bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
KIM SƠN TRÚC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
KIM SƠN TRÚC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
HÀ NỘI - 2015
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự
8
1.1.1. Khái niệm giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 8
1.1.2. Ý nghĩa của giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 17
1.2. Bản chất và phạm vi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 19
1.3. Khái quát lịch sử quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
24
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1988 25
1.3.2. Giai đoạn từ 1988 đến nay 26
1.4. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong luật tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới
29
1.4.1. Bộ luật Tố tụng hình sự của liên bang Nga 29
1.4.2. Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 31
1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp 33
1.4.4. Luật Điều tra và tố tụng hình sự của Vương quốc Anh 36
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
39
2.1. Quy định của pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự
39
5. 5
2.1.1. Những quy định chung 39
2.1.2. Về tách việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 41
2.1.3. Về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự 43
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về việc giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang
63
2.2.1. Tình hình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên
địa bàn tỉnh Hà Giang
63
2.2.2. Hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật về giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà
Giang và nguyên nhân
72
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
82
3.1. Yêu cầu về nâng cao chất lượng giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự
82
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
85
3.2.1. Về lập pháp 85
3.2.2. Về áp dụng pháp luật 90
3.2.3. Về công tác cán bộ 92
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
6. 6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số liệu về công tác giải quyết, xét xử sơ thẩm các loại án
của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm
2010 đến năm 2014
68
2.2 Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết vấn đề dân sự từ
năm 2010 - 2014 tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
68
2.3 Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết vấn đề dân sự bị
kháng cáo, kháng nghị phần dân sự từ năm 2010 - 2014
tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
69
2.4 Số liệu thống kê kết quả thi hành án dân sự trong hình sự
theo đơn yêu cầu các năm từ 2010 đến 2014
71
7. 7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do Tòa án thực
hiện. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công
tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy đủ; xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng
thời với việc giải quyết vụ án hình sự, pháp luật Việt Nam cho phép Tòa án
giải quyết cả vấn đề dân sự liên quan đến tội phạm. Công dân không chỉ được
pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe mà cả tài sản, danh dự và nhân
phẩm... Yêu cầu xét xử đối với vụ án hình sự không chỉ là giải quyết tốt về
mặt hình sự mà cần giải quyết tốt cả vấn đề dân sự có liên quan.
Trong thực tế việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn có
những hạn chế nhất định, thậm chí cách hiểu và áp dụng còn lúng túng từ các
cơ quan xét xử. Các Tòa án chỉ chú trọng đến phần hình sự mà ít chú trọng đến
phần dân sự có liên quan trong vụ án. Bên cạnh đó, Hà Giang là một tỉnh miền
núi, có nhiều dân tộc, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí
còn hạn chế. Tình hình tội phạm diễn ra phức tạp, nhiều trường hợp phạm tội
xảy ra do lạc hậu, mê tín dị đoan, do không hiểu biết pháp luật... dẫn đến việc
trong quá trình xét xử Tòa án phải áp dụng quy định về giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng quy định này trong quá
trình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh còn có những sai sót nhất định.
Mặt khác, trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, việc
nghiên cứu về nội dung giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tuy đã có
những bài viết, luận văn nghiên cứu về vấn đề này nhưng những nghiên cứu
đó chưa thật sự sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện, chủ yếu chỉ dừng lại
ở các bài báo hoặc trong công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử của Tòa
án. Trong khi đó, Đảng và nhà nước ta đã ban hành các văn bản quan trọng về
8. 8
cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020". Đặc biệt Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách đến năm 2020" đã xác định: "Sớm hoàn
thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn
thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội..." [13] Hoàn thiện các
quy định pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cũng là
một nội dung quan trọng trong công tác hoàn thiện chính sách pháp luật hình
sự và thủ tục tố tụng tư pháp.
Có thể nói, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là vấn đề
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn áp dụng. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và đặc biệt là thực tiễn về "giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", đồng thời đánh giá việc áp dụng vấn đề
này trong thực tiễn áp dụng là cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá từ
thực tiễn áp dụng nguyên tắc này trên phạm vi địa bàn tỉnh Hà Giang để đưa
ra những kiến giải lập pháp và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý
luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết.
Đây cũng là lý do luận chứng cho việc bản thân quyết định chọn đề tài "Giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Hà Giang" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quy định về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đã được
nghiên cứu ở nhiều phương diện, phạm vi khác nhau nhằm làm sáng tỏ các
9. 9
vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn được công bố trong các công trình
khoa học, giáo trình giảng dạy, bài viết, bài bình luận trên các tạp chí như:
Cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có đề tài "Nguyên tắc giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự" của Nguyễn Thị Thu Hương bảo vệ năm 2009
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề
cập đến các vấn đề về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như: Đinh
Văn Quế, "Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về "dân sự" trong vụ án hình
sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 2005; Đỗ Văn Đại, "Bàn về việc giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 9, 2007;
Nguyễn Xuân Đang, "Giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự",
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21, 2005; Nguyễn Văn Tuân, "Bản chất và phạm
vi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 8, 2011; Nguyễn Văn Tuân, "Thủ tục giải quyết việc kiện dân sự trong
vụ án hình sự", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, 2011; Hoàng Thị Sơn,
"Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Luật học, số 6,
1998; Trọng Tài, "Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác định
sai vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 2006;
Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự", Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 26, 2010 v.v...
Trên cơ sở nghiên cứu cho thấy, các tác giả chủ yếu nghiên cứu ở từng
khía cạnh của vấn đề. Hiện nay chưa có một cuốn giáo trình, sách chuyên
khảo, bình luận chuyên biệt, tổng hợp đầy đủ về vấn đề này. Giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự chủ yếu mới chỉ được nghiên cứu riêng chủ yếu
qua các bài viết của các nhà khoa học. Hiện nay cũng chưa có công trình nào
nghiên cứu về việc giải quyết vấn đề dân sự trong thực tiễn giải quyết các vụ
án hình sự phát sinh trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Do vậy, giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa để chế
10. 10
định này ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn
giải quyết các vụ án hình sự, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong giai đoạn hiện nay trên cả nước nói chung và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và tổng hợp các quan
điểm của các nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này để làm sáng tỏ bản
chất của việc giải quyết vấn đề dân sự trong các vụ án hình sự gồm: những
vấn đề chung nhất về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như khái
niệm, bản chất và ý nghĩa, phạm vi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự cũng như thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự...
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết
vấn đề dân sự và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên tại địa bàn tỉnh Hà Giang, luận
văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề chung về giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự, như: Khái niệm, ý nghĩa nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự; bản chất và phạm vi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự v.v...
- Nghiên cứu các quy định chung về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; thủ tục giải
11. 11
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
- Đưa ra các kiến nghị, đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn
thiện về quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng của quy định này trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận chung về
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng quy định về
giải quyết vấn đề dân sự trong giải quyết vụ án hình sự trong thực tiễn xét
xử của Tòa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những nguyên nhân tồn
tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng
cao hiệu quả áp dụng quy định giải quyết vấn đề dân sự trong thực tiễn xét
xử các vụ án hình sự.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc giải quyết
vấn đề dân sự trong quá trình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà
Giang trong 05 năm (2010 - 2014).
5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
12. 12
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định
được khái niệm, nội dung, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Việc xây dựng
các quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan
trọng để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Về thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về
việc áp dụng các quy định pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang, phân tích những vấn đề chung về giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra những
hạn chế, nguyên nhân của nó trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự trên địa bàn, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra
những giải pháp, kiến giải để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc giải
quyết vấn đề dân sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong thực tiễn thi
hành quy định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có
tính hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng nguyên tắc giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất nguyên tắc, trình
13. 13
tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong quá trình giải
quyết vụ án, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho
các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự.
14. 14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Hành vi phạm tội xảy ra không chỉ xâm hại đến những quan hệ do pháp
luật hình sự bảo vệ mà còn xâm hại đến các quan hệ dân sự, nên có hai loại trách
nhiệm được đặt ra khi giải quyết vụ án hình sự, đó là: Trách nhiệm hình sự và
trách nhiệm dân sự. Có nghĩa là, khi giải quyết vụ án hình sự mà tội phạm xâm
hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… của cá nhân, tổ chức
thì ngoài việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng, thi hành hình phạt đối
với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Luật
tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay đã quy định về giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự tại Điều 28, Chương II, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, đó là:
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến
hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án
hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều
kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình
sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự [24].
Tuy nhiên, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là gì? Khái niệm giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là gì thì hiện nay còn có những nhận
thức, quan điểm khác nhau, như:
Quan điểm của tác giả Dương Văn Thăng thì vấn đề bồi thường thiệt
hại trong vụ án hình sự không phải là vấn đề dân sự thuần túy, mà vấn đề này
có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thủ tục tố tụng về
15. 15
bồi thường trong trường hợp này cũng có những đặc điểm riêng. Do vậy vấn
đề bồi thường phải được quy định trong Bộ luật Hình sự làm căn cứ cho việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự [32].
Theo tác giả Đinh Văn Quế cho rằng, "dân sự" trong vụ án hình sự chỉ
bao gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 42 Bộ luật Hình sự, hay
nói cách khác là "dân sự" trong vụ án hình sự chỉ trong phạm vi "trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại Chương V Bộ luật Dân
sự năm 1995 (nay là chương XXI Bộ luật Dân sự 2005) [19]. Đó là những
quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại.
Theo Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân
dân tối cao về việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại
trong vụ án hình sự (sau đây gọi tắt là Công văn 121/2003/KHXX) thì phần dân
sự trong vụ án hình sự bao gồm: Việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi
thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại,
buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt
hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt
hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Như vậy, khái niệm "dân sự" là một khái niệm rộng và khó xác định.
Điều 28 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cũng không xác định rõ giải quyết "vấn đề
dân sự" là giải quyết cái gì? Điều 28, Bộ luật Tố tụng hình sự có đoạn quy định:
"... Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi
hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết
vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự" [24].
Như vậy, có thể hiểu "vấn đề dân sự" trong vụ án hình sự gồm không chỉ là
bồi thường mà cả bồi hoàn. Theo tinh thần của Điều 28 Bộ luật Tố tụng hình
16. 16
sự thì "vấn đề dân sự" là vấn đề có thể được giải quyết cùng vụ án hình sự và
cũng có thể giải quyết riêng theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự thì những vụ việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự là những vụ việc dân sự.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế cho rằng,
"dân sự" trong vụ án hình sự không phải là tất cả những gì có liên quan đến
tiền hoặc tài sản mà Tòa án xét xử và quyết định, vì trong quá trình giải quyết
vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng còn áp dụng một số biện pháp tư pháp có
liên quan đến tiền hoặc tài sản như: tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào
việc phạm tội; tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có; tịch thu vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành; tịch thu
hoặc trả lại vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép; tịch
thu hoặc trả lại vật, tiền của người khác mà người phạm tội đã sử dụng vào
việc thực hiện tội phạm... Các quyết định này tuy có liên quan đến tài sản
nhưng không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong
vụ án hình sự và được giải quyết theo luật hình sự và tố tụng hình sự [19].
Vì vậy, "vấn đề dân sự" không thể được quy định trong Bộ luật Hình
sự và không thể là căn cứ để giải quyết vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tội phạm gây ra, mà nó phải được quy định trong Bộ luật Dân sự, bởi lẽ
nó là "vấn đề dân sự" chứ không phải là "vấn đề hình sự", mặc dù nó có quan
hệ nhất định đến vụ án hình sự. Tuy nhiên không phải tất cả những quy định
của Chương XXI của Bộ luật Dân sự 2005 về trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng đều là "vấn đề dân sự" trong vụ án hình sự. Chỉ có những thiệt hại
nào do tội phạm gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "vấn đề
dân sự" trong vụ án hình sự hay nói một cách chính xác hơn đây là việc kiện
dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy ra, có thiệt
hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
17. 17
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự như sau: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết việc đòi bồi thường những thiệt hại do
tội phạm gây ra.
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản của
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong
những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự nên nó chứa đựng những
nội dung thể hiện phương châm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Về nguyên tắc, thì mọi vấn đề liên quan đến "phần dân sự" thì đương
sự có quyền tự định đoạt, do đó vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đương sự
có quyền có thể khởi kiện vụ án dân sự riêng biệt với vụ án hình sự tại Tòa
dân sự. Tuy nhiên, phần dân sự của vụ án sẽ chưa được xét xử chừng nào phần
hình sự của vụ án chưa được xét xử xong, nếu đã khởi tố hình sự, tức là một khi
cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố vụ án hình sự thì phải xem xét giải quyết
xong vấn đề hình sự rồi mới xem xét giải quyết vấn đề dân sự. Đó là nguyên tắc
"Hình hoãn hộ". Theo đó, vấn đề hình sự chưa giải quyết thì không thể giải
quyết vấn đề dân sự làm như vậy để tránh cho Tòa hình sự và Tòa dân sự cùng
xử lý một vụ việc có thể đưa ra hai bản án trái ngược nhau, như trường hợp Tòa
hình sự không kết tội, còn Tòa dân sự bắt bị cáo bồi thường thiệt hại hoặc
ngược lại, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các bên đương
sự. Do đó, để thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật của nhà nước ta, Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 xác định việc giải quyết vấn đề dân sự được tiến
hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự và trong trường hợp vụ án hình
sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng
minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra
để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
18. 18
Thứ hai: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ có phạm vi
áp dụng đối với những quan hệ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
xuất hiện do việc thực hiện tội phạm.
Có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây thiệt
hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm: Hành vi phạm tội xâm hại đến sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh
trách nhiệm hình sự còn làm phát sinh trách nhiệm dân sự của những người
tham gia tố tụng. Hoặc những vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như:
tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, đòi lại tài
sản, đòi bồi thường thiệt hại… Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề dân sự nào
liên quan đến tiền hoặc tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết cũng
đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của qui định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng
hình sự. Bởi lẽ, việc Tòa án áp dụng việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Hình sự và xử lý vật chứng
theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự tuy có liên quan đến tài sản
nhưng không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong
vụ án hình sự và được giải quyết theo luật hình sự, tố tụng hình sự và trách
nhiệm giải quyết thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi
thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy
hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích
gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc
phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất
và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm. Nói cách khác, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm không chỉ
vấn đền bồi thường mà cả bồi hoàn và được xác định trong phạm vi "trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại chương XXI
Bộ luật Dân sự 2005 và đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh
19. 19
do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị
tội phạm xâm hại.
Thứ ba: Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được giải quyết cùng với
việc giải quyết vấn đề hình sự sau khi khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi
tố vụ án hình sự là văn bản pháp lí xác định có sự việc phạm tội, làm cơ sở
cho các hoạt động điều tra. Do đó, khi vụ án hình sự có vấn đề dân sự phát
sinh do việc thực hiện tội phạm bị khởi tố thì việc dân sự đó được xem xét và
giải quyết mà không cần phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa.
Theo thủ tục tố tụng dân sự thì vụ án dân sự chỉ được đặt ra và xem xét giải
quyết khi có đơn khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định
tại Điều 161, 162 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, theo đó, cá nhân, tổ chức
có quyền tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và tòa án chỉ giải quyết khi có đơn khởi
kiện dân sự. Trong vụ án hình sự, khi vụ án hình sự đã khởi tố vụ án mà có
vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành
tố tụng sẽ xem xét giải quyết vấn đề dân sự, chứng minh có thiệt hại về vật
chất, tài sản… là việc giải quyết phần hình sự của vụ án đồng thời cũng chính
là việc chứng minh mức độ thiệt hại, giá trị tài sản cần được bồi thường cho
người bị hại. Còn đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do
tội phạm gây ra được xác định là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự thì
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng phải tuân theo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự, đó là việc nguyên đơn có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định vấn đề dân sự chỉ được giải quyết cùng vụ án hình sự khi họ có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thời điểm nguyên đơn dân sự có đơn yêu cầu
bồi thường là thời điểm vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bắt đầu được giải
quyết. Để bảo vệ quyền lợi của mình, trong trường hợp này nguyên đơn dân
20. 20
sự cần phải chứng minh mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra, trong đó có
những thiệt hại mà cơ quan tiến hành tố tụng không thể và không có trách
nhiệm chứng minh. Thông thường đơn yêu cầu được thực hiện sau khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự, nhưng trước khi kết thúc xét hỏi tại phiên tòa.
Thứ tư: Quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có sự
tham gia của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh, xác định mức
độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trong vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc thì nghĩa vụ chứng
minh cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự, trách nhiệm của
bên đi kiện. Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cũng không
phải ngoại lệ. Tuy nhiên, Trong trường hợp vấn đề dân sự được giải quyết
trong vụ án hình sự, ở đây được hiểu là giải quyết việc tranh tụng dân sự
trong vụ án hình sự và do Tòa hình sự giải quyết, về nguyên tắc vì là được
giải quyết bởi Tòa hình sự nên khi xem xét giải quyết vụ án Tòa án phải áp
dụng các quy định, trình tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự để giải quyết. Tuy
nhiên, việc giải quyết vấn đề dân sự trong cùng vụ án hình sự về bản chất vẫn
là giải quyết mối quan hệ dân sự, do đó không thể áp dụng thủ tục hình sự để
giải quyết vấn đề dân sự mà phải áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết.
Hay nói cách khác, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải được
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nằm trong thủ tục tố tụng hình sự nói
chung. Theo tác giả PGS.TS Hoàng Thị Sơn thì:
Tranh tụng dân sự nhằm giải quyết các vấn đề dân sự song
khi áp dụng vào tố tụng hình sự nó trở thành chế định pháp luật tố
tụng hình sự. Vậy, khái niệm tranh tụng dân sự phải được hiểu
thống nhất trong tố tụng dân sự cũng như trong tố tụng hình sự.
Ngoài những đặc điểm chung tranh tụng dân sự trong tố tụng hình
sự có những đặc điểm riêng của nó như có sự tham gia của cơ quan
điều tra và việc xác định mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
21. 21
ra. Sự thống nhất đó đòi hỏi: Quá trình áp dụng, phương pháp, thủ
tục giải quyết các tranh chấp dân sự trong tố tụng hình sự không
được trái với quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự trừ
trường hợp đặc biệt có quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng hình
sự nhưng không gây thiệt hại cho đương sự so với tố tụng dân sự.
Trong trường hợp luật tố tụng dân sự không quy định thủ tục tranh
tụng dân sự thì việc áp dụng ấy phải xuất phát từ quy định chung
của luật tố tụng dân sự [28].
Như vậy, dù là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự nhưng thực chất đó
vẫn là quan hệ dân sự, do đó cần phải đảm bảo quyền bình đẳng thỏa thuận
giữa các đương sự khi tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng là trong tố tụng hình sự,
việc chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng phải điều tra, thu thập chứng cứ để chứng
minh tội phạm. Vấn đề dân sự phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra được
giải quyết trong vụ án hình sự nên trước hết phải tuân theo các nguyên tắc của
tố tụng hình sự, do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm điều tra,
thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án bao gồm cả việc điều tra, thu thập
chứng cứ để làm rõ về phần trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Trường
hợp các đương sự không cung cấp được chứng cứ về vấn đề dân sự mà những
vấn đề dân sự này có liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị
cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải điều tra, làm rõ những thiệt hại đã
xảy ra, trên cơ sở đó xác định được mức bồi thường thiệt hại. Theo quan điểm
của PGS.TS. Hoàng Thị Sơn cho rằng:
Nếu vấn đề dân sự được giải quyết ngay trong vụ án hình sự
thì cơ quan điều tra có thể làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến
việc bồi thường ngay từ khi tiến hành điều tra vụ án. Vì tuy là vấn
đề dân sự nhưng nó là vấn đề phát sinh từ vụ án hình sự. Ngược lại,
22. 22
nếu vấn đề đó được giải quyết riêng ở phiên tòa dân sự thì khả năng
đó sẽ không còn nữa bởi lẽ cơ quan điều tra không có trách nhiệm
điều tra, xác minh các tình tiết của vụ án dân sự [28].
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh
thuộc về các đương sự. Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ mà chỉ xét
xử trên cơ sở chứng cứ của các bên đương sự cung cấp và Tòa án chỉ xác
minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp luật định. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự người bị thiệt hại được sự
hỗ trợ từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, được sử dụng kết quả của việc xét xử
về hình sự như lỗi của chủ thể gây thiệt hại, mức độ gây thiệt hại, nhưng
không phải tất cả các trường hợp mức độ bị thiệt hại đều được xác định.
Trong một số trường hợp người bị thiệt hại phải xác định bổ sung thiệt hại do
tội phạm gây ra ngoài những thiệt hại đã được cơ quan tiến hành tố tụng xác
định có liên quan đến tội phạm.
Trong trường hợp vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tách ra để
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thông thường thì quá trình giả quyết vụ
việc đương nhiên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự, Tuy nhiên, việc giải quyết
đó chỉ được tiến hành khi đã có bản án hình sự, bởi lẽ theo nguyên tắc "hình
hoãn hộ" thì một khi vụ án hình sự chưa xét xử xong thì vụ việc dân sự chưa
ược xem xét giải quyết.
Thứ năm: Trong quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự Tòa án không bắt buộc phải mở các phiên hòa giải giữa các đương sự như
trong tố tụng dân sự.
Thủ tục mở phiên hòa giải không phải là thủ tục bắt buộc mà Tòa án
phải thực hiện khi chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng không bắt buộc phải tiến hành
hòa giải giữa các đương sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tiến
hành tố tụng vẫn tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận với nhau về việc giải
23. 23
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Trường hợp các đương sự tự nguyện
thỏa thuận được với nhau thì Tòa án công nhận việc thỏa thuận này của các
đương sự và sự thỏa thuận này được ghi vào phần quyết định của bản án hình sự
chứ Tòa án không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Đây
là điểm khác biệt lớn so với tố tụng dân sự vì trong tố tụng dân sự Tòa án cấp sơ
thẩm bắt buộc phải tiến hành mở các phiên hòa giải giữa các đương sự và việc
hòa giải được tiến hành trước và tại phiên tòa. Nếu các đương sự thỏa thuận
được với nhau thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
1.1.2. Ý nghĩa của giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Giải quyết vấn đề dân sự ngay trong vụ án hình sự có ý nghĩa thực tiễn
là: góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được thực hiện
một cách thống nhất; là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự, bảo đảm mọi hành vi gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội đều phải bồi thường và xử lí kịp thời; góp phần vào việc
động viên, giáo dục và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
có ý thức tuân thủ pháp luật và tích cực tham gia vào việc đấu tranh phòng
chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình tố tụng; có ý nghĩa cho việc định
hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự [29, tr. 45].
Việc quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có ý nghĩa
đối với việc bảo đảm tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật thì công dân được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp đối với tài sản, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi gây thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và xâm hại tới tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, của cá nhân đều phải bồi thường và xử lý theo pháp luật.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, một mặt người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự, mặt khác họ còn phải chịu trách nhiệm dân sự với tính
24. 24
chất là một chế tài được áp dụng đối với người gây thiệt hại. Việc áp dụng
trách nhiệm dân sự đối với người phạm tội không chỉ làm tăng khả năng trừng
trị mà còn có ý nghĩa giáo dục đối với bản thân họ và có tác dụng răn đe,
phòng ngừa chung. Hơn nữa, quan hệ dân sự trong vụ án hình sự không đơn
thuần chỉ là một quan hệ dân sự thông thường mà việc thực hiện trách nhiệm
dân sự của bị can, bị cáo còn nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự của họ.
Chẳng hạn, trường hợp người phạm tội bị buộc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại do họ gây ra là để thực hiện một biện pháp tư pháp được
quy định tại Điều 42 Bộ luật Hình sự năm 1999, tức là để thực hiện một yêu
cầu của trách nhiệm hình sự.
Quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn có ý nghĩa
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác, nhanh gọn, đỡ tốn kém về
thời gian, công sức, bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự,
người có quyền lợi liên quan khi bị tội phạm xâm hại, giúp cho cơ quan tiến
hành tố tụng tránh được việc tiến hành các hoạt động trùng lặp không cần
thiết, tức là xem xét hai lần các tình tiết của cùng một hành vi vi phạm pháp
luật hình sự và vi phạm pháp luật dân sự đồng thời tạo điều cho người bị hại
chứng minh là có thiệt hại do tội phạm gây ra, người bị thiệt hại sẽ có nhiều
thuận lợi hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình qua đó bảo đảm hiệu quả
về mặt kinh tế, tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử cũng như tránh
được việc gọi đến tòa một lần nữa các bên tham gia tố tụng.
Vấn đề dân sự được giải quyết ngay trong vụ án hình sự thì cơ quan
điều tra có thể làm sáng tỏ các tình tiết có liên quan đến việc bồi thường ngay
từ khi tiến hành điều tra vụ án, vì tuy là vấn đề dân sự nhưng vì nó là vấn đề
phát sinh trong vụ án hình sự nên nhiều chứng cứ trong vụ án hình sự có thể
làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề dân sự đồng thời góp phần tăng tính khả
thi trong việc thực hiện các quyết định về dân sự trong vụ án hình sự. Nếu vấn
đề đó được giải quyết riêng ở phiên tòa dân sự thì khả năng đó sẽ không còn
25. 25
bởi cơ quan điều tra không có trách nhiệm điều tra, xác minh các tình tiết của
vụ án dân sự.
1.2. BẢN CHẤT VÀ PHẠM VI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Hiến pháp.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm" [27]. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trọng hoạt động tố tụng
hình sự, luôn đề cao và tôn trọng quyền con người. Cùng với nhiệm vụ đấu
tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng
còn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm, không vì
mục đích tìm ra tội phạm mà có những hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền của con người.
Hành vi phạm tội xảy ra ngoài việc làm phát sinh quan hệ pháp luật
hình sự còn làm phát sinh quan hệ dân sự. Điều 42 Bộ luật Hình sự 1999 quy
định: "Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã
được xác định do hành vi phạm tội gây ra" [22]. Nghĩa vụ hoàn trả tài sản và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất còn được quy định trong Bộ luật
Dân sự, Điều 559 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả lại
cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó" [25]. Điều 604 cũng
quy định: "Người nào do có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường" [25].
Như vậy vấn đề dân sự có liên qua đến tội phạm đã được quy định, đề cập đến
trong cả Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự.
26. 26
Trong tố tụng hình sự của nước ta hiện nay, cho phép khi xét xử một
vụ án hình sự thì giải quyết luôn cả vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đó.
Việc xác định mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra có ý nghĩa không chỉ trong
việc giải quyết vấn đề dân sự mà còn có ý nghĩa trong cả giải quyết vấn đề
hình sự, vì trong nhiều trường hợp mức độ thiệt hại đó là tình tiết để định tội,
xác định mức độ lỗi và mức hình phạt cho bị cáo. Vì vậy xem xét vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự có tác dụng làm cho việc xét xử vụ án về mặt hình sự
cũng như về mặt dân sự được đầy đủ, toàn diện. Mặt khác, xem xét vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử vụ
án, bởi vì cùng một vụ việc không phải tiến hành giải quyết hai lần: lần thứ
nhất buộc tội bị cáo, lần thứ hai liên quan đến vấn đề dân sự. Đồng thời, giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tạo điều kiện cho người bị hại chứng
minh là có thiệt hại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Người bị thiệt hại
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của mình.
Điều 28, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
Việc giải quyết vấn đề dân sự trọng vụ án hình sự được
tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp
vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa
có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết
vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự [24].
Vấn đề bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra đã được Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định, nhưng giải quyết như thế nào, phạm vi đến đâu và theo
thủ tục nào thì chưa được quy định rõ trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Như ở phần trên đã phân tích, chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm
gây ra và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "vấn đề dân sự" trong
vụ án hình sự hay nói một cách chính xác hơn, giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
27. 27
Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có
tội phạm xảy ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
Về nguyên tắc, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được
giải quyết cùng với vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án hình sự
phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh
và không ảnh hưởng đến vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ
tục tố tụng dân sự. Theo Công văn 121/2003/KHXX thì chỉ được tách để giải
quyết phần hay một phần dân sự trong vụ án hình sự khi có yêu cầu, nếu phần
dân sự được tách ra không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm,
đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
(i) Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn
dân sự.
(ii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu.
(iii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không
cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung hoặc Tòa án nói riêng.
(iv) Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên
tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
Vấn đề đặt ra là khái niệm "phần dân sự" có liên quan hoặc không liên
quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm
của bị can, bị cáo, Công văn 121/2003/KHXX có đưa ra ví dụ sau:
Nguyễn Văn A chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi cố ý làm trái
quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện năm hành vi cố ý làm trái quy định của nhà
nước về quản lý kinh tế. Cơ quan điều tra đã xác minh làm rõ năm
28. 28
hành vi này, nhưng chưa chứng minh thiệt hại do mỗi hành vi cụ
thể gây ra và tổng thiệt hại do năm hành vi gây ra đã đến một trăm
triệu đồng hay chưa mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn dân
sự là tổng thiệt hại là một trăm linh năm triệu đồng. Nguyễn Văn A
khai và chứng minh rằng thiệt hại không đến bảy mươi triệu đồng.
Trong trường hợp này việc xác định thiệt hại thực tế do năm hành
vi cố ý làm trái của Nguyễn Văn A gây ra là rất quan trọng đối với
việc xác định cấu thành tội phạm, tức là để kết luận Nguyễn Văn A
có phạm tội hay không [47].
Trong ví dụ này, vấn đề xác định mức độ thiệt hại có ý nghĩa quan
trọng đối với việc xác định cấu thành tội phạm. Tuy nhiên việc xác định đó
phải thuộc nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, bởi họ là người có trách
nhiệm chứng minh có hay không có hành vi phạm tội. Đây là "vấn đề hình
sự" chứ không phải là "vấn đề dân sự" thuần túy. Trách nhiệm dân sự chỉ phát
sinh sau khi xác định được trách nhiệm hình sự, hay nói một cách khác, trách
nhiệm hình sự là cơ sở để xác minh trách nhiệm dân sự. Trong vụ án hình sự,
mức độ thiệt hại được xác định và nó có ý nghĩa cho việc xác định cấu thành
tội phạm, cho việc xác định trách nhiệm hình sự. Vì thế đến lượt mình, việc
xác định trách nhiệm dân sự sẽ thuận lợi hơn, vì nó được căn cứ vào kết quả
của việc giải quyết vấn đề hình sự. Trong trường hợp này, người bị thiệt hại
không cần phải chứng minh mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây chính là
một trong những thuận lợi khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, Công văn 121/2003/KHXX cũng đưa ra ví dụ sau:
Trần N dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản gồm 1000 USD, một
xe máy, một đồng hồ đeo tay và một số tài sản khác của anh V với
tổng số tài sản bị chiếm đoạt theo lời khai của người bị hại là 53
triệu đồng. Cơ quan điều tra chưa chứng minh lời khai của người bị
29. 29
hại có căn cứ hay không, giá trị chiếm đoạt của mỗi loại tài sản và
tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế là bao nhiêu. Trần N bị truy
tố theo điểm e khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp
này, việc điều tra chứng minh tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực
tế là bao nhiêu là rất cần thiết vì đó là căn cứ để kết luận Trần N phạm
tội cướp tài sản theo khoản nào của Điều 133 Bộ luật Hình sự [47].
Cũng như ví dụ trên, việc xác định tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt
thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và là cơ sở cho việc định tội. Vì
thế, không thể xem đây là "phần dân sự" trong vụ án hình sự, mặc dù nó là vấn
đề tài sản. Trong vụ án hình sự, vấn đề đầu tiên là việc xác định trách nhiệm hình
sự. Vấn đề dân sự chỉ được xem xét giải quyết sau khi vấn đề hình sự đã được
giải quyết hay nói một cách khác là trách nhiệm hình sự là cơ sở để xem xét
trách nhiệm dân sự. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự về bản chất là
giải quyết việc kiện dân sự, là xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên, không phải tất cả những gì mà phần hình sự đã giải quyết
là căn cứ đầy đủ cho việc giải quyết "vấn đề dân sự", vấn đề bồi thường thiệt hại
do tội phạm gây ra. Qua ví dụ sau đây trong Công văn 121/2003/KHXX về phần
dân sự không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo, cụ thể:
Lê B cố ý gây thương tích cho chị C với tỷ lệ thương tật 40%
(có kết luận giám định). Trong hồ sơ vụ án mới chỉ làm rõ chị C
phải điều trị tại bệnh viện 30 ngày. Chị C đòi bồi thường thiệt hại
do sức khỏe bị xâm hại với số tiền là 100 triệu đồng, nhưng không
nêu từng khoản cụ thể, không cung cấp các chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình (ngoài việc cung cấp mấy đơn thuốc). Trong
trường hợp này, phần dân sự không liên quan gì đến việc xác định
cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự đối với Lê B [47].
30. 30
Trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng mới chỉ xác định được chị C
bị gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 40% là đủ cơ sở truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với Lê B. Tuy nhiên để bồi thường thiệt hại cho chị C, thì
chị C cần phải chứng minh mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra, trong đó có
những thiệt hại mà cơ quan tiến hành tố tụng không thể và không có trách
nhiệm chứng minh.
Trong một vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc, thì nghĩa vụ
chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự, trách
nhiệm của bên đi kiện. Việc kiện dân sự trong vụ án hình sự cũng vậy. Tuy
nhiên, việc kiện dân sự trong vụ án hình sự có những thuận lợi hơn khi việc
chứng minh đó (có trường hợp chỉ là một phần) đã được cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện. Còn trong vụ án hình sự, trách nhiệm xác định thiệt hại hoặc
giá trị tài sản bị xâm phạm có liên quan đến cấu thành tội phạm hoặc trách
nhiệm hình sự thuộc cơ quan tiến hành tố tụng. Dù có giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự hay không thì trách nhiệm chứng minh nói trên vẫn
thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, không thể và không được tách riêng ra vì
nó liên quan đến tội phạm, đến trách nhiệm hình sự, nó là "phần hình sự" của
vụ án hình sự. Khi xem xét giải quyết vấn đề dân sự (kiện dân sự) trong vụ án
hình sự thì mức độ thiệt hại và giá trị tài sản được xác định là cơ sở cho việc
xác định trách nhiệm dân sự. Người yêu cầu bồi thường thiệt hại được sử
dụng kết quả đó của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà không cần phải
chứng minh mức độ thiệt hại hoặc giá trị tài sản. Đây chính là ưu điểm và là
đặc thù của việc giải quyết việc kiện dân sự trong vụ án hình sự. Ở đây cần
xác định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chính là việc kiện dân sự
trong vụ án hình sự chứ không phải là vấn đề dân sự một cách chung chung.
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Quy định của pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự, gắn liền với các giai đoạn phát triển của luật tố tụng hình sự qua các thời
31. 31
kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong khuôn khổ của một luận văn
thạc sĩ chúng tôi chỉ xin sơ lược về lịch sử quy định của pháp luật Việt Nam
về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự qua các giai đoạn sau đây.
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1988
Cách mạng tháng Tám thành công với sự ra đời của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của nhà nước Việt
Nam. Đất nước mới giành được độc lập, tình hình an ninh, trật tự, chính trị,
xã hội của đất nước rất phức tạp. Tình hình tội phạm xuất hiện khắp nơi, cả ở
vùng giải phóng và chiến khu, các tội phạm xảy ra chủ yếu liên quan đến vấn
đề an ninh quốc gia và các tội phạm bị đưa ra xét xử chủ yếu là các tội gián
điệp, hoạt động phỉ, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân... để đảm
bảo cho việc xử lý tội phạm được kịp thời, Nhà nước ta đã thành lập các tòa
án quân sự để xét xử các tội phạm phương hại đến nền độc lập của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc tiến
hành xây dựng thể chế xã hội chủ nghĩa, trong đó pháp luật tố tụng hình sự đã
được chú ý. trong thời ký này, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan
trọng về tự do dân chủ, trong đó cũng đã quy định những nội dung liên quan
đến giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như Luật số 103SL/1005
ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm về
nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân, Năm 1958 Quốc hội đã quyết định thành
lập Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống các tòa án địa phương...[29, tr.19-20].
Sau ngày 30/4/1975, khi đất nước thống nhất, trên cơ sở của Hiến
pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, thì hệ thống Tòa
án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong cả nước đã được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở của Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1981. Các văn bản pháp luật trên đã góp phần vào việc khắc
phục những thiếu sót, sai lầm trong việc giải quyết vụ án hình sự nói chung,
việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự nói riêng.
32. 32
Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự trong gai
đoạn này chủ yếu là đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính
sách của Đảng, Nhà nước trong các lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án do đó ngày 28/6/1988 Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự
đầu tiên của Việt Nam.
Có thể nói giai đoạn từ 1945 đến 1988, các văn bản quy phạm pháp
luật về tố tụng hình sự quy định về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự còn rất mờ nhạt, chưa được chú trọng.
1.3.2. Giai đoạn từ 1988 đến nay
Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam đã được Quốc hội
thông qua ngày 28/6/1988 và chính thức ngày 01/01/1989, đã quy định khá
đầy đủ và chi tiết về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự và cơ bản đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm trong giai đoạn này. Tại
Lời nói đầu của Bộ luật đã ghi đây là Bộ luật "thấu suốt tư tưởng "lấy dân làm
gốc", Bộ luật đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội.
Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta từ
Cách mạng tháng Tám đến nay, với tinh thần đổi mới trên mọi mặt của đời
sống xã hội, Bộ luật đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và công dân
trong việc tham gia tố tụng, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa
với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên
của Nhà nước ta được ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Bộ
luật Tố tụng hình sự này đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ những
thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh
33. 33
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chưa quy định nguyên tắc
chung về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đã được quy định trong bộ luật thông
qua Điều 39 về người bị hại và Điều 40 về nguyên đơn dân sự. Theo tinh thần
của các điều luật này thì người bị hại có quyền đề nghị mức bồi thường và các
biện pháp bảo đảm bồi thường, còn nguyên đơn dân sự là cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại. Các quy định này đã khẳng định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự là việc giải quyết bồi thường thiệt hại về vật chất cho người bị hại và
bồi thường thiệt hại vật chất cho nguyên đơn dân sự của người phạm tội.
Ngoài ra, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn được
quy định trong một số văn bản hướng dẫn hay báo cáo tổng kết công tác ngành
của Tòa án nhân dân tối cao, như: Công văn số 97/NCPL ngày 04/10/1991
của Tòa án nhân dân tối cao về việc phối hợp với cơ quan bảo hiểm nhà nước
giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại; Kết luận tại Hội nghị tổng kết ngành
Tòa án năm 1993, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kết luận:
Tòa án kết hợp giải quyết vụ án dân sự trong vụ án hình sự,
hay tại Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án
nhân dân tối cao về giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế,
lao động, hành chính và tố tụng; tại Công văn số 121/2003/KHXX
ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình
sự [17, tr. 33].
Tuy vậy, thực tiễn cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng thường giải
quyết các vấn đề dân sự gắn liền với việc chứng minh tội phạm nhưng việc
34. 34
thực hiện vấn đề này còn thiếu thống nhất. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền
lợi của những người tham gia tố tụng, trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 các nhà làm luật đã bổ sung nguyên tắc giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự và được quy định cụ thể tại Điều 28, cụ thể:
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến
hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ
án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có
điều kiện để chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết
vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự [24].
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2003, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đã lần đầu
pháp điển hóa và khái quát tiên việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 cũng đã quy định khá đầy đủ, chi tiết về nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại
diện hợp pháp của họ, thể hiện định hướng, phương châm, đường lối của
Đảng và Nhà nước về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Bên cạnh
đó, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự như Nghị quyết
số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư "Xét xử
phúc thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số các quy định của Bộ luật Dân sự
về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, công văn số 121/2003/KHXX ngày
19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết vấn đề liên quan đến
35. 35
tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự... cũng đã quy định về trình
tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
1.4. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1. Bộ luật Tố tụng hình sự của liên bang Nga
Bộ luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga được Đuma (Hạ viện)
quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và được Hội đồng liên bang Nga (giống
như Thượng viện) phê chuẩn ngày 05/12/2001 và có hiệu lực từ 01/7/2002
(thay thế cho Bộ luật Tố tụng hình sự 1960). Bộ luật này gồm 5 phần chia làm
18 chương và có 473 điều.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga không quy định thành
một nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tại phần Những
nguyên tắc của Tố tụng hình sự (Mục 2). Liên quan đến giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự được thông qua các quy định về nguyên đơn dân sự (Điều
44), bị đơn dân sự (Điều 54), sự tham gia hoạt động xét xử của nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự (Điều 250), giải thích quyền của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự (Điều 268), nội dung, trình tự, thủ tục tranh luận của các bên
(Điều 292) hay những vấn đề được Tòa án giải quyết khi ra bản án (Điều 299)...
Bộ luật Tố tụng hình sự liên bang Nga quy định tại Khoản 3 và khoản 4
Điều 42 như sau:
3. Người bị hại được bảo đảm bồi thường thiệt hại do tội
phạm gây ra, cả những chi phí cho việc họ tham gia vào quá trình
điều tra, xét xử vụ án, bao gồm cả chi phí cho người đại diện theo
quy định tại Điều 131 Bộ luật này.
4. Theo yêu cầu của người bị hại về việc bồi thường bằng
tiền đối với thiệt hại về tinh thần đã gây ra cho họ, mức bồi thường
do Tòa án đã xét xử vụ án hình sự quyết định hoặc được giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự [58].
36. 36
Từ quy định này ta có thể hiểu rằng việc giải quyết về việc bồi thường
thiệt hại cho người bị hại được tiến hành đồng thời với vụ án hình sự hoặc có
thể được tách ra và giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 44 quy định về nguyên đơn dân sự như sau:
Nguyên đơn dân sự là thể nhân hoặc pháp nhân có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại về tài sản khi có căn cứ để cho rằng thiệt
hại đối với họ là do tội phạm trực tiếp gây ra. Quyết định công nhận
nguyên đơn dân sự được thể hiện trong quyết định của Tòa án hoặc
quyết định của thẩm phán, kiểm sát viên, dự thẩm viên, nhân viên
điều tra ban đầu. Nguyên đơn dân sự có thể đệ đơn yêu cầu bồi
thường thiệt hại về tài sản đối với thiệt hại về tinh thần [58].
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên bang Nga thì
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự có thể là cá nhân hoặc thể nhân có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản do tội phạm trực tiếp gây ra thiệt hại,
để có tư cách tham gia tố tụng với vai trò là nguyên đơn dân sự thì cá nhân
hoặc thể nhân đó phải có một quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
thẩm phán, kiểm sát viên, dự thẩm viên, nhân viên điều tra ban đầu.
Về thời hạn nộp đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại được quy định tại
khoản 2 Điều 44 như sau: "Đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại được đệ trình
sau khi khởi tố vụ án hình sự nhưng trước khi kết thúc việc điều tra. đối với
đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại, nguyên đơn dân sự được miễn nộp lệ phí"
và quyền rút đơn kiện dân sự của nguyên đơn dân sự quy định tại khoản 5
Điều 44 "Nguyên đơn dân sự có thể rút đơn kiện vào bất kỳ thời điểm nào của
quá trình tố tụng đối với vụ án, nhưng phải trước khi Tòa án nghị án để ra bản
án. Việc rút đơn kiện sẽ dẫn đến việc đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường
dân sự" [58].
Điều 250 quy định về việc tham gia của nguyên đơn dân sự và bị đơn
dân sự tại phiên tòa như sau:
37. 37
1. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện
của họ được tham gia vào quá trình xét xử. 2. Tòa án có quyền giải
quyết vụ kiện dân sự trong trường hợp nguyên đơn dân sự vắng mặt
nếu:a) Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ yêu cầu; b)
Kiểm sát viên bảo vệ đơn kiện; c) Bị cáo hoàn toàn đồng ý với đơn
kiện dân sự. 3. Trong những trường hợp còn lại nếu nguyên đơn
dân sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì Tòa án có quyền
không giải quyết vụ kiện dân sự. Trong trường hợp này nguyên đơn
dân sự có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự [58].
Khoản 2 Điều 309 quy định "Trong trường hợp cần thiết phải tiến
hành tính toán bổ sung liên quan đến vấn đề dân sự đòi hỏi phải tạm hoãn
việc xét xử thì Tòa án có thể chấp nhận đơn khởi kiện dân sự và chuyển vấn
đề về mức bồi thường dân sự để xem xét theo thủ tục tố tụng dân sự" [58].
Trường hợp này có thể được hiểu là một căn cứ của việc tách phần dân sự
trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ một vụ án dân sự theo thủ tục tố
tụng dân sự, điều này có điểm tương đồng như quy định của pháp luật tố tụng
hình sự của nước ta.
Trong phần tranh luận, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc những
người đại diện của họ có quyền tham gia vào quá trình tranh luận để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Tòa án
sẽ ra phán quyết bằng bản án. Trong phần quyết định của Bản án Tòa án sẽ
quyết định có chấp nhận đơn kiện dân sự hay không, chấp nhận bên nào và
với mức bao nhiêu, đồng thời quyết định việc xử lý đối với tài sản bị kê biên
để bảo đảm giải quyết vấn đề dân sự hoặc tịch thu như thế nào?
1.4.2. Luật tố tụng hình sự của nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được
thông qua tại kỳ họp thứ 2 Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5 ngày
01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Luật gồm 164 điều với 4 phần,
38. 38
17 chương. Đến 1996, Luật được sửa đổi theo quyết định sửa đổi luật tố tụng
hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và được thông qua tại kỳ
họp thứ 4 Đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 8 ngày 17/3/1996 và có hiệu
lực kể từ ngày 01/01/1997 cho đến nay.
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa quy
định mục đích và những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự tại
chương đầu tiên nhưng không có điều luật nào quy định về nguyên tắc giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự dành một chương riêng quy định
về việc kiện dân sự (Chương VII - Trong phần những quy định chung). Bên
cạnh đó, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn được quy định
thông qua việc quy định về người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Cụ thể:
Điều 77 quy định:
Nếu người bị hại chịu thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội của
bị cáo thì có quyền nộp đơn kiện dân sự trong quá trình tố tụng hình
sự. Nếu gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, tập thể thì khi khởi tố,
Viện kiểm sát nhân dân có thể khởi tố vụ kiện dân sự, khi cần Tòa án
nhân dân có thể niêm phong hoặc tịch biên tài sản của bị cáo [59].
Điều 78 quy định: "Việc kiện dân sự phải tiến hành xét xử đồng thời
với vụ án hình sự. Chỉ vì mục đích ngăn chặn của việc quá hạn tạm hoãn
trong khi xét xử án hình sự thì tổ chức tư pháp tương đương sau khi hoàn tất
việc xét xử án hình sự, tiếp tục xét xử vụ án dân sự" [59]. Như vậy, có thể
thấy vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có thể được giải quyết đồng thời với
việc giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, nếu vì việc xét xử vấn đề dân sự mà
vụ án hình sự có nguy cơ bị quá hạn tạm hoãn thì có thể tách vấn đề dân sự ra
để giải quyết sau khi hoàn tất việc xét xử án hình sự.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn được thể hiện thông
qua các quy định về người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người
39. 39
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Luật tố tụng hình sự nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa quy định chủ thể tham gia tố tụng theo các nhóm,
gồm: Các bên đương sự, người đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy
quyền, người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Điều 155 quy định:
Sau khi Kiểm sát viên đọc cáo trạng tại phiên tòa, bị cáo và
bị hại có thể trình bày lập luận của mình về tội phạm bị cáo buộc
trong cáo trạng và kiểm sát viên có thể thẩm vấn bị cáo. Người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan trong vụ án có thể, với sự cho phép của thẩm phán, đặt
câu hỏi đối với bị cáo [59].
Điều 180, Điều 184 cũng đã quy định về quyền kháng cáo của bị cáo,
tư tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ.
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không
quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự thành một nguyên tắc
cơ bản của luật tố tụng hình sự nhưng bằng những quy định cụ thể thì luật này
cũng đã quy định về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của nƣớc Cộng hòa Pháp
Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp được Nghị viện ban
hành theo Luật số 57-1426 ngày 31/12/1957 và có hiệu lực thi hành vào năm
1958. Đến nay đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần theo Luật ngày 04-1, Luật
10-8 và Luật 24/8/1993, Luật ngày 02/2/1995. Bộ luật gồm 803 điều, chia
thành 05 quyển.
Pháp luật tố tụng hình sự nước Pháp không quy định giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình
sự. Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định tại các Thiên, chương,
điều luật cụ thể, như: Tại Thiên mở đầu quy định "Quyền công tố và quyền
40. 40
kiện về dân sự"; mục 2 chương I Thiên III quyển thứ nhất quy định về
"Nguyên đơn dân sự và hiệu lực của việc người bị hại đưa đơn yêu cầu bồi
thường thiệt hại" (từ Điều 85 đến Điều 91); mục 3 chương VII Thiên I quyển
thứ hai "Quyết định về phần dân sự" (từ Điều 371 đến Điều 375); Thiên XIV
quyển thứ tư quy định " Quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại của người bị thiệt
hại do hành vi phạm pháp gây ra" (từ Điều 703.3 đến Điều 706.15); Tiết 2
mục 4 chương I thiên II quyển thứ hai quy định "Việc xin đứng nguyên đơn
dân sự và hiệu lực của việc xin đứng nguyên đơn dân sự" (từ Điều 418 đến
Điều 426) và tại một số điều, khoản riêng lẻ khác như Điều 497, Điều 546
quy định về quyền kháng cáo của nguyên đơn dân sự, người phải chịu trách
nhiệm dân sự đối với phần bản án có liên quan đến các lợi ích dân sự.
Có thể nói, Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp là một bộ luật đồ sộ,
quy định khá chi tiết về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, như:
Tại Điều 3 quy định:
Có thể thực hiện đồng thời quyền khởi kiện về dân sự và
quyền công tố trước cùng một Tòa án. Có thể kiện về dân sự đối
với tất cả các thiệt hại vật chất, thể xác cũng như tinh thần do hành
vi bị truy tố gây ra. Điều luật này thể hiện người bị thiệt hại hay
nguyên đơn dân sự có quyền kiện dân sự đối với các thiệt hại về vật
chất, tinh thần và thể xác do hành vi phạm tội gây ra tại tòa hình sự,
điều này đồng nghĩa với việc kiện dân sự có thể được giải quyết
cùng với việc xét xử về hình sự [18].
Ngoài ra, việc tách phần dân sự trong vụ án hình sự ra để giải quyết
riêng bằng một vụ án dân sự có thể được thực hiện. Theo quy định tại Điều 4
thì: "Cũng có thể thực hiện quyền khởi kiện dân sự mà không cần khởi tố hình
sự. Tuy nhiên phần dân sự của vụ án sẽ chưa được xét xử chừng nào phần
hình sự của vụ án chưa được xét xử xong, nếu đã khởi tố hình sự" [18]. Nếu
trường hợp vụ án đã khởi tố hình sự thì vấn đề dân sự phải đợi Tòa án xét xử
41. 41
xong phần hình sự thì mới được xét xử phần dân sự, trường hợp phần dân sự
được khởi kiện trước Tòa dân sự có thẩm quyền thì không được kiện trước
Tòa hình sự, trừ trường hợp Viện Công tố đã khởi tố hình sự trước khi Tòa án
dân sự ra bản án xét xử về nội dung.
Điều 85 quy định về khái niệm nguyên đơn dân sự như sau: "Người bị
thiệt hại do trọng tội hoặc khinh tội gây ra có đơn gửi dự thẩm có thẩm quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại là nguyên đơn dân sự" [18]. Nguyên đơn dân sự
có quyền gửi đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại vào bất cứ giai đoạn nào của
quá trình điều tra. Trường hợp dự thẩm không có quyền yêu cầu giải quyết
bồi thường thiệt hại của nguyên đơn dân sự thì sau khi có kết luận của Viện
công tố dự thẩm phải ra quyết định chuyển đơn xin yêu cầu bồi thường thiệt
hại của nguyên đơn dân sự tới cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, tất cả những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra bao gồm cả người
bị hại và người có quyền lợi liên quan đều có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại và khi họ có đơn xin đứng nguyên đơn dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt
hại thì được xác định là nguyên đơn dân sự. Điều 706-12 quy định:
Trong mọi giai đoạn tố tụng, nếu người bị hại hoặc người có
quyền và lợi ích liên quan xin đứng nguyên đơn dân sự trước tòa
hình sự hoặc kiện những người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại
thì phải nói rõ là đã nộp đơn lên ủy ban quy định tại Điều 706-4 và
ủy ban này có quyết định cấp tiền bồi thường hay không [18].
Bộ luật này cũng đã đề cập đến quyền kháng cáo của những chủ thể
tham gia tố tụng liên quan đến trách nhiệm dân sự như: bị cáo, người phải
chịu trách nhiệm dân sự có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến các
lợi ích dân sự và việc bồi thường thiệt hại; nguyên đơn dân sự có quyền kháng
cáo về phần lợi ích dân sự của mình.
Quyết định về phần dân sự trong vụ án hình sự sẽ được thực hiện sau
khi đã ra quyết định về phần hình sự, việc xem xét, quyết định về phần dân sự
42. 42
tuân theo một thủ tục khác, đơn giản hơn, cụ thể theo quy định tại Điều 371:
"Những người bị kết án trong cùng một trọng tội có nghĩa vụ liên đới trong
việc bồi hoàn và bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, Tòa án có thể quyết định buộc
bị cáo phải chịu trách nhiệm liên đới cùng với đồng phạm và tòng phạm trong
việc nộp tiền phạt" [18].
Đối với các vụ án được xét xử tại Tòa tiểu hình thì người bị thiệt hại
có quyền xin đứng nguyên đơn dân sự trước và tại phiên tòa. Việc xin đứng
nguyên đơn dân sự phải được thực hiện trước khi Viện công tố trình bày các
yêu cầu về nội dung hoặc Tòa án đã ra quyết định hoãn tuyên hình phạt thì
được thực hiện trước khi Viện công tố trình bày các yêu cầu về hình phạt.
Bộ luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp không quy định giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự thành một nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên,
việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định tại các điều
luật cụ thể về chủ thể tham gia tố tụng là nguyên đơn dân sự, bị cáo, người
phải chịu trách nhiệm dân sự, quyền làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại, thủ
tục xem xét phần dân sự trong vụ án hình sự...
1.4.4. Luật Điều tra và tố tụng hình sự của Vƣơng quốc Anh
Luật Điều tra và Tố tụng hình sự của Vương quốc Anh được Nữ
hoàng thông qua với sự tư vấn và đồng thuận của các nghị sĩ thuộc cả thượng
viện và Hạ viện ngày 04/7/1996, luật này quy định về điều tra hình sự và tố
tụng hình sự.
Kết cấu của luật khá đồ sộ nhưng không quy định thành các điều luật
cụ thể mà toàn bộ nội dung được chia thành 7 phần chính và các phần phụ
lục, cụ thể: Phần 1 - Tiết lộ; phần 2 - Điều tra hình sự; phần 3 - Xét hỏi sơ bộ;
phần 4 - Phán quyết; phần 5 - Đưa vụ án ra xét xử chuyển giao; phần 6 - Tòa
án cảnh sát; phần 7 - Những quy định chung. Phần phụ lục gồm 05 phụ lục;
Phụ lục 1 - Xét hỏi sơ bộ tại tòa cảnh sát; phụ lục 2 - Tuyên bố và ghi chép;
43. 43
phụ lục 3 - Lừa đảo; phụ lục 4 - Cải tiến áp dụng cho Bắc Ailen; phụ lục 5 -
Hủy bỏ.
Trong Luật Điều tra và tố tụng hình sự của Vương quốc Anh không có
phần nào hoặc phụ lục nào quy định về trình tự thủ tục giải quyết các vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự, không có quy định nào nói về nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích dân sự liên quan trong vụ án hình sự.
Như vậy, Luật này không quy định, đề cập đến việc giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự mà chỉ có các quy định thuần túy về điều tra hình sự và tố
tụng hình sự.
Tóm lại: Qua việc nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy: Các Bộ luật Tố tụng hình sự của các
nước trên thế giới không quy định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Ở các nước theo hệ
thống pháp luật Common Law mà đại diện điển hình là Vương quốc Anh có
sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật về hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng và
pháp luật về hình sự nên vấn đề dân sự phát sinh khi có hành vi phạm tội
không được giải quyết theo luật tố tụng hình sự mà được giải quyết theo một
vụ kiện dân sự khác, theo đó Tòa án không xét xử dân sự và hình sự cùng một
lúc, hai việc xét xử dân và hình phải tách biệt nhau, bởi họ quan niệm rằng,
tất cả những tội phạm là hành vi chống lại nhà nước phải xét xử riêng.
Tuy nhiên, pháp luật của một số nước khác như Liên bang Nga,
Trung Quốc và điển hình là Cộng hòa Pháp lại thừa nhận và cho phép khi xét
xử một vụ án hình sự thì giải quyết vấn đề dân sự phát sinh do hành vi phạm
tội gây ra trong cùng vụ án hình sự đó hoặc có thể tách vấn đề dân sự ra để
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự giống như luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Việc tách ra để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo thủ
tục tố tụng dân sự hay xét xử vụ án hình sự đồng thời giải quyết luôn vấn đề