SlideShare a Scribd company logo
1 of 118
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ XUÂN THU
CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM - LÝ
LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI
DƢƠNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Ngô Thị Xuân Thu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA ........................................................................................ 7
1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA ........................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa .................................................... 7
1.1.2. Chủ thể bào chữa................................................................................10
1.1.3. Đối tƣợng bào chữa............................................................................16
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................19
1.2.1. Vị trí của ngƣời bào chữa...................................................................19
1.2.2. Vai trò của ngƣời bào chữa ................................................................23
1.3. CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI ...........................................26
1.3.1. Trong mô hình tố tụng tranh tụng ......................................................26
1.3.2. Trong mô hình tố tụng xét hỏi............................................................29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................33
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO
CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG....35
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA.............35
2.1.1. Quyền của ngƣời bào chữa.................................................................35
2.1.2. Nghĩa vụ của ngƣời bào chữa.............................................................48
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TẠI
TỈNH HẢI DƢƠNG...........................................................................54
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân...........................................54
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................72
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA .........................73
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ CHẾ ĐỊNH
NGƢỜI BÀO CHỮA.........................................................................73
3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ
ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA..............................................................76
3.2.1. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
chế định ngƣời bào chữa ....................................................................76
3.2.2. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định
ngƣời bào chữa..................................................................................89
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC............................................................96
KẾT LUẬN..................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCVND : Bào chữa viên nhân dân
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX : Hội đồng xét xử
LS : Luật sƣ
NBTG : Ngƣời bị tạm giữ
TA : Tòa án
THTT : Tiến hành tố tụng
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VAHS : Vụ án hình sự
VKS : Viện Kiểm sát
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1: Số lƣợng LS của tỉnh Hải Dƣơng từ tháng 10/1989
đến tháng 12/2013 55
2 Bảng 2.2: Số VAHS có LS tham gia bào chữa từ năm
2008-2013 57
3 Bảng 2.3: Số vụ án ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử từ
năm 2008 đến năm 2013 và số vụ án LS tham gia
bào chữa qua các giai đoạn TTHS 64
4 Bảng 2.4: Số bị can, bị cáo thuộc diện ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý đƣợc bào chữa miễn phí qua các năm từ 2008
đến 2013 66
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, nƣớc ta đang tiến hành công cuộc cải cách toàn diện về tƣ
pháp hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, trong đó trọng
tâm là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự và mở rộng
hơn nữa quyền của ngƣời bào chữa (NBC), ngƣời bị tạm giữ (NBTG), bị can,
bị cáo. Đây là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảo đảm tính công bằng
của pháp luật, tính dân chủ, công khai của quá trình giải quyết vụ án hình sự
(VAHS) và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, quyền dân chủ cho con
ngƣời, thể hiện nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị
cáo” đã đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ghi nhận, giúp cho việc giải
quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan, hiệu quả, đúng pháp luật. Đây là
một nguyên tắc không thể thiếu của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), trong
đó chế định NBC là một chế định quan trọng trong việc thực hiện quyền bào
chữa của NBTG, bị can, bị cáo.
Để thực hiện yêu cầu tranh tụng, một trong những biện pháp quan trọng
là phải ghi nhận chế định NBC trong BLTTHS. Trong Hiến pháp, pháp luật
của nƣớc ta nói chung và TTHS nói riêng đã có các qui định thể chế hóa
quyền, nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận và thực tiễn
TTHS vẫn chƣa có khái niệm chính thức và thống nhất về chế định NBC.
Đồng thời, những qui định của BLTTHS hiện hành chƣa qui định đầy đủ về
các chủ thể NBC, đối tƣợng bào chữa hoặc có qui định nhƣng dƣờng nhƣ lại
ít đƣợc áp dụng trên thực tế, còn hạn chế một số quyền của NBC, một số qui
định về NBC trong pháp luật TTHS còn nhiều vƣớng mắc, bất cập khi áp
dụng, đòi hỏi khoa học Luật TTHS phải nghiên cứu, giải quyết làm sáng tỏ về
mặt lý luận trong khi vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí
2
trái ngƣợc nhau. Do đó, cần thiết phải có hƣớng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản
pháp luật khác có liên quan. Qua phân tích, đánh giá một số công trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến chế định NBC, đặc biệt qua thực tiễn công tác
và với mong muốn góp phần nâng cao việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
TTHS Việt Nam về chế định NBC, tác giả đã lựa chọn và thực hiện nghiên
cứu ở cấp độ Thạc sĩ với đề tài: “Chế định người bào chữa trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” làm Luận văn nghiên cứu của mình là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định NBC là chế định hết sức quan trọng và cần thiết trong TTHS.
Bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt của NBC. Trong các công
trình khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà luật học,...đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về chế định này ở những mức độ, khía cạnh, phƣơng diện khác
nhau nhƣ: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của
PGS.TS. Hoàng Thị Sơn; “Bào chữa cho các nhóm dễ bị tổn thương theo
Luật TTHS Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Địa vị pháp lý của
Luật sư trong hoạt động tranh tụng” và “Bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội” của PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải; “Vai trò của Luật sư trong tố
tụng hình sự” của TS. Nguyễn Văn Tuân; “Hành nghề Luật sư trong vụ án
hình sự” của TS.LS. Phan Trung Hoài; “Về chế định người bào chữa” của TS.
Đinh Văn Quế; “Mô hình TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Dƣơng Thanh Biểu; “Vấn đề tranh tụng trong hoạt động TTHS và
việc thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện BLTTHS Việt Nam” của TS. Lê
Hữu Thể; “Mô hình TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
PGS. TS Nguyễn Thái Phúc,…
3
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu đƣa ra các nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, về vai trò của một chủ thể bào chữa đó là
LS mà ít có các công trình khoa học nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện,
thống nhất và hệ thống về khái niệm chế định NBC, chủ thể, đối tƣợng bào
chữa, đặc biệt là chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về chế định
Trợ giúp viên pháp lý với tƣ cách là một chủ thể bào chữa mặc dù chế định
này đã đƣợc qui định trong Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2006.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép một lần nữa khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực
tiễn. Đây là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp cần
tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa trong khoa học
TTHS cũng nhƣ thực tiễn áp dụng ở nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp
luật có liên quan về chế định NBC. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên
cứu tập trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những qui định của
pháp luật TTHS về chế định NBC.
- Tổng hợp số liệu thống kê trong hoạt động thực tiễn áp dụng chế định
NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, đƣa ra phân tích, đánh giá những điểm còn
bất cập, hạn chế khi áp dụng chế định này trong thực tiễn.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp
luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC, góp phần nâng cao chất
lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc: “Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được bảo đảm”; “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” mà BLTTHS năm 2003 và Hiến pháp 2013 đã ghi nhận.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định NBC
nhƣ: khái niệm NBC và chế định NBC; chủ thể; đối tƣợng bào chữa; địa vị
pháp lý NBC; chế định NBC trong một số mô hình TTHS trên thế giới.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng, đồng thời phân tích làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế,
tồn tại xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của hạn chế đó.
- Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định
NBC trong luật TTHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam hiện hành
và trong một số mô hình TTHS trên thế giới, kết hợp với việc nghiên cứu,
đánh giá thực tiễn áp dụng chế định này trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong
giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013.
3.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học và
những qui định của pháp luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật
khác có liên quan đến chế định NBC, những tƣ liệu thực tiễn của các
CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng. Bên cạnh đó, những văn bản pháp luật của một số nƣớc trên
thế giới có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng đƣợc đề cập
nhằm làm sáng tỏ chế định NBC.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tƣ tƣởng của Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện
5
trong Nghị quyết số 08[21] và Nghị quyết số 49[22], Hiến pháp năm 2013.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng, kế thừa các thành tựu khoa học của chuyên
ngành pháp lý, luận điểm nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý đƣợc đăng
trên các sách, báo, tạp chí, các trang báo điện tử về chế định NBC trong TTHS.
Cơ sở thực tiễn của Luận văn: dựa trên cơ sở nghiên cứu các qui định
của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, các tƣ liệu
thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc
trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong việc áp dụng chế định NBC.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện chứng,
phƣơng pháp duy vật lịch sử và để thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra của đề
tài, những phƣơng pháp chung đƣợc áp dụng để nghiên cứu là: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, khảo sát thực tế,…
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ Thạc sỹ tiếp cận
về chế định NBC trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đề tài nghiên cứu có
những đóng góp mới nhƣ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định NBC trong Luật TTHS Việt
Nam và trong một số mô hình TTHS trên thế giới. Từ đó, đƣa ra khái niệm
khoa học về chế định NBC.
- Luận văn khảo cứu các qui định pháp luật về chế định NBC, đánh giá
thực trạng áp dụng các qui định đó trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. Phân tích
làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định
này, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế
định NBC, đặc biệt là bổ sung thêm một số chủ thể, đối tƣợng bào chữa chƣa
đƣợc qui định trong BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
6
trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp ở Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn có những đóng góp nhất định trên phƣơng
diện lý luận về chế định NBC.
Về mặt thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn góp
phần nâng cao chất lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm
quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Ngoài ra, Luận văn còn có ý
nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các sinh viên, học viên cao học
thuộc chuyên ngành tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, những nhà hoạt
động thực tiễn và những ai quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt, có thể là tài
liệu tham khảo trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm
2003 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC.
7. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn đƣợc xây dựng phù hợp với mục đích, đối tƣợng
và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh
mục các bảng, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về chế định ngƣời bào chữa
Chương 2: Qui định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế
định NBC và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dƣơng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các qui
định của pháp luật TTHS về chế định NBC
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA
1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa
NBC là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam, cho
đến nay vẫn cần đƣợc làm sáng tỏ về mặt lý luận làm tiền đề cho việc thực
hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Tuy
nhiên, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS hiện nay, chƣa có khái niệm
thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm
khác nhau thể hiện trong các sách chuyên khảo, giáo trình, các bài báo, tạp chí
cũng nhƣ trong qui định của pháp luật TTHS. Để đƣa ra khái niệm khoa học
về chế định NBC chúng ta cần hiểu đƣợc khái niệm chế định pháp luật và
khái niệm NBC. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những
đặc điểm chung giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội
tương ứng”[57, tr.402].
Về khái niệm NBC, trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “NBC là người tham gia tố tụng với
mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị
cáo về mặt pháp lý cần thiết” [16, tr.153]. Tƣơng tự nhƣ vậy, có quan điểm
cho rằng: “NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô
tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[2]. Quan điểm khác cho rằng:
“NBC là người được các CQTHTT chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra
8
những tình tiết xác định NBTG, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của NBTG, bị can, bị cáo và giúp đỡ NBTG, bị can, bị cáo
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” [58, tr.137]
Có thể nói, các quan điểm trên xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trên
cơ sở nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi
hành luật. Mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một hoặc một số đặc điểm của
NBC, chƣa đƣa ra một cách khái quát, đầy đủ khái niệm NBC. Do đó, dễ dẫn
đến cách hiểu khái niệm NBC chỉ bao gồm trách nhiệm, mục đích của NBC
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà
chƣa khái quát hết các qui định của pháp luật TTHS về điều kiện, tiêu chuẩn,
vị trí, vai trò tham gia tố tụng của NBC, chƣa mở rộng việc bào chữa đối với
ngƣời bị bắt, ngƣời bị kết án mặc dù việc giúp đỡ họ về mặt pháp lý và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Vì vậy, theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về NBC phải thể hiện
đƣợc các đặc điểm về NBC và phạm vi đối tƣợng bào chữa nhƣ sau:
Thứ nhất, NBC là người tham gia tố tụng. Đặc điểm này nhằm phân
biệt NBC với ngƣời THTT. Bởi ngƣời THTT là ngƣời nhân danh và sử dụng
quyền lực nhà nƣớc để giải quyết VAHS. NBC chỉ là ngƣời tham gia làm
sáng tỏ những tình tiết của vụ án, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
NBTG, bị can, bị cáo, không phải là ngƣời trực tiếp giải quyết VAHS.
Thứ hai, NBC tham gia tố tụng với mục đích đưa ra những tình tiết xác
định người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ TNHS đối với họ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này xác định nhiệm vụ, mục đích tham
gia tố tụng của NBC đối với đối tƣợng bào chữa. Theo chúng tôi, nên mở
rộng phạm vi đối tƣợng bào chữa không chỉ bao gồm NBTG, bị can, bị cáo
nhƣ trong qui định của BLTTHS hiện hành mà bao gồm cả ngƣời bị bắt cho
9
phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và ngƣời bị kết án nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong giai đoạn thi hành án.
Thứ ba, NBC là người được các CQTHTT chứng nhận thông qua việc
cấp Giấy chứng nhận NBC. Đặc điểm này đƣợc qui định tại khoản 4 Điều 56
BLTTHS năm 2003.
Thứ tư, NBC là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui
định. Bởi không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng với tƣ cách là
NBC. Theo qui định của pháp luật thì các điều kiện đó là:
- Phải đƣợc NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ,
những ngƣời khác đƣợc họ ủy quyền mời [43, khoản 1 Điều 57]; [32, điểm 2
Mục II]; đƣợc CQTHTT yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC
cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình trong trƣờng hợp bắt
buộc phải có NBC nhƣng NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp
của họ không mời NBC [43, khoản 2, khoản 3 Điều 57]; hoặc do Trung tâm
Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sƣ – Cộng tác
viên tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý là NBTG, bị can, bị cáo [46, Điều 39];
- Phải không thuộc vào một trong những trƣờng hợp không đƣợc bào
chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003;
- Phải đáp ứng điều kiện do các văn bản pháp luật khác qui định. Ví dụ:
đối với NBC là LS thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật LS và các văn bản
hƣớng dẫn; đối với NBC là Trợ giúp viên pháp lý thì phải đáp ứng các điều
kiện do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hƣớng dẫn,…
Nhƣ vậy, trên cơ sở phân tích các đặc điểm về NBC và sự tiếp thu
những điểm hợp lý, khắc phục những hạn chế trong các khái niệm NBC nói
trên, dƣới góc độ khoa học Luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về
NBC trong Luật TTHS nhƣ sau: “NBC trong Luật TTHS là người đáp ứng
10
các tiêu chuẩn, điều kiện do pháp luật qui định, được CQTHTT cấp giấy
chứng nhận, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức để
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị bắt, NBTG, bị
can, bị cáo, người bị kết án và giúp đỡ các chủ thể đó về mặt pháp lý trong
các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Từ hai khái niệm chế định pháp luật và khái niệm NBC, có thể đƣa ra
khái niệm khoa học về chế định NBC nhƣ sau: “Chế định NBC trong luật
TTHS Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm các quan
hệ xã hội liên quan tới NBC, trong đó có chủ thể bào chữa, đối tượng bào
chữa, quyền và nghĩa vụ của NBC”.
1.1.2. Chủ thể bào chữa
Một là, Luật sư
Luật sƣ là ngƣời có đủ điều kiện hành nghề theo qui định của pháp luật,
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức [45, Điều 2] nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo qui định của pháp luật.
Hoạt động bào chữa của LS có tính chất chuyên nghiệp [58, tr. 137]. Tiêu
chuẩn để trở thành LS phải: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân
Luật, đã đƣợc đào tạo nghề LS, đã qua thời gian tập sự hành nghề LS, có sức
khỏe bảo đảm hành nghề LS [45, Điều 10]. Ngƣời có đủ tiêu chuẩn nói trên
muốn đƣợc hành nghề LS phải có Chứng chỉ hành nghề LS và gia nhập một
Đoàn LS [45, Điều 11]. LS có thể tham gia TTHS với tƣ cách NBC theo hợp
đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo yêu cầu của CQTHTT.
- Với tƣ cách là NBC theo hợp đồng dịch vụ pháp lý: Tại Điều 26 Luật
LS năm 2006 qui định: LS thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ
pháp lý, trừ trƣờng hợp LS tham gia tố tụng theo yêu cầu của CQTHTT và LS
hành nghề với tƣ cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan,
11
tổ chức. NBTG, bị can, bị cáo có thể làm giấy trực tiếp yêu cầu và ký hợp
đồng với LS mà mình chọn. Đối với NBTG, bị can, bị cáo không thể gặp trực
tiếp LS, thì ngƣời thân thích của họ có thể làm giấy yêu cầu LS và ký hợp
đồng dịch vụ pháp lý với LS. Trong những trƣờng hợp này nhất thiết phải có
sự đồng ý của NBTG, bị can, bị cáo. Nếu NBTG, bị can, bị cáo đồng ý lựa
chọn NBC, CQTHTT xem xét, cấp Giấy chứng nhận NBC cho LS để thực
hiện việc bào chữa [45, Điều 27];
- Với tƣ cách là NBC theo yêu cầu của CQTHTT: Tại khoản 2 Điều 57
BLTTHS năm 2003 qui định: trong một số trƣờng hợp bắt buộc nếu bị can, bị
cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì CQĐT, VKS
hoặc TA phải yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ. Đó
là những trƣờng hợp: Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình đƣợc qui định tại Bộ luật Hình sự; Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Hai là, người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo
Ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo theo qui định của
BLTTHS năm 2003 cũng là một chủ thể bào chữa nhƣng kể từ khi ban hành
BLTTHS năm 1988 đến nay chƣa có một văn bản quy phạm pháp luật nào
khái niệm về dạng chủ thể bào chữa này. Năm 1988 có một văn bản pháp luật
gián tiếp qui định ngƣời đại diện hợp pháp của bị cáo đó là Thông tƣ liên
ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của TA nhân dân tối cao - VKS nhân
dân tối cao qui định: Đại diện hợp pháp của bị cáo chƣa thành niên là bố mẹ
hoặc ngƣời đỡ đầu của họ [54, tr.137]. Tuy nhiên, mới chỉ qui định ngƣời đại
diện hợp pháp của bị cáo mà không bao gồm ngƣời đại diện của NBTG, bị
can và chỉ qui định ngƣời đại diện đối với bị cáo chưa thành niên mà không
phải là bị can, bị cáo thuộc những trƣờng hợp khác nhƣ: ngƣời có nhƣợc điểm
12
về thể chất hoặc tâm thần. Tại Hội nghị tổng kết ngành TA năm 1991, Chánh
án TA nhân dân tối cao khẳng định:
Ngƣời thân thích của bị cáo không phải là NBC, nhƣng thực
tiễn cho thấy có những vấn đề, những tình tiết thuộc về vụ án, thuộc
về nhân thân của bị cáo thì chỉ có ngƣời thân thích mới thấu hiểu và
nắm bắt đƣợc một cách tƣờng tận và do đó họ có thể giúp cho
HĐXX cân nhắc việc xử lý đƣợc chính xác hơn, bảo đảm việc xét xử
của TA đƣợc đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, ngƣời
thân thích của bị cáo có quyền làm NBC cho bị cáo [55, tr.138].
Nội dung hƣớng dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn khi khẳng định ngƣời
thân thích của bị cáo không phải là NBC nhƣng sau đó lại cho phép ngƣời thân
thích của bị cáo có quyền tham gia TTHS để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa,
hƣớng dẫn này không làm rõ ngƣời thân thích của bị cáo là ai [2]. Một số qui
định khác trong BLTTHS hiện hành và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
TA nhân dân tối cao có nhắc tới ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị
cáo [43, Điều 231]; [33, điểm 1 Mục I] nhƣng vẫn không qui định cụ thể hoặc
khái niệm ngƣời đại diện hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS vẫn tồn tại các quan
điểm khác nhau về ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo dẫn đến
cách áp dụng khác nhau trên thực tế. Có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện
hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật. Nhƣng
cũng có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo
có thể là ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Đối với ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo, BLTTHS
năm 2003 không quy định cụ thể là những ngƣời nào nhƣng theo quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ có ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng
lực hành vi dân sự mới có ngƣời đại diện hợp pháp đƣơng nhiên (nếu không,
13
phải có ủy quyền hợp pháp). Tuy nhiên, rất hiếm hoặc có thể nói chƣa có
trƣờng hợp nào cha, mẹ hay ngƣời giám hộ của ngƣời chƣa thành niên, ngƣời
có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần đƣợc tham gia bào chữa, đặc biệt từ
giai đoạn điều tra bởi lẽ họ sẽ vừa mang tƣ cách của ngƣời đại diện, ngƣời
giám hộ, vừa mang tƣ cách của NBC. Trƣờng hợp nếu ngƣời đại diện hợp
pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật và đại diện
trong trƣờng hợp NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời ngƣời chƣa thành niên, ngƣời
có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu họ không tham gia tố tụng với
tƣ cách NBC thì họ cũng có những quyền nhƣ NBTG, bị can, bị cáo, khi đó
họ tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện hợp pháp, nếu tham gia tố
tụng với tƣ cách là NBC thì họ có quyền và nghĩa vụ nhƣ đối với NBC. Và
liệu họ có thể đƣợc đọc hồ sơ vụ án, gặp ngƣời đang bị tạm giữ, tạm giam...
nhƣ một LS bào chữa hay không? Quy định ngƣời đại diện hợp pháp tham gia
bào chữa chỉ mang tính hình thức và không khả thi.
Ba là, Bào chữa viên nhân dân
Chế định BCVND ở Việt Nam ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949, Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ Tƣ pháp quy
định rõ tiêu chuẩn đối với BCVND phải: Có quốc tịch Việt Nam, không phân
biệt đàn ông hay đàn bà; Từ 21 tuổi trở lên; có hạnh kiểm tốt, chƣa can án.
Theo đó, cũng qui định những trƣờng hợp không đƣợc cử làm BCVND để
tránh tình trạng xét xử không vô tƣ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo: Các nhân viên Ủy ban kháng chiến khu hay tỉnh, Thẩm phán xử
án hay buộc tội, các Lục sự và Thƣ ký thuộc quản hạt TA đang xét xử, các
Trƣởng ty, Phó Trƣởng ty Công an thuộc tỉnh mà việc của đƣơng sự đang
mang ra xét xử. Trong suốt thời gian dài (từ năm 1949 đến năm 1987)
BCVND đã giữ một vai trò quan trọng trong TTHS. Tuy nhiên, từ năm 1989
đến nay, khi các Đoàn LS đƣợc khôi phục ở các địa phƣơng thì các Đoàn bào
14
chữa đã giải thể và chấm dứt hoạt động, do đó chức danh BCVND chỉ tồn tại
trên “phƣơng diện pháp lý”. Hiện nay, BLTTHS hiện hành chƣa quy định
khái niệm, điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình độ cũng nhƣ chức năng
của BCVND và trong thực tế hoạt động, BCVND không đƣợc tổ chức thành
một hệ thống, trong khi xã hội có nhiều ngƣời có kiến thức pháp lý và kinh
nghiệm bào chữa nhƣng chƣa đƣợc kết nạp vào Đoàn LS và họ đƣợc NBTG,
bị can, bị cáo nhờ bào chữa. Trƣờng hợp nhƣ vậy có đƣợc gọi là BCVND
không? Pháp luật TTHS chƣa qui định đối với trƣờng hợp này. Do đó, mỗi
nơi thực hiện khác nhau. Hiện nay, chƣa quy định cụ thể điều kiện để
BCVND đƣợc cấp Giấy chứng nhận NBC, thực tế có không ít BCVND không
am hiểu pháp luật, họ bào chữa cho thành viên của tổ chức mình nhƣng bản
thân cũng không hiểu việc bào chữa đó có đúng pháp luật không. Còn ngƣời
đƣợc bào chữa cũng không biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình có đƣợc
đảm bảo không nếu BCVND đứng ra bào chữa cho mình? Họ khó từ chối vì
họ là thành viên của tổ chức đó.
Căn cứ vào hƣớng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TA nhân dân tối cao
tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 về quy định tại khoản
2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì một ngƣời đƣợc coi là BCVND khi ngƣời
đó đƣợc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày
10/10/2011 của Bộ Công an thì thủ tục cấp Giấy chứng nhận NBC đối với
BCVND là phải có giấy tờ chứng minh là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đến; Giấy Giới thiệu của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận nơi
NBTG, bị can là thành viên. Nhƣ vậy, nếu hiểu theo qui định của BLTTHS
năm 2003 và Thông tƣ 70 thì chúng ta có thể hiểu BCVND cũng chính là
15
thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc tổ chức thành viên
của Mặt trận, phạm vi tham gia bào chữa hẹp hơn so với NBC là LS (họ chỉ
tham gia bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình).
BCVND tham gia TTHS trong trƣờng hợp theo yêu cầu của CQTHTT hoặc
do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để
bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Bốn là, Trợ giúp viên pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nƣớc, làm việc tại Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc, đƣợc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp thẻ
Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tƣ pháp [46, Điều 22].
Trợ giúp viên pháp lý là ngƣời đƣợc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc cử
và CQTHTT chấp nhận thì đƣợc tham gia TTHS với tƣ cách là NBC.
Chế định Trợ giúp viên pháp lý là một chế định hoàn toàn mới, lần đầu
tiên xuất hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chƣa đƣợc qui định
trong BLTTHS năm 2003. Chế định Trợ giúp viên pháp lý ra đời thể hiện tính
ƣu việt, nhân văn của chế độ ta nhằm giúp cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính
sách, những ngƣời yếu thế trong xã hội đƣợc quyền bình đẳng trong việc tiếp
cận, sử dụng pháp luật, đƣợc mời NBC miễn phí nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Trợ giúp viên
pháp lý tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị
can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa.
Năm là, NBTG, bị can, bị cáo
Bên cạnh bốn chủ thể bào chữa trên, theo qui định của BLTTHS năm
2003, chủ thể bào chữa còn bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo vì tại Điều 11,
điểm d Khoản 2 Điều 48, điểm e khoản 2 Điều 49, điểm e khoản 2 Điều 50
BLTTHS năm 2003 thì NBTG, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
ngƣời khác bào chữa. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 mở
16
rộng hơn quyền bào chữa của bị cáo đặc biệt là quyền “trình bày ý kiến tranh
luận tại phiên tòa” đƣợc nhấn mạnh tại điểm g khoản 2 Điều 50.
Về chủ thể bào chữa là NBTG, bị can, bị cáo có ý kiến cho rằng các
chủ thể thực hiện chức năng bào chữa bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo; NBC,
bị đơn dân sự; ngƣời đại diện hợp pháp và ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ [3].
NBTG, bị can, bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng, họ là ngƣời bị buộc
tội trực tiếp, họ có quyền nhƣng không buộc phải chứng minh mình vô tội
[43, Điều 10]. Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho sự vô tội hoặc làm giảm
nhẹ TNHS cho bản thân, đồng thời những lý lẽ họ đƣa ra cũng là chứng cứ
quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có họ là ngƣời
đã thực hiện hoặc không thực hiện hành vi phạm tội nên mới hiểu chính xác,
đầy đủ những tình tiết có hoặc không liên quan đến vụ án. Do đó, sự tham gia
tố tụng với tƣ cách là một chủ thể bào chữa (tự bào chữa) thì họ mới thực hiện
quyền bào chữa một cách khách quan, toàn diện và chính xác nhất. Mặc dù
vậy, nhƣng đa số các chủ thể này là những ngƣời có nhận thức pháp luật hạn
chế nên việc tự bào chữa gặp nhiều khó khăn, không ít trƣờng hợp làm tăng
nặng hành vi do mình thực hiện. Do đó, cần thiết phải có ngƣời trợ giúp về
mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ đó là NBC.
1.1.3. Đối tƣợng bào chữa
Theo qui định của BLTTHS hiện hành thì đối tƣợng bào chữa bao gồm:
NBTG, bị can, bị cáo. Những đối tƣợng này vừa là chủ thể bào chữa vừa là
đối tƣợng bào chữa. Là chủ thể bào chữa khi họ tự bào chữa trƣớc các
CQTHTT, là đối tƣợng bào chữa khi họ nhờ ngƣời khác bào chữa.
* Người bị tạm giữ:
NBTG là một trong những đối tƣợng bào chữa mà chủ thể bào chữa
hƣớng tới. NBTG là ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, ngƣời bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú.
NBTG có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 48].
17
NBTG là ngƣời đã có quyết định tạm giữ. NBTG có thể là ngƣời chƣa
bị khởi tố về hình sự, đó là những ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú trƣớc khi hành vi
phạm tội bị phát hiện và khởi tố, đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù chƣa bị
khởi tố về hình sự nhƣng trên thực tế, NBTG vẫn phải chịu sự cƣỡng chế của
cơ quan tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả
lời các câu hỏi của cán bộ điều tra. Vì vậy, pháp luật TTHS coi NBTG là
ngƣời tham gia tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. NBTG
cũng có thể là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị cáo, ngƣời bị kết án,
ngƣời đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú
và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là NBTG. Trong thời hạn tạm
giữ thì họ cũng có quyền và nghĩa vụ của NBTG [58, tr.118-119].
Đối với NBTG, chúng ta chƣa thể xác định chắc chắn rằng họ là ngƣời
có tội bởi họ chỉ là ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm. Do đó, việc bắt giữ
những ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm dễ dẫn tới tình trạng oan, sai, bắt
giữ ngƣời không đúng tội, không đúng pháp luật. Nhiều trƣờng hợp
CQTHTT chƣa tìm ra chứng cứ để chứng minh cho hành vi phạm tội của
ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm nhƣng vẫn bắt giữ và hợp thức hóa hồ sơ
bằng cách xác định ngƣời đó là ngƣời phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Kể cả
trong trƣờng hợp họ ra tự thú hoặc đầu thú cũng chƣa chắc đã phải là ngƣời
thực hiện hành vi phạm tội, bởi thực tế có rất nhiều trƣờng hợp họ nhận tội
thay ngƣời khác. Vì vậy, sự tham gia của NBC là hết sức cần thiết nhằm
giúp NBTG xác định đƣợc những chứng cứ chứng minh họ không thực hiện
tội phạm, không liên quan đến sự việc là lý do bắt giữ họ hoặc làm giảm
TNHS đối với họ. Khi đó NBTG trở thành đối tƣợng bào chữa. Đây là qui
định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo
quyền của NBTG trong TTHS.
18
* Bị can:
Bị can là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có
quyết định khởi tố bị can. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và
một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm [58, tr.120]. Bị can có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 49]. Trong quá trình giải quyết
VAHS đối với bị can, nếu vì lý do nào đó ngƣời THTT không vô tƣ, khách
quan hoặc do trình độ, năng lực hạn chế sẽ dẫn đến việc dùng các biện pháp
trái luật nhƣ: ép cung, mớm cung, dùng nhục hình buộc bị can phải khai báo
theo ý muốn chủ quan của ngƣời THTT. Vì vậy, việc tham gia của NBC để
giúp đỡ họ về mặt pháp lý là rất cần thiết. Trong trƣờng hợp này bị can trở
thành đối tƣợng bào chữa.
* Bị cáo:
Bị cáo là ngƣời bị TA quyết định đƣa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng
từ khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của
TA có hiệu lực pháp luật. Cũng nhƣ khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái
niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng đƣợc áp dụng đối với
ngƣời đó. Một ngƣời sẽ trở thành bị cáo khi bị TA quyết định đƣa ra xét xử,
quyết định đó có thể đúng hoặc trái pháp luật. Vì vậy, khái niệm bị cáo không
đồng nghĩa với khái niệm chủ thể tội phạm. Trên thực tế bị cáo có thể không
phải là chủ thể của tội phạm và ngƣợc lại. Bị cáo chƣa chắc đã phải là ngƣời
có tội, bị cáo trở thành ngƣời có tội nếu sau khi xét xử, họ bị TA ra bản án kết
tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật [58, tr.124]. Hầu hết các nƣớc tiên
tiên trên thế giới qui định bị cáo phải có NBC, nếu bị cáo hoặc ngƣời thân
thích của bị cáo không nhờ NBC thì TA yêu cầu. Điều đó chứng minh rằng bị
cáo khi bị truy tố ra TA rất cần sự trợ giúp của NBC giúp chứng minh sự vô
tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS đối với họ bởi sự tham gia của NBC ở giai đoạn
xét xử rất quan trọng vì nó quyết định số phận pháp lý của bị cáo. Khi đó, bị
cáo là đối tƣợng bào chữa mà NBC hƣớng đến.
19
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.2.1. Vị trí của ngƣời bào chữa
Theo qui định của BLTTHS hiện hành thì NBC cùng với NBTG, bị
can, bị cáo là ngƣời tham gia tố tụng. Trong khoa học Luật TTHS, NBC đƣợc
xếp vào nhóm những ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ công lý[16, tr.131-
133] hoặc nhóm những ngƣời tham gia tố tụng để giúp đỡ ngƣời có quyền và
lợi ích liên quan bao gồm NBC và ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự[50].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng NBC là ngƣời tham gia tố tụng để
bảo vệ công lý, nó thể hiện đƣợc đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò
của NBC trong TTHS vì NBC tham gia tố tụng không chỉ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà còn giúp cơ quan, ngƣời THTT
làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ án, tránh đƣợc những sai lầm có
thể mắc phải trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, NBC còn giúp những
ngƣời tham gia tố tụng khác về mặt pháp lý cần thiết [16, tr.152-153].
Việc xác định vị trí NBC có phải là ngƣời tham gia tố tụng độc lập hay
không, hay chỉ là ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo? họ có là
một “chức danh tƣ pháp” độc lập hay không hay chỉ là ngƣời hoạt động trong
phạm vi “bổ trợ tƣ pháp”, là “ngƣời tham gia tố tụng”?... là vấn đề phức tạp
và đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: NBC là ngƣời tham gia tố tụng độc lập.
Vị trí độc lập của NBC trong TTHS đƣợc xác định bằng các qui phạm pháp
luật TTHS, trong đó qui định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ. Một số tác giả
đã dựa vào qui định của pháp luật TTHS thực định cho NBC quyền đƣợc tự
mình kháng cáo bản án theo hƣớng có lợi cho bị cáo trong trƣờng hợp bị cáo
là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất;
quyền đƣa ra tài liệu, chứng cứ và yêu cầu; có quyền trình bày quan điểm của
20
mình mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bị can, bị cáo… từ đó coi
NBC là ngƣời tham gia tố tụng độc lập [27, tr.43].
Quan điểm thứ hai cho rằng: không thể coi NBC là ngƣời tham gia tố
tụng độc lập. Bởi vì, mối quan hệ giữa NBC và NBTG, bị can, bị cáo chỉ
đƣợc thiết lập khi NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp, ngƣời
thân của họ mời NBC hoặc đƣợc CQTHTT chỉ định và chấp thuận thông qua
việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa. Do đó, có thể khẳng định ý chí của
NBTG, bị can, bị cáo luôn là yếu tố quyết định có hay không có sự tham gia
tố tụng của NBC. Xuất phát từ ý chí chủ quan từ chính bản thân, họ có thể từ
chối NBC ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu nhận thấy sự tham
gia của NBC là không cần thiết, không giúp đỡ gì cho họ hoặc làm xấu hơn
tình trạng của họ [60, tr.13].
Các ý kiến trên xét trên một phƣơng diện, khía cạnh nào đó đều có tính
thuyết phục, bởi các tác giả đều dựa trên thực tiễn TTHS và cơ sở pháp lý
đƣợc qui định trong pháp luật TTHS. Tuy nhiên, để làm rõ vị trí của NBC
trong TTHS cần đặt NBC trong mối quan hệ với các CQTHTT, ngƣời THTT,
với đối tƣợng bào chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác.
- Trong quan hệ với CQTHTT và người THTT:
Theo quy định của BLTTHS hiện hành, tƣ cách tham gia tố tụng của
NBC không bình đẳng với ngƣời THTT. NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tƣợng mà họ nhận bào chữa,
còn ngƣời THTT là chủ thể sử dụng quyền lực, nhân danh quyền lực nhà
nƣớc để ra những phán quyết đối với ngƣời tham gia tố tụng. Ngƣời THTT
là “người thực hiện một số công việc đã được định trước mang tính chủ
động” [29, tr.106], còn ngƣời tham gia là ngƣời “dự vào cho đầy đủ hơn
mang tính thụ động” [35, tr.717]. Ở một số nƣớc trên thế giới, do địa vị pháp
lý của NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng, phạm vi hoạt động thuộc lĩnh vực
21
“bổ trợ tƣ pháp” nên thực chất họ chỉ là ngƣời trợ giúp pháp lý mang tính bị
động, không có cơ sở cho việc hành nghề một cách bình đẳng và độc lập. Ở
Việt Nam, vị trí của NBC chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, ở nhiều địa phƣơng
CQTHTT vẫn gây khó dễ, phiền hà đối với NBC nhƣ: không chấp nhận ý
kiến của đại diện gia đình, ngƣời thân thích nhờ NBC mà bắt buộc phải có ý
kiến của NBTG, bị can, bị cáo trong khi đại diện gia đình, ngƣời thân thích
hoặc NBC không thể tiếp xúc với NBTG, bị can, bị cáo vì họ đang ở trong
Trại tạm giam. Việc tham gia tố tụng của NBC hoàn toàn phụ thuộc vào sự
chấp thuận hay không chấp thuận của CQTHTT.
Trong quan hệ với cơ quan, ngƣời THTT, NBC không đƣợc bình
đẳng ở một số hoạt động nhƣ: điều tra, thu thập chứng cứ, tham gia hỏi
cung bị can,… Chẳng hạn, tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS qui định
NBC chỉ đƣợc hỏi NBTG, bị can nếu đƣợc Điều tra viên đồng ý. Vậy với
những câu hỏi của NBC chỉ nhằm giúp đỡ NBTG, bị can về mặt tinh thần,
hoặc những câu hỏi liên quan đến vấn đề sức khỏe của bị can thì cũng phải
đƣợc Điều tra viên “ đồng ý”?; hoặc khi NBC thu thập đƣợc tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án thì có trách nhiệm giao cho CQTHTT và những chứng
cứ do NBC cung cấp có nhiều tình tiết có lợi cho đối tƣợng bào chữa thì
hầu nhƣ ít đƣợc CQTHTT chấp nhận. Cơ quan, ngƣời THTT đƣợc pháp
luật trao thẩm quyền chứng minh trong VAHS, đƣợc độc quyền trong việc
thu thập chứng cứ. Với tƣ cách là ngƣời tham gia tố tụng, NBC không có
quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật,
đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS, CQTHTT luôn ở
thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ đến việc
đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do đó,
không thể hiện đƣợc quyền hạn, trách nhiệm của NBC, tạo ra sự bất bình
đẳng giữa NBC với cơ quan, ngƣời THTT dẫn đến tâm lý thụ động của
22
NBC khi tham gia bào chữa cho thân chủ của họ. Trong mối quan hệ này,
dƣờng nhƣ quan điểm của NBC trái ngƣợc với cơ quan, ngƣời THTT. Điều
đó không có nghĩa là họ chống đối lại các CQTHTT mà mục đích tham gia
của họ là để đảm bảo công lý, bảo vệ pháp luật.
- Trong quan hệ với đối tượng bào chữa:
Trên cơ sở qui định của BLTTHS năm 2003 có thể thấy NBC và
NBTG, bị can, bị cáo đều là những ngƣời tham gia tố tụng, tuy địa vị pháp lý
khác nhau nhƣng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. NBC tham gia tố tụng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo; ngƣợc lại,
NBTG, bị can, bị cáo muốn quyền, lợi ích hợp pháp của mình đƣợc bảo vệ
một cách tốt nhất phải cần đến ngƣời có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tố
tụng đó là NBC. Mối quan hệ giữa NBC với NBTG, bị can, bị cáo chỉ xuất
hiện trên cơ sở một trong hai trƣờng hợp: NBTG, bị can, bị cáo, ngƣời đại
diện hoặc ngƣời thân thích của họ mời NBC và đƣợc CQTHTT chấp thuận;
hoặc do CQTHTT cử NBC cho NBTG, bị can, bị cáo và đƣợc họ chấp nhận.
Khi tham gia bào chữa, NBC có hai loại quyền:
Thứ nhất, vì đều là ngƣời tham gia tố tụng và là ngƣời đại diện cho
NBTG, bị can, bị cáo nên quyền của NBC cũng là quyền của NBTG, bị can,
bị cáo. Theo đó, NBC có các quyền nhƣ: quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; quyền đề nghị thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch;
quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, ngƣời THTT, tranh
luận tại phiên tòa,... Trừ một số quyền nhƣ: trình bày lời khai; quyền đƣợc nói
lời sau cùng trƣớc khi nghị án,...
Thứ hai, khác với NBTG, bị can, bị cáo, NBC có những quyền riêng
theo chức năng bào chữa: quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi
cung bị can; quyền đƣợc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ
vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra,...
23
Mặc dù cũng là ngƣời đại diện nhƣng khác với việc đại diện của ngƣời
bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự. Ngƣời bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự nếu
đƣợc sự ủy quyền thì đƣợc thay mặt đƣơng sự có toàn quyền quyết định trong
quá trình tham gia giải quyết vụ án. Nhƣng đối với NBC không đƣợc thay mặt
đối tƣợng bào chữa để tham gia vào quá trình giải quyết vụ án mặc dù họ đều
cùng hƣớng đến một mục đích là nhằm giải quyết TNHS cho NBTG, bị can,
bị cáo vì quyền đƣợc tiếp xúc hồ sơ vụ án, tham gia hỏi tại phiên tòa,...là
quyền riêng của NBC; quyền trình bày lời khai; quyền đƣợc nói lời sau cùng
trƣớc khi nghị án,... là quyền riêng của NBTG, bị can, bị cáo.
Nhƣ vậy, trong mối quan hệ với đối tƣợng bào chữa, NBC tham gia
TTHS với tƣ cách là ngƣời đại diện và cùng với đối tƣợng bào chữa bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. NBC tham gia TTHS không có quyền và
lợi ích liên quan đến vụ án, họ tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đối tƣợng bào chữa, sự xuất hiện của họ ở một trong hai trƣờng hợp
nhƣ trên nhƣng đều phụ thuộc vào ý chí của đối tƣợng bào chữa. Khi tham gia
hoạt động bào chữa, NBC cũng có tính độc lập tƣơng đối, họ có những quyền
riêng mà đối tƣợng bào chữa không có, họ không chịu sự ràng buộc bởi đối
tƣợng bào chữa nếu đó là điều kiện trái pháp luật, không phải họ đã nhận thù
lao mà phải làm mọi việc do đối tƣợng bào chữa yêu cầu.
1.2.2. Vai trò của ngƣời bào chữa
Sự hiện diện của NBC trong quá trình tố tụng giúp cơ quan, ngƣời
THTT phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử
đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, góp phần thực hiện dân chủ,
công bằng bởi trong TTHS nếu chỉ ghi nhận chức năng buộc tội mà không có
chức năng gỡ tội thì sẽ không có sự kìm chế và đối trọng với bên buộc tội nên
dễ dẫn đến chủ quan duy ý chí, sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án. Từ
đó, sẽ làm oan ngƣời vô tội, không làm sáng tỏ đƣợc sự thật khách quan của
24
vụ án, vi phạm nguyên tắc cơ bản đã đƣợc Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS
năm 2003 ghi nhận, đó là nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo.
Trong một chế độ dân chủ, nói đến TA và hoạt động xét xử là nói đến
NBC. Vì nội dung cơ bản của dân chủ là quyền con ngƣời và quyền công dân.
Và một trong những ngƣời bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đó là
NBC. Thực tiễn khẳng định, không có NBC và cơ chế đảm bảo quyền bào
chữa của công dân thì khó nói đến dân chủ trong hoạt động tƣ pháp, càng
không thể nói đến việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do
đó, việc tham gia của NBC trong TTHS không chỉ thể hiện sự bảo đảm dân
chủ của quá trình tố tụng mà còn là cơ sở cho việc thực hiện quyền con ngƣời
trong hoạt động tƣ pháp [29, tr.18].
Trong những năm qua, sự tham gia của NBC trong các VAHS chứng
minh vai trò của NBC đã có những ảnh hƣởng rất lớn đến kết quả hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của các CQTHTT. Đặc biệt, sự đóng góp của
NBC cho hoạt động xét xử của TA. Theo thống kê của Bộ Tƣ pháp trong 5
năm (2007 - 2011) đội ngũ LS đã tham gia 64.173 VAHS, trong đó có 32.752
vụ án do khách hàng mời và 31.421 vụ án theo yêu cầu của CQTHTT[13].
Những năm trƣớc đây, ngƣời dân có khi cả CQTHTT quan niệm rằng việc
tham gia TTHS của NBC chỉ là hình thức vì họ cho rằng mọi việc đã đƣợc
các CQTHTT “sắp đặt” từ trƣớc khi đƣa ra quyết định hoặc bản án,… ngƣời
dân chƣa có thói quen nhờ NBC, chƣa thấy đƣợc tầm quan trọng của NBC
nên vai trò của NBC rất mờ nhạt và chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, có khi bị
xem nhẹ. Hoặc có nhiều ngƣời biết nhƣng lại không có tiền, sợ tốn kém nên
không mời NBC. Hoặc NBTG, bị can, bị cáo không tin tƣởng vào NBC, sợ
NBC chịu chi phối bởi những hoàn cảnh khác mà tìm ra những chứng cứ bất
lợi cho họ,… Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã
25
hội, nhận thức của ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Sự hiện diện của
NBC trƣớc các CQTHTT, đặc biệt sự tranh luận của NBC trƣớc TA đã thu
hút đƣợc sự quan tâm của đông đảo dƣ luận, nhiều phiên tòa có NBC tham
gia tranh tụng một cách “gay gắt” để tìm ra lẽ phải, sự công bằng, làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tƣợng
bào chữa. Nên vai trò của NBC đƣợc coi trọng, dƣ luận có cái nhìn thiện chí
hơn đối với NBC, ngƣời dân đã bắt đầu tìm đến NBC để trợ giúp về mặt pháp
luật thay vì tự mình bào chữa nhƣ trƣớc đây. Nhiều văn bản pháp lý cũng
khẳng định vai trò của NBC trong TTHS nhƣ: Nghị quyết số 08[21] và Nghị
quyết số 49[22] của Bộ Chính trị, BLTTHS năm 2003, Luật LS năm 2006,
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006… Do đó, các vụ án oan, sai, án bị hủy, sửa,
bị kháng cáo, kháng nghị cũng giảm thiểu một cách đáng kể so với trƣớc đây.
Qui định NBC đƣợc tham gia TTHS bào chữa cho NBTG, bị can, bị
cáo là điều kiện để NBC kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các
CQTHTT, đồng thời NBC có ý kiến phản biện lại các ý kiến sai lầm của các
cơ quan, ngƣời THTT. Từ đó, tạo ra thế “kìm chế, đối trọng”, giúp
CQTHTT, ngƣời THTT đƣa ra quyết định hoặc phán quyết chính xác, khách
quan, đúng pháp luật.
Nhƣ vậy, vai trò của NBC trong TTHS là sự kết hợp hài hòa giữa việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo với việc bảo đảm
công lý, tôn trọng pháp luật. Mặc dù, NBC có chức năng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết gỡ
tội hay giảm nhẹ TNHS cho NBTG, bị can bị cáo, đồng thời giúp đỡ, tƣ vấn
cho NBTG, bị can bị cáo về những vấn đề pháp lý cần thiết. Nhƣng NBC cũng
có trách nhiệm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự thật khách quan
của vụ án. Đây là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ hữu cơ và có sự tác
động qua lại lẫn nhau, không đƣợc coi trọng mặt nào và xem nhẹ mặt nào.
26
1.3. CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI
Trên cơ sở các kết quả đã đƣợc nghiên cứu cho thấy chế định NBC
đƣợc ghi nhận từ rất sớm. Sự xuất hiện đầu tiên ở thời kỳ Trung cổ và phát
triển mạnh mẽ ở những nƣớc theo hệ thống thông luật (Common Law), sau đó
là các nƣớc Châu Âu lục địa. NBC xuất hiện trên cơ sở nhu cầu khách quan
về sự công bằng trong chính sách xử lý đối với ngƣời phạm tội, sự tham gia
của NBC nhằm phản kháng lại sự hà khắc của thủ tục xét xử đối với ngƣời bị
buộc tội[52]. Chế định NBC đã từng xuất hiện trong các kiểu mô hình TTHS
trên thế giới. Lịch sử thế giới từng tồn tại bốn kiểu mô hình TTHS khác nhau
ở những thời đại khác nhau trong đó ghi nhận chế định NBC, đó là: mô hình
tố tụng tố cáo; mô hình tố tụng thẩm vấn; mô hình tố tụng tranh tụng; mô hình
tố tụng hỗn hợp (kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng).
Các kiểu mô hình TTHS trên, xét về bản chất có thể đƣợc chia làm
hai loại đặc trƣng: mô hình TTHS tranh tụng và mô hình TTHS xét hỏi.
Đây cũng là hai loại mô hình tiêu biểu và phổ biến trên thế giới. Mỗi mô
hình đều mang đặc trƣng của hệ thống pháp luật và phù hợp với đặc điểm
lịch sử, địa lý, truyền thống văn hóa, pháp lý, tôn giáo,…từng quốc gia,
trong đó chủ yếu đề cập đến địa vị pháp lý của các bên tranh tụng: chủ thể
buộc tội và chủ thể gỡ tội.
1.3.1. Trong mô hình tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng tranh tụng xuất hiện những năm đầu từ thế kỷ X-XIII ở
Anh và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVI – XVII, đƣợc sử dụng rộng rãi ở
những quốc gia thuộc hệ thống thông luật Common Law nhƣ: Anh, Mỹ, Úc,
Canada, Ấn Độ...Sự tham gia của NBC gắn liền với sự hình thành các phiên
tòa tranh tụng, NBC có vai trò hỗ trợ ngƣời bị buộc tội tại phiên tòa để chống
lại sự cáo buộc của nhà vua. Trong mô hình này, địa vị pháp lý của NBC
27
đƣợc đề cao và bình đẳng với bên buộc tội, sự tham gia phiên tòa của NBC là
bắt buộc, tranh luận giữa NBC với Công tố viên là chủ yếu. Đặc điểm của mô
hình này là khi kiện tụng các bên phải đƣa ra chứng cứ, lý lẽ và tranh luận với
nhau, các bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên đối tụng hoặc cho những
ngƣời tham gia tố tụng khác, trong một số trƣờng hợp họ có quyền ngắt lời
bên đối tụng, phản bác lại ý kiến mà bên đối tụng đƣa ra. TA chỉ đóng vai trò
là “trọng tài” quan sát sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Do thủ
tục tranh tụng không có giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do bên buộc
tội và bên gỡ tội trực tiếp đƣa ra tại phiên tòa. Thẩm phán có thể chấp nhận
hay không chấp nhận chứng cứ các bên đƣa ra. Thẩm phán không đƣợc
nghiên cứu hồ sơ vụ án từ trƣớc để tránh có một thái độ phiến diện về các tình
tiết của vụ án. Cuối cùng, Thẩm phán sẽ ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ và
lý lẽ mà các bên đƣa ra tại phiên tòa[17, tr.65-66]. Còn đối với mô hình tố
tụng thẩm vấn, mọi hành vi của ngƣời THTT và ngƣời tham gia tố tụng đều
chịu sự điều khiển của Thẩm phán, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia
hoặc cho những ngƣời tham gia tố tụng khác thì phải đƣợc sự đồng ý của
Thẩm phán. Đó là điểm khác biệt so với mô hình tố tụng thẩm vấn nơi mà
trƣớc khi mở phiên tòa tranh tụng các chứng cứ đã đƣợc điều tra, thu thập đầy
đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án.
Điển hình cho mô hình tố tụng tranh tụng là ở nƣớc Mỹ. Theo Luật
TTHS Mỹ, NBC đƣợc tham gia từ giai đoạn tiền xét xử và tại phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm, ngƣời bị buộc tội có quyền im lặng và không buộc phải khai
báo những chứng cứ bất lợi cho bản thân và đƣợc yêu cầu gặp NBC của mình.
Ngay từ thời điểm một ngƣời bị bắt, Cảnh sát viên có nghĩa vụ thông báo và
giải thích về quyền có NBC, nếu ngƣời bị tình nghi không có khả năng thuê
NBC, cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định NBC cho họ, trừ khi họ từ chối
quyền của mình một cách tự nguyện và minh mẫn, quyền của NBC cũng đƣợc
28
đề cao và mở rộng hơn so với mô hình tố tụng thẩm vấn. Ví dụ: Tại phiên tòa,
NBC có quyền yêu cầu triệu tập nhân chứng, hoặc thu thập những chứng cứ
mới để chứng minh cho những lý lẽ đƣa ra, phiên tòa là sự điều tra, đánh giá
chứng cứ một cách công khai và dân chủ nhất. NBC có quyền và nghĩa vụ
pháp lý bình đẳng với CQTHTT trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ. Tố tụng tranh tụng không buộc NBC phải khách quan, công khai trong
quá trình thu thập chứng cứ mà có thể tiến hành bằng nhiều biện pháp khác
nhau để đạt đƣợc mục đích gỡ tội cho ngƣời đƣợc bào chữa. Tại phiên tòa,
NBC phải chứng minh đƣợc hành vi của bị cáo là không có lỗi, không vi
phạm luật hoặc chƣa đến mức bị truy cứu TNHS hay có căn cứ để giảm nhẹ
TNHS. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ do các bên cung cấp tại phiên tòa
dựa trên qui định của pháp luật và phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm
phán. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn không tham gia tranh luận, không tham gia
vào các thủ tục thu thập chứng mà chỉ đƣa ra kết luận cuối cùng trên cơ sở
tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Các bên tham gia tranh luận có
trách nhiệm đƣa ra chứng cứ trƣớc Tòa. Vai trò thu thập và trình bày chứng
cứ của NBC đƣợc đề cao, thể hiện sự dân chủ, NBC có vị trí, vai trò bình
đẳng với Viện công tố. Họ đƣợc pháp luật trao quyền tƣơng ứng với chức
năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động
của mình. Viện công tố đƣa ra các quan điểm, chứng cứ, lập luận để buộc tội
bị cáo. Còn NBC có thể dùng mọi lý lẽ, biện pháp pháp luật cho phép để phản
bác lại ý kiến buộc tội của Viện Công tố. Hai bên tranh luận công khai, dân
chủ tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm của mình. Việc bảo vệ cáo trạng của
Công tố viên không phải dễ dàng vì những chứng cứ, lý lẽ mà NBC đƣa ra
trƣớc Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn. NBC có quyền thu thập, đƣa ra các
chứng cứ, lý lẽ thuyết phục để bào chữa cho thân chủ tại phiên tòa, Công tố
viên và NBC tranh luận một cách dân chủ tại Tòa, bên nào đƣa ra những
29
chứng cứ, lý lẽ thuyết phục hơn thì sẽ đƣợc TA chấp nhận, qua đó Thẩm phán
có điều kiện để suy xét, đƣa ra phán quyết thích hợp nhất.
Ở mô hình tố tụng tranh tụng, NBC phải tuân thủ các quy tắc về đạo
đức nghề nghiệp, những thủ đoạn đe dọa hay che giấu, làm sai lệch thông tin
có thể làm cho TA có định kiến, quy tắc này đòi hỏi NBC phải hành sự và
trung thành vô điều kiện với quyền lợi của thân chủ nhƣ chính quyền lợi của
họ. Trong mô hình này, chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật đƣợc
giao cho TA. Với vị trí trung tâm của hệ thống tƣ pháp, của hoạt động tố tụng,
TA có quyền và có trách nhiệm bảo đảm cho các bên nghiêm chỉnh chấp hành
quy định của pháp luật. Điều này khác với những nƣớc có tổ chức VKS nhƣ:
Nga, Trung Quốc, Việt Nam…
Tuy nhiên, trong mô hình tố tụng tranh tụng bên cạnh những ƣu điểm
trên còn tồn tại một số nhƣợc điểm: nếu bên nào có tiền thuê NBC thì phần
thắng nhiều hơn, đây là điều bất lợi cho ngƣời nghèo khi tham gia tố tụng,
nên có ý kiến cho rằng nó xa rời thực tế “việc con ngƣời bị phán xét nhƣ thế
nào dƣờng nhƣ quan trọng hơn việc xem họ đã làm gì trên thực tế”. Do đó, dễ
để lọt tội phạm bởi nếu Công tố viên đƣa ra chứng cứ, lý lẽ không thuyết
phục, TA sẽ không buộc tội mặc dù trên thực tế bị cáo đã thực hiện tội phạm.
Bên cạnh đó, thời gian xét xử thƣờng kéo dài vì việc xem xét, đánh giá chứng
cứ chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, chi phí mở phiên tòa tốn kém. Vai trò của
CQTHTT không đƣợc đề cao bởi pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng cho
ngƣời tham gia tố tụng.
1.3.2. Trong mô hình tố tụng xét hỏi
Tố tụng xét hỏi (tố tụng thẩm vấn) hình thành từ thời kỳ chiếm hữu nô
lệ, phát triển chủ yếu trong chế độ quân chủ, mô hình này xuất hiện cùng với
các TA Thiên chúa giáo ở Châu Âu trong thời kỳ trung cổ vào thế kỷ XIII và
dần thâm nhập vào TA thƣờng đến khi không còn TA Thiên Chúa giáo. Mô
30
hình tố tụng này đƣợc sử dụng ở những quốc gia theo hệ thống Civil Law.
Hầu hết ở các quốc gia trƣớc đây không phải là thuộc địa của Anh, bao gồm
cả các nƣớc châu Âu lục địa, Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi nhƣ: Đức, Pháp,
Việt Nam,… Đặc trƣng của mô hình tố tụng xét hỏi là đề cao vai trò chủ động
của Thẩm phán, Thẩm phán là ngƣời đƣa ra quyết định điều tra khi xảy ra một
vụ án nào đó, là ngƣời có trách nhiệm tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc,
chứng cứ và là ngƣời chỉ đạo toàn bộ quá trình tố tụng, kể cả giai đoạn điều
tra. Trong quá trình điều tra, Thẩm phán cũng góp phần tích cực trong việc
tìm ra sự thật với tƣ cách là ngƣời thẩm tra. Thẩm phán không chỉ thực hiện
chức năng xét xử, mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, buộc tội và một
phần nào đó của chức năng bào chữa[36]. Phiên tòa theo mô hình tố tụng xét
hỏi không phải là sự tranh luận dân chủ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà thực
chất vẫn là sự tiếp tục điều tra, thẩm định, đánh giá, tìm chứng cứ, làm rõ sự thật
khách quan của vụ án. Bên buộc tội và bên gỡ tội có trách nhiệm đƣa ra chứng
cứ. Thẩm phán thực hiện thẩm vấn ngƣời làm chứng chứ không phải Công tố
viên và NBC. Tại phiên tòa, việc xét hỏi nhân chứng và các bên liên quan chủ
yếu do Thẩm phán. Nhiệm vụ của Thẩm phán là thẩm vấn để bổ sung, làm rõ,
đánh giá chứng cứ của vụ án. Chứng cứ do NBC đƣa ra chƣa đƣợc Thẩm phán
coi trọng mà chủ yếu dựa trên kết quả điều tra, xét hỏi. NBC tranh luận chỉ để
giải thích các chứng cứ liên quan đến vụ án mà có thể những chứng cứ này sẽ
ảnh hƣởng trực tiếp đến việc đƣa ra phán quyết của Thẩm phán.
Trong mô hình tố tụng xét hỏi, vai trò của NBC không đƣợc đề cao mà
rất mờ nhạt, thụ động và không bình đẳng với CQTHTT. Mô hình này cũng
qui định tranh luận tại phiên tòa nhƣng không thực sự dân chủ và bình đẳng
nhƣ mô hình tố tụng tranh tụng, quyền của NBC thƣờng không đƣợc tôn trọng
đầy đủ vì họ không có trách nhiệm chứng minh, trách nhiệm chứng minh
thuộc về CQTHTT mà chủ yếu là Thẩm phán, bởi chứng cứ do Thẩm phán
31
tập hợp, đánh giá. Phiên tòa ở mô hình tố tụng xét hỏi không kéo dài bằng ở
mô hình tố tụng tranh tụng nhƣng các giai đoạn tố tụng và thủ tục tố tụng lại
dài hơn vì có thêm giai đoạn điều tra.
Để làm rõ hơn về chế định NBC trong mô hình tố tụng xét hỏi, chúng
ta có thể nghiên cứu việc áp dụng chế định này tại quốc gia Trung Quốc.
Ở Trung Quốc, Luật TTHS đƣợc bắt nguồn từ mô hình tố tụng thẩm
vấn và có nhiều nét tƣơng đồng với Luật TTHS Việt Nam nhƣng mang nhiều
yếu tố tranh tụng hơn. Theo Luật TTHS Trung Quốc thì NBC có quyền: gặp
gỡ, trao đổi với nghi can đang bị tạm giữ, tƣ vấn, trích, sao các tài liệu từ khi
VKS bắt đầu thẩm tra tƣ pháp[9, Điều 36]; thu thập thông tin liên quan đến vụ
án; yêu cầu triệu tập nhân chứng mới tới phiên tòa, thu thập chứng cứ mới,
giám định bổ sung và các yêu cầu khác; đƣợc hỏi ngƣời làm chứng và ngƣời
giám định. NBC có quyền tham gia tố tụng kể từ thời điểm vụ án đƣợc
chuyển giao để thẩm tra trƣớc khi truy tố. Bị cáo trong một vụ án thuộc tƣ tố
có quyền chỉ định NBC vào bất kỳ thời điểm nào. NBC có nghĩa vụ tôn trọng
sự thật khách quan và pháp luật, có trách nhiệm trình bày tài liệu và ý kiến
chứng minh sự vô tội của nghi can, bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của tội phạm và
sự cần thiết phải giảm hình phạt hoặc miễn truy cứu TNHS, nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của nghi can, bị cáo[9, Điều 35]; không đƣợc giúp
bị can, bị cáo che giấu, tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung,
và không đƣợc đe dọa hoặc xúi giục nhân chứng sửa đổi lời khai của mình
hoặc khai man hoặc tiến hành những hành vi khác để can thiệp vào tiến trình
tố tụng của các cơ quan tƣ pháp. Nếu NBC vi phạm các quy định trên phải bị
truy cứu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật[9, Điều 38]. Trong
giai đoạn điều tra, CQĐT phải bảo đảm hoạt động bào chữa của NBC theo
pháp luật. Sau khi nghi can bị CQĐT thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một LS tƣ vấn
32
pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị
bắt, LS đƣợc chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có ngƣời bảo lĩnh trong
giai đoạn chờ xét xử. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nƣớc, trƣớc khi gặp
nghi can, LS phải có sự phê chuẩn của CQĐT[9, Điều 96]. Ở giai đoạn điều
tra, vai trò của LS rất hạn chế trong việc tƣ vấn, kiến nghị hay khiếu nại thay
mặt ngƣời bị tình nghi. LS chỉ đƣợc khuyên một cách chung chung về vụ án,
về quyền của ngƣời bị tình nghi và LS cũng không thể trợ giúp pháp lý cho
ngƣời bị tình nghi trong việc chuẩn bị bào chữa. Trong giai đoạn này, CQĐT
có thể có mặt trong bất cứ cuộc tiếp xúc nào giữa ngƣời bị tình nghi với LS.
Trong giai đoạn truy tố và xét xử, bị cáo có quyền bào chữa và TA phải có
trách nhiệm đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa[9, Điều 11]. Nếu
vụ án do Kiểm sát viên đƣa ra trƣớc Tòa và bị cáo không có NBC vì khó khăn
tài chính hoặc vì lý do khác thì TA chỉ định một LS bào chữa cho bị cáo. Nếu
bị cáo là ngƣời mù, điếc hoặc là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có khả năng bị
án tử hình và không chỉ định bất kỳ ai bào chữa cho mình thì TA phải chỉ
định một LS bào chữa cho bị cáo[9, Điều 34]. Trong giai đoạn truy tố, xét xử,
VKS và TA phải tạo thuận lợi và đảm bảo thời gian cho NBC tƣ vấn, tra cứu,
sao trích các chứng cứ, tài liệu, tình tiết liên quan đến vụ án và cho phép NBC
có thể gặp gỡ, trao đổi với bị cáo đang bị giam giữ[9, Điều 36], [56, Điều 40,
41]. Giống nhƣ pháp luật TTHS Việt Nam, Luật TTHS Trung Quốc cũng qui
định NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng[9, Điều 82.4], chƣa phân định rõ 3
chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử vì CQĐT, VKS, TA chủ yếu thực
hiện hoạt động điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, vai trò của NBC
còn bị hạn chế, trong giai đoạn này đề cao chức năng buộc tội nhằm mục đích
trừng trị ngƣời phạm tội hơn là để lọt tội phạm. Việc điều tra, thu thập chứng
cứ chủ yếu là do CQĐT và VKS. CQĐT có quyền chứng minh tình tiết giảm
nhẹ TNHS của nghi can, bị can (điều này đã làm giảm vai trò của NBC).
33
Trong giai đoạn xét xử, TA vừa thực hiện chức năng xét xử, vừa thực hiện
chức năng buộc tội vì Thẩm phán tham gia vào quá trình điều tra, thẩm vấn
tại phiên tòa, trực tiếp xét hỏi và kiểm tra nhân chứng, chứng cứ. Tuy nhiên,
vai trò buộc tội của HĐXX ở mức độ hạn chế hơn vì luật TTHS Trung Quốc
không đặt trách nhiệm chứng minh tại Tòa thuộc về HĐXX mà đề cao vai trò
buộc tội do Kiểm sát viên thực hiện tại phiên tòa. Tại phần xét hỏi, Kiểm sát
viên xét hỏi trƣớc, sau đó đến NBC và ngƣời tham gia tố tụng khác, HĐXX
không xét hỏi trƣớc mà chỉ lắng nghe và có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào về
các tình tiết cần làm sáng tỏ nếu thấy cần thiết. Vai trò của NBC ở giai đoạn
xét xử đƣợc đề cao hơn so với giai đoạn điều tra, NBC đƣợc bình đẳng với
Kiểm sát viên tại phiên tòa, NBC có quyền đề nghị Chánh án lần lƣợt cho gọi
nhân chứng, ngƣời giám định ra Tòa làm chứng hoặc xuất trình những chứng
cứ, đọc lời chứng đã ghi thành văn bản của nhân chứng chƣa có mặt tại phiên
tòa, kết luận giám định của ngƣời giám định, bị cáo và NBC có thể hỏi nhân
chứng; sau khi đƣa ra chứng cứ thì bị cáo và NBC tranh luận với Kiểm sát
viên, ngƣời bị hại[66].
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chế định NBC có vị trí, vai trò quan trọng trong pháp luật và thực tiễn
TTHS. Tuy nhiên, đến nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS chƣa
có khái niệm thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và
quan điểm khác nhau. Những quan điểm này đã đƣợc các tác giả đề cập trong
các sách chuyên khảo, giáo trình và các bài báo, tạp chí về TTHS. Do đó, việc
nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với chế định này là hết sức cần
thiết. Qua nghiên cứu một số quan điểm về chế định NBC, trên cơ sở các qui
định của BLTTHS năm 2003 và thực tiễn áp dụng, tác giả đƣa ra khái niệm
đầy đủ về chế định NBC. Từ qui định của BLTTHS hiện hành, tác giả phân
34
tích và làm sáng tỏ một số điểm tích cực, tiến bộ, hạn chế, bất cập trong một
số qui định về chủ thể, đối tƣợng bào chữa, địa vị pháp lý của NBC trong
TTHS và nghiên cứu chế định NBC trong hai mô hình TTHS đặc trƣng trên
thế giới đó là mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng xét hỏi nhằm làm
rõ hơn qui định của pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC.
35
Chương 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
2.1.1. Quyền của ngƣời bào chữa
Quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi NBTG, bị can và có mặt trong những hoạt
động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia
của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa
(điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003):
Quy định này giúp NBTG, bị can có tâm lý yên tâm hơn khi khai báo,
đồng thời giám sát hoạt động của CQĐT, CQĐT thận trọng hơn trong việc
tuân thủ pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan vụ án, tránh tình trạng Điều
tra viên ép cung, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình đối với NBTG, bị can
để làm sai lệch kết quả điều tra. Từ đó, NBC theo dõi đƣợc quá trình điều tra
và tình hình chứng cứ, nó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị bài bào chữa và
tham gia tranh tụng của họ ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo của vụ án.
NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can
và hỏi NBTG, bị can nếu Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ tình tiết có lợi
cho NBTG, bị can. Qui định nhƣ vậy sẽ hạn chế quyền chủ động của NBC
bởi nếu NBC muốn hỏi NBTG, bị can thì phải đƣợc sự “đồng ý” của Điều tra
viên. Thực tế hầu nhƣ ở giai đoạn này, NBC chỉ là ngƣời tham dự hỏi cung
cùng Điều tra viên nên không thể thu thập đầy đủ thông tin cho việc gỡ tội.
Tại Khoản 3 Điều 7 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 qui định:
36
“Khi lấy lời khai NBTG, hỏi cung bị can nếu Điều tra viên đồng ý cho NBC
được hỏi NBTG, bị can thì phải ghi câu hỏi của NBC, câu trả lời của NBTG,
bị can vào trong biên bản lấy lời khai NBTG, biên bản hỏi cung bị can”. Quy
định này góp phần bảo đảm việc hỏi NBTG, bị can của NBC nhƣng vẫn bị
hạn chế bởi qui định “nếu Điều tra viên đồng ý” nên NBC luôn ở thế bị động
và không thể thu thập đầy đủ thông tin cho việc gỡ tội của mình. Mặt khác,
chỉ qui định việc ghi vào biên bản lấy lời khai NBTG, biên bản hỏi cung bị
can những câu hỏi của NBC nếu Điều tra viên đồng ý, không qui định lập
biên bản về những câu hỏi của NBC không đƣợc Điều tra viên đồng ý.
BLTTHS qui định NBC có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra
khác nhƣ: thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện
trƣờng, khai quật tử thi, khám xét,… Khi tham gia vào những hoạt động này,
NBC có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS
cho bị can, góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án trong
quá trình điều tra. Nhƣng thực tế, họ rất ít đƣợc tham gia vì đều bị Điều tra
viên từ chối mặc dù sự tham gia của họ là hết sức cần thiết.
Để tạo điều kiện cho NBC trong việc thu thập chứng cứ phục vụ cho
việc bào chữa và bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án đƣợc khách quan,
BLTTHS năm 2003 qui định NBC đƣợc xem lại các biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời
mà mình bào chữa. Đây là một quyền hoàn toàn mới so với BLTTHS năm
1988 nhằm tạo sự giám sát của NBC đối với hoạt động của ngƣời THTT buộc
ngƣời THTT phải thận trọng hơn khi đƣa ra các quyết định và thực hiện đúng
qui định pháp luật. Trong quá trình giải quyết VAHS, có nhiều hoạt động tố
tụng đƣợc thực hiện nhƣ: lấy lời khai NBTG, hỏi cung bị can,…những hoạt
động này đều đƣợc lập thành biên bản và có chữ ký của các bên liên quan.
Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng
37
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời mà
mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, NBC có quyền khiếu
nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Quyền được đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi
cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can (điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS
năm 2003):
Đây là một qui định mới, bổ sung quyền của NBC trong giai đoạn điều
tra. Trƣớc đây, BLTTHS năm 1988 không qui định nên việc tham gia của
NBC hoàn toàn phụ thuộc vào CQĐT. Qui định này giúp NBC có kế hoạch
chủ động tham gia vào quá trình hỏi cung bị can. Tuy nhiên, BLTTHS năm
2003 chỉ qui định NBC có quyền “đề nghị” CQĐT báo trƣớc về thời gian và
địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung bị can nhƣng lại không qui định
trách nhiệm của CQĐT trong việc thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời
khai NBTG, hỏi cung bị can. NBC có quyền có mặt khi hỏi cung bị can
nhƣng phải “đề nghị” CQĐT báo trƣớc về thời gian và địa điểm có mặt, đồng
thời pháp luật không quy định cụ thể thời hạn CQĐT phải báo trƣớc cho NBC
là bao lâu. Do đó, trên thực tế khi NBC không chủ động đề nghị thì CQĐT
không thông báo trƣớc về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can cho NBC hoặc
có trƣờng hợp CQĐT chỉ thông báo bằng điện thoại trƣớc giờ hỏi cung nên
NBC không kịp đến để tham gia hỏi cung dẫn đến hạn chế việc thu thập
chứng cứ cho NBTG, bị can.
Quyền được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người
phiên dịch (điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003):
Nếu có những căn cứ theo luật định và xét thấy ngƣời THTT, ngƣời
giám định, ngƣời phiên dịch tham gia tố tụng có thể làm ảnh hƣởng không tốt
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời mà mình bào chữa, thì NBC có quyền
đề nghị thay đổi. Quyền này đƣợc áp dụng trong suốt quá trình giải quyết vụ
38
án. Những căn cứ theo luật định về việc thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám
định, ngƣời phiên dịch đƣợc qui định tại các Điều 42, khoản 4 Điều 60, khoản
3 Điều 61 của BLTTHS năm 2003. Quyền đề nghị thay đổi ngƣời THTT,
ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch nói trên không chỉ dành cho bị can, bị cáo
mà còn cho NBC. Thực hiện quyền này sẽ góp phần bảo đảm sự vô tƣ, khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho những quyết định có liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo đƣợc chính xác,
công bằng. Quy định này thể hiện tính dân chủ trong TTHS Việt Nam.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
NBTG, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật
Nhà nước, bí mật công tác (điểm d khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003):
Đây là một qui định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm
1988. Thực tiễn TTHS cho thấy, với trách nhiệm chứng minh tội phạm,
CQTHTT thƣờng quan tâm đến những chứng cứ buộc tội NBTG, bị can, bị
cáo hơn là chứng cứ gỡ tội. Do đó, qui định quyền nói trên đối với NBC có ý
nghĩa quan trọng giúp NBC chủ động hơn trong việc tìm ra những chứng cứ
có lợi cho thân chủ của mình. Bởi nếu chỉ căn cứ vào những chứng cứ do
CQTHTT thu thập thì có thể sẽ đánh giá chứng cứ theo hƣớng thiên về buộc
tội nhiều hơn là gỡ tội. Điều đó sẽ gây bất lợi cho đối tƣợng bào chữa. Đồng
thời, khi thực hiện quyền này sẽ giúp NBC thực hiện đƣợc một số quyền khác
nhƣ: quyền gặp NBTG, bị can, bị cáo; quyền đề nghị đƣợc gặp cơ quan, tổ
chức, cá nhân để thu thập tài liệu, đồ vật. Sau khi gặp những ngƣời này, NBC
có thể thu thập đƣợc những tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan đến việc bào
chữa hoặc có thể NBTG, bị can, bị cáo đề nghị NBC tìm thêm nhân chứng,
vật chứng,… Mặc dù BLTTHS năm 2003 qui định NBC có quyền thu thập tài
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa nhƣng lại chƣa qui định về
39
trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của NBC. Theo qui định tại Điều 65
BLTTHS năm 2003 thì: Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và TA có quyền
triệu tập những ngƣời biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày những vấn đề
có liên quan đến vụ án, trƣng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám
nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo qui định của BLTTHS; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết
làm sáng tỏ vụ án. Những ngƣời tham gia tố tụng (trong đó có NBC), cơ
quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đƣa ra tài liệu, đồ vật và
trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án.
Quyền thu thập, tài liệu, đồ vật của NBC trong giai đoạn điều tra đƣợc
cụ thể hóa tại Điều 9 Thông tƣ số 70[4]. Theo đó, qui định CQĐT, Điều tra
viên có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để NBC thu thập tài liệu, đồ vật,
tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, bị can, ngƣời thân thích của
những ngƣời này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG,
bị can nếu không thuộc bí mật nhà nƣớc, bí mật công tác. Về thủ tục, khi
NBC thu thập đƣợc tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa giao cho
CQĐT thì Điều tra viên lập biên bản tiếp nhận và đƣa vào hồ sơ vụ án.
Trƣờng hợp NBC đƣa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào
chữa thì Điều tra viên lập biên bản ghi nhận yêu cầu của NBC.
Tuy nhiên, để thực hiện quyền trên cũng không hề đơn giản. Bởi thực
tế, NBC gặp không ít khó khăn trong việc hợp tác với các cơ quan, tổ chức
khi thu thập chứng cứ, trong khi CQTHTT chỉ cần có Công văn yêu cầu là
đƣợc cung cấp thông tin. Sở dĩ nhƣ vậy, vì luật chƣa qui định chế tài áp dụng
trong những trƣờng hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp các thông
tin có liên quan cho NBC dẫn đến tình trạng NBC phải “sử dụng hồ sơ buộc
tội để gỡ tội”, tìm ra những kẽ hở để bào chữa cho thân chủ và “kêu gọi lòng
nhân đạo của TA, của pháp luật” đối với bị can, bị cáo[67]. Việc bào chữa
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụngLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOTLuận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 

Similar to Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY

Similar to Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY (20)

NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Chức năng bào chữa của Luật sư trong điều tra vụ án hình sự, 9đ
Chức năng bào chữa của Luật sư trong điều tra vụ án hình sự, 9đChức năng bào chữa của Luật sư trong điều tra vụ án hình sự, 9đ
Chức năng bào chữa của Luật sư trong điều tra vụ án hình sự, 9đ
 
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niênĐối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
 
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOTBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAYBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sựVai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Recently uploaded (20)

TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 

Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ XUÂN THU CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG
  • 2. HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Ngô Thị Xuân Thu
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA ........................................................................................ 7 1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA ........................................................................................ 7 1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa .................................................... 7 1.1.2. Chủ thể bào chữa................................................................................10 1.1.3. Đối tƣợng bào chữa............................................................................16 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................19 1.2.1. Vị trí của ngƣời bào chữa...................................................................19 1.2.2. Vai trò của ngƣời bào chữa ................................................................23 1.3. CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI ...........................................26 1.3.1. Trong mô hình tố tụng tranh tụng ......................................................26 1.3.2. Trong mô hình tố tụng xét hỏi............................................................29 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................33 Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG....35 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA.............35
  • 5. 2.1.1. Quyền của ngƣời bào chữa.................................................................35 2.1.2. Nghĩa vụ của ngƣời bào chữa.............................................................48 2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG...........................................................................54 2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân...........................................54 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................63 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................72 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA .........................73 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA.........................................................................73 3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA..............................................................76 3.2.1. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chế định ngƣời bào chữa ....................................................................76 3.2.2. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định ngƣời bào chữa..................................................................................89 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC............................................................96 KẾT LUẬN..................................................................................................104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCVND : Bào chữa viên nhân dân BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng HĐXX : Hội đồng xét xử LS : Luật sƣ NBTG : Ngƣời bị tạm giữ TA : Tòa án THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện Kiểm sát
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1 Bảng 2.1: Số lƣợng LS của tỉnh Hải Dƣơng từ tháng 10/1989 đến tháng 12/2013 55 2 Bảng 2.2: Số VAHS có LS tham gia bào chữa từ năm 2008-2013 57 3 Bảng 2.3: Số vụ án ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2008 đến năm 2013 và số vụ án LS tham gia bào chữa qua các giai đoạn TTHS 64 4 Bảng 2.4: Số bị can, bị cáo thuộc diện ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý đƣợc bào chữa miễn phí qua các năm từ 2008 đến 2013 66
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hiện nay, nƣớc ta đang tiến hành công cuộc cải cách toàn diện về tƣ pháp hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, trong đó trọng tâm là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự và mở rộng hơn nữa quyền của ngƣời bào chữa (NBC), ngƣời bị tạm giữ (NBTG), bị can, bị cáo. Đây là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảo đảm tính công bằng của pháp luật, tính dân chủ, công khai của quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS) và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, quyền dân chủ cho con ngƣời, thể hiện nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo” đã đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ghi nhận, giúp cho việc giải quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan, hiệu quả, đúng pháp luật. Đây là một nguyên tắc không thể thiếu của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), trong đó chế định NBC là một chế định quan trọng trong việc thực hiện quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo. Để thực hiện yêu cầu tranh tụng, một trong những biện pháp quan trọng là phải ghi nhận chế định NBC trong BLTTHS. Trong Hiến pháp, pháp luật của nƣớc ta nói chung và TTHS nói riêng đã có các qui định thể chế hóa quyền, nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận và thực tiễn TTHS vẫn chƣa có khái niệm chính thức và thống nhất về chế định NBC. Đồng thời, những qui định của BLTTHS hiện hành chƣa qui định đầy đủ về các chủ thể NBC, đối tƣợng bào chữa hoặc có qui định nhƣng dƣờng nhƣ lại ít đƣợc áp dụng trên thực tế, còn hạn chế một số quyền của NBC, một số qui định về NBC trong pháp luật TTHS còn nhiều vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng, đòi hỏi khoa học Luật TTHS phải nghiên cứu, giải quyết làm sáng tỏ về mặt lý luận trong khi vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí
  • 9. 2 trái ngƣợc nhau. Do đó, cần thiết phải có hƣớng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Từ việc nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Qua phân tích, đánh giá một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến chế định NBC, đặc biệt qua thực tiễn công tác và với mong muốn góp phần nâng cao việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC, tác giả đã lựa chọn và thực hiện nghiên cứu ở cấp độ Thạc sĩ với đề tài: “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” làm Luận văn nghiên cứu của mình là hết sức cần thiết và có ý nghĩa không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Chế định NBC là chế định hết sức quan trọng và cần thiết trong TTHS. Bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt của NBC. Trong các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà luật học,...đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chế định này ở những mức độ, khía cạnh, phƣơng diện khác nhau nhƣ: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của PGS.TS. Hoàng Thị Sơn; “Bào chữa cho các nhóm dễ bị tổn thương theo Luật TTHS Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Địa vị pháp lý của Luật sư trong hoạt động tranh tụng” và “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” của PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải; “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Văn Tuân; “Hành nghề Luật sư trong vụ án hình sự” của TS.LS. Phan Trung Hoài; “Về chế định người bào chữa” của TS. Đinh Văn Quế; “Mô hình TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Dƣơng Thanh Biểu; “Vấn đề tranh tụng trong hoạt động TTHS và việc thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện BLTTHS Việt Nam” của TS. Lê Hữu Thể; “Mô hình TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc,…
  • 10. 3 Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu đƣa ra các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, về vai trò của một chủ thể bào chữa đó là LS mà ít có các công trình khoa học nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, thống nhất và hệ thống về khái niệm chế định NBC, chủ thể, đối tƣợng bào chữa, đặc biệt là chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về chế định Trợ giúp viên pháp lý với tƣ cách là một chủ thể bào chữa mặc dù chế định này đã đƣợc qui định trong Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2006. Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Đây là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa trong khoa học TTHS cũng nhƣ thực tiễn áp dụng ở nƣớc ta hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của của Luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật có liên quan về chế định NBC. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những qui định của pháp luật TTHS về chế định NBC. - Tổng hợp số liệu thống kê trong hoạt động thực tiễn áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, đƣa ra phân tích, đánh giá những điểm còn bất cập, hạn chế khi áp dụng chế định này trong thực tiễn. - Đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC, góp phần nâng cao chất lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm”; “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” mà BLTTHS năm 2003 và Hiến pháp 2013 đã ghi nhận.
  • 11. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định NBC nhƣ: khái niệm NBC và chế định NBC; chủ thể; đối tƣợng bào chữa; địa vị pháp lý NBC; chế định NBC trong một số mô hình TTHS trên thế giới. - Tìm hiểu và đánh giá thực trạng áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, đồng thời phân tích làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế, tồn tại xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của hạn chế đó. - Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định NBC trong luật TTHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam hiện hành và trong một số mô hình TTHS trên thế giới, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng chế định này trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013. 3.4. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học và những qui định của pháp luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC, những tƣ liệu thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. Bên cạnh đó, những văn bản pháp luật của một số nƣớc trên thế giới có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng đƣợc đề cập nhằm làm sáng tỏ chế định NBC. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của Luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện
  • 12. 5 trong Nghị quyết số 08[21] và Nghị quyết số 49[22], Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng, kế thừa các thành tựu khoa học của chuyên ngành pháp lý, luận điểm nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý đƣợc đăng trên các sách, báo, tạp chí, các trang báo điện tử về chế định NBC trong TTHS. Cơ sở thực tiễn của Luận văn: dựa trên cơ sở nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, các tƣ liệu thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong việc áp dụng chế định NBC. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện chứng, phƣơng pháp duy vật lịch sử và để thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra của đề tài, những phƣơng pháp chung đƣợc áp dụng để nghiên cứu là: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, khảo sát thực tế,… 5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ Thạc sỹ tiếp cận về chế định NBC trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đề tài nghiên cứu có những đóng góp mới nhƣ sau: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và trong một số mô hình TTHS trên thế giới. Từ đó, đƣa ra khái niệm khoa học về chế định NBC. - Luận văn khảo cứu các qui định pháp luật về chế định NBC, đánh giá thực trạng áp dụng các qui định đó trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. Phân tích làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định này, nguyên nhân của thực trạng đó. - Đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC, đặc biệt là bổ sung thêm một số chủ thể, đối tƣợng bào chữa chƣa đƣợc qui định trong BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
  • 13. 6 trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Về mặt lý luận: Luận văn có những đóng góp nhất định trên phƣơng diện lý luận về chế định NBC. Về mặt thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao chất lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Ngoài ra, Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các sinh viên, học viên cao học thuộc chuyên ngành tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, những nhà hoạt động thực tiễn và những ai quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt, có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC. 7. Bố cục của Luận văn Bố cục của Luận văn đƣợc xây dựng phù hợp với mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục các bảng, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng với kết cấu nhƣ sau: Chương 1: Những vấn đề chung về chế định ngƣời bào chữa Chương 2: Qui định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dƣơng Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định của pháp luật TTHS về chế định NBC
  • 14. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa NBC là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam, cho đến nay vẫn cần đƣợc làm sáng tỏ về mặt lý luận làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS hiện nay, chƣa có khái niệm thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau thể hiện trong các sách chuyên khảo, giáo trình, các bài báo, tạp chí cũng nhƣ trong qui định của pháp luật TTHS. Để đƣa ra khái niệm khoa học về chế định NBC chúng ta cần hiểu đƣợc khái niệm chế định pháp luật và khái niệm NBC. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”[57, tr.402]. Về khái niệm NBC, trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “NBC là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết” [16, tr.153]. Tƣơng tự nhƣ vậy, có quan điểm cho rằng: “NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[2]. Quan điểm khác cho rằng: “NBC là người được các CQTHTT chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra
  • 15. 8 những tình tiết xác định NBTG, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của NBTG, bị can, bị cáo và giúp đỡ NBTG, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” [58, tr.137] Có thể nói, các quan điểm trên xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi hành luật. Mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một hoặc một số đặc điểm của NBC, chƣa đƣa ra một cách khái quát, đầy đủ khái niệm NBC. Do đó, dễ dẫn đến cách hiểu khái niệm NBC chỉ bao gồm trách nhiệm, mục đích của NBC trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà chƣa khái quát hết các qui định của pháp luật TTHS về điều kiện, tiêu chuẩn, vị trí, vai trò tham gia tố tụng của NBC, chƣa mở rộng việc bào chữa đối với ngƣời bị bắt, ngƣời bị kết án mặc dù việc giúp đỡ họ về mặt pháp lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ là vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì vậy, theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về NBC phải thể hiện đƣợc các đặc điểm về NBC và phạm vi đối tƣợng bào chữa nhƣ sau: Thứ nhất, NBC là người tham gia tố tụng. Đặc điểm này nhằm phân biệt NBC với ngƣời THTT. Bởi ngƣời THTT là ngƣời nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nƣớc để giải quyết VAHS. NBC chỉ là ngƣời tham gia làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo, không phải là ngƣời trực tiếp giải quyết VAHS. Thứ hai, NBC tham gia tố tụng với mục đích đưa ra những tình tiết xác định người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với họ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này xác định nhiệm vụ, mục đích tham gia tố tụng của NBC đối với đối tƣợng bào chữa. Theo chúng tôi, nên mở rộng phạm vi đối tƣợng bào chữa không chỉ bao gồm NBTG, bị can, bị cáo nhƣ trong qui định của BLTTHS hiện hành mà bao gồm cả ngƣời bị bắt cho
  • 16. 9 phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và ngƣời bị kết án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong giai đoạn thi hành án. Thứ ba, NBC là người được các CQTHTT chứng nhận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận NBC. Đặc điểm này đƣợc qui định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS năm 2003. Thứ tư, NBC là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định. Bởi không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng với tƣ cách là NBC. Theo qui định của pháp luật thì các điều kiện đó là: - Phải đƣợc NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ, những ngƣời khác đƣợc họ ủy quyền mời [43, khoản 1 Điều 57]; [32, điểm 2 Mục II]; đƣợc CQTHTT yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình trong trƣờng hợp bắt buộc phải có NBC nhƣng NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời NBC [43, khoản 2, khoản 3 Điều 57]; hoặc do Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sƣ – Cộng tác viên tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý là NBTG, bị can, bị cáo [46, Điều 39]; - Phải không thuộc vào một trong những trƣờng hợp không đƣợc bào chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003; - Phải đáp ứng điều kiện do các văn bản pháp luật khác qui định. Ví dụ: đối với NBC là LS thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật LS và các văn bản hƣớng dẫn; đối với NBC là Trợ giúp viên pháp lý thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hƣớng dẫn,… Nhƣ vậy, trên cơ sở phân tích các đặc điểm về NBC và sự tiếp thu những điểm hợp lý, khắc phục những hạn chế trong các khái niệm NBC nói trên, dƣới góc độ khoa học Luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về NBC trong Luật TTHS nhƣ sau: “NBC trong Luật TTHS là người đáp ứng
  • 17. 10 các tiêu chuẩn, điều kiện do pháp luật qui định, được CQTHTT cấp giấy chứng nhận, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án và giúp đỡ các chủ thể đó về mặt pháp lý trong các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Từ hai khái niệm chế định pháp luật và khái niệm NBC, có thể đƣa ra khái niệm khoa học về chế định NBC nhƣ sau: “Chế định NBC trong luật TTHS Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội liên quan tới NBC, trong đó có chủ thể bào chữa, đối tượng bào chữa, quyền và nghĩa vụ của NBC”. 1.1.2. Chủ thể bào chữa Một là, Luật sư Luật sƣ là ngƣời có đủ điều kiện hành nghề theo qui định của pháp luật, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức [45, Điều 2] nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo qui định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của LS có tính chất chuyên nghiệp [58, tr. 137]. Tiêu chuẩn để trở thành LS phải: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã đƣợc đào tạo nghề LS, đã qua thời gian tập sự hành nghề LS, có sức khỏe bảo đảm hành nghề LS [45, Điều 10]. Ngƣời có đủ tiêu chuẩn nói trên muốn đƣợc hành nghề LS phải có Chứng chỉ hành nghề LS và gia nhập một Đoàn LS [45, Điều 11]. LS có thể tham gia TTHS với tƣ cách NBC theo hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo yêu cầu của CQTHTT. - Với tƣ cách là NBC theo hợp đồng dịch vụ pháp lý: Tại Điều 26 Luật LS năm 2006 qui định: LS thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, trừ trƣờng hợp LS tham gia tố tụng theo yêu cầu của CQTHTT và LS hành nghề với tƣ cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan,
  • 18. 11 tổ chức. NBTG, bị can, bị cáo có thể làm giấy trực tiếp yêu cầu và ký hợp đồng với LS mà mình chọn. Đối với NBTG, bị can, bị cáo không thể gặp trực tiếp LS, thì ngƣời thân thích của họ có thể làm giấy yêu cầu LS và ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với LS. Trong những trƣờng hợp này nhất thiết phải có sự đồng ý của NBTG, bị can, bị cáo. Nếu NBTG, bị can, bị cáo đồng ý lựa chọn NBC, CQTHTT xem xét, cấp Giấy chứng nhận NBC cho LS để thực hiện việc bào chữa [45, Điều 27]; - Với tƣ cách là NBC theo yêu cầu của CQTHTT: Tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 qui định: trong một số trƣờng hợp bắt buộc nếu bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì CQĐT, VKS hoặc TA phải yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ. Đó là những trƣờng hợp: Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình đƣợc qui định tại Bộ luật Hình sự; Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất. Hai là, người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo Ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo theo qui định của BLTTHS năm 2003 cũng là một chủ thể bào chữa nhƣng kể từ khi ban hành BLTTHS năm 1988 đến nay chƣa có một văn bản quy phạm pháp luật nào khái niệm về dạng chủ thể bào chữa này. Năm 1988 có một văn bản pháp luật gián tiếp qui định ngƣời đại diện hợp pháp của bị cáo đó là Thông tƣ liên ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của TA nhân dân tối cao - VKS nhân dân tối cao qui định: Đại diện hợp pháp của bị cáo chƣa thành niên là bố mẹ hoặc ngƣời đỡ đầu của họ [54, tr.137]. Tuy nhiên, mới chỉ qui định ngƣời đại diện hợp pháp của bị cáo mà không bao gồm ngƣời đại diện của NBTG, bị can và chỉ qui định ngƣời đại diện đối với bị cáo chưa thành niên mà không phải là bị can, bị cáo thuộc những trƣờng hợp khác nhƣ: ngƣời có nhƣợc điểm
  • 19. 12 về thể chất hoặc tâm thần. Tại Hội nghị tổng kết ngành TA năm 1991, Chánh án TA nhân dân tối cao khẳng định: Ngƣời thân thích của bị cáo không phải là NBC, nhƣng thực tiễn cho thấy có những vấn đề, những tình tiết thuộc về vụ án, thuộc về nhân thân của bị cáo thì chỉ có ngƣời thân thích mới thấu hiểu và nắm bắt đƣợc một cách tƣờng tận và do đó họ có thể giúp cho HĐXX cân nhắc việc xử lý đƣợc chính xác hơn, bảo đảm việc xét xử của TA đƣợc đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, ngƣời thân thích của bị cáo có quyền làm NBC cho bị cáo [55, tr.138]. Nội dung hƣớng dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn khi khẳng định ngƣời thân thích của bị cáo không phải là NBC nhƣng sau đó lại cho phép ngƣời thân thích của bị cáo có quyền tham gia TTHS để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa, hƣớng dẫn này không làm rõ ngƣời thân thích của bị cáo là ai [2]. Một số qui định khác trong BLTTHS hiện hành và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TA nhân dân tối cao có nhắc tới ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo [43, Điều 231]; [33, điểm 1 Mục I] nhƣng vẫn không qui định cụ thể hoặc khái niệm ngƣời đại diện hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo. Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS vẫn tồn tại các quan điểm khác nhau về ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo dẫn đến cách áp dụng khác nhau trên thực tế. Có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật. Nhƣng cũng có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo có thể là ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Đối với ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể là những ngƣời nào nhƣng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ có ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự mới có ngƣời đại diện hợp pháp đƣơng nhiên (nếu không,
  • 20. 13 phải có ủy quyền hợp pháp). Tuy nhiên, rất hiếm hoặc có thể nói chƣa có trƣờng hợp nào cha, mẹ hay ngƣời giám hộ của ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần đƣợc tham gia bào chữa, đặc biệt từ giai đoạn điều tra bởi lẽ họ sẽ vừa mang tƣ cách của ngƣời đại diện, ngƣời giám hộ, vừa mang tƣ cách của NBC. Trƣờng hợp nếu ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật và đại diện trong trƣờng hợp NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu họ không tham gia tố tụng với tƣ cách NBC thì họ cũng có những quyền nhƣ NBTG, bị can, bị cáo, khi đó họ tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện hợp pháp, nếu tham gia tố tụng với tƣ cách là NBC thì họ có quyền và nghĩa vụ nhƣ đối với NBC. Và liệu họ có thể đƣợc đọc hồ sơ vụ án, gặp ngƣời đang bị tạm giữ, tạm giam... nhƣ một LS bào chữa hay không? Quy định ngƣời đại diện hợp pháp tham gia bào chữa chỉ mang tính hình thức và không khả thi. Ba là, Bào chữa viên nhân dân Chế định BCVND ở Việt Nam ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949, Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ Tƣ pháp quy định rõ tiêu chuẩn đối với BCVND phải: Có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà; Từ 21 tuổi trở lên; có hạnh kiểm tốt, chƣa can án. Theo đó, cũng qui định những trƣờng hợp không đƣợc cử làm BCVND để tránh tình trạng xét xử không vô tƣ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo: Các nhân viên Ủy ban kháng chiến khu hay tỉnh, Thẩm phán xử án hay buộc tội, các Lục sự và Thƣ ký thuộc quản hạt TA đang xét xử, các Trƣởng ty, Phó Trƣởng ty Công an thuộc tỉnh mà việc của đƣơng sự đang mang ra xét xử. Trong suốt thời gian dài (từ năm 1949 đến năm 1987) BCVND đã giữ một vai trò quan trọng trong TTHS. Tuy nhiên, từ năm 1989 đến nay, khi các Đoàn LS đƣợc khôi phục ở các địa phƣơng thì các Đoàn bào
  • 21. 14 chữa đã giải thể và chấm dứt hoạt động, do đó chức danh BCVND chỉ tồn tại trên “phƣơng diện pháp lý”. Hiện nay, BLTTHS hiện hành chƣa quy định khái niệm, điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình độ cũng nhƣ chức năng của BCVND và trong thực tế hoạt động, BCVND không đƣợc tổ chức thành một hệ thống, trong khi xã hội có nhiều ngƣời có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm bào chữa nhƣng chƣa đƣợc kết nạp vào Đoàn LS và họ đƣợc NBTG, bị can, bị cáo nhờ bào chữa. Trƣờng hợp nhƣ vậy có đƣợc gọi là BCVND không? Pháp luật TTHS chƣa qui định đối với trƣờng hợp này. Do đó, mỗi nơi thực hiện khác nhau. Hiện nay, chƣa quy định cụ thể điều kiện để BCVND đƣợc cấp Giấy chứng nhận NBC, thực tế có không ít BCVND không am hiểu pháp luật, họ bào chữa cho thành viên của tổ chức mình nhƣng bản thân cũng không hiểu việc bào chữa đó có đúng pháp luật không. Còn ngƣời đƣợc bào chữa cũng không biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình có đƣợc đảm bảo không nếu BCVND đứng ra bào chữa cho mình? Họ khó từ chối vì họ là thành viên của tổ chức đó. Căn cứ vào hƣớng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TA nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 về quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì một ngƣời đƣợc coi là BCVND khi ngƣời đó đƣợc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình. Theo qui định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ Công an thì thủ tục cấp Giấy chứng nhận NBC đối với BCVND là phải có giấy tờ chứng minh là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đến; Giấy Giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận nơi NBTG, bị can là thành viên. Nhƣ vậy, nếu hiểu theo qui định của BLTTHS năm 2003 và Thông tƣ 70 thì chúng ta có thể hiểu BCVND cũng chính là
  • 22. 15 thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận, phạm vi tham gia bào chữa hẹp hơn so với NBC là LS (họ chỉ tham gia bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình). BCVND tham gia TTHS trong trƣờng hợp theo yêu cầu của CQTHTT hoặc do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Bốn là, Trợ giúp viên pháp lý Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nƣớc, làm việc tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc, đƣợc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tƣ pháp [46, Điều 22]. Trợ giúp viên pháp lý là ngƣời đƣợc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc cử và CQTHTT chấp nhận thì đƣợc tham gia TTHS với tƣ cách là NBC. Chế định Trợ giúp viên pháp lý là một chế định hoàn toàn mới, lần đầu tiên xuất hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chƣa đƣợc qui định trong BLTTHS năm 2003. Chế định Trợ giúp viên pháp lý ra đời thể hiện tính ƣu việt, nhân văn của chế độ ta nhằm giúp cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính sách, những ngƣời yếu thế trong xã hội đƣợc quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng pháp luật, đƣợc mời NBC miễn phí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa. Năm là, NBTG, bị can, bị cáo Bên cạnh bốn chủ thể bào chữa trên, theo qui định của BLTTHS năm 2003, chủ thể bào chữa còn bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo vì tại Điều 11, điểm d Khoản 2 Điều 48, điểm e khoản 2 Điều 49, điểm e khoản 2 Điều 50 BLTTHS năm 2003 thì NBTG, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 mở
  • 23. 16 rộng hơn quyền bào chữa của bị cáo đặc biệt là quyền “trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa” đƣợc nhấn mạnh tại điểm g khoản 2 Điều 50. Về chủ thể bào chữa là NBTG, bị can, bị cáo có ý kiến cho rằng các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo; NBC, bị đơn dân sự; ngƣời đại diện hợp pháp và ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ [3]. NBTG, bị can, bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng, họ là ngƣời bị buộc tội trực tiếp, họ có quyền nhƣng không buộc phải chứng minh mình vô tội [43, Điều 10]. Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS cho bản thân, đồng thời những lý lẽ họ đƣa ra cũng là chứng cứ quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có họ là ngƣời đã thực hiện hoặc không thực hiện hành vi phạm tội nên mới hiểu chính xác, đầy đủ những tình tiết có hoặc không liên quan đến vụ án. Do đó, sự tham gia tố tụng với tƣ cách là một chủ thể bào chữa (tự bào chữa) thì họ mới thực hiện quyền bào chữa một cách khách quan, toàn diện và chính xác nhất. Mặc dù vậy, nhƣng đa số các chủ thể này là những ngƣời có nhận thức pháp luật hạn chế nên việc tự bào chữa gặp nhiều khó khăn, không ít trƣờng hợp làm tăng nặng hành vi do mình thực hiện. Do đó, cần thiết phải có ngƣời trợ giúp về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ đó là NBC. 1.1.3. Đối tƣợng bào chữa Theo qui định của BLTTHS hiện hành thì đối tƣợng bào chữa bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo. Những đối tƣợng này vừa là chủ thể bào chữa vừa là đối tƣợng bào chữa. Là chủ thể bào chữa khi họ tự bào chữa trƣớc các CQTHTT, là đối tƣợng bào chữa khi họ nhờ ngƣời khác bào chữa. * Người bị tạm giữ: NBTG là một trong những đối tƣợng bào chữa mà chủ thể bào chữa hƣớng tới. NBTG là ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, ngƣời bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú. NBTG có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 48].
  • 24. 17 NBTG là ngƣời đã có quyết định tạm giữ. NBTG có thể là ngƣời chƣa bị khởi tố về hình sự, đó là những ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú trƣớc khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù chƣa bị khởi tố về hình sự nhƣng trên thực tế, NBTG vẫn phải chịu sự cƣỡng chế của cơ quan tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra. Vì vậy, pháp luật TTHS coi NBTG là ngƣời tham gia tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. NBTG cũng có thể là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị cáo, ngƣời bị kết án, ngƣời đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là NBTG. Trong thời hạn tạm giữ thì họ cũng có quyền và nghĩa vụ của NBTG [58, tr.118-119]. Đối với NBTG, chúng ta chƣa thể xác định chắc chắn rằng họ là ngƣời có tội bởi họ chỉ là ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm. Do đó, việc bắt giữ những ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm dễ dẫn tới tình trạng oan, sai, bắt giữ ngƣời không đúng tội, không đúng pháp luật. Nhiều trƣờng hợp CQTHTT chƣa tìm ra chứng cứ để chứng minh cho hành vi phạm tội của ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm nhƣng vẫn bắt giữ và hợp thức hóa hồ sơ bằng cách xác định ngƣời đó là ngƣời phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Kể cả trong trƣờng hợp họ ra tự thú hoặc đầu thú cũng chƣa chắc đã phải là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, bởi thực tế có rất nhiều trƣờng hợp họ nhận tội thay ngƣời khác. Vì vậy, sự tham gia của NBC là hết sức cần thiết nhằm giúp NBTG xác định đƣợc những chứng cứ chứng minh họ không thực hiện tội phạm, không liên quan đến sự việc là lý do bắt giữ họ hoặc làm giảm TNHS đối với họ. Khi đó NBTG trở thành đối tƣợng bào chữa. Đây là qui định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo quyền của NBTG trong TTHS.
  • 25. 18 * Bị can: Bị can là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm [58, tr.120]. Bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 49]. Trong quá trình giải quyết VAHS đối với bị can, nếu vì lý do nào đó ngƣời THTT không vô tƣ, khách quan hoặc do trình độ, năng lực hạn chế sẽ dẫn đến việc dùng các biện pháp trái luật nhƣ: ép cung, mớm cung, dùng nhục hình buộc bị can phải khai báo theo ý muốn chủ quan của ngƣời THTT. Vì vậy, việc tham gia của NBC để giúp đỡ họ về mặt pháp lý là rất cần thiết. Trong trƣờng hợp này bị can trở thành đối tƣợng bào chữa. * Bị cáo: Bị cáo là ngƣời bị TA quyết định đƣa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của TA có hiệu lực pháp luật. Cũng nhƣ khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng đƣợc áp dụng đối với ngƣời đó. Một ngƣời sẽ trở thành bị cáo khi bị TA quyết định đƣa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng hoặc trái pháp luật. Vì vậy, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể tội phạm. Trên thực tế bị cáo có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngƣợc lại. Bị cáo chƣa chắc đã phải là ngƣời có tội, bị cáo trở thành ngƣời có tội nếu sau khi xét xử, họ bị TA ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật [58, tr.124]. Hầu hết các nƣớc tiên tiên trên thế giới qui định bị cáo phải có NBC, nếu bị cáo hoặc ngƣời thân thích của bị cáo không nhờ NBC thì TA yêu cầu. Điều đó chứng minh rằng bị cáo khi bị truy tố ra TA rất cần sự trợ giúp của NBC giúp chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS đối với họ bởi sự tham gia của NBC ở giai đoạn xét xử rất quan trọng vì nó quyết định số phận pháp lý của bị cáo. Khi đó, bị cáo là đối tƣợng bào chữa mà NBC hƣớng đến.
  • 26. 19 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.2.1. Vị trí của ngƣời bào chữa Theo qui định của BLTTHS hiện hành thì NBC cùng với NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời tham gia tố tụng. Trong khoa học Luật TTHS, NBC đƣợc xếp vào nhóm những ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ công lý[16, tr.131- 133] hoặc nhóm những ngƣời tham gia tố tụng để giúp đỡ ngƣời có quyền và lợi ích liên quan bao gồm NBC và ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự[50]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng NBC là ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ công lý, nó thể hiện đƣợc đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của NBC trong TTHS vì NBC tham gia tố tụng không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà còn giúp cơ quan, ngƣời THTT làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ án, tránh đƣợc những sai lầm có thể mắc phải trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, NBC còn giúp những ngƣời tham gia tố tụng khác về mặt pháp lý cần thiết [16, tr.152-153]. Việc xác định vị trí NBC có phải là ngƣời tham gia tố tụng độc lập hay không, hay chỉ là ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo? họ có là một “chức danh tƣ pháp” độc lập hay không hay chỉ là ngƣời hoạt động trong phạm vi “bổ trợ tƣ pháp”, là “ngƣời tham gia tố tụng”?... là vấn đề phức tạp và đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng: NBC là ngƣời tham gia tố tụng độc lập. Vị trí độc lập của NBC trong TTHS đƣợc xác định bằng các qui phạm pháp luật TTHS, trong đó qui định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ. Một số tác giả đã dựa vào qui định của pháp luật TTHS thực định cho NBC quyền đƣợc tự mình kháng cáo bản án theo hƣớng có lợi cho bị cáo trong trƣờng hợp bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất; quyền đƣa ra tài liệu, chứng cứ và yêu cầu; có quyền trình bày quan điểm của
  • 27. 20 mình mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bị can, bị cáo… từ đó coi NBC là ngƣời tham gia tố tụng độc lập [27, tr.43]. Quan điểm thứ hai cho rằng: không thể coi NBC là ngƣời tham gia tố tụng độc lập. Bởi vì, mối quan hệ giữa NBC và NBTG, bị can, bị cáo chỉ đƣợc thiết lập khi NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp, ngƣời thân của họ mời NBC hoặc đƣợc CQTHTT chỉ định và chấp thuận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa. Do đó, có thể khẳng định ý chí của NBTG, bị can, bị cáo luôn là yếu tố quyết định có hay không có sự tham gia tố tụng của NBC. Xuất phát từ ý chí chủ quan từ chính bản thân, họ có thể từ chối NBC ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu nhận thấy sự tham gia của NBC là không cần thiết, không giúp đỡ gì cho họ hoặc làm xấu hơn tình trạng của họ [60, tr.13]. Các ý kiến trên xét trên một phƣơng diện, khía cạnh nào đó đều có tính thuyết phục, bởi các tác giả đều dựa trên thực tiễn TTHS và cơ sở pháp lý đƣợc qui định trong pháp luật TTHS. Tuy nhiên, để làm rõ vị trí của NBC trong TTHS cần đặt NBC trong mối quan hệ với các CQTHTT, ngƣời THTT, với đối tƣợng bào chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác. - Trong quan hệ với CQTHTT và người THTT: Theo quy định của BLTTHS hiện hành, tƣ cách tham gia tố tụng của NBC không bình đẳng với ngƣời THTT. NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tƣợng mà họ nhận bào chữa, còn ngƣời THTT là chủ thể sử dụng quyền lực, nhân danh quyền lực nhà nƣớc để ra những phán quyết đối với ngƣời tham gia tố tụng. Ngƣời THTT là “người thực hiện một số công việc đã được định trước mang tính chủ động” [29, tr.106], còn ngƣời tham gia là ngƣời “dự vào cho đầy đủ hơn mang tính thụ động” [35, tr.717]. Ở một số nƣớc trên thế giới, do địa vị pháp lý của NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng, phạm vi hoạt động thuộc lĩnh vực
  • 28. 21 “bổ trợ tƣ pháp” nên thực chất họ chỉ là ngƣời trợ giúp pháp lý mang tính bị động, không có cơ sở cho việc hành nghề một cách bình đẳng và độc lập. Ở Việt Nam, vị trí của NBC chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, ở nhiều địa phƣơng CQTHTT vẫn gây khó dễ, phiền hà đối với NBC nhƣ: không chấp nhận ý kiến của đại diện gia đình, ngƣời thân thích nhờ NBC mà bắt buộc phải có ý kiến của NBTG, bị can, bị cáo trong khi đại diện gia đình, ngƣời thân thích hoặc NBC không thể tiếp xúc với NBTG, bị can, bị cáo vì họ đang ở trong Trại tạm giam. Việc tham gia tố tụng của NBC hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp thuận hay không chấp thuận của CQTHTT. Trong quan hệ với cơ quan, ngƣời THTT, NBC không đƣợc bình đẳng ở một số hoạt động nhƣ: điều tra, thu thập chứng cứ, tham gia hỏi cung bị can,… Chẳng hạn, tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS qui định NBC chỉ đƣợc hỏi NBTG, bị can nếu đƣợc Điều tra viên đồng ý. Vậy với những câu hỏi của NBC chỉ nhằm giúp đỡ NBTG, bị can về mặt tinh thần, hoặc những câu hỏi liên quan đến vấn đề sức khỏe của bị can thì cũng phải đƣợc Điều tra viên “ đồng ý”?; hoặc khi NBC thu thập đƣợc tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có trách nhiệm giao cho CQTHTT và những chứng cứ do NBC cung cấp có nhiều tình tiết có lợi cho đối tƣợng bào chữa thì hầu nhƣ ít đƣợc CQTHTT chấp nhận. Cơ quan, ngƣời THTT đƣợc pháp luật trao thẩm quyền chứng minh trong VAHS, đƣợc độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Với tƣ cách là ngƣời tham gia tố tụng, NBC không có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS, CQTHTT luôn ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ đến việc đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do đó, không thể hiện đƣợc quyền hạn, trách nhiệm của NBC, tạo ra sự bất bình đẳng giữa NBC với cơ quan, ngƣời THTT dẫn đến tâm lý thụ động của
  • 29. 22 NBC khi tham gia bào chữa cho thân chủ của họ. Trong mối quan hệ này, dƣờng nhƣ quan điểm của NBC trái ngƣợc với cơ quan, ngƣời THTT. Điều đó không có nghĩa là họ chống đối lại các CQTHTT mà mục đích tham gia của họ là để đảm bảo công lý, bảo vệ pháp luật. - Trong quan hệ với đối tượng bào chữa: Trên cơ sở qui định của BLTTHS năm 2003 có thể thấy NBC và NBTG, bị can, bị cáo đều là những ngƣời tham gia tố tụng, tuy địa vị pháp lý khác nhau nhƣng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. NBC tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo; ngƣợc lại, NBTG, bị can, bị cáo muốn quyền, lợi ích hợp pháp của mình đƣợc bảo vệ một cách tốt nhất phải cần đến ngƣời có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tố tụng đó là NBC. Mối quan hệ giữa NBC với NBTG, bị can, bị cáo chỉ xuất hiện trên cơ sở một trong hai trƣờng hợp: NBTG, bị can, bị cáo, ngƣời đại diện hoặc ngƣời thân thích của họ mời NBC và đƣợc CQTHTT chấp thuận; hoặc do CQTHTT cử NBC cho NBTG, bị can, bị cáo và đƣợc họ chấp nhận. Khi tham gia bào chữa, NBC có hai loại quyền: Thứ nhất, vì đều là ngƣời tham gia tố tụng và là ngƣời đại diện cho NBTG, bị can, bị cáo nên quyền của NBC cũng là quyền của NBTG, bị can, bị cáo. Theo đó, NBC có các quyền nhƣ: quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền đề nghị thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, ngƣời THTT, tranh luận tại phiên tòa,... Trừ một số quyền nhƣ: trình bày lời khai; quyền đƣợc nói lời sau cùng trƣớc khi nghị án,... Thứ hai, khác với NBTG, bị can, bị cáo, NBC có những quyền riêng theo chức năng bào chữa: quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can; quyền đƣợc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra,...
  • 30. 23 Mặc dù cũng là ngƣời đại diện nhƣng khác với việc đại diện của ngƣời bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự. Ngƣời bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự nếu đƣợc sự ủy quyền thì đƣợc thay mặt đƣơng sự có toàn quyền quyết định trong quá trình tham gia giải quyết vụ án. Nhƣng đối với NBC không đƣợc thay mặt đối tƣợng bào chữa để tham gia vào quá trình giải quyết vụ án mặc dù họ đều cùng hƣớng đến một mục đích là nhằm giải quyết TNHS cho NBTG, bị can, bị cáo vì quyền đƣợc tiếp xúc hồ sơ vụ án, tham gia hỏi tại phiên tòa,...là quyền riêng của NBC; quyền trình bày lời khai; quyền đƣợc nói lời sau cùng trƣớc khi nghị án,... là quyền riêng của NBTG, bị can, bị cáo. Nhƣ vậy, trong mối quan hệ với đối tƣợng bào chữa, NBC tham gia TTHS với tƣ cách là ngƣời đại diện và cùng với đối tƣợng bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. NBC tham gia TTHS không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, họ tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tƣợng bào chữa, sự xuất hiện của họ ở một trong hai trƣờng hợp nhƣ trên nhƣng đều phụ thuộc vào ý chí của đối tƣợng bào chữa. Khi tham gia hoạt động bào chữa, NBC cũng có tính độc lập tƣơng đối, họ có những quyền riêng mà đối tƣợng bào chữa không có, họ không chịu sự ràng buộc bởi đối tƣợng bào chữa nếu đó là điều kiện trái pháp luật, không phải họ đã nhận thù lao mà phải làm mọi việc do đối tƣợng bào chữa yêu cầu. 1.2.2. Vai trò của ngƣời bào chữa Sự hiện diện của NBC trong quá trình tố tụng giúp cơ quan, ngƣời THTT phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, góp phần thực hiện dân chủ, công bằng bởi trong TTHS nếu chỉ ghi nhận chức năng buộc tội mà không có chức năng gỡ tội thì sẽ không có sự kìm chế và đối trọng với bên buộc tội nên dễ dẫn đến chủ quan duy ý chí, sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó, sẽ làm oan ngƣời vô tội, không làm sáng tỏ đƣợc sự thật khách quan của
  • 31. 24 vụ án, vi phạm nguyên tắc cơ bản đã đƣợc Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2003 ghi nhận, đó là nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo. Trong một chế độ dân chủ, nói đến TA và hoạt động xét xử là nói đến NBC. Vì nội dung cơ bản của dân chủ là quyền con ngƣời và quyền công dân. Và một trong những ngƣời bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đó là NBC. Thực tiễn khẳng định, không có NBC và cơ chế đảm bảo quyền bào chữa của công dân thì khó nói đến dân chủ trong hoạt động tƣ pháp, càng không thể nói đến việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc tham gia của NBC trong TTHS không chỉ thể hiện sự bảo đảm dân chủ của quá trình tố tụng mà còn là cơ sở cho việc thực hiện quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp [29, tr.18]. Trong những năm qua, sự tham gia của NBC trong các VAHS chứng minh vai trò của NBC đã có những ảnh hƣởng rất lớn đến kết quả hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của các CQTHTT. Đặc biệt, sự đóng góp của NBC cho hoạt động xét xử của TA. Theo thống kê của Bộ Tƣ pháp trong 5 năm (2007 - 2011) đội ngũ LS đã tham gia 64.173 VAHS, trong đó có 32.752 vụ án do khách hàng mời và 31.421 vụ án theo yêu cầu của CQTHTT[13]. Những năm trƣớc đây, ngƣời dân có khi cả CQTHTT quan niệm rằng việc tham gia TTHS của NBC chỉ là hình thức vì họ cho rằng mọi việc đã đƣợc các CQTHTT “sắp đặt” từ trƣớc khi đƣa ra quyết định hoặc bản án,… ngƣời dân chƣa có thói quen nhờ NBC, chƣa thấy đƣợc tầm quan trọng của NBC nên vai trò của NBC rất mờ nhạt và chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, có khi bị xem nhẹ. Hoặc có nhiều ngƣời biết nhƣng lại không có tiền, sợ tốn kém nên không mời NBC. Hoặc NBTG, bị can, bị cáo không tin tƣởng vào NBC, sợ NBC chịu chi phối bởi những hoàn cảnh khác mà tìm ra những chứng cứ bất lợi cho họ,… Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã
  • 32. 25 hội, nhận thức của ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Sự hiện diện của NBC trƣớc các CQTHTT, đặc biệt sự tranh luận của NBC trƣớc TA đã thu hút đƣợc sự quan tâm của đông đảo dƣ luận, nhiều phiên tòa có NBC tham gia tranh tụng một cách “gay gắt” để tìm ra lẽ phải, sự công bằng, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tƣợng bào chữa. Nên vai trò của NBC đƣợc coi trọng, dƣ luận có cái nhìn thiện chí hơn đối với NBC, ngƣời dân đã bắt đầu tìm đến NBC để trợ giúp về mặt pháp luật thay vì tự mình bào chữa nhƣ trƣớc đây. Nhiều văn bản pháp lý cũng khẳng định vai trò của NBC trong TTHS nhƣ: Nghị quyết số 08[21] và Nghị quyết số 49[22] của Bộ Chính trị, BLTTHS năm 2003, Luật LS năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006… Do đó, các vụ án oan, sai, án bị hủy, sửa, bị kháng cáo, kháng nghị cũng giảm thiểu một cách đáng kể so với trƣớc đây. Qui định NBC đƣợc tham gia TTHS bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là điều kiện để NBC kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các CQTHTT, đồng thời NBC có ý kiến phản biện lại các ý kiến sai lầm của các cơ quan, ngƣời THTT. Từ đó, tạo ra thế “kìm chế, đối trọng”, giúp CQTHTT, ngƣời THTT đƣa ra quyết định hoặc phán quyết chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Nhƣ vậy, vai trò của NBC trong TTHS là sự kết hợp hài hòa giữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo với việc bảo đảm công lý, tôn trọng pháp luật. Mặc dù, NBC có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết gỡ tội hay giảm nhẹ TNHS cho NBTG, bị can bị cáo, đồng thời giúp đỡ, tƣ vấn cho NBTG, bị can bị cáo về những vấn đề pháp lý cần thiết. Nhƣng NBC cũng có trách nhiệm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự thật khách quan của vụ án. Đây là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ hữu cơ và có sự tác động qua lại lẫn nhau, không đƣợc coi trọng mặt nào và xem nhẹ mặt nào.
  • 33. 26 1.3. CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI Trên cơ sở các kết quả đã đƣợc nghiên cứu cho thấy chế định NBC đƣợc ghi nhận từ rất sớm. Sự xuất hiện đầu tiên ở thời kỳ Trung cổ và phát triển mạnh mẽ ở những nƣớc theo hệ thống thông luật (Common Law), sau đó là các nƣớc Châu Âu lục địa. NBC xuất hiện trên cơ sở nhu cầu khách quan về sự công bằng trong chính sách xử lý đối với ngƣời phạm tội, sự tham gia của NBC nhằm phản kháng lại sự hà khắc của thủ tục xét xử đối với ngƣời bị buộc tội[52]. Chế định NBC đã từng xuất hiện trong các kiểu mô hình TTHS trên thế giới. Lịch sử thế giới từng tồn tại bốn kiểu mô hình TTHS khác nhau ở những thời đại khác nhau trong đó ghi nhận chế định NBC, đó là: mô hình tố tụng tố cáo; mô hình tố tụng thẩm vấn; mô hình tố tụng tranh tụng; mô hình tố tụng hỗn hợp (kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng). Các kiểu mô hình TTHS trên, xét về bản chất có thể đƣợc chia làm hai loại đặc trƣng: mô hình TTHS tranh tụng và mô hình TTHS xét hỏi. Đây cũng là hai loại mô hình tiêu biểu và phổ biến trên thế giới. Mỗi mô hình đều mang đặc trƣng của hệ thống pháp luật và phù hợp với đặc điểm lịch sử, địa lý, truyền thống văn hóa, pháp lý, tôn giáo,…từng quốc gia, trong đó chủ yếu đề cập đến địa vị pháp lý của các bên tranh tụng: chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội. 1.3.1. Trong mô hình tố tụng tranh tụng Mô hình tố tụng tranh tụng xuất hiện những năm đầu từ thế kỷ X-XIII ở Anh và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVI – XVII, đƣợc sử dụng rộng rãi ở những quốc gia thuộc hệ thống thông luật Common Law nhƣ: Anh, Mỹ, Úc, Canada, Ấn Độ...Sự tham gia của NBC gắn liền với sự hình thành các phiên tòa tranh tụng, NBC có vai trò hỗ trợ ngƣời bị buộc tội tại phiên tòa để chống lại sự cáo buộc của nhà vua. Trong mô hình này, địa vị pháp lý của NBC
  • 34. 27 đƣợc đề cao và bình đẳng với bên buộc tội, sự tham gia phiên tòa của NBC là bắt buộc, tranh luận giữa NBC với Công tố viên là chủ yếu. Đặc điểm của mô hình này là khi kiện tụng các bên phải đƣa ra chứng cứ, lý lẽ và tranh luận với nhau, các bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên đối tụng hoặc cho những ngƣời tham gia tố tụng khác, trong một số trƣờng hợp họ có quyền ngắt lời bên đối tụng, phản bác lại ý kiến mà bên đối tụng đƣa ra. TA chỉ đóng vai trò là “trọng tài” quan sát sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Do thủ tục tranh tụng không có giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do bên buộc tội và bên gỡ tội trực tiếp đƣa ra tại phiên tòa. Thẩm phán có thể chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ các bên đƣa ra. Thẩm phán không đƣợc nghiên cứu hồ sơ vụ án từ trƣớc để tránh có một thái độ phiến diện về các tình tiết của vụ án. Cuối cùng, Thẩm phán sẽ ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ và lý lẽ mà các bên đƣa ra tại phiên tòa[17, tr.65-66]. Còn đối với mô hình tố tụng thẩm vấn, mọi hành vi của ngƣời THTT và ngƣời tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của Thẩm phán, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc cho những ngƣời tham gia tố tụng khác thì phải đƣợc sự đồng ý của Thẩm phán. Đó là điểm khác biệt so với mô hình tố tụng thẩm vấn nơi mà trƣớc khi mở phiên tòa tranh tụng các chứng cứ đã đƣợc điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Điển hình cho mô hình tố tụng tranh tụng là ở nƣớc Mỹ. Theo Luật TTHS Mỹ, NBC đƣợc tham gia từ giai đoạn tiền xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, ngƣời bị buộc tội có quyền im lặng và không buộc phải khai báo những chứng cứ bất lợi cho bản thân và đƣợc yêu cầu gặp NBC của mình. Ngay từ thời điểm một ngƣời bị bắt, Cảnh sát viên có nghĩa vụ thông báo và giải thích về quyền có NBC, nếu ngƣời bị tình nghi không có khả năng thuê NBC, cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định NBC cho họ, trừ khi họ từ chối quyền của mình một cách tự nguyện và minh mẫn, quyền của NBC cũng đƣợc
  • 35. 28 đề cao và mở rộng hơn so với mô hình tố tụng thẩm vấn. Ví dụ: Tại phiên tòa, NBC có quyền yêu cầu triệu tập nhân chứng, hoặc thu thập những chứng cứ mới để chứng minh cho những lý lẽ đƣa ra, phiên tòa là sự điều tra, đánh giá chứng cứ một cách công khai và dân chủ nhất. NBC có quyền và nghĩa vụ pháp lý bình đẳng với CQTHTT trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Tố tụng tranh tụng không buộc NBC phải khách quan, công khai trong quá trình thu thập chứng cứ mà có thể tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau để đạt đƣợc mục đích gỡ tội cho ngƣời đƣợc bào chữa. Tại phiên tòa, NBC phải chứng minh đƣợc hành vi của bị cáo là không có lỗi, không vi phạm luật hoặc chƣa đến mức bị truy cứu TNHS hay có căn cứ để giảm nhẹ TNHS. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ do các bên cung cấp tại phiên tòa dựa trên qui định của pháp luật và phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm phán. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn không tham gia tranh luận, không tham gia vào các thủ tục thu thập chứng mà chỉ đƣa ra kết luận cuối cùng trên cơ sở tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Các bên tham gia tranh luận có trách nhiệm đƣa ra chứng cứ trƣớc Tòa. Vai trò thu thập và trình bày chứng cứ của NBC đƣợc đề cao, thể hiện sự dân chủ, NBC có vị trí, vai trò bình đẳng với Viện công tố. Họ đƣợc pháp luật trao quyền tƣơng ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động của mình. Viện công tố đƣa ra các quan điểm, chứng cứ, lập luận để buộc tội bị cáo. Còn NBC có thể dùng mọi lý lẽ, biện pháp pháp luật cho phép để phản bác lại ý kiến buộc tội của Viện Công tố. Hai bên tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm của mình. Việc bảo vệ cáo trạng của Công tố viên không phải dễ dàng vì những chứng cứ, lý lẽ mà NBC đƣa ra trƣớc Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn. NBC có quyền thu thập, đƣa ra các chứng cứ, lý lẽ thuyết phục để bào chữa cho thân chủ tại phiên tòa, Công tố viên và NBC tranh luận một cách dân chủ tại Tòa, bên nào đƣa ra những
  • 36. 29 chứng cứ, lý lẽ thuyết phục hơn thì sẽ đƣợc TA chấp nhận, qua đó Thẩm phán có điều kiện để suy xét, đƣa ra phán quyết thích hợp nhất. Ở mô hình tố tụng tranh tụng, NBC phải tuân thủ các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp, những thủ đoạn đe dọa hay che giấu, làm sai lệch thông tin có thể làm cho TA có định kiến, quy tắc này đòi hỏi NBC phải hành sự và trung thành vô điều kiện với quyền lợi của thân chủ nhƣ chính quyền lợi của họ. Trong mô hình này, chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật đƣợc giao cho TA. Với vị trí trung tâm của hệ thống tƣ pháp, của hoạt động tố tụng, TA có quyền và có trách nhiệm bảo đảm cho các bên nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật. Điều này khác với những nƣớc có tổ chức VKS nhƣ: Nga, Trung Quốc, Việt Nam… Tuy nhiên, trong mô hình tố tụng tranh tụng bên cạnh những ƣu điểm trên còn tồn tại một số nhƣợc điểm: nếu bên nào có tiền thuê NBC thì phần thắng nhiều hơn, đây là điều bất lợi cho ngƣời nghèo khi tham gia tố tụng, nên có ý kiến cho rằng nó xa rời thực tế “việc con ngƣời bị phán xét nhƣ thế nào dƣờng nhƣ quan trọng hơn việc xem họ đã làm gì trên thực tế”. Do đó, dễ để lọt tội phạm bởi nếu Công tố viên đƣa ra chứng cứ, lý lẽ không thuyết phục, TA sẽ không buộc tội mặc dù trên thực tế bị cáo đã thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, thời gian xét xử thƣờng kéo dài vì việc xem xét, đánh giá chứng cứ chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, chi phí mở phiên tòa tốn kém. Vai trò của CQTHTT không đƣợc đề cao bởi pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng cho ngƣời tham gia tố tụng. 1.3.2. Trong mô hình tố tụng xét hỏi Tố tụng xét hỏi (tố tụng thẩm vấn) hình thành từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, phát triển chủ yếu trong chế độ quân chủ, mô hình này xuất hiện cùng với các TA Thiên chúa giáo ở Châu Âu trong thời kỳ trung cổ vào thế kỷ XIII và dần thâm nhập vào TA thƣờng đến khi không còn TA Thiên Chúa giáo. Mô
  • 37. 30 hình tố tụng này đƣợc sử dụng ở những quốc gia theo hệ thống Civil Law. Hầu hết ở các quốc gia trƣớc đây không phải là thuộc địa của Anh, bao gồm cả các nƣớc châu Âu lục địa, Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi nhƣ: Đức, Pháp, Việt Nam,… Đặc trƣng của mô hình tố tụng xét hỏi là đề cao vai trò chủ động của Thẩm phán, Thẩm phán là ngƣời đƣa ra quyết định điều tra khi xảy ra một vụ án nào đó, là ngƣời có trách nhiệm tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc, chứng cứ và là ngƣời chỉ đạo toàn bộ quá trình tố tụng, kể cả giai đoạn điều tra. Trong quá trình điều tra, Thẩm phán cũng góp phần tích cực trong việc tìm ra sự thật với tƣ cách là ngƣời thẩm tra. Thẩm phán không chỉ thực hiện chức năng xét xử, mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, buộc tội và một phần nào đó của chức năng bào chữa[36]. Phiên tòa theo mô hình tố tụng xét hỏi không phải là sự tranh luận dân chủ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà thực chất vẫn là sự tiếp tục điều tra, thẩm định, đánh giá, tìm chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Bên buộc tội và bên gỡ tội có trách nhiệm đƣa ra chứng cứ. Thẩm phán thực hiện thẩm vấn ngƣời làm chứng chứ không phải Công tố viên và NBC. Tại phiên tòa, việc xét hỏi nhân chứng và các bên liên quan chủ yếu do Thẩm phán. Nhiệm vụ của Thẩm phán là thẩm vấn để bổ sung, làm rõ, đánh giá chứng cứ của vụ án. Chứng cứ do NBC đƣa ra chƣa đƣợc Thẩm phán coi trọng mà chủ yếu dựa trên kết quả điều tra, xét hỏi. NBC tranh luận chỉ để giải thích các chứng cứ liên quan đến vụ án mà có thể những chứng cứ này sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến việc đƣa ra phán quyết của Thẩm phán. Trong mô hình tố tụng xét hỏi, vai trò của NBC không đƣợc đề cao mà rất mờ nhạt, thụ động và không bình đẳng với CQTHTT. Mô hình này cũng qui định tranh luận tại phiên tòa nhƣng không thực sự dân chủ và bình đẳng nhƣ mô hình tố tụng tranh tụng, quyền của NBC thƣờng không đƣợc tôn trọng đầy đủ vì họ không có trách nhiệm chứng minh, trách nhiệm chứng minh thuộc về CQTHTT mà chủ yếu là Thẩm phán, bởi chứng cứ do Thẩm phán
  • 38. 31 tập hợp, đánh giá. Phiên tòa ở mô hình tố tụng xét hỏi không kéo dài bằng ở mô hình tố tụng tranh tụng nhƣng các giai đoạn tố tụng và thủ tục tố tụng lại dài hơn vì có thêm giai đoạn điều tra. Để làm rõ hơn về chế định NBC trong mô hình tố tụng xét hỏi, chúng ta có thể nghiên cứu việc áp dụng chế định này tại quốc gia Trung Quốc. Ở Trung Quốc, Luật TTHS đƣợc bắt nguồn từ mô hình tố tụng thẩm vấn và có nhiều nét tƣơng đồng với Luật TTHS Việt Nam nhƣng mang nhiều yếu tố tranh tụng hơn. Theo Luật TTHS Trung Quốc thì NBC có quyền: gặp gỡ, trao đổi với nghi can đang bị tạm giữ, tƣ vấn, trích, sao các tài liệu từ khi VKS bắt đầu thẩm tra tƣ pháp[9, Điều 36]; thu thập thông tin liên quan đến vụ án; yêu cầu triệu tập nhân chứng mới tới phiên tòa, thu thập chứng cứ mới, giám định bổ sung và các yêu cầu khác; đƣợc hỏi ngƣời làm chứng và ngƣời giám định. NBC có quyền tham gia tố tụng kể từ thời điểm vụ án đƣợc chuyển giao để thẩm tra trƣớc khi truy tố. Bị cáo trong một vụ án thuộc tƣ tố có quyền chỉ định NBC vào bất kỳ thời điểm nào. NBC có nghĩa vụ tôn trọng sự thật khách quan và pháp luật, có trách nhiệm trình bày tài liệu và ý kiến chứng minh sự vô tội của nghi can, bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của tội phạm và sự cần thiết phải giảm hình phạt hoặc miễn truy cứu TNHS, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nghi can, bị cáo[9, Điều 35]; không đƣợc giúp bị can, bị cáo che giấu, tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung, và không đƣợc đe dọa hoặc xúi giục nhân chứng sửa đổi lời khai của mình hoặc khai man hoặc tiến hành những hành vi khác để can thiệp vào tiến trình tố tụng của các cơ quan tƣ pháp. Nếu NBC vi phạm các quy định trên phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật[9, Điều 38]. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải bảo đảm hoạt động bào chữa của NBC theo pháp luật. Sau khi nghi can bị CQĐT thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một LS tƣ vấn
  • 39. 32 pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị bắt, LS đƣợc chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có ngƣời bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nƣớc, trƣớc khi gặp nghi can, LS phải có sự phê chuẩn của CQĐT[9, Điều 96]. Ở giai đoạn điều tra, vai trò của LS rất hạn chế trong việc tƣ vấn, kiến nghị hay khiếu nại thay mặt ngƣời bị tình nghi. LS chỉ đƣợc khuyên một cách chung chung về vụ án, về quyền của ngƣời bị tình nghi và LS cũng không thể trợ giúp pháp lý cho ngƣời bị tình nghi trong việc chuẩn bị bào chữa. Trong giai đoạn này, CQĐT có thể có mặt trong bất cứ cuộc tiếp xúc nào giữa ngƣời bị tình nghi với LS. Trong giai đoạn truy tố và xét xử, bị cáo có quyền bào chữa và TA phải có trách nhiệm đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa[9, Điều 11]. Nếu vụ án do Kiểm sát viên đƣa ra trƣớc Tòa và bị cáo không có NBC vì khó khăn tài chính hoặc vì lý do khác thì TA chỉ định một LS bào chữa cho bị cáo. Nếu bị cáo là ngƣời mù, điếc hoặc là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có khả năng bị án tử hình và không chỉ định bất kỳ ai bào chữa cho mình thì TA phải chỉ định một LS bào chữa cho bị cáo[9, Điều 34]. Trong giai đoạn truy tố, xét xử, VKS và TA phải tạo thuận lợi và đảm bảo thời gian cho NBC tƣ vấn, tra cứu, sao trích các chứng cứ, tài liệu, tình tiết liên quan đến vụ án và cho phép NBC có thể gặp gỡ, trao đổi với bị cáo đang bị giam giữ[9, Điều 36], [56, Điều 40, 41]. Giống nhƣ pháp luật TTHS Việt Nam, Luật TTHS Trung Quốc cũng qui định NBC chỉ là ngƣời tham gia tố tụng[9, Điều 82.4], chƣa phân định rõ 3 chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử vì CQĐT, VKS, TA chủ yếu thực hiện hoạt động điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, vai trò của NBC còn bị hạn chế, trong giai đoạn này đề cao chức năng buộc tội nhằm mục đích trừng trị ngƣời phạm tội hơn là để lọt tội phạm. Việc điều tra, thu thập chứng cứ chủ yếu là do CQĐT và VKS. CQĐT có quyền chứng minh tình tiết giảm nhẹ TNHS của nghi can, bị can (điều này đã làm giảm vai trò của NBC).
  • 40. 33 Trong giai đoạn xét xử, TA vừa thực hiện chức năng xét xử, vừa thực hiện chức năng buộc tội vì Thẩm phán tham gia vào quá trình điều tra, thẩm vấn tại phiên tòa, trực tiếp xét hỏi và kiểm tra nhân chứng, chứng cứ. Tuy nhiên, vai trò buộc tội của HĐXX ở mức độ hạn chế hơn vì luật TTHS Trung Quốc không đặt trách nhiệm chứng minh tại Tòa thuộc về HĐXX mà đề cao vai trò buộc tội do Kiểm sát viên thực hiện tại phiên tòa. Tại phần xét hỏi, Kiểm sát viên xét hỏi trƣớc, sau đó đến NBC và ngƣời tham gia tố tụng khác, HĐXX không xét hỏi trƣớc mà chỉ lắng nghe và có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào về các tình tiết cần làm sáng tỏ nếu thấy cần thiết. Vai trò của NBC ở giai đoạn xét xử đƣợc đề cao hơn so với giai đoạn điều tra, NBC đƣợc bình đẳng với Kiểm sát viên tại phiên tòa, NBC có quyền đề nghị Chánh án lần lƣợt cho gọi nhân chứng, ngƣời giám định ra Tòa làm chứng hoặc xuất trình những chứng cứ, đọc lời chứng đã ghi thành văn bản của nhân chứng chƣa có mặt tại phiên tòa, kết luận giám định của ngƣời giám định, bị cáo và NBC có thể hỏi nhân chứng; sau khi đƣa ra chứng cứ thì bị cáo và NBC tranh luận với Kiểm sát viên, ngƣời bị hại[66]. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Chế định NBC có vị trí, vai trò quan trọng trong pháp luật và thực tiễn TTHS. Tuy nhiên, đến nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS chƣa có khái niệm thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau. Những quan điểm này đã đƣợc các tác giả đề cập trong các sách chuyên khảo, giáo trình và các bài báo, tạp chí về TTHS. Do đó, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với chế định này là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu một số quan điểm về chế định NBC, trên cơ sở các qui định của BLTTHS năm 2003 và thực tiễn áp dụng, tác giả đƣa ra khái niệm đầy đủ về chế định NBC. Từ qui định của BLTTHS hiện hành, tác giả phân
  • 41. 34 tích và làm sáng tỏ một số điểm tích cực, tiến bộ, hạn chế, bất cập trong một số qui định về chủ thể, đối tƣợng bào chữa, địa vị pháp lý của NBC trong TTHS và nghiên cứu chế định NBC trong hai mô hình TTHS đặc trƣng trên thế giới đó là mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng xét hỏi nhằm làm rõ hơn qui định của pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC.
  • 42. 35 Chương 2 QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 2.1.1. Quyền của ngƣời bào chữa Quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi NBTG, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa (điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003): Quy định này giúp NBTG, bị can có tâm lý yên tâm hơn khi khai báo, đồng thời giám sát hoạt động của CQĐT, CQĐT thận trọng hơn trong việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan vụ án, tránh tình trạng Điều tra viên ép cung, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình đối với NBTG, bị can để làm sai lệch kết quả điều tra. Từ đó, NBC theo dõi đƣợc quá trình điều tra và tình hình chứng cứ, nó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị bài bào chữa và tham gia tranh tụng của họ ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo của vụ án. NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và hỏi NBTG, bị can nếu Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ tình tiết có lợi cho NBTG, bị can. Qui định nhƣ vậy sẽ hạn chế quyền chủ động của NBC bởi nếu NBC muốn hỏi NBTG, bị can thì phải đƣợc sự “đồng ý” của Điều tra viên. Thực tế hầu nhƣ ở giai đoạn này, NBC chỉ là ngƣời tham dự hỏi cung cùng Điều tra viên nên không thể thu thập đầy đủ thông tin cho việc gỡ tội. Tại Khoản 3 Điều 7 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 qui định:
  • 43. 36 “Khi lấy lời khai NBTG, hỏi cung bị can nếu Điều tra viên đồng ý cho NBC được hỏi NBTG, bị can thì phải ghi câu hỏi của NBC, câu trả lời của NBTG, bị can vào trong biên bản lấy lời khai NBTG, biên bản hỏi cung bị can”. Quy định này góp phần bảo đảm việc hỏi NBTG, bị can của NBC nhƣng vẫn bị hạn chế bởi qui định “nếu Điều tra viên đồng ý” nên NBC luôn ở thế bị động và không thể thu thập đầy đủ thông tin cho việc gỡ tội của mình. Mặt khác, chỉ qui định việc ghi vào biên bản lấy lời khai NBTG, biên bản hỏi cung bị can những câu hỏi của NBC nếu Điều tra viên đồng ý, không qui định lập biên bản về những câu hỏi của NBC không đƣợc Điều tra viên đồng ý. BLTTHS qui định NBC có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác nhƣ: thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện trƣờng, khai quật tử thi, khám xét,… Khi tham gia vào những hoạt động này, NBC có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị can, góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án trong quá trình điều tra. Nhƣng thực tế, họ rất ít đƣợc tham gia vì đều bị Điều tra viên từ chối mặc dù sự tham gia của họ là hết sức cần thiết. Để tạo điều kiện cho NBC trong việc thu thập chứng cứ phục vụ cho việc bào chữa và bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án đƣợc khách quan, BLTTHS năm 2003 qui định NBC đƣợc xem lại các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời mà mình bào chữa. Đây là một quyền hoàn toàn mới so với BLTTHS năm 1988 nhằm tạo sự giám sát của NBC đối với hoạt động của ngƣời THTT buộc ngƣời THTT phải thận trọng hơn khi đƣa ra các quyết định và thực hiện đúng qui định pháp luật. Trong quá trình giải quyết VAHS, có nhiều hoạt động tố tụng đƣợc thực hiện nhƣ: lấy lời khai NBTG, hỏi cung bị can,…những hoạt động này đều đƣợc lập thành biên bản và có chữ ký của các bên liên quan. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng
  • 44. 37 có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến ngƣời mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, NBC có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Quyền được đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can (điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003): Đây là một qui định mới, bổ sung quyền của NBC trong giai đoạn điều tra. Trƣớc đây, BLTTHS năm 1988 không qui định nên việc tham gia của NBC hoàn toàn phụ thuộc vào CQĐT. Qui định này giúp NBC có kế hoạch chủ động tham gia vào quá trình hỏi cung bị can. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chỉ qui định NBC có quyền “đề nghị” CQĐT báo trƣớc về thời gian và địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung bị can nhƣng lại không qui định trách nhiệm của CQĐT trong việc thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai NBTG, hỏi cung bị can. NBC có quyền có mặt khi hỏi cung bị can nhƣng phải “đề nghị” CQĐT báo trƣớc về thời gian và địa điểm có mặt, đồng thời pháp luật không quy định cụ thể thời hạn CQĐT phải báo trƣớc cho NBC là bao lâu. Do đó, trên thực tế khi NBC không chủ động đề nghị thì CQĐT không thông báo trƣớc về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can cho NBC hoặc có trƣờng hợp CQĐT chỉ thông báo bằng điện thoại trƣớc giờ hỏi cung nên NBC không kịp đến để tham gia hỏi cung dẫn đến hạn chế việc thu thập chứng cứ cho NBTG, bị can. Quyền được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch (điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003): Nếu có những căn cứ theo luật định và xét thấy ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch tham gia tố tụng có thể làm ảnh hƣởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời mà mình bào chữa, thì NBC có quyền đề nghị thay đổi. Quyền này đƣợc áp dụng trong suốt quá trình giải quyết vụ
  • 45. 38 án. Những căn cứ theo luật định về việc thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch đƣợc qui định tại các Điều 42, khoản 4 Điều 60, khoản 3 Điều 61 của BLTTHS năm 2003. Quyền đề nghị thay đổi ngƣời THTT, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch nói trên không chỉ dành cho bị can, bị cáo mà còn cho NBC. Thực hiện quyền này sẽ góp phần bảo đảm sự vô tƣ, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo đƣợc chính xác, công bằng. Quy định này thể hiện tính dân chủ trong TTHS Việt Nam. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác (điểm d khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003): Đây là một qui định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Thực tiễn TTHS cho thấy, với trách nhiệm chứng minh tội phạm, CQTHTT thƣờng quan tâm đến những chứng cứ buộc tội NBTG, bị can, bị cáo hơn là chứng cứ gỡ tội. Do đó, qui định quyền nói trên đối với NBC có ý nghĩa quan trọng giúp NBC chủ động hơn trong việc tìm ra những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình. Bởi nếu chỉ căn cứ vào những chứng cứ do CQTHTT thu thập thì có thể sẽ đánh giá chứng cứ theo hƣớng thiên về buộc tội nhiều hơn là gỡ tội. Điều đó sẽ gây bất lợi cho đối tƣợng bào chữa. Đồng thời, khi thực hiện quyền này sẽ giúp NBC thực hiện đƣợc một số quyền khác nhƣ: quyền gặp NBTG, bị can, bị cáo; quyền đề nghị đƣợc gặp cơ quan, tổ chức, cá nhân để thu thập tài liệu, đồ vật. Sau khi gặp những ngƣời này, NBC có thể thu thập đƣợc những tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan đến việc bào chữa hoặc có thể NBTG, bị can, bị cáo đề nghị NBC tìm thêm nhân chứng, vật chứng,… Mặc dù BLTTHS năm 2003 qui định NBC có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa nhƣng lại chƣa qui định về
  • 46. 39 trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của NBC. Theo qui định tại Điều 65 BLTTHS năm 2003 thì: Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và TA có quyền triệu tập những ngƣời biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án, trƣng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo qui định của BLTTHS; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Những ngƣời tham gia tố tụng (trong đó có NBC), cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đƣa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án. Quyền thu thập, tài liệu, đồ vật của NBC trong giai đoạn điều tra đƣợc cụ thể hóa tại Điều 9 Thông tƣ số 70[4]. Theo đó, qui định CQĐT, Điều tra viên có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để NBC thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, bị can, ngƣời thân thích của những ngƣời này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG, bị can nếu không thuộc bí mật nhà nƣớc, bí mật công tác. Về thủ tục, khi NBC thu thập đƣợc tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa giao cho CQĐT thì Điều tra viên lập biên bản tiếp nhận và đƣa vào hồ sơ vụ án. Trƣờng hợp NBC đƣa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa thì Điều tra viên lập biên bản ghi nhận yêu cầu của NBC. Tuy nhiên, để thực hiện quyền trên cũng không hề đơn giản. Bởi thực tế, NBC gặp không ít khó khăn trong việc hợp tác với các cơ quan, tổ chức khi thu thập chứng cứ, trong khi CQTHTT chỉ cần có Công văn yêu cầu là đƣợc cung cấp thông tin. Sở dĩ nhƣ vậy, vì luật chƣa qui định chế tài áp dụng trong những trƣờng hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp các thông tin có liên quan cho NBC dẫn đến tình trạng NBC phải “sử dụng hồ sơ buộc tội để gỡ tội”, tìm ra những kẽ hở để bào chữa cho thân chủ và “kêu gọi lòng nhân đạo của TA, của pháp luật” đối với bị can, bị cáo[67]. Việc bào chữa