SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ DUY HIỂN
VAI TRß CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ DUY HIỂN
VAI TRß CñA THÈM PH¸N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của GS-TSKH Lê Văn Cảm. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa từng được công bố trong một công trình khoa
học nào khác.
Tất cả các tư liệu được đề cập trong luận văn đều trung thực,
chính xác, có nguồn gốc, rõ ràng.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học
Quốc Gia Hà Nội xem xét để tôi bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan
Hà Duy Hiển
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ..............................10
1.1. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ............10
1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán......................................................10
1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác ........15
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động đến
vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán .................................................17
1.2. Các mô hình tố tụng hình sự và vai trò của những ngƣời
tiến hành tố tụng...............................................................................21
1.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động tố tụng hình sự................................................................25
1.3.1. Yếu tố truyền thống pháp lý...............................................................25
1.3.2. Yếu tố văn hóa pháp lý.......................................................................27
1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước..........28
Kết luận Chƣơng 1........................................................................................31
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ THỰC
TIỄNTHIHÀNH ...............................................................................32
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật
về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở
nƣớc ta từ 1945 đến nay...................................................................32
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 ...............................................32
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ...............................................35
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay .........................................................38
2.2. Vai trò của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng
hình sự................................................................................................39
2.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật luật tố tụng hình sự ..........................39
2.2.2. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật tố tụng hình sự.......................................................51
2.2.3. Vai trò của Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng
tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp......................................58
Kết luận Chƣơng 2........................................................................................63
Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ
PHÁP Ở VIỆT NAM .......................................................................64
3.1. Sự cần thiết của công cuộc cải cách tƣ pháp .................................64
3.2. Những yêu cầu cơ bản về việc cải cách hoạt động của Tòa
án và Thẩm phán..............................................................................68
3.2.1. Về việc cải cách hoạt động đối với Tòa án........................................70
3.2.2. Về việc cải cách hoạt động đối với Thẩm phán.................................72
3.3. Xác định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tƣ pháp .......73
3.4. Một số vấn đề kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng về vai trò của Thẩm phán .................................75
3.4.1. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà..............................75
3.4.2. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán .........76
3.4.3. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Tòa án trên cơ sở đó hoàn
thiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ...........77
3.4.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để
nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ........78
Kết luận Chƣơng 3........................................................................................80
KẾT LUẬN....................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................84
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao
TAQS: Tòa án Quân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Cùng với
Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, bảo đảm tính thượng tôn Hiến pháp,
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp, một nhiệm vụ lớn và trọng
tâm lúc này là căn chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tư pháp cho phù
hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013 và các định hướng của
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Mục tiêu cải cách tư pháp thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó cải cách Tòa án và hoạt động xét xử là
trung tâm của cải cách tư pháp với khâu đột phá là mở rộng tranh tụng dân chủ
trong xét xử.
Để đạt mục tiêu đó, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra 5
phương hướng và 7 nhóm giải pháp, tập trung vào cải cách pháp luật nội dung
(hình sự, dân sự, hành chính...) và pháp luật tố tụng; cải cách tổ chức các cơ
quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp; xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp;
phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của công luận, của nhân dân và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cơ quan tư
pháp. Nghị quyết xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tư
pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Đây là bước
2
phát triển mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực tư pháp nhằm thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn trương,
đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm” [18, tr.127].
Trước yêu cầu hội nhập sâu rộng nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Việt
Nam với cộng đồng Quốc tế trên tất cả các lĩnh vực với mục tiêu Việt Nam
muốn làm bạn, làm đối tác tin cậy, là nước có trách nhiệm trong việc giải
quyết các vấn đề Quốc tế có liên quan và một trong những lĩnh vực trọng tâm
là Việt Nam đang quan tâm thực hiện cải cách hành chính, cải cách pháp luật
một cách đồng bộ phù hợp với luật pháp Quốc tế.
Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [33, Khoản 3],
trên tinh thần đó, vấn đề đặt ra cho các cơ quan Tư pháp Việt Nam nói chung
và ngành Tòa án nói riêng nhiều thách thức thực sự là cơ quan bảo vệ công lý
và công bằng xã hội. Việt Nam đã và sẽ tham gia thực hiện các công ước, điều
ước quốc tế khi gia nhập và trở thành thành viên, đòi hỏi hệ thống pháp luật
bao gồm cả luật nội dung và luật tố tụng cần được sớm hoàn thiện. Thực tiễn
trên đây đã đặt ra cho các Thẩm phán Việt Nam không những cần phải có kiến
thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực luật nội dung mà còn phải hiểu biết và áp
dụng thành thạo luật tố tụng liên quan để giải quyết các loại vụ án tranh chấp.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Tòa án đã tiến hành
xét xử theo hướng nâng cao vai trò tranh tụng, đảm bảo quyền của bị cáo và
những người tham gia tố tụng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị xác định rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020 là phải nâng
3
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, đổi mới việc tổ chức
phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách
tư pháp, cùng với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 được Quốc hội khóa
XIII (kỳ họp thứ tám) thông qua ngày 24/11/2014 có hiệu lực ngày 01/6/2015;
Bộ Luật Hình sự sửa đổi 2015, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi 2015 được
Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ mười) thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực
ngày 01/7/2015, thì Ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự đổi mới về tổ chức
và hoạt động; tăng cường quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Gắn liền với hoạt động của Tòa án là
Thẩm phán, Thẩm phán là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai
trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung, đặc biệt là việc thực
hiện các mục tiêu mà Nghị quyết Đảng đã đề ra. Vai trò của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích không thể thiếu
trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò
của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự là một việc làm cần thiết góp
phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
là: “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” [6]. Một phiên tòa nói chung và
phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng có bảo đảm tính chất tranh tụng hay
4
không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Vai trò của Hội đồng xét xử, của
Kiểm sát viên, của Luật sư, của những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng khác, nhưng vai trò của chủ tọa phiên tòa là quan trọng nhất. Kết
quả phiên tòa phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài: “Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam”
để làm luận văn thạc sỹ. Thông qua đề tài này, tác giả muốn làm rõ thêm vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất
một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm
phán trước yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa
án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các sách (sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn
và giáo trình)
1). GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống
các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”, Tạp chí luật học.
2). GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) “Hệ thống tư pháp hình sự trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 2009.
3). PGS.TS. Phạm Hồng Hải (2003), “Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam”. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
4). PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), “Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền”. Nxb Tư pháp, Hà Nội
5). PGS.TS Đinh Văn Quế (2005), “Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử
và án lệ”. Nxb Lao động - Xã hội.
6). PGS. TS Võ Khánh Vinh (2007) "Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự". Nxb Công an nhân dân.
5
Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 đã có hàng loạt
các bài viết khoa học đã được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Tòa án
nhân dân (thuộc Tòa án nhân dân Tối cao), Tạp chí Kiểm sát (thuộc Viện
Kiểm sát nhân dân Tối cao) mà ở các mức độ đánh giá, phân tích khác
nhau có liên quan đến đề tài này, cụ thể:
1). “Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét
xử ở Việt Nam” Cổng thông tin điện tử Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Trích dẫn từ:http://www.hcmcbar.org
2). Quách Thành Vinh – Tòa án Quân sự Trung ương; Đàm Kim Yến -
Tòa phúc thẩm, TANDTC (2010) “Mấy vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử”.
Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 19, tháng 10/2010.
3). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Tòa án là trung tâm – Xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp". Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 9, tháng 5/2011.
4). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Những vấn đề cơ bản về tổ chức –
Thực hiện quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền".
Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 13, tháng 5/2011.
5). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp".
Tạp chí Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2011.
6). “Tổng hợp những vướng mắc về tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân
dân Tối cao tháng 12/2011.
7). Thạc sỹ Trần Duy Bình – Tòa án nhân dân tỉnh An Giang (2012)
“Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Khi xét
xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2012.
6
8). Nguyễn Quang Ngọc - Nguyên Thẩm phán TANDTC (2013) “ Bàn
về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án
nhân dân Tối cao số 8, tháng 4/2013.
9). Thạc sỹ Nguyễn Văn Trượng (2013) “Hoàn thiện thủ tục xét xử vụ
án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án
nhân dân Tối cao số 19,tháng 10/2013.
10). Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hằng, Giảng viên khoa Luật – Đại học
Huế (2014) “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
tranh tụng tại phiên tòa hình sự”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân
dân Tối cao số 11, tháng 6/2014.
11). Thạc sỹ Nguyễn Văn Nhớ, Thẩm phán Tòa án Quân sự khu vực 1 -
Quân khu 9 (2014) “Hoàn thiện quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Chủ
tọa phiên tòa trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”. Tạp
chí tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 14, tháng 7/2014.
12). Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm phán TANDTC “Kỹ năng viết
Bản án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối
cao số 17, tháng 9/2014.
13). “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin - tuyên truyền về tòa án
nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân
dân Tối cao số 02 - tháng 01/2015
2.2. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng nói chung và
trong tố tụng hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu của các
tác giải như
1). Luận án Tiến sỹ của tác giả Đỗ Gia Thư (2006) “Cơ sở khoa học
của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay”.
2). Tiến sỹ Phạm Văn Lợi (2004), “Chế định thẩm phán - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng về vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay để làm sáng tỏ một số nội dung sau:
1) Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự
hiện hành về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự.
2) Vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
thực tiễn thi hành.
3) Nhận diện được những hạn chế, bất cập và đề xuất những giải pháp
hoàn thiện về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
1) Nghiên cứu, phân tích, đánh giá những đặc điểm của các mô hình tố
tụng hình sự để làm rõ thêm vai trò của Thẩm phán tương ứng với từng mô
hình tố tụng hình sự.
2) Đánh giá những kết quả và hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật
của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta thời gian vừa qua.
3) Đề xuất một số vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu yêu cầu cải cách tư pháp
đối với Ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về cải
cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án hình sự đối
với ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
8
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
Thẩm phán trong hoạt động thực tiễn xét xử.
Luận văn có tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng hình sự của một
số quốc gia và một số công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học
pháp lý chuyên ngành.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện ở
tất cả các giai đoạn xét xử như: giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm. Phạm vi nghiên cứu về Vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động tố tụng ở tất cả các giai đoạn trên có tính chất đa dạng, phức tạp và rộng
lớn và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên bản thân tác giả hiện đang công tác trong ngành thi hành án
dân sự cấp huyện, vì vậy trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn do nhận
thức trong công tác nghiên cứu còn có mặt hạn chế, nên tác giả chỉ giới hạn
trong việc nghiên cứu về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình
sự Việt Nam ở giai đoạn xét xử sơ thẩm về các vụ án hình sự.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận vì đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo về vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động tố tụng hình sự. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn là:
6.1. Kiến nghị những giải pháp để nâng cao tính độc lập trong mối
quan hệ với các cơ quan, cá nhân bên ngoài hệ thống Toà án
6.2. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Toà án trên cơ sở đó hoàn thiện
vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự
9
6.3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các tiêu chuẩn bổ nhiệm,
nâng ngạch, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố
tụng hình sự
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
vai trò của Thẩm phán và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán
Theo “Đại từ điển tiếng việt” của tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên) và
một số đồng tác giả khác thì vai trò được hiểu như sau “Vai trò, chức năng,
tác dụng của cái gì, hoặc của ai đó trong sự vận động, phát triển của nhóm,
tập thể nói chung” [54, tr.1736].
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp giao nhiệm vụ xét xử cho
cơ quan Tòa án nhân dân và Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua các
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc Thẩm quyền của Tòa án” [49, Điều 1].
Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử,
vì vậy thông qua hoạt động xét xử của mình thì Thẩm phán cũng góp phần về
việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân. Hoạt
động của Thẩm phán là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng
hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng, thậm
11
chí có thể cho rằng họ có vai trò gần như quyết định đến chất lượng trong quá
trình tranh tụng. Mặc dù Thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là
một chủ thể, nhưng với tư cách là người đại diện cho Nhà nước trong việc
thực thi công lý, Thẩm phán còn có vai trò là trọng tài, là người hướng dẫn
cho các bên đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo đúng quy định của
pháp luật. Thông qua kết quả tranh tụng, Thẩm phán đánh giá nội dung thực
chất của vụ án, các chứng cứ, trên cơ sở đó căn cứ các quy định của pháp luật
để ra một Bản án đúng đắn.
Ngoài ra Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động xét xử.
Thẩm phán đã thay mặt cho Tòa án nhân dân giáo dục công dân chấp hành
nghiêm pháp luật, đồng thời phát huy tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Hoạt động tố tụng hình sự được chia ra nhiều giai đoạn khác nhau, tương
ứng với mỗi giai đoạn đó có các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Các cơ
quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án và
trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có thẩm
quyền thực hiện các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Và những người đó được gọi là những người tiến hành tố tụng với địa vị pháp
lý và vai trò hoạt động rất khác nhau. Những người tiến hành tố tụng này có
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện
nhanh chóng chính xác và xử lý công minh, kịp thời, khách quan mọi hành vi
phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tại Toà án, những người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký toà án. Điều 66 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Thẩm phán có 4 ngạch gồm: Thẩm phán
TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Hoạt
động xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề đó là nghề xét xử. Thẩm
12
phán đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước
là "tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân,
thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người” [39, tr.37].
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, theo Giáo sư, Tiến sỹ Võ Khánh Vinh:
"Chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ
trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án)
được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một
chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa
nhận theo pháp luật khi đáp ứng đẩy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện
xác định theo quy định của pháp luật" [53, tr.43].
Do vậy, chức danh tư pháp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam bao
gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà án, Hội thẩm nhân
dân, Thẩm tra viên.
Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một
chức danh tư pháp quan trọng và có vai trò quyết định đến việc thực hiện
quyền tư pháp.
Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định trọng tâm là xây dựng,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và nâng cao kỹ năng
thực hành nghề nghiệp của Thẩm phán.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán
như sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc Thẩm
quyền của Tòa án”
Từ khái niệm trên thì vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng
hình sự được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là: Những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
13
Hai là: Những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự.
1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán được quy định tại
khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; Điều 65, 76 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014; Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 45 Bộ
luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015); Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16 Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán về nguyên tắc phải được xác
định đầy đủ trên cơ sở vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự. Mặt khác, chúng phải được pháp luật quy định cụ thể rõ
ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Thẩm phán hoàn thành hiệu
quả nhiệm vụ xét xử của mình, tránh tình trạng tuỳ tiện hay lạm dụng quyền
hạn trong thực tiễn xét xử.
Nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán trong mỗi một giai đoạn lịch sử cụ
thể cũng cần có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế song vẫn
dựa trên những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự và nhằm mục đích là
thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật.
2) Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp hình sự
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà
sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là
người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện
đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với
chủ tọa phiên tòa, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố
tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công
14
bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại
phòng xử án.
Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là
người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành
vi tố tụng tại phòng xử án.
Thông qua hoạt động xét xử của mình mỗi một phán quyết của Thẩm
phán có thể dẫn tới chỗ công dân, pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích
hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định, sai lầm trong hoạt động xét xử
của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai, nhất là trong lĩnh vực hình
sự. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng
tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của
Nhà nước ta.
Thông qua hoạt động xét xử của Thẩm phán cũng góp phần vào việc
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân.
Trong hoạt động xét xử để đưa ra được một phán quyết đúng pháp
luật, Thẩm phán phải am hiểu về pháp luật, có hiểu biết về kiến thức xã hội,
nắm bắt tâm lý của từng cá thể và có lương tâm của Người thẩm phán "Cơ
sở của các phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có
công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có
cái tâm trong sáng" [26, tr.38].
Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì,
trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi
tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của pháp còn xung đột,
không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc
xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tòa án không chỉ là cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của
15
công lý, sự công bằng xã hội "Khi phải đối mặt với quan tòa, với công đường
người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Tòa án là người đại diện của
công lý và quan tòa là cán cân công lý" [8, tr.23].
1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác
Trong cơ quan Tòa án, Thẩm phán có rất nhiều mối quan hệ như quan
hệ với lãnh đạo, quan hệ với Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán
bộ làm các bộ phận khác của Tòa án. Tất cả các mối quan hệ này đều thể hiện
vai trò trung tâm của Thẩm phán.
1) Quan hệ giữa lãnh đạo Tòa án với Thẩm phán: Chánh án, Phó
Chánh án là những người lãnh đạo, quản lý toàn bộ hoạt động của cơ quan,
đảm bảo hoạt động của Toà án với vai trò là một cơ quan nhà nước. Thẩm
phán chỉ với tư cách là nhân viên, cán bộ trong cơ quan và đây là mối quan
hệ quản lý hành chính. Chánh án, Phó Chánh án chỉ có thể quản lý về mặt
con người và trong hoạt động nghiệp vụ thì không thể can thiệp vào công
việc xét xử của Thẩm phán nhưng Thẩm phán phải chịu sự phân công công
việc của lãnh đạo.
2) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Thẩm phán: Đây là quan hệ mang
tính chất tố tụng, trong hoạt động xét xử Thẩm phán hoàn toàn độc lập không
bị phụ thuộc vào bất cứ ai cho dù là lãnh đạo Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án
cũng là Thẩm phán, khi tham gia hoạt động tố tụng thì các Thẩm phán đều có
những quyền và nghĩa vụ giống nhau theo quy định của tố tụng.
3) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm
nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của
UBMTTQ cùng cấp, công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm họ không
phải cán bộ Tòa án nhưng chịu sự phân công của Chánh án. Hội thẩm là
những người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử với mục
đích đảm bảo tính dân chủ, Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ,
16
tham gia xét xử và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội
thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán
và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, tính độc lập ở đây thể hiện trên hai
phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập với chính những thành
viên trong Hội đồng xét xử. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò của
Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ
phần thủ tục đến phần tuyên án.
4) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Điều 197 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 (Điều 47 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định Thư
ký được Chánh án phân công tiến hành tố tụng, giúp Thẩm phán trong công
tác chuẩn bị phiên tòa; trước khi bắt đầu phiên tòa, phổ biến nội quy phiên
tòa; kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập…. Thư ký tiến
hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và Chánh án về những công việc của mình.
5) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham
gia tố tụng theo sự phân công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện Kiểm
sát. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ công tác tư pháp trong thời gian tới quy định "Phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào
chữa.." [6]. Căn cứ vào kết quả điều tra, Kiểm sát viên có quyền lập bản cáo
trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút toàn bộ hay một phần quyết định truy
tố tại phiên toà. Kiểm sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội
theo hướng tăng nặng đối với bị cáo. Ngoài chức năng trên Kiểm sát viên còn
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, đây là hai chức năng gắn bó
chặt chẽ với nhau, trong đó, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
xét xử hỗ trợ cho chức năng thực hành quyền công tố. Nếu phát hiện bản án
17
có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu toà án khắc phục
những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định cụ thể sự phối hợp
này tuy nhiên đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để
tìm ra sự thật khách quan của vụ án tránh việc đưa ra phán quyết trái pháp
luật, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
6) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác
trong hoạt động tố tụng: Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ
quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Các chức danh bổ
trợ tư pháp bao gồm Giám định viên, Luật sư, Công chứng viên. Mỗi một
chức danh này đều có vai trò, quyền và nghĩa vụ đặc trưng riêng nhưng có
điểm chung là hoạt động của các chức danh này là cần thiết, tạo điều kiện thể
hiện sự dân chủ, khách quan trong việc phán quyết của Thẩm phán. Mối quan
hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên, Điều tra viên khác với mối quan hệ
giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác xuất phát từ vị trí tố
tụng của các chức danh này.
Quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp như tác giả
trình bày ở trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể và ngược lại.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động
đến vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán
Trong hoạt động tiến hành tố tụng, Thẩm phán thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật và trước Tòa án; nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án…
Trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Chương II
Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003) thì các nguyên tắc về xét xử chi phối
18
toàn bộ đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, đó là:
nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; nguyên tắc
Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, đó là ba nguyên tắc có tính
chất quyết định đến quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong khi thực hiện
chức năng xét xử của mình.
1) Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013,
khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 "Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [36]. Với những
quy định trên thì ngoài cơ quan Tòa án không một cơ quan nhà nước nào khác
có chức năng xét xử và cũng không có quyền can thiệp bằng cách này hay
cách khác vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nội dung của nguyên tắc này là
đảm bảo tính khách quan, công bằng trong các quyết định do Tòa án đưa ra,
đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét những
chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ của vụ án hay
chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án
chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét toàn diện tại phiên
tòa và Hội đồng xét xử dựa vào kết quả phiên tòa, căn cứ vào các quy định
của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của quan
điều tra, Viện kiểm sát.
Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham
khảo lắng nghe ý kiến của các bên, nhưng luôn phải thể hiện bản lĩnh của
mình để xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho các ý kiến
của bên ngoài làm thay đổi quyết định của mình.
19
Tại các Điều 185, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 254
BLTTHS sửa đổi năm 2015) thì việc xét xử sơ thẩm hoặc trong những trường
hợp đặc biệt của xét xử phúc thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm có Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân thì Hội thẩm nhân dân độc lập với Thẩm phán
trong việc đưa ra ý kiến trình bày quan điểm của mình về vụ án.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử còn được thể hiện
trong quan hệ giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Toà án cấp trên
không thể can thiệp hoặc bằng các biện pháp hành chính buộc Tòa án cấp
dưới xét xử theo ý mình vì Tòa án cấp trên chỉ có quyền quản lý về mặt con
người đối với Tòa án cấp dưới chứ không có quyền can thiệp vào việc giải
quyết từng vụ án cụ thể của Tòa án cấp dưới. Trong hoạt động tố tụng Tòa án
cấp trên không được định hướng hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới để xét xử mà
chỉ là giải thích về mặt nghiệp vụ để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ khi áp
dụng quy định pháp luật vào trong công tác xét xử.
Đảng lãnh đạo được thể hiện bằng việc đưa ra quan điểm, nguyên tắc,
định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đảng lãnh đạo về
chính trị, tư tưởng về công tác tổ chức cán bộ trong ngành Tòa án. Đảng
không can thiệp vào từng vụ án cụ thể mà chỉ ra đường lối chỉ đạo hoạt động
xét xử trong từng giai đoạn.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
không có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm được xét xử tuỳ tiện mà phải xem xét
đối chiếu với sự việc thực tế xảy ra và trên cơ sở các quy định đó sẽ đưa ra
các pháp quyết của mình về hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác
phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án, nếu độc lập mà không tuân theo pháp
luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử một chiều, chủ quan duy ý chí:
Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật,
không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha
20
thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào [42, tr. 48]; Độc lập là
điều kiện để Hội đồng xét xử tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp
luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi
xét xử, mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc [23, tr. 49].
2) Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Nguyên tắc trên được quy định tại Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm
2013, Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 Việc xét xử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn, còn tại Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, BLTTHS sửa
đổi năm 2015 quy định "Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân
dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia, theo quy định của
bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán [35, Điều 22].
Kinh nghiệm thực tiễn của Hội thẩm nhân dân cùng kỹ năng, bản lĩnh
nghề nghiệp của Thẩm phán là sự kết hợp và bổ sung cho nhau để làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho công tác xét xử được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự mọi sự việc phải được Thẩm
phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Sự độc lập này
thể hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ giai đoạn nghiên cứu hồ sơ
đến giai đoạn xét xử vụ án tại phiên toà, cùng trao đổi, thảo luận bàn bạc
những vấn đề cần thiết liên quan đến việc xét xử, cũng như dự tính các tình
huống có thể xảy ra tại phiên toà và Thẩm phán không thể lấy kinh nghiệm
xét xử và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của mình để áp đặt Hội thẩm theo
ý kiến của mình đối với vụ án.
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia có mối quan
hệ song hành với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Nếu không có sự độc lập như trên thì Hội thẩm nhân dân
rất dễ bị phụ thuộc và chịu sự chi phối theo ý kiến của Thẩm phán.
21
3) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 4 điều 103 Hiến pháp năm
2013, Điều 10 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 17 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 (Điều 24 BLTTHS sủa đổi năm 2015) "Tòa án nhân
dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn và thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do Luật tố tụng quy
định"" [35]. Như vậy nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
là đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ khách quan của Hội đồng xét xử.
Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số có quan hệ
mật thiết với nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm tham gia, dù ở cấp xét xử
nào, sơ thẩm hay phúc thẩm thì việc xét xử đều được tiến hành theo hội đồng
chứ không phải do cá nhân Thẩm phán thực hiện.
1.2. Các mô hình tố tụng hình sự và vai trò của những ngƣời tiến
hành tố tụng
Theo giáo trình luật tố tụng hình sự của Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội thì “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác
và đúng pháp luật” [24, tr.13].
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của mọi Nhà nước luôn được
quan tâm hàng đầu và để thực hiện có hiệu quả công tác này, các Nhà nước đều
thành lập các cơ quan với chức năng là điều tra, truy tố, xét xử nhằm phát hiện
và xử lý kịp thời người phạm tội, nhằm bảo vệ các quyền và tự do cá nhân, các
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội. Hoạt động của các cơ quan này
được tiến hành theo một trình tự nhất định gọi là trình tự tố tụng hình sự.
Mô hình tố tụng hình sự ở nước ta trong quá trình phát triển đã chịu ảnh
hưởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự của các nước như Cộng hòa Pháp và
22
Liên Xô trước đây, hai mô hình tố tụng hình sự trên vốn bắt nguồn từ truyền
thống luật Châu Âu lục địa và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình
tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp của Pháp đã hiện diện
ở nước ta trong gần 100 năm, bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tư
pháp phong kiến bản xứ mô hình tố tụng trên đã ảnh hưởng sâu sắc đến truyền
thống, tư duy pháp lý ở nước ta.
Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ
chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và hệ thống pháp luật nước
ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình tố tụng Liên Xô. Trong lĩnh vực
tố tụng hình sự, sự ảnh hưởng này được thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta.
Xét về bản chất thì mục đích cơ bản của tố tụng hình sự là nhằm tìm
ra sự thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người đúng tội, không làm oan,
sai người vô tội và mỗi quốc gia luôn chọn cho mình một mô hình tố tụng
hình sự riêng. Tuy nhiên, căn cứ vào một số đặc điểm chung nhất, có thể
phân chia thủ tục tố tụng hình sự của các nước trên thế giới hiện nay thành
hai hệ thống hay còn gọi là hai mô hình tố tụng chủ yếu đó là: Hệ tố tụng
thẩm vấn (hệ tố tụng xét hỏi) và hệ tố tụng tranh tụng. Ngoài ra, có quan
điểm cho rằng có ba hệ thống tố tụng, ngoài hai hệ thống trên còn có hệ
thống tố tụng pha trộn [51, tr.30].
Hệ tố tụng tranh tụng chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ thống
pháp luật án lệ như: Anh, Mỹ, Canada, Ôxtrâylia và một số nước là thuộc địa
của Anh trước đây. Ví dụ, theo pháp luật của Mỹ “việc quyết định có tội hay
không có tội là trách nhiệm của Bồi thẩm đoàn, còn Thẩm phán chỉ trên cơ sở
kết luận của Bồi thẩm đoàn mà ra phán quyết về mức hình phạt đối với người
phạm tội ” [17, tr.80]. Còn hệ tố tụng thẩm vấn chủ yếu được áp dụng ở các
nước theo hệ thống pháp luật như: Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia "được phổ
23
biến rộng rãi nhất trong thời đại chế độ chuyên chế” [46, tr.13]. “Hệ tố tụng
thẩm vấn cho rằng sự thật có thể và phải tìm ra trong quá trình thẩm vấn điều
tra. Vì rằng các bên có thể có ý định che dấu sự thật nên nhà nước phải tham
gia sớm và liên tục vào việc thẩm vấn điều tra" [39, tr.122]. Sự phân chia các
hệ thống tố tụng hình sự thành hệ tranh tụng và hệ thẩm vấn không có nghĩa
là sự tranh tụng chỉ có trong hệ tranh tụng còn trong hệ thẩm vấn thì không có
tranh tụng và ngược lại. Trong xã hội hiện đại, hai hệ thống tố tụng này đang
chịu sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau, đan xen lẫn nhau và trong
mỗi hệ thống đều chứa đựng một số yếu tố của hệ thống còn lại.
Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc (2007) thì mô hình tố tụng hình sự
thẩm vấn là mô hình tố tụng hình sự mà trong đó các chức năng cơ bản như
chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử tập trung vào một
cơ quan nhà nước. Mô hình này có các dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất: Không có các bên độc lập vì hoạt động tích cực của các bên
bị thay thế bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong tố tụng hình sự, cơ quan
tiến hành tố tụng;
Thứ hai: Bị cáo hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và
là đối tượng xem xét của những cơ quan này;
Thứ ba: Không có sự tranh chấp pháp lý của các bên, thay vào đó là ý
chí của Nhà nước, của pháp luật và ý chí của Nhà nước là động lực của tố
tụng hình sự [31, tr.31].
Cả hai mô hình tố tụng trên đều có những điểm tương đồng, đó là:
Một là: Mục đích chung của cả hai mô hình tố tụng trên là tìm ra sự
thật với nguyên tắc người phạm tội phải bị xử lý hình sự.
Hai là: Cả hai mô hình tố tụng trên đều được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc tư pháp dân chủ, công bằng, minh bạch. Đây là những nguyên tắc
nhất quán để từ đó hình thành nên địa vị pháp lý của từng cơ quan cũng như
24
của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong cả
hai mô hình trên.
Ba là: Hệ tố tụng thẩm vấn cũng như tố tụng tranh tụng đều tiến hành
từng bước theo các giai đoạn điều tra, truy tố, chuyển sang Tòa án để xét xử,
các giai đoạn tố tụng trước nhằm phục vụ cho giai đoạn xét xử, đây là một
chuỗi giai đoạn tố tụng được tiến hành theo một trình tự luật định và có mối
quan hệ gắn bó mật thiết, không thể tách rời.
Hệ thống tố tụng tranh tụng và thẩm vấn có những điểm khác biệt và sự
khác nhau thể hiện ở cách thức tiến hành, về vai trò của các chủ thể tham gia
hoạt động tố tụng. Đối với hệ thống tố tụng thẩm vấn thì hoạt động tố tụng tập
trung vào giai đoạn điều tra, còn trong mô hình tố tụng tranh tụng thì giai
đoạn xét xử mọi phán quyết đều được căn cứ vào quá trình tranh tụng công
khai tại phiên toà. Một điểm khác biệt nữa là vai trò của Thẩm phán thì trong
hệ tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán trực tiếp xét hỏi; còn trong hệ tố tụng tranh
tụng thì Thẩm phán rất ít khi hoặc không tham gia xét hỏi mà chỉ là người
điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh luận tại phiên toà.
Ngoài hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng tranh tụng nêu trên, còn tồn tại
một hệ tố tụng pha trộn có đặc trưng của cả hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng
tranh tụng đó là trước khi xét xử vụ án, toàn bộ quá trình điều tra vụ án không
có tính công khai, việc bào chữa của bị can trong giai đoạn này bị hạn chế,
Thẩm phán có quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi vụ án được đưa ra xét xử và
tại phiên toà Thẩm phán đóng vai trò trung tâm, tiến hành xét hỏi bị cáo, nhân
chứng và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án để tìm ra sự
thật khách quan. Bên cạnh việc Thẩm phán giữ vai trò trung tâm trong việc
chứng minh tội phạm còn quy định vai trò của những người tham gia tố tụng
khác như Luật sư, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự...
Theo bà Elisabeth Pelsez, thẩm phán Tòa án phúc thẩm Rouen (Mỹ):
25
Nhược điểm của tố tụng tranh tụng là làm nảy sinh sự bất
bình đẳng giữa các bên trong vụ án hình sự, vì bên nào có nhiều
tiền thuê luật sư thì sẽ có nhiều khả năng giành thắng lợi hơn, trong
khi đó thủ tục xét hỏi khắc phục được nhược điểm này vì công tác
điều tra do thẩm phán độc lập và khách quan đảm nhiệm. Nhược
điểm thứ hai của tố tụng tranh tụng là nó rất phức tạp vì khi phiên
tòa diễn ra chưa có gì khẳng định là chắc chắn cả nên đôi khi dẫn
đến hệ quả nguy hiểm. Còn tố tụng xét hỏi bị chỉ trích là không tôn
trọng đầy đủ quyền của các bên đương sự, vì chứng cứ do thẩm
phán điều tra nên tố tụng xét hỏi bị coi là đi ngược lại nguyên tắc
vô tư, khách quan, đôi khi Thẩm phán có sẵn trong đầu quyết định
xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử, dưới gốc độ đó việc tranh
luận trở nên vô nghĩa [27, tr.13].
Như vậy giữa 2 mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh
tụng đều có những ưu thế và những hạn chế của nó.
Qua việc phân tích, nghiên cứu đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự
tác động và chi phối của nó đối với vai trò của các cơ quan tố tụng cũng như của
người tiến hành tố tụng, đặc biệt là vai trò của Thẩm phán qua đó giúp cho việc
từng quốc gia đưa ra lựa chọn áp dụng mô hình tố tụng thích hợp với điều kiện
kinh tế, văn hoá, xã hội và truyền thống pháp lý của mình và làm cơ sở cho việc
xây dựng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tiến hành tố tụng và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động tố tụng hình sự
1.3.1. Yếu tố truyền thống pháp lý
Nguồn gốc thuộc địa có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành hệ
thống pháp luật và để lại dấu ấn sâu sắc trong hệ thống pháp luật của các
26
nước đã từng là thuộc địa, như hệ thống pháp luật Mỹ, Australia chịu ảnh
hưởng của hệ thống pháp luật Anh. Việc nghiên cứu lịch sử pháp luật cho
phép tìm hiểu nguồn gốc của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật ở đây
được hiểu theo hai nghĩa:
Một là: Đó là hệ thống pháp luật của quốc gia như hệ thống pháp luật
Việt Nam, hệ thống pháp luật Mỹ.
Hai là: Hệ thống pháp luật được hiểu là tập hợp một số hệ thống pháp
luật quốc gia có nhiều điểm tương đồng, theo những tiêu chí nhất định như hệ
thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Anh - Mỹ... Theo nghĩa
còn được hiểu là truyền thống pháp luật. Hiện nay vẫn có nhiều quan niệm
khác nhau về cách phân chia các truyền thống pháp luật. Theo tác giả có bốn
hệ thống pháp luật cơ bản là:
1) Hệ thống pháp luật tôn giáo, điển hình là hệ thống pháp luật các
nước hồi giáo.
2) Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đại diện là hệ thống pháp luật
các nước như Pháp, Đức.
3) Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, đại diện là hệ thống pháp luật nước
Anh, nước Mỹ.
4) Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, đại diện là hệ thống pháp luật
Liên Xô cũ và hệ thống pháp luật của các nước đang chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc.
Tương ứng với mỗi một truyền thống pháp luật thì vai trò của Thẩm
phán trong hoạt động tố tụng hình sự lại có những điểm khác nhau. Trong hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ, do đặc điểm nguồn luật là luật bất thành văn nên
các nước theo hệ thống này chấp nhận án lệ là nguồn luật chủ yếu và các
Thẩm phán được giao quyền sáng tạo luật thông qua hoạt động xét xử; hệ
thống luật Châu Âu lục địa Thẩm phán chỉ xác định sự thật của vụ án và tìm
27
ra căn cứ pháp luật để áp dụng; hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trao
quyền cho Toà án tối cao được theo dõi, tổng kết thực tiễn xét xử của các Toà
án cấp dưới. Trên cơ sở đó ban hành các Thông tư, Nghị quyết hướng dẫn xét
xử, như vậy Thẩm phán ngoài nhiệm vụ xét xử ở một mức độ nào đó còn thực
hiện nhiệm vụ lập pháp; còn hệ thống luật Hồi giáo, Thẩm phán được quyền
độc lập giải thích kinh Koran và Sunna dựa trên sự hiểu biết của mình để áp
dụng vào vụ án cụ thể.
Như phân tích ở phần trên, trong quá trình hình thành và phát triển yếu
tố truyền thống pháp lý được các nhà khoa học pháp lý đã phân ra hai mô
hình tố tụng gồm: hệ tố tụng xét hỏi thường được áp dụng trong truyền thống
pháp luật Châu Âu lục địa còn hệ tố tụng tranh tụng thường áp dụng trong
truyền thống pháp luật Anh - Mỹ, ngoài ra còn có mô hình tố tụng hỗn hợp
(pha trộn) thường được áp dụng trong hệ thống pháp luật tôn giáo và hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Còn về thực hiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình
sự thì phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn mô hình tố tụng đối với các quốc
gia. Đối với các nước lựa chọn mô hình tố tụng tranh tụng thì quyền, nghĩa vụ
và vai trò của Thẩm phán được tập trung tại giai đoạn xét xử, vai trò chính
của Thẩm phán trong khi xét xử là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng. Ở
nước Anh có câu thành ngữ "Thẩm phán nào mở miệng nói thì không còn suy
nghĩ được" [47, tr. 96], còn ở Pháp, Thẩm phán đóng vai trò quyết định trong
quá trình xét xử.
1.3.2. Yếu tố văn hóa pháp lý
Nói tới văn hoá pháp lý là nói tới con người, nói tới việc phát huy năng
lực bản chất của con người trong các hoạt động pháp lý. Cơ sở của mọi hoạt
động văn hoá pháp lý là khát vọng của con người hướng tới các giá trị pháp lý
được định chuẩn bởi pháp luật. Các hoạt động đó về bản chất là hướng tới các
28
giá trị tích cực và mang tính sáng tạo, phổ biến nên văn hoá pháp lý về nội
dung cần được hiểu với nghĩa là luôn luôn hàm chứa các giá trị hữu ích, tích
cực. Mọi hoạt động nếu xuất phát từ nhu cầu không chính đáng của con người
đương nhiên sẽ không hàm chứa các giá trị văn hoá và văn hoá pháp lý “ở các
nước phương Tây, tôn trọng pháp luật là một truyền thống. Đối với họ không
có khái niệm tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật” [17, tr.190] việc tìm
hiểu pháp luật ở phương Tây là quyền của mỗi công dân để nhằm mục đích bảo
vệ chính lợi ích của mình tại Tòa án, còn ở Việt Nam thì chúng ta chịu nhiều
ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo về đạo đức. Do vậy, tâm lý của người Việt
là sợ pháp luật "Vạn bất đắc dĩ mới phải ra chốn công đường" [17, tr.183].
Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn
hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải
dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến
thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn tới
việc hình thành vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự, bởi vì
ban hành một đạo luật không khó bằng việc đưa đạo luật đó vào cuộc sống.
Chúng ta có thể căn cứ vào yếu tố chính trị, vào truyền thống pháp luật để quy
định về vai trò, về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, nếu không tính đến yếu
tố văn hoá thì những quy định đó chỉ là lý thuyết, xa rời thực tiễn.
1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước
Cho dù Nhà nước có được tổ chức theo mô hình nào đi chăng nữa, thì
quyền lực nhà nước vẫn luôn là thống nhất, nhưng vẫn phải có sự phân công và
phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư
pháp là nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, hành pháp và đồng nghĩa
với quyền xét xử do Toà án thực hiện, do vậy vị trí, vai trò của Toà án nói
chung cũng như của Thẩm phán nói riêng phụ thuộc vào quan điểm tư tưởng
chỉ đạo của giai cấp cầm quyền. Ví dụ như ở Mỹ, ba nhánh quyền lực này luôn
29
đối trọng và kiềm chế lẫn nhau, sự phân quyền diễn ra mạnh mẽ. Toà án thực
sự giữ vai trò kiềm chế đối với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Tòa
án có quyền kiểm soát tính hợp hiến của luật "Ngay kể cả Tổng thống và Quốc hội
cũng không được hỏi Tòa án tối cao về cách giải thích một đạo luật hay một dự
án luật nếu như việc này không nằm trong trường hợp của một vụ kiện cụ thể”
[17, tr.62], người Mỹ đề cao vai trò của Tòa án trong tổ chức và hoạt động bộ
máy nhà nước của mình„'Tiếng nói của Tòa án là tiếng nói cuối cùng, sự giải
thích của Tòa án về Hiến pháp có giá trị hơn quan điểm của Quốc hội và Tổng
thống” 19, tr.68]. Chính vì vậy người ta coi Thẩm phán là một nghề cao quý
trong xã hội. "Luật gia được trọng dụng nhất ở Anh là Thẩm phán" [47, tr.96].
Các Thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư nổi tiếng. Nói chung
các Thẩm phán Tòa án tư sản thường được bổ nhiệm với những nhiệm kỳ khá
dài, thậm chí có những nước thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời
nếu không phạm tội, Ở Pháp:
Thẩm phán có quyền bất khả bãi miễn [26, tr.145] và được
bảo vệ trước mọi sự đe doạ và tấn công khi làm nhiệm vụ. Nhà
nước phải bồi thường thiệt hại trực tiếp cho Thẩm phán nếu có
những trường hợp mà pháp luật về bảo vệ không quy định. Thẩm
phán không bị điều động sang bất kỳ công việc nào khác trừ trường
hợp làm nghĩa vụ quân sự [54, tr.145],
Ở nước Australia (Úc) thì: “Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, không
ai có thể cách chức Thẩm phán trừ khi họ vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp và
đạo đức. Việc bãi nhiệm Thẩm phán phải được đưa ra Quốc hội tiểu bang
hoặc Liên bang với đa số tán thành thì mới được bãi nhiệm” [26, tr.144].
Trong hoạt động xét xử của mình, các Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy tắc xét xử được quy định trong luật tố tụng của từng quốc gia để
bảo vệ công lý, công bằng xã hội, tránh sự lợi dụng quyền lực của chính các
30
Thẩm phán và cũng như để cho Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các
quan chức nhà nước.
Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa quy định nguyên tắc thống nhất quyền lực
nhà nước nhưng cũng thừa nhận sự độc lập xét xử của Tòa án. Sự độc lập của
Tòa án trong nhà nước xã hội chủ nghĩa có những điểm khác so với sự độc lập
trong nhà nước tư sản như sau:
Thứ nhất: Đối với nhà nước tư sản, Tòa án ngang bằng với Quốc hội và
có thể tài phán về hành vi của Quốc hội.
Thứ hai: Ở các nước xã hội chủ nghĩa Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất; cơ quan Tòa án ở vị thế thấp hơn nên không có quyền tài
phán về hành vi của Quốc hội.
Như đã phân tích ở trên, tương ứng với sự khác biệt với hai hệ thống
Tòa án ở hai chế độ nhà nước khác nhau thì vai trò của Thẩm phán đối với
từng hệ thống cũng có sự khác biệt về vai trò pháp lý như: “Việc bổ nhiệm
thẩm phán Tòa án liên bang Mỹ do Tổng thống bổ nhiệm và cố sự phê chuẩn
của Thượng Nghị viện” [17, tr.74]; khác với các nước tư sản, Thẩm phán ở
các nước XHCN trước đây thực hiện theo chế độ bầu cử “bởi vì nó gắn liền
với tổ chức bộ máy nhà nước hoạt động theo cơ chế chủ tịch tập thể ra quyết
định dưới hình thức nghị quyết" [39, tr.58]. Trong tác phẩm "Tinh thần của
luật pháp", Mongtexkio của nhà xuất bản Sài Gòn viết:
Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt
với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được
sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét
xử được sáp nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành
những kẻ áp bức [28, tr.84].
Còn ở Việt Nam, chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện từ 1960 đến
năm 1992, trong giai đoạn trên pháp luật quy định Hội đồng nhân dân cấp nào thì
31
bầu ra Thẩm phán Toà án nhân dân ở cấp đó. Nhưng đến Hiến pháp Việt Nam
năm 2013 quy định: "Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án" [33, Điều 88, Khoản 3].
Ngoài các yếu tố trên, để hình thành nên vai trò trung tâm của Thẩm
phán trong tố tụng hình sự còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới quá trình
này. Tuy nhiên theo tác giả đây là ba yếu tố cơ bản nhất.
Kết luận Chƣơng 1
Thẩm phán là một chức danh tư pháp có vai trò rất quan trọng trong
việc giải quyết các vụ án hình sự “Lao động của thẩm phán là lao động trí
não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội,
của công dân” [26, tr.16].
Thẩm phán hoạt động trên những nguyên tắc cơ bản được quy định tại
Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự. Thẩm phán là một trong các chủ thể tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Việc nghiên cứu đặc điểm của
các mô hình tố tụng hình sự giúp chúng ta có cơ sở khoa học để tìm hiểu về
thực hiện quyền và nghĩa vụ và vai trò của Thẩm phán. Trong mỗi một mô
hình tố tụng thì vai trò, quyền hạn của Thẩm phán đều khác nhau. Tuy nhiên,
qua phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy vai trò trung tâm của Thẩm phán
trong hoạt động tố tụng hình sự, vai trò trung tâm này còn được thể hiện thông
qua mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng khác.
.
32
Chương 2
NHỮNGQUYĐỊNH CỦA PHÁPLUẬTTỐTỤNGHÌNH SỰ
VIỆTNAMVỀ VAI TRÒCỦATHẨMPHÁNVÀTHỰCTIỄNTHIHÀNH
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về
vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nƣớc ta từ 1945
đến nay
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng tám
thành công, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật khi nhà nước non trẻ được
hình thành cũng như để giữ vững ổn định trật tự xã hội, nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự như: Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 và sắc lệnh số 21/SL ngày
14/02/1946 về thành lập các Tòa án quân sự; sắc lệnh ngày 10/10/1945 về tổ
chức các đoàn luật sư...
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có ghi nhận một số nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; địa vị pháp lý, các quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo, của người bào chữa và các chủ thể tham gia tố
tụng khác; trình tự và thủ tục tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. Đặc biệt là sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 là văn bản pháp lý
đầu tiên quy định một cách đầy đủ và tương đối hoàn chỉnh về địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự. Những văn bản pháp luật này
là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta với một nền tư pháp
nhân dân của chế độ mới.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã quy định hệ thống Tòa án gồm:
Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Thẩm phán được chia
33
làm hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Tòa sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị
cấp làm việc ở Tòa đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị
cấp lại chia thành hai loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội. Thẩm
phán xét xử có thể được chuyển sang làm Thẩm phán buộc tội và ngược lại.
Theo Điều 27 Sắc lệnh 13 quy định Thẩm phán có quyền hạn rất lớn trong xét
xử, mặc dù quy định khi xét xử phải có sự tham gia của phụ thẩm "khi xét xử
ngoài Chánh án chủ tọa phiên toà còn có hai phụ thẩm" nhưng quyền hạn của
Phụ thẩm còn hạn chế “khi Chánh án hỏi ý kiến của Phụ thẩm về tội trạng các
phạm nhân và về hình phạt rồi tự mình quyết định". Thẩm phán là người
quyết định sau khi hỏi ý kiến của phụ thẩm. Ngoài ra, Chánh án còn có quyền
tuyên phạt đối với hai phụ thẩm.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định:
Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông
biện lý và sau cùng nghe lời bàn cãi của các bị can, ông Chánh án,
hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị án đề
cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt,
trường hợp tăng tội, giảm tội [16, Điều 31].
Nhưng tại Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về quyền và nghĩa
vụ của Thẩm phán như sau:
Ông Chánh án chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ điều khiển cuộc
thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên tòa; ông Chánh án nếu cần có thể
mở phiên toà ngoài trụ sở của Tòa án, nơi cách xa tòa; mỗi khi tuyên
án tử hình, Chánh án bắt buộc phải báo cho tội nhân biết rằng hắn có
quyền xin ân giảm và hỏi hắn cố muốn đệ đơn xin không [16].
Về vai trò pháp lý của Thẩm phán trong thời kỳ đầu của Nhà nước ta là
cơ sở ban đầu cho việc hoàn thiện hoạt động xét xử sau này.
Hiến pháp 1946 đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật
34
nước ta, trong đó bao gồm cả các nguyên tắc của tố tụng hình sự, đó là: các
phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt trong khi xét xử
các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật; các cơ quan khác không được
can thiệp. Như vậy Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 xác
định Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, giữ
một vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, đến 1950 Sắc lệnh 85/SL
được ban hành, quy định cơ cấu cơ quan Tòa án có sự thay đổi, phụ thẩm
nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân, trong xét xử, Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán.
Năm 1954, nước ta bước vào một giai đoạn mới cùng một lúc phải
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất đất
nước. Những thay đổi cơ bản của đất nước và xã hội đòi hỏi cần phải có các
văn bản pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát
sinh. Hiến pháp năm 1959 và các văn bản pháp luật khác trong đó có văn
bản pháp luật tố tụng hình sự được ban hành trong thời gian này đã kịp thời
đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội theo hướng dân chủ hoá các quy
định để điều chỉnh các quan hệ trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày 14/7/1960 Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân và quy
định phân cấp hệ thống Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và trong trường hợp đặc biệt,
Quốc hội thành lập các Tòa án đặc biệt.
Nhiệm vụ của công tác xét xử trong giai đoạn này là bảo vệ chế độ
dân chủ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp
pháp của nhân dân góp phần đảm bảo sự nghiệp đấu tranh giải phóng thống
nhất đất nước. Song qua các văn bản pháp luật đó chúng ta cũng xác định
được vai trò pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng và được thể
35
hiện ở những nguyên tắc tố tụng như: sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
của Tòa án trong đó Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân
và khi tham gia xét xử ngang quyền với với nhau; Tòa án xét xử tập thể và
quyết định theo đa số.
Ngày 27/9/1974 Tòa án nhân dân Tối cao ban hành thông tư 16 - TATC
ban hành kèm theo Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự đã
quy định rõ vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
như: tại phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phải kiểm tra căn cước của bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường và những người
có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp; giải thích quyền và nghĩa
vụ để những người tham gia tố tụng biết; giới thiệu thành viên Hội đồng xét
xử, đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa, người phiên dịch, thư ký phiên
tòa; điều hành phần xét hỏi, tranh luận và giữ gìn trật tự phiên tòa; tại phần
xét hỏi, chủ tọa hỏi trước, các Hội thẩm hỏi bổ sung; ở phần nghị án, Hội
đồng xét xử cùng thảo luận và biểu quyết theo đa số; Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa sẽ tuyên đọc bản án. Quy định trên hầu như được giữ nguyên đến
khi chúng ta ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và khẳng định Thẩm
phán giữ vai trò, vị trí trung tâm trong hoạt động xét xử, Thẩm phán là người
điều khiển phiên tòa với nhiều trọng trách vừa chứng minh tội phạm, vừa
quyết định hình phạt, vừa đảm bảo phiên tòa diễn ra đúng luật định và Thẩm
phán còn phải giúp Hội thẩm nắm được pháp luật, đường lối, chính sách,
đồng thời phải tích cực phát huy vai trò của Hội thẩm nhân dân khi tham gia
xét xử tại phiên tòa.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Trong giai đoạn này Hiến pháp năm 1980 đã được Quốc hội Khóa VI
thông qua ngày 18/12/1980, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thông
qua ngày 03/7/1981, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thông qua ngày
36
28/6/1988. Những văn bản pháp luật trên đã cụ thể hoá các quy định về tổ
chức và hoạt động của Tòa án bằng cách quy định một cách hệ thống các vấn
đề cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động của Thẩm phán.
Một số nguyên tắc của tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật liên
quan trực tiếp tới hoạt động của Thẩm phán, đó là: nguyên tắc Tòa án xét xử
công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; chế độ xét xử có Hội thẩm
tham gia; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 quy định: 'Trong phạm vi chức
năng của mình, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động” [34, Điều 1]. Như vậy, quyền và nghĩa
vụ của Thẩm phán trong giai đoạn này đã được mở rộng, cụ thể hơn, cao cả và
nặng nề hơn [26, tr.84].
Quyền và nhiệm vụ của Thẩm phán theo quy định Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988 khi giải quyết một vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,
tại phiên tòa và sau khi xét xử như sau:
Một là: Nghiên cứu hồ sơ để xem xét những vấn đề cần chứng minh
trong vụ án, việc định tội danh có đúng hay không.
Hai là: Tiến hành những việc khác để mở phiên tòa như triệu tập người
tham gia phiên tòa, trích xuất bị cáo đang bị tạm giam...
Ba là: Giải quyết khiếu nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng.
Và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải ra một trong số các
quyết định sau:
1) Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
2) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
3) Quyết định tạm đình chỉ vụ án;
4) Quyết định đình chỉ vụ án.
Trước đây theo Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về trình tự sơ
37
thẩm hình sự theo Thông tư số 16 ngày 27/9/1974 thì trong những trường hợp
cần yêu cầu điều tra bổ sung hoặc cần thay đổi biện pháp ngăn chặn, tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ tố tụng thì Tòa án phải họp trù bị với Viện Kiểm sát rồi mới
ra quyết định. Nhưng Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không quy định họp
trù bị là một thủ tục bắt buộc cho nên đây chỉ là việc phối kết hợp giữa các cơ
quan tố tụng mà thôi.
Thông tư liên ngành số 01-TT/LN ngày 08/12/1988 giữa Tòa án nhân dân
tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì những trường hợp cần trao đổi là:
Khi Tòa án thấy cần trả hồ sơ để Viện Kiểm sát điều tra bổ sung, đổi tội danh
nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn; khi Tòa án thấy cần đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; khi cần nhập hoặc tách vụ án; khi cần chuyển vụ
án cho Tòa án khác giải quyết; khi chuẩn bị xét xử vụ án điểm hoặc vụ án
phức tạp và những trường hợp cần thiết khác.
So với quy định của các văn bản pháp luật trong giai đoạn 1945 - 1980
thì sự độc lập trong việc giải quyết vụ án hình sự trong quá trình tố tụng trong
giai đoạn này đã có những quy định cụ thể hơn,chặt chẽ hơn. Trong giai đoạn
này, các quy định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa không có nhiều thay
đổi so với Bản hướng dẫn năm 1974; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy
định “Chủ tọa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên,
người bào chữa” [35, Điều 181, Khoản 2]. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn
kỳ này thì vai trò của Thẩm phán và hội đồng xét xử rất quan trọng, tại phiên
tòa Thẩm phán nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước vừa là người làm
sáng tỏ bản chất vụ án, vừa là người buộc tội vừa là người gỡ tội, còn vai trò
của Kiểm sát viên tại phiên tòa thị mờ nhạt.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17); Tòa án xét
38
xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 18); việc xét xử của Tòa án được
tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự (Điều 19); Xét xử trực
tiếp, bằng lời nói và liên tục (Điều 159); đối với vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội
thẩm nhân dân (Điều 160). Như vậy, pháp luật đã giành cho Thẩm phán
những quyền năng pháp lý đặc biệt đồng thời cũng là những trách nhiệm nặng
nề trước pháp luật. Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các điều
kiện bảo đảm cho Thẩm phán có thể hoàn thành được vai trò và chức năng
pháp lý của mình trong hoạt động tố tụng hình sự của mình.
Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 về vai trò, nhiệm
vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa án trong tố tụng hình sự, có thể thấy rằng
ngoài nhiệm vụ xét xử Thẩm phán còn có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất vụ án,
vừa là người buộc tội vừa là người gỡ tội. Như vậy, khẳng định rằng vai trò của
Thẩm phán trong hoạt động tố tụng được pháp luật trao rất nhiều quyền. Về
hạn chế, đôi khi Thẩm phán lại làm thay công việc của Kiểm sát viên tại phiên
tòa, do vậy mục tiêu vô tư khách quan của Thẩm phán tại phiên toà bị ảnh
hưởng vì làm mất sự cân bằng giữa bên buộc tội và bên bào chữa.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay
Qua thực tiễn tổ chức thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
1992 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến năm 2002 cho thấy nhiều quy
định của Luật cần được nghiên cứu, sửa đổi để tạo cơ sở pháp lý cho việc
hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân, nhằm đảm bảo cho Tòa án nhân
dân thực hiện tốt chức năng của mình. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đã
xây dựng những định hướng lớn về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án nhân dân, ngày 02/4/2002 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và trên cơ sở Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán
39
và Hội thẩm nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đây
được coi là bước cải cách tư pháp lớn đối với ngành Tòa án nhân dân đó là
việc thay đổi cách quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án
quân sự về tổ chức từ Bộ trưởng Bộ Tư pháp sang Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao quản lý có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và
Bộ Quốc phòng.
Trong giai đoạn này thì việc cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà
nước quan tâm hàng đầu và tạo cơ sở vững chắc cho công cuộc cải cách tư
pháp thì các văn bản pháp luật được ban hành từng bước và có lộ trình thực
hiện nhất định như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở giai đoạn này
đã đạt được những thành công nhất định. Thẩm phán trong hoạt động xét xử
đáp ứng được nhu cầu đề ra và đã xây dựng được hình ảnh về đội ngũ cán bộ
nhà nước nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng trong sạch, liêm khiết, tận
tâm với nghề được quần chúng nhân dân tin yêu.
2.2. Vai trò của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự
2.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật luật tố tụng hình sự
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
đã có nhiều sửa đổi và bổ sung nhưng vẫn còn một số ít những quy định chưa
phù hợp với tình hình thực tế, do đó ít nhiều gây khó khăn cho các Thẩm phán
trong thực tiễn áp dụng. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật của một số ít Thẩm
40
phán còn chưa triệt để, dẫn tới hoạt động xét xử còn có nhiều hạn chế. Về
phần này, tác giả không đề cập tới những kết quả đã đạt được mà chỉ nêu ra
một số vấn đề cần quan tâm trong việc thực hiện vai trò của Thẩm phán trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
1) Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử:
Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra phiên tòa những việc chưa
được điều tra hoặc không được khởi tố vụ án hình sự. Chuẩn bị xét xử được
bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát
chuyển sang. Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Khoản 1
Điều 45 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định nhiệm vụ quyền hạn, trách
nhiệm của Thẩm phán như sau:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự;
c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
d) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo sự phân công của Chánh án Tòa án;
Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa, ngoài những nhiệm
vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều 39, thì tại Khoản 2 Điều 39 Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 (khoản 2 Điều 45 BLTTHS sửa đổi năm 2015)
Thẩm phán còn có những nhiệm vụ quyền hạn sau:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án;
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT

ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nônghieu anh
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 

Similar to Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT (20)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAYLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
 
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOTLuan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAYLuận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 

Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ DUY HIỂN VAI TRß CñA THÈM PH¸N TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ DUY HIỂN VAI TRß CñA THÈM PH¸N TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của GS-TSKH Lê Văn Cảm. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong một công trình khoa học nào khác. Tất cả các tư liệu được đề cập trong luận văn đều trung thực, chính xác, có nguồn gốc, rõ ràng. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội xem xét để tôi bảo vệ Luận văn. Tôi xin trân thành cảm ơn! Ngƣời cam đoan Hà Duy Hiển
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ..............................10 1.1. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ............10 1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán......................................................10 1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác ........15 1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động đến vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán .................................................17 1.2. Các mô hình tố tụng hình sự và vai trò của những ngƣời tiến hành tố tụng...............................................................................21 1.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự................................................................25 1.3.1. Yếu tố truyền thống pháp lý...............................................................25 1.3.2. Yếu tố văn hóa pháp lý.......................................................................27 1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước..........28 Kết luận Chƣơng 1........................................................................................31 Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ THỰC TIỄNTHIHÀNH ...............................................................................32 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nƣớc ta từ 1945 đến nay...................................................................32 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 ...............................................32 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ...............................................35
  • 5. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay .........................................................38 2.2. Vai trò của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự................................................................................................39 2.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật luật tố tụng hình sự ..........................39 2.2.2. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự.......................................................51 2.2.3. Vai trò của Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp......................................58 Kết luận Chƣơng 2........................................................................................63 Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM .......................................................................64 3.1. Sự cần thiết của công cuộc cải cách tƣ pháp .................................64 3.2. Những yêu cầu cơ bản về việc cải cách hoạt động của Tòa án và Thẩm phán..............................................................................68 3.2.1. Về việc cải cách hoạt động đối với Tòa án........................................70 3.2.2. Về việc cải cách hoạt động đối với Thẩm phán.................................72 3.3. Xác định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tƣ pháp .......73 3.4. Một số vấn đề kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng về vai trò của Thẩm phán .................................75 3.4.1. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà..............................75 3.4.2. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán .........76 3.4.3. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Tòa án trên cơ sở đó hoàn thiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ...........77 3.4.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ........78 Kết luận Chƣơng 3........................................................................................80 KẾT LUẬN....................................................................................................82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................84
  • 6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao TAQS: Tòa án Quân sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Cùng với Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, bảo đảm tính thượng tôn Hiến pháp, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp, một nhiệm vụ lớn và trọng tâm lúc này là căn chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tư pháp cho phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013 và các định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Mục tiêu cải cách tư pháp thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó cải cách Tòa án và hoạt động xét xử là trung tâm của cải cách tư pháp với khâu đột phá là mở rộng tranh tụng dân chủ trong xét xử. Để đạt mục tiêu đó, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra 5 phương hướng và 7 nhóm giải pháp, tập trung vào cải cách pháp luật nội dung (hình sự, dân sự, hành chính...) và pháp luật tố tụng; cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của công luận, của nhân dân và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cơ quan tư pháp. Nghị quyết xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Đây là bước
  • 8. 2 phát triển mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực tư pháp nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm” [18, tr.127]. Trước yêu cầu hội nhập sâu rộng nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam với cộng đồng Quốc tế trên tất cả các lĩnh vực với mục tiêu Việt Nam muốn làm bạn, làm đối tác tin cậy, là nước có trách nhiệm trong việc giải quyết các vấn đề Quốc tế có liên quan và một trong những lĩnh vực trọng tâm là Việt Nam đang quan tâm thực hiện cải cách hành chính, cải cách pháp luật một cách đồng bộ phù hợp với luật pháp Quốc tế. Hiến pháp 2013 quy định “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [33, Khoản 3], trên tinh thần đó, vấn đề đặt ra cho các cơ quan Tư pháp Việt Nam nói chung và ngành Tòa án nói riêng nhiều thách thức thực sự là cơ quan bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Việt Nam đã và sẽ tham gia thực hiện các công ước, điều ước quốc tế khi gia nhập và trở thành thành viên, đòi hỏi hệ thống pháp luật bao gồm cả luật nội dung và luật tố tụng cần được sớm hoàn thiện. Thực tiễn trên đây đã đặt ra cho các Thẩm phán Việt Nam không những cần phải có kiến thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực luật nội dung mà còn phải hiểu biết và áp dụng thành thạo luật tố tụng liên quan để giải quyết các loại vụ án tranh chấp. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Tòa án đã tiến hành xét xử theo hướng nâng cao vai trò tranh tụng, đảm bảo quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị xác định rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020 là phải nâng
  • 9. 3 cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, cùng với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 được Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ tám) thông qua ngày 24/11/2014 có hiệu lực ngày 01/6/2015; Bộ Luật Hình sự sửa đổi 2015, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi 2015 được Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ mười) thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày 01/7/2015, thì Ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự đổi mới về tổ chức và hoạt động; tăng cường quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Gắn liền với hoạt động của Tòa án là Thẩm phán, Thẩm phán là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung, đặc biệt là việc thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết Đảng đã đề ra. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự là một việc làm cần thiết góp phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong những nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp là: “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” [6]. Một phiên tòa nói chung và phiên tòa sơ thẩm hình sự nói riêng có bảo đảm tính chất tranh tụng hay
  • 10. 4 không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Vai trò của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, của Luật sư, của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác, nhưng vai trò của chủ tọa phiên tòa là quan trọng nhất. Kết quả phiên tòa phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ. Thông qua đề tài này, tác giả muốn làm rõ thêm vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó đề xuất một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Các sách (sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn và giáo trình) 1). GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”, Tạp chí luật học. 2). GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên) “Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" Sách chuyên khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 2009. 3). PGS.TS. Phạm Hồng Hải (2003), “Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 4). PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”. Nxb Tư pháp, Hà Nội 5). PGS.TS Đinh Văn Quế (2005), “Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ”. Nxb Lao động - Xã hội. 6). PGS. TS Võ Khánh Vinh (2007) "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự". Nxb Công an nhân dân.
  • 11. 5 Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 đã có hàng loạt các bài viết khoa học đã được đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Tòa án nhân dân (thuộc Tòa án nhân dân Tối cao), Tạp chí Kiểm sát (thuộc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao) mà ở các mức độ đánh giá, phân tích khác nhau có liên quan đến đề tài này, cụ thể: 1). “Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt Nam” Cổng thông tin điện tử Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Trích dẫn từ:http://www.hcmcbar.org 2). Quách Thành Vinh – Tòa án Quân sự Trung ương; Đàm Kim Yến - Tòa phúc thẩm, TANDTC (2010) “Mấy vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 19, tháng 10/2010. 3). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Tòa án là trung tâm – Xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp". Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 9, tháng 5/2011. 4). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Những vấn đề cơ bản về tổ chức – Thực hiện quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền". Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 13, tháng 5/2011. 5). GS.TSKH Lê Văn Cảm (2011) "Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp". Tạp chí Kiểm sát – Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2011. 6). “Tổng hợp những vướng mắc về tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao tháng 12/2011. 7). Thạc sỹ Trần Duy Bình – Tòa án nhân dân tỉnh An Giang (2012) “Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2012.
  • 12. 6 8). Nguyễn Quang Ngọc - Nguyên Thẩm phán TANDTC (2013) “ Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân dân Tối cao số 8, tháng 4/2013. 9). Thạc sỹ Nguyễn Văn Trượng (2013) “Hoàn thiện thủ tục xét xử vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 19,tháng 10/2013. 10). Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hằng, Giảng viên khoa Luật – Đại học Huế (2014) “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2014. 11). Thạc sỹ Nguyễn Văn Nhớ, Thẩm phán Tòa án Quân sự khu vực 1 - Quân khu 9 (2014) “Hoàn thiện quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”. Tạp chí tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 14, tháng 7/2014. 12). Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm phán TANDTC “Kỹ năng viết Bản án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 17, tháng 9/2014. 13). “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin - tuyên truyền về tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị”. Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân dân Tối cao số 02 - tháng 01/2015 2.2. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giải như 1). Luận án Tiến sỹ của tác giả Đỗ Gia Thư (2006) “Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay”. 2). Tiến sỹ Phạm Văn Lợi (2004), “Chế định thẩm phán - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Nxb Tư pháp.
  • 13. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay để làm sáng tỏ một số nội dung sau: 1) Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự. 2) Vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thi hành. 3) Nhận diện được những hạn chế, bất cập và đề xuất những giải pháp hoàn thiện về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài 1) Nghiên cứu, phân tích, đánh giá những đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự để làm rõ thêm vai trò của Thẩm phán tương ứng với từng mô hình tố tụng hình sự. 2) Đánh giá những kết quả và hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta thời gian vừa qua. 3) Đề xuất một số vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu yêu cầu cải cách tư pháp đối với Ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án hình sự đối với ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng.
  • 14. 8 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; Thẩm phán trong hoạt động thực tiễn xét xử. Luận văn có tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia và một số công trình nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học pháp lý chuyên ngành. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện ở tất cả các giai đoạn xét xử như: giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Phạm vi nghiên cứu về Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng ở tất cả các giai đoạn trên có tính chất đa dạng, phức tạp và rộng lớn và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên bản thân tác giả hiện đang công tác trong ngành thi hành án dân sự cấp huyện, vì vậy trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn do nhận thức trong công tác nghiên cứu còn có mặt hạn chế, nên tác giả chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam ở giai đoạn xét xử sơ thẩm về các vụ án hình sự. 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận vì đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn là: 6.1. Kiến nghị những giải pháp để nâng cao tính độc lập trong mối quan hệ với các cơ quan, cá nhân bên ngoài hệ thống Toà án 6.2. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Toà án trên cơ sở đó hoàn thiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự
  • 15. 9 6.3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các tiêu chuẩn bổ nhiệm, nâng ngạch, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, phần Kết luận và phần Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò của Thẩm phán và thực tiễn thi hành. Chương 3: Một số vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
  • 16. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán Theo “Đại từ điển tiếng việt” của tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên) và một số đồng tác giả khác thì vai trò được hiểu như sau “Vai trò, chức năng, tác dụng của cái gì, hoặc của ai đó trong sự vận động, phát triển của nhóm, tập thể nói chung” [54, tr.1736]. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp giao nhiệm vụ xét xử cho cơ quan Tòa án nhân dân và Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tòa án nhân dân thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 quy định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc Thẩm quyền của Tòa án” [49, Điều 1]. Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử, vì vậy thông qua hoạt động xét xử của mình thì Thẩm phán cũng góp phần về việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân. Hoạt động của Thẩm phán là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố tụng, vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng, thậm
  • 17. 11 chí có thể cho rằng họ có vai trò gần như quyết định đến chất lượng trong quá trình tranh tụng. Mặc dù Thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là một chủ thể, nhưng với tư cách là người đại diện cho Nhà nước trong việc thực thi công lý, Thẩm phán còn có vai trò là trọng tài, là người hướng dẫn cho các bên đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo đúng quy định của pháp luật. Thông qua kết quả tranh tụng, Thẩm phán đánh giá nội dung thực chất của vụ án, các chứng cứ, trên cơ sở đó căn cứ các quy định của pháp luật để ra một Bản án đúng đắn. Ngoài ra Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động xét xử. Thẩm phán đã thay mặt cho Tòa án nhân dân giáo dục công dân chấp hành nghiêm pháp luật, đồng thời phát huy tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Hoạt động tố tụng hình sự được chia ra nhiều giai đoạn khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn đó có các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án và trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có thẩm quyền thực hiện các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Và những người đó được gọi là những người tiến hành tố tụng với địa vị pháp lý và vai trò hoạt động rất khác nhau. Những người tiến hành tố tụng này có chức năng nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện nhanh chóng chính xác và xử lý công minh, kịp thời, khách quan mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tại Toà án, những người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký toà án. Điều 66 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Thẩm phán có 4 ngạch gồm: Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Hoạt động xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề đó là nghề xét xử. Thẩm
  • 18. 12 phán đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước là "tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân, thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người” [39, tr.37]. Thẩm phán là một chức danh tư pháp, theo Giáo sư, Tiến sỹ Võ Khánh Vinh: "Chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đẩy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật" [53, tr.43]. Do vậy, chức danh tư pháp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên. Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có vai trò quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và nâng cao kỹ năng thực hành nghề nghiệp của Thẩm phán. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán như sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc Thẩm quyền của Tòa án” Từ khái niệm trên thì vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Một là: Những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
  • 19. 13 Hai là: Những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. 1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; Điều 65, 76 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015); Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán về nguyên tắc phải được xác định đầy đủ trên cơ sở vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Mặt khác, chúng phải được pháp luật quy định cụ thể rõ ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Thẩm phán hoàn thành hiệu quả nhiệm vụ xét xử của mình, tránh tình trạng tuỳ tiện hay lạm dụng quyền hạn trong thực tiễn xét xử. Nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán trong mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể cũng cần có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế song vẫn dựa trên những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự và nhằm mục đích là thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật. 2) Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp hình sự Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác. Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với chủ tọa phiên tòa, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công
  • 20. 14 bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án. Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án. Thông qua hoạt động xét xử của mình mỗi một phán quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới chỗ công dân, pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định, sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai, nhất là trong lĩnh vực hình sự. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà nước ta. Thông qua hoạt động xét xử của Thẩm phán cũng góp phần vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Trong hoạt động xét xử để đưa ra được một phán quyết đúng pháp luật, Thẩm phán phải am hiểu về pháp luật, có hiểu biết về kiến thức xã hội, nắm bắt tâm lý của từng cá thể và có lương tâm của Người thẩm phán "Cơ sở của các phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng" [26, tr.38]. Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì, trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của pháp còn xung đột, không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tòa án không chỉ là cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của
  • 21. 15 công lý, sự công bằng xã hội "Khi phải đối mặt với quan tòa, với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Tòa án là người đại diện của công lý và quan tòa là cán cân công lý" [8, tr.23]. 1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác Trong cơ quan Tòa án, Thẩm phán có rất nhiều mối quan hệ như quan hệ với lãnh đạo, quan hệ với Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ làm các bộ phận khác của Tòa án. Tất cả các mối quan hệ này đều thể hiện vai trò trung tâm của Thẩm phán. 1) Quan hệ giữa lãnh đạo Tòa án với Thẩm phán: Chánh án, Phó Chánh án là những người lãnh đạo, quản lý toàn bộ hoạt động của cơ quan, đảm bảo hoạt động của Toà án với vai trò là một cơ quan nhà nước. Thẩm phán chỉ với tư cách là nhân viên, cán bộ trong cơ quan và đây là mối quan hệ quản lý hành chính. Chánh án, Phó Chánh án chỉ có thể quản lý về mặt con người và trong hoạt động nghiệp vụ thì không thể can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán nhưng Thẩm phán phải chịu sự phân công công việc của lãnh đạo. 2) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Thẩm phán: Đây là quan hệ mang tính chất tố tụng, trong hoạt động xét xử Thẩm phán hoàn toàn độc lập không bị phụ thuộc vào bất cứ ai cho dù là lãnh đạo Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án cũng là Thẩm phán, khi tham gia hoạt động tố tụng thì các Thẩm phán đều có những quyền và nghĩa vụ giống nhau theo quy định của tố tụng. 3) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của UBMTTQ cùng cấp, công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm họ không phải cán bộ Tòa án nhưng chịu sự phân công của Chánh án. Hội thẩm là những người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử với mục đích đảm bảo tính dân chủ, Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ,
  • 22. 16 tham gia xét xử và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, tính độc lập ở đây thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập với chính những thành viên trong Hội đồng xét xử. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò của Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ phần thủ tục đến phần tuyên án. 4) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Điều 197 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 47 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định Thư ký được Chánh án phân công tiến hành tố tụng, giúp Thẩm phán trong công tác chuẩn bị phiên tòa; trước khi bắt đầu phiên tòa, phổ biến nội quy phiên tòa; kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập…. Thư ký tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chánh án về những công việc của mình. 5) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham gia tố tụng theo sự phân công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện Kiểm sát. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ công tác tư pháp trong thời gian tới quy định "Phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa.." [6]. Căn cứ vào kết quả điều tra, Kiểm sát viên có quyền lập bản cáo trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố tại phiên toà. Kiểm sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội theo hướng tăng nặng đối với bị cáo. Ngoài chức năng trên Kiểm sát viên còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, đây là hai chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử hỗ trợ cho chức năng thực hành quyền công tố. Nếu phát hiện bản án
  • 23. 17 có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu toà án khắc phục những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định cụ thể sự phối hợp này tuy nhiên đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để tìm ra sự thật khách quan của vụ án tránh việc đưa ra phán quyết trái pháp luật, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. 6) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác trong hoạt động tố tụng: Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Các chức danh bổ trợ tư pháp bao gồm Giám định viên, Luật sư, Công chứng viên. Mỗi một chức danh này đều có vai trò, quyền và nghĩa vụ đặc trưng riêng nhưng có điểm chung là hoạt động của các chức danh này là cần thiết, tạo điều kiện thể hiện sự dân chủ, khách quan trong việc phán quyết của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên, Điều tra viên khác với mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác xuất phát từ vị trí tố tụng của các chức danh này. Quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp như tác giả trình bày ở trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể và ngược lại. 1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động đến vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán Trong hoạt động tiến hành tố tụng, Thẩm phán thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và trước Tòa án; nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án… Trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Chương II Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003) thì các nguyên tắc về xét xử chi phối
  • 24. 18 toàn bộ đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, đó là: nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, đó là ba nguyên tắc có tính chất quyết định đến quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong khi thực hiện chức năng xét xử của mình. 1) Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013, khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [36]. Với những quy định trên thì ngoài cơ quan Tòa án không một cơ quan nhà nước nào khác có chức năng xét xử và cũng không có quyền can thiệp bằng cách này hay cách khác vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nội dung của nguyên tắc này là đảm bảo tính khách quan, công bằng trong các quyết định do Tòa án đưa ra, đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét toàn diện tại phiên tòa và Hội đồng xét xử dựa vào kết quả phiên tòa, căn cứ vào các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của quan điều tra, Viện kiểm sát. Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo lắng nghe ý kiến của các bên, nhưng luôn phải thể hiện bản lĩnh của mình để xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho các ý kiến của bên ngoài làm thay đổi quyết định của mình.
  • 25. 19 Tại các Điều 185, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 254 BLTTHS sửa đổi năm 2015) thì việc xét xử sơ thẩm hoặc trong những trường hợp đặc biệt của xét xử phúc thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì Hội thẩm nhân dân độc lập với Thẩm phán trong việc đưa ra ý kiến trình bày quan điểm của mình về vụ án. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử còn được thể hiện trong quan hệ giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Toà án cấp trên không thể can thiệp hoặc bằng các biện pháp hành chính buộc Tòa án cấp dưới xét xử theo ý mình vì Tòa án cấp trên chỉ có quyền quản lý về mặt con người đối với Tòa án cấp dưới chứ không có quyền can thiệp vào việc giải quyết từng vụ án cụ thể của Tòa án cấp dưới. Trong hoạt động tố tụng Tòa án cấp trên không được định hướng hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới để xét xử mà chỉ là giải thích về mặt nghiệp vụ để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ khi áp dụng quy định pháp luật vào trong công tác xét xử. Đảng lãnh đạo được thể hiện bằng việc đưa ra quan điểm, nguyên tắc, định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đảng lãnh đạo về chính trị, tư tưởng về công tác tổ chức cán bộ trong ngành Tòa án. Đảng không can thiệp vào từng vụ án cụ thể mà chỉ ra đường lối chỉ đạo hoạt động xét xử trong từng giai đoạn. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm được xét xử tuỳ tiện mà phải xem xét đối chiếu với sự việc thực tế xảy ra và trên cơ sở các quy định đó sẽ đưa ra các pháp quyết của mình về hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án, nếu độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử một chiều, chủ quan duy ý chí: Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha
  • 26. 20 thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào [42, tr. 48]; Độc lập là điều kiện để Hội đồng xét xử tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử, mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc [23, tr. 49]. 2) Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia Nguyên tắc trên được quy định tại Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn, còn tại Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, BLTTHS sửa đổi năm 2015 quy định "Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia, theo quy định của bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán [35, Điều 22]. Kinh nghiệm thực tiễn của Hội thẩm nhân dân cùng kỹ năng, bản lĩnh nghề nghiệp của Thẩm phán là sự kết hợp và bổ sung cho nhau để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho công tác xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự mọi sự việc phải được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Sự độc lập này thể hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ giai đoạn nghiên cứu hồ sơ đến giai đoạn xét xử vụ án tại phiên toà, cùng trao đổi, thảo luận bàn bạc những vấn đề cần thiết liên quan đến việc xét xử, cũng như dự tính các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà và Thẩm phán không thể lấy kinh nghiệm xét xử và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của mình để áp đặt Hội thẩm theo ý kiến của mình đối với vụ án. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia có mối quan hệ song hành với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nếu không có sự độc lập như trên thì Hội thẩm nhân dân rất dễ bị phụ thuộc và chịu sự chi phối theo ý kiến của Thẩm phán.
  • 27. 21 3) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 4 điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 10 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 24 BLTTHS sủa đổi năm 2015) "Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn và thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do Luật tố tụng quy định"" [35]. Như vậy nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ khách quan của Hội đồng xét xử. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số có quan hệ mật thiết với nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm tham gia, dù ở cấp xét xử nào, sơ thẩm hay phúc thẩm thì việc xét xử đều được tiến hành theo hội đồng chứ không phải do cá nhân Thẩm phán thực hiện. 1.2. Các mô hình tố tụng hình sự và vai trò của những ngƣời tiến hành tố tụng Theo giáo trình luật tố tụng hình sự của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội thì “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật” [24, tr.13]. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của mọi Nhà nước luôn được quan tâm hàng đầu và để thực hiện có hiệu quả công tác này, các Nhà nước đều thành lập các cơ quan với chức năng là điều tra, truy tố, xét xử nhằm phát hiện và xử lý kịp thời người phạm tội, nhằm bảo vệ các quyền và tự do cá nhân, các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội. Hoạt động của các cơ quan này được tiến hành theo một trình tự nhất định gọi là trình tự tố tụng hình sự. Mô hình tố tụng hình sự ở nước ta trong quá trình phát triển đã chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự của các nước như Cộng hòa Pháp và
  • 28. 22 Liên Xô trước đây, hai mô hình tố tụng hình sự trên vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Âu lục địa và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp của Pháp đã hiện diện ở nước ta trong gần 100 năm, bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp phong kiến bản xứ mô hình tố tụng trên đã ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống, tư duy pháp lý ở nước ta. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và hệ thống pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình tố tụng Liên Xô. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hưởng này được thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta. Xét về bản chất thì mục đích cơ bản của tố tụng hình sự là nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người đúng tội, không làm oan, sai người vô tội và mỗi quốc gia luôn chọn cho mình một mô hình tố tụng hình sự riêng. Tuy nhiên, căn cứ vào một số đặc điểm chung nhất, có thể phân chia thủ tục tố tụng hình sự của các nước trên thế giới hiện nay thành hai hệ thống hay còn gọi là hai mô hình tố tụng chủ yếu đó là: Hệ tố tụng thẩm vấn (hệ tố tụng xét hỏi) và hệ tố tụng tranh tụng. Ngoài ra, có quan điểm cho rằng có ba hệ thống tố tụng, ngoài hai hệ thống trên còn có hệ thống tố tụng pha trộn [51, tr.30]. Hệ tố tụng tranh tụng chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật án lệ như: Anh, Mỹ, Canada, Ôxtrâylia và một số nước là thuộc địa của Anh trước đây. Ví dụ, theo pháp luật của Mỹ “việc quyết định có tội hay không có tội là trách nhiệm của Bồi thẩm đoàn, còn Thẩm phán chỉ trên cơ sở kết luận của Bồi thẩm đoàn mà ra phán quyết về mức hình phạt đối với người phạm tội ” [17, tr.80]. Còn hệ tố tụng thẩm vấn chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật như: Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia "được phổ
  • 29. 23 biến rộng rãi nhất trong thời đại chế độ chuyên chế” [46, tr.13]. “Hệ tố tụng thẩm vấn cho rằng sự thật có thể và phải tìm ra trong quá trình thẩm vấn điều tra. Vì rằng các bên có thể có ý định che dấu sự thật nên nhà nước phải tham gia sớm và liên tục vào việc thẩm vấn điều tra" [39, tr.122]. Sự phân chia các hệ thống tố tụng hình sự thành hệ tranh tụng và hệ thẩm vấn không có nghĩa là sự tranh tụng chỉ có trong hệ tranh tụng còn trong hệ thẩm vấn thì không có tranh tụng và ngược lại. Trong xã hội hiện đại, hai hệ thống tố tụng này đang chịu sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau, đan xen lẫn nhau và trong mỗi hệ thống đều chứa đựng một số yếu tố của hệ thống còn lại. Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc (2007) thì mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là mô hình tố tụng hình sự mà trong đó các chức năng cơ bản như chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử tập trung vào một cơ quan nhà nước. Mô hình này có các dấu hiệu đặc trưng sau: Thứ nhất: Không có các bên độc lập vì hoạt động tích cực của các bên bị thay thế bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng; Thứ hai: Bị cáo hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và là đối tượng xem xét của những cơ quan này; Thứ ba: Không có sự tranh chấp pháp lý của các bên, thay vào đó là ý chí của Nhà nước, của pháp luật và ý chí của Nhà nước là động lực của tố tụng hình sự [31, tr.31]. Cả hai mô hình tố tụng trên đều có những điểm tương đồng, đó là: Một là: Mục đích chung của cả hai mô hình tố tụng trên là tìm ra sự thật với nguyên tắc người phạm tội phải bị xử lý hình sự. Hai là: Cả hai mô hình tố tụng trên đều được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tư pháp dân chủ, công bằng, minh bạch. Đây là những nguyên tắc nhất quán để từ đó hình thành nên địa vị pháp lý của từng cơ quan cũng như
  • 30. 24 của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong cả hai mô hình trên. Ba là: Hệ tố tụng thẩm vấn cũng như tố tụng tranh tụng đều tiến hành từng bước theo các giai đoạn điều tra, truy tố, chuyển sang Tòa án để xét xử, các giai đoạn tố tụng trước nhằm phục vụ cho giai đoạn xét xử, đây là một chuỗi giai đoạn tố tụng được tiến hành theo một trình tự luật định và có mối quan hệ gắn bó mật thiết, không thể tách rời. Hệ thống tố tụng tranh tụng và thẩm vấn có những điểm khác biệt và sự khác nhau thể hiện ở cách thức tiến hành, về vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng. Đối với hệ thống tố tụng thẩm vấn thì hoạt động tố tụng tập trung vào giai đoạn điều tra, còn trong mô hình tố tụng tranh tụng thì giai đoạn xét xử mọi phán quyết đều được căn cứ vào quá trình tranh tụng công khai tại phiên toà. Một điểm khác biệt nữa là vai trò của Thẩm phán thì trong hệ tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán trực tiếp xét hỏi; còn trong hệ tố tụng tranh tụng thì Thẩm phán rất ít khi hoặc không tham gia xét hỏi mà chỉ là người điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh luận tại phiên toà. Ngoài hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng tranh tụng nêu trên, còn tồn tại một hệ tố tụng pha trộn có đặc trưng của cả hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng tranh tụng đó là trước khi xét xử vụ án, toàn bộ quá trình điều tra vụ án không có tính công khai, việc bào chữa của bị can trong giai đoạn này bị hạn chế, Thẩm phán có quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi vụ án được đưa ra xét xử và tại phiên toà Thẩm phán đóng vai trò trung tâm, tiến hành xét hỏi bị cáo, nhân chứng và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án để tìm ra sự thật khách quan. Bên cạnh việc Thẩm phán giữ vai trò trung tâm trong việc chứng minh tội phạm còn quy định vai trò của những người tham gia tố tụng khác như Luật sư, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự... Theo bà Elisabeth Pelsez, thẩm phán Tòa án phúc thẩm Rouen (Mỹ):
  • 31. 25 Nhược điểm của tố tụng tranh tụng là làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các bên trong vụ án hình sự, vì bên nào có nhiều tiền thuê luật sư thì sẽ có nhiều khả năng giành thắng lợi hơn, trong khi đó thủ tục xét hỏi khắc phục được nhược điểm này vì công tác điều tra do thẩm phán độc lập và khách quan đảm nhiệm. Nhược điểm thứ hai của tố tụng tranh tụng là nó rất phức tạp vì khi phiên tòa diễn ra chưa có gì khẳng định là chắc chắn cả nên đôi khi dẫn đến hệ quả nguy hiểm. Còn tố tụng xét hỏi bị chỉ trích là không tôn trọng đầy đủ quyền của các bên đương sự, vì chứng cứ do thẩm phán điều tra nên tố tụng xét hỏi bị coi là đi ngược lại nguyên tắc vô tư, khách quan, đôi khi Thẩm phán có sẵn trong đầu quyết định xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử, dưới gốc độ đó việc tranh luận trở nên vô nghĩa [27, tr.13]. Như vậy giữa 2 mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng đều có những ưu thế và những hạn chế của nó. Qua việc phân tích, nghiên cứu đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự tác động và chi phối của nó đối với vai trò của các cơ quan tố tụng cũng như của người tiến hành tố tụng, đặc biệt là vai trò của Thẩm phán qua đó giúp cho việc từng quốc gia đưa ra lựa chọn áp dụng mô hình tố tụng thích hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và truyền thống pháp lý của mình và làm cơ sở cho việc xây dựng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tiến hành tố tụng và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự. 1.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự 1.3.1. Yếu tố truyền thống pháp lý Nguồn gốc thuộc địa có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành hệ thống pháp luật và để lại dấu ấn sâu sắc trong hệ thống pháp luật của các
  • 32. 26 nước đã từng là thuộc địa, như hệ thống pháp luật Mỹ, Australia chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh. Việc nghiên cứu lịch sử pháp luật cho phép tìm hiểu nguồn gốc của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật ở đây được hiểu theo hai nghĩa: Một là: Đó là hệ thống pháp luật của quốc gia như hệ thống pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật Mỹ. Hai là: Hệ thống pháp luật được hiểu là tập hợp một số hệ thống pháp luật quốc gia có nhiều điểm tương đồng, theo những tiêu chí nhất định như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Anh - Mỹ... Theo nghĩa còn được hiểu là truyền thống pháp luật. Hiện nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về cách phân chia các truyền thống pháp luật. Theo tác giả có bốn hệ thống pháp luật cơ bản là: 1) Hệ thống pháp luật tôn giáo, điển hình là hệ thống pháp luật các nước hồi giáo. 2) Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đại diện là hệ thống pháp luật các nước như Pháp, Đức. 3) Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, đại diện là hệ thống pháp luật nước Anh, nước Mỹ. 4) Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, đại diện là hệ thống pháp luật Liên Xô cũ và hệ thống pháp luật của các nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc. Tương ứng với mỗi một truyền thống pháp luật thì vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự lại có những điểm khác nhau. Trong hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, do đặc điểm nguồn luật là luật bất thành văn nên các nước theo hệ thống này chấp nhận án lệ là nguồn luật chủ yếu và các Thẩm phán được giao quyền sáng tạo luật thông qua hoạt động xét xử; hệ thống luật Châu Âu lục địa Thẩm phán chỉ xác định sự thật của vụ án và tìm
  • 33. 27 ra căn cứ pháp luật để áp dụng; hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trao quyền cho Toà án tối cao được theo dõi, tổng kết thực tiễn xét xử của các Toà án cấp dưới. Trên cơ sở đó ban hành các Thông tư, Nghị quyết hướng dẫn xét xử, như vậy Thẩm phán ngoài nhiệm vụ xét xử ở một mức độ nào đó còn thực hiện nhiệm vụ lập pháp; còn hệ thống luật Hồi giáo, Thẩm phán được quyền độc lập giải thích kinh Koran và Sunna dựa trên sự hiểu biết của mình để áp dụng vào vụ án cụ thể. Như phân tích ở phần trên, trong quá trình hình thành và phát triển yếu tố truyền thống pháp lý được các nhà khoa học pháp lý đã phân ra hai mô hình tố tụng gồm: hệ tố tụng xét hỏi thường được áp dụng trong truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa còn hệ tố tụng tranh tụng thường áp dụng trong truyền thống pháp luật Anh - Mỹ, ngoài ra còn có mô hình tố tụng hỗn hợp (pha trộn) thường được áp dụng trong hệ thống pháp luật tôn giáo và hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Còn về thực hiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự thì phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn mô hình tố tụng đối với các quốc gia. Đối với các nước lựa chọn mô hình tố tụng tranh tụng thì quyền, nghĩa vụ và vai trò của Thẩm phán được tập trung tại giai đoạn xét xử, vai trò chính của Thẩm phán trong khi xét xử là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng. Ở nước Anh có câu thành ngữ "Thẩm phán nào mở miệng nói thì không còn suy nghĩ được" [47, tr. 96], còn ở Pháp, Thẩm phán đóng vai trò quyết định trong quá trình xét xử. 1.3.2. Yếu tố văn hóa pháp lý Nói tới văn hoá pháp lý là nói tới con người, nói tới việc phát huy năng lực bản chất của con người trong các hoạt động pháp lý. Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá pháp lý là khát vọng của con người hướng tới các giá trị pháp lý được định chuẩn bởi pháp luật. Các hoạt động đó về bản chất là hướng tới các
  • 34. 28 giá trị tích cực và mang tính sáng tạo, phổ biến nên văn hoá pháp lý về nội dung cần được hiểu với nghĩa là luôn luôn hàm chứa các giá trị hữu ích, tích cực. Mọi hoạt động nếu xuất phát từ nhu cầu không chính đáng của con người đương nhiên sẽ không hàm chứa các giá trị văn hoá và văn hoá pháp lý “ở các nước phương Tây, tôn trọng pháp luật là một truyền thống. Đối với họ không có khái niệm tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật” [17, tr.190] việc tìm hiểu pháp luật ở phương Tây là quyền của mỗi công dân để nhằm mục đích bảo vệ chính lợi ích của mình tại Tòa án, còn ở Việt Nam thì chúng ta chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo về đạo đức. Do vậy, tâm lý của người Việt là sợ pháp luật "Vạn bất đắc dĩ mới phải ra chốn công đường" [17, tr.183]. Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự, bởi vì ban hành một đạo luật không khó bằng việc đưa đạo luật đó vào cuộc sống. Chúng ta có thể căn cứ vào yếu tố chính trị, vào truyền thống pháp luật để quy định về vai trò, về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, nếu không tính đến yếu tố văn hoá thì những quy định đó chỉ là lý thuyết, xa rời thực tiễn. 1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước Cho dù Nhà nước có được tổ chức theo mô hình nào đi chăng nữa, thì quyền lực nhà nước vẫn luôn là thống nhất, nhưng vẫn phải có sự phân công và phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp là nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử do Toà án thực hiện, do vậy vị trí, vai trò của Toà án nói chung cũng như của Thẩm phán nói riêng phụ thuộc vào quan điểm tư tưởng chỉ đạo của giai cấp cầm quyền. Ví dụ như ở Mỹ, ba nhánh quyền lực này luôn
  • 35. 29 đối trọng và kiềm chế lẫn nhau, sự phân quyền diễn ra mạnh mẽ. Toà án thực sự giữ vai trò kiềm chế đối với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Tòa án có quyền kiểm soát tính hợp hiến của luật "Ngay kể cả Tổng thống và Quốc hội cũng không được hỏi Tòa án tối cao về cách giải thích một đạo luật hay một dự án luật nếu như việc này không nằm trong trường hợp của một vụ kiện cụ thể” [17, tr.62], người Mỹ đề cao vai trò của Tòa án trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước của mình„'Tiếng nói của Tòa án là tiếng nói cuối cùng, sự giải thích của Tòa án về Hiến pháp có giá trị hơn quan điểm của Quốc hội và Tổng thống” 19, tr.68]. Chính vì vậy người ta coi Thẩm phán là một nghề cao quý trong xã hội. "Luật gia được trọng dụng nhất ở Anh là Thẩm phán" [47, tr.96]. Các Thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư nổi tiếng. Nói chung các Thẩm phán Tòa án tư sản thường được bổ nhiệm với những nhiệm kỳ khá dài, thậm chí có những nước thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời nếu không phạm tội, Ở Pháp: Thẩm phán có quyền bất khả bãi miễn [26, tr.145] và được bảo vệ trước mọi sự đe doạ và tấn công khi làm nhiệm vụ. Nhà nước phải bồi thường thiệt hại trực tiếp cho Thẩm phán nếu có những trường hợp mà pháp luật về bảo vệ không quy định. Thẩm phán không bị điều động sang bất kỳ công việc nào khác trừ trường hợp làm nghĩa vụ quân sự [54, tr.145], Ở nước Australia (Úc) thì: “Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, không ai có thể cách chức Thẩm phán trừ khi họ vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp và đạo đức. Việc bãi nhiệm Thẩm phán phải được đưa ra Quốc hội tiểu bang hoặc Liên bang với đa số tán thành thì mới được bãi nhiệm” [26, tr.144]. Trong hoạt động xét xử của mình, các Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc xét xử được quy định trong luật tố tụng của từng quốc gia để bảo vệ công lý, công bằng xã hội, tránh sự lợi dụng quyền lực của chính các
  • 36. 30 Thẩm phán và cũng như để cho Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước. Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa quy định nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước nhưng cũng thừa nhận sự độc lập xét xử của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án trong nhà nước xã hội chủ nghĩa có những điểm khác so với sự độc lập trong nhà nước tư sản như sau: Thứ nhất: Đối với nhà nước tư sản, Tòa án ngang bằng với Quốc hội và có thể tài phán về hành vi của Quốc hội. Thứ hai: Ở các nước xã hội chủ nghĩa Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; cơ quan Tòa án ở vị thế thấp hơn nên không có quyền tài phán về hành vi của Quốc hội. Như đã phân tích ở trên, tương ứng với sự khác biệt với hai hệ thống Tòa án ở hai chế độ nhà nước khác nhau thì vai trò của Thẩm phán đối với từng hệ thống cũng có sự khác biệt về vai trò pháp lý như: “Việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án liên bang Mỹ do Tổng thống bổ nhiệm và cố sự phê chuẩn của Thượng Nghị viện” [17, tr.74]; khác với các nước tư sản, Thẩm phán ở các nước XHCN trước đây thực hiện theo chế độ bầu cử “bởi vì nó gắn liền với tổ chức bộ máy nhà nước hoạt động theo cơ chế chủ tịch tập thể ra quyết định dưới hình thức nghị quyết" [39, tr.58]. Trong tác phẩm "Tinh thần của luật pháp", Mongtexkio của nhà xuất bản Sài Gòn viết: Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức [28, tr.84]. Còn ở Việt Nam, chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện từ 1960 đến năm 1992, trong giai đoạn trên pháp luật quy định Hội đồng nhân dân cấp nào thì
  • 37. 31 bầu ra Thẩm phán Toà án nhân dân ở cấp đó. Nhưng đến Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: "Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án" [33, Điều 88, Khoản 3]. Ngoài các yếu tố trên, để hình thành nên vai trò trung tâm của Thẩm phán trong tố tụng hình sự còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới quá trình này. Tuy nhiên theo tác giả đây là ba yếu tố cơ bản nhất. Kết luận Chƣơng 1 Thẩm phán là một chức danh tư pháp có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự “Lao động của thẩm phán là lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân” [26, tr.16]. Thẩm phán hoạt động trên những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự. Thẩm phán là một trong các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Việc nghiên cứu đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự giúp chúng ta có cơ sở khoa học để tìm hiểu về thực hiện quyền và nghĩa vụ và vai trò của Thẩm phán. Trong mỗi một mô hình tố tụng thì vai trò, quyền hạn của Thẩm phán đều khác nhau. Tuy nhiên, qua phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy vai trò trung tâm của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, vai trò trung tâm này còn được thể hiện thông qua mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng khác. .
  • 38. 32 Chương 2 NHỮNGQUYĐỊNH CỦA PHÁPLUẬTTỐTỤNGHÌNH SỰ VIỆTNAMVỀ VAI TRÒCỦATHẨMPHÁNVÀTHỰCTIỄNTHIHÀNH 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nƣớc ta từ 1945 đến nay 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng tám thành công, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật khi nhà nước non trẻ được hình thành cũng như để giữ vững ổn định trật tự xã hội, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật hình sự và tố tụng hình sự như: Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 và sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về thành lập các Tòa án quân sự; sắc lệnh ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn luật sư... Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; địa vị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, của người bào chữa và các chủ thể tham gia tố tụng khác; trình tự và thủ tục tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đặc biệt là sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách đầy đủ và tương đối hoàn chỉnh về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự. Những văn bản pháp luật này là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta với một nền tư pháp nhân dân của chế độ mới. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã quy định hệ thống Tòa án gồm: Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Thẩm phán được chia
  • 39. 33 làm hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Tòa sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở Tòa đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp lại chia thành hai loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội. Thẩm phán xét xử có thể được chuyển sang làm Thẩm phán buộc tội và ngược lại. Theo Điều 27 Sắc lệnh 13 quy định Thẩm phán có quyền hạn rất lớn trong xét xử, mặc dù quy định khi xét xử phải có sự tham gia của phụ thẩm "khi xét xử ngoài Chánh án chủ tọa phiên toà còn có hai phụ thẩm" nhưng quyền hạn của Phụ thẩm còn hạn chế “khi Chánh án hỏi ý kiến của Phụ thẩm về tội trạng các phạm nhân và về hình phạt rồi tự mình quyết định". Thẩm phán là người quyết định sau khi hỏi ý kiến của phụ thẩm. Ngoài ra, Chánh án còn có quyền tuyên phạt đối với hai phụ thẩm. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định: Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông biện lý và sau cùng nghe lời bàn cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị án đề cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội, giảm tội [16, Điều 31]. Nhưng tại Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán như sau: Ông Chánh án chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ điều khiển cuộc thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên tòa; ông Chánh án nếu cần có thể mở phiên toà ngoài trụ sở của Tòa án, nơi cách xa tòa; mỗi khi tuyên án tử hình, Chánh án bắt buộc phải báo cho tội nhân biết rằng hắn có quyền xin ân giảm và hỏi hắn cố muốn đệ đơn xin không [16]. Về vai trò pháp lý của Thẩm phán trong thời kỳ đầu của Nhà nước ta là cơ sở ban đầu cho việc hoàn thiện hoạt động xét xử sau này. Hiến pháp 1946 đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật
  • 40. 34 nước ta, trong đó bao gồm cả các nguyên tắc của tố tụng hình sự, đó là: các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt trong khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật; các cơ quan khác không được can thiệp. Như vậy Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 xác định Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, giữ một vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, đến 1950 Sắc lệnh 85/SL được ban hành, quy định cơ cấu cơ quan Tòa án có sự thay đổi, phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân, trong xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Năm 1954, nước ta bước vào một giai đoạn mới cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. Những thay đổi cơ bản của đất nước và xã hội đòi hỏi cần phải có các văn bản pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Hiến pháp năm 1959 và các văn bản pháp luật khác trong đó có văn bản pháp luật tố tụng hình sự được ban hành trong thời gian này đã kịp thời đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội theo hướng dân chủ hoá các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày 14/7/1960 Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân và quy định phân cấp hệ thống Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội thành lập các Tòa án đặc biệt. Nhiệm vụ của công tác xét xử trong giai đoạn này là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân dân góp phần đảm bảo sự nghiệp đấu tranh giải phóng thống nhất đất nước. Song qua các văn bản pháp luật đó chúng ta cũng xác định được vai trò pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng và được thể
  • 41. 35 hiện ở những nguyên tắc tố tụng như: sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án trong đó Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân và khi tham gia xét xử ngang quyền với với nhau; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Ngày 27/9/1974 Tòa án nhân dân Tối cao ban hành thông tư 16 - TATC ban hành kèm theo Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự đã quy định rõ vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự như: tại phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phải kiểm tra căn cước của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường và những người có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp; giải thích quyền và nghĩa vụ để những người tham gia tố tụng biết; giới thiệu thành viên Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa, người phiên dịch, thư ký phiên tòa; điều hành phần xét hỏi, tranh luận và giữ gìn trật tự phiên tòa; tại phần xét hỏi, chủ tọa hỏi trước, các Hội thẩm hỏi bổ sung; ở phần nghị án, Hội đồng xét xử cùng thảo luận và biểu quyết theo đa số; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên đọc bản án. Quy định trên hầu như được giữ nguyên đến khi chúng ta ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và khẳng định Thẩm phán giữ vai trò, vị trí trung tâm trong hoạt động xét xử, Thẩm phán là người điều khiển phiên tòa với nhiều trọng trách vừa chứng minh tội phạm, vừa quyết định hình phạt, vừa đảm bảo phiên tòa diễn ra đúng luật định và Thẩm phán còn phải giúp Hội thẩm nắm được pháp luật, đường lối, chính sách, đồng thời phải tích cực phát huy vai trò của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại phiên tòa. 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 Trong giai đoạn này Hiến pháp năm 1980 đã được Quốc hội Khóa VI thông qua ngày 18/12/1980, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thông qua ngày 03/7/1981, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thông qua ngày
  • 42. 36 28/6/1988. Những văn bản pháp luật trên đã cụ thể hoá các quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án bằng cách quy định một cách hệ thống các vấn đề cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động của Thẩm phán. Một số nguyên tắc của tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật liên quan trực tiếp tới hoạt động của Thẩm phán, đó là: nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 quy định: 'Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” [34, Điều 1]. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong giai đoạn này đã được mở rộng, cụ thể hơn, cao cả và nặng nề hơn [26, tr.84]. Quyền và nhiệm vụ của Thẩm phán theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 khi giải quyết một vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa và sau khi xét xử như sau: Một là: Nghiên cứu hồ sơ để xem xét những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, việc định tội danh có đúng hay không. Hai là: Tiến hành những việc khác để mở phiên tòa như triệu tập người tham gia phiên tòa, trích xuất bị cáo đang bị tạm giam... Ba là: Giải quyết khiếu nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng. Và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải ra một trong số các quyết định sau: 1) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; 2) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; 3) Quyết định tạm đình chỉ vụ án; 4) Quyết định đình chỉ vụ án. Trước đây theo Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về trình tự sơ
  • 43. 37 thẩm hình sự theo Thông tư số 16 ngày 27/9/1974 thì trong những trường hợp cần yêu cầu điều tra bổ sung hoặc cần thay đổi biện pháp ngăn chặn, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ tố tụng thì Tòa án phải họp trù bị với Viện Kiểm sát rồi mới ra quyết định. Nhưng Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không quy định họp trù bị là một thủ tục bắt buộc cho nên đây chỉ là việc phối kết hợp giữa các cơ quan tố tụng mà thôi. Thông tư liên ngành số 01-TT/LN ngày 08/12/1988 giữa Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì những trường hợp cần trao đổi là: Khi Tòa án thấy cần trả hồ sơ để Viện Kiểm sát điều tra bổ sung, đổi tội danh nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn; khi Tòa án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; khi cần nhập hoặc tách vụ án; khi cần chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết; khi chuẩn bị xét xử vụ án điểm hoặc vụ án phức tạp và những trường hợp cần thiết khác. So với quy định của các văn bản pháp luật trong giai đoạn 1945 - 1980 thì sự độc lập trong việc giải quyết vụ án hình sự trong quá trình tố tụng trong giai đoạn này đã có những quy định cụ thể hơn,chặt chẽ hơn. Trong giai đoạn này, các quy định về trình tự tố tụng xét xử tại phiên tòa không có nhiều thay đổi so với Bản hướng dẫn năm 1974; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định “Chủ tọa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa” [35, Điều 181, Khoản 2]. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn kỳ này thì vai trò của Thẩm phán và hội đồng xét xử rất quan trọng, tại phiên tòa Thẩm phán nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước vừa là người làm sáng tỏ bản chất vụ án, vừa là người buộc tội vừa là người gỡ tội, còn vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa thị mờ nhạt. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17); Tòa án xét
  • 44. 38 xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 18); việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự (Điều 19); Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục (Điều 159); đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân (Điều 160). Như vậy, pháp luật đã giành cho Thẩm phán những quyền năng pháp lý đặc biệt đồng thời cũng là những trách nhiệm nặng nề trước pháp luật. Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các điều kiện bảo đảm cho Thẩm phán có thể hoàn thành được vai trò và chức năng pháp lý của mình trong hoạt động tố tụng hình sự của mình. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa án trong tố tụng hình sự, có thể thấy rằng ngoài nhiệm vụ xét xử Thẩm phán còn có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất vụ án, vừa là người buộc tội vừa là người gỡ tội. Như vậy, khẳng định rằng vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng được pháp luật trao rất nhiều quyền. Về hạn chế, đôi khi Thẩm phán lại làm thay công việc của Kiểm sát viên tại phiên tòa, do vậy mục tiêu vô tư khách quan của Thẩm phán tại phiên toà bị ảnh hưởng vì làm mất sự cân bằng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay Qua thực tiễn tổ chức thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến năm 2002 cho thấy nhiều quy định của Luật cần được nghiên cứu, sửa đổi để tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân, nhằm đảm bảo cho Tòa án nhân dân thực hiện tốt chức năng của mình. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đã xây dựng những định hướng lớn về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, ngày 02/4/2002 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và trên cơ sở Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán
  • 45. 39 và Hội thẩm nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đây được coi là bước cải cách tư pháp lớn đối với ngành Tòa án nhân dân đó là việc thay đổi cách quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự về tổ chức từ Bộ trưởng Bộ Tư pháp sang Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quản lý có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. Trong giai đoạn này thì việc cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu và tạo cơ sở vững chắc cho công cuộc cải cách tư pháp thì các văn bản pháp luật được ban hành từng bước và có lộ trình thực hiện nhất định như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở giai đoạn này đã đạt được những thành công nhất định. Thẩm phán trong hoạt động xét xử đáp ứng được nhu cầu đề ra và đã xây dựng được hình ảnh về đội ngũ cán bộ nhà nước nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng trong sạch, liêm khiết, tận tâm với nghề được quần chúng nhân dân tin yêu. 2.2. Vai trò của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự 2.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật luật tố tụng hình sự Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có nhiều sửa đổi và bổ sung nhưng vẫn còn một số ít những quy định chưa phù hợp với tình hình thực tế, do đó ít nhiều gây khó khăn cho các Thẩm phán trong thực tiễn áp dụng. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật của một số ít Thẩm
  • 46. 40 phán còn chưa triệt để, dẫn tới hoạt động xét xử còn có nhiều hạn chế. Về phần này, tác giả không đề cập tới những kết quả đã đạt được mà chỉ nêu ra một số vấn đề cần quan tâm trong việc thực hiện vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. 1) Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử: Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra phiên tòa những việc chưa được điều tra hoặc không được khởi tố vụ án hình sự. Chuẩn bị xét xử được bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát chuyển sang. Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Khoản 1 Điều 45 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán như sau: a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự; c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử; d) Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án; Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều 39, thì tại Khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (khoản 2 Điều 45 BLTTHS sửa đổi năm 2015) Thẩm phán còn có những nhiệm vụ quyền hạn sau: a) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;