiện nguyên hình là kẻ Sở Khanh đểu giả dưới vỏ bọc của một người tỏ ra tử tế: “Tôi cho mục đích của ái tình không phải là hôn sự... Tôi sợ hôn nhân lắm... Tôi tin hôn nhân làm hại ái tình... Em muốn li dị chồng à? Để lấy Tân à? Ồ! Không! Không đời nào! Tất em đã rõ là anh thù ghét hôn sự!... Yêu nhau thì phải lấy nhau, ấy những cái “gai” của ái tình chính là hôn sự. Cho nên ở những nước văn minh, cái lý tưởng của người đàn ông là có một người vợ chung tình để mà lừa vợ với một số nhân tình khác, cũng như cái lý tưởng của người đàn bà là có một người chồng mù lòa để cho mình san sẻ cái tinh hoa của ái tình cho một người nhân ngãi... ”. Và Tân “cười nhạt” trơ trẽn: “Lúc nào anh cũng có dăm bảy cô nhân tình!” và y nói đều xem họ “là những thứ đồ chơi tạm bợ”. Đến đây, ta không thể không bức xúc trước lí lẽ khốn nạn, đểu cáng của Tân. Con người đạo đức giả ấy thật sự không còn ngôn từ nào để diễn tả sự bỉ ổi của y. Và rồi, Khi Huyền biết Tân - kẻ Sở Khanh đang được cả xã hội tung hô - đang chấm thi hoa hậu ở Sài Gòn, Huyền bỏ nhà vào tìm Tân để quyết giết chết kẻ phụ tình. Không tìm được Tân, tiền hết, không còn để trả tiền buồng, đành nghe lão chủ khách sạn dụ dỗ tiếp khách làng chơi, cùng quẫn, khiến Huyền trở thành gái điếm. Quá trình tha hóa trở thành gái điếm của Huyền tưởng vô lí, không thể xảy ra mà cuối cùng lại là có lí và đã xảy ra. Từ việc không được giáo dục giới tính, làm chuyện chồng vợ với thằng Ngôn đến việc mất trinh, lấy chồng, ngoại tình, sa cơ lỡ bước làm đĩ một lần, rồi nhiều lần, rồi trở thành gái điếm chuyên nghiệp, lành nghề lúc
  • 36. 33 nào không hay diễn ra một cách thật lôgich. Điều không tưởng mà lại rất đỗi tự nhiên. Việc Huyền làm đĩ gióng lên hồi chuông đau lòng, thống thiết về khoảng cách, ranh giới giữa người lương thiện và gái điếm quả là rất mong manh. Vẫn còn thực trang xã hội như thế này thì việc con người trở thành gái điếm dễ dàng như trở bàn tay. Rõ ràng, gia đình và xã hội đã đẩy Huyền đến chỗ làm đĩ. Vũ Trọng Phụng tả con đường từ gái tân thời đến gái đĩ của Huyền, đẩy Huyền vào con đường ấy là hai kẻ đàn ông: Kim - thằng chồng đê tiện, độc ác và Tân - thằng tình nhân đểu giả, lọc lừa. Cả hai đều bỉ ổi, khốn nạn, ích kỷ đến cùng cực. Huyền là nạn nhân, là con mồi tội nghiệp, đáng thương. Đẩy Huyền vào con đường làm đĩ còn có sự nguy hiểm của những phương tiện truyền thông, những loại hình nghệ thuật, nhất là phim ảnh, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, Vũ Trọng Phụng đã để cho Huyền nhận định “đã nhiễm phải ảnh hưởng của mấy tờ báo mà ngày nào người ta cũng bàn bạc om sòm về các ngôi sao chớp bóng... mà người ta cứ viết thẳng một cách ngây thơ chẳng ngượng ngòi bút là sex appeal... em đã làm cho một người phải ham muốn em... bằng cách khiêu dâm... Không, bằng sex appeal, nói thế hơn, vì nói tiếng mẹ đẻ thì việc ấy mất hết thi vị, không có vẻ mỹ thuật nữa mà lại dâm đãng một cách bản xứ, mặc lòng nghĩa lý của hai thứ tiếng vẫn chỉ là một!... Vạn tuế cho bọn “văn sĩ” của mấy rạp chớp bóng!”. Hay khi Huyền tìm một cái bút chì trong cặp sách của ông anh thì một tập ảnh rơi tung tóe ra trước mặt... Ảnh trai gái khỏa thân, trần truồng hoàn toàn. Như vậy, “hoàn cảnh xấu, những bạn hữu xấu, một nền giáo dục sai lầm ngần ấy cái đã làm cho em hóa ra đến nỗi như này”. Số phận của Huyền thật ê chề, nhục nhã và bi thảm. Quá trình tha hóa, biến chất của Huyền thật xót xa. Chính thiếu đi sự giáo dục của gia đình, thêm vào đó là cạm bẫy chết người của xã hội đã biến Huyền từ một cô gái ngây thơ, trong sáng, ngoan hiền trở thành một gái điếm chuyên nghiệp.
  • 37. 34 2.2. Nhân vật gái điếm trong Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời Ngọc Giao sinh năm 1911 mất năm 1997 tại Huế trong một gia đình trung lưu. Năm 7 tuổi, ông theo gia đình ra Bắc, học ở Quảng Yên rồi lên Hà Nội. Sau khi đỗ bằng Thành chung (1928), ông ra làm báo và viết văn. Từ năm 1934 cho đến năm 1945, ông là một trong số cây bút chuyên viết truyện ngắn cho báo Tiểu thuyết thứ Bảy. Ông từng làm Thư ký tòa soạn cho báo này. Ông còn là cộng tác với nhà xuất bản Tân Dân trong việc in ấn các loại sách báo: Tiểu thuyết thứ Bảy, Những tác phẩm hay, Phổ thông bán nguyệt san, Tao Đàn, Truyền bá. Tác phẩm đầu tay của nhà văn Ngọc Giao là tập truyện ngắn Một đêm vui đăng trên Phổ thông bán nguyệt san số 3 ra ngày 1 tháng 2 năm 1937. Thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954), ông cùng gia đình tản cư lên ở Nhã Nam (Yên Thế, Bắc Giang) một thời gian ngắn. Sau đó ông trở lại Hà Nội, tiếp tục viết văn, làm báo. Lúc này ông viết cho các tờ: Phổ thông, Thế kỷ, Sinh lực, Lẽ sống, Lên đường, Công tội, Tiểu thuyết thứ Bảy... Những tác phẩm của ông viết trước năm 1945 như tiểu thuyết Nhà quê và các tập truyện Một đêm vui, Phấn hương, Cô gái làng Sơn Hạ đã làm nên tên tuổi một nhà văn nghiêng về những cảnh đời của trí thức nghèo và những thân phận dưới đáy xã hội, nhất là phận kiếp cầm ca, gái điếm. Thời kỳ ở Hà Nội tạm chiếm, ông vẫn tiếp tục viết và có những tác phẩm đáng chú ý như Quán gió (1948), Ðất (1950), Cầu sương (1953). Với khoảng ba trăm truyện ngắn và mười tiểu thuyết, Ngọc Giao là một tác gia văn học lẽ ra phải cần được nghiên cứu, tìm hiểu, sau một thời gian dài im lặng, chìm khuất. Một tác phẩm của Ngọc Giao tưởng đã thất lạc lại được tìm thấy. Ðó là phóng sự - tiểu thuyết Xóm Rá. Trong lời đầu sách viết năm 1995, nhà văn cho biết ông đã thâm nhập Xóm Rá ở Sài Gòn năm 1949. Nơi đây là một cõi địa ngục, một chốn mại dâm, một vùng đất cấm: “Nếu nói đến hiện thực thì đây là một tác phẩm đủ sức ghi lại một phần lớn sự kiện về con người và xã hội Sài Gòn ngày ấy”. Nhà văn Ngọc Giao viết truyện ngắn này năm 1957 tại Hà Nội. Nhưng hoàn cảnh xã hội thời ấy đã khiến ông buông bút