SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ VIỆT HÀ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ VIỆT HÀ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
TrÇn ThÞ ViÖt Hµ
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
7
1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của
luật sư
12
1.2.1. Khái niệm luật sư 12
1.2.2. khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 15
1.2.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam 20
1.2.4. Ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 25
1.3. Mô hình trợ giúp pháp lý của luật sư ở một số nước trên thế giới 27
1.4.1. Tập thể luật sư của Ấn Độ 29
1.4.2. Quỹ đoàn luật sư thành phố tại thành phố New York 30
1.4.3. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản 30
1.4.4. Một số đặc điểm chung về luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý
trên thế giới
31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
33
2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
33
2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987
33
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ năm 1987 đến năm 2006
36
5
2.1.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ năm 2006 đến nay
41
2.2. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 43
2.2.1. Số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý 43
2.2.2. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư 46
2.2.3. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 49
2.2.4. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư 51
2.2.5. Các hình thức trợ giúp pháp lý khác 52
2.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của
luật sư
53
2.3.1. Những ưu điểm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 53
2.3.2. Những bất cập, hạn chế về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 55
2.3.3. Nguyên nhân 57
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
60
3.1. Các yêu cầu về bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư ở Việt Nam
60
3.1.1. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước Pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
60
3.1.2. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư phải quán triệt quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp
62
3.1.3. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư ở Việt Nam phải gắn liền với quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển trợ giúp pháp lý
63
3.1.4. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư ở Việt Nam gắn liền với chủ trương của Đảng và Nhà
nước về xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý
64
6
3.1.5. Bảo đảm, tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở
Việt Nam phải tương thích với hoạt động trợ giúp pháp lý của
các luật sư trong khu vực và trên thế giới
68
3.2. Những giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
69
3.2.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý 69
3.2.2. Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp
lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân
nói riêng
71
3.2.3. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ luật sư tham gia trợ
giúp pháp lý
72
3.2.4. Xây dựng nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư 73
3.2.5. Hoàn thiện chế độ chính sách đối với luật sư thực hiện trợ
giúp pháp lý
82
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý 83
3.2.7. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư
84
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc "cần phải mở rộng loại hình
tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng
lớp nhân dân... nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy
tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật", ngày
06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc
thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên và có hiệu lực cao nhất về lĩnh vực trợ giúp
pháp lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống trợ giúp
pháp lý ở nước ta.
Công tác trợ giúp pháp lý sau 17 năm hình thành và phát triển đã đạt
được những kết quả quan trọng: 63 Trung tâm, 199 Chi nhánh với 1.244 biên
chế trong đó có 483 là Trợ giúp viên pháp lý (trung bình mỗi Trung tâm có 08
Trợ giúp viên pháp lý) và 8.980 cộng tác viên trong đó có 1.055 luật sư chiếm
11,7%. Từ khi mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được thành lập
đến nay, tổng số vụ việc trợ giúp pháp lý đã được thực hiện là là 1.825.178 vụ
việc trợ giúp được cho 1.891.425 đối tượng, trung bình mỗi năm đã có trên
100 nghìn vụ việc được thực hiện, để đáp ứng được nhu cầu này thì số lượng
Trợ giúp viên pháp lý hiện nay của các Trung tâm là không đủ đặc biệt là số
lượng vụ việc tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng của người được trợ
giúp pháp lý ngày càng tăng. Không chỉ dừng lại ở việc tranh tụng tại Tòa án
đối với các vụ án hình sự, hoạt động tham gia tố tụng của tổ chức trợ giúp
pháp lý còn được hiểu là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
đương sự trong vụ án dân sự, lao động... đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW: "Nghiên cứu thực hiện và phát triển
các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ
8
động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình" [19]. Việc có mặt của Trợ giúp viên pháp lý hay luật sư là cộng tác
viên của tổ chức trợ giúp pháp lý tại phiên tòa, trong quá trình tố tụng là điều
vô cùng cần thiết nhằm góp phần đem lại những phán quyết phù hợp với pháp
luật cho mỗi người dân đặc biệt là những nhóm người yếu thế trong xã hội.
Đồng thời, luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý đã thể hiện được chức
năng xã hội nghề nghiệp của luật sư trong việc góp phần bảo vệ công lý, các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ thực tiễn hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế, yếu kém làm ảnh
hưởng đến hiệu quả của hoạt động này. Vì vậy, cần nghiên cứu một cách đầy
đủ các yếu tố tác động hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư như: số lượng
luật sư nói chung và số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý tại một số địa
phương còn thấp, chất lượng luật sư chưa cao, kinh phí bảo đảm cho hoạt
động này còn nhiều thiếu thốn và hạn chế chưa tương xứng với nhiệm vụ...
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, việc nghiên cứu đề tài: "Hoạt động
trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay" là yêu cầu khách quan,
cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của
luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó
ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm. Việc ban hành chính sách trợ giúp pháp
lý và triển khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc
của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên
phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát
9
triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm
nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong
xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật.
Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ
và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau:
Luận án tiến sĩ Luật học "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam trong điều kiện đổi mới" của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp
luật về trợ giúp pháp lý; thực trạng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý và
phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý trong
điều kiện đổi mới.
Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện trợ giúp pháp lý, từ
đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ
giúp pháp lý.
Luận văn thạc sĩ Luật học "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý" của
Phan Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
quyền được trợ giúp pháp lý và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ
giúp pháp lý của người dân.
Luận văn thạc sĩ Luật học "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở" của
Đặng Thị Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các
mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô
hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở.
Luận văn thạc sĩ Luật học "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam" của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn
vấn đề chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như làm rõ thực trạng chất
10
lượng trợ giúp pháp lý hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng
trợ giúp pháp lý.
Luận văn thạc sĩ Luật học "Pháp luật về Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt
Nam" của Nguyễn Thị Mận. Luận văn nghiên cứu lý luận, pháp lý về trợ giúp
pháp lý và tổ chức, hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam từ đó làm
rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa của Quỹ, đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao hoạt động của Quỹ.
Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của
hoạt động trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, đến nay vấn đề đánh giá vị trí, vai trò
của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy,
với đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư ở Việt Nam hiện nay",
tác giả luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về
mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp, định hướng phát triển hoạt
động trợ giúp pháp lý của luật sư.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó
đánh giá chính xác nhất về giá trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý
để từ đó đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt
động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới.
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây:
- Các khái niệm, đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ
giúp pháp lý của luật sư.
- Phân tích đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư ở Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
11
- Nghiên cứu quan điểm đổi mới, hoàn thiện hoạt động trợ giú pháp lý
của luật sư ở Việt Nam. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm nhiều khái
niệm, đối tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ chức, quản lý nhà nước...
về trợ giúp pháp lý, do đó cần nhiều công trình nghiên cứ với quy mô và thời
gian thích hợp. Về phần đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động trợ
giúp pháp lý do luật sư thực hiện với những vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn,
điều kiện để luật sư có thể tham gia thực hiện trợ giúp pháp, cũng như các
quyền, nghĩa vụ, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư khi thực hiện trợ
giúp pháp lý. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở cơ sở lý luận và thực tiễn,
thực trạng, phương hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và pháp
luật về luật sư để bảo đảm cho vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp
pháp lý đạt kết quả tốt nhất.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của
Đảng về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng.
Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Luật sư và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời
sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu
thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về vai trò của
luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải
12
pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về cơ
sở lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động trợ giúp pháp
lý của luật sư nói riêng; đánh giá đúng những kết quả đã đạt được của luật sư
trong hoạt động trợ giúp pháp lý, cũng như phát hiện những khó khăn, hạn
chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hoạt động này của luật sư; từ đó đưa ra những
định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động này.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc xây dựng chính sách liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động trợ giúp pháp lý của
luật sư.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư
trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
1.1. KHÁI NIỆM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nguồn gốc từ tiếng Anh là "legal aid"
được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20. Theo đó "legal aid"
được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và thuật ngữ khác nhau. Theo Từ
điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997
thì "legal aid" có nghĩa là "trợ cấp pháp lý". Trong Từ điển pháp luật Anh -
Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal
aid" trong cụm từ "legal aid schem" (kế hoạch bảo trợ tư pháp) có nghĩa là
"bảo trợ tư pháp". Trong một số tài liệu khác còn dịch là "hỗ trợ pháp luật",
"hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp". Từ điển Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ
học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, 1999) không đưa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về
cụm từ "legal aid" mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là "lấy
tiền từ công quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện pháp lý".
Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" là một cụm từ ghép "trợ giúp" và "pháp lý".
Theo Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [44, tr. 767],
pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật" [44, tr. 1045]. Theo Từ điển Từ và
Ngữ Việt Nam, thì "trợ giúp" là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc
vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn "pháp lý" là
"nguyên lý của pháp luật" [24, tr. 1431]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thì "trợ
giúp" được hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại
cho ai cái gì, lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý" được hiểu
là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận; theo
Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, 2006, thì pháp lý
14
là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một
quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt
buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm
lý luận về pháp luật [45, tr. 606]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay "hỗ
trợ" cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp
đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề
mà họ đang cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý.
Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với thuật ngữ
"trợ giúp pháp lý" nhưng thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nghĩa chung nhất, rõ
nhất nêu bật được sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trường hợp có khó khăn
về mặt pháp lý.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài
liệu nghiên cứu từ năm 1995, bắt đầu từ Đề án nghiên cứu về hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam của Bộ Tư pháp. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp
pháp lý" được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ
chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện
hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997,
thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, các văn bản pháp luật hướng dẫn
thực hiện Quyết định 734/TTg và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực
khác cũng đề cập đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" như Pháp lệnh Luật sư năm
2001, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết định số
356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp… Ngoài ra,
trong nhiều văn bản, chính sách khác của Nhà nước đã nhắc đến thuật ngữ
"Trợ giúp pháp lý". Đặc biệt, tại Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội
thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã đưa ra
khái niệm về trợ giúp pháp lý như sau:
15
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp
và vi phạm pháp luật [35].
Đồng thời, qua tham khảo một số khái niệm về trợ giúp pháp lý của
một số nước trên thế giới, có thể thấy đa số các nhà quản lý cũng như các nhà
xây dựng pháp luật đều đưa ra khái niệm về trợ giúp pháp lý trên cơ sở lý luận
về dân chủ, nhân quyền và bảo đảm quyền con người, họ cho rằng trợ giúp
pháp lý chính là một biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho nhóm người yếu
thế trong xã hội không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Tuy về
ngữ nghĩa, nội dung và cách biểu đạt của mỗi quốc gia khác nhau nhưng trên
cơ bản khái niệm về trợ giúp pháp lý đều hàm chứa tính chất chung của trợ
giúp pháp lý là hoạt động mang tính kinh tế, xã hội và nhân đạo.
Với những phân tích về nội hàm thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nêu trên,
trợ giúp pháp lý có một số thuộc tính như sau:
- Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc thù. Trợ giúp
pháp lý mang những đặc điểm chung của một loại hình dịch vụ pháp lý (về
chủ thể thực hiện, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện; về
mục đích, đối tượng: đáp ứng nhu cầu cần giúp đỡ về pháp luật của một bộ
phận người dân; về nội dung dịch vụ cung cấp: pháp luật; về quy trình thực
hiện: trên cơ sở các quy định của pháp luật). Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý có
tính đặc thù, đó là: chủ thể thực hiện bao gồm Nhà nước và xã hội, trong đó
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt tổ chức thực hiện; về mục đích, đối tượng: giúp
đỡ về pháp luật cho những người có hoàn cảnh đặc biệt không đủ khả năng để
16
sử dụng các dịch vụ pháp lý thông thường như: người nghèo, người có công
với cách mạng, người khuyết tật, trẻ em, người già cô đơn không nơi nương
tựa…; về nội dung dịch vụ cung cấp: giúp đỡ về pháp luật thông qua các hình
thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ
thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu
nại…; về quy trình thực hiện: trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của pháp
luật, nhằm bảo đảm chất lượng và mục đích của nó là giúp đỡ, hỗ trợ mà
không phải là cung cấp dịch vụ có tính chất ngang giá; miễn hoặc giảm phí).
Tính chất đặc thù của trợ giúp pháp lý thể hiện rõ nét nhất đó là trợ giúp pháp
lý không phải là dịch vụ pháp lý có tính chất ngang giá, thỏa thuận giữa chủ
thể cung cấp và đối tượng cung cấp mà nó có mục đích giúp đỡ, hỗ trợ cho
những người có hoàn cảnh đặc biệt (không có khả năng tiếp cận với dịch vụ
pháp lý có thu phí) tiếp cận và sử dụng pháp luật để nâng cao nhận thức pháp
luật, tự bảo vệ hoặc được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhằm bảo đảm
công bằng trong tiếp cận pháp luật giữa nhóm người này với những người
khác có điều kiện kinh tế trong xã hội. Vì vậy, so với dịch vụ pháp lý chung,
trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực pháp luật trợ giúp, tổ chức,
người thực hiện hẹp hơn.
Ở Việt Nam, cách tiếp cận của Luật Trợ giúp pháp lý về khái niệm trợ
giúp pháp lý cũng phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử hình
thành và phát triển trợ giúp pháp lý trên thế giới. Đó là giúp đỡ cho những đối
tượng yếu thế trong xã hội (chủ yếu về kinh tế) tiếp cận với dịch vụ pháp lý
để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đồi
thời, cũng thể hiện rõ đặc thù của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Hoạt động trợ
giúp pháp lý mở rộng và vươn tới không chỉ người nghèo mà còn đối với
người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật,
trẻ em không nơi nương tựa, người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước
17
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những vụ việc về tố tụng (hình sự, dân
sự, lao động, đất đai…) liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp và thiết thực
của người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ không có luật sư đại diện,
bào chữa để bảo vệ hoặc trong những vụ việc do cơ quan, cán bộ nhà nước
giải quyết chưa thỏa đáng, có vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền, lợi ích của người dân đã được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình
thức. Ngoài ra, trợ giúp pháp lý ở Việt Nam còn có điểm đặc thù khác là kiến
nghị thi hành pháp luật (gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc trợ giúp pháp lý,
kiến nghị công vụ và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp
luật). Đối tượng thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí không phải trả bất kỳ
một khoản lệ phí nào, kể cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và thuê luật sư.
Các chi phí sẽ do ngân sách Nhàn ước bảo đảm hoặc được huy động trong
cộng đồng, sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và quốc tế thông qua các Dự
án hoặc Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam. Trợ giúp pháp lý miễn phí đã trở
thành nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý được quy định trong Luật Trợ
giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn
sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có hoàn
cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự
hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp
phần tạo sự công bằng trong xã hội.
Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý
được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt,
thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình
đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó,
góp phần thiết lập sự ổn định về chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan
hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân và chế
độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà
18
nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng
đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội.
Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ, hỗ trợ về
các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được Trợ giúp pháp lý
theo quy định, góp phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc
sống tạo cơ hội tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. Trợ giúp
pháp lý ở một số nước nhấn mạnh đến tính pháp lý như Hàn Quốc: Trợ giúp
pháp lý là việc một luật sư hoặc một cán bộ pháp lý nhà nước cung cấp dịch
vụ tư vấn pháp luật, đại diện hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến
pháp luật. Ở Anh, xứ Wales, Trợ giúp pháp lý được hiểu là giúp đỡ cho
những người không có khả năng thanh toán cho các chi trả cho việc tư vấn, hỗ
trợ và đại diện pháp lý; ở Đức, trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ một phần hoặc
toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi
phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước Tòa án.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ CỦA LUẬT SƯ
1.2.1. Khái niệm luật sư
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, khi xã
hội được phân chia thành giai cấp thì xuất hiện đấu tranh giai cấp nhằm bảo
vệ quyền cơ bản của con người. Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi viết bản tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong
Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (1776) và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789) những giá trị bền
vững: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
19
Xuất phát từ nguyên lý, ở đâu có sự buộc tội, hoặc sự khởi kiện trước
cơ quan tư pháp thì ở đó có sự gỡ tội, sự chống lại việc khởi kiện; khi có bên
bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì cũng phải có bên bảo vệ cho người bị
hại; khi có bên nguyên đơn khởi kiện về vấn đề dân sự, hành chính thì bao giờ
cũng có bên bị đơn dân sự, hoặc những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án. Mặt khác, trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự, bên buộc tội
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người tiến hành tố tụng) là
chuyên gia buộc tội dày dạn kinh nghiệm thực tiễn với khả năng hùng biện,
am hiểu tường tận pháp luật, là người đại diện cho quyền lực của nhà nước có
đủ khả năng pháp lý. Ngược lại, bị can, bị cáo, và những người tham gia tố
tụng có quyền lợi pháp lý khác luôn ở địa vị bất lợi, là người có trình độ văn
hóa thấp, vị trí xã hội thấp kém, không hiểu hoặc hiểu biết pháp luật hạn chế,
kinh nghiệm tham gia tố tụng chưa có, tâm trạng bất ổn định, lo lắng, bị sức
ép về mặt tâm lý, không quen nói trước đám đông v.v... Chính vì thế, cần thiết
phải có một tổ chức, mà pháp luật quy định là tổ chức hành nghề Luật sư bảo
vệ quyền lợi của bị can, bị cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương
sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Bằng hoạt
động của mình, tổ chức luật sư góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức; góp
phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật; góp
phần thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa; giáo dục công dân tuân theo Hiến pháp, pháp luật,
tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay theo quy định của pháp luật thì luật sư là một chức danh tư
pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo
quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy
quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước
trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Tại Điều 2 Luật Luật sư
20
năm 2006 quy định "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức" [34]. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10
Luật Luật sư như sau "Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân Luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức
khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [34]. Ngoài ra,
người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư muốn hành
nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật và gia nhập một Đoàn luật sư.
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những
yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì việc hành nghề luật sư còn
phải tuân theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng
của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề.
Vì vậy, xét về bản chất thì luật sư có những tính chất cơ bản như sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: nói đến trợ giúp là nói đến sự giúp đỡ,
bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị trí thấp kém.
Những người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái
pháp luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa
thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính chất này thể
hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo
lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc
hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để
từ đó họ biết cách tháo gỡ những vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và
đạo đức, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện pháp nhằm phản bác lại lý
lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp
lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem
21
xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề
xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
1.2.2. khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Thuật ngữ "dịch vụ" ra đời cùng với sự xuất hiện của kinh tế hàng
hóa, dịch vụ là "con đẻ" của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Khi kinh tế hàng
hóa phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sự lưu thông trôi chảy, liên tục để
thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ càng phát triển.
Theo đó, dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các
sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc
chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả các nhu
cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Như vậy, có thể hiểu
rằng, những hoạt động mang tính tự phục vụ thì không phải là dịch vụ. Để
được gọi là một hoạt động dịch vụ thì sản phẩm của nó cần có sự trao đổi, có
nghĩa là sản phẩm của hoạt động dịch vụ là sự phục vụ và sự phục vụ đó phải
là hàng hóa.
Với định nghĩa nêu trên, dịch vụ pháp lý được hiểu là sự trao đổi các
sản phẩm mang tính pháp lý (hàng hóa) giữa chủ thể cung cấp và đối tượng
phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu giúp đỡ pháp lý của các đối tượng phục vụ.
Sản phẩm mang tính pháp lý cũng có đặc thù, nó không phải là sản phẩm vật
chất nên việc trao đổi cũng không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu mà nó là
những công việc, việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu được nâng cao nhận thức
pháp luật, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng được phục vụ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" ra đời khi Đảng và Nhà nước
ta thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được ghi
nhận trong Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, Thông tư số 1119-QLTPK
ngày 24/12/1987 của Bộ Tư pháp về công tác dịch vụ pháp lý và Công văn số
870/CV/DVPL ngày 26/10/1989 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác dịch vụ
22
pháp lý. Theo các văn bản này, dịch vụ pháp lý được hiểu là hoạt động của
luật sư tham gia tố tụng (đại diện, bào chữa) hình sự, dân sự, hôn nhân, gia
đình, lao động; tư vấn pháp lý và một số dịch vụ pháp lý khác (soạn thảo đơn
từ, đánh máy…) cho các tổ chức và cá nhân.
Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định về "dịch vụ pháp lý" được
quy định khái quát tại Điều 1 Pháp lệnh này, theo đó, dịch vụ pháp lý bao gồm
hoạt động tố tụng, tư vấn pháp lý và dịch vụ pháp lý khác. Và quy định này được
cụ thể hóa tại Điều 14 của Pháp lệnh, phạm vi hành nghề luật sư bao gồm:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can,
bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là người
đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính; tham gia
tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn pháp luật, soạn
thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; đại diện
theo ủy quyền của cá nhân, tổ chức để thực hiện các vông việc có
liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy
định của pháp luật [40].
Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, dịch vụ pháp
lý bao gồm: dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp (tham gia tố tụng); dịch vụ
pháp lý trong lĩnh vực tố tụng trọng tài; tư vấn pháp luật; đại diện theo ủy
quyền về các công việc có liên quan đến pháp luật; các dịch vụ pháp lý khác.
Đến Luật Luật sư năm 2006, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" đã được quy
định thành một điều luật riêng, theo Điều 4 của Luật Luật sư: "Dịch vụ pháp
lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố
tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác" [34]. Theo Điều 22 Luật
Luật sư, phạm vi hành nghề của luật sư bao gồm:
23
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu
cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; Thực hiện tư vấn
pháp luật; Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các
công việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp lý
khác theo quy định của Luật này [34].
Như vậy, kể từ khi ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 cho
đến khi Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội thông qua, pháp luật chưa đưa
ra một định nghĩa đầy đủ, cũng như chỉ ra nội hàm cụ thể về khái niệm "dịch
vụ pháp lý" mà chỉ sử dụng phương pháp liệt kê để xác định các hoạt động cụ
thể được coi là dịch vụ pháp lý.
Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý. Tại Điều 3 Luật
này quy định:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp
và vi phạm pháp luật [35].
Theo đó, điều luật này đưa ra đặc trưng của hoạt động trợ giúp pháp lý
mà chưa đứa ra cách hiểu hay định nghĩa chính thức về thuật ngữ "dịch vụ
pháp lý" và "dịch vụ pháp lý miễn phí". Theo Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý
24
"dịch vụ pháp lý" theo quy định của luật này bao gồm: tư vấn pháp luật; tham
gia tố tụng; đại diện ngoài tố tụng; hòa giải; thực hiện những công việc liên
quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định
của luật này. Điều 5 của Luật Trợ giúp pháp lý cũng giới hạn việc cung cấp
dịch vụ pháp lý miến phí không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Như
vậy, quan niệm về dịch vụ pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý
có phạm vi hẹp hơn theo quy định của Luật Luật sư.
Có quan niệm cho rằng:
Dịch vụ pháp lý với khái niệm nội hàm của nó có thể hiểu là tổng thể
các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý. Theo đó, dịch vụ tư
vấn pháp luật được hiểu là hoạt động cung cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp
của các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu
(gọi chung là khách hàng). Còn dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là chủ thể
cung cấp dịch vụ sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách
hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng để thực
hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ khách hàng theo đúng
quy định của pháp luật.
Quan điểm khác cho rằng, "dịch vụ pháp lý và dịch vụ của luật sư có
phải là hai khái niệm khác nhau hay không, vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.
Song ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay nên được hiểu như nhau" [38].
Các quy định của pháp luật về luật sư và các quan niệm trên đây
khẳng định dịch vụ pháp lý là dịch vụ của luật sư hay nói cách khác, chỉ có
luật sư mới được cung cấp dịch vụ pháp lý. Theo quy định của Luật Trợ giúp
pháp lý thì dịch vụ pháp lý miễn phí là hoạt động của các chủ thể nhất định
theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý nhằm cung cấp cho người
nghèo, đối tượng chính sách các dịch vụ pháp lý cụ thể trong các vấn đề liên
quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ và không thu phí.
25
Từ những khái niệm trên xem xét một cách toàn diện về hoạt động trợ
giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, có thể rút ra
khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam như sau:
Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam là tổng thể những công
việc, nhiệm vụ của luật sư thực hiện để người được trợ giúp pháp lý tiếp cận
và sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí nhằm thỏa mãn nhu cầu nâng cao nhận
thức pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng
chính sách, đồng thời góp phần bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ đúng pháp luật.
Khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trên đã đề cập
một cách toàn diện về những vấn đề liên quan đến luật sư thực hiện trợ giúp
pháp lý, cụ thể:
Thứ nhất, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý người có kiến thức pháp
luật, bởi luật sư là người đã có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật
sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư.
Thứ hai, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải là người có phẩm chất
đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Bởi vì,
khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối tượng, nhiều đối tượng bức xúc với
công việc của mình khi không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét thấu tình đạt lý hoặc do không hiểu biết về pháp luật mà nghĩ là
quyền lợi của mình đang bị xâm hại có thể có những hành động quá khích xúc
phạm đến luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý và đặc biệt là luật sư khi thực
hiện trợ giúp pháp lý đều thực hiện miễn phí. Vì vậy, người có phẩm chất đạo
đức trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật sẽ giúp cho
người được trợ giúp pháp lý tin tưởng và trình bày đúng vụ việc.
Thứ ba, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trực tiếp tư vấn, kiến
nghị, đại diện, bào chữa cho đối tượng hoặc gián tiếp trợ giúp pháp lý cho đối
tượng thông qua nhận vụ việc về nhà làm, soạn thảo văn bản hướng dẫn để
gửi cho đối tượng được trợ giúp pháp lý.
26
Thứ tư, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện tư vấn, đại diện,
bào chữa cho đối tượng ở tất cả các lĩnh vực pháp luật.
Thứ năm, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải chịu trách nhiệm về
vụ việc đã trợ giúp cho đối tượng, đây là trách nhiệm cá nhân và cũng là đạo
đức nghề nghiệp, đòi hỏi luật sư phải tuân thủ triệt để.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam
1.2.3.1. Chủ thể thực hiện
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng yếu thế
trong xã hội thông qua các hình thức khác nhau như sau: thứ nhất, thông qua
Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước với tư cách là cộng tác viên; thứ hai,
cá nhân luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề luật sư
của mình; thứ ba, luật sư phối hợp với các tổ chức xã hội khác như: Hội luật
gia, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, các
tổ chức phi chính phủ để thực hiện trợ giúp pháp lý; thứ tư, luật sư thực hiện
trợ giúp pháp lý theo Khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
1.2.3.2. Đối tượng phục vụ
Bằng các con đường tiếp cận trợ giúp pháp lý khác nhau, do vậy đối tượng
nhận được sự trợ giúp pháp lý từ phía luật sư cũng rất đa dạng và khác nhau.
- Đối với nhóm luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua các Trung
tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thì đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo
quy định Điều 3 của Luật Trợ giúp pháp lý bao gồm: người nghèo, người có
công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi
nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn; người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên; phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, của tội
phạm mua bán người… Ngoài ra, trong khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế,
các đối tượng khác cũng được hưởng trợ giúp pháp lý như: tất cả người chưa
thành niên không phân biệt trẻ em hay người chưa thành niên từ 16 tuổi trở
lên đến dưới 18 tuổi, người mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng…
27
- Đối với nhóm luật sư tự thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức
hành nghề luật sư, đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí thường không phân
biệt đối tượng này hay đối tượng kia mới được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Luật sư nói riêng và tổ chức hành nghề luật sư nói chung tự quyết định đối
tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo chính sách của từng tổ chức hành
nghề luật sư mà không phụ thuộc vào quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.
- Đối với nhóm luật sư tham gia trợ giúp pháp lý thông qua các tổ
chức xã hội: đối tượng nhận trợ giúp pháp lý phụ thuộc vào tổ chức xã hội đó
đang phục vụ hoặc quan tâm tới nhóm đối tượng nào. Ví dụ như các Trung
tâm tư vấn pháp luật của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thì đối tượng
chính là người lao động đang làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp...
- Đối với nhóm luật sư thông qua tòa án thực hiện trợ giúp pháp lý với
tư cách là luật sư chỉ định trong các phiên tòa hình sự. Theo quy định của
Điều 57 Bộluâ ̣t Tố tụng hình sự quy định các cơ quan tố tụng có trách nhiê ̣m
chỉ định luật sư bào chữa cho bị can , bị cáo phạm tội có khung hình phạt cao
nhất là tử hình , và bị can , bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất.
1.2.3.3. Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
- Không thu lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý: ở Việt
Nam, nguyên tắc đầu tiên của hoạt động trợ giúp pháp lý đó là: "Không thu
phí, lệ phí thù lao từ người được trợ giúp pháp lý". Bên cạnh đó, theo Điều 8
Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi bởi Luật luật sư năm 2012) thì Nhà
nước khuyến khách luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt
động trợ giúp pháp lý miễn phí. Theo nguyên tắc này, khi đến yêu cầu trợ
giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ
phí, thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào. Pháp luật trợ giúp pháp lý cấm tổ
chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý trong đó có
luật sư làm cộng tác viên của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nhận,
28
đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người được trợ giúp pháp
lý, sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp
lý do ngân sách Nhà nước cấp và nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước.
Nhìn chung, hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới chỉ
miễn phí cho một số trường hợp đặc biệt còn phần lớn có thu phí (nhưng ở
mức thấp hơn so với các đối tượng bình thường khác). Ví dụ: ở Singapore
người được trợ giúp pháp lý miễn phí là người có thu nhập bình quân dưới
7.000 USD/năm (trong đó không tính giá trị tài sản là phương tiện kinh
doanh, tranh thiết bị đang sử dụng trong gia đình; người đã trên 60 tuổi có
tiền gửi tiết kiệm dưới 30.000 USD…); ở một số nước như Đức, Anh… đối
với án hình sự, đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí nếu Tòa án tuyên án
là phạm tội phải thanh toán toàn bộ chi phí trợ giúp pháp lý, kể cả tiền thuê
luật sư bào chữa cho đối tượng; ở Anh, Thụy Điển… quy định đối tượng là
nạn nhân của tội phạm nghiêm trọng thì được miễn phí. Nhà nước sẽ trả toàn
bộ các khoản chi phí trợ giúp pháp lý nếu người bị hại thắng kiện, nếu trong
trường hợp ngược lại (người bị hại thua kiện) thì "phải thanh toán toàn bộ chi
phí, kể cả chi phí cho lật sư bào chữa cho nạn nhân" [43, tr. 35].
Còn các đối tượng khác khi được trợ giúp pháp lý đều phải thanh toán
toàn bộ hay một phần chi phí tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của
người đến xin được trợ giúp.
- Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: khi thực hiện trợ giúp pháp
lý bằng các hình thức khác nhau thì luật sư phải trung thực, chí công, vô tư,
tôn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và
không vì mục đích cá nhân làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được trợ giúp pháp lý.
- Sử dụng biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt
nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý: khi thực hiện
29
trợ giúp pháp lý, luật sư phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm, coi
việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý như một vụ việc dịch vụ
pháp lý mà luật sư đó có thu phí. Luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý phải
thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, bằng tất cả
kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư công sức, trí tuệ, không bỏ một công
đoạn nào để tiến hành các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp
pháp lý. Ví dụ: khi tham gia tố tụng, luật sư phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng như gặp gỡ người làm
chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo
vệ tốt nhất cho người được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, mặc dù lợi ích hợp
pháp của người được trợ giúp pháp lý được coi là trên hết nhưng việc trợ giúp
pháp lý của luật sư phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp, không
xúi giục người được trợ giúp pháp lý làm trái với quy định của pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý: trong
quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư phải độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý và quy tắc (là các chuẩn mực về
hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và trách
nhiệm cụ thể của luật sư trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý). Luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nội dung trợ
giúp pháp lý phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý: luật
sư phải chịu trách nhiệm cá nhân về vụ việc trợ giúp pháp lý đã thực hiện
(Phiếu tư vấn phải do mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư
cách tham gia của mình). Do đó, nếu trợ giúp pháp lý sai thì tùy theo mức độ
vi phạm mà luật sư sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp
trợ giúp pháp lý sai, gây thiệt hại cho người được trợ giúp pháp lý thì luật sư
phải bồi thường hoặc chịu trách nhiệm trước pháp luật.
30
- Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của luật sư bao gồm:
Tư vấn pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp
luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý); tham gia
tố tụng (tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp
lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được
trợ giúp pháp lý là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, tham gia tố tụng dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được
trợ giúp pháp lý vụ việc dân sự, vụ án hành chính); đại diện ngoài tố tụng
(được thực hiện cho người được trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; đại diện ngoài tố tụng được thực hiện
trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý); các hình thức trợ
giúp pháp lý khác như: hòa giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ
tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của luật sư.
Ngoài ra, còn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
1.2.3.4. Lĩnh vực được trợ giúp pháp lý
Lĩnh vực được trợ giúp pháp lý bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án
dân sự; pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành
chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi
trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;
pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu
đãi xã hội khác và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình
mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
31
1.2.3.5. Phương thức thực hiện trợ giúp pháp lý
Phương thức thực hiện trợ giúp pháp lý tại trụ sở của các tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức hành nghề luật sư, trợ giúp pháp lý lưu động tại
các xã, phường, thị trấn, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, sinh hoạt chuyên đề
pháp luật, trợ giúp pháp lý thông qua các phương tiện thông tin truyền thông...
Hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện đồng bộ từ khâu truyền
thông, thông tin cho đối tượng được trợ giúp pháp lý biết về quyền được trợ
giúp pháp lý của mình từ đó nâng cao nhận thức về quyền được trợ giúp pháp
lý đến việc triển khai các hoạt động để đối tượng có thể tiếp cận được với các
dịch vụ pháp lý miễn phí (tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động, tổ chức sinh hoạt
Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng) và trọng tâm nhất là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho đối tượng, sau đó còn là khâu đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp
lý để có giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ có chất lượng tốt nhất. Hay
nói cách khác là hoạt động trợ giúp pháp lý còn bao hàm cả việc đề cao quyền
kiểm tra, giám sát, đánh giá của đối tượng được cung cấp dịch vụ miễn phí.
1.2.3.6. Kinh phí thực hiện trợ giúp pháp lý
Việc cung cấp dịch vụ pháp lý của các đối tượng trợ giúp pháp lý
thường là miễn hoặc giảm phí. Ở Việt Nam, dịch vụ này là miễn phí hoàn
toàn. Các chi phí do ngân sách nhà nước bảo đảm (thu gián tiếp thông qua
tiền đóng thuế của người dân) và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ
trợ thông qua các dự án hợp tác quốc tế, Quỹ Trợ giúp pháp lý và các nguồn
hỗ trợ, đóng góp khác từ các tổ chức và cá nhân và tự bản thân các luật sư.
1.2.4. Ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Từ thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian
qua, đã khẳng định được vị trí của luật sư trong hoạt động cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội. Đây là
chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế cũng như nhu cầu của
32
người dân cũng như phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Đối với người nghèo, đối tượng chính sách nói riêng và đối với người
dân nói chung, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư đã góp phần nâng cao
hiểu biết pháp luật cho nhân dân, qua đó giúp họ nhận thức được đầy đủ quyền
và nghĩa vụ của mình, để từ đó có thể tự mình lựa chọn cách ứng xử phù hợp
nhất với các quy định của pháp luật, tránh tình trạng khiếu kiện vượt cấp, tiết
kiệm thời gian và tiền bạc của người dân. Với kiến thức pháp luật có được người
dân có thể tự tin giải quyết phần nào những vướng mắc pháp luật của chính bản
thân mình cũng như những vướng mắc của người thân, từ đó tự giác chấp hành
pháp luật, tuân thủ pháp luật, góp phần bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở,
phát huy tốt vai trò của mình trong việc quản lý Nhà nước và xã hội.
Đối với Nhà nước, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư thể hiện
được vai trò, trách nhiệm của đội ngũ luật sư đối với Nhà nước trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích của công dân thông qua việc giúp Nhà nước giải quyết
những vướng mắc pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những
người thuộc nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội tạo điều kiện cho họ có thể
tiếp cận với công lý tạo sự bình đẳng trong việc thụ hưởng các dịch vụ pháp
lý. Đồng thời, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư cũng góp phần quan
trọng cho sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tư pháp; hỗ trợ cho các cơ
quan nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền
trong việc xem xét giải quyết các vướng mắc pháp luật cho người dân một
cách khách quan, kịp thời, đúng pháp luật tránh sai sót, bất cập trong hoạt
động công vụ và quản lý nhà nước; kịp thời phát hiện và kiến nghị với cơ
quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp với
tình hình thực tế, từ đó giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Đối với xã hội, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư góp phần hướng
dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài
33
do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân và đặc
biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội đối với các chính sách cũng như pháp
luật của Nhà nước. Qua đó góp phần quan trọng vào việc giữ vững trật tự, an
toàn xã hội, ổn định tình hình chính trị, giữ gìn đoàn kết cộng đồng, góp phần
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.3. MÔ HÌNH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Hoạt động trợ giúp pháp lý là một loại trợ giúp tư pháp được đại đa số
các nước trên thế giới áp dụng (hiện nay đã có trên 150 nước). Đây là kết quả
tất yếu của sự phát triển trong xã hội, có thể nói hoạt động trợ giúp pháp lý là
công cụ hữu hiệu của nhà nước để thực hiện nghĩa vụ đối với công dân và
cũng là nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội. Hệ thống pháp luật ngày càng
nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng, vì vậy cần một đội ngũ những
người được đào tạo chuyên sâu và am hiểu về pháp luật cũng như trình tự tố
tụng để giúp cho những công dân không có kiến thức pháp luật cũng như
không có kỹ năng khi đứng trước Tòa án để bảo vệ cho quyền và lợi ích của
mình. Năm 1959, một Đại hội quốc tế tại New Delhi do Ủy ban tư pháp quốc
tế tổ chức với chủ đề "Trật tự luật pháp trong một xã hội tự do" đã khẳng
định: Việc tiếp cận luật pháp của người giàu cũng như của người nghèo là cần
thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó, cần phải tư vấn và đại diện
pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, tự do, danh dự bị đe
dọa nhưng không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý… Thật là vô nghĩa nếu
quyền được bào chữa chỉ được áp dụng đối với những người có khả năng trả
chi phí cho các dịch vụ pháp lý. Vì vậy, luật sư ở một số nước trên thế giới đã
có những hoạt động vô cùng thiết thực để giúp những nhóm người yếu thế
này có điều kiện tiếp cận với loại hình dịch vụ pháp lý miễn phí đó là trợ giúp
pháp lý. Sau khi nghiên cứu mô hình luật sư thực hiện hoạt động trợ giúp
pháp lý của một số nước trên thế giới, ta có thể thấy một số mô hình chính là:
34
mô hình từ thiện, mô hình luật sư trợ giúp pháp lý từ ngân sách nhà nước, mô
hình hỗn hợp.
- Mô hình từ thiện: các luật sư có nghĩa vụ thực hiện một số dịch vụ
miễn phí cho người nghèo như là chuẩn mực đạo đức của luật sư. Nhưng ở
một số nước khác thì các văn phòng luật sư tình nguyện cung cấp cho đối
tượng một số dịch vụ pháp lý miễn phí (thường là dịch vụ tư vấn). Các luật sư
làm việc một cách nhiệt tình, vô tư trên tinh thần tự nguyện. Tuy vậy, nó có
điểm hạn chế là không có nguồn kinh phí tài trợ, các luật sư làm "không
công", cho nên phạm vi trợ giúp pháp lý chủ yếu bằng hình thức tư vấn, mà
không thể trợ giúp pháp lý bằng hình thức đại diện, bào chữa trước Tòa án.
Theo mô hình này, luật sư hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu trên cơ sở tự
nguyện, mang tính chất từ thiện, nhân đạo. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên
thế giới đều kết hợp duy trì mô hình này cùng với các hình thức khác, nhưng
có tính tổ chức hơn và được pháp luật quy định.
- Mô hình luật sư trợ giúp được trả lương: hoạt động trợ giúp pháp lý
được thực hiện chủ yếu do đội ngũ luật sư công và luật sư tư thực hiện. Tuy
nhiên, cách chi trả kinh phí bồi dưỡng cho luật sư công và luật sư tư khác với
mô hình và được trả lương theo mức cố định của Nhà nước hoặc được trả thù
lao từ ngân sách Nhà nước theo một mức nhất định, tuỳ thuộc vào tính chất,
loại vụ việc như đơn giản hay phức tạp, giá trị tài sản… Hiện nay, phần lớn
các tổ chức trợ giúp theo mô hình này, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải
tìm thêm nguồn kinh phí hỗ trợ từ bên ngoài.
- Hoạt động trợ giúp pháp lý trong mô hình hỗn hợp do luật sư công
của tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước, luật sư tư và cán bộ trợ giúp pháp
lý của Nhà nước và thậm chí là cả sinh viên luật thực hiện. Cách chi trả kinh
phí cho luật sư công và luật sư tư khác với mô hình trên: Luật sư công được
Nhà nước tài trợ kinh phí làm việc thường xuyên và được trả lương từ ngân
sách Nhà nước, còn luật sư tư thực hiện trợ giúp pháp lý trên cơ sở tự nguyện
35
mang tính từ thiện, nhưng được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện.
Tiêu biểu cho mô hình này là Thụy Điển và được áp dụng phổ biến ở các
nước như: Anh, Nhật, Hà Lan, Australia, Nam Phi... Hoạt động trợ giúp pháp
lý chủ yếu do luật sư công (Australia, Philippin, Trung Quốc...) thực hiện
được trả lương cố định như công chức nhà nước và luật sư tư hành nghề tự do
thực hiện tự nguyện hoặc được Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Dù theo bất kỳ mô hình nào, ở bất cứ nước nào thì những mô hình trên
có đặc điểm đặc trưng mang tính bản chất của trợ giúp pháp lý là một loại
hoạt động nghề nghiệp đặc biệt mang tính nhân đạo, từ thiện, đó là "giúp đỡ
pháp lý cho những người không có khả năng chi phí khi tiếp cận công lý". Và
hoạt động trợ giúp pháp lý này của người thực hiện trợ giúp pháp lý trở thành
một trong những chức năng xã hội của bất kỳ Nhà nước nào.
1.3.1. Tập thể luật sư của Ấn Độ
Tập thể luật sư là tổ chức dịch vụ của 30 luật sư có trụ sở tại thủ New
Delhi được thành lập vào năm 1981. Quỹ của tập thể luật sư thực hiện các
chương trình vì lợi ích công cộng thông qua việc hỗ trợ cho các luật sư hành
nghề tư theo nhóm. Các vụ việc của tập thể luật sư thường liên quan đến lao
động, môi trường, bạo lực gia đình, phân biệt đối xử đối với người bị nhiễm
HIV và tệ nạn tham nhũng của chính phủ Ấn Độ. Không chỉ những vụ việc
không thu phí liên quan đến lợi ích công cộng mà ngay trong các vụ việc có
thu phí thì những luật sư tham gia tập thể luật sư cũng không nhận bất kỳ một
vụ việc nào chống lại các quy định về lợi ích công cộng của người dân.
Mô hình hoạt động của tập thể luật sư có một số luật sư thực hiện các vụ
việc miễn phí bên cạnh những luật sư thực hiện các vụ việc có thu phí. Đồng
thời, cũng có những luật sư thực hiện cả hai chức năng song song với nhau. Tập
thể các luật sư đặc biệt chú trọng đến hoạt động mở rộng mạng lưới luật sư trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống pháp luật nhằm mở rộng đối tượng được trợ giúp
pháp lý cũng như mở rộng hơn lĩnh vực pháp luật cung cấp cho người dân [46].
36
1.3.2. Quỹ đoàn luật sư thành phố tại thành phố New York
Được thành lập vào năm 1946, Quỹ Đoàn luật sư thành phố bao gồm
những hội viên thuộc Hiệp hội luật sư của thành phố New York, Hoa Kỳ. Tổ
chức này được miễn thuế, không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ Đoàn luật sư
thành phố tập trung chủ yếu vào việc giúp đỡ pháp luật và các vấn đề liên
quan đến yếu tố nhân đạo, đối tượng phục vụ của họ trải rộng không chỉ
những công dân thuộc thành phố New York mà còn vươn rộng ra các thành
phố, các bang khác trong toàn quốc và cả quốc tế. Tổ chức này cung cấp dịch
vụ tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và cả tham gia tranh tụng trước
Tòa án đồng thời họ còn thực hiện các Chương trình tài trợ học bổng cũng
như giúp đỡ khoa học cho các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
Quỹ Đoàn luật sư thành phố New York nhận được nguồn tài trợ chính
từ các các hãng luật có văn phòng đặt tại thành phố New York cũng như
nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân khác [47].
1.3.3. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản
Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản được thành lập từ tháng 4 năm 2006
và hoạt động với tư cách như một cơ quan hành chính và chịu sự quản lý của
Bộ Tư pháp theo Luật Hỗ trợ pháp lý toàn diện. Trung tâm này cung cấp dịch vụ
trợ giúp pháp lý về dân sự và hình sự. Đến tháng 3 năm 2012 đã có 16.570 luật
sư ký hợp đồng để cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý dân sự và 21.259 luật sư
ký hộ đồng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý liên quan đến hình sự.
Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản đã có trên 50 văn phòng tại các quận/
huyện tương ứng với trên 50 toàn án cấp quận/ huyện của Nhật Bản và hơn 20
Chi nhánh của các Văn phòng này trong toàn đất nước Nhật Bản. Ngoài ra,
Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản còn có 35 Văn phòng luật sư tại các khu
vực nông thôn nơi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn số lượng luật sư ít.
Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản cung cấp các dịch vụ như: tư vấn
pháp luật, đại diện pháp luật, hỗ trợ xây dựng văn bản, đơn từ cho người dân.
37
Trong năm 2011, tổng đài của Trung tâm đã thực hiện 339.334 lượt dịch vụ tư
vấn pháp luật qua điện thoại, 17.553 lượt tư vấn qua thư điện tử (email) và
280.389 lượt tư vấn pháp luật tại các Văn phòng đặt tại quận/ huyện trên toàn
Nhật Bản.
Đối với những người bị truy tố hoặc đang bị giam giữ để phục vụ điều
tra nếu không có điều kiện tài chính để thuê luật sư bảo vệ thì Tòa án Nhật
Bản sẽ chỉ định luật sư bảo vệ và bào chữa cho những người này thông qua
Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản [48].
1.3.4. Một số đặc điểm chung về luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý
trên thế giới
Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở mỗi nước đều có những đặc
điểm nổi bật phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội, phong tục tập
quán riêng của đất nước đó nhưng căn cứ vào hệ thống pháp luật trợ giúp
pháp lý cũng như bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên
thế giới, ta có thể thấy một số đặc điểm chung về luật sư khi thực hiện trợ
giúp pháp lý như sau:
Những luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên tinh thần tự nguyện
mang tính tự nguyện, nhân đạo hoặc có sự tài trợ một phần từ Nhà nước hoặc
từ các tổ chức, tập thể, cá nhân.
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý giúp đỡ về mặt pháp luật cho các
đối tượng được trợ giúp pháp lý chủ yếu là người nghèo, không có khả năng
thanh toán các chi phí khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý thu phí khác hoặc
những người thuộc nhóm đối tượng được ưu tiên như: phụ nữ bị bạo lực gia
đình, trẻ vị thành niên, người già không nơi nương tựa hoặc nhóm cộng đồng
người da mầu bị phân biệt đối xử...
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý giúp đỡ người được trợ giúp pháp lý
trong những phạm vi sau: tư vấn, đại diện trong tố tụng và ngoài tố tụng. Có
thể thấy, hầu hết các luật sư trên thế giới đều không hướng đến những vụ việc
38
liên quan đến lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại, ma túy. Ngoài ra, đối
với mỗi tổ chức luật sư đều hướng đến một nhóm đối tượng đặc thù của mình.
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới hầu hết là không thu phí
hoặc sẽ miễn giảm một phần phí hoặc thấp hơn so với những đối tượng khác.
Đây là những đặc điểm chung nhất về luật sư thực hiện trợ giúp pháp.
Ta có thể thấy luật sư đã có sự đóng góp không nhỏ trong việc giúp đỡ những
nhóm người yếu thế trong xã hội được hưởng những dịch vụ pháp lý tốt nhất
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư ở Việt Nam, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm về trợ
giúp pháp lý, luật sư, dịch vụ pháp lý miễn phí, hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư, đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, mô hình luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới. Những vấn đề lý luận được trình bày
tại chương 1 là cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay.
39
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA LUẬT SƯ TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NAY
2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987
Hiểu theo nghĩa rộng và xem xét về mặt bản chất, hoạt động của luật
sư trong buổi đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gắn liền với
hoạt động "tư pháp bảo trợ" mà thực chất là chính là hoạt động trợ giúp pháp
lý hiện nay. Tư tưởng tiến bộ này xuất phát từ tình yêu nước, thương dân và
cũng bảo đảm cho yêu cầu bảo vệ uy tín của Nhà nước dân chủ nhân dân còn
khá non trẻ trong nhiệm vụ bảo vệ người dân, tránh oan sai, lạm quyền hoặc
ức hiếp dân cũng như không để bỏ lọt tội phạm, đồng thời giúp cho hoạt động
điều tra, xét xử tội phạm được bảo đảm tiến hành đúng quy trình tố tụng như
các quốc gia văn minh, tiến bộ khác.
Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi nhận
tại Điều 67 một nguyên tắc cơ bản: "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy
hoặc mượn luật sư". Đồng thời, Điều 44 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946
quy định: "Trong việc đại hình, nếu trước Tòa án nhân dân phúc thẩm khu
hoặc thành phố một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật
sư, hoặc bào chữa viên để bào chữa" [8]. Theo Sắc lệnh này, "các luật sư, bào
chữa viên nhân dân có quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ những Tòa
án nhân dân huyện và Tòa án binh tại mặt trận" [8, Điều 46].
Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 cũng quy định: "Nguyên cáo hoặc
bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp hỗ trợ" [9]. Nếu "người đương
sự" được kiện thì việc cho "tư pháp bảo trợ" có hiệu lực cho đến khi thi hành
40
xong bản án mà "người đương sự" không phải nộp một khoản lệ phí nào, kể
cả việc cấp trích lục án, phí tổn này sẽ do công khố chịu.
Đến Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 (được Sắc lệnh số 144 ngày
22/12/1949 sửa đổi) cho phép nguyên cáo, bị can, bị cáo có thể nhờ một công
dân không phải là luật sư bênh vực cho mình trước Tòa án xử việc hộ và thương
mại trừ Tòa án binh tại mặt trận (Điều 1). Nếu bị can không có ai bênh vực,
ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra
bào chữa cho bị can (Điều 2). Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền
thù lao của bị can hay của thân nhân bị can (Điều 3). Người bào chữa do ông
Chánh án cử ra bênh vực cho bị can sẽ được hưởng cấp phí hàng ngày theo
định xuất (1.800 đồng nếu bào chữa tại phiên tòa của một Tòa án nhân dân cấp
khu và định xuất 1.500 đồng nếu bào chữa ở một Tòa án nhân dân cấp tỉnh).
Tiếp theo, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 101/HCTP ngày 29/8/1957
hướng dẫn việc các đoàn thể nhân dân cử người ra bênh vực, giúp đỡ cho
những hội viên của mình bị truy tố trước Tòa án hoặc trong việc kiện dân sự.
Người đứng ra bênh vực không được nhận thù lao của bị cáo hay thân nhân bị
cáo. Người nào phạm phải điều này bị truy tố và trừng phạt tội lừa đảo.
Đến Hiến pháp năm 1959 quyền bào chữa của người bị cáo vẫn được
bảo đảm (Điều 101). Tuy nhiên, số lượng luật sư và bào chữa viên nhân dân
ngày càng giảm. Vì vậy, các tổ chức, đoàn thể xã hội cũng được cử các thành
viên của mình là người bào chữa viên nhân dân, các Thẩm phán cũng được
cho phép làm luật sư. Nhưng do các tổ chức này khi đó vẫn nằm chung trong
cơ chế bao cấp của Nhà nước nên tất cả các hoạt động của các chủ thể này
đều được coi là hoạt động công vụ, gắn với việc thực hiện quyền lực nhà nước
và được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Qua đó, có thể lý giải được vấn
đề là hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư trong giai đoạn này chưa
được đặt ra (trong giai đoạn này không chỉ có hoạt động trợ giúp pháp lý được
miễn phí mà tất cả các hoạt động khác đều được miễn phí như học sinh đi học
được miễn phí, chữa bệnh miễn phí…).
41
Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập hệ thống các cơ quan tư pháp độc
lập, bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
tiếp tục được khẳng định. "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ
chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp
lý" [30, Điều 133]. Ta có thể thấy đến giai đoạn này đối tượng thụ hưởng của
hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư không còn chỉ là bị can, bị cáo mà đã
được mở rộng ra thêm các đương sự khác. Văn phòng luật sư được thành lập,
nằm dưới sự quản lý của Toàn án tối cao sau khi thành lập Ủy ban Pháp chế
và Văn phòng luật này thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và công
chức thực hiện việc bào chữa cho bị cáo khi Tòa án yêu cầu và được hưởng
chế độ lương từ ngân sách Nhà nước. Đồng thời, các văn phòng bào chữa viên
nhân dân cũng được thành lập theo Thông tư số 691/QLTPK ngày 31/10/1983
của Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác bào chữa trong đó đã đề cập đến việc
thực hiện bào chữa miễn phí cho bị can, bị cáo là thành viên, hội viên của các
tổ chức đoàn thể xã hội và các bị can, bị cáo khác. Đến cuối năm 1987, cả
nước đã có 30 tỉnh thành lập Đoàn luật sư và bào chữa viên với gần 400 luật
sư và bào chữa viên. Mặc dù nằm trong cơ chế bao cấp, hoạt động bào chữa
được bảo đảm từ ngân sách nhà nước nhưng vào cuối những năm 80 việc bào
chữa, tư vấn pháp luật ở một số địa phương đã lẻ tẻ có thu lệ phí hành chính.
Tuy nhiên, riêng đối với trường hợp chỉ định bào chữa thì đương sự vẫn được
miễn phí, luật sư và lệ phí hành chính giai đoạn này cũng giống như các loại
dịch vụ khác, còn mang nặng tính phục vụ, bao cấp và phụ thuộc vào khả
năng chi trả của người cần được giúp đỡ.
Như vậy, trong giai đoạn này chưa có một văn bản nào quy định cụ
thể trách nhiệm thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư nhưng xem xét trên cơ
sở thực tiễn về việc giúp đỡ pháp lý của các luật sư ta có thể thấy một số đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, bào chữa viên nhân
dân thực hiện chủ yếu là bào chữa cho các bị cáo trong các vụ án hình sự theo
42
chỉ định của Tòa án. Các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động,
việc làm và một số lĩnh vực pháp luật khác ít được đề cập đến.
Thứ hai, hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư, bào chữa viên nhân
dân trong giai đoạn này do Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Tòa án chỉ định Luật
sư thực hiện bào chữa trong các vụ án hình sự và trả tiền thù lao cho luật sư
đó; bào chữa viên nhân dân thực hiện công việc bào chữa và hưởng phụ cấp
bào chữa viên; các tổ chức đoàn thể nhân dân cử người giúp đỡ cho những
đoàn viên của mình bị truy tố trước Tòa án hoặc trong các vụ kiện.
Thứ ba, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong giai đoạn này chỉ
mang tính chất như một hoạt động công vụ để phục vụ nhiệm vụ chính trị - xã
hội mà chưa phải là hoạt động nghề nghiệp độc lập. Tuy nhiên, cũng có nhiều
luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân với tinh thần tự nguyện, từ
thiện và nhân đạo mà chưa trở thành một nghĩa vụ.
Như vậy, có thể thấy trong điều kiện mới thành lập, khó khăn về mọi
mặt nhưng Nhà nước ta đã rất quan tâm tới hoạt động giúp đỡ pháp luật cho
nhân dân. Các hoạt động này nằm chung trong cơ chế bao cấp của Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước chi trả cho tất cả mọi chi phí cho hoạt động tư vấn, đại
diện, bào chữa trong các vụ án hình sự, dân sự… mà các đương sự hầu như
không phải bỏ ra một khoản chi nào (kể cả chi phí cho Luật sư). Ngoài ra, các
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thậm chí các cơ quan, tổ
chức nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình cũng có những
đóng góp nhất định như: thực hiện các hoạt động tư vấn, đại diện cho đương
sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là thành viên của tổ chức
mình mà không thu phí.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư từ năm 1987 đến năm 2006
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp,
phát triển kinh tế thị trường, hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật được coi là
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luậtnataliej4
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tưLuận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật
Luận văn: Hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luậtLuận văn: Hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật
Luận văn: Hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
 
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệpHợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hành nghề luật sư và doanh nghiệp
 
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOTLuận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao độngLuận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
 
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAYLuận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 

Similar to Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...hieu anh
 
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...sividocz
 

Similar to Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sáchPháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
 
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đLuận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
 
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOTLuận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAYLuận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt NamLuận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
 
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
 
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia LaiTổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà MauLuận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk LắkĐề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOTLuận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
 
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sựLuận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
 
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ ViÖt Hµ
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 7 1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 12 1.2.1. Khái niệm luật sư 12 1.2.2. khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 15 1.2.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam 20 1.2.4. Ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 25 1.3. Mô hình trợ giúp pháp lý của luật sư ở một số nước trên thế giới 27 1.4.1. Tập thể luật sư của Ấn Độ 29 1.4.2. Quỹ đoàn luật sư thành phố tại thành phố New York 30 1.4.3. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản 30 1.4.4. Một số đặc điểm chung về luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới 31 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM 33 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay 33 2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987 33 2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ năm 1987 đến năm 2006 36
  • 5. 5 2.1.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ năm 2006 đến nay 41 2.2. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 43 2.2.1. Số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý 43 2.2.2. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư 46 2.2.3. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 49 2.2.4. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư 51 2.2.5. Các hình thức trợ giúp pháp lý khác 52 2.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 53 2.3.1. Những ưu điểm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 53 2.3.2. Những bất cập, hạn chế về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 55 2.3.3. Nguyên nhân 57 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 60 3.1. Các yêu cầu về bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam 60 3.1.1. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 60 3.1.2. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư phải quán triệt quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp 62 3.1.3. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam phải gắn liền với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển trợ giúp pháp lý 63 3.1.4. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam gắn liền với chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý 64
  • 6. 6 3.1.5. Bảo đảm, tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam phải tương thích với hoạt động trợ giúp pháp lý của các luật sư trong khu vực và trên thế giới 68 3.2. Những giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 69 3.2.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý 69 3.2.2. Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân nói riêng 71 3.2.3. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ luật sư tham gia trợ giúp pháp lý 72 3.2.4. Xây dựng nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư 73 3.2.5. Hoàn thiện chế độ chính sách đối với luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý 82 3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý 83 3.2.7. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 84 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chủ trương của Đảng về việc "cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân... nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật", ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên và có hiệu lực cao nhất về lĩnh vực trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý ở nước ta. Công tác trợ giúp pháp lý sau 17 năm hình thành và phát triển đã đạt được những kết quả quan trọng: 63 Trung tâm, 199 Chi nhánh với 1.244 biên chế trong đó có 483 là Trợ giúp viên pháp lý (trung bình mỗi Trung tâm có 08 Trợ giúp viên pháp lý) và 8.980 cộng tác viên trong đó có 1.055 luật sư chiếm 11,7%. Từ khi mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được thành lập đến nay, tổng số vụ việc trợ giúp pháp lý đã được thực hiện là là 1.825.178 vụ việc trợ giúp được cho 1.891.425 đối tượng, trung bình mỗi năm đã có trên 100 nghìn vụ việc được thực hiện, để đáp ứng được nhu cầu này thì số lượng Trợ giúp viên pháp lý hiện nay của các Trung tâm là không đủ đặc biệt là số lượng vụ việc tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng của người được trợ giúp pháp lý ngày càng tăng. Không chỉ dừng lại ở việc tranh tụng tại Tòa án đối với các vụ án hình sự, hoạt động tham gia tố tụng của tổ chức trợ giúp pháp lý còn được hiểu là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong vụ án dân sự, lao động... đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW: "Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ
  • 8. 8 động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình" [19]. Việc có mặt của Trợ giúp viên pháp lý hay luật sư là cộng tác viên của tổ chức trợ giúp pháp lý tại phiên tòa, trong quá trình tố tụng là điều vô cùng cần thiết nhằm góp phần đem lại những phán quyết phù hợp với pháp luật cho mỗi người dân đặc biệt là những nhóm người yếu thế trong xã hội. Đồng thời, luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý đã thể hiện được chức năng xã hội nghề nghiệp của luật sư trong việc góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế, yếu kém làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này. Vì vậy, cần nghiên cứu một cách đầy đủ các yếu tố tác động hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư như: số lượng luật sư nói chung và số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý tại một số địa phương còn thấp, chất lượng luật sư chưa cao, kinh phí bảo đảm cho hoạt động này còn nhiều thiếu thốn và hạn chế chưa tương xứng với nhiệm vụ... Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, việc nghiên cứu đề tài: "Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2. Tình hình nghiên cứu Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm. Việc ban hành chính sách trợ giúp pháp lý và triển khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát
  • 9. 9 triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau: Luận án tiến sĩ Luật học "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới" của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý; thực trạng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện đổi mới. Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện trợ giúp pháp lý, từ đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý. Luận văn thạc sĩ Luật học "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý" của Phan Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được trợ giúp pháp lý và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người dân. Luận văn thạc sĩ Luật học "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở" của Đặng Thị Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở. Luận văn thạc sĩ Luật học "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như làm rõ thực trạng chất
  • 10. 10 lượng trợ giúp pháp lý hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý. Luận văn thạc sĩ Luật học "Pháp luật về Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam" của Nguyễn Thị Mận. Luận văn nghiên cứu lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý và tổ chức, hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam từ đó làm rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa của Quỹ, đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động của Quỹ. Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của hoạt động trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, đến nay vấn đề đánh giá vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư ở Việt Nam hiện nay", tác giả luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp, định hướng phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó đánh giá chính xác nhất về giá trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý để từ đó đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới. Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây: - Các khái niệm, đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. - Phân tích đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
  • 11. 11 - Nghiên cứu quan điểm đổi mới, hoàn thiện hoạt động trợ giú pháp lý của luật sư ở Việt Nam. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm nhiều khái niệm, đối tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ chức, quản lý nhà nước... về trợ giúp pháp lý, do đó cần nhiều công trình nghiên cứ với quy mô và thời gian thích hợp. Về phần đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý do luật sư thực hiện với những vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện để luật sư có thể tham gia thực hiện trợ giúp pháp, cũng như các quyền, nghĩa vụ, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng, phương hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và pháp luật về luật sư để bảo đảm cho vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý đạt kết quả tốt nhất. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải
  • 12. 12 pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư nói riêng; đánh giá đúng những kết quả đã đạt được của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, cũng như phát hiện những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hoạt động này của luật sư; từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động này. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chính sách liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. Chương 2: Thực trạng pháp luật và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
  • 13. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 1.1. KHÁI NIỆM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nguồn gốc từ tiếng Anh là "legal aid" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20. Theo đó "legal aid" được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và thuật ngữ khác nhau. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa là "trợ cấp pháp lý". Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal aid" trong cụm từ "legal aid schem" (kế hoạch bảo trợ tư pháp) có nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Trong một số tài liệu khác còn dịch là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp". Từ điển Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999) không đưa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về cụm từ "legal aid" mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là "lấy tiền từ công quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện pháp lý". Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" là một cụm từ ghép "trợ giúp" và "pháp lý". Theo Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [44, tr. 767], pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật" [44, tr. 1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, thì "trợ giúp" là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn "pháp lý" là "nguyên lý của pháp luật" [24, tr. 1431]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì, lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý" được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận; theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, 2006, thì pháp lý
  • 14. 14 là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [45, tr. 606]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay "hỗ trợ" cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nhưng thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu bật được sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trường hợp có khó khăn về mặt pháp lý. Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu từ năm 1995, bắt đầu từ Đề án nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam của Bộ Tư pháp. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện Quyết định 734/TTg và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác cũng đề cập đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" như Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp… Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách khác của Nhà nước đã nhắc đến thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý". Đặc biệt, tại Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã đưa ra khái niệm về trợ giúp pháp lý như sau:
  • 15. 15 Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [35]. Đồng thời, qua tham khảo một số khái niệm về trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới, có thể thấy đa số các nhà quản lý cũng như các nhà xây dựng pháp luật đều đưa ra khái niệm về trợ giúp pháp lý trên cơ sở lý luận về dân chủ, nhân quyền và bảo đảm quyền con người, họ cho rằng trợ giúp pháp lý chính là một biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho nhóm người yếu thế trong xã hội không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Tuy về ngữ nghĩa, nội dung và cách biểu đạt của mỗi quốc gia khác nhau nhưng trên cơ bản khái niệm về trợ giúp pháp lý đều hàm chứa tính chất chung của trợ giúp pháp lý là hoạt động mang tính kinh tế, xã hội và nhân đạo. Với những phân tích về nội hàm thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nêu trên, trợ giúp pháp lý có một số thuộc tính như sau: - Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc thù. Trợ giúp pháp lý mang những đặc điểm chung của một loại hình dịch vụ pháp lý (về chủ thể thực hiện, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện; về mục đích, đối tượng: đáp ứng nhu cầu cần giúp đỡ về pháp luật của một bộ phận người dân; về nội dung dịch vụ cung cấp: pháp luật; về quy trình thực hiện: trên cơ sở các quy định của pháp luật). Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý có tính đặc thù, đó là: chủ thể thực hiện bao gồm Nhà nước và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt tổ chức thực hiện; về mục đích, đối tượng: giúp đỡ về pháp luật cho những người có hoàn cảnh đặc biệt không đủ khả năng để
  • 16. 16 sử dụng các dịch vụ pháp lý thông thường như: người nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật, trẻ em, người già cô đơn không nơi nương tựa…; về nội dung dịch vụ cung cấp: giúp đỡ về pháp luật thông qua các hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại…; về quy trình thực hiện: trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm chất lượng và mục đích của nó là giúp đỡ, hỗ trợ mà không phải là cung cấp dịch vụ có tính chất ngang giá; miễn hoặc giảm phí). Tính chất đặc thù của trợ giúp pháp lý thể hiện rõ nét nhất đó là trợ giúp pháp lý không phải là dịch vụ pháp lý có tính chất ngang giá, thỏa thuận giữa chủ thể cung cấp và đối tượng cung cấp mà nó có mục đích giúp đỡ, hỗ trợ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt (không có khả năng tiếp cận với dịch vụ pháp lý có thu phí) tiếp cận và sử dụng pháp luật để nâng cao nhận thức pháp luật, tự bảo vệ hoặc được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật giữa nhóm người này với những người khác có điều kiện kinh tế trong xã hội. Vì vậy, so với dịch vụ pháp lý chung, trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực pháp luật trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn. Ở Việt Nam, cách tiếp cận của Luật Trợ giúp pháp lý về khái niệm trợ giúp pháp lý cũng phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý trên thế giới. Đó là giúp đỡ cho những đối tượng yếu thế trong xã hội (chủ yếu về kinh tế) tiếp cận với dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đồi thời, cũng thể hiện rõ đặc thù của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Hoạt động trợ giúp pháp lý mở rộng và vươn tới không chỉ người nghèo mà còn đối với người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước
  • 17. 17 quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những vụ việc về tố tụng (hình sự, dân sự, lao động, đất đai…) liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp và thiết thực của người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ không có luật sư đại diện, bào chữa để bảo vệ hoặc trong những vụ việc do cơ quan, cán bộ nhà nước giải quyết chưa thỏa đáng, có vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân đã được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình thức. Ngoài ra, trợ giúp pháp lý ở Việt Nam còn có điểm đặc thù khác là kiến nghị thi hành pháp luật (gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc trợ giúp pháp lý, kiến nghị công vụ và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật). Đối tượng thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và thuê luật sư. Các chi phí sẽ do ngân sách Nhàn ước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và quốc tế thông qua các Dự án hoặc Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam. Trợ giúp pháp lý miễn phí đã trở thành nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội. Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập sự ổn định về chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân và chế độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà
  • 18. 18 nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội. Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được Trợ giúp pháp lý theo quy định, góp phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống tạo cơ hội tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. Trợ giúp pháp lý ở một số nước nhấn mạnh đến tính pháp lý như Hàn Quốc: Trợ giúp pháp lý là việc một luật sư hoặc một cán bộ pháp lý nhà nước cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật. Ở Anh, xứ Wales, Trợ giúp pháp lý được hiểu là giúp đỡ cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý; ở Đức, trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước Tòa án. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 1.2.1. Khái niệm luật sư Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, khi xã hội được phân chia thành giai cấp thì xuất hiện đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người. Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi viết bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789) những giá trị bền vững: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
  • 19. 19 Xuất phát từ nguyên lý, ở đâu có sự buộc tội, hoặc sự khởi kiện trước cơ quan tư pháp thì ở đó có sự gỡ tội, sự chống lại việc khởi kiện; khi có bên bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì cũng phải có bên bảo vệ cho người bị hại; khi có bên nguyên đơn khởi kiện về vấn đề dân sự, hành chính thì bao giờ cũng có bên bị đơn dân sự, hoặc những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Mặt khác, trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự, bên buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người tiến hành tố tụng) là chuyên gia buộc tội dày dạn kinh nghiệm thực tiễn với khả năng hùng biện, am hiểu tường tận pháp luật, là người đại diện cho quyền lực của nhà nước có đủ khả năng pháp lý. Ngược lại, bị can, bị cáo, và những người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý khác luôn ở địa vị bất lợi, là người có trình độ văn hóa thấp, vị trí xã hội thấp kém, không hiểu hoặc hiểu biết pháp luật hạn chế, kinh nghiệm tham gia tố tụng chưa có, tâm trạng bất ổn định, lo lắng, bị sức ép về mặt tâm lý, không quen nói trước đám đông v.v... Chính vì thế, cần thiết phải có một tổ chức, mà pháp luật quy định là tổ chức hành nghề Luật sư bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Bằng hoạt động của mình, tổ chức luật sư góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức; góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật; góp phần thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; giáo dục công dân tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Hiện nay theo quy định của pháp luật thì luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Tại Điều 2 Luật Luật sư
  • 20. 20 năm 2006 quy định "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức" [34]. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau "Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [34]. Ngoài ra, người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư muốn hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật và gia nhập một Đoàn luật sư. Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì việc hành nghề luật sư còn phải tuân theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề. Vì vậy, xét về bản chất thì luật sư có những tính chất cơ bản như sau: Thứ nhất, tính chất trợ giúp: nói đến trợ giúp là nói đến sự giúp đỡ, bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị trí thấp kém. Những người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính chất này thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư. Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ những vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo đức, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện pháp nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem
  • 21. 21 xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý. 1.2.2. khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư Thuật ngữ "dịch vụ" ra đời cùng với sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa, dịch vụ là "con đẻ" của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Khi kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sự lưu thông trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ càng phát triển. Theo đó, dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả các nhu cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Như vậy, có thể hiểu rằng, những hoạt động mang tính tự phục vụ thì không phải là dịch vụ. Để được gọi là một hoạt động dịch vụ thì sản phẩm của nó cần có sự trao đổi, có nghĩa là sản phẩm của hoạt động dịch vụ là sự phục vụ và sự phục vụ đó phải là hàng hóa. Với định nghĩa nêu trên, dịch vụ pháp lý được hiểu là sự trao đổi các sản phẩm mang tính pháp lý (hàng hóa) giữa chủ thể cung cấp và đối tượng phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu giúp đỡ pháp lý của các đối tượng phục vụ. Sản phẩm mang tính pháp lý cũng có đặc thù, nó không phải là sản phẩm vật chất nên việc trao đổi cũng không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu mà nó là những công việc, việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu được nâng cao nhận thức pháp luật, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng được phục vụ. Ở Việt Nam, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" ra đời khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được ghi nhận trong Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, Thông tư số 1119-QLTPK ngày 24/12/1987 của Bộ Tư pháp về công tác dịch vụ pháp lý và Công văn số 870/CV/DVPL ngày 26/10/1989 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác dịch vụ
  • 22. 22 pháp lý. Theo các văn bản này, dịch vụ pháp lý được hiểu là hoạt động của luật sư tham gia tố tụng (đại diện, bào chữa) hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động; tư vấn pháp lý và một số dịch vụ pháp lý khác (soạn thảo đơn từ, đánh máy…) cho các tổ chức và cá nhân. Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định về "dịch vụ pháp lý" được quy định khái quát tại Điều 1 Pháp lệnh này, theo đó, dịch vụ pháp lý bao gồm hoạt động tố tụng, tư vấn pháp lý và dịch vụ pháp lý khác. Và quy định này được cụ thể hóa tại Điều 14 của Pháp lệnh, phạm vi hành nghề luật sư bao gồm: Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính; tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; đại diện theo ủy quyền của cá nhân, tổ chức để thực hiện các vông việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật [40]. Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, dịch vụ pháp lý bao gồm: dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp (tham gia tố tụng); dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng trọng tài; tư vấn pháp luật; đại diện theo ủy quyền về các công việc có liên quan đến pháp luật; các dịch vụ pháp lý khác. Đến Luật Luật sư năm 2006, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" đã được quy định thành một điều luật riêng, theo Điều 4 của Luật Luật sư: "Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác" [34]. Theo Điều 22 Luật Luật sư, phạm vi hành nghề của luật sư bao gồm:
  • 23. 23 Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; Thực hiện tư vấn pháp luật; Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này [34]. Như vậy, kể từ khi ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 cho đến khi Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội thông qua, pháp luật chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ, cũng như chỉ ra nội hàm cụ thể về khái niệm "dịch vụ pháp lý" mà chỉ sử dụng phương pháp liệt kê để xác định các hoạt động cụ thể được coi là dịch vụ pháp lý. Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý. Tại Điều 3 Luật này quy định: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [35]. Theo đó, điều luật này đưa ra đặc trưng của hoạt động trợ giúp pháp lý mà chưa đứa ra cách hiểu hay định nghĩa chính thức về thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" và "dịch vụ pháp lý miễn phí". Theo Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý
  • 24. 24 "dịch vụ pháp lý" theo quy định của luật này bao gồm: tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại diện ngoài tố tụng; hòa giải; thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của luật này. Điều 5 của Luật Trợ giúp pháp lý cũng giới hạn việc cung cấp dịch vụ pháp lý miến phí không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Như vậy, quan niệm về dịch vụ pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý có phạm vi hẹp hơn theo quy định của Luật Luật sư. Có quan niệm cho rằng: Dịch vụ pháp lý với khái niệm nội hàm của nó có thể hiểu là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý. Theo đó, dịch vụ tư vấn pháp luật được hiểu là hoạt động cung cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp của các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu (gọi chung là khách hàng). Còn dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là chủ thể cung cấp dịch vụ sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ khách hàng theo đúng quy định của pháp luật. Quan điểm khác cho rằng, "dịch vụ pháp lý và dịch vụ của luật sư có phải là hai khái niệm khác nhau hay không, vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Song ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay nên được hiểu như nhau" [38]. Các quy định của pháp luật về luật sư và các quan niệm trên đây khẳng định dịch vụ pháp lý là dịch vụ của luật sư hay nói cách khác, chỉ có luật sư mới được cung cấp dịch vụ pháp lý. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì dịch vụ pháp lý miễn phí là hoạt động của các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý nhằm cung cấp cho người nghèo, đối tượng chính sách các dịch vụ pháp lý cụ thể trong các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ và không thu phí.
  • 25. 25 Từ những khái niệm trên xem xét một cách toàn diện về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, có thể rút ra khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam như sau: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam là tổng thể những công việc, nhiệm vụ của luật sư thực hiện để người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí nhằm thỏa mãn nhu cầu nâng cao nhận thức pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách, đồng thời góp phần bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ đúng pháp luật. Khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trên đã đề cập một cách toàn diện về những vấn đề liên quan đến luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, cụ thể: Thứ nhất, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý người có kiến thức pháp luật, bởi luật sư là người đã có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư. Thứ hai, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Bởi vì, khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối tượng, nhiều đối tượng bức xúc với công việc của mình khi không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thấu tình đạt lý hoặc do không hiểu biết về pháp luật mà nghĩ là quyền lợi của mình đang bị xâm hại có thể có những hành động quá khích xúc phạm đến luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý và đặc biệt là luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý đều thực hiện miễn phí. Vì vậy, người có phẩm chất đạo đức trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật sẽ giúp cho người được trợ giúp pháp lý tin tưởng và trình bày đúng vụ việc. Thứ ba, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trực tiếp tư vấn, kiến nghị, đại diện, bào chữa cho đối tượng hoặc gián tiếp trợ giúp pháp lý cho đối tượng thông qua nhận vụ việc về nhà làm, soạn thảo văn bản hướng dẫn để gửi cho đối tượng được trợ giúp pháp lý.
  • 26. 26 Thứ tư, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện tư vấn, đại diện, bào chữa cho đối tượng ở tất cả các lĩnh vực pháp luật. Thứ năm, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải chịu trách nhiệm về vụ việc đã trợ giúp cho đối tượng, đây là trách nhiệm cá nhân và cũng là đạo đức nghề nghiệp, đòi hỏi luật sư phải tuân thủ triệt để. 1.2.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam 1.2.3.1. Chủ thể thực hiện Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng yếu thế trong xã hội thông qua các hình thức khác nhau như sau: thứ nhất, thông qua Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước với tư cách là cộng tác viên; thứ hai, cá nhân luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề luật sư của mình; thứ ba, luật sư phối hợp với các tổ chức xã hội khác như: Hội luật gia, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ để thực hiện trợ giúp pháp lý; thứ tư, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. 1.2.3.2. Đối tượng phục vụ Bằng các con đường tiếp cận trợ giúp pháp lý khác nhau, do vậy đối tượng nhận được sự trợ giúp pháp lý từ phía luật sư cũng rất đa dạng và khác nhau. - Đối với nhóm luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thì đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định Điều 3 của Luật Trợ giúp pháp lý bao gồm: người nghèo, người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, của tội phạm mua bán người… Ngoài ra, trong khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế, các đối tượng khác cũng được hưởng trợ giúp pháp lý như: tất cả người chưa thành niên không phân biệt trẻ em hay người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi, người mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng…
  • 27. 27 - Đối với nhóm luật sư tự thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề luật sư, đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí thường không phân biệt đối tượng này hay đối tượng kia mới được trợ giúp pháp lý miễn phí. Luật sư nói riêng và tổ chức hành nghề luật sư nói chung tự quyết định đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo chính sách của từng tổ chức hành nghề luật sư mà không phụ thuộc vào quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. - Đối với nhóm luật sư tham gia trợ giúp pháp lý thông qua các tổ chức xã hội: đối tượng nhận trợ giúp pháp lý phụ thuộc vào tổ chức xã hội đó đang phục vụ hoặc quan tâm tới nhóm đối tượng nào. Ví dụ như các Trung tâm tư vấn pháp luật của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thì đối tượng chính là người lao động đang làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp... - Đối với nhóm luật sư thông qua tòa án thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là luật sư chỉ định trong các phiên tòa hình sự. Theo quy định của Điều 57 Bộluâ ̣t Tố tụng hình sự quy định các cơ quan tố tụng có trách nhiê ̣m chỉ định luật sư bào chữa cho bị can , bị cáo phạm tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình , và bị can , bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. 1.2.3.3. Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư - Không thu lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý: ở Việt Nam, nguyên tắc đầu tiên của hoạt động trợ giúp pháp lý đó là: "Không thu phí, lệ phí thù lao từ người được trợ giúp pháp lý". Bên cạnh đó, theo Điều 8 Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi bởi Luật luật sư năm 2012) thì Nhà nước khuyến khách luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí. Theo nguyên tắc này, khi đến yêu cầu trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí, thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào. Pháp luật trợ giúp pháp lý cấm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý trong đó có luật sư làm cộng tác viên của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nhận,
  • 28. 28 đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người được trợ giúp pháp lý, sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý do ngân sách Nhà nước cấp và nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nhìn chung, hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới chỉ miễn phí cho một số trường hợp đặc biệt còn phần lớn có thu phí (nhưng ở mức thấp hơn so với các đối tượng bình thường khác). Ví dụ: ở Singapore người được trợ giúp pháp lý miễn phí là người có thu nhập bình quân dưới 7.000 USD/năm (trong đó không tính giá trị tài sản là phương tiện kinh doanh, tranh thiết bị đang sử dụng trong gia đình; người đã trên 60 tuổi có tiền gửi tiết kiệm dưới 30.000 USD…); ở một số nước như Đức, Anh… đối với án hình sự, đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí nếu Tòa án tuyên án là phạm tội phải thanh toán toàn bộ chi phí trợ giúp pháp lý, kể cả tiền thuê luật sư bào chữa cho đối tượng; ở Anh, Thụy Điển… quy định đối tượng là nạn nhân của tội phạm nghiêm trọng thì được miễn phí. Nhà nước sẽ trả toàn bộ các khoản chi phí trợ giúp pháp lý nếu người bị hại thắng kiện, nếu trong trường hợp ngược lại (người bị hại thua kiện) thì "phải thanh toán toàn bộ chi phí, kể cả chi phí cho lật sư bào chữa cho nạn nhân" [43, tr. 35]. Còn các đối tượng khác khi được trợ giúp pháp lý đều phải thanh toán toàn bộ hay một phần chi phí tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của người đến xin được trợ giúp. - Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: khi thực hiện trợ giúp pháp lý bằng các hình thức khác nhau thì luật sư phải trung thực, chí công, vô tư, tôn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và không vì mục đích cá nhân làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. - Sử dụng biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý: khi thực hiện
  • 29. 29 trợ giúp pháp lý, luật sư phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm, coi việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý như một vụ việc dịch vụ pháp lý mà luật sư đó có thu phí. Luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý phải thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư công sức, trí tuệ, không bỏ một công đoạn nào để tiến hành các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý. Ví dụ: khi tham gia tố tụng, luật sư phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng như gặp gỡ người làm chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo vệ tốt nhất cho người được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, mặc dù lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý được coi là trên hết nhưng việc trợ giúp pháp lý của luật sư phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp, không xúi giục người được trợ giúp pháp lý làm trái với quy định của pháp luật. - Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý: trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý và quy tắc (là các chuẩn mực về hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và trách nhiệm cụ thể của luật sư trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý). Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nội dung trợ giúp pháp lý phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý: luật sư phải chịu trách nhiệm cá nhân về vụ việc trợ giúp pháp lý đã thực hiện (Phiếu tư vấn phải do mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư cách tham gia của mình). Do đó, nếu trợ giúp pháp lý sai thì tùy theo mức độ vi phạm mà luật sư sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp trợ giúp pháp lý sai, gây thiệt hại cho người được trợ giúp pháp lý thì luật sư phải bồi thường hoặc chịu trách nhiệm trước pháp luật.
  • 30. 30 - Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của luật sư bao gồm: Tư vấn pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý); tham gia tố tụng (tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được trợ giúp pháp lý là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được trợ giúp pháp lý là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, tham gia tố tụng dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý vụ việc dân sự, vụ án hành chính); đại diện ngoài tố tụng (được thực hiện cho người được trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; đại diện ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý); các hình thức trợ giúp pháp lý khác như: hòa giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của luật sư. Ngoài ra, còn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. 1.2.3.4. Lĩnh vực được trợ giúp pháp lý Lĩnh vực được trợ giúp pháp lý bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm; pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu đãi xã hội khác và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
  • 31. 31 1.2.3.5. Phương thức thực hiện trợ giúp pháp lý Phương thức thực hiện trợ giúp pháp lý tại trụ sở của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức hành nghề luật sư, trợ giúp pháp lý lưu động tại các xã, phường, thị trấn, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, trợ giúp pháp lý thông qua các phương tiện thông tin truyền thông... Hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện đồng bộ từ khâu truyền thông, thông tin cho đối tượng được trợ giúp pháp lý biết về quyền được trợ giúp pháp lý của mình từ đó nâng cao nhận thức về quyền được trợ giúp pháp lý đến việc triển khai các hoạt động để đối tượng có thể tiếp cận được với các dịch vụ pháp lý miễn phí (tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động, tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng) và trọng tâm nhất là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho đối tượng, sau đó còn là khâu đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý để có giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ có chất lượng tốt nhất. Hay nói cách khác là hoạt động trợ giúp pháp lý còn bao hàm cả việc đề cao quyền kiểm tra, giám sát, đánh giá của đối tượng được cung cấp dịch vụ miễn phí. 1.2.3.6. Kinh phí thực hiện trợ giúp pháp lý Việc cung cấp dịch vụ pháp lý của các đối tượng trợ giúp pháp lý thường là miễn hoặc giảm phí. Ở Việt Nam, dịch vụ này là miễn phí hoàn toàn. Các chi phí do ngân sách nhà nước bảo đảm (thu gián tiếp thông qua tiền đóng thuế của người dân) và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ thông qua các dự án hợp tác quốc tế, Quỹ Trợ giúp pháp lý và các nguồn hỗ trợ, đóng góp khác từ các tổ chức và cá nhân và tự bản thân các luật sư. 1.2.4. Ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư Từ thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian qua, đã khẳng định được vị trí của luật sư trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế cũng như nhu cầu của
  • 32. 32 người dân cũng như phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đối với người nghèo, đối tượng chính sách nói riêng và đối với người dân nói chung, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư đã góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân, qua đó giúp họ nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, để từ đó có thể tự mình lựa chọn cách ứng xử phù hợp nhất với các quy định của pháp luật, tránh tình trạng khiếu kiện vượt cấp, tiết kiệm thời gian và tiền bạc của người dân. Với kiến thức pháp luật có được người dân có thể tự tin giải quyết phần nào những vướng mắc pháp luật của chính bản thân mình cũng như những vướng mắc của người thân, từ đó tự giác chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật, góp phần bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy tốt vai trò của mình trong việc quản lý Nhà nước và xã hội. Đối với Nhà nước, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư thể hiện được vai trò, trách nhiệm của đội ngũ luật sư đối với Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của công dân thông qua việc giúp Nhà nước giải quyết những vướng mắc pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thuộc nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội tạo điều kiện cho họ có thể tiếp cận với công lý tạo sự bình đẳng trong việc thụ hưởng các dịch vụ pháp lý. Đồng thời, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư cũng góp phần quan trọng cho sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tư pháp; hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền trong việc xem xét giải quyết các vướng mắc pháp luật cho người dân một cách khách quan, kịp thời, đúng pháp luật tránh sai sót, bất cập trong hoạt động công vụ và quản lý nhà nước; kịp thời phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế, từ đó giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với xã hội, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư góp phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài
  • 33. 33 do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân và đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội đối với các chính sách cũng như pháp luật của Nhà nước. Qua đó góp phần quan trọng vào việc giữ vững trật tự, an toàn xã hội, ổn định tình hình chính trị, giữ gìn đoàn kết cộng đồng, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.3. MÔ HÌNH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Hoạt động trợ giúp pháp lý là một loại trợ giúp tư pháp được đại đa số các nước trên thế giới áp dụng (hiện nay đã có trên 150 nước). Đây là kết quả tất yếu của sự phát triển trong xã hội, có thể nói hoạt động trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu của nhà nước để thực hiện nghĩa vụ đối với công dân và cũng là nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội. Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng, vì vậy cần một đội ngũ những người được đào tạo chuyên sâu và am hiểu về pháp luật cũng như trình tự tố tụng để giúp cho những công dân không có kiến thức pháp luật cũng như không có kỹ năng khi đứng trước Tòa án để bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình. Năm 1959, một Đại hội quốc tế tại New Delhi do Ủy ban tư pháp quốc tế tổ chức với chủ đề "Trật tự luật pháp trong một xã hội tự do" đã khẳng định: Việc tiếp cận luật pháp của người giàu cũng như của người nghèo là cần thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó, cần phải tư vấn và đại diện pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, tự do, danh dự bị đe dọa nhưng không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý… Thật là vô nghĩa nếu quyền được bào chữa chỉ được áp dụng đối với những người có khả năng trả chi phí cho các dịch vụ pháp lý. Vì vậy, luật sư ở một số nước trên thế giới đã có những hoạt động vô cùng thiết thực để giúp những nhóm người yếu thế này có điều kiện tiếp cận với loại hình dịch vụ pháp lý miễn phí đó là trợ giúp pháp lý. Sau khi nghiên cứu mô hình luật sư thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới, ta có thể thấy một số mô hình chính là:
  • 34. 34 mô hình từ thiện, mô hình luật sư trợ giúp pháp lý từ ngân sách nhà nước, mô hình hỗn hợp. - Mô hình từ thiện: các luật sư có nghĩa vụ thực hiện một số dịch vụ miễn phí cho người nghèo như là chuẩn mực đạo đức của luật sư. Nhưng ở một số nước khác thì các văn phòng luật sư tình nguyện cung cấp cho đối tượng một số dịch vụ pháp lý miễn phí (thường là dịch vụ tư vấn). Các luật sư làm việc một cách nhiệt tình, vô tư trên tinh thần tự nguyện. Tuy vậy, nó có điểm hạn chế là không có nguồn kinh phí tài trợ, các luật sư làm "không công", cho nên phạm vi trợ giúp pháp lý chủ yếu bằng hình thức tư vấn, mà không thể trợ giúp pháp lý bằng hình thức đại diện, bào chữa trước Tòa án. Theo mô hình này, luật sư hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu trên cơ sở tự nguyện, mang tính chất từ thiện, nhân đạo. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới đều kết hợp duy trì mô hình này cùng với các hình thức khác, nhưng có tính tổ chức hơn và được pháp luật quy định. - Mô hình luật sư trợ giúp được trả lương: hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện chủ yếu do đội ngũ luật sư công và luật sư tư thực hiện. Tuy nhiên, cách chi trả kinh phí bồi dưỡng cho luật sư công và luật sư tư khác với mô hình và được trả lương theo mức cố định của Nhà nước hoặc được trả thù lao từ ngân sách Nhà nước theo một mức nhất định, tuỳ thuộc vào tính chất, loại vụ việc như đơn giản hay phức tạp, giá trị tài sản… Hiện nay, phần lớn các tổ chức trợ giúp theo mô hình này, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải tìm thêm nguồn kinh phí hỗ trợ từ bên ngoài. - Hoạt động trợ giúp pháp lý trong mô hình hỗn hợp do luật sư công của tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước, luật sư tư và cán bộ trợ giúp pháp lý của Nhà nước và thậm chí là cả sinh viên luật thực hiện. Cách chi trả kinh phí cho luật sư công và luật sư tư khác với mô hình trên: Luật sư công được Nhà nước tài trợ kinh phí làm việc thường xuyên và được trả lương từ ngân sách Nhà nước, còn luật sư tư thực hiện trợ giúp pháp lý trên cơ sở tự nguyện
  • 35. 35 mang tính từ thiện, nhưng được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Tiêu biểu cho mô hình này là Thụy Điển và được áp dụng phổ biến ở các nước như: Anh, Nhật, Hà Lan, Australia, Nam Phi... Hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do luật sư công (Australia, Philippin, Trung Quốc...) thực hiện được trả lương cố định như công chức nhà nước và luật sư tư hành nghề tự do thực hiện tự nguyện hoặc được Nhà nước hỗ trợ kinh phí. Dù theo bất kỳ mô hình nào, ở bất cứ nước nào thì những mô hình trên có đặc điểm đặc trưng mang tính bản chất của trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động nghề nghiệp đặc biệt mang tính nhân đạo, từ thiện, đó là "giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi phí khi tiếp cận công lý". Và hoạt động trợ giúp pháp lý này của người thực hiện trợ giúp pháp lý trở thành một trong những chức năng xã hội của bất kỳ Nhà nước nào. 1.3.1. Tập thể luật sư của Ấn Độ Tập thể luật sư là tổ chức dịch vụ của 30 luật sư có trụ sở tại thủ New Delhi được thành lập vào năm 1981. Quỹ của tập thể luật sư thực hiện các chương trình vì lợi ích công cộng thông qua việc hỗ trợ cho các luật sư hành nghề tư theo nhóm. Các vụ việc của tập thể luật sư thường liên quan đến lao động, môi trường, bạo lực gia đình, phân biệt đối xử đối với người bị nhiễm HIV và tệ nạn tham nhũng của chính phủ Ấn Độ. Không chỉ những vụ việc không thu phí liên quan đến lợi ích công cộng mà ngay trong các vụ việc có thu phí thì những luật sư tham gia tập thể luật sư cũng không nhận bất kỳ một vụ việc nào chống lại các quy định về lợi ích công cộng của người dân. Mô hình hoạt động của tập thể luật sư có một số luật sư thực hiện các vụ việc miễn phí bên cạnh những luật sư thực hiện các vụ việc có thu phí. Đồng thời, cũng có những luật sư thực hiện cả hai chức năng song song với nhau. Tập thể các luật sư đặc biệt chú trọng đến hoạt động mở rộng mạng lưới luật sư trong tất cả các lĩnh vực của đời sống pháp luật nhằm mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý cũng như mở rộng hơn lĩnh vực pháp luật cung cấp cho người dân [46].
  • 36. 36 1.3.2. Quỹ đoàn luật sư thành phố tại thành phố New York Được thành lập vào năm 1946, Quỹ Đoàn luật sư thành phố bao gồm những hội viên thuộc Hiệp hội luật sư của thành phố New York, Hoa Kỳ. Tổ chức này được miễn thuế, không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ Đoàn luật sư thành phố tập trung chủ yếu vào việc giúp đỡ pháp luật và các vấn đề liên quan đến yếu tố nhân đạo, đối tượng phục vụ của họ trải rộng không chỉ những công dân thuộc thành phố New York mà còn vươn rộng ra các thành phố, các bang khác trong toàn quốc và cả quốc tế. Tổ chức này cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và cả tham gia tranh tụng trước Tòa án đồng thời họ còn thực hiện các Chương trình tài trợ học bổng cũng như giúp đỡ khoa học cho các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Quỹ Đoàn luật sư thành phố New York nhận được nguồn tài trợ chính từ các các hãng luật có văn phòng đặt tại thành phố New York cũng như nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân khác [47]. 1.3.3. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản được thành lập từ tháng 4 năm 2006 và hoạt động với tư cách như một cơ quan hành chính và chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp theo Luật Hỗ trợ pháp lý toàn diện. Trung tâm này cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý về dân sự và hình sự. Đến tháng 3 năm 2012 đã có 16.570 luật sư ký hợp đồng để cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý dân sự và 21.259 luật sư ký hộ đồng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý liên quan đến hình sự. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản đã có trên 50 văn phòng tại các quận/ huyện tương ứng với trên 50 toàn án cấp quận/ huyện của Nhật Bản và hơn 20 Chi nhánh của các Văn phòng này trong toàn đất nước Nhật Bản. Ngoài ra, Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản còn có 35 Văn phòng luật sư tại các khu vực nông thôn nơi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn số lượng luật sư ít. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản cung cấp các dịch vụ như: tư vấn pháp luật, đại diện pháp luật, hỗ trợ xây dựng văn bản, đơn từ cho người dân.
  • 37. 37 Trong năm 2011, tổng đài của Trung tâm đã thực hiện 339.334 lượt dịch vụ tư vấn pháp luật qua điện thoại, 17.553 lượt tư vấn qua thư điện tử (email) và 280.389 lượt tư vấn pháp luật tại các Văn phòng đặt tại quận/ huyện trên toàn Nhật Bản. Đối với những người bị truy tố hoặc đang bị giam giữ để phục vụ điều tra nếu không có điều kiện tài chính để thuê luật sư bảo vệ thì Tòa án Nhật Bản sẽ chỉ định luật sư bảo vệ và bào chữa cho những người này thông qua Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản [48]. 1.3.4. Một số đặc điểm chung về luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở mỗi nước đều có những đặc điểm nổi bật phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội, phong tục tập quán riêng của đất nước đó nhưng căn cứ vào hệ thống pháp luật trợ giúp pháp lý cũng như bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới, ta có thể thấy một số đặc điểm chung về luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý như sau: Những luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên tinh thần tự nguyện mang tính tự nguyện, nhân đạo hoặc có sự tài trợ một phần từ Nhà nước hoặc từ các tổ chức, tập thể, cá nhân. Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý giúp đỡ về mặt pháp luật cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý chủ yếu là người nghèo, không có khả năng thanh toán các chi phí khi tiếp cận với các dịch vụ pháp lý thu phí khác hoặc những người thuộc nhóm đối tượng được ưu tiên như: phụ nữ bị bạo lực gia đình, trẻ vị thành niên, người già không nơi nương tựa hoặc nhóm cộng đồng người da mầu bị phân biệt đối xử... Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý giúp đỡ người được trợ giúp pháp lý trong những phạm vi sau: tư vấn, đại diện trong tố tụng và ngoài tố tụng. Có thể thấy, hầu hết các luật sư trên thế giới đều không hướng đến những vụ việc
  • 38. 38 liên quan đến lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại, ma túy. Ngoài ra, đối với mỗi tổ chức luật sư đều hướng đến một nhóm đối tượng đặc thù của mình. Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới hầu hết là không thu phí hoặc sẽ miễn giảm một phần phí hoặc thấp hơn so với những đối tượng khác. Đây là những đặc điểm chung nhất về luật sư thực hiện trợ giúp pháp. Ta có thể thấy luật sư đã có sự đóng góp không nhỏ trong việc giúp đỡ những nhóm người yếu thế trong xã hội được hưởng những dịch vụ pháp lý tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tiểu kết chương 1 Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm về trợ giúp pháp lý, luật sư, dịch vụ pháp lý miễn phí, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, mô hình luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý trên thế giới. Những vấn đề lý luận được trình bày tại chương 1 là cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay.
  • 39. 39 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM 2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NAY 2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987 Hiểu theo nghĩa rộng và xem xét về mặt bản chất, hoạt động của luật sư trong buổi đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gắn liền với hoạt động "tư pháp bảo trợ" mà thực chất là chính là hoạt động trợ giúp pháp lý hiện nay. Tư tưởng tiến bộ này xuất phát từ tình yêu nước, thương dân và cũng bảo đảm cho yêu cầu bảo vệ uy tín của Nhà nước dân chủ nhân dân còn khá non trẻ trong nhiệm vụ bảo vệ người dân, tránh oan sai, lạm quyền hoặc ức hiếp dân cũng như không để bỏ lọt tội phạm, đồng thời giúp cho hoạt động điều tra, xét xử tội phạm được bảo đảm tiến hành đúng quy trình tố tụng như các quốc gia văn minh, tiến bộ khác. Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi nhận tại Điều 67 một nguyên tắc cơ bản: "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư". Đồng thời, Điều 44 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định: "Trong việc đại hình, nếu trước Tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư, hoặc bào chữa viên để bào chữa" [8]. Theo Sắc lệnh này, "các luật sư, bào chữa viên nhân dân có quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ những Tòa án nhân dân huyện và Tòa án binh tại mặt trận" [8, Điều 46]. Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 cũng quy định: "Nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp hỗ trợ" [9]. Nếu "người đương sự" được kiện thì việc cho "tư pháp bảo trợ" có hiệu lực cho đến khi thi hành
  • 40. 40 xong bản án mà "người đương sự" không phải nộp một khoản lệ phí nào, kể cả việc cấp trích lục án, phí tổn này sẽ do công khố chịu. Đến Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 (được Sắc lệnh số 144 ngày 22/12/1949 sửa đổi) cho phép nguyên cáo, bị can, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình trước Tòa án xử việc hộ và thương mại trừ Tòa án binh tại mặt trận (Điều 1). Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can (Điều 2). Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can (Điều 3). Người bào chữa do ông Chánh án cử ra bênh vực cho bị can sẽ được hưởng cấp phí hàng ngày theo định xuất (1.800 đồng nếu bào chữa tại phiên tòa của một Tòa án nhân dân cấp khu và định xuất 1.500 đồng nếu bào chữa ở một Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Tiếp theo, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 101/HCTP ngày 29/8/1957 hướng dẫn việc các đoàn thể nhân dân cử người ra bênh vực, giúp đỡ cho những hội viên của mình bị truy tố trước Tòa án hoặc trong việc kiện dân sự. Người đứng ra bênh vực không được nhận thù lao của bị cáo hay thân nhân bị cáo. Người nào phạm phải điều này bị truy tố và trừng phạt tội lừa đảo. Đến Hiến pháp năm 1959 quyền bào chữa của người bị cáo vẫn được bảo đảm (Điều 101). Tuy nhiên, số lượng luật sư và bào chữa viên nhân dân ngày càng giảm. Vì vậy, các tổ chức, đoàn thể xã hội cũng được cử các thành viên của mình là người bào chữa viên nhân dân, các Thẩm phán cũng được cho phép làm luật sư. Nhưng do các tổ chức này khi đó vẫn nằm chung trong cơ chế bao cấp của Nhà nước nên tất cả các hoạt động của các chủ thể này đều được coi là hoạt động công vụ, gắn với việc thực hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Qua đó, có thể lý giải được vấn đề là hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư trong giai đoạn này chưa được đặt ra (trong giai đoạn này không chỉ có hoạt động trợ giúp pháp lý được miễn phí mà tất cả các hoạt động khác đều được miễn phí như học sinh đi học được miễn phí, chữa bệnh miễn phí…).
  • 41. 41 Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập hệ thống các cơ quan tư pháp độc lập, bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa tiếp tục được khẳng định. "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý" [30, Điều 133]. Ta có thể thấy đến giai đoạn này đối tượng thụ hưởng của hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư không còn chỉ là bị can, bị cáo mà đã được mở rộng ra thêm các đương sự khác. Văn phòng luật sư được thành lập, nằm dưới sự quản lý của Toàn án tối cao sau khi thành lập Ủy ban Pháp chế và Văn phòng luật này thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và công chức thực hiện việc bào chữa cho bị cáo khi Tòa án yêu cầu và được hưởng chế độ lương từ ngân sách Nhà nước. Đồng thời, các văn phòng bào chữa viên nhân dân cũng được thành lập theo Thông tư số 691/QLTPK ngày 31/10/1983 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác bào chữa trong đó đã đề cập đến việc thực hiện bào chữa miễn phí cho bị can, bị cáo là thành viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể xã hội và các bị can, bị cáo khác. Đến cuối năm 1987, cả nước đã có 30 tỉnh thành lập Đoàn luật sư và bào chữa viên với gần 400 luật sư và bào chữa viên. Mặc dù nằm trong cơ chế bao cấp, hoạt động bào chữa được bảo đảm từ ngân sách nhà nước nhưng vào cuối những năm 80 việc bào chữa, tư vấn pháp luật ở một số địa phương đã lẻ tẻ có thu lệ phí hành chính. Tuy nhiên, riêng đối với trường hợp chỉ định bào chữa thì đương sự vẫn được miễn phí, luật sư và lệ phí hành chính giai đoạn này cũng giống như các loại dịch vụ khác, còn mang nặng tính phục vụ, bao cấp và phụ thuộc vào khả năng chi trả của người cần được giúp đỡ. Như vậy, trong giai đoạn này chưa có một văn bản nào quy định cụ thể trách nhiệm thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư nhưng xem xét trên cơ sở thực tiễn về việc giúp đỡ pháp lý của các luật sư ta có thể thấy một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, bào chữa viên nhân dân thực hiện chủ yếu là bào chữa cho các bị cáo trong các vụ án hình sự theo
  • 42. 42 chỉ định của Tòa án. Các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, việc làm và một số lĩnh vực pháp luật khác ít được đề cập đến. Thứ hai, hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư, bào chữa viên nhân dân trong giai đoạn này do Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Tòa án chỉ định Luật sư thực hiện bào chữa trong các vụ án hình sự và trả tiền thù lao cho luật sư đó; bào chữa viên nhân dân thực hiện công việc bào chữa và hưởng phụ cấp bào chữa viên; các tổ chức đoàn thể nhân dân cử người giúp đỡ cho những đoàn viên của mình bị truy tố trước Tòa án hoặc trong các vụ kiện. Thứ ba, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong giai đoạn này chỉ mang tính chất như một hoạt động công vụ để phục vụ nhiệm vụ chính trị - xã hội mà chưa phải là hoạt động nghề nghiệp độc lập. Tuy nhiên, cũng có nhiều luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân với tinh thần tự nguyện, từ thiện và nhân đạo mà chưa trở thành một nghĩa vụ. Như vậy, có thể thấy trong điều kiện mới thành lập, khó khăn về mọi mặt nhưng Nhà nước ta đã rất quan tâm tới hoạt động giúp đỡ pháp luật cho nhân dân. Các hoạt động này nằm chung trong cơ chế bao cấp của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước chi trả cho tất cả mọi chi phí cho hoạt động tư vấn, đại diện, bào chữa trong các vụ án hình sự, dân sự… mà các đương sự hầu như không phải bỏ ra một khoản chi nào (kể cả chi phí cho Luật sư). Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thậm chí các cơ quan, tổ chức nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình cũng có những đóng góp nhất định như: thực hiện các hoạt động tư vấn, đại diện cho đương sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là thành viên của tổ chức mình mà không thu phí. 2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư từ năm 1987 đến năm 2006 Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, phát triển kinh tế thị trường, hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật được coi là