SlideShare a Scribd company logo
1 of 73
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ MINH NGUYỆT
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ MINH NGUYỆT
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực mà các tác giả, nhà khoa học đã nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Vũ Minh Nguyệt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN .................................................... 7
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án............................. 7
1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án .............................. 8
1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..............................14
Chương 2:QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...........................27
2.1. Các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án..........................................................................................................27
2.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại
địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.................................................43
2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân..................................................45
Chương 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THỦ
TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH....................51
3.1. Các yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu quả về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ....................................................................................................51
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.........................................................................................................55
KẾT LUẬN....................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL Áp dụng pháp luật
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
KSV Kiểm sát viên
TAND Tòa án nhân dân
TA Tòa án
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Tổng hợp những kết quả đạt được từ năm 2015 đến 2018..............45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự, thủ tục xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn rất
quan trọng, vì để xác định một người có tội và chịu hình phạt, thì người đó
phải bị đưa ra xét xử trước phiên tòa; Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền quyết định trong bản án về một người có tội hay không có tội. Bởi lẽ
đó,Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31: “Người bị buộc tội
được coi là không có tội ……đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử của
Tòa án là sự thể hiện tính nghiêm minh của hệ thống các cơ quan tư pháp
trong hoạt động tố tụng, cuối cùng Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra những
phán quyết để tuyên người đó có tội hay không có tội hoặc chịu hình phạt như
thế nào.
Xuất phát từ yêu cầu bảo về quyền lợi Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, luật tố tụng hình sự quy định trình tự xét xử
vụ án hình sự phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy,
việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ xét
xử sơ thẩm, đến xét xử phúc thẩm khi có những điều kiện nhất định. Trường
hợp phát hiện có sự vi phạm quy định nghiêm trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hoặc khi phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án thì bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vẫn có
thể được đưa ra xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo thực tiễn thì trong tổng số các vụ án hình sự mà hệ thống Tòa án
đã giải quyết thìtỷ lệ lớnthuộc về án sơ thẩm. Tại Tòa án nhân dân Quận 10,
hàng năm, Tòa án phải thụ lý giải quyết khoảng 200 vụ án hình sự, trong đó
các vụ án được xét xử sơ thẩm chiếm 80%. Nếu việc xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự không tuân thủ các quy định của thủ tục tố tụng hình sự, thì sẽ dẫn
2
đến việc xét xử của Tòa án bị sai sót, dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội,
làm giảm đi niềm tin của người dân đối với pháp luật Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” mang
tính cấp thiết, không những về mặt lý luận mà còn đòi hỏi thực tiễn, nhằm
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại Quận 10 nói riêng
và địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến thủ tục xét xử của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, giảng viên, học viên viết và trình bày trong tạp chí, sách, luận văn
như:
Cuốn sách “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam” của
GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, năm 2001) đã phân
tích hệ thống tư phápmột hệ thống thống nhất của quá trìnhtố tụng dẫn đến
xét xử và phán quyết của Tòa án và hệ thống thống nhất của quá trình áp dụng
pháp luật, trong đó có thủ tục tố tụng hình sự; và chỉ rõ giữa việc ban hành
pháp luật, bảo vệ pháp luật và áp dụng pháp luật có mối liên hệ khăng khít,
thúc đẩy lẫn nhau mà vai trò tích cực của khâu áp dụng pháp luật đối với việc
điều chỉnh pháp luật. [18]
Cuốn sách “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” (Nxb Chính trị Quốc giaSự thật, năm 2005) và “Thủ tục xét xử sơ
thẩm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000) của ThS. Đinh Văn Quế đã phần nào làm sáng tỏ thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự, đồng thời nêu ra một số vấn đề còn vướng mắc về tố tụng hình
sự để trao đổi với các nhà chuyên môn và các nhà làm luật nhằm góp phần
3
tiếp tục hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự ở nước ta
hiện nay. [25]
Bài viết “Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử” đăng trên tạp trí Luật học, số 06/2007
của TS. Vũ Gia Lâm nghiên cứu đề xuất việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử
với thành lập các Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm theo khu vực, giúp thu gọn đầu
mối, tiết kiệm ngân sách… để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất, đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác xét xử ở
cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Bài viết “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” đăng trên tạp trí Luật học số
01/2015 của TS. Vũ Gia Lâm đã làm rõ cơ sở pháp lý, sự cần thiết phải hoàn
thiện quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo
hướng bảo đảm tranh tụng giữa các bên buộc tội và gỡ tội. Trên cơ sở phân
tích thực trạng tại phiên tòa sơ thẩm, tác giả đã lý giải nguyên nhân của những
hạn chế trong tranh tụng tại phiên tòa, chủ yếu là phương diện lập pháp, bài
viết đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số điều của BLTTHS hiện hành về trình
tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đặc
biệt là quy định về xét hỏi, tranh luận.
Tiến sỹ Phạm Minh Tuyên với công trình: “Kỹ năng xét xử các vụ án
hình sự” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 2018) đã nêu rất rõ về trình tự và thủ tục tố tụng tại phiên Tòa.
Đặc biệt là các tình huống, lưu ý mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, cũng như các
nhà làm luật có thể vận dụng vào thực tiễn xét xử hoặc công việc chuyên môn
của mình.[34]
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả nói trên tập
trung chủ yếu đến những vấn đề lý luận chung về thủ tục xét xử sơ thẩm trong
4
luật tố tụng hình sự hoặc phân tích các quy định của pháp luật tố tụng thực
định. Các công trình khoa học và bài viết kể trên đều mang tính giá trị về lý
luận và thực tiễn, là tài liệu tham khảo bổ ích cho quá trình nghiên cứu, đề
xuất trong luận văn này.Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chưa phổ
quát một cách toàn diện và đầy đủ đến pháp luật về thực tiễn áp dụng thủ tục
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
đặc biệt là thực tiễn tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên mà Học viên đã lựa chọn vấn đề “Thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm hướng tới đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng
như nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xét xử sơ thẩm của Tòa án trên cơ
sở làm rõ lý luận và thực tiễn thực hiện của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành
phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu theo đề tài luận văn đặt ra về thủ tục
xét xử sơ thẩm đó là:
 Nghiên cứu những vấn đề về lý luận liên quan đến thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Nghiên cứu các quy định trong BLTTHS 2015 liên quan đến thủ tục
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Đánh giá thực trạng một cách toàn diện, khách quan từ thực tiễn thực
hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Quận 10,
Thành phố Hồ Chí Minh.
5
 Theo đó xác định được nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng
của hoạt động xét xử vàđưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
 Nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quan điểm của nhiều tác giả về
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
 Tác giả tập trung nghiên cứu về quy định trong BLTTHS liên quan
đến thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
 Việc nghiên cứu các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân
Quận 10, giúp cho việc đánh giá chất lượng các bản án hình sự sơ thẩm có bị
kháng cáo, kháng nghị hay không thể hiện tính đúng đắn trong hoạt động xét
xử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm mà Tòa án nhân dân cấp
quận, huyện tiến hành thì phải trải qua quá trình tiến hành tố tụng, quy trình,
thủ tục pháp lý theo quy định. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và TAND Quận
10 nói riêng hiện nay là một đề tài rộng, có nhiều vấn đề liên quan đến lý luận
và thực tiễn, đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khoa học, khách quan. Vì vậy
phạm vi nghiên cứu là:
 Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của Bộ luật tố tụng
năm 2015 liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
 Tác giả chọn không gian nghiên cứu đó là tình hình xét xử sơ thẩm
VAHS trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
 Về thời gian thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS của Tòa án
nhân dân Quận 10 từ năm 2015 đến 2018.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Phương pháp lý luận được đúc kết từ những thành quả nghiên cứu của
các nhà khoa họcliên quan Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự; Tư duy
triết học của chủ nghĩa Mác–Lê nin, tư thưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả còn sử dụng trong một số các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như sau: hệ thống, so sánh, tổng hợp, dự báo, lịch sử, kết hợp với phương
pháp sử dụng ý kiến nhà khoa học, chuyên gia để chọn lọc vấn đề kinh
nghiệm thực tiễn và lý luận khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn có ý nghĩa bổ sung một số lý luận cho luật tố tụng hình sự về
thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho đối tượng
nghiên cứu khoa học, tìm hiểu về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.
7. Kết cấu của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận vềthủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của Tòa án.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh.
7
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, người ta đã khẳng định: ở đâu có
pháp luật thì ở đó phải có hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một
cách nghiêm minh. Sự bảo đảm đó, trước hết phải bằng hoạt động của cơ
quan nhà nước có chức năng xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp
luật mà nhà nước ban hành. Nói cách khác, sự bảo đảm đó chính là hoạt động
xét xử của cơ quan chức năng trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
thực hiện.
Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân của Việt Nam quy định
“Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làTòa án”;
hoạt động xét xử là nhiệm vụ chủ yếu vàquan trọng của Tòa án. Vì thế việc
xét xử phải xác định làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở của
sự thật khách quan, Tòa án nhân danh Nhà nước, đưa ra phán quyết cuối cùng
liên quan đến bản án.
Với nhiệm vụ và chức năng là cơ quan xét xử của nước ta, hệ thống
Tòa án nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp như cơ quan thi hành án, cơ
quan tổ chức bổ trợ tư pháp, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, thì mọi hoạt
động phải bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm minh. Tại Tòa án, các kết
quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định được đưa ra xét xử và sử
dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng, để từ đó đưa ra những
phán xét cuối cùng. Tòa án là nơi thể hiện công lý, sự đối xử công bằng,bình
đẳng trong tất cả các mối quan hệ; Tòa án cũng là nơi thể hiện chất lượng,
trình độ hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
8
Xét theo khoa học pháp lý thì việc lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử ở
Tòa án có thẩm quyền đó là xét xử sơ thẩm. Tòa án đưa ra quyết định về bản
án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Hay nói cách
khác, xét xử sơ thẩm chính là giai đoạn thứ tư của hoạt động tố tụng. Bản án
của Tòa án, nếu có hiệu lực pháp luật thì đó là quyết định kết thúc cả bốn giai
đoạn hoạt động tố tụng là khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng độc lập trong đó Tòa án có thẩm
quyền thực hiện chức năng của mình để xem xét, giải quyết vụ án, ra quyết
định đối với bản án theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết vụ án hình sự
sẽ trải qua các giai đoạn khác nhau.Tại phiên tòa, hội đồng xét xử trên cơ sở
đánh giá công khai những chứng cứ đã được kiểm tra, sẽ ra bản án xác định
có tội hay không có tội. Bên cạnh việc ra bản án, Tòa án còn có thể ra các
quyết định khác để giải quyết vụ án.
Cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, song đa phần các nhà khoa học đều cho rằng: Xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là việc xét xử lần thứ nhất ở cấp thứ nhất, do Tòa án thực hiện theo
thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Bản thân tác giả cũng hoàn toàn đồng
ý với quan điểm này.
1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
1.2.1.Hoạt động xét xử do Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thực hiện bằng quyền lực nhà nước
Pháp luật hiện hành đã quy định, Cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp là Viện kiểm sát; cơ quan xét xử chính là Tòa án,
thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là
thuộc Tòa án nhân dân, thông qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra,
giám sát thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 tại Điều 102 đã quy định cơ quan xét xử của nước
9
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Tòa án nhân dân, có nhiệm vụ thực
hiện quyền tư pháp. Đây là quy định trong toàn hệ thống chính trị, Tòa án là
cơ quan duy nhất có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tức là có
chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc có tranh chấp theo thẩm
quyền quy định. Hiến pháp 2013 quy định cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ
phía cơ quan lập pháp, thể hiện qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm,
miễn nhiệm đối với các chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, lấy
phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh
án Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Dù vậy,
việc kiểm soát quyền lực này gần như mang tính một chiều chưa mang tính
ngược lại.
Là cơ quan có vai trò thực hiện quyền tư pháp, Tòa án sẽ thực hiện
chức năng kiểm soát việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp, theo
quyền hạn, nhiệm vụ được giao. Theo đó, Tòa án nhân dân thực hiện quyền
lập pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật nếu thông qua hoạt động xét xử thấy
văn bản luật trái Hiến pháp, mâu thuẫn với luật khác hoặc không phù hợp với
thực tiễn. Bên cạnh đó, Tòa án còn có thẩm quyền xét xử các vụ án hành
chínhcủa các cơ quan hành chính nhà nước đối với các hành vi hành chính,
quyết định hành chính; cũng như các phán quyết về vi phạm quyền con
người…
Ở nước ta, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều bắt nguồn từ nhân
dân. Cả ba quyền này tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là
những yếu tố tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm
2013 ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà
nước, tạo dựng cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, bảo đảm
cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả.
10
1.2.2. Hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành theo nguyên tắc độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật và chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân tiến hành
Độc lập là biểu hiện của việc chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy,khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm được pháp luật quy định hoạt động theo nguyên
tắc độc lập. Đó là nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp cho tới các luật
chuyên ngành. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất kỳ
sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan,
vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Điều kiện
cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật là thực hiện nguyên
tắc độc lập.
Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở
khía cạnh chung của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm
phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của
pháp luật. Khi nắm rõ kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm sẽ có điều
kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác
thì tuân theo pháp luật là sẽ loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm, từ đó họ mới có được sự độc lập.
Có một nguyên tắc mà khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán phải tuân
theo đó là phán quyết độc lập, chỉ tuân theo pháp luật:
“Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ qua lại, khăng
khít với lẫn nhau.
Độc lập chính là điều kiện cần thiết để Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân
chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử . Như vậy tuân theo pháp luật chính là cơ sở
cần thiết để hội thẩm, thẩm phán độc lập khi xét xử. Cả haimối quan hệ này
ràng buộc nhau. Như vậy, trường hợp chỉ độc lập mà không tuân theo quy
định của pháp luật thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong xét xử,
11
ngoài ra còn phải tùy thuộc vào ý chí chủ quan của thẩm phán mà dẫn đến
việc không công bằng.
Các quy định trong bốn bản Hiến pháp của nước ta đối với nguyên tắc
này tại điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến
pháp 1980, điều 130 Hiến pháp 1992. Và tại sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01
năm 1946 và các luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 cũng
đều ghi nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, qua đó bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, đúng
pháp luật. Khi thực hiện chức năng xét xử Tòa án đặc biệt lưu ýcác nội dung
chính của nguyên tắc này như sau:
Một là: Khi xét xử, Hội đồng xét xử không chi phối bởi bản luận tội
của Viện kiểm sát; và cũng không bị ảnh hưởng các ý kiến của thành viên
trong hội đồng xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm về ý kiến
của mình trong từng vấn đề của vụ án hình sự.
Hai là:Tất cả thành viên của Hội đồng xét xử cũng phải giữ vững
nguyên tắc độc lập khi xét xử trong việc xác định chứng cứ, căn cứcác quy
phạm pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo định tội và lượng hình chính xác đối
với các vụ án hình sự và quyết định quyền cũng như nghĩa vụ của các đương
sự trong vụ án hình sự.
Ba là: theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thì bản án chưa có hiệu lực pháp luật sẽ phải tiếp tục được đưa ra xét xử
ở cấp cấp cao hơn. Hay các bản án xét xử sơ thẩm nếu không thật sự cần thiết
thì không phải xin ý kiến của Tòa án cấp trên chỉ đạo. Cũng như vậy khi xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa sẽ không bị ảnh hưởng bởi
kết quả của phiên xét xử sơ thẩm.
Độc lập khi xét xử của Hội thẩm và Thẩm phán là phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn của mình.
12
Tòa án thực hiện hoạt động xét xử căn cứ từ bản chất của hoạt động tư
pháp. Và Tòa chỉ hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý, Tòa án xét
xử như cơ quan trung lập, người đứng giữa, không phụ thuộc vào các bên như
người bị hại hay người phạm tội, từ đó sẽ xét xử độc lập và tuân theo pháp
luật, lúc này Tòa chính là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
một cách đúng đắn.
Căn cứ từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của Tòa án
có sự tham gia của Hội thẩm đã được hiến pháp và pháp luật quy định, đó là
một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa:
“Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệmlà
thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, hạn chế những tiêu cực trong
hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ pháp chế,công lý củanước Cộng
Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để việc xét xử của Tòa án được minh bạch,
chính xác với tình hình thực tế và góp phần đáp ứng vớitâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân.
1.2.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được tiến hành chủ yếu
tại phiên tòa và mang tính công khai
Trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới là việc bổ sung hai yêu cầu
khác của hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đó là yêu cầu
phải xét xử“công bằng” và “kịp thời”.
Việc bổ sung hai yêu cầu này vào tên gọi là bảo đảm sự phù hợp với
Hiến pháp năm 2013, đúng với tinh thần và với tiêu chuẩn quốc tế, đó là bảo
đảm quyền con người. Tại Điều 9 Công ước về các quyền dân sự, chính trị
1966 đã ghi nhận: “Bất kỳ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình
sự phải được sớm đưa ra Tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền
thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc
được trả tự do”; tại Điều 14 Công ước cũng khẳng định “Mọi người đều có
13
quyền xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập,
không thiên vị…”
Nguyên tắc “công bằng” và “kịp thời” cần được bổ sung trong tố tụng
hình sự như một yếu tố bắt buộc, làm rõ việc tôn trọng và bảo đảm quyền con
người trong TTHS ngày nay. Người bị buộc tội vẫn được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục, tức là đúng với trình tự
thủ tục tố tụng, cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án và phải là bản án có
hiệu lực pháp luật, và cũng vì vậy mà quyền con người phần nào cũng bị ảnh
hưởng do sẽ bị cơ quan thi hành áp dụng các biện pháp cần thiết theo luật
định. Khi quá trình tố tụng diễn ra, các biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn
chặn được người có thẩm quyền áp dụng đều có thể đưa ra đối với người vi
phạm tức là người bị buộc tội khi có căn cứ luật theo pháp luật, lúc này quyền
con người bắt đầu bị hạn chế nhất định. Bởi lẽ đó, quá trình giải quyết vụ án
hình sự thường bị kéo dài, hay việc xét xử không kịp thời trong một số trường
hợp đều gây ảnh hưởng bất lợi đến người bị buộc tội. Do vậy, vấn đề đặt ra
đối với Tòa án là phải bảo đảm xét xử kịp thời trong thời hạn luật định vì như
thế sẽ bảo đảm quyền con người được tôn trọng, quyền công dân được xác
định rõ, có bị giới hạn hay không trong TTHS.
Cụm từ “ kịp thời” trong BLTTHS năm 2015 phải đi liền với cụm từ
“công bằng”. Vì khi xét xử công bằng tức là Tòa sẽ không thiên vị ai, không
thiên vị bên nào, tuân theo pháp luật, theo đúng lẽ phải. Điều này hết sức có ý
nghĩa trong hoạt động xét xử, qua đó thấy rằng Tòa án phải bảo đảm xét xử
theo đúng quy định của pháp luật, không phân biệt địa vị xã hội, tôn giáo, dân
tộc, không phân biệt thành phần, giới tính, của người bị buộc tội. Ở một khía
cạnh, có thể coi đây là sự cụ thể hóa nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2015.
Nguyên tắc phân chia thành các giai đoạn trong quá trình tố tụng, việc
14
giải quyết vụ án không đúng thời hạn chủ yếu ở giai đoạn khởi tố, điều tra.
Do đó, để bảo đảm công lý được thực thi, bảo vệ quyền con người, thì tính
kịp thời trong việc xử lý không chỉ là yêu cầu cần thiết mà còn là yêu cầu bắt
buộc đối với cả quá trình tố tụng từ lúc khởi tố, đến giai đoạn điều tra, giai
đoạn truy tố, và sau cùng là xét xử. TạiBLTTHS năm 2015 được bổ sung
thêm Điều 19, quy định về tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra là đề cập
đến yêu cầu phát hiệnchính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Vai trò của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 49NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm xác định
rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp, bảo đảm việc xét xử của Tòa án là hoạt động
trọng tâm. Ở nước ta, việc cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước đưa vào
nghị quyết, qua đó đề cao vai trò của Tòa án trong việc hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩ, đây được xem là điều tiên quyết mà cả hệ thống
chính trị phải thực hiện. Bên cạnh đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình
thực hiện, tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm
Tòa án đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử của
Tòa án là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự ở nước ta. Vì vậy, khâu đầu
tiên đó là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó sẽ triển khai thành các giải pháp,
thông qua hoạt động thực tiễn, sau đó hoàn thiện pháp. Nghị quyết
số 49NQ/TW đã có về cải cách tư pháp, mặc dù đã đưa vai trò của Tòa án
trong hệ thống tư pháp lên trên nhưng thực tiễn cho thấy vẫn chưa có chuyển
biến đáng kể trong nhận thức của những người hoạt động pháp luật. Có nhiều
nguyên nhân dẫn điện hiện trạng này nhưng đầu tiên phải kể đến nhận thức
về Tòa án phải là "khâu trung tâm" của hệ thống tư pháp. Muốn chuyển ý chí
và nhận thức thành những cơ chế pháp lý, thì cần phải đưa vào quy định pháp
15
luật nhằm bảo đảm về chức năng, thẩm quyền làm cho Tòa án đóng vai trò là
trung tâm còn hoạt động xét xử xét cho cùng sẽ là hoạt động trọng điểm.
Thứ nhất: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự với vai trò kiểm tra,
kiểm soát xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, để tôn trọng và bảo vệ các lợi ích chung của
Nhà nước, của cộng đồng, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tôn trọng trật tự xã hội. Cơ chế nhằm đảm
bảo trật tự xã hội chính là thiết chế xã hội. Các thiết chế xã hội về kinh tế,
chính trị, phải tuân thủ theo chuẩn mực giá trị xã hội, các quy định của pháp
luật đối với hành vi. Những thiết chế xã hội này nhằm đảm bảo sự ổn định
cho xã hội hiện tại, biết trước tương lai nhằm điều chỉnh hành vi, đảm bảo
quyền con người thực thi theo pháp luật, ngược lại, nếu hành vi vi phạm các
thiết chế chung thì sẽ bị điều chỉnh bởi pháp luật của nhà nước. Vì vậy cho
thấy sự kiểm soát của pháp luật đối với các hành vi, thông qua các thiết chế
xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng đến hành vi cũng như xử sự của mỗi cá
nhân trong xã hội. Nếu có hành vi vi phạm pháp luật, dù là ai, thuộc tầng lớp
nào, nam hay nữ thì khi đó pháp luật sẽ ngăn chặn các hành vi này, chức năng
giáo dục của pháp luật sẽ điều chỉnh cho hành vi vi phạm trở lại đúng quỹ đạo
xã hội. Về vấn đề này, trước đây và hiện nay các nhà Xã hội học đã không
ngừng để làm phát triển lý thuyết xã hội học nói chung, vấn đề kiểm soát xã
hội nói riêng (trong đó có nội dung kiểm soát xã hội đối với tội phạm), vì Xã
hội học là ngành khoa học không chỉ có trách nhiệm tìm ra chân lý khách
quan, phản ánh thực tế đời sống xã hội, mà còn thực hiện tốt chức năng thực
tiễn của nó - cung cấp những thông tin cần thiết cho việc giải quyết các vấn
đề xã hội và phục vụ việc xây dựng, quản lý và duy trì trật tự xã hội, qua đó
bảo đảm ổn định và bền vững các quan hệ xã hội.
Một trong những vai trò, chức năng cơ bản của Nhà nước là quản lý xã
16
hội kiểm soát xã hội, và kiểm tra xã hội. Để thực hiện hoạt động này được
thực thi thì các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước phải phối hợp đồng bộ.
Các cơ quan cần có sự phân công, phân nhiệm khi thực hiện quyền lực nhà
nước, nhà nước giao chức năng giám sát cho cơ quan tư pháp đối với việc
thực thi pháp luật, việc tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện pháp luật là
cơ quan hành pháp. Khi có những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến tổ chức;
những tranh chấp liên quan đến pháp lý, công bằng xã hội thì được thực hiện
thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Hoạt động này có các đặc trưng cơ
bản sau:
 Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
 Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân
chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án. Tòa án có quyền nhân danh Nhà
nước, nhân danh công lý trong các phán quyết xử lý.
Thứ hai: Hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là
thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc
bảo vệ pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo
vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội.
Nói đến nhà nước pháp quyền tức là nói đến nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, xã hội dân chủ là phải dựa trên nguyên tắc nhà nước pháp
quyền. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền mang trong mình những tâm tư,
nguyện vọng, quyền cũng như lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Nó là hệ thống chuẩn mực giá trị trong đời sống xã hội mà thông qua nó để
đánh giá hành vi của con người đã tương xứng với trình độ văn minh của xã
17
hội hay không, và thông qua đó sẽ điều chỉnh được mối quan hệ giữa người
dân và cơ quan có thẩm quyền, ngoài ra đây còn nguyên tắc xử sự chung mà
thông qua nó nhà nước sử dụng như phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội, điều
hoà các mâu thuẫn, đề cao giá trị lợi ích của xã hội. Bên cạnh đó, Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, mang một giá trị to lớn mà
thông qua pháp luật sẽ giúp cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà người
dân, chính quyền, nhà nước, Đảng đang hướng đến. Trái lại, việc triển khai và
mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và
trật tự pháp luật, làm phong phú thêm các quyền tự do của công dân và bảo
đảm thực hiện những quyền đó. Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ
nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân
chính thể hiện bản chất sâu xa của chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật
trong xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng,
bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ
pháp luật không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà
nước mà trở thành hoạt động bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do
dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN. Vai trò bảo vệ
pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
 Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là
hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua
hoạt động xét xử, Toà án đưa ra các hành vi tranh chấp pháp lý khiến những
con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối
tương quan giữa sự riêng biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn
chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp
pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp. Từ đó đi đến một phán quyết có
tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên quan.
18
 Toà án tuân thủ pháp luật: Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của
Nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nói riêng là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, pháp
luật. Toà án là một bộ phận cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn,
nhiệm vụ và chức năng của toà án được xác định trong Hiến Pháp và các văn
bản pháp luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật, đặc biệt là tuân
thủ các nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối
thượng của Hiến Pháp và pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và đời sống
xã hội; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật; trách
nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong
quá trình xét xử; quyền lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; tôn
trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc
tham gia… là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của Toà án.
Thứ ba: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm sự
công bằng của con người
– Hiến pháp năm 2013 đã quy định người bị buộc tội được Tòa án xét xử
công bằng, công khai và kịp thời đúng thời hạn luật định.
Việc tuyên án cần công khai cho dù việc xét sử là kín theo quy định của
pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật là theo quy định trình tự thủ tục tố tụng, do đó nếu để
xảy ra oan sai trong giai các giai đoạn này thì có thể yêu cầu bồi thường thiệt
hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, nhân phẩm một cách chính
đáng. Trái lại, nếu người nào vi phạm pháp luật mà cơ quan tiến hành tố tụng
đã áp đúng quy định của pháp luật thì người đó phải bị xử lý theo pháp luật và
19
không được phản ứng lại với các phán quyết đó.
– BộLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước
pháp luật: tố tụng hình sự phải được tiến hành theo đúng nguyên tắc và tất cả
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội, ngược lại, người nào phạm
tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” đồng thời quy định
nguyên tắc tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng,mọi người đều có quyền
tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
Thứ tư: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm
quyền con người
Nền văn minh nhân loại ghi nhận quyền con người là quyền thiêng
liêng có giá trị cao nhất của con người, có cội nguồn xã hội và tư tưởng từ rất
lâu đời trong quá trình phát triển của nhân loại, trải qua thăng trầm lịch sử để
loài người phát triển quyền tối thượng đó, cho dù các thời kỳ có thể xảy ra các
chế độ bất công, chuyên chế tàn bạo, thì quyền con người vẫn không thay đổi.
Để bảo vệ quyền con người thì trong hoạt động xét xử cũng phải hướng đến
các quy định có lợi cho người vi phạm, hướng đến những giá trị nhằm bảo vệ
các quyền con người một tất yếu mà ngành Toà án phải thực hiện theo tinh
thần Nghị quyết 49/BCT là đảm bảo cải cách tư pháp.
Thứ năm: Hoạt động xét xử tại phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện
việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong quần chúng nhân dân
cần được tăng cường với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó Tòa
án cần tăng cường xét xử lưu động để góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân. Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
20
quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc
thực hiện các hoạt động nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là một chức
năng, nhiệm vụ quan trọng của Tòa án, được ghi nhận tại Luật Tổ chức
TAND các năm 1992, 1995, 2002 và năm 2014 như sau: “Bằng hoạt động
của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã
hội, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.
Hoạt động xét xử của Tòa án chính là việc Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản
án hoặc quyết định có tính chất kết luận về các vi phạm pháp luật, các tranh
chấp pháp lý xảy ra trong xã hội; xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài,
giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước nhằm giữ vững kỷ cương
xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các
tổ chức và công dân. Tòa án thông qua phiên tòa (đặc biệt là các phiên tòa xét
xử lưu động) để góp phần tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật trong quần
chúng nhân dân.
1.3.2. Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc thực hiện thủ tục tố tụng thông
qua việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, vì vậy
mà xét xử sơ thẩm mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở nước ta, theo quy định
những người tham gia tố tụng phiên tòa là bình đẳng lẫn không phân biệt
trong tranh luận cũng như đưa ra các chứng cứ, chứng minh, hoặc đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng nếu vi phạm các điều cấm..., tại phiên toà xét
xử sơ thẩm thể hiện đầy đủ tính công bằng và dân chủ. Thủ tục tố tụng tại
phiên tòa bao gồm việc tranh luận, tranh tụng, sau đó hội đồng xét xử sẽ áp
dụng hình phạt được quy định trong BLHS để tuyên đối với người phạm tội,
21
qua đó người phạm tội sẽ bị răn đe và giáo dục để tránh không bị vi phạm
pháp luật nữa. Chính vì vậy, việc bảo vệ quyền con người sẽ giúp nâng cao ý
thức pháp luật của công dân mà Nhà nước luôn hướng đến. Xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là bắt buộc khi Tòa án nhận thấy rằng có đủ cơ sở để mở phiên tòa
và việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử thì đây được coi là bước xét xử
lần đầu, nhưng không phải vụ án nào cũng sẽ trải qua hai cấp xét xử, vì khi có
kháng cáo, kháng nghị đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật thì mới bắt
đầu diễn ra xét xử phúc thẩm. Chính vì vậy, một phiên toà khi tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định sẽ tạo điều kiện để người tham
gia tố tụng được tranh luận công khai còn là cơ sở để có được bản án, quyết
định khách quan, toàn diện, chính xác sẽ tạo được lòng tin trong nhân dân,
làm giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Vì vậy, một
bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật cũng sẽ góp phần tiết kiệm được tiền
bạc, công sức, thời gian của nhân dân và nhà nước và hình ảnh Tòa án trong
mắt người dân được nâng cao, ngành tòa án ngày càng chất lượng, uy tín
trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Có thể khẳng định, để góp phần có hiệu quả trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm của toàn xã hội thì xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố
tụng hình sự đặc biệt quan trọng, qua đó giúp bảo vệ các quyền công dân,
quyền con người. Xét xử sơ thẩm mang tính quan trọng được thể hiện qua các
nội dung như sau:
Thứ nhất, thủ tục xét xử các vụ án hình sự là hình thức pháp lý thể hiện
quyền tư pháp.
Quyền lực nhà nước bao gồm ba bộ phân chủ yếu hợp thành: quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc thực thi quyền tư pháp thông
qua các thiết chế tổ chức và phương thức hoạt động theo các nguyên tắc đặc
thù và quy trình thủ tục chặt chẽ để bảo vệ pháp luật, duy trì công lý có tác
22
động đến niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và chế độ xã hội, là thước đo
mức độ dân chủ của Nhà nước, tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật nói
chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự là cơ sở pháp lý để các bên có vị trí độc lập với nhau về lợi ích,
khác nhau về chức năng tố tụng (buộc tội, bào chữa) thực hiện việc tranh tụng
với nhau, trên cơ sở đó, Tòa án nhân danh Nhà nước thực thi công lý, đưa ra
phán xét về hành vi phạm tội, về tính đúng đắn, hợp pháp của các hành vi,
quyết định tố tụng của các chủ thể tố tụng ngoài Tòa án nhằm duy trì trật tự
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự ổn
định chung của xã hội. Không một cơ quan tổ chức nào có quyền nhân danh
quyền lực Nhà nước để xét xử, kết tội đối với một người phạm tội, ngoại trừ
Tòa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Thông qua việc áp dụng các quy
định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án nhân danh Nhà
nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về vụ án, gồm nội dung
quan trọng như: có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành
vi phạm, tội, lỗi, tính chất mức độ thiệt hại, quyết định hình phạt, các biện
pháp tư pháp, nhằm bảo đảm việc xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng quy
định pháp luật.
Thứ hai, thủ tục xét xử vụ án hình sự là cơ sở bảo đảm lợi ích Nhà
nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Với ý nghĩa là hoạt động thực tiễn, quyền lực nhà nước, xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự luôn bảo vệ lợi ích của hai nhóm, đó làlợi ích công và lợi ích cá
nhân. Hai nhóm lợi ích này có mối quan hệ biện chứng như cặp phạm trù
thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Lợi ích công thể hiện ở việc điều
tra kịp thời và dầy đủ, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, xét xử và áp
dụng hình phạt công minh, đúng pháp luật đối với người phạm tội, còn lợi ích
cá nhân thể hiện ở việc bảo đảm cho người vô tội không bị truy cứu trách
23
nhiệm hình sự oan, người bị truy tố, xét xử oan được minh oan, và bồi thường
thiệt hại; các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, của bị can, bị cáo,
không bị hạn chế trái pháp luật [17, tr.304]. Lợi ích Nhà nước và xã hội đòi
hỏi việc thực thi quyền lực công phải mạnh mẽ, tích cực và kiên quyết. Việc
nhận thức không đúng, quá đề cao lợi ích công sẽ dẫn đến xem nhẹ lợi ích cá
nhân, xem nhẹ những giá trị quyền con người. Ngược lại, quá chú trọng đến
lợi ích cá nhân thì lợi ích công sẽ bị xâm phạm. Cụ thể là Nhà nước thực hiện
quyền trừng phạt người phạm tội nhưng đồng thời cũng bảo vệ người vô tội
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan. Tòa án được xem là công cụ quan
trọng nhất đảm bảo quyền con người khi các quyền và lợi ích của công dân bị
xâm phạm. Xét xử vụ án hình sự chính là thành trì vững chắc cho việc bảo vệ
quyền con người, quyền tự do và dân chủ của các cá nhân trước sự xâm phạm
của bất cứ chủ thể nào, trong đó có cả đối với các chủ thể là cơ quan nhà
nước.
Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với các quy định chặt chẽ
về trình tự, thủ tục nhằm tìm ra chân lý của vụ việc để đi đến kết luận về hành
vi phạm tội và người thực hiện tội phạm.
Để đảm bảo cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án và thực hiện việc
buộc tội bị cáo tại Tòa án. Bộ luật tố tụng hình sự quy định trách nhiệm thu
thập, điều tra chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, và người thực hiện tội
phạm thuộc về bên buộc tội (Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát). Kết quả hoạt
động của các cơ quan này được thể hiện trong hồ sơ vụ án, trong các quyết
định tố tụng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc pháp lý được thừa nhận
chung của nền văn minh pháp lý đó: không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, do vậy
mọi nhận định thể hiện trong các tài liệu, quyết định tố tụng của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát chuyển sang Tòa án chưa có giá trị kết luận về hành vi
24
phạm tội của người bị tình nghi. Về bản chất ở giai đoạn điều tra, truy tố, các
chủ thể ở bên buộc tội cũng như bên bào chữa chỉ mới làm công tác chuẩn bị,
thu thập chứng cứ, tài liệu về vụ án, các văn bản pháp lý cần thiết để thực
hiện chức năng của mình tại phiên tòa. Toàn bộ chứng cứ, tài liệu đã thu thập
trước đó được Tòa án đưa ra kiểm tra công khai nhằm đánh giá tính khách
quan, tính hợp pháp để kiểm tra tính có căn cứ của những chứng cứ, tài liệu
này. Các chủ thể tại phiên tòa sơ thẩm được công khai tranh tụng, đưa ra lập
luận, căn cứ để bảo vệ hoặc bác bỏ những lý lẽ khác thông qua việc cung cấp
chứng cứ, kiểm tra chứng cứ hoặc đưa ra các yêu cầu [33, tr.19].
Thứ tư, thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự là thước đo, là điều kiện để bảo
đảm sự dân chủ, bình đẳng, công bằng, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, vấn đề vai trò, ý nghĩa của tố tụng hình sự nói chung về thủ
tục sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng còn được nhìn nhận ở góc độ xã hội học,
xem đó như là một giá trị xã hội khách quan vì nó cần trước hết cho xã hội.
Hoạt động TTHS được pháp luật ghi nhận có cội nguồn xã hội sâu xa, từ
chính bản chất của xã hội, cũng như sự trừng trị của luật hình sự được dựa
trên quyền trừng trị của xã hội. Giá trị xã hội của Tố tụng hình sự thể hiện ở
chỗ là cái bảo đảm vững chắc cho lợi ích Nhà nước và mọi cá nhân. Nhà nước
ngày càng chuyển dần từ phương thức nặng về trừng trị sang phương thức
pháp lý diễn ra theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ, do luật định để bảo đảm
giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Xu thế điều chỉnh
này của pháp luật tố tụng hình sự đòi hỏi cần thiết hoàn thiện cơ chế bảo vệ cá
nhân trước hành vi quyết định trái pháp luật của các cơ quan và người có
thẩm quyền. Mục đích, nhiệm vụ của TTHS là bảo đảm tuân thủ chặt chẽ
trình tự, thủ tục, truy cứu trách nhiệm hình sự và xét xử, áp dụng hình phạt
25
đối với người phạm tội, phải công minh, kịp thời, đúng luật định. Trình tự xét
xử vụ án hình sự đúng luật định cũng góp phần đảm bảo cho người vô tội
không bị xét xử oan; quyền của bị can, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác không bị hạn chế trái pháp luật. Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình
sự được luật quy định chặt chẽ và bắt buộc tuân thủ còn là yếu tố bảo đảm
pháp chế, phòng ngừa tội phạm, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong
nhân dân.
Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là hoạt động phức tạp, liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân vì
trong tố tụng hình sự, quyền con người là vấn đề dễ bị xâm phạm và bị tổn
thương nhất và hậu quả để lại cũng nặng nề nhất khi nó tác động đến quyền
được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của con người, của công dân
[13, tr.369]. Hoạt động xét xử mang tính quyền lực, sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước đối với người phạm tội. Chính vì vậy, những bảo đảm về thủ tục xét
xử là rất quan trọng, do đó pháp luật quy định rất khắt khe về thủ tục xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, nhằm bảo đảm
cho người bị buộc tội quyền được xét xử thông qua Tòa án, bằng thủ tục xét
xử chặt chẽ, công khai, minh bạch, nhanh chóng, kịp thời.
Tiểu kết Chương 1
Tòa án nhân dân của Nhà nước ta đã trải qua các cuộc cải cách, đổi mới
về tổ chức cũng như phương thức hoạt động nhằm đáp ứng nhiệm vụ ngày
càng cao của ngành tư pháp, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng, phát triển Nhà
nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Tòa án nhân dân đã thể hiện rất rõ sự vận
dụng đường lối lãnh đạo, nghị quyết của Đảng trong tổ chức và hoạt động để
ngày càng phát triển và lớn mạnh, tạo được niềm tin đối với người dân. Hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án cấp quận, huyện là một cấp xét
xử trong tố tụng hình sự,hoạt động này được tiến hành liên tiếp sau hoạt động
26
điều tra, truy tố. Nó còn được thực hiện bởi công tác chuẩn bị xét xử cho đến
quá trình xét xử tại phiên tòa, các giai đoạn này được quy định thành quy
trình xét xử, chính xác là thủ tục tố tụng trong pháp luật hình sự. Sự phán
quyết của Tòa án để đưa ra bản án sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đến quyền con người.
27
Chương 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN THỦ
TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Các quy định của pháp luật về thủtục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm
a. Thẩm quyền xét xử theo việc (Theo cấp Tòa án)
Sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau và căn
cứ vào mức độ, tính chất nguy hiểm của tội phạm theo quy định sẽ là thẩm
quyền xét xử theo sự việc. Do Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân
tối cao không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm
theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa hai cấp Tòa án: Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án cấp quân khu và Tòa án cấp huyện, Tòa án quân sự
khu vực.
 Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân
cấp Huyện:
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Tòa án cấp huyện (Tòa án
cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực) là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự
các cấp xét xử.
 BLTTHS năm 2015 có Điều 268 quy định thẩm quyền xét xử của
Tòa án các cấp. Tòa án quân sự khu vực hoặc Tòa án cấp huyện quy định sẽ
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
+ Các tội phạm an ninh quốc gia;
+ Các tội liên quan đến phá hoại hòa bình, tội phạm chiến tranh và
chống loài người;
28
+ Các tội vi phạm thực hiện ngoài lãnh thổ nước Việt Nam;
+ Tội phạm quy định tại các Điều 123 “tội giết người”; Điều 125 “Tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh’; Điều 126 “Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội”; Điều 227 “Tội vi phạm các quy định về
thăm dò, nghiên cứu, khai thác tài nguyên”; Điều 277 “Tội vi phạm các quy
định về điều khiển tàu bay”; Điều 279 “Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao
thông đường không không đảm bảo an toàn”; Điều 280 “Tội điều động hoặc
giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiền giao thông
đường không”; Điều 282 “Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy”; Điều 283 “Tội
điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Điều 284 “Tội điều khiển phương tiện hàng hải
vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”; Điều 286 “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho chương trình
của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”; Điều 287; Điều
288; Điều 337; Điều 368; Điều 369; Điều 370; Điều 371; Điều 399, Điều 400
của Bộ luật hình sự.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015, Tòa án quân sự khu
vực và Tòa án nhân dân cấp huyện cóthẩm quyền xét xử các loại tội phạm có
mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù, còn các tội phạm quy định tại điểm a, b,
c, d khoản 1 Điều 268 BLTTHS năm 2015 thì Tòa án quân sự khu vực và Tòa
án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền.
So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 có bổ sung thêm quy định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án
quân sự khu vực không có thẩm quyền xét xử đối với “Các tội phạm được
thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (điểm
d khoản 1 Điều 268)
29
 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa
án nhân dân cấp tỉnh
Tại khoản 2 Điều 268 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án quân sự cấp
quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự mà Tòa án quân sự khu vực và Tòa án nhân dân cấp huyện
không có thẩm quyền trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới
mà Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để xét
xử.
“Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ
thẩm những vụ án:
a) Vụ án hình sự về các tội phạm không ….khu vực;
b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, …. ở nước ngoài;
c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền …. người có chức sắc trong tôn
giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.”
Theo quy định mới của BLHS năm 2015, thì tất cả các trường hợp quy
định tại điểm c khoản 2 điều này sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp Tỉnh mà không thuộc thẩm quyền của
Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp huyện. Vì vậy, khi thụ lý vụ án,
nếu xét thấy các căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 Điều này thì Tòa án quân
sự khu vực,Tòa án nhân dân cấp huyện phải trả hồ sơ vụ án cho VKS đã truy
tố theo quy định tại khoản 1 Điều 274 của Bộ luật này.
Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 268, đã tháo gỡ được những vướng
mắc trước đây theo quy định của BLTTHS năm 2003 và đã đưa ra các điều
kiện để lấy vụ án của cấp huyện lên tỉnh xét xử trong quy định của điều luật
và không phụ thuộc vào hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày
12 tháng 01 năm 1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định của
30
BLTTHS năm 1988 nữa. Trước đây, BLTTHS năm 2003 không có điều luật
nào quy định cụ thể về các điều kiện để Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy các vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện để xét xử, mà hoàn toàn
phụ thuộc vào đánh giá của Cơ quan điều tra và VKS. Việc lấy hay không lấy
các vụ án của cấp huyện lên tỉnh để xét xử hay không đều do hai cơ quan này
quyết định.
Tuy nhiên, việc quy định tại điểm c khoản 2 Điều 268 cũng sẽ có
những vướng mắc và tranh chấp về thẩm quyền nếu không có văn bản hướng
dẫn rõ như trường hợp nào được coi là “Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. Cán bộ
lãnh đạo chủ chốt phải chăng chỉ là Bí thư, Chủ tịch hay cả cấp phó của
Huyện ủy, Ủy ban, các ban Đảng, hoặc các phòng ban của Ủy ban nhân dân…
b. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Việc phân chia, xác định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án quân sự và
Tòa án nhân dân sẽ căn cứ vào đối tượng phạm tội, theo đó:
Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
Tại BLTTHS năm 2003 chưa có điều luật cụ thể nêu rõ đối tượng nào
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Tuy nhiên trong Pháp lệnh Tổ
chức Tòa án quân sự năm 2002, tại Điều 3 có quy định về thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự và BLTTHS 2015 cũng quy định vấn đề này tại Điều 272,
cụ thể Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự quy định tại
Điều 272 BLTTHS năm 2015 cụ thể như sau:
“1. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử:
a) Vụ án hình ….Quân đội nhân dân;
b) Vụ án hình sự mà bị cáo …..Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
2. Tòa án quân sự …. thiết quân luật.”[29, tr.235]
Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
31
Tòa án quân sự không có thẩm quyền xét xử đối tượng phạm tội thì Tòa
án nhân dân xét xử những đối tượng này. Tòa án nhân dân xét xử những
người không còn hoạt động trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ
được thực hiện trong thời gian phục vụ cho quân đội; những người đang phục
vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào
quân đội nếu tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc không gây
thiệt hại cho quân đội (Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002)
Như vậy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án hình
sự trừ những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đã được
pháp luật quy định. Từ những quy định trên của pháp luật đã cho thấy khả
năng sẽ xảy ra tranh chấp thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án nhân dân
và Tòa án quân sự. Việc giải quyết loại tranh chấp này được quy định tại
khoản 4 Điều 275 BLTTHS 2015 và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
quyết định.
Ngoài ra BLTTHS năm 2015 còn quy định tại Điều 273 về việc xét xử
bị cáo phạm nhiều tội mà có tội vi phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án quân
sự, có tội vi phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Nếu vụ án hình sự
vừa có bị cáo phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa có
bị cáo phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì theo quy
định thẩm quyền xét xử sẽ được thực hiện dựa trên tính chất của vụ án. Và khi
xét thấy trường hợp cần thiết thì có thể tách vụ án, theo đó thì Tòa án nhân
dân xét xử bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân còn Tòa án
quân sự sẽ xét xử bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và
ngược lại, nếu xét thấy không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự sẽ xét xử toàn
bộ vụ án không để Tòa án nhân dân tham gia.
BLTTHS năm 2015Đã thấy rõcác quy định cụ thể hơn về thẩm quyền
xét xử của Tòa án các cấp so với BLTTHS năm 2003. Qua đó, đã làm rõ thẩm
32
quyền xét xử của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân.
c. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc việc điều tra
thì thuộc thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. BLHS năm 1999 và BLHS năm
2015 đều quy định tại Điều 5, Điều 6, do đó cũng cần phân định thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo lãnh thổ. Điều 269 BLTTHS là căn cứ pháp
lý quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
BLTTHS năm 2015 tại khoản 1 Điều 269: Tòa án nơi mà tội phạm
được thực hiện sẽ là Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự. BLTTHS
năm 2015 cũng quy định Tòa án nơi kết thúc việc điều tra là đối với trường
hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc tội phạm thực hiện
nhiều nơi khác nhau.
Theo quy định này, thì việc xác định thẩm quyền trước hết căn cứ vào
nơi tội phạm được thực hiện, tức là địa danh hành chính mà người phạm tội
thực hiện tội phạm. Tuy nhiên có một số trường hợp tội phạm được thực hiện
ở nhiều nơi khác nhau và lại do Cơ quan điều tra phát hiện ở một nơi mà tội
phạm không được thực hiện hoặc ở nơi tội phạm kết thúc. Ví dụ: Vụ án buôn
ma túy do Vũ Xuân Trường và đồng bọn thực hiện trên nhiều địa phương
khác nhau, từ biên giới ViệtLào về Lai Châu, rồi từ Lai Châu đến các tỉnh
phía Bắc và thủ đô Hà Nội, cuối cùng Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà
Nội phát hiện. Trong quá trình điều tra, Công an thành phố Hà Nội còn phát
hiện nhiều người phạm tội ở nhiều địa phương khác nhau có liên quan đến
đường dây buôn bán ma túy này, nhưng lại thuộc thẩm quyền xét xử của
nhiều Tòa án khác nhau, có người do Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét
xử, có người do Tòa án nhân tỉnh Lai Châu xét xử, nên sau khi kết thúc điều
tra cơ quan Công an thành phố Hà nội đã chuyển hồ sơ vụ án cho tỉnh Lai
Châu để truy tố xét xử những người phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của
33
Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu.
Điều 243 BLTTHS năm 2015 quy định về Quyết định truy tố bị can
trước Tòa bằng bản cáo trạng đã bỏ cụm từ “Nội dung bản cáo trạng ghi rõ
ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra phạm tội” quy định tại Điều 167
BLTTHS năm 2003 bởi lẽ trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác
định được hành vi phạm tội mà không thể xác định nơi xảy ra tội phạm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTHS thì bị cáo phạm tội ở
nước ngoài sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở
trong nước xét xử. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ ra quyết định giao
cho Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng hoặc Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử các trường
hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng trong nước.
Chánh án Tòa án quân sự trung ương sẽ ra quyết định để Tòa án quân
sự cấp quân khu trở lên xét xử các trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài.
BLTTHS năm 2015 tại Điều 270 thì những tội phạm xảy ra trên tàu
biển hoặc tàu bay của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt
động ngoài lãnh hải hoặc không phận củaViệt Nam thì thuộc thẩm quyền của
Tòa án Việt Nam và nơi tàu biển, tàu bay đó đăng ký hoặc nơi có sân bay
hoặc bến cảng trở về đầu tiên.
Ví dụ: Nguyễn Văn An là thủy thủ tàu viễn dương Xin Hạ thuộc Công
ty vận tải biển thành phố Đà Nẵng, trong thời gian tàu đang vận hành trên
vùng biển thuộc hải phận của Thái Lan, An đã giết Đặng Văn Be. Khi tàu
viễn dương Xin Hạ về nước đã cập cảng Hải Phòng, nên thẩm quyền xét xử
hành vi phạm tội của An thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
d. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử
Do sự đa dạng của các tình huống trong thực tế nên mặc dù có quy định
của pháp luật phân định thẩm quyền xét xử tương đối rõ ràng nhưng vẫn tồn
34
tại hiện tượng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp, giữa hai hệ
thống Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Để tháo gỡ vấn đề này, pháp luật
tố tụng hình sự đã xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
xét xử quy định tại Điều 275 BLTTHS năm 2015, cụ thể như sau:
“1. Việc giải quyết tranh …. quân khu quyết định.
2. Việc giải quyết tranh chấp …. điều tra quyết định.
3. Việc giải quyết tranh chấp … quyết định.
4. Việc giải quyết ….tối cao quyết định.
Việc chuyển vụ án để xét xử …..tại Điều 274 của Bộ luật này.”
Như vậy, quy định tại Điều 275 BLTTHS năm 2015 đã bao quát được
hết các loại tranh chấp về thẩm quyền xét xử xảy ra trong thực tế. Tương ứng
với từng loại tranh chấp là một biện pháp giải quyết cụ thể. Tuy nhiên cần
phải vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật đối với từng trường hợp
để giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử đạt hiệu quả.
e. Chuyển vụ án trong giai đoạn xét xử
Điều 174 BLTTHS năm 2003 về “Chuyển vụ án” quy định trong
trường hợp khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án
chuyển vụ án cho Tòa có thẩm quyền xét xử. Khi vụ án chưa được xét xử
Tòa án được chuyển những vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Và việc chuyển
này sẽ do Chánh án tòa án quyết định. Hội đồng xét xử quyết định việc
chuyển vụ án hay không nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp
trên hoặc Tòa án quân sự.
Còn theo quy định tại Điều 274 Bộ luật TTHS năm 2015 về chuyển vụ
án trong giai đoạn xét xử quy định như sau:
“1. Khi vụ án không thuộc ….. truy tố.
Trong thời hạn 03 ngày ….Điều 239 của Bộ luật này.
Khi xét thấy vụ án vẫn ….. thẩm quyền.
35
Thời hạn truy tố ……Điều 241 của Bộ luật này.” [29, tr. 236]
So sánh với quy định về thẩm quyền chuyển vụ án theo BLTTHS năm
2003 thì quy định của BLTTHS năm 2015 có một số điểm mới sau:
Một, trong BLTTHS năm 2003 khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền
của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử, quy định
này trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, bởi khi giải quyết vụ án nếu xét
thấy không đúng thẩm quyền thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm
quyền xét xử nhưng Viện kiểm sát không đồng ý và vẫn giữ nguyên quan
điểm truy tố điều này dẫn đến khó khăn trong giải quyết vụ án và không phù
hợp với quy trình tố tụng ở nước ta, tuy nhiên bất cập, hạn chế này đã được
khắc phục tại Điều 274 BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án theo đó “Khi vụ
án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho
Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy
tố.”, việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với quy trình tố tụng theo quy định
của BLTTHS.
Hai, trình tự, thủ tục chuyển hồ sơ vụ án trong giai đoạn xét xử như
sau:
Kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát
đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án, việc chuyển này sẽ được
giải quyết theo thẩm quyền khi đến được Viện kiểm sát có thẩm quyền truy
tố.
Nếu xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mà đã trả
hồ sơ thì Viện kiểm sát sẽ chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án ban đầu kèm
theo văn bản nêu rõ lý do chính đáng và theo quy định; nếu Tòa án ban đầu
xem xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc giải
quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau:
“Điều 275. Giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử
36
1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án
nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
giữa các Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án
nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác
nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu
nơi kết thúc việc điều tra quyết định.
3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định.
4. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân
dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.”[29,
tr.237]
Đồng thời, khi áp dụng quy định tại Điều 275 để giải quyết việc tranh
chấp về thẩm quyền thì Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa
án có thẩm quyền.
Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã được BLTTHS năm 2015 khắc
phục, quy định cụ thể, chặt chẽ việc Tòa án chuyển vụ án; quy định về giải
quyết mối quan hệ giữa Tòa án và VKS trong trường hợp không thống nhất
với nhau về thẩm quyền xét xử; Tòa án có thẩm quyền là cơ quan giải quyết
tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa Tòa án và VKS. VKS phải thực hiện quyết
định của Tòa án có thẩm quyền và khi Tòa án phát hiện vụ án không thuộc
thẩm quyền xét xử của mình thì việc chuyển vụ án đều được thực hiện trong
giai đoạn xét xử, không quy định cứng việc chuyển vụ án khi vụ án chưa được
xét xử như Điều 174 BLTTHS 2003.
37
2.1.2. Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình sự
Trước khi mở phiên tòa:
* Công việc nghiên cứu hồ sơ:
Trong giai đoạn xét xử của Tòa án, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
là một hoạt động thường xuyên, tiên quyết để Hội thẩm nhân dân và Thẩm
phán sẽ đưa ra phán quyết chính xác và thỏa đáng.
Từ thực tiễn nhận thấy việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ có ảnh
hưởng phần nào đến giải quyết vụ án hình sự đạt được chất lượng hay không.
Bởi vậy, nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học sẽ đạt đạt được
chất lượng cao trong giải quyết vụ án. Ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ
vụ án hình sự được thực hiện sơ sài,qua loasẽ dẫn đến chất lượng giải quyết
vụ án đạt tỷ lệ không cao, có thể dẫn đến làm gia tăng số lượng án bị hủy, sửa
hoặc nghiêm trọng hơn nữa là làm oan sai người vô tội.
Ngoài ra chất lượng công việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự còn phụ
thuộc nhiều vào kỹ năng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân.Theo đó, nếu người nghiên cứu cóphương pháp nghiên cứu
chuyên sâu kết hợp kỹ năng nghiên cứu tốt và thì chất lượng nghiên cứu sẽ
đạt được hiệu quả cao.
Không những vậy, việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có vai
trò hết sức quan trọng trong hoạt động tố tụng của vụ án hình sự. Việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án hình sự càng được chú trọng bao nhiêu thì khi áp dụng trong
hoạt động xét xử sẽ mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, hiệu quả giải quyết các
vụ án hình sự cũng được nâng lên.
* Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại Điều 255 nêu rõ: thẩm phán phải xác
định rõ tư cách người tham gia tố tụng khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
38
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt cho đương sự thông thường là
khoảng 10–15. Và đây cũng là thời gian để viện kiểm sát, luật sư nghiên cứu
hồ sơ vụ á. Tuy nhiên, việc xét xử cũng có thể tạm ngừng trong trường hợp:
1. Theo đúng tên gọi, quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định việc Tòa
án quyết định việc chính thức đưa vụ án ra xét xử và thông báo cho các bên
liên quan (nguyên đơn, bị đơn… trong vụ án dân sự, bị cáo, bị hại… trong vụ
án hình sự) được biết. Nguyên tắc xét xử công khai, thì nội dung khi xét xử
không có gì là bí mật.
2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết định; giờ, ngày,
tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
b) Xét xử công khai hay xét xử kín;
c) Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của
bị cáo;
d) Tội danh và điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát
truy tố đối với bị cáo;
đ) Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự
khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký Tòa án dự khuyết (nếu có);
e) Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại
phiên tòa; họ tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có);
g) Họ tên người bào chữa (nếu có);
h) Họ tên người phiên dịch (nếu có);
i) Họ tên những người khác được triệu tập đến phiên tòa;
k) Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa.
3. Ngay sau khi ban hành, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được
gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Thường thì, cùng với việc
gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử qua đường bưu điện hoặc tống đạt, Tòa án
39
cũng gửi Giấy triệu tập tham dự phiên tòa cho đương sự.
4. Về nguyên tắc, đương sự có quyền nhận được Quyết định đưa vụ án
ra xét xử, để biết rõ những vấn đề liên quan đến việc xét xử vụ án của mình
(thể hiện tại các nội dung trong quyết định. Ví dụ như nếu biết thành phần
Hội đồng xét xử,xem xét nếu có những bất thường. Các luật sư tham gia của
các đương sự hay giám định viên...
5. Theo qui định, khi khai mạc phiên toà, Chủ toạ phiên toà phải đọc
Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vì nếu trường hợp đương sự vì lý do khách
quan hay chủ quan mà chưa/không nhận được Quyết định, hoặc HĐXXkhác
với HĐXX ghi trong Quyết định thì đều là những sai phạm nghiêm trọng
trong tố tụng và hậu quả là phải hủy bản án hoặc hoãn phiên tòa.
Các giai đoạn tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm:
* Giai đoạn bắt đầu phiên tòa:
Thẩm phán và Chủ tọa phiên tòa làm các thủ tục cần thiết trước khi xét
hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, giải thích
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay
đổi của người tiến hành tố tụng…
* Xét hỏi tại phiên tòa:
Tại khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Hội đồng xét
xử …..theo thứ tự hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, …..thực hiện việc hỏi”. [29, tr.254].
Khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chủ toạ phiên toà sẽ tuyên
bố kết thúc phần thủ tục phiên toà và chuyển sang phần xét hỏi khi không còn
ai có thêm ý kiến. Và việc hỏi này cũng là bước kiểm tra chứng cứ cuối cùng
mà Viện kiểm sát đã chuyển cho Tòa.
* Tranh luận tại phiên tòa:
Một phiên tòa xét xử về hình sự có dân chủ hay không, phụ thuộc vào
40
kết quả tranh luận tại phiên toà. Đây là giai đoạn rất quan trọng. Do đó chủ
tọa phiên tòa cần tập trung điều khiển để việc tranh luận tại phiên tòa đạt kết
quả cao nhất.
Ngày 02 tháng 01 năm 2002,Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 08 đã
chỉ rõ: “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo nhân chứng
nguyên đơn bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy
định”.
Đến Nghị quyết số 49 ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ:“Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử …… nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
…..hoạt động tư pháp”. Qua việc tranh luận tại phiên tòa, thể hiện rất rõ nét
về nguyên tắc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
quyền con người mà Đảng và nhà nước bảo vệ. Chính vì vậy BLTTHS năm
2015 tại Điều 26 về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có quy định:
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ….. làm rõ sự thật
khách quan của vụ án
Tài liệu, chứng cứ ……dân chủ bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ ……làm rõ tại phiên tòa.
Bản án ……. kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Căn cứ vào quy định tại điều 26 BLTTHS năm 2015 nêu trên thì bản
chất của tranh tụng thể hiện ở việc:
Các chủ thể tranh tụng đều được biết về chứng cứ và lập luận của nhau,
41
và đều có quyền đưa ra các chứng cứ và lập luận của mình để phản bác lại.
Tuy có nhiều cách để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, nhưng có thể
khẳng định tranh tụng là một trong những phương pháp tốt nhất để tìm ra sự
thật khách quan của vụ án cũng như bảo đảm được quyền con người trong
hoạt động tố tụng hình sự. Yêu cầu đặt ra là chủ thể buộc tội và chủ thể rửa
tội phải có sự bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và
nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, còn bên gỡ tội có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình và Tòa án phải đóng
vai trò trọng tài thật khách quan bảo đảm sự bình đẳng trong tranh tụng.
Để phù hợp với nội dung trên tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã
quy định khác với bộ luật tố tụng cũ là không tách phần xét hỏi và tranh tụng
thành hai phần riêng biệt mà gộp lại thành Mục V “Thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa” trong đó Điều 320 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự phát
biểu khi tranh luận:
“1. Sau khi kết thúc ….. không có tội.
2. Bị cáo trình bày …… bổ sung ý kiến bào chữa.
3. Bị hại đương …….. trình bày bổ sung ý kiến.
4. Trường hợp vụ án ……..trình bày luận tội”.
Đồng thời Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng bổ sung thêm Điều
321 Luận tội của Kiểm sát viên quy định:
“1. Luận tội của Kiểm sát viên …… tại phiên tòa.
2. Nội dung luận tội ……với vụ án.
3. Đề nghị kết ……, xử lý vật chứng.
4. Kiến nghị ….. pháp luật.”
Vấn đề tranh luận tại phiên tòa được quy định tại Điều 322 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 “Tranh luận tại phiên tòa” quy định như sau:
“1. Bị cáo, người bào …. với vụ án.
42
Bị cáo, người bào ……của mình.
2. Kiểm sát viên phải …..phiên tòa.
Người tham ….. người khác.
3. Chủ tọa phiên tòa …… ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa ……ranh luận.
4. Hội đồng xét xử …….bản án.”
Theo tác giả vấn đề tranh tụng được quy định tại các Điều 321 và Điều
322 như trên là hoàn toàn cần thiết, mang tính cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu góp
phần cho các Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ động hơn trong việc điều hành
phần tranh luận tại phiên tòa.
* Nghị án
Nghị án không ai được vào phòng nghị án khi Hội đồng xét xử đã nghị
án. Khi bắt đầu, Chủ tọa phiên tòa phải phổ biến nội dung nghị án với đầy đủ
các nội dung cần nghị án thông qua diễn biến của phiên tòa. Khi nghị án, Chủ
tọa phiên tòa cần nêu rõ từng vấn đề nghị án như:
− Tội danh;
− Điều khoản áp dụng;
− Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
− Hình phạt, vấn đề bồi thường thiệt hại;
− Xử lý vật chứng của vụ án;
− Án phí và quyền kháng cáo.
Đối với mọi vấn đề, Chủ tọa phiên tòa phải nêu nội dung cần thảo luận.
Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau
cùng, chứ không quy định Chủ tọa phiên tòa phát biểu thảo luận sau cùng. Vì
vậy, Chủ tọa phiên tòa có thể nêu quan điểm của mình trước hoặc sau khi Hội
thẩm có ý kiến. Khi có vấn đề thảo luận chưa thống nhất, thì cần thẳng thắn
trao đổi, Chủ tọa phải có trách nhiệm giải thích các quy định của pháp luật
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tốLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAYLuận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10

Similar to Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10 (20)

Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 

Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ MINH NGUYỆT THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ MINH NGUYỆT THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực mà các tác giả, nhà khoa học đã nghiên cứu. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Vũ Minh Nguyệt
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN .................................................... 7 1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án............................. 7 1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án .............................. 8 1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..............................14 Chương 2:QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...........................27 2.1. Các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án..........................................................................................................27 2.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.................................................43 2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân..................................................45 Chương 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH....................51 3.1. Các yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu quả về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................................................51 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.........................................................................................................55 KẾT LUẬN....................................................................................................62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADPL Áp dụng pháp luật BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TA Tòa án TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội Chủ nghĩa
  • 6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1 Tổng hợp những kết quả đạt được từ năm 2015 đến 2018..............45
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tố tụng hình sự, thủ tục xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn rất quan trọng, vì để xác định một người có tội và chịu hình phạt, thì người đó phải bị đưa ra xét xử trước phiên tòa; Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định trong bản án về một người có tội hay không có tội. Bởi lẽ đó,Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31: “Người bị buộc tội được coi là không có tội ……đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử của Tòa án là sự thể hiện tính nghiêm minh của hệ thống các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng, cuối cùng Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra những phán quyết để tuyên người đó có tội hay không có tội hoặc chịu hình phạt như thế nào. Xuất phát từ yêu cầu bảo về quyền lợi Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, luật tố tụng hình sự quy định trình tự xét xử vụ án hình sự phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ xét xử sơ thẩm, đến xét xử phúc thẩm khi có những điều kiện nhất định. Trường hợp phát hiện có sự vi phạm quy định nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hoặc khi phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án thì bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể được đưa ra xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Theo thực tiễn thì trong tổng số các vụ án hình sự mà hệ thống Tòa án đã giải quyết thìtỷ lệ lớnthuộc về án sơ thẩm. Tại Tòa án nhân dân Quận 10, hàng năm, Tòa án phải thụ lý giải quyết khoảng 200 vụ án hình sự, trong đó các vụ án được xét xử sơ thẩm chiếm 80%. Nếu việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự không tuân thủ các quy định của thủ tục tố tụng hình sự, thì sẽ dẫn
  • 8. 2 đến việc xét xử của Tòa án bị sai sót, dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội, làm giảm đi niềm tin của người dân đối với pháp luật Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” mang tính cấp thiết, không những về mặt lý luận mà còn đòi hỏi thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại Quận 10 nói riêng và địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến thủ tục xét xử của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên viết và trình bày trong tạp chí, sách, luận văn như: Cuốn sách “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam” của GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, năm 2001) đã phân tích hệ thống tư phápmột hệ thống thống nhất của quá trìnhtố tụng dẫn đến xét xử và phán quyết của Tòa án và hệ thống thống nhất của quá trình áp dụng pháp luật, trong đó có thủ tục tố tụng hình sự; và chỉ rõ giữa việc ban hành pháp luật, bảo vệ pháp luật và áp dụng pháp luật có mối liên hệ khăng khít, thúc đẩy lẫn nhau mà vai trò tích cực của khâu áp dụng pháp luật đối với việc điều chỉnh pháp luật. [18] Cuốn sách “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc giaSự thật, năm 2005) và “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000) của ThS. Đinh Văn Quế đã phần nào làm sáng tỏ thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời nêu ra một số vấn đề còn vướng mắc về tố tụng hình sự để trao đổi với các nhà chuyên môn và các nhà làm luật nhằm góp phần
  • 9. 3 tiếp tục hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. [25] Bài viết “Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử” đăng trên tạp trí Luật học, số 06/2007 của TS. Vũ Gia Lâm nghiên cứu đề xuất việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử với thành lập các Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm theo khu vực, giúp thu gọn đầu mối, tiết kiệm ngân sách… để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác xét xử ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Bài viết “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” đăng trên tạp trí Luật học số 01/2015 của TS. Vũ Gia Lâm đã làm rõ cơ sở pháp lý, sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng giữa các bên buộc tội và gỡ tội. Trên cơ sở phân tích thực trạng tại phiên tòa sơ thẩm, tác giả đã lý giải nguyên nhân của những hạn chế trong tranh tụng tại phiên tòa, chủ yếu là phương diện lập pháp, bài viết đưa ra kiến nghị hoàn thiện một số điều của BLTTHS hiện hành về trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo hướng bảo đảm tranh tụng, đặc biệt là quy định về xét hỏi, tranh luận. Tiến sỹ Phạm Minh Tuyên với công trình: “Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2018) đã nêu rất rõ về trình tự và thủ tục tố tụng tại phiên Tòa. Đặc biệt là các tình huống, lưu ý mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, cũng như các nhà làm luật có thể vận dụng vào thực tiễn xét xử hoặc công việc chuyên môn của mình.[34] Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả nói trên tập trung chủ yếu đến những vấn đề lý luận chung về thủ tục xét xử sơ thẩm trong
  • 10. 4 luật tố tụng hình sự hoặc phân tích các quy định của pháp luật tố tụng thực định. Các công trình khoa học và bài viết kể trên đều mang tính giá trị về lý luận và thực tiễn, là tài liệu tham khảo bổ ích cho quá trình nghiên cứu, đề xuất trong luận văn này.Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chưa phổ quát một cách toàn diện và đầy đủ đến pháp luật về thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là thực tiễn tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì những lý do trên mà Học viên đã lựa chọn vấn đề “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nhằm hướng tới đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xét xử sơ thẩm của Tòa án trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn thực hiện của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu theo đề tài luận văn đặt ra về thủ tục xét xử sơ thẩm đó là:  Nghiên cứu những vấn đề về lý luận liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nghiên cứu các quy định trong BLTTHS 2015 liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Đánh giá thực trạng một cách toàn diện, khách quan từ thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • 11. 5  Theo đó xác định được nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử vàđưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu  Nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quan điểm của nhiều tác giả về hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.  Tác giả tập trung nghiên cứu về quy định trong BLTTHS liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án.  Việc nghiên cứu các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 10, giúp cho việc đánh giá chất lượng các bản án hình sự sơ thẩm có bị kháng cáo, kháng nghị hay không thể hiện tính đúng đắn trong hoạt động xét xử. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Việc đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm mà Tòa án nhân dân cấp quận, huyện tiến hành thì phải trải qua quá trình tiến hành tố tụng, quy trình, thủ tục pháp lý theo quy định. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và TAND Quận 10 nói riêng hiện nay là một đề tài rộng, có nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khoa học, khách quan. Vì vậy phạm vi nghiên cứu là:  Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của Bộ luật tố tụng năm 2015 liên quan đến thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.  Tác giả chọn không gian nghiên cứu đó là tình hình xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.  Về thời gian thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS của Tòa án nhân dân Quận 10 từ năm 2015 đến 2018.
  • 12. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu Phương pháp lý luận được đúc kết từ những thành quả nghiên cứu của các nhà khoa họcliên quan Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự; Tư duy triết học của chủ nghĩa Mác–Lê nin, tư thưởng Hồ Chí Minh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả còn sử dụng trong một số các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: hệ thống, so sánh, tổng hợp, dự báo, lịch sử, kết hợp với phương pháp sử dụng ý kiến nhà khoa học, chuyên gia để chọn lọc vấn đề kinh nghiệm thực tiễn và lý luận khoa học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn có ý nghĩa bổ sung một số lý luận cho luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho đối tượng nghiên cứu khoa học, tìm hiểu về thủ tục xét xử sơ thẩm của Tòa án. 7. Kết cấu của Luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận vềthủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • 13. 7 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN 1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, người ta đã khẳng định: ở đâu có pháp luật thì ở đó phải có hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh. Sự bảo đảm đó, trước hết phải bằng hoạt động của cơ quan nhà nước có chức năng xử lý các hành vi vi phạm các quy định pháp luật mà nhà nước ban hành. Nói cách khác, sự bảo đảm đó chính là hoạt động xét xử của cơ quan chức năng trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện. Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân của Việt Nam quy định “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làTòa án”; hoạt động xét xử là nhiệm vụ chủ yếu vàquan trọng của Tòa án. Vì thế việc xét xử phải xác định làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở của sự thật khách quan, Tòa án nhân danh Nhà nước, đưa ra phán quyết cuối cùng liên quan đến bản án. Với nhiệm vụ và chức năng là cơ quan xét xử của nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp như cơ quan thi hành án, cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, thì mọi hoạt động phải bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm minh. Tại Tòa án, các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định được đưa ra xét xử và sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng, để từ đó đưa ra những phán xét cuối cùng. Tòa án là nơi thể hiện công lý, sự đối xử công bằng,bình đẳng trong tất cả các mối quan hệ; Tòa án cũng là nơi thể hiện chất lượng, trình độ hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
  • 14. 8 Xét theo khoa học pháp lý thì việc lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử ở Tòa án có thẩm quyền đó là xét xử sơ thẩm. Tòa án đưa ra quyết định về bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Hay nói cách khác, xét xử sơ thẩm chính là giai đoạn thứ tư của hoạt động tố tụng. Bản án của Tòa án, nếu có hiệu lực pháp luật thì đó là quyết định kết thúc cả bốn giai đoạn hoạt động tố tụng là khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử. Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng độc lập trong đó Tòa án có thẩm quyền thực hiện chức năng của mình để xem xét, giải quyết vụ án, ra quyết định đối với bản án theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết vụ án hình sự sẽ trải qua các giai đoạn khác nhau.Tại phiên tòa, hội đồng xét xử trên cơ sở đánh giá công khai những chứng cứ đã được kiểm tra, sẽ ra bản án xác định có tội hay không có tội. Bên cạnh việc ra bản án, Tòa án còn có thể ra các quyết định khác để giải quyết vụ án. Cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, song đa phần các nhà khoa học đều cho rằng: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc xét xử lần thứ nhất ở cấp thứ nhất, do Tòa án thực hiện theo thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Bản thân tác giả cũng hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. 1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án 1.2.1.Hoạt động xét xử do Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện bằng quyền lực nhà nước Pháp luật hiện hành đã quy định, Cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là Viện kiểm sát; cơ quan xét xử chính là Tòa án, thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, chức năng thực hiện quyền tư pháp là thuộc Tòa án nhân dân, thông qua quyền hạn, nhiệm vụ thì cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện chủ yếu bằng chức năng xét xử, giải thích pháp luật. Hiến pháp năm 2013 tại Điều 102 đã quy định cơ quan xét xử của nước
  • 15. 9 Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Tòa án nhân dân, có nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp. Đây là quy định trong toàn hệ thống chính trị, Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tức là có chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Hiến pháp 2013 quy định cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ phía cơ quan lập pháp, thể hiện qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, lấy phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh án Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Dù vậy, việc kiểm soát quyền lực này gần như mang tính một chiều chưa mang tính ngược lại. Là cơ quan có vai trò thực hiện quyền tư pháp, Tòa án sẽ thực hiện chức năng kiểm soát việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp, theo quyền hạn, nhiệm vụ được giao. Theo đó, Tòa án nhân dân thực hiện quyền lập pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật nếu thông qua hoạt động xét xử thấy văn bản luật trái Hiến pháp, mâu thuẫn với luật khác hoặc không phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó, Tòa án còn có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chínhcủa các cơ quan hành chính nhà nước đối với các hành vi hành chính, quyết định hành chính; cũng như các phán quyết về vi phạm quyền con người… Ở nước ta, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều bắt nguồn từ nhân dân. Cả ba quyền này tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là những yếu tố tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo dựng cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả.
  • 16. 10 1.2.2. Hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chỉ do Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân tiến hành Độc lập là biểu hiện của việc chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy,khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm được pháp luật quy định hoạt động theo nguyên tắc độc lập. Đó là nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp cho tới các luật chuyên ngành. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất kỳ sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật là thực hiện nguyên tắc độc lập. Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở khía cạnh chung của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Khi nắm rõ kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm sẽ có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì tuân theo pháp luật là sẽ loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, từ đó họ mới có được sự độc lập. Có một nguyên tắc mà khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán phải tuân theo đó là phán quyết độc lập, chỉ tuân theo pháp luật: “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ qua lại, khăng khít với lẫn nhau. Độc lập chính là điều kiện cần thiết để Thẩm phán,Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử . Như vậy tuân theo pháp luật chính là cơ sở cần thiết để hội thẩm, thẩm phán độc lập khi xét xử. Cả haimối quan hệ này ràng buộc nhau. Như vậy, trường hợp chỉ độc lập mà không tuân theo quy định của pháp luật thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong xét xử,
  • 17. 11 ngoài ra còn phải tùy thuộc vào ý chí chủ quan của thẩm phán mà dẫn đến việc không công bằng. Các quy định trong bốn bản Hiến pháp của nước ta đối với nguyên tắc này tại điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến pháp 1980, điều 130 Hiến pháp 1992. Và tại sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946 và các luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 cũng đều ghi nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, qua đó bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, đúng pháp luật. Khi thực hiện chức năng xét xử Tòa án đặc biệt lưu ýcác nội dung chính của nguyên tắc này như sau: Một là: Khi xét xử, Hội đồng xét xử không chi phối bởi bản luận tội của Viện kiểm sát; và cũng không bị ảnh hưởng các ý kiến của thành viên trong hội đồng xét xử. Thẩm phán, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình trong từng vấn đề của vụ án hình sự. Hai là:Tất cả thành viên của Hội đồng xét xử cũng phải giữ vững nguyên tắc độc lập khi xét xử trong việc xác định chứng cứ, căn cứcác quy phạm pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo định tội và lượng hình chính xác đối với các vụ án hình sự và quyết định quyền cũng như nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án hình sự. Ba là: theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì bản án chưa có hiệu lực pháp luật sẽ phải tiếp tục được đưa ra xét xử ở cấp cấp cao hơn. Hay các bản án xét xử sơ thẩm nếu không thật sự cần thiết thì không phải xin ý kiến của Tòa án cấp trên chỉ đạo. Cũng như vậy khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa sẽ không bị ảnh hưởng bởi kết quả của phiên xét xử sơ thẩm. Độc lập khi xét xử của Hội thẩm và Thẩm phán là phải căn cứ vào các quy định của pháp luật từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn của mình.
  • 18. 12 Tòa án thực hiện hoạt động xét xử căn cứ từ bản chất của hoạt động tư pháp. Và Tòa chỉ hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý, Tòa án xét xử như cơ quan trung lập, người đứng giữa, không phụ thuộc vào các bên như người bị hại hay người phạm tội, từ đó sẽ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, lúc này Tòa chính là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người một cách đúng đắn. Căn cứ từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của Tòa án có sự tham gia của Hội thẩm đã được hiến pháp và pháp luật quy định, đó là một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa: “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Hội thẩm nhân dân có trách nhiệmlà thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, hạn chế những tiêu cực trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ pháp chế,công lý củanước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để việc xét xử của Tòa án được minh bạch, chính xác với tình hình thực tế và góp phần đáp ứng vớitâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. 1.2.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân được tiến hành chủ yếu tại phiên tòa và mang tính công khai Trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới là việc bổ sung hai yêu cầu khác của hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đó là yêu cầu phải xét xử“công bằng” và “kịp thời”. Việc bổ sung hai yêu cầu này vào tên gọi là bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đúng với tinh thần và với tiêu chuẩn quốc tế, đó là bảo đảm quyền con người. Tại Điều 9 Công ước về các quyền dân sự, chính trị 1966 đã ghi nhận: “Bất kỳ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra Tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do”; tại Điều 14 Công ước cũng khẳng định “Mọi người đều có
  • 19. 13 quyền xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị…” Nguyên tắc “công bằng” và “kịp thời” cần được bổ sung trong tố tụng hình sự như một yếu tố bắt buộc, làm rõ việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong TTHS ngày nay. Người bị buộc tội vẫn được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục, tức là đúng với trình tự thủ tục tố tụng, cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án và phải là bản án có hiệu lực pháp luật, và cũng vì vậy mà quyền con người phần nào cũng bị ảnh hưởng do sẽ bị cơ quan thi hành áp dụng các biện pháp cần thiết theo luật định. Khi quá trình tố tụng diễn ra, các biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn chặn được người có thẩm quyền áp dụng đều có thể đưa ra đối với người vi phạm tức là người bị buộc tội khi có căn cứ luật theo pháp luật, lúc này quyền con người bắt đầu bị hạn chế nhất định. Bởi lẽ đó, quá trình giải quyết vụ án hình sự thường bị kéo dài, hay việc xét xử không kịp thời trong một số trường hợp đều gây ảnh hưởng bất lợi đến người bị buộc tội. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với Tòa án là phải bảo đảm xét xử kịp thời trong thời hạn luật định vì như thế sẽ bảo đảm quyền con người được tôn trọng, quyền công dân được xác định rõ, có bị giới hạn hay không trong TTHS. Cụm từ “ kịp thời” trong BLTTHS năm 2015 phải đi liền với cụm từ “công bằng”. Vì khi xét xử công bằng tức là Tòa sẽ không thiên vị ai, không thiên vị bên nào, tuân theo pháp luật, theo đúng lẽ phải. Điều này hết sức có ý nghĩa trong hoạt động xét xử, qua đó thấy rằng Tòa án phải bảo đảm xét xử theo đúng quy định của pháp luật, không phân biệt địa vị xã hội, tôn giáo, dân tộc, không phân biệt thành phần, giới tính, của người bị buộc tội. Ở một khía cạnh, có thể coi đây là sự cụ thể hóa nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2015. Nguyên tắc phân chia thành các giai đoạn trong quá trình tố tụng, việc
  • 20. 14 giải quyết vụ án không đúng thời hạn chủ yếu ở giai đoạn khởi tố, điều tra. Do đó, để bảo đảm công lý được thực thi, bảo vệ quyền con người, thì tính kịp thời trong việc xử lý không chỉ là yêu cầu cần thiết mà còn là yêu cầu bắt buộc đối với cả quá trình tố tụng từ lúc khởi tố, đến giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, và sau cùng là xét xử. TạiBLTTHS năm 2015 được bổ sung thêm Điều 19, quy định về tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra là đề cập đến yêu cầu phát hiệnchính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội. 1.3. Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.3.1. Vai trò của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm xác định rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp, bảo đảm việc xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm. Ở nước ta, việc cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước đưa vào nghị quyết, qua đó đề cao vai trò của Tòa án trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩ, đây được xem là điều tiên quyết mà cả hệ thống chính trị phải thực hiện. Bên cạnh đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình thực hiện, tổ chức thực tiễn và xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm Tòa án đóng vai trò là trung tâm của hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự ở nước ta. Vì vậy, khâu đầu tiên đó là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó sẽ triển khai thành các giải pháp, thông qua hoạt động thực tiễn, sau đó hoàn thiện pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW đã có về cải cách tư pháp, mặc dù đã đưa vai trò của Tòa án trong hệ thống tư pháp lên trên nhưng thực tiễn cho thấy vẫn chưa có chuyển biến đáng kể trong nhận thức của những người hoạt động pháp luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn điện hiện trạng này nhưng đầu tiên phải kể đến nhận thức về Tòa án phải là "khâu trung tâm" của hệ thống tư pháp. Muốn chuyển ý chí và nhận thức thành những cơ chế pháp lý, thì cần phải đưa vào quy định pháp
  • 21. 15 luật nhằm bảo đảm về chức năng, thẩm quyền làm cho Tòa án đóng vai trò là trung tâm còn hoạt động xét xử xét cho cùng sẽ là hoạt động trọng điểm. Thứ nhất: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự với vai trò kiểm tra, kiểm soát xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào, để tôn trọng và bảo vệ các lợi ích chung của Nhà nước, của cộng đồng, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tôn trọng trật tự xã hội. Cơ chế nhằm đảm bảo trật tự xã hội chính là thiết chế xã hội. Các thiết chế xã hội về kinh tế, chính trị, phải tuân thủ theo chuẩn mực giá trị xã hội, các quy định của pháp luật đối với hành vi. Những thiết chế xã hội này nhằm đảm bảo sự ổn định cho xã hội hiện tại, biết trước tương lai nhằm điều chỉnh hành vi, đảm bảo quyền con người thực thi theo pháp luật, ngược lại, nếu hành vi vi phạm các thiết chế chung thì sẽ bị điều chỉnh bởi pháp luật của nhà nước. Vì vậy cho thấy sự kiểm soát của pháp luật đối với các hành vi, thông qua các thiết chế xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng đến hành vi cũng như xử sự của mỗi cá nhân trong xã hội. Nếu có hành vi vi phạm pháp luật, dù là ai, thuộc tầng lớp nào, nam hay nữ thì khi đó pháp luật sẽ ngăn chặn các hành vi này, chức năng giáo dục của pháp luật sẽ điều chỉnh cho hành vi vi phạm trở lại đúng quỹ đạo xã hội. Về vấn đề này, trước đây và hiện nay các nhà Xã hội học đã không ngừng để làm phát triển lý thuyết xã hội học nói chung, vấn đề kiểm soát xã hội nói riêng (trong đó có nội dung kiểm soát xã hội đối với tội phạm), vì Xã hội học là ngành khoa học không chỉ có trách nhiệm tìm ra chân lý khách quan, phản ánh thực tế đời sống xã hội, mà còn thực hiện tốt chức năng thực tiễn của nó - cung cấp những thông tin cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và phục vụ việc xây dựng, quản lý và duy trì trật tự xã hội, qua đó bảo đảm ổn định và bền vững các quan hệ xã hội. Một trong những vai trò, chức năng cơ bản của Nhà nước là quản lý xã
  • 22. 16 hội kiểm soát xã hội, và kiểm tra xã hội. Để thực hiện hoạt động này được thực thi thì các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước phải phối hợp đồng bộ. Các cơ quan cần có sự phân công, phân nhiệm khi thực hiện quyền lực nhà nước, nhà nước giao chức năng giám sát cho cơ quan tư pháp đối với việc thực thi pháp luật, việc tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện pháp luật là cơ quan hành pháp. Khi có những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến tổ chức; những tranh chấp liên quan đến pháp lý, công bằng xã hội thì được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Hoạt động này có các đặc trưng cơ bản sau:  Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.  Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án. Tòa án có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán quyết xử lý. Thứ hai: Hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ pháp luật Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Nói đến nhà nước pháp quyền tức là nói đến nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, xã hội dân chủ là phải dựa trên nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền mang trong mình những tâm tư, nguyện vọng, quyền cũng như lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống chuẩn mực giá trị trong đời sống xã hội mà thông qua nó để đánh giá hành vi của con người đã tương xứng với trình độ văn minh của xã
  • 23. 17 hội hay không, và thông qua đó sẽ điều chỉnh được mối quan hệ giữa người dân và cơ quan có thẩm quyền, ngoài ra đây còn nguyên tắc xử sự chung mà thông qua nó nhà nước sử dụng như phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội, điều hoà các mâu thuẫn, đề cao giá trị lợi ích của xã hội. Bên cạnh đó, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, mang một giá trị to lớn mà thông qua pháp luật sẽ giúp cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà người dân, chính quyền, nhà nước, Đảng đang hướng đến. Trái lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó. Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa của chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành hoạt động bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN. Vai trò bảo vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:  Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, Toà án đưa ra các hành vi tranh chấp pháp lý khiến những con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối tương quan giữa sự riêng biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp. Từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên quan.
  • 24. 18  Toà án tuân thủ pháp luật: Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật. Toà án là một bộ phận cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ và chức năng của toà án được xác định trong Hiến Pháp và các văn bản pháp luật. Vì thế, toà án tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật, đặc biệt là tuân thủ các nguyên tắc có tính chất nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng của Hiến Pháp và pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội; các quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật; trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong quá trình xét xử; quyền lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; tôn trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc tham gia… là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của Toà án. Thứ ba: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm sự công bằng của con người – Hiến pháp năm 2013 đã quy định người bị buộc tội được Tòa án xét xử công bằng, công khai và kịp thời đúng thời hạn luật định. Việc tuyên án cần công khai cho dù việc xét sử là kín theo quy định của pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật là theo quy định trình tự thủ tục tố tụng, do đó nếu để xảy ra oan sai trong giai các giai đoạn này thì có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, nhân phẩm một cách chính đáng. Trái lại, nếu người nào vi phạm pháp luật mà cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đúng quy định của pháp luật thì người đó phải bị xử lý theo pháp luật và
  • 25. 19 không được phản ứng lại với các phán quyết đó. – BộLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật: tố tụng hình sự phải được tiến hành theo đúng nguyên tắc và tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội, ngược lại, người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” đồng thời quy định nguyên tắc tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng,mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Thứ tư: Hoạt động xét xử các vụ án hình sự có vai trò bảo đảm quyền con người Nền văn minh nhân loại ghi nhận quyền con người là quyền thiêng liêng có giá trị cao nhất của con người, có cội nguồn xã hội và tư tưởng từ rất lâu đời trong quá trình phát triển của nhân loại, trải qua thăng trầm lịch sử để loài người phát triển quyền tối thượng đó, cho dù các thời kỳ có thể xảy ra các chế độ bất công, chuyên chế tàn bạo, thì quyền con người vẫn không thay đổi. Để bảo vệ quyền con người thì trong hoạt động xét xử cũng phải hướng đến các quy định có lợi cho người vi phạm, hướng đến những giá trị nhằm bảo vệ các quyền con người một tất yếu mà ngành Toà án phải thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 49/BCT là đảm bảo cải cách tư pháp. Thứ năm: Hoạt động xét xử tại phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong quần chúng nhân dân cần được tăng cường với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó Tòa án cần tăng cường xét xử lưu động để góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
  • 26. 20 quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc thực hiện các hoạt động nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Tòa án, được ghi nhận tại Luật Tổ chức TAND các năm 1992, 1995, 2002 và năm 2014 như sau: “Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”. Hoạt động xét xử của Tòa án chính là việc Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội; xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước nhằm giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và công dân. Tòa án thông qua phiên tòa (đặc biệt là các phiên tòa xét xử lưu động) để góp phần tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân. 1.3.2. Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc thực hiện thủ tục tố tụng thông qua việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, vì vậy mà xét xử sơ thẩm mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở nước ta, theo quy định những người tham gia tố tụng phiên tòa là bình đẳng lẫn không phân biệt trong tranh luận cũng như đưa ra các chứng cứ, chứng minh, hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng nếu vi phạm các điều cấm..., tại phiên toà xét xử sơ thẩm thể hiện đầy đủ tính công bằng và dân chủ. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa bao gồm việc tranh luận, tranh tụng, sau đó hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt được quy định trong BLHS để tuyên đối với người phạm tội,
  • 27. 21 qua đó người phạm tội sẽ bị răn đe và giáo dục để tránh không bị vi phạm pháp luật nữa. Chính vì vậy, việc bảo vệ quyền con người sẽ giúp nâng cao ý thức pháp luật của công dân mà Nhà nước luôn hướng đến. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bắt buộc khi Tòa án nhận thấy rằng có đủ cơ sở để mở phiên tòa và việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử thì đây được coi là bước xét xử lần đầu, nhưng không phải vụ án nào cũng sẽ trải qua hai cấp xét xử, vì khi có kháng cáo, kháng nghị đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật thì mới bắt đầu diễn ra xét xử phúc thẩm. Chính vì vậy, một phiên toà khi tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định sẽ tạo điều kiện để người tham gia tố tụng được tranh luận công khai còn là cơ sở để có được bản án, quyết định khách quan, toàn diện, chính xác sẽ tạo được lòng tin trong nhân dân, làm giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Vì vậy, một bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật cũng sẽ góp phần tiết kiệm được tiền bạc, công sức, thời gian của nhân dân và nhà nước và hình ảnh Tòa án trong mắt người dân được nâng cao, ngành tòa án ngày càng chất lượng, uy tín trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Có thể khẳng định, để góp phần có hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của toàn xã hội thì xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự đặc biệt quan trọng, qua đó giúp bảo vệ các quyền công dân, quyền con người. Xét xử sơ thẩm mang tính quan trọng được thể hiện qua các nội dung như sau: Thứ nhất, thủ tục xét xử các vụ án hình sự là hình thức pháp lý thể hiện quyền tư pháp. Quyền lực nhà nước bao gồm ba bộ phân chủ yếu hợp thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc thực thi quyền tư pháp thông qua các thiết chế tổ chức và phương thức hoạt động theo các nguyên tắc đặc thù và quy trình thủ tục chặt chẽ để bảo vệ pháp luật, duy trì công lý có tác
  • 28. 22 động đến niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và chế độ xã hội, là thước đo mức độ dân chủ của Nhà nước, tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để các bên có vị trí độc lập với nhau về lợi ích, khác nhau về chức năng tố tụng (buộc tội, bào chữa) thực hiện việc tranh tụng với nhau, trên cơ sở đó, Tòa án nhân danh Nhà nước thực thi công lý, đưa ra phán xét về hành vi phạm tội, về tính đúng đắn, hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của các chủ thể tố tụng ngoài Tòa án nhằm duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự ổn định chung của xã hội. Không một cơ quan tổ chức nào có quyền nhân danh quyền lực Nhà nước để xét xử, kết tội đối với một người phạm tội, ngoại trừ Tòa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Thông qua việc áp dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về vụ án, gồm nội dung quan trọng như: có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm, tội, lỗi, tính chất mức độ thiệt hại, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp, nhằm bảo đảm việc xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Thứ hai, thủ tục xét xử vụ án hình sự là cơ sở bảo đảm lợi ích Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với ý nghĩa là hoạt động thực tiễn, quyền lực nhà nước, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự luôn bảo vệ lợi ích của hai nhóm, đó làlợi ích công và lợi ích cá nhân. Hai nhóm lợi ích này có mối quan hệ biện chứng như cặp phạm trù thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Lợi ích công thể hiện ở việc điều tra kịp thời và dầy đủ, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, xét xử và áp dụng hình phạt công minh, đúng pháp luật đối với người phạm tội, còn lợi ích cá nhân thể hiện ở việc bảo đảm cho người vô tội không bị truy cứu trách
  • 29. 23 nhiệm hình sự oan, người bị truy tố, xét xử oan được minh oan, và bồi thường thiệt hại; các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, của bị can, bị cáo, không bị hạn chế trái pháp luật [17, tr.304]. Lợi ích Nhà nước và xã hội đòi hỏi việc thực thi quyền lực công phải mạnh mẽ, tích cực và kiên quyết. Việc nhận thức không đúng, quá đề cao lợi ích công sẽ dẫn đến xem nhẹ lợi ích cá nhân, xem nhẹ những giá trị quyền con người. Ngược lại, quá chú trọng đến lợi ích cá nhân thì lợi ích công sẽ bị xâm phạm. Cụ thể là Nhà nước thực hiện quyền trừng phạt người phạm tội nhưng đồng thời cũng bảo vệ người vô tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan. Tòa án được xem là công cụ quan trọng nhất đảm bảo quyền con người khi các quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm. Xét xử vụ án hình sự chính là thành trì vững chắc cho việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do và dân chủ của các cá nhân trước sự xâm phạm của bất cứ chủ thể nào, trong đó có cả đối với các chủ thể là cơ quan nhà nước. Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với các quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục nhằm tìm ra chân lý của vụ việc để đi đến kết luận về hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Để đảm bảo cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án và thực hiện việc buộc tội bị cáo tại Tòa án. Bộ luật tố tụng hình sự quy định trách nhiệm thu thập, điều tra chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, và người thực hiện tội phạm thuộc về bên buộc tội (Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát). Kết quả hoạt động của các cơ quan này được thể hiện trong hồ sơ vụ án, trong các quyết định tố tụng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc pháp lý được thừa nhận chung của nền văn minh pháp lý đó: không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, do vậy mọi nhận định thể hiện trong các tài liệu, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chuyển sang Tòa án chưa có giá trị kết luận về hành vi
  • 30. 24 phạm tội của người bị tình nghi. Về bản chất ở giai đoạn điều tra, truy tố, các chủ thể ở bên buộc tội cũng như bên bào chữa chỉ mới làm công tác chuẩn bị, thu thập chứng cứ, tài liệu về vụ án, các văn bản pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng của mình tại phiên tòa. Toàn bộ chứng cứ, tài liệu đã thu thập trước đó được Tòa án đưa ra kiểm tra công khai nhằm đánh giá tính khách quan, tính hợp pháp để kiểm tra tính có căn cứ của những chứng cứ, tài liệu này. Các chủ thể tại phiên tòa sơ thẩm được công khai tranh tụng, đưa ra lập luận, căn cứ để bảo vệ hoặc bác bỏ những lý lẽ khác thông qua việc cung cấp chứng cứ, kiểm tra chứng cứ hoặc đưa ra các yêu cầu [33, tr.19]. Thứ tư, thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự là thước đo, là điều kiện để bảo đảm sự dân chủ, bình đẳng, công bằng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Hiện nay, vấn đề vai trò, ý nghĩa của tố tụng hình sự nói chung về thủ tục sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng còn được nhìn nhận ở góc độ xã hội học, xem đó như là một giá trị xã hội khách quan vì nó cần trước hết cho xã hội. Hoạt động TTHS được pháp luật ghi nhận có cội nguồn xã hội sâu xa, từ chính bản chất của xã hội, cũng như sự trừng trị của luật hình sự được dựa trên quyền trừng trị của xã hội. Giá trị xã hội của Tố tụng hình sự thể hiện ở chỗ là cái bảo đảm vững chắc cho lợi ích Nhà nước và mọi cá nhân. Nhà nước ngày càng chuyển dần từ phương thức nặng về trừng trị sang phương thức pháp lý diễn ra theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ, do luật định để bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Xu thế điều chỉnh này của pháp luật tố tụng hình sự đòi hỏi cần thiết hoàn thiện cơ chế bảo vệ cá nhân trước hành vi quyết định trái pháp luật của các cơ quan và người có thẩm quyền. Mục đích, nhiệm vụ của TTHS là bảo đảm tuân thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục, truy cứu trách nhiệm hình sự và xét xử, áp dụng hình phạt
  • 31. 25 đối với người phạm tội, phải công minh, kịp thời, đúng luật định. Trình tự xét xử vụ án hình sự đúng luật định cũng góp phần đảm bảo cho người vô tội không bị xét xử oan; quyền của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không bị hạn chế trái pháp luật. Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình sự được luật quy định chặt chẽ và bắt buộc tuân thủ còn là yếu tố bảo đảm pháp chế, phòng ngừa tội phạm, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân. Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là hoạt động phức tạp, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân vì trong tố tụng hình sự, quyền con người là vấn đề dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nặng nề nhất khi nó tác động đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của con người, của công dân [13, tr.369]. Hoạt động xét xử mang tính quyền lực, sức mạnh cưỡng chế của nhà nước đối với người phạm tội. Chính vì vậy, những bảo đảm về thủ tục xét xử là rất quan trọng, do đó pháp luật quy định rất khắt khe về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội quyền được xét xử thông qua Tòa án, bằng thủ tục xét xử chặt chẽ, công khai, minh bạch, nhanh chóng, kịp thời. Tiểu kết Chương 1 Tòa án nhân dân của Nhà nước ta đã trải qua các cuộc cải cách, đổi mới về tổ chức cũng như phương thức hoạt động nhằm đáp ứng nhiệm vụ ngày càng cao của ngành tư pháp, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng, phát triển Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Tòa án nhân dân đã thể hiện rất rõ sự vận dụng đường lối lãnh đạo, nghị quyết của Đảng trong tổ chức và hoạt động để ngày càng phát triển và lớn mạnh, tạo được niềm tin đối với người dân. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án cấp quận, huyện là một cấp xét xử trong tố tụng hình sự,hoạt động này được tiến hành liên tiếp sau hoạt động
  • 32. 26 điều tra, truy tố. Nó còn được thực hiện bởi công tác chuẩn bị xét xử cho đến quá trình xét xử tại phiên tòa, các giai đoạn này được quy định thành quy trình xét xử, chính xác là thủ tục tố tụng trong pháp luật hình sự. Sự phán quyết của Tòa án để đưa ra bản án sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đến quyền con người.
  • 33. 27 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Các quy định của pháp luật về thủtục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án 2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm a. Thẩm quyền xét xử theo việc (Theo cấp Tòa án) Sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp với nhau và căn cứ vào mức độ, tính chất nguy hiểm của tội phạm theo quy định sẽ là thẩm quyền xét xử theo sự việc. Do Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa hai cấp Tòa án: Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án cấp quân khu và Tòa án cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực.  Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp Huyện: Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Tòa án cấp huyện (Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực) là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử.  BLTTHS năm 2015 có Điều 268 quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp. Tòa án quân sự khu vực hoặc Tòa án cấp huyện quy định sẽ xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng, trừ những tội phạm: + Các tội phạm an ninh quốc gia; + Các tội liên quan đến phá hoại hòa bình, tội phạm chiến tranh và chống loài người;
  • 34. 28 + Các tội vi phạm thực hiện ngoài lãnh thổ nước Việt Nam; + Tội phạm quy định tại các Điều 123 “tội giết người”; Điều 125 “Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh’; Điều 126 “Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội”; Điều 227 “Tội vi phạm các quy định về thăm dò, nghiên cứu, khai thác tài nguyên”; Điều 277 “Tội vi phạm các quy định về điều khiển tàu bay”; Điều 279 “Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn”; Điều 280 “Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiền giao thông đường không”; Điều 282 “Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy”; Điều 283 “Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Điều 284 “Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Điều 286 “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho chương trình của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”; Điều 287; Điều 288; Điều 337; Điều 368; Điều 369; Điều 370; Điều 371; Điều 399, Điều 400 của Bộ luật hình sự. Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015, Tòa án quân sự khu vực và Tòa án nhân dân cấp huyện cóthẩm quyền xét xử các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù, còn các tội phạm quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 268 BLTTHS năm 2015 thì Tòa án quân sự khu vực và Tòa án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có bổ sung thêm quy định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực không có thẩm quyền xét xử đối với “Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (điểm d khoản 1 Điều 268)
  • 35. 29  Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh Tại khoản 2 Điều 268 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà Tòa án quân sự khu vực và Tòa án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để xét xử. “Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án: a) Vụ án hình sự về các tội phạm không ….khu vực; b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, …. ở nước ngoài; c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền …. người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.” Theo quy định mới của BLHS năm 2015, thì tất cả các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 điều này sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án nhân dân cấp Tỉnh mà không thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp huyện. Vì vậy, khi thụ lý vụ án, nếu xét thấy các căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 Điều này thì Tòa án quân sự khu vực,Tòa án nhân dân cấp huyện phải trả hồ sơ vụ án cho VKS đã truy tố theo quy định tại khoản 1 Điều 274 của Bộ luật này. Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 268, đã tháo gỡ được những vướng mắc trước đây theo quy định của BLTTHS năm 2003 và đã đưa ra các điều kiện để lấy vụ án của cấp huyện lên tỉnh xét xử trong quy định của điều luật và không phụ thuộc vào hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 12 tháng 01 năm 1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định của
  • 36. 30 BLTTHS năm 1988 nữa. Trước đây, BLTTHS năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể về các điều kiện để Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện để xét xử, mà hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá của Cơ quan điều tra và VKS. Việc lấy hay không lấy các vụ án của cấp huyện lên tỉnh để xét xử hay không đều do hai cơ quan này quyết định. Tuy nhiên, việc quy định tại điểm c khoản 2 Điều 268 cũng sẽ có những vướng mắc và tranh chấp về thẩm quyền nếu không có văn bản hướng dẫn rõ như trường hợp nào được coi là “Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải chăng chỉ là Bí thư, Chủ tịch hay cả cấp phó của Huyện ủy, Ủy ban, các ban Đảng, hoặc các phòng ban của Ủy ban nhân dân… b. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng Việc phân chia, xác định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân sẽ căn cứ vào đối tượng phạm tội, theo đó: Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự Tại BLTTHS năm 2003 chưa có điều luật cụ thể nêu rõ đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Tuy nhiên trong Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, tại Điều 3 có quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và BLTTHS 2015 cũng quy định vấn đề này tại Điều 272, cụ thể Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự quy định tại Điều 272 BLTTHS năm 2015 cụ thể như sau: “1. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử: a) Vụ án hình ….Quân đội nhân dân; b) Vụ án hình sự mà bị cáo …..Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ. 2. Tòa án quân sự …. thiết quân luật.”[29, tr.235] Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
  • 37. 31 Tòa án quân sự không có thẩm quyền xét xử đối tượng phạm tội thì Tòa án nhân dân xét xử những đối tượng này. Tòa án nhân dân xét xử những người không còn hoạt động trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ cho quân đội; những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội nếu tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội (Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002) Như vậy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án hình sự trừ những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đã được pháp luật quy định. Từ những quy định trên của pháp luật đã cho thấy khả năng sẽ xảy ra tranh chấp thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Việc giải quyết loại tranh chấp này được quy định tại khoản 4 Điều 275 BLTTHS 2015 và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định. Ngoài ra BLTTHS năm 2015 còn quy định tại Điều 273 về việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội mà có tội vi phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự, có tội vi phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Nếu vụ án hình sự vừa có bị cáo phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa có bị cáo phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì theo quy định thẩm quyền xét xử sẽ được thực hiện dựa trên tính chất của vụ án. Và khi xét thấy trường hợp cần thiết thì có thể tách vụ án, theo đó thì Tòa án nhân dân xét xử bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân còn Tòa án quân sự sẽ xét xử bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và ngược lại, nếu xét thấy không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự sẽ xét xử toàn bộ vụ án không để Tòa án nhân dân tham gia. BLTTHS năm 2015Đã thấy rõcác quy định cụ thể hơn về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp so với BLTTHS năm 2003. Qua đó, đã làm rõ thẩm
  • 38. 32 quyền xét xử của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân. c. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ Căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc việc điều tra thì thuộc thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đều quy định tại Điều 5, Điều 6, do đó cũng cần phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo lãnh thổ. Điều 269 BLTTHS là căn cứ pháp lý quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. BLTTHS năm 2015 tại khoản 1 Điều 269: Tòa án nơi mà tội phạm được thực hiện sẽ là Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự. BLTTHS năm 2015 cũng quy định Tòa án nơi kết thúc việc điều tra là đối với trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc tội phạm thực hiện nhiều nơi khác nhau. Theo quy định này, thì việc xác định thẩm quyền trước hết căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện, tức là địa danh hành chính mà người phạm tội thực hiện tội phạm. Tuy nhiên có một số trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau và lại do Cơ quan điều tra phát hiện ở một nơi mà tội phạm không được thực hiện hoặc ở nơi tội phạm kết thúc. Ví dụ: Vụ án buôn ma túy do Vũ Xuân Trường và đồng bọn thực hiện trên nhiều địa phương khác nhau, từ biên giới ViệtLào về Lai Châu, rồi từ Lai Châu đến các tỉnh phía Bắc và thủ đô Hà Nội, cuối cùng Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội phát hiện. Trong quá trình điều tra, Công an thành phố Hà Nội còn phát hiện nhiều người phạm tội ở nhiều địa phương khác nhau có liên quan đến đường dây buôn bán ma túy này, nhưng lại thuộc thẩm quyền xét xử của nhiều Tòa án khác nhau, có người do Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử, có người do Tòa án nhân tỉnh Lai Châu xét xử, nên sau khi kết thúc điều tra cơ quan Công an thành phố Hà nội đã chuyển hồ sơ vụ án cho tỉnh Lai Châu để truy tố xét xử những người phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của
  • 39. 33 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu. Điều 243 BLTTHS năm 2015 quy định về Quyết định truy tố bị can trước Tòa bằng bản cáo trạng đã bỏ cụm từ “Nội dung bản cáo trạng ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra phạm tội” quy định tại Điều 167 BLTTHS năm 2003 bởi lẽ trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xác định được hành vi phạm tội mà không thể xác định nơi xảy ra tội phạm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTHS thì bị cáo phạm tội ở nước ngoài sẽ do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng hoặc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử các trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng trong nước. Chánh án Tòa án quân sự trung ương sẽ ra quyết định để Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử các trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài. BLTTHS năm 2015 tại Điều 270 thì những tội phạm xảy ra trên tàu biển hoặc tàu bay của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài lãnh hải hoặc không phận củaViệt Nam thì thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam và nơi tàu biển, tàu bay đó đăng ký hoặc nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên. Ví dụ: Nguyễn Văn An là thủy thủ tàu viễn dương Xin Hạ thuộc Công ty vận tải biển thành phố Đà Nẵng, trong thời gian tàu đang vận hành trên vùng biển thuộc hải phận của Thái Lan, An đã giết Đặng Văn Be. Khi tàu viễn dương Xin Hạ về nước đã cập cảng Hải Phòng, nên thẩm quyền xét xử hành vi phạm tội của An thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. d. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử Do sự đa dạng của các tình huống trong thực tế nên mặc dù có quy định của pháp luật phân định thẩm quyền xét xử tương đối rõ ràng nhưng vẫn tồn
  • 40. 34 tại hiện tượng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp, giữa hai hệ thống Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Để tháo gỡ vấn đề này, pháp luật tố tụng hình sự đã xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử quy định tại Điều 275 BLTTHS năm 2015, cụ thể như sau: “1. Việc giải quyết tranh …. quân khu quyết định. 2. Việc giải quyết tranh chấp …. điều tra quyết định. 3. Việc giải quyết tranh chấp … quyết định. 4. Việc giải quyết ….tối cao quyết định. Việc chuyển vụ án để xét xử …..tại Điều 274 của Bộ luật này.” Như vậy, quy định tại Điều 275 BLTTHS năm 2015 đã bao quát được hết các loại tranh chấp về thẩm quyền xét xử xảy ra trong thực tế. Tương ứng với từng loại tranh chấp là một biện pháp giải quyết cụ thể. Tuy nhiên cần phải vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật đối với từng trường hợp để giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử đạt hiệu quả. e. Chuyển vụ án trong giai đoạn xét xử Điều 174 BLTTHS năm 2003 về “Chuyển vụ án” quy định trong trường hợp khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa có thẩm quyền xét xử. Khi vụ án chưa được xét xử Tòa án được chuyển những vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Và việc chuyển này sẽ do Chánh án tòa án quyết định. Hội đồng xét xử quyết định việc chuyển vụ án hay không nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên hoặc Tòa án quân sự. Còn theo quy định tại Điều 274 Bộ luật TTHS năm 2015 về chuyển vụ án trong giai đoạn xét xử quy định như sau: “1. Khi vụ án không thuộc ….. truy tố. Trong thời hạn 03 ngày ….Điều 239 của Bộ luật này. Khi xét thấy vụ án vẫn ….. thẩm quyền.
  • 41. 35 Thời hạn truy tố ……Điều 241 của Bộ luật này.” [29, tr. 236] So sánh với quy định về thẩm quyền chuyển vụ án theo BLTTHS năm 2003 thì quy định của BLTTHS năm 2015 có một số điểm mới sau: Một, trong BLTTHS năm 2003 khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử, quy định này trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, bởi khi giải quyết vụ án nếu xét thấy không đúng thẩm quyền thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền xét xử nhưng Viện kiểm sát không đồng ý và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố điều này dẫn đến khó khăn trong giải quyết vụ án và không phù hợp với quy trình tố tụng ở nước ta, tuy nhiên bất cập, hạn chế này đã được khắc phục tại Điều 274 BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án theo đó “Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.”, việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với quy trình tố tụng theo quy định của BLTTHS. Hai, trình tự, thủ tục chuyển hồ sơ vụ án trong giai đoạn xét xử như sau: Kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án, việc chuyển này sẽ được giải quyết theo thẩm quyền khi đến được Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố. Nếu xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mà đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát sẽ chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án ban đầu kèm theo văn bản nêu rõ lý do chính đáng và theo quy định; nếu Tòa án ban đầu xem xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau: “Điều 275. Giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử
  • 42. 36 1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. 2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi kết thúc việc điều tra quyết định. 3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định. 4. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.”[29, tr.237] Đồng thời, khi áp dụng quy định tại Điều 275 để giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền thì Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền. Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã được BLTTHS năm 2015 khắc phục, quy định cụ thể, chặt chẽ việc Tòa án chuyển vụ án; quy định về giải quyết mối quan hệ giữa Tòa án và VKS trong trường hợp không thống nhất với nhau về thẩm quyền xét xử; Tòa án có thẩm quyền là cơ quan giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa Tòa án và VKS. VKS phải thực hiện quyết định của Tòa án có thẩm quyền và khi Tòa án phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc chuyển vụ án đều được thực hiện trong giai đoạn xét xử, không quy định cứng việc chuyển vụ án khi vụ án chưa được xét xử như Điều 174 BLTTHS 2003.
  • 43. 37 2.1.2. Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình sự Trước khi mở phiên tòa: * Công việc nghiên cứu hồ sơ: Trong giai đoạn xét xử của Tòa án, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là một hoạt động thường xuyên, tiên quyết để Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán sẽ đưa ra phán quyết chính xác và thỏa đáng. Từ thực tiễn nhận thấy việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ có ảnh hưởng phần nào đến giải quyết vụ án hình sự đạt được chất lượng hay không. Bởi vậy, nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học sẽ đạt đạt được chất lượng cao trong giải quyết vụ án. Ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được thực hiện sơ sài,qua loasẽ dẫn đến chất lượng giải quyết vụ án đạt tỷ lệ không cao, có thể dẫn đến làm gia tăng số lượng án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn nữa là làm oan sai người vô tội. Ngoài ra chất lượng công việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự còn phụ thuộc nhiều vào kỹ năng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.Theo đó, nếu người nghiên cứu cóphương pháp nghiên cứu chuyên sâu kết hợp kỹ năng nghiên cứu tốt và thì chất lượng nghiên cứu sẽ đạt được hiệu quả cao. Không những vậy, việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động tố tụng của vụ án hình sự. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự càng được chú trọng bao nhiêu thì khi áp dụng trong hoạt động xét xử sẽ mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự cũng được nâng lên. * Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử: Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại Điều 255 nêu rõ: thẩm phán phải xác định rõ tư cách người tham gia tố tụng khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
  • 44. 38 Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt cho đương sự thông thường là khoảng 10–15. Và đây cũng là thời gian để viện kiểm sát, luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ á. Tuy nhiên, việc xét xử cũng có thể tạm ngừng trong trường hợp: 1. Theo đúng tên gọi, quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định việc Tòa án quyết định việc chính thức đưa vụ án ra xét xử và thông báo cho các bên liên quan (nguyên đơn, bị đơn… trong vụ án dân sự, bị cáo, bị hại… trong vụ án hình sự) được biết. Nguyên tắc xét xử công khai, thì nội dung khi xét xử không có gì là bí mật. 2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm ghi rõ: a) Ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết định; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; b) Xét xử công khai hay xét xử kín; c) Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo; d) Tội danh và điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo; đ) Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký Tòa án dự khuyết (nếu có); e) Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; họ tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có); g) Họ tên người bào chữa (nếu có); h) Họ tên người phiên dịch (nếu có); i) Họ tên những người khác được triệu tập đến phiên tòa; k) Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa. 3. Ngay sau khi ban hành, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Thường thì, cùng với việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử qua đường bưu điện hoặc tống đạt, Tòa án
  • 45. 39 cũng gửi Giấy triệu tập tham dự phiên tòa cho đương sự. 4. Về nguyên tắc, đương sự có quyền nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, để biết rõ những vấn đề liên quan đến việc xét xử vụ án của mình (thể hiện tại các nội dung trong quyết định. Ví dụ như nếu biết thành phần Hội đồng xét xử,xem xét nếu có những bất thường. Các luật sư tham gia của các đương sự hay giám định viên... 5. Theo qui định, khi khai mạc phiên toà, Chủ toạ phiên toà phải đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vì nếu trường hợp đương sự vì lý do khách quan hay chủ quan mà chưa/không nhận được Quyết định, hoặc HĐXXkhác với HĐXX ghi trong Quyết định thì đều là những sai phạm nghiêm trọng trong tố tụng và hậu quả là phải hủy bản án hoặc hoãn phiên tòa. Các giai đoạn tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm: * Giai đoạn bắt đầu phiên tòa: Thẩm phán và Chủ tọa phiên tòa làm các thủ tục cần thiết trước khi xét hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi của người tiến hành tố tụng… * Xét hỏi tại phiên tòa: Tại khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Hội đồng xét xử …..theo thứ tự hợp lý. 2. Khi xét hỏi từng người, …..thực hiện việc hỏi”. [29, tr.254]. Khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chủ toạ phiên toà sẽ tuyên bố kết thúc phần thủ tục phiên toà và chuyển sang phần xét hỏi khi không còn ai có thêm ý kiến. Và việc hỏi này cũng là bước kiểm tra chứng cứ cuối cùng mà Viện kiểm sát đã chuyển cho Tòa. * Tranh luận tại phiên tòa: Một phiên tòa xét xử về hình sự có dân chủ hay không, phụ thuộc vào
  • 46. 40 kết quả tranh luận tại phiên toà. Đây là giai đoạn rất quan trọng. Do đó chủ tọa phiên tòa cần tập trung điều khiển để việc tranh luận tại phiên tòa đạt kết quả cao nhất. Ngày 02 tháng 01 năm 2002,Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 08 đã chỉ rõ: “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo nhân chứng nguyên đơn bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Đến Nghị quyết số 49 ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ:“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử …… nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa …..hoạt động tư pháp”. Qua việc tranh luận tại phiên tòa, thể hiện rất rõ nét về nguyên tắc tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền con người mà Đảng và nhà nước bảo vệ. Chính vì vậy BLTTHS năm 2015 tại Điều 26 về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có quy định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ….. làm rõ sự thật khách quan của vụ án Tài liệu, chứng cứ ……dân chủ bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ ……làm rõ tại phiên tòa. Bản án ……. kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Căn cứ vào quy định tại điều 26 BLTTHS năm 2015 nêu trên thì bản chất của tranh tụng thể hiện ở việc: Các chủ thể tranh tụng đều được biết về chứng cứ và lập luận của nhau,
  • 47. 41 và đều có quyền đưa ra các chứng cứ và lập luận của mình để phản bác lại. Tuy có nhiều cách để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, nhưng có thể khẳng định tranh tụng là một trong những phương pháp tốt nhất để tìm ra sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo đảm được quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Yêu cầu đặt ra là chủ thể buộc tội và chủ thể rửa tội phải có sự bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, còn bên gỡ tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình và Tòa án phải đóng vai trò trọng tài thật khách quan bảo đảm sự bình đẳng trong tranh tụng. Để phù hợp với nội dung trên tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định khác với bộ luật tố tụng cũ là không tách phần xét hỏi và tranh tụng thành hai phần riêng biệt mà gộp lại thành Mục V “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” trong đó Điều 320 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận: “1. Sau khi kết thúc ….. không có tội. 2. Bị cáo trình bày …… bổ sung ý kiến bào chữa. 3. Bị hại đương …….. trình bày bổ sung ý kiến. 4. Trường hợp vụ án ……..trình bày luận tội”. Đồng thời Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng bổ sung thêm Điều 321 Luận tội của Kiểm sát viên quy định: “1. Luận tội của Kiểm sát viên …… tại phiên tòa. 2. Nội dung luận tội ……với vụ án. 3. Đề nghị kết ……, xử lý vật chứng. 4. Kiến nghị ….. pháp luật.” Vấn đề tranh luận tại phiên tòa được quy định tại Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 “Tranh luận tại phiên tòa” quy định như sau: “1. Bị cáo, người bào …. với vụ án.
  • 48. 42 Bị cáo, người bào ……của mình. 2. Kiểm sát viên phải …..phiên tòa. Người tham ….. người khác. 3. Chủ tọa phiên tòa …… ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa ……ranh luận. 4. Hội đồng xét xử …….bản án.” Theo tác giả vấn đề tranh tụng được quy định tại các Điều 321 và Điều 322 như trên là hoàn toàn cần thiết, mang tính cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu góp phần cho các Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ động hơn trong việc điều hành phần tranh luận tại phiên tòa. * Nghị án Nghị án không ai được vào phòng nghị án khi Hội đồng xét xử đã nghị án. Khi bắt đầu, Chủ tọa phiên tòa phải phổ biến nội dung nghị án với đầy đủ các nội dung cần nghị án thông qua diễn biến của phiên tòa. Khi nghị án, Chủ tọa phiên tòa cần nêu rõ từng vấn đề nghị án như: − Tội danh; − Điều khoản áp dụng; − Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; − Hình phạt, vấn đề bồi thường thiệt hại; − Xử lý vật chứng của vụ án; − Án phí và quyền kháng cáo. Đối với mọi vấn đề, Chủ tọa phiên tòa phải nêu nội dung cần thảo luận. Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau cùng, chứ không quy định Chủ tọa phiên tòa phát biểu thảo luận sau cùng. Vì vậy, Chủ tọa phiên tòa có thể nêu quan điểm của mình trước hoặc sau khi Hội thẩm có ý kiến. Khi có vấn đề thảo luận chưa thống nhất, thì cần thẳng thắn trao đổi, Chủ tọa phải có trách nhiệm giải thích các quy định của pháp luật