SlideShare a Scribd company logo
1 of 125
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HUỆ
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HUỆ
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ -
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Bïi ThÞ HuÖ
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM
PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
9
1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự
9
1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự 9
1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ
án hình sự
16
1.2. Ảnh hưởng của một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét
xử các vụ án hình sự đối với vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân tòa án địa phương
19
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội 19
1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử 22
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số 26
1.3. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy định về vai trò
của Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003
27
1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959) 28
1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992) 33
1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10 36
5
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẦM PHÁN VÀ HỘI
THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
39
2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai
trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương
39
2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai
trò của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương
53
2.3. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
60
2.3.1. Thực trạng xét xử các vụ án hình sự và công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2014
60
2.3.2. Những nguyên nhân của thực tiễn thực hiện những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự
76
Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN VÀ TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
80
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
80
3.1.1. Những bất cập trong chế định Thẩm phán 80
3.1.2. Một số điểm hạn chế trong chế định Hội thẩm nhân dân 83
3.2. Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân
90
3.2.1. Thẩm phán 90
6
3.2.2. Hội thẩm nhân dân 95
3.3. Những giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân
98
3.3.1. Thẩm phán 98
3.3.2. Hội thẩm nhân dân 109
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách
bộ máy nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII,
VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một sô nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng
và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, tạo bước chuyển biến mới
trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp. Theo đó, việc xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung cũng như nâng cao vai
trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói
riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Tòa án là cơ quan duy nhất được pháp luật trao cho quyền năng xét
xử. Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào
hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND). Theo đó, Thẩm
phán và HTND giữ vai trò quan trọng trong xét xử - giai đoạn trung tâm của
hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Chính vì
vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và HTND cũng như cách
thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu tố mang tính
quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm
của TAND địa phương đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng
cao về chất lượng, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, đội ngũ Thẩm phán và HTND của TAND
9
địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án
nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.
Bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, vai trò của Thẩm phán và
sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều điểm hạn
chế như theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị thì: Công tác tư pháp nói
chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường
hợp bị lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ
của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
các cơ quan tư pháp; và cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được
yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng,
yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm,
thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh
hưởng đến kỷ cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Nằm trong hệ thống của Ngành TAND trên cả nước, Ngành TAND
tỉnh Quảng Ninh được tổ chức và hoạt động thống nhất theo hai cấp là TAND
cấp tỉnh và các TAND cấp huyện, thực hiện chức năng xét xử trong phạm vi
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, đội ngũ
Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không ngừng
được bổ sung về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần quan trọng
vào việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án cũng như bảo vệ lợi ích Nhà
nước, xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, vai trò trong xét xử các vụ án nói chung cũng như xét xử các vụ án
hình sự nói riêng của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém ảnh hưởng phần nào đến
chất lượng xét xử của Tòa án.
Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu thực trạng trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán
và Hội thẩm TAND địa phương có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách
10
tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận văn thạc sĩ luật học.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự -
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn
thạc sĩ luật học học nhằm góp phần thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao chất
lượng xét xử các vụ án hình sự của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, Ngành Tòa án Việt Nam
đang thực sự đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng tăng cường quản
lý và nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND để đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Có thể nói, Thẩm phán
và HTND là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt
trong quá trình cải cách tư pháp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả hoạt
động của Ngành TAND nói riêng. Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của
Thẩm phán và HTND trong hoạt động tố tụng hình sự và là một mắt xích
không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay nên đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh
khác nhau và phương diện khác nhau về đề tài cải cách tư pháp và nâng cao
vai trò trong xét xử của đội ngũ Thẩm phán và HTND.
Cho đến thời điểm này, ở nước ngoài chưa có công trình chuyên khảo
nào đề cập đến việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực của đề tài.
Ở Việt Nam, từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp, nước ta đã có một số các công trình
nghiên cứu về đề tài cải cách tư pháp và năng lực của đội ngũ Thẩm phán.
Tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Ở cấp độ đề tài cấp nhà nước có công trình khoa học Cải cách hệ
thống tư pháp ở Việt Nam, mã số 92-98-353, do ông Nguyễn Văn Yểu làm
11
chủ nhiệm đề tài năm 1993. Tiếp đó là đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình
khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-2005): "Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư
pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư pháp chủ trì, được
nghiệm thu năm 2007.
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay" do nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn
Văn Sản làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những
kiến nghị về cơ chế tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp
luật nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.
Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài: Đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Lê Thành Dương, Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; Đỗ Thị
Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án
Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2006.
Bên cạnh đó, về sách chuyên khảo, bình luận thì có các công trình
khoa học sau: Thông tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư
pháp, Người Thẩm phán nhân dân, 2002; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Chuyên đề cải cách tư pháp; GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên), Hệ thống tư
pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, 2002;
GS.TSKH. Lê Văn Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Cải cách tư
pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Thể chế tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
12
Vào tháng 7 năm 2009 với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia, Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) đã cho ra mắt cuốn "Sổ tay Thẩm phán". Có thể
nói, cuốn Sổ tay Thẩm phán sẽ đóng góp cho quá trình hình thành nên một hệ
thống cơ quan tư pháp hiệu quả, công bằng và minh bạch; góp phần tăng
cường năng lực thể chế của hệ thống tòa án nói chung cũng như năng lực xét
xử của đội ngũ Thẩm phán nói riêng thông qua việc nâng cao tính chuyên
nghiệp của Thẩm phán khi thực hiện các hoạt động tư pháp của mình. Sổ tay
Thẩm phán cũng đóng góp cho quá trình nâng cao tính độc lập của Ngành
Tòa án Việt Nam, trong đó có tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm
phán. Đặc biệt, ngày 09 tháng 07 năm 2010, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp
Trung ương đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,
Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan vai trò của
Thẩm phán và HTND được công bố trên các tạp chí khác nhau như: Tạp chí
TAND, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp... Nhìn chung, các nghiên cứu đã đưa ra những đánh
giá về vai trò của đội ngũ Thẩm phán trong đó có vai trò trong xét xử các vụ
án hình sự, đồng thời đưa ra các khuyến nghị để nâng cao.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
các luận án, các bài báo khoa học đã được công bố ở Việt Nam trong thời gian
qua, đặc biệt là kể từ khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cho thấy hầu hết các công trình đó là những
công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống
Tòa án, còn về vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm thì chưa được khoa
học pháp lý Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về
Thẩm phán và Hội thẩm, Ngành TAND mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai
trò của đội ngũ này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về Thẩm
phán và HTND trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án
13
một cách chung chung mà chưa được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá
lý luận và tổng kết thực tiễn trong một công trình khoa học độc lập.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự -
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao vai
trò Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán
và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
- Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự
hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong
xét xử vụ án hình sự; đồng thời đánh giá đúng thực tiễn thực hiện, chỉ ra được
những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò
của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò
của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương trong xét xử các vụ án hình
sự trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử tại các TAND trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm trong xét xử các vụ án hình sự tại TAND địa phương.
14
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự
của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong vòng
5 năm (từ năm 2009 đến năm 2014).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về vai trò của Thẩm phán và HTND, mà
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên
quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò
của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự.
- Nghiên cứu và đánh giá làm sáng tỏ bức tranh thực tiễn về vai trò
xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian 5 năm gần đây (từ năm 2009 đến năm 2014); chỉ
15
ra những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân cơ bản của những tồn
tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương trong xét xử vụ án
hình sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến
hành tố tụng đặc biệt là Tòa án, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao vai trò
của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo điều kiện cho
việc giải quyết vụ án hình sự một khách khách quan, có căn cứ và đúng pháp
luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về
vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương
và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân và tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án
hình sự
a) Khái niệm Thẩm phán
Theo quy định tại khoản 1, Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 2013: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [19]. Theo
đó, Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải
quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, "bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [19]. Tòa án thực
hiện chức năng xét xử của mình thông qua Thẩm phán và HTND.
Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ
rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Dưới chế độ Chiếm hữu nô
lệ, Nhà vua là người đại diện cho pháp luật, đồng thời có quyền xét xử. Khi
mà quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp độc lập nhau, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách
biệt của Tòa án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ
chuyên làm nhiệm vụ xét xử - Thẩm phán ra đời. Cho tới ngày nay, Thẩm
phán đã tham gia xét xử vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, đáp ứng được
nhu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội.
Hiện nay, một hệ thống các văn bản pháp luật, Từ điển Luật học đã
làm sáng tỏ được rất nhiều về khái niệm Thẩm phán.
17
Theo từ điển Luật học và khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm TAND năm 2002 đã xác định Thẩm phán là: "Người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án" [45]. Như vậy,
Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án, nhân
danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử.
Thẩm phán phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm
khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình
độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác
thực tiễn có năng lực làm công tác xét xử và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ được giao (Khoản 1, Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
TAND năm 2002; sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Cũng theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh này thì Thẩm
phán TAND gồm có:
- Thẩm phán TANDTC;
- Thẩm phán TAND cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương;
- Thẩm phán TAND cấp huyện bao gồm Thẩm phán TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các
nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ
chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ
phải có kiến thức trên mọi lĩnh vực, bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công
lý, cho lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Vậy hoạt động xét xử là nghề
nghiệp của Thẩm phán có một số đặc điểm, đặc trưng sau:
Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật.
Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với
vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực
18
tế, không định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tư
vấn tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ
án. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết
của Thẩm phán đều trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng
định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét
đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong quá trình
giải quyết vụ án của mình.
Thứ hai: Hoạt động xét xử là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách
quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn
bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng
thực tế. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người
Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén
tại phiên tòa, giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng.
Để không bị cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh
tinh thần của người Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý
chí. Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục
đích mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu
tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán
quyết đó còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng.
Chính vì thế hoạt động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát.
Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của HTND
chính là sự giám sát ở bên trong phiên tòa. Khi xét xử HTND ngang quyền
với Thẩm phán, cùng Thẩm phán đưa ra quyết định đúng pháp luật.
Thứ ba: Hoạt động này đòi hỏi một con người toàn diện, bản lĩnh
vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan.
Đây không những là đặc thù nghề nghiệp Thẩm phán mà còn là các
tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể
19
có kiến thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho công bằng vô tư,
một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và
người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần
thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân
công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. Người Thẩm phán phải
bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí trước bất kỳ sự
việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình ảnh một
nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý.
Thứ tư: Hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố
tụng chặt chẽ do pháp luật quy định.
Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu
tình đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là
điều dễ hiểu. Việc quy định như vậy tránh sự tùy tiện lạm quyền, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của
pháp luật tố tụng, bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Tòa án cấp
trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niêm
Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với tư cách là người được giao thực hiện chức
năng xét xử của Tòa án, Thẩm phán có vị trí rất quan trọng và có vai trò
không thể thay thế trong việc thực hiện một trong những quyền lực nhà nước,
đó là quyền tư pháp. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN, với chủ trương xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ
và nghiêm minh thì việc củng cố và tăng cường vai trò, địa vị pháp lý của
Thẩm phán gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn tổ chức của tòa
án là yêu cầu cơ bản và quan trọng hàng đầu hiện nay.
20
b) Vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự
Các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định Thẩm phán là người
thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử. Vì vậy, thông qua hoạt động
xét xử Thẩm phán góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp
chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do, danh sự, nhân phẩm và các lợi ích chính đáng của công dân. Có thể
nói, hoạt động của Thẩm phán là một trong các yếu tố quyết định đến chất
lượng hoạt động của tòa án nói riêng cũng như các cơ quan tư pháp nói
chung; ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán
bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân
danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội
hay vô tội; giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, các quyết định hành chính,
hành vi hành chính… nó liên quan trực tiếp đến lợi ích, thậm chí đến số phận
và phẩm giá con người. Và để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, giải quyết
các tranh chấp đúng pháp luật, hợp lý hợp tình, xét xử đúng người, đúng tội
thì đòi hỏi người Thẩm phán phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và trình độ nghiệp
vụ chuyên môn vững vàng. Hơn nữa, Thẩm phán còn phải gương mẫu trong
việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng
các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Chính vì thế, hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế XHCN; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật xảy ra trong xã hội đúng pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng
và là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa
án. Với tư cách là người đại diện cho quyền lực của Nhà nước trong việc thực
thi quyền lực công lý, Thẩm phán là người hướng dẫn cho các bên đương sự
21
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại tòa án theo quy
định của pháp luật. Thẩm phán là người điều khiển, dẫn dắt quá trình tố tụng
tại tòa án diễn ra trật tự, tuần tự theo quy định của pháp luật tố tụng, đi đúng
vào trọng tâm và giải quyết các vấn đề còn mâu thuẫn của vụ kiện. Thực hiện
vai trò của người điều khiển phiên tòa, Thẩm phán phải là người tổ chức,
người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại
phòng xử án. Thông qua kết quả xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán đánh giá nội
dung thực chất của vụ án, xem xét các chứng cứ, các lý lẽ, lập luận của mỗi
bên, căn cứ theo các quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết đúng đắn.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy
đủ, chính xác các công việc mà pháp luật quy định đối với chủ tọa phiên tòa,
đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm chính về những vấn đề mà pháp luật
quy định đối với Hội đồng xét xử (HĐXX), thay mặt cho HĐXX công bố
những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng
xử án.
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Thông qua hoạt
động xét xử, Thẩm phán giúp cho những người tham gia tố tụng, những người
tham dự tại phiên tòa hiểu rõ các quy định của pháp luật, qua đó giúp họ hình
thành ý thức pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; củng
cố lòng tin vào pháp luật, phát huy tác dụng của công tác phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm trong xã hội. Vai trò của người Thẩm phán thể hiện tập trung
trong quan hệ với Tòa án, những người tham gia tố tụng và những người tiến
hành tố tụng.
* Vai trò của người Thẩm phán trong quan hệ với Tòa án, những
người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng
Thẩm phán và Tòa án có mối liên hệ qua lại, gắn bó mật thiết với
nhau. Mối quan hệ này thể hiện rõ nhất là Thẩm phán Tòa án cấp dưới quan
22
hệ với Tòa án cấp trên theo thủ tục tố tụng quy định. Mối quan hệ này hoàn
toàn độc lập với nhau. Tòa án cấp dưới không chịu sự điều hành của Tòa án
cấp trên. Tòa án cấp trên chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn việc áp dụng thống
nhất pháp luật cho Tòa án cấp dưới.
Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án không thể không nói tới mối
quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án. Thẩm phán cũng là công chức nên
lãnh đạo được coi là cấp trên của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa cấp trên và
cấp dưới là quan hệ lệ thuộc và nhạy cảm [14, tr. 3]. Pháp luật quy định Thẩm
phán làm việc theo sự phân công của Chánh án là Thủ trưởng cơ quan nơi
Thẩm phán làm việc.
Trong HĐXX, Hội thẩm tham gia với tư cách đại diện cho quần chúng
nhân dân tham gia vào quá trình xét xử. Trong khi xét xử Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán. Cả HTND và Thẩm phán phải cùng nhau xem xét tính
đúng đắn của vụ án. Chính vì vậy, pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu cần
thiết cho HTND về cả trình độ và kinh nghiệm.
Để Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ, Thư ký phiên tòa với tư cách
là cán bộ Tòa án tham gia vào phiên xét xử tiến hành lập biên bản tại phiên
tòa. Trước khi bắt đầu phiên tòa Thư ký kiểm tra danh sách người được triệu
tập tới Tòa. Trách nhiệm của Thư ký là giúp việc cho Thẩm phán.
Trong một vụ án, Điều tra viên là người đầu tiên tiến hành các hoạt
động nghiệp vụ điều tra các tình tiết có liên quan tới vụ án. Khi được phân
công Điều tra viên chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra của mình, kết quả
đó được đưa tới Viện kiểm sát tiến hành truy tố. Bản cáo trạng của Viện kiểm
sát sẽ được đọc tại phiên Tòa. Như vậy, Thẩm phán xét xử phải dựa trên kết
quả điều tra của Điều tra viên và bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát.
Thẩm phán lập hồ sơ xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Xét mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tham gia tố tụng thì
Thẩm phán giữ vị trí trung tâm theo đó Thẩm phán không thiên vị đối với bất
23
kỳ ai, đối xử bình đẳng với họ, tạo điều kiện cho họ được thực hiện các quyền
công dân của mình. Thẩm phán phải nắm chắc nguyên tắc một người chỉ được
coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
* Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
Hoạt động của TAND rất phong phú, đa dạng bao gồm các hoạt động
như giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trình dự án
luật nhưng hoạt động xét xử là một chức năng đặc thù của Tòa án, thể hiện
tính quyền lực nhà nước. Đồng thời xét xử là chức năng chuyên biệt của
Thẩm phán, là nghề Thẩm phán.
Thẩm phán là người được pháp luật trao cho thẩm quyền thay mặt Tòa
án thực hiện quyền lực tư pháp thông qua hoạt động xét xử [22, tr. 1]. Thông
qua các hoạt động xét xử, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc bảo vệ trị an
xã hội, trừng trị nghiêm khắc kịp thời và hiệu quả mọi hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Thẩm phán là người cầm cân nảy mực, minh oan và bảo vệ chính
nghĩa, qua hoạt động xét cử còn thể hiện uy tín của người Thẩm phán và chất
lượng hoạt động của Tòa. Để thực hiện tốt chức năng xét xử này, pháp luật
quy định các quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho Thẩm phán TAND.
1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử
vụ án hình sự
a) Khái niệm Hội thẩm nhân dân
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, nguyên tắc đại diện của
nhân dân tham gia xét xử đã trở thành nguyên tắc hiến định. Kể từ đó, quyền
của nhân dân tham gia xét xử luôn được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến
pháp sau này. Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm [19, Điều 103]
Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), HTND được xác định là:
24
" Người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án" [46].
Hội thẩm phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết
và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao [45, Điều 5, khoản 2].
HTND ở nước ta gồm có:
- Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
- Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh [45, Điều 2, khoản 2].
Có thể nói, bản chất của việc ghi nhận sự tham gia của Hội thẩm vào
quá trình xét xử của TAND là sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc", góp
phần đảm bảo nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động
xét xử của Tòa án; đồng thời thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Qua thực tế tham gia xét
xử ở các TAND, các Hội thẩm nhân dân đã đóng góp một phần quan trọng
trong việc giúp Tòa án đưa ra các phán quyết đúng đắn, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
b) Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự
Việc tham gia xét xử của HTND là một yêu cầu khách quan của nền
tư pháp và chế định Hội thẩm là một yếu tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và
tính thực thi đối với các phán quyết của Tòa án nhằm bảo đảm công lý. Trên
cơ sở quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức TAND năm
2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011) đã quy định cụ thể hóa vai trò của HTND.
Thứ nhất, Hội thẩm là những người do nhân dân cử hoặc bầu ra thông
qua việc tham gia vào quá trình xét xử mà thực hiện quyền tư pháp do nhân
25
dân giao phó, giúp nhân dân quản lý có hiệu quả lĩnh vực tư pháp. Cũng chính
vì HTND do nhân dân cử hoặc bầu ra nên vị trí của Hội thẩm tương đối độc
lập trong quá trình tham gia xét xử và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ hai, ở nước ta pháp luật là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Chế định Hội thẩm không chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả
vào hoạt động xét xử mà còn giúp nhân dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp
luật và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Trong công tác xét xử, muốn
việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân thì các thành viên trong HĐXX không chỉ là người
có trình độ cao về mặt pháp luật mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm xã hội sâu sắc. Vì vậy, việc quy định chế độ xét xử có
HTND tham gia là hết sức quan trọng. Hội thẩm với tư cách là những người
có trình độ, có uy tín được cộng đồng dân cư tín nhiệm bầu ra. Trong quá
trình tham gia xét xử, HTND sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; họ
sẽ đưa ra tiếng nói từ phía xã hội, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan,
phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ, Hội thẩm là
những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, khu
dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức thực tế
phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Chính vì thế, Hội thẩm
hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh cũng như nguyên nhân của các vụ án. Mặt khác,
thực tế cuộc sống luôn vận động và thay đổi, pháp luật không phải lúc nào
cũng theo kịp cuộc sống. Xuất phát từ việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư
nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận xã hội, HTND có vai trò
trong việc đưa pháp luật tới gần với thực tiễn. Hay nói cách khác, sự tham gia
xét xử của HTND làm cho các bản án, quyết định của Tòa án mang tính
"chính trị" hơn. Trong một số trường hợp, HTND còn có kiến thức sâu về một
số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội… Các kiến thức sinh
động đó sẽ có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán,
giúp cho quá trình xét xử đúng đắn và hiệu quả. Nói như vậy không có nghĩa
26
là Hội thẩm không cần quan tâm đến pháp luật. HTND có thể không phải là
những chuyên gia pháp lý, có kiến thức pháp luật chuyên sâu như Thẩm phán,
nhưng họ cũng cần phải nắm vững các kiến thức cơ bản về pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật cũng như sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân.
Thứ ba, vai trò của HTND trong xét xử vụ án nói chung cũng như vụ
án hình sự nói riêng là góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và nhân
dân. Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với nhân dân; qua
đó nhân dân hiểu và thông cảm với Tòa án. Bên cạnh đó, sự tham gia xét xử
của HTND, Tòa án sẽ nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm
của nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể nhận được sự đồng tình của
nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng, thậm chí là sự phản ứng gay gắt
của dư luận. Như vậy, HTND có vai trò giúp công tác xét xử của Tòa án góp
phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân;
đồng thời cũng chịu sự giám sát của nhân dân.
Thứ tư, HTND có vai trò giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Là người trực tiếp tham gia quá
trình xét xử vụ án, Hội thẩm sẽ là người giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả
xét xử; phân tích rõ các cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án
đó. Từ đó góp phần quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý
thức pháp luật và hòa giải của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc, sinh sống.
1.2. ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN ĐỊA PHƢƠNG
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự là một trong
những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự tạo nên nền tảng chủ đạo, cơ bản
mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị
coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh
27
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được
quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013: "Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [19] và tại Điều 10 của
BLTTHS năm 2003: "Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [18]. Nguyên
tắc suy đoán vô tội thể hiện ở các nội dung sau:
- Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá
trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi nhận được tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan, tổ chức và được thực hiện thông
qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết
thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều
tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết
tội. Trong trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án
đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong
trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có
hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày HĐXX tuyên án. Một người
chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự
vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội [18, Điều 10]. Theo đó, nguyên tắc này đảm bảo cho việc phòng chống tội
28
phạm đạt hiệu quả tốt và mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện
và xử lý trước pháp luật, cụ thể:
+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án (đại diện là thẩm phán và
HTND) phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ các chứng cứ xác định có
tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong quá trình tiến hành tố tụng,
những người tiến hành tố tụng trong đó có Thẩm phán và HTND không được
thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên
tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến
việc giải quyết đúng đắn vụ án.
+ Mọi tình tiết được thu thập trong quá trình điều tra, xét xử đều được
đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn thực
hiện tốt đòi hỏi những người tiến hành tố tụng (đội ngũ Thẩm phán và HTND)
phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật,
có tư duy pháp lý, có kỹ năng và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lý.
+ Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng. Bị can, bị cáo không bị buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn
xác định được bị can, bị cáo có tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những
chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong quá trình điều tra, xét
xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh là mình vô
tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can, bị cáo kết
hợp với những chứng cứ khác, cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị
cáo có tội hay vô tội.
- Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS
quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những
chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt
29
giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không
chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ,
bị can, bị cáo phải được giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho
họ. Mục đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý
theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các
chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc
dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà
pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi
phải thực hiện theo hướng "Thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội".
Như vậy, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật mà người trực tiếp quyết định bản án kết tội này chính
là HĐXX mà đại diện là Thẩm phán và HTND. Từ nguyên tắc này, ta có thể
thấy rõ vai trò quan trọng của Thẩm phán và HTND trong tố tụng hình sự nói
chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng trong việc đưa ra phán quyết đúng
đắn để xác định một người có tội hay không có tội, để từ đó truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử
Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại Khoản 2 Điều 103
Hiến pháp năm 2013 và Điều 17 BLTTHS năm 2003, theo đó: Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Đây là một
nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
này được hiểu là: Thẩm phán và HTND chỉ căn cứ vào quy định của pháp
luật, căn cứ vào các chứng cứ hợp pháp để xét xử và tuyên bản án trên cơ sở
kết quả tranh tụng tại phiên tòa một cách dân chủ, công khai, khách quan.
Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền can thiệp, chỉ đạo, định
hướng Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử.
30
Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm là tổng hợp các phương tiện,
biện pháp về xã hội, về pháp luật, về kinh tế, về tổ chức nhằm hạn chế và
ngăn chặn những tác động vào hoạt động xét xử. Sự độc lập đó được xem là
sự độc lập trên thực tế đối với các yếu tố bên ngoài và những yếu tố chủ quan
của Hội thẩm và Thẩm phán trong thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Sự độc lập của Hội thẩm ở đây trước hết phải đặt trong sự thực hiện
nguyên tắc này của cả Thẩm phán chuyên nghiệp. Cả Thẩm phán và Hội thẩm
đều phải thực hiện nguyên tắc này mà không có ngoại lệ. Đối với Hội thẩm
thì khi giải quyết các vụ án, không một cơ quan, tổ chức hay người có chức
vụ hoặc cá nhân nào có quyền can thiệp vào việc xét xử, ra lệnh cho Hội thẩm
phải xét xử theo yêu cầu của họ. Không thể có một ý kiến áp đặt nào dưới
danh nghĩa "hợp tình, hợp lý" để tác động đến Hội thẩm. Không một yêu cầu
hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh hưởng đến việc Hội
thẩm và Thẩm phán áp dụng đúng pháp luật theo đúng nội dung và tinh thần
của điều luật đối với các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc, Thẩm phán
không được áp đặt ý kiến đó với Hội thẩm khi xét xử. Như vậy, độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng mà Hội thẩm phải thực hiện cùng lúc: độc lập tức là tuân theo pháp luật
và tuân theo pháp luật để được độc lập.
Pháp luật cũng đã quy định những đảm bảo về mặt tố tụng cho việc
thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Hội thẩm đó là:
- Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
- Khi đánh giá chứng cứ, quyết định tội danh và hình phạt, Hội thẩm
căn cứ vào các quy định của pháp luật và ý thức pháp luật XHCN.
- Hội thẩm tự mình đề nghị không tham gia xét xử hoặc bị thay đổi
khi có căn cứ cho rằng họ không vô tư và khách quan.
- Việc nghị án được tiến hành bí mật và Hội thẩm được quyền có ý
kiến bảo lưu khi nghị án.
31
- Nếu có các vi phạm pháp luật nghiêm trọng từ phía Hội thẩm như cố
ý ra bản án, quyết định trái pháp luật, cố ý làm sai lệch vụ án thì Hội thẩm có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các Điều 295 về Tội ra bản án trái
pháp luật; Điều 296 - Tội ra quyết định trái pháp luật; Điều 300 - Tội làm sai
lệch hồ sơ vụ án (Bộ luật hình sự năm 1999).
Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định, cốt lõi của quyền tư pháp
trong nhà nước pháp quyền, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo
tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực
nhà nước [14, tr. 5]. Việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm chỉ có hiệu quả khi hội tụ đầy đủ các yếu tố: bản lĩnh bảo vệ
công lý, kinh nghiệm xã hội, kiến thức pháp lý. Trong xét xử một vụ án hình
sự, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo là có tội hay không
có tội thông qua hoạt động xét xử. Khi xét xử vụ án hình sự ở cấp quận,
huyện, HĐXX căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm
tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào quy định của pháp luật để xác định
tội phạm cũng như hình phạt với người phạm tội. Thẩm phán và Hội thẩm
không được để cho bất cứ ai, vì bất cứ lý do gì chi phối mà xử lý vụ án không
đúng pháp luật. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, HĐXX phải xem
xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận
trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ
tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã
được xem xét tại phiên tòa. Khi xét xử, Thẩm phán và HTND không bị ràng
buộc, không bị chi phối bởi bất ký ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá
nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của HĐXX để
ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Moi hành động can thiệp
dưới bất kỳ hình thức nào đều bị coi là bấy hợp pháp. HĐXX không bị tác
động chi phối của bất kỳ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chỉ có các
thành viên HĐXX cùng với kết quả điều tra tại phiên tòa mới có quyền quyết
32
định những vấn đề liên quan của vụ án. Từng thành viên HĐXX xét bằng khả
năng và niềm tin nội tâm của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy
định của pháp luật để đưa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của
HĐXX được lấy theo ý kiến đa số của thành viên. Như vậy, tại phòng nghị án
từng thành viên của HĐXX có quyền độc lập suy nghĩ, đánh giá sự việc trên
cơ sở pháp luật, không phụ thuộc vào bất cứ một định kiến nào, không phụ
thuộc vào ý kiến của các thành viên khác. Từ quyết định độc lập của từng
thành viên để đi đến quyết định của tập thể HĐXX.
Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp
xét xử. Hiện nay, Tòa án cấp trên chỉ đạo Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài
chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc độc
lập khi xét xử, cần tách bạch rõ từng mối quan hệ trên. Sự hướng dẫn công tác
xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là hết sức cần thiết, bảo đảm
cho việc áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết
định trước là Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án như thế nào mà Tòa án
cấp trên chỉ hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường
lối xét xử. Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Tòa án cấp dưới mà ở đây là
Tòa án cấp huyện độc lập với Tòa án cấp trên là Tòa án cấp tỉnh; Tòa án cấp tỉnh
chỉ có hướng dẫn về đường lối xét xử nói chung. Thẩm phán Tòa án cấp huyện
cũng độc lập với Thẩm phán và Tòa án cấp tỉnh. Mặt khác, khi Tòa án cấp
tỉnh xét xử theo thủ tục phúc thẩm bản án của Tòa án cấp huyện để xét xử lại,
thì khi xét xử lại, Tòa án cấp huyện vẫn độc lập trong phán quyết của mình.
Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm bao gồm cả sự độc lập với
nhau giữa các thành viên của HĐXX trong việc xem xét kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và quyết định những vấn đề liên quan. Các thành viên HĐXX độc
lập trong việc xem xét, đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ
án tại phiên Tòa cũng như khi nghị án, từng thành viên được độc lập đưa ra
quan điểm của mình, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra
33
quyết định của mình mà không phụ thuộc vào các thành viên khác. Thẩm
phán không có quyền áp đặt ý kiến của mình với Hội thẩm và ngược lại Hội
thẩm cũng không được áp đặt ý kiến với Thẩm phán. Thẩm phán và HTND
phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án chứ không được
áp đặt ý chí chủ quan của mình. Khi nghị án, HTND biểu quyết trước, Thẩm
phán là người biểu quyết sau cùng. Có thể thấy, thông qua nguyên tắc độc lập
khi xét xử, quyền độc lập của Tòa án được ghi nhận và thực hiện, mà trong đó
Thẩm phán và HTND là người được trực tiếp độc lập khi thực hiện những
nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số ảnh hưởng trực
tiếp tới hoạt động nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm. Xét xử tập thể là
đòi hỏi của nền tư pháp dân chủ và thực tiễn xã hội tiến bộ. HĐXX biểu quyết
theo đa số. Quyết định được đưa ra là căn cứ trên kết quả thảo luận của tập
thể HĐXX, chứ không phải là ý kiến của một cá nhân nào. Các thành viên
HĐXX xem xét đánh giá về từng vấn đề, rồi biểu quyết lấy ý kiến đa số về
quyết định hình phạt, về trách nhiệm dân sự...
Tuy việc xét xử là tập thể, nhưng vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa là quan trọng nhất. Thẩm phán giữ vai trò chủ động trong việc xét xử.
Tính chủ động của Thẩm phán thể hiện trong việc điều khiển phiên tòa và
trong việc nghị án. Thẩm phán có thể phân tích, giải thích pháp luật, phân
tích, đánh giá về chứng cứ để cho các Hội thẩm tham khảo rồi biểu quyết theo
đa số. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ, công bằng trong xét xử. Mặc dù
Thẩm phán có vị trí và vai trò quan trọng, nhưng mọi quyết định của Thẩm
phán cần phải được kiểm tra, chế ước bởi nguyên tắc xét xử tập thể. Khi thực
hiện chức năng xét xử, Thẩm phán không phải được trao quyền lực tuyệt đối,
mà mọi vấn đề đều được xem xét và quyết định bởi tập thể HĐXX.
34
"Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán" - Đây là một
nguyên tắc được Hiến pháp quy định, thể hiện mối quan hệ giữa Thẩm phán
và Hội thẩm trong xét xử trên bình diện quyền năng của mỗi người. Nguyên
tắc này gắn liền với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa
số. Việc xét xử ở các cấp Tòa án đều được thực hiện theo chế độ hội đồng
(Hội đồng xét xử) chứ không phải do cá nhân Thẩm phán hay Hội thẩm nào.
Chế độ "hội đồng" bảo đảm mọi quyết định của Tòa án đều được thông qua
theo nguyên tắc đa số, các thành viên ngang quyền với nhau.
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ QUY ĐỊNH
VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA
PHƢƠNG TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN
HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
Các chức danh tư pháp của Tòa án Việt Nam (từ năm 1945 đến nay)
tuy có những thay đổi nhất định theo tiến trình phát triển của nền Tư pháp
Việt Nam, song chủ yếu vẫn bao gồm ba nhân vật là: Thẩm phán, Hội thẩm
và thư ký Tòa án. Bức tranh khái quát về lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy
định về vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội Thẩm ở Việt Nam từ cách mạng
tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 được khắc họa
bởi ba giai đoạn tiêu biểu của lịch sử Tư pháp Việt Nam.
Giai đoạn thứ nhất, được xem là giai đoạn nền móng. Giai đoạn này
được đánh dấu bằng Sắc lệnh số 13SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành
ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán.
Giai đoạn thứ hai, được đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm
1959 và Luật Tổ chức TAND năm 1960 với chế độ bầu cử thầm phán được áp
dụng ở các cấp Tòa án.
Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn được khắc họa bởi sự ra đời của bản
Hiến pháp thứ tư - Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND năm 1992 và
Pháp lệnh về Thẩm phán và HTND năm 1993. Giai đoạn này được tách thành
hai thời kỳ: thời kỳ trước và thời kỳ sau Nghị quyết số 51/2001/QH10.
35
Trong giới hạn phạm vi luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu về quy
định của pháp luật tố tụng hình sự quy định vị trí, vai trò của Thẩm phán và
Hội thẩm TAND ở địa phương.
1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959)
a) Chế định thẩm phán
Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy chế độ thực dân phong kiến
bị xóa bỏ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ năm 1945, nền tư
pháp mới với hệ thống các cơ quan tư pháp mới của chính quyền nhân dân bắt
đầu được thiết lập và xây dựng, trong đó và trước hết phải nói đến là Tòa án
và các chủ thể thực hiện công việc xét xử của Tòa án mà hạt nhân là các thẩm
phán. Chỉ sau 11 ngày sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh ngày 13/09/1945 thiết lập trên
toàn Việt Nam hệ thống Tòa án quân sự và Sắc lệnh số 13SL vào ngày
24/01/1946. Có thể nói, Sắc lệnh 13SL là sắc lệnh đầu tiên trong việc tổ chức
nền Tư pháp nước ta và được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc hiến định
của Hiến pháp năm 1946 như: nguyên tắc Tòa án biệt lập đối với hành chính,
nguyên tắc thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm, nguyên tắc xét xử các việc
hình có các phụ thẩm nhân dân (nay gọi là HTND) tham gia và nguyên tắc khi
xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Sắc lệnh số 13/SL quy định ngạch Thẩm phán trong cơ quan Tòa án
được chia làm hai loại: Thẩm phán buộc tội và Thẩm phán xét xử, hai bộ phận
Thẩm phán này độc lập với nhau trong khi làm nhiệm vụ. Thẩm phán Tòa đệ
nhị cấp và Tòa thượng thẩm do Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm phán Tòa sơ
cấp do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Ngoài ra, Sắc lệnh còn quy định về
tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ và chế độ của Thẩm phán.
Cũng theo quy định tại Sắc lệnh số 13/SL, tuy Tòa án được tổ chức
thành ba cấp (sơ cấp, đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm), nhưng thẩm phán chỉ
quy định có hai ngạch: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp
36
làm việc ở Tòa án sơ cấp và chỉ làm công việc xét xử. Tại phiên tòa sơ cấp,
thẩm phán chỉ xét xử một mình, nghĩa là không có thẩm phán buộc tội và
cũng không có luật sư bào chữa. Ở ngạch sơ cấp, thẩm phán chỉ có một chức
vị là thẩm phán xét xử và được xếp thành năm hạng cao thấp khác nhau, trong
đó hạng năm là thấp nhất gồm các thẩm phán tập sự và ngoại hạng là cao
nhất, hạng này được giữ chức Chánh Tòa sơ cấp ở các thành phố lớn.
Về thẩm quyền, nghĩa vụ và nhiệm vụ của thẩm phán: Ở cả hai cấp
(sơ cấp và đệ nhị cấp) các thẩm phán đều được áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm
và chung thẩm đối với các vụ án hình sự. Cơ sở đề quy định sơ thẩm hay chung
thẩm ở Tòa án sơ cấp hay đệ nhị cấp đối với án hình sự là mức hình phạt.
Xét xử không chỉ là quyền năng mà còn là nghĩa vụ của thẩm phán. Ở
Tòa án sơ cấp, thẩm phán sơ cấp phải kiêm thêm nhiệm vụ cảnh sát tư pháp
trong địa bàn của mình và chịu sự chỉ đạo của thẩm phán giữ quyền công tố
(ông biện lý). Khi làm nhiệm vụ của cánh sát tư pháp, thẩm phán sơ cấp phải
thi hành những mệnh lệnh của ông biện lý, các Tòa án khác ủy thác và phải
làm nhiệm vụ điều tra về mặt hình sự khi có việc tiểu hình hay đại hình xảy ra
trong địa hạt mình, đồng thời phải báo cáo ông biện lý Tòa án tỉnh.
b) Chế định Hội thẩm nhân dân
Đầu năm 1946, Văn bản pháp luật đầu tiên quy định việc tổ chức các
cơ quan tư pháp là Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm
phán (ban hành ngày 24-1-1946). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định
tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm (Hội thẩm) cũng như việc
tuyển cử, tham gia của Phụ thẩm vào việc xét xử của TAND.
Theo Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946, các Tòa án xử việc hình, ngoài
các Thẩm phán còn có 2 vị Phụ thẩm nhân dân.
Tòa sơ cấp khi xét xử gồm có Thẩm phán, một Lục sự và một hay
nhiều Thư ký giúp việc mà không có Phụ thẩm.
Tòa án đệ nhị cấp: Khi xét xử các việc tiểu hình (những việc có thể bị
phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm) hay phạt bạc trên 9 đồng (tiền lúc đó) thì ngoài
37
Chánh án (chủ tọa) còn có hai vị Phụ thẩm. Chánh án chỉ hỏi Phụ thẩm về tội
trạng và hình phạt, rồi tự mình quyết định (vấn đề thủ tục tạm tha hay liên
quan đến dân sự, thương sự thì Chánh án không phải hỏi Phụ thẩm). Khi xét
xử việc đại hình thì HĐXX gồm có Chánh án, hai Thẩm phán làm Phụ thẩm
chuyên môn và hai Phụ thẩm nhân dân. Khi nghị án có Chánh án, 2 Thẩm
phán và 2 Phụ thẩm nhân dân cùng nghị xử.
Tòa thượng thẩm khi xét xử phúc thẩm các việc tiểu hình và đại hình,
ngoài ông Chánh án, 2 Hội thẩm (chuyên môn) còn có 2 Phụ thẩm nhân dân
cùng nghị án (trừ các vấn đề liên quan đến thủ tục, tạm tha, đòi bồi thường về
dân sự, thương sự do Chánh án tự quyết định).
Tại Sắc lệnh 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các tòa án có sửa
về thẩm quyền và tên gọi các Tòa án. Hệ thống Tòa án gồm: Tòa án huyện;
Tòa án tỉnh, thành phố; Tòa án phúc thẩm khu, hoặc Tòa án liên khu (nếu có
điều kiện thành lập). Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta (ngày 9/11/1946)
đã chính thức ghi nhận: "Trong khi xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân
để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán
nếu là việc đại hình".
Bước vào những năm 50, với đà phát triển của chế độ dân chủ nhân
dân, nền tư pháp đã có những cải cách lớn để thực sự trở thành nền tư pháp
nhân dân. Cái mốc lớn của cuộc cải cách này là việc ban hành Sắc lệnh số 85
ngày 22-5-1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Sắc lệnh số 85 đã
sửa đổi một cách cơ bản Sắc lệnh số 13 nói trên. Sau đó Sắc lệnh số 151 ngày
17/11/1950 (đặt thể lệ chỉ định các HTND và định thành phần TAND liên khu
trong trường hợp đặc biệt); Sắc lệnh số 156 ngày 22/11/1950 (tổ chức TAND
liên khu), Sắc lệnh số 12 ngày 30/3/1957 và Thông tư số 2 P/4 ngày 5/2/1952
của Bộ Tư pháp (sửa đổi bộ phận chế định HTND) đã sửa đổi bổ sung, chi tiết
hơn về chế định HTND tham gia xét xử.
Theo các Sắc lệnh nói trên, Phụ thẩm nhân dân được đổi là HTND, số
lượng HTND được tăng lên, quyền hạn và nghĩa vụ được mở rộng, đặc biệt là
38
HTND tham gia xét xử cả việc hình sự và dân sự, được tham gia quyết định về
mọi vấn đề trong xét xử vụ án (xem hồ sơ, biểu quyết về tội trạng và hình phạt...).
Khi xử án, TAND huyện và TAND tỉnh gồm 1 Thẩm phán và 2 HTND.
TAND phúc thẩm khu hoặc thành phố gồm 2 Thẩm phán và 3 HTND.
Hội thẩm và Thẩm phán phải cộng tác chặt chẽ với nhau, cùng chịu trách
nhiệm trước Chính phủ và nhân dân về hoạt động của Tòa án. Mặc dù mỗi
người có trách nhiệm riêng phụ thuộc nhiệm vụ và kỷ luật riêng tùy theo tính
chất của họ là cán bộ dân cử (Hội thẩm) hay công chức nhà nước (Thẩm phán).
Nhiệm vụ quan trọng của HTND là xét xử và tuyên truyền giáo dục
pháp luật, thể hiện nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân. Bởi thế họ phải là
sợi dây liên lạc giữa Tòa án và nhân dân. Pháp luật quy định rõ những việc
Hội thẩm phải làm (xử án, hòa giải, điều tra, giáo dục trong nhân dân; những
việc nên làm (giáo dục phạm nhân, kiểm tra huấn luyện) và những việc không
nên làm (những việc thuộc về hành chính, kỹ thuật chuyên môn).
Nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án và nguyên tắc quyết định theo đa
số được thể hiện ngay từ Sắc lệnh 13/SL, thời kỳ này tiếp tục được cụ thể hóa.
Theo các Thông tư số 2 P/4 ngày 5-2-1952 của Bộ Tư pháp; Thông tư
512HC, Thông tư số 1671/HCTP ngày 11-9-1956 của liên bộ Nội vụ - Tư
pháp; Thông tư số 248 P/4 ngày 25-8-1950 của Bộ Tư pháp; Thông tư số 289
ngày 4-10-1950 của Bộ Tư pháp, vai trò của HTND được thể hiện:
- Sau khi lập danh sách HTND, các TAND tỉnh, thành phố triệu tập
cuộc họp các HTND để phổ biến nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, trao
đổi về lịch công tác. TAND tạo điều kiện phổ biến văn bản, tài liệu tư pháp và
bồi dưỡng thường xuyên cho HTND. Các cuộc họp tổng kết nửa năm, hàng
năm của Tòa án đều mời HTND.
- Đối với mỗi phiên tòa, trừ trường hợp thật đặc biệt, nói chung Tòa
án phải báo cho HTND 7 ngày trước khi mở phiên tòa. HTND phải đến Tòa
án trước phiên tòa ít nhất 1 ngày, cần thiết Tòa án có thể yêu cầu HTND điều
tra thêm trước khi ngồi tòa.
39
- Trong HĐXX, HTND và Thẩm phán làm việc có thảo luận và cùng
quyết định, phân công theo trách nhiệm. Chánh án và HTND phân công điều
khiển phiên tòa và thuyết trình. Hội thẩm có quyền hỏi đương sự, bị can,
những người làm chứng.
- Hội thẩm nhân dân còn là một thành viên của Hội đồng tư pháp (một
hình thức phối hợp hai ngành xử án và công tố), họp mỗi tháng một lần hoặc
bất thường, bàn về đường lối xét xử và kế hoạch tư pháp.
Theo Sắc lệnh số 156 ngày 22-11-1950; Sắc lệnh số 151 ngày 17-11-1950
và Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tháng 9-1951; 9-1952 và Thông tư
138/ HCTP ngày 23-11-1957 của Bộ Tư pháp thì HTND được lựa chọn theo
hai cách: bầu và chỉ định (cử).
Như vậy, những năm 50, trong hoàn cảnh chưa ổn định lúc đó, bên
cạnh chế độ bầu HTND còn có những trường hợp cử HTND để kịp thời đáp
ứng yêu cầu xét xử của Tòa án. Vì có những nơi chưa có Hội đồng nhân dân
hoặc chưa họp được Hội đồng nhân dân hoặc trong danh sách HTND thiếu
một thành phần nào đó cần cho một vụ án cụ thể. Chế độ đãi ngộ với HTND
rất được chú trọng, các văn bản hướng dẫn được sửa đổi liên tục cho phù hợp.
Lương bổng của HTND hưởng như các Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành
chính cấp tương đương.
Tóm lại, trong giai đoạn đầu tiên (1945-1959) Nhà nước dân chủ nhân
dân đã cố gắng từng bước củng cố chế độ nhân dân tham gia xét xử thông qua
chế định HTND. Trong hoàn cảnh Nhà nước vừa được xây dựng, vừa tiến
hành kháng chiến, đứng trước rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta vẫn cố
gắng thực hiện những quy định của Hiến pháp và pháp luật về Hội thẩm Mặc
dù còn sơ khai, nhưng Nhà nước ta đã đề ra được những nguyên tắc cơ bản
làm cơ sở cho sự hình thành và hoàn thiện chế định HTND. Điều này không
chỉ đáp ứng đòi hỏi của công tác xét xử lúc đó, mà còn là nền móng và những
kinh nghiệm tốt cho các giai đoạn tiếp sau này. Số lượng HTND ngày một
40
tăng, chú trọng năng lực xét xử và bồi dưỡng cho HTND, mặc dù thực hiện
chế độ bầu Hội thẩm nhưng có lúc do yêu cầu thực tế xét xử, đã thực hiện chế
độ cử HTND. Các nguyên tắc Tòa án độc lập xét xử, xét xử tập thể và quyết
định theo đa số, đặc biệt là nguyên tắc Hội thẩm ngang quyền Thẩm phán
ngày càng được cụ thể hóa. Thời kỳ này Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối quản
lý công tác HTND, đã có nhiều văn bản sát thực tế hướng dẫn: việc bầu, cử
HTND; mối liên hệ giữa HTND, TAND và cơ quan tư pháp; chế độ đãi ngộ
với HTND...
1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992)
a) Chế định thẩm phán
Bước cải cách lớn lao đầu tiên trong lịch sử Tư pháp Việt Nam được
đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, thay thế Hiến pháp năm
1946. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đã thông qua hai đạo luật về tổ chức TAND và Viện kiểm sát nhân
dân làm thay đổi cơ bản về cơ cấu tổ chức các cơ quan xét xử Việt Nam và cơ
cấu thẩm phán tòa án. Tổ chức cơ quan tòa án được chuyển từ chỗ theo cấp
xét xử sang tổ chức theo lãnh thổ, mà trước hết, theo các đơn vị hành chính
gồm: TANDTC, TAND ở các địa phương và các Tòa án quân sự. Không còn
chế định hai ngạch thẩm phán (sơ cấp và đệ nhị cấp), chỉ có thẩm phán xét xử
chứ không còn thẩm phán buộc tội. Bên cạnh đó, từ năm 1960 đến khi có
Hiến pháp năm 1992, áp dụng chế độ thẩm phán bầu ở các Tòa án thay cho
chế độ bổ nhiệm thẩm phán. Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở các
cấp Tòa án, chế độ này có những ưu điểm là bảo đảm cho quần chúng nhân
dân thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình
thực hiện hoạt động xét xử. Tuy nhiên chế độ bầu Thẩm phán cũng bộc lộ
nhiều nhược điểm như: nặng về hình thức, nhiệm kỳ của Thẩm phán bằng với
Hội đồng nhân dân, hoạt động xét xử của Tòa án chưa độc lập vì còn lệ thuộc
vào vào chính quyền địa phương...
41
Ở giai đoạn này, thẩm quyền và nhiệm vụ của thẩm phán cũng có sự
thay đổi đáng kể. Ở TAND huyện chỉ được xét xử sơ thẩm những vụ án hình
sự và dân sự. Thành phần HĐXX gồm một thẩm phán và hai HTND tham gia.
Việc xét xử sơ thẩm do một thẩm phán tiến hành chỉ áp dụng với những vụ án
nhỏ, đơn giản và không quan trọng. Ở cấp huyện, thẩm phán còn có nhiệm vụ
hòa giải những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc hình nhỏ mà
không phải mở phiên tòa. Ở TAND tỉnh và tương đương, thẩm phán được
quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Trong giai đoạn hai của lịch sử tư pháp Việt Nam còn một lần cải cách
nữa diễn ra bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 và một loạt đạo luật được
thay đổi theo, trong đó có Luật Tổ chức TAND năm 1981 thay thế Luật Tổ
chức TAND năm 1960. Theo các văn bản pháp luật mới này, những nguyên
tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND và thẩm phán nhân dân vẫn
được duy trì như chế độ bầu cử thẩm phán được thực hiện ở TAND các cấp;
việc xét xử ở TAND có HTND tham gia; khi xét xử, HTND và thẩm phán
ngang quyền nhau, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thêm vào đó, các đạo
luật mới ban hành cũng quy định bổ sung, chi tiết hơn và cụ thể hơn như về
nhiệm kỳ của thẩm phán TAND các cấp, tiêu chuẩn để được bầu là thẩm
phán, thẩm quyền của TAND các cấp…
b) Chế định hội thẩm nhân dân
Từ năm 1960 đến trước Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 10 ngày 25/12/2001, tuy Việt Nam có ba lần sửa đổi Hiến
pháp, có ba bản Hiến pháp khác nhau và kèm theo sự hiện diện của Pháp lệnh
về Thẩm phán và hội thẩm TAND; nhưng chế định HTND về cơ bản là ổn
định, có chút ít thay đổi, bổ sung, song không tạo thành bước ngoặt.
Sự ổn định đó thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Việc xét xử ở các TAND có HTND tham gia theo quy định của pháp luật.
- Khi xét xử, HTND ngang quyền với thẩm phán.
42
- Khi xét xử, thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra.
- Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo
đa số.
Căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức TAND
năm 1960 quy định hệ thống TAND có TAND khu vực tự trị (thuộc phạm trù
các TAND địa phương). Thời kỳ đó, Việt Nam có hai khu vực tự trị là Việt
Bắc và Tây Bắc. Tổ chức TAND khu vực tự trị sẽ do Hội đồng nhân dân khu
vực tự trị quy định, tức là do điều lệ của Hội đồng nhân dân khu vực tự trị
Việt Bắc và Tây Bắc quy định. Theo đó, sự tham gia của HTND vào công
việc xét xử của Tòa án có sự khác với quy định chung. Sự khác nhau đó thể
hiện ở chỗ, trong trường hợp xét xử những vụ án mà đương sự hoặc bị cáo
thuộc nhiều dân tộc khác nhau thì HĐXX gồm một thẩm phán và bốn HTND;
khi xét xử phúc thẩm và khi cần thiết có thể thêm hai hoặc bốn HTND. Đến
năm 1980, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND, trong hệ
thống các TAND không còn TAND khu tự trị.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, chế định HTND vẫn được tiếp tục ghi nhận, song ở mức độ khác, mức
độ kế thừa và phát triển. Điều này thể hiện ở những điều như HTND giờ đây
nằm trong cơ cấu nhân sự của Tòa án các cấp; những quy định nhằm đảm bảo
cho nguyên tắc: "Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán"
được tăng cường; tiêu chuẩn HTND được quy định rõ ràng; nhiệm kỳ của HTND
được kéo dài (đến 5 năm); kiến thức pháp lý của HTND được chú trọng...
1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10
a) Chế định Thẩm phán
Tại Điều 128 Hiến pháp năm 1992 và Điều 3 Luật Tổ chức TAND
năm 1992 đã quy định chế độ bổ nhiệm thay thế chế độ chế độ bầu cử Thẩm
phán. Tất cả các Thẩm phán TAND đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
43
nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Thẩm phán tòa án các cấp là 5 năm. Riêng
Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Nhiệm kỳ
của Chánh án TANDTC theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 16 của Luật Tổ chức TAND thì
việc quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ của Chánh án TANDTC. Cụ thể hóa quy
định này, ngày 29/09/1993 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số
46/UBTVQH ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và
Chánh án TANDTC, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý TAND địa
phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực.
Trên cơ sở nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án TANDTC đã
ban hành Quy chế số 91/TP-TA ngày 19/01/1994 về sự phối hợp giữa Giám
đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trong việc quản lý TAND cấp huyện về mặt tổ chức.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra
Quyết định số 141/QĐ-QLTA-THA ngày 21/03/1994 phân cấp cho Giám đốc
Sở Tư pháp quản lý về tổ chức các TAND cấp huyện và Quyết định số
142/QĐ-QLTA ngày 21/03/1994 ủy quyền cho Chánh án TAND cấp tỉnh
quản lý một số công việc về mặt tổ chức đối với TAND cấp tỉnh.
Nền tư pháp nước ta bước sang một trang mới với sự hiện diện của Nghị
quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, một văn bản
pháp luật quan trọng được ban hành đó là Pháp lệnh Thẩm phán và HTND.
Pháp lệnh này đã quy định các tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán.
Qua thực tiễn thi hành Luật Tổ chức TAND năm 1992 đến năm 2002
cho thấy, nhiều quy định trong Luật cần được nghiên cứu, sửa đổi để tạo cơ
sở pháp lý cho việc hoàn thiện tổ chức hệ thống TAND, nhằm đảm bảo cho
TAND thực hiện tốt chức năng của mình. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
44
cũng đã định ra những hướng lớn về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống TAND. Ngày 02/04/2002 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa X đã thông
qua Luật Tổ chức TAND năm 2002. Việc ban hành đạo Luật này là một bước
cải cách tư pháp lớn đối với ngành TAND. Đó là việc thay đổi việc quản lý
các TAND địa phương và các Tòa án quân sự về tổ chức từ Bộ trưởng Bộ Tư
pháp có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án tối cao quản lý có sự phối
hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. So với
Luật Tổ chức TAND năm 1992, trong Luật Tổ chức TAND năm 2002 đã quy
định bổ sung về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán; quy định về
mối quan hệ giữa Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức và công dân. Khi thực
hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình, Thẩm phán có quyền liên hệ với cơ
quan Nhà nước, Ủy ban Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân và công dân.
Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002, tuy chế độ bổ
nhiệm thẩm phán vẫn được duy trì và được thực hiện đối với Tòa án các cấp,
song vai trò của thẩm phán và đặc biệt của Chánh án TANDTC được tăng
cường mạnh mẽ. Các tiêu chuẩn đối với thẩm phán được quy định với những
yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn.
b) Chế định Hội thẩm nhân dân
Các quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND năm 1992
và Pháp lệnh về Thẩm phán, HTND năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho tổ chức, hoạt động của Tòa án và Hội thẩm. Riêng đối với chức danh
HTND, các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002 (được ban hành trên
cơ sở Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày 25/12/2001)
đã tạo ra bước ngoặt đáng kể.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND là văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp luật cao, quy định khá đầy đủ về chế định HTND như việc bầu, cử
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAYLuận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự tại Tp Hà Nội
Luận văn: Giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự tại Tp Hà NộiLuận văn: Giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự tại Tp Hà Nội
Luận văn: Giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự tại Tp Hà Nội
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 

Similar to Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án

VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ... VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...OnTimeVitThu
 

Similar to Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án (20)

Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Tiểu luận trung cấp chính trị nâng cao chất lượng xét xử của toà ...
 Tiểu luận trung cấp chính trị nâng cao chất lượng xét xử của toà ... Tiểu luận trung cấp chính trị nâng cao chất lượng xét xử của toà ...
Tiểu luận trung cấp chính trị nâng cao chất lượng xét xử của toà ...
 
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ... VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAYĐề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAYChất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HUỆ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ - (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HUỆ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ - (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Bïi ThÞ HuÖ
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 9 1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự 9 1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự 9 1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự 16 1.2. Ảnh hưởng của một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự đối với vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tòa án địa phương 19 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội 19 1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử 22 1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số 26 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy định về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 27 1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959) 28 1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992) 33 1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10 36
  • 5. 5 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẦM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 39 2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương 39 2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai trò của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương 53 2.3. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh 60 2.3.1. Thực trạng xét xử các vụ án hình sự và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2014 60 2.3.2. Những nguyên nhân của thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự 76 Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 80 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 80 3.1.1. Những bất cập trong chế định Thẩm phán 80 3.1.2. Một số điểm hạn chế trong chế định Hội thẩm nhân dân 83 3.2. Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 90 3.2.1. Thẩm phán 90
  • 6. 6 3.2.2. Hội thẩm nhân dân 95 3.3. Những giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 98 3.3.1. Thẩm phán 98 3.3.2. Hội thẩm nhân dân 109 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một sô nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp. Theo đó, việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung cũng như nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Tòa án là cơ quan duy nhất được pháp luật trao cho quyền năng xét xử. Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND). Theo đó, Thẩm phán và HTND giữ vai trò quan trọng trong xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Chính vì vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và HTND cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, đội ngũ Thẩm phán và HTND của TAND
  • 9. 9 địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung. Bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, vai trò của Thẩm phán và sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế như theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị thì: Công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bị lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp; và cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Nằm trong hệ thống của Ngành TAND trên cả nước, Ngành TAND tỉnh Quảng Ninh được tổ chức và hoạt động thống nhất theo hai cấp là TAND cấp tỉnh và các TAND cấp huyện, thực hiện chức năng xét xử trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không ngừng được bổ sung về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án cũng như bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vai trò trong xét xử các vụ án nói chung cũng như xét xử các vụ án hình sự nói riêng của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử của Tòa án. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu thực trạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách
  • 10. 10 tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận văn thạc sĩ luật học. Do đó, tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn thạc sĩ luật học học nhằm góp phần thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự của Tòa án trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, Ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng tăng cường quản lý và nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Có thể nói, Thẩm phán và HTND là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngành TAND nói riêng. Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của Thẩm phán và HTND trong hoạt động tố tụng hình sự và là một mắt xích không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh khác nhau và phương diện khác nhau về đề tài cải cách tư pháp và nâng cao vai trò trong xét xử của đội ngũ Thẩm phán và HTND. Cho đến thời điểm này, ở nước ngoài chưa có công trình chuyên khảo nào đề cập đến việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực của đề tài. Ở Việt Nam, từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp, nước ta đã có một số các công trình nghiên cứu về đề tài cải cách tư pháp và năng lực của đội ngũ Thẩm phán. Tiêu biểu có thể kể đến như sau: Ở cấp độ đề tài cấp nhà nước có công trình khoa học Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, mã số 92-98-353, do ông Nguyễn Văn Yểu làm
  • 11. 11 chủ nhiệm đề tài năm 1993. Tiếp đó là đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-2005): "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư pháp chủ trì, được nghiệm thu năm 2007. Đề tài khoa học cấp Bộ: "Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" do nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Sản làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những kiến nghị về cơ chế tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài: Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Lê Thành Dương, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Bên cạnh đó, về sách chuyên khảo, bình luận thì có các công trình khoa học sau: Thông tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, Người Thẩm phán nhân dân, 2002; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Chuyên đề cải cách tư pháp; GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, 2002; GS.TSKH. Lê Văn Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005.
  • 12. 12 Vào tháng 7 năm 2009 với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã cho ra mắt cuốn "Sổ tay Thẩm phán". Có thể nói, cuốn Sổ tay Thẩm phán sẽ đóng góp cho quá trình hình thành nên một hệ thống cơ quan tư pháp hiệu quả, công bằng và minh bạch; góp phần tăng cường năng lực thể chế của hệ thống tòa án nói chung cũng như năng lực xét xử của đội ngũ Thẩm phán nói riêng thông qua việc nâng cao tính chuyên nghiệp của Thẩm phán khi thực hiện các hoạt động tư pháp của mình. Sổ tay Thẩm phán cũng đóng góp cho quá trình nâng cao tính độc lập của Ngành Tòa án Việt Nam, trong đó có tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán. Đặc biệt, ngày 09 tháng 07 năm 2010, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan vai trò của Thẩm phán và HTND được công bố trên các tạp chí khác nhau như: Tạp chí TAND, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp... Nhìn chung, các nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá về vai trò của đội ngũ Thẩm phán trong đó có vai trò trong xét xử các vụ án hình sự, đồng thời đưa ra các khuyến nghị để nâng cao. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo khoa học đã được công bố ở Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là kể từ khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cho thấy hầu hết các công trình đó là những công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, còn về vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm thì chưa được khoa học pháp lý Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về Thẩm phán và Hội thẩm, Ngành TAND mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai trò của đội ngũ này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về Thẩm phán và HTND trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án
  • 13. 13 một cách chung chung mà chưa được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn trong một công trình khoa học độc lập. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao vai trò Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. - Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự; đồng thời đánh giá đúng thực tiễn thực hiện, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. - Đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương trong xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử tại các TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử các vụ án hình sự tại TAND địa phương.
  • 14. 14 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong vòng 5 năm (từ năm 2009 đến năm 2014). 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về vai trò của Thẩm phán và HTND, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự. - Nghiên cứu và đánh giá làm sáng tỏ bức tranh thực tiễn về vai trò xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian 5 năm gần đây (từ năm 2009 đến năm 2014); chỉ
  • 15. 15 ra những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế đó. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao vai trò của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự một khách khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương và thực tiễn thực hiện. Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng.
  • 16. 16 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự a) Khái niệm Thẩm phán Theo quy định tại khoản 1, Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [19]. Theo đó, Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, "bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [19]. Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua Thẩm phán và HTND. Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Dưới chế độ Chiếm hữu nô lệ, Nhà vua là người đại diện cho pháp luật, đồng thời có quyền xét xử. Khi mà quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập nhau, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách biệt của Tòa án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ chuyên làm nhiệm vụ xét xử - Thẩm phán ra đời. Cho tới ngày nay, Thẩm phán đã tham gia xét xử vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội. Hiện nay, một hệ thống các văn bản pháp luật, Từ điển Luật học đã làm sáng tỏ được rất nhiều về khái niệm Thẩm phán.
  • 17. 17 Theo từ điển Luật học và khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 đã xác định Thẩm phán là: "Người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án" [45]. Như vậy, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án, nhân danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử. Thẩm phán phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn có năng lực làm công tác xét xử và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao (Khoản 1, Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002; sửa đổi, bổ sung năm 2011). Cũng theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh này thì Thẩm phán TAND gồm có: - Thẩm phán TANDTC; - Thẩm phán TAND cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Thẩm phán TAND cấp huyện bao gồm Thẩm phán TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến thức trên mọi lĩnh vực, bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Vậy hoạt động xét xử là nghề nghiệp của Thẩm phán có một số đặc điểm, đặc trưng sau: Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật. Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực
  • 18. 18 tế, không định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tư vấn tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ án. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án của mình. Thứ hai: Hoạt động xét xử là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng thực tế. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén tại phiên tòa, giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng. Để không bị cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh tinh thần của người Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng. Chính vì thế hoạt động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của HTND chính là sự giám sát ở bên trong phiên tòa. Khi xét xử HTND ngang quyền với Thẩm phán, cùng Thẩm phán đưa ra quyết định đúng pháp luật. Thứ ba: Hoạt động này đòi hỏi một con người toàn diện, bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không những là đặc thù nghề nghiệp Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể
  • 19. 19 có kiến thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. Người Thẩm phán phải bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý. Thứ tư: Hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu tình đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là điều dễ hiểu. Việc quy định như vậy tránh sự tùy tiện lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niêm Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với tư cách là người được giao thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, Thẩm phán có vị trí rất quan trọng và có vai trò không thể thay thế trong việc thực hiện một trong những quyền lực nhà nước, đó là quyền tư pháp. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, với chủ trương xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ và nghiêm minh thì việc củng cố và tăng cường vai trò, địa vị pháp lý của Thẩm phán gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn tổ chức của tòa án là yêu cầu cơ bản và quan trọng hàng đầu hiện nay.
  • 20. 20 b) Vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự Các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử. Vì vậy, thông qua hoạt động xét xử Thẩm phán góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh sự, nhân phẩm và các lợi ích chính đáng của công dân. Có thể nói, hoạt động của Thẩm phán là một trong các yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động của tòa án nói riêng cũng như các cơ quan tư pháp nói chung; ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội hay vô tội; giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính… nó liên quan trực tiếp đến lợi ích, thậm chí đến số phận và phẩm giá con người. Và để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp lý hợp tình, xét xử đúng người, đúng tội thì đòi hỏi người Thẩm phán phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng. Hơn nữa, Thẩm phán còn phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Chính vì thế, hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội đúng pháp luật. Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng và là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa án. Với tư cách là người đại diện cho quyền lực của Nhà nước trong việc thực thi quyền lực công lý, Thẩm phán là người hướng dẫn cho các bên đương sự
  • 21. 21 trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại tòa án theo quy định của pháp luật. Thẩm phán là người điều khiển, dẫn dắt quá trình tố tụng tại tòa án diễn ra trật tự, tuần tự theo quy định của pháp luật tố tụng, đi đúng vào trọng tâm và giải quyết các vấn đề còn mâu thuẫn của vụ kiện. Thực hiện vai trò của người điều khiển phiên tòa, Thẩm phán phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án. Thông qua kết quả xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán đánh giá nội dung thực chất của vụ án, xem xét các chứng cứ, các lý lẽ, lập luận của mỗi bên, căn cứ theo các quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết đúng đắn. Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà pháp luật quy định đối với chủ tọa phiên tòa, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm chính về những vấn đề mà pháp luật quy định đối với Hội đồng xét xử (HĐXX), thay mặt cho HĐXX công bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án. Bên cạnh đó, Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Thông qua hoạt động xét xử, Thẩm phán giúp cho những người tham gia tố tụng, những người tham dự tại phiên tòa hiểu rõ các quy định của pháp luật, qua đó giúp họ hình thành ý thức pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; củng cố lòng tin vào pháp luật, phát huy tác dụng của công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trong xã hội. Vai trò của người Thẩm phán thể hiện tập trung trong quan hệ với Tòa án, những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng. * Vai trò của người Thẩm phán trong quan hệ với Tòa án, những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng Thẩm phán và Tòa án có mối liên hệ qua lại, gắn bó mật thiết với nhau. Mối quan hệ này thể hiện rõ nhất là Thẩm phán Tòa án cấp dưới quan
  • 22. 22 hệ với Tòa án cấp trên theo thủ tục tố tụng quy định. Mối quan hệ này hoàn toàn độc lập với nhau. Tòa án cấp dưới không chịu sự điều hành của Tòa án cấp trên. Tòa án cấp trên chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án cấp dưới. Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án không thể không nói tới mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án. Thẩm phán cũng là công chức nên lãnh đạo được coi là cấp trên của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới là quan hệ lệ thuộc và nhạy cảm [14, tr. 3]. Pháp luật quy định Thẩm phán làm việc theo sự phân công của Chánh án là Thủ trưởng cơ quan nơi Thẩm phán làm việc. Trong HĐXX, Hội thẩm tham gia với tư cách đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình xét xử. Trong khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Cả HTND và Thẩm phán phải cùng nhau xem xét tính đúng đắn của vụ án. Chính vì vậy, pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu cần thiết cho HTND về cả trình độ và kinh nghiệm. Để Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ, Thư ký phiên tòa với tư cách là cán bộ Tòa án tham gia vào phiên xét xử tiến hành lập biên bản tại phiên tòa. Trước khi bắt đầu phiên tòa Thư ký kiểm tra danh sách người được triệu tập tới Tòa. Trách nhiệm của Thư ký là giúp việc cho Thẩm phán. Trong một vụ án, Điều tra viên là người đầu tiên tiến hành các hoạt động nghiệp vụ điều tra các tình tiết có liên quan tới vụ án. Khi được phân công Điều tra viên chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra của mình, kết quả đó được đưa tới Viện kiểm sát tiến hành truy tố. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát sẽ được đọc tại phiên Tòa. Như vậy, Thẩm phán xét xử phải dựa trên kết quả điều tra của Điều tra viên và bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát. Thẩm phán lập hồ sơ xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Xét mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tham gia tố tụng thì Thẩm phán giữ vị trí trung tâm theo đó Thẩm phán không thiên vị đối với bất
  • 23. 23 kỳ ai, đối xử bình đẳng với họ, tạo điều kiện cho họ được thực hiện các quyền công dân của mình. Thẩm phán phải nắm chắc nguyên tắc một người chỉ được coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. * Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử Hoạt động của TAND rất phong phú, đa dạng bao gồm các hoạt động như giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trình dự án luật nhưng hoạt động xét xử là một chức năng đặc thù của Tòa án, thể hiện tính quyền lực nhà nước. Đồng thời xét xử là chức năng chuyên biệt của Thẩm phán, là nghề Thẩm phán. Thẩm phán là người được pháp luật trao cho thẩm quyền thay mặt Tòa án thực hiện quyền lực tư pháp thông qua hoạt động xét xử [22, tr. 1]. Thông qua các hoạt động xét xử, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc bảo vệ trị an xã hội, trừng trị nghiêm khắc kịp thời và hiệu quả mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Thẩm phán là người cầm cân nảy mực, minh oan và bảo vệ chính nghĩa, qua hoạt động xét cử còn thể hiện uy tín của người Thẩm phán và chất lượng hoạt động của Tòa. Để thực hiện tốt chức năng xét xử này, pháp luật quy định các quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho Thẩm phán TAND. 1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự a) Khái niệm Hội thẩm nhân dân Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, nguyên tắc đại diện của nhân dân tham gia xét xử đã trở thành nguyên tắc hiến định. Kể từ đó, quyền của nhân dân tham gia xét xử luôn được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm [19, Điều 103] Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), HTND được xác định là:
  • 24. 24 " Người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án" [46]. Hội thẩm phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao [45, Điều 5, khoản 2]. HTND ở nước ta gồm có: - Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh [45, Điều 2, khoản 2]. Có thể nói, bản chất của việc ghi nhận sự tham gia của Hội thẩm vào quá trình xét xử của TAND là sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc", góp phần đảm bảo nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Qua thực tế tham gia xét xử ở các TAND, các Hội thẩm nhân dân đã đóng góp một phần quan trọng trong việc giúp Tòa án đưa ra các phán quyết đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân. b) Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự Việc tham gia xét xử của HTND là một yêu cầu khách quan của nền tư pháp và chế định Hội thẩm là một yếu tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính thực thi đối với các phán quyết của Tòa án nhằm bảo đảm công lý. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức TAND năm 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã quy định cụ thể hóa vai trò của HTND. Thứ nhất, Hội thẩm là những người do nhân dân cử hoặc bầu ra thông qua việc tham gia vào quá trình xét xử mà thực hiện quyền tư pháp do nhân
  • 25. 25 dân giao phó, giúp nhân dân quản lý có hiệu quả lĩnh vực tư pháp. Cũng chính vì HTND do nhân dân cử hoặc bầu ra nên vị trí của Hội thẩm tương đối độc lập trong quá trình tham gia xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Thứ hai, ở nước ta pháp luật là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Chế định Hội thẩm không chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử mà còn giúp nhân dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp luật và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Trong công tác xét xử, muốn việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân thì các thành viên trong HĐXX không chỉ là người có trình độ cao về mặt pháp luật mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội sâu sắc. Vì vậy, việc quy định chế độ xét xử có HTND tham gia là hết sức quan trọng. Hội thẩm với tư cách là những người có trình độ, có uy tín được cộng đồng dân cư tín nhiệm bầu ra. Trong quá trình tham gia xét xử, HTND sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; họ sẽ đưa ra tiếng nói từ phía xã hội, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ, Hội thẩm là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Chính vì thế, Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh cũng như nguyên nhân của các vụ án. Mặt khác, thực tế cuộc sống luôn vận động và thay đổi, pháp luật không phải lúc nào cũng theo kịp cuộc sống. Xuất phát từ việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận xã hội, HTND có vai trò trong việc đưa pháp luật tới gần với thực tiễn. Hay nói cách khác, sự tham gia xét xử của HTND làm cho các bản án, quyết định của Tòa án mang tính "chính trị" hơn. Trong một số trường hợp, HTND còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội… Các kiến thức sinh động đó sẽ có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán, giúp cho quá trình xét xử đúng đắn và hiệu quả. Nói như vậy không có nghĩa
  • 26. 26 là Hội thẩm không cần quan tâm đến pháp luật. HTND có thể không phải là những chuyên gia pháp lý, có kiến thức pháp luật chuyên sâu như Thẩm phán, nhưng họ cũng cần phải nắm vững các kiến thức cơ bản về pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật cũng như sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân. Thứ ba, vai trò của HTND trong xét xử vụ án nói chung cũng như vụ án hình sự nói riêng là góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân. Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với nhân dân; qua đó nhân dân hiểu và thông cảm với Tòa án. Bên cạnh đó, sự tham gia xét xử của HTND, Tòa án sẽ nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể nhận được sự đồng tình của nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng, thậm chí là sự phản ứng gay gắt của dư luận. Như vậy, HTND có vai trò giúp công tác xét xử của Tòa án góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân; đồng thời cũng chịu sự giám sát của nhân dân. Thứ tư, HTND có vai trò giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Là người trực tiếp tham gia quá trình xét xử vụ án, Hội thẩm sẽ là người giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả xét xử; phân tích rõ các cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án đó. Từ đó góp phần quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật và hòa giải của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc, sinh sống. 1.2. ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN ĐỊA PHƢƠNG 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự tạo nên nền tảng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh
  • 27. 27 theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [19] và tại Điều 10 của BLTTHS năm 2003: "Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [18]. Nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện ở các nội dung sau: - Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan, tổ chức và được thực hiện thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trong trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày HĐXX tuyên án. Một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội [18, Điều 10]. Theo đó, nguyên tắc này đảm bảo cho việc phòng chống tội
  • 28. 28 phạm đạt hiệu quả tốt và mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện và xử lý trước pháp luật, cụ thể: + Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án (đại diện là thẩm phán và HTND) phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ các chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong quá trình tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong đó có Thẩm phán và HTND không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. + Mọi tình tiết được thu thập trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn thực hiện tốt đòi hỏi những người tiến hành tố tụng (đội ngũ Thẩm phán và HTND) phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật, có tư duy pháp lý, có kỹ năng và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lý. + Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo không bị buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị cáo có tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong quá trình điều tra, xét xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can, bị cáo kết hợp với những chứng cứ khác, cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay vô tội. - Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt
  • 29. 29 giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Mục đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải thực hiện theo hướng "Thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội". Như vậy, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà người trực tiếp quyết định bản án kết tội này chính là HĐXX mà đại diện là Thẩm phán và HTND. Từ nguyên tắc này, ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của Thẩm phán và HTND trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng trong việc đưa ra phán quyết đúng đắn để xác định một người có tội hay không có tội, để từ đó truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó. 1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 17 BLTTHS năm 2003, theo đó: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Đây là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được hiểu là: Thẩm phán và HTND chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật, căn cứ vào các chứng cứ hợp pháp để xét xử và tuyên bản án trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa một cách dân chủ, công khai, khách quan. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử.
  • 30. 30 Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm là tổng hợp các phương tiện, biện pháp về xã hội, về pháp luật, về kinh tế, về tổ chức nhằm hạn chế và ngăn chặn những tác động vào hoạt động xét xử. Sự độc lập đó được xem là sự độc lập trên thực tế đối với các yếu tố bên ngoài và những yếu tố chủ quan của Hội thẩm và Thẩm phán trong thực hiện nhiệm vụ xét xử. Sự độc lập của Hội thẩm ở đây trước hết phải đặt trong sự thực hiện nguyên tắc này của cả Thẩm phán chuyên nghiệp. Cả Thẩm phán và Hội thẩm đều phải thực hiện nguyên tắc này mà không có ngoại lệ. Đối với Hội thẩm thì khi giải quyết các vụ án, không một cơ quan, tổ chức hay người có chức vụ hoặc cá nhân nào có quyền can thiệp vào việc xét xử, ra lệnh cho Hội thẩm phải xét xử theo yêu cầu của họ. Không thể có một ý kiến áp đặt nào dưới danh nghĩa "hợp tình, hợp lý" để tác động đến Hội thẩm. Không một yêu cầu hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh hưởng đến việc Hội thẩm và Thẩm phán áp dụng đúng pháp luật theo đúng nội dung và tinh thần của điều luật đối với các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc, Thẩm phán không được áp đặt ý kiến đó với Hội thẩm khi xét xử. Như vậy, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng mà Hội thẩm phải thực hiện cùng lúc: độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật để được độc lập. Pháp luật cũng đã quy định những đảm bảo về mặt tố tụng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Hội thẩm đó là: - Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. - Khi đánh giá chứng cứ, quyết định tội danh và hình phạt, Hội thẩm căn cứ vào các quy định của pháp luật và ý thức pháp luật XHCN. - Hội thẩm tự mình đề nghị không tham gia xét xử hoặc bị thay đổi khi có căn cứ cho rằng họ không vô tư và khách quan. - Việc nghị án được tiến hành bí mật và Hội thẩm được quyền có ý kiến bảo lưu khi nghị án.
  • 31. 31 - Nếu có các vi phạm pháp luật nghiêm trọng từ phía Hội thẩm như cố ý ra bản án, quyết định trái pháp luật, cố ý làm sai lệch vụ án thì Hội thẩm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các Điều 295 về Tội ra bản án trái pháp luật; Điều 296 - Tội ra quyết định trái pháp luật; Điều 300 - Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Bộ luật hình sự năm 1999). Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định, cốt lõi của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực nhà nước [14, tr. 5]. Việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ có hiệu quả khi hội tụ đầy đủ các yếu tố: bản lĩnh bảo vệ công lý, kinh nghiệm xã hội, kiến thức pháp lý. Trong xét xử một vụ án hình sự, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo là có tội hay không có tội thông qua hoạt động xét xử. Khi xét xử vụ án hình sự ở cấp quận, huyện, HĐXX căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào quy định của pháp luật để xác định tội phạm cũng như hình phạt với người phạm tội. Thẩm phán và Hội thẩm không được để cho bất cứ ai, vì bất cứ lý do gì chi phối mà xử lý vụ án không đúng pháp luật. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, HĐXX phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khi xét xử, Thẩm phán và HTND không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất ký ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của HĐXX để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Moi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều bị coi là bấy hợp pháp. HĐXX không bị tác động chi phối của bất kỳ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chỉ có các thành viên HĐXX cùng với kết quả điều tra tại phiên tòa mới có quyền quyết
  • 32. 32 định những vấn đề liên quan của vụ án. Từng thành viên HĐXX xét bằng khả năng và niềm tin nội tâm của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của HĐXX được lấy theo ý kiến đa số của thành viên. Như vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của HĐXX có quyền độc lập suy nghĩ, đánh giá sự việc trên cơ sở pháp luật, không phụ thuộc vào bất cứ một định kiến nào, không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác. Từ quyết định độc lập của từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể HĐXX. Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử. Hiện nay, Tòa án cấp trên chỉ đạo Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc độc lập khi xét xử, cần tách bạch rõ từng mối quan hệ trên. Sự hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết định trước là Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án như thế nào mà Tòa án cấp trên chỉ hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử. Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Tòa án cấp dưới mà ở đây là Tòa án cấp huyện độc lập với Tòa án cấp trên là Tòa án cấp tỉnh; Tòa án cấp tỉnh chỉ có hướng dẫn về đường lối xét xử nói chung. Thẩm phán Tòa án cấp huyện cũng độc lập với Thẩm phán và Tòa án cấp tỉnh. Mặt khác, khi Tòa án cấp tỉnh xét xử theo thủ tục phúc thẩm bản án của Tòa án cấp huyện để xét xử lại, thì khi xét xử lại, Tòa án cấp huyện vẫn độc lập trong phán quyết của mình. Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm bao gồm cả sự độc lập với nhau giữa các thành viên của HĐXX trong việc xem xét kiểm tra, đánh giá chứng cứ và quyết định những vấn đề liên quan. Các thành viên HĐXX độc lập trong việc xem xét, đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ án tại phiên Tòa cũng như khi nghị án, từng thành viên được độc lập đưa ra quan điểm của mình, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra
  • 33. 33 quyết định của mình mà không phụ thuộc vào các thành viên khác. Thẩm phán không có quyền áp đặt ý kiến của mình với Hội thẩm và ngược lại Hội thẩm cũng không được áp đặt ý kiến với Thẩm phán. Thẩm phán và HTND phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Khi nghị án, HTND biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Có thể thấy, thông qua nguyên tắc độc lập khi xét xử, quyền độc lập của Tòa án được ghi nhận và thực hiện, mà trong đó Thẩm phán và HTND là người được trực tiếp độc lập khi thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm. Xét xử tập thể là đòi hỏi của nền tư pháp dân chủ và thực tiễn xã hội tiến bộ. HĐXX biểu quyết theo đa số. Quyết định được đưa ra là căn cứ trên kết quả thảo luận của tập thể HĐXX, chứ không phải là ý kiến của một cá nhân nào. Các thành viên HĐXX xem xét đánh giá về từng vấn đề, rồi biểu quyết lấy ý kiến đa số về quyết định hình phạt, về trách nhiệm dân sự... Tuy việc xét xử là tập thể, nhưng vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là quan trọng nhất. Thẩm phán giữ vai trò chủ động trong việc xét xử. Tính chủ động của Thẩm phán thể hiện trong việc điều khiển phiên tòa và trong việc nghị án. Thẩm phán có thể phân tích, giải thích pháp luật, phân tích, đánh giá về chứng cứ để cho các Hội thẩm tham khảo rồi biểu quyết theo đa số. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ, công bằng trong xét xử. Mặc dù Thẩm phán có vị trí và vai trò quan trọng, nhưng mọi quyết định của Thẩm phán cần phải được kiểm tra, chế ước bởi nguyên tắc xét xử tập thể. Khi thực hiện chức năng xét xử, Thẩm phán không phải được trao quyền lực tuyệt đối, mà mọi vấn đề đều được xem xét và quyết định bởi tập thể HĐXX.
  • 34. 34 "Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán" - Đây là một nguyên tắc được Hiến pháp quy định, thể hiện mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử trên bình diện quyền năng của mỗi người. Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Việc xét xử ở các cấp Tòa án đều được thực hiện theo chế độ hội đồng (Hội đồng xét xử) chứ không phải do cá nhân Thẩm phán hay Hội thẩm nào. Chế độ "hội đồng" bảo đảm mọi quyết định của Tòa án đều được thông qua theo nguyên tắc đa số, các thành viên ngang quyền với nhau. 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ QUY ĐỊNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 Các chức danh tư pháp của Tòa án Việt Nam (từ năm 1945 đến nay) tuy có những thay đổi nhất định theo tiến trình phát triển của nền Tư pháp Việt Nam, song chủ yếu vẫn bao gồm ba nhân vật là: Thẩm phán, Hội thẩm và thư ký Tòa án. Bức tranh khái quát về lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy định về vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội Thẩm ở Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 được khắc họa bởi ba giai đoạn tiêu biểu của lịch sử Tư pháp Việt Nam. Giai đoạn thứ nhất, được xem là giai đoạn nền móng. Giai đoạn này được đánh dấu bằng Sắc lệnh số 13SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán. Giai đoạn thứ hai, được đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức TAND năm 1960 với chế độ bầu cử thầm phán được áp dụng ở các cấp Tòa án. Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn được khắc họa bởi sự ra đời của bản Hiến pháp thứ tư - Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và HTND năm 1993. Giai đoạn này được tách thành hai thời kỳ: thời kỳ trước và thời kỳ sau Nghị quyết số 51/2001/QH10.
  • 35. 35 Trong giới hạn phạm vi luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu về quy định của pháp luật tố tụng hình sự quy định vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm TAND ở địa phương. 1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959) a) Chế định thẩm phán Cách mạng tháng Tám thành công, bộ máy chế độ thực dân phong kiến bị xóa bỏ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ năm 1945, nền tư pháp mới với hệ thống các cơ quan tư pháp mới của chính quyền nhân dân bắt đầu được thiết lập và xây dựng, trong đó và trước hết phải nói đến là Tòa án và các chủ thể thực hiện công việc xét xử của Tòa án mà hạt nhân là các thẩm phán. Chỉ sau 11 ngày sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh ngày 13/09/1945 thiết lập trên toàn Việt Nam hệ thống Tòa án quân sự và Sắc lệnh số 13SL vào ngày 24/01/1946. Có thể nói, Sắc lệnh 13SL là sắc lệnh đầu tiên trong việc tổ chức nền Tư pháp nước ta và được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc hiến định của Hiến pháp năm 1946 như: nguyên tắc Tòa án biệt lập đối với hành chính, nguyên tắc thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm, nguyên tắc xét xử các việc hình có các phụ thẩm nhân dân (nay gọi là HTND) tham gia và nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Sắc lệnh số 13/SL quy định ngạch Thẩm phán trong cơ quan Tòa án được chia làm hai loại: Thẩm phán buộc tội và Thẩm phán xét xử, hai bộ phận Thẩm phán này độc lập với nhau trong khi làm nhiệm vụ. Thẩm phán Tòa đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm do Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm phán Tòa sơ cấp do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Ngoài ra, Sắc lệnh còn quy định về tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ và chế độ của Thẩm phán. Cũng theo quy định tại Sắc lệnh số 13/SL, tuy Tòa án được tổ chức thành ba cấp (sơ cấp, đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm), nhưng thẩm phán chỉ quy định có hai ngạch: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp
  • 36. 36 làm việc ở Tòa án sơ cấp và chỉ làm công việc xét xử. Tại phiên tòa sơ cấp, thẩm phán chỉ xét xử một mình, nghĩa là không có thẩm phán buộc tội và cũng không có luật sư bào chữa. Ở ngạch sơ cấp, thẩm phán chỉ có một chức vị là thẩm phán xét xử và được xếp thành năm hạng cao thấp khác nhau, trong đó hạng năm là thấp nhất gồm các thẩm phán tập sự và ngoại hạng là cao nhất, hạng này được giữ chức Chánh Tòa sơ cấp ở các thành phố lớn. Về thẩm quyền, nghĩa vụ và nhiệm vụ của thẩm phán: Ở cả hai cấp (sơ cấp và đệ nhị cấp) các thẩm phán đều được áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm và chung thẩm đối với các vụ án hình sự. Cơ sở đề quy định sơ thẩm hay chung thẩm ở Tòa án sơ cấp hay đệ nhị cấp đối với án hình sự là mức hình phạt. Xét xử không chỉ là quyền năng mà còn là nghĩa vụ của thẩm phán. Ở Tòa án sơ cấp, thẩm phán sơ cấp phải kiêm thêm nhiệm vụ cảnh sát tư pháp trong địa bàn của mình và chịu sự chỉ đạo của thẩm phán giữ quyền công tố (ông biện lý). Khi làm nhiệm vụ của cánh sát tư pháp, thẩm phán sơ cấp phải thi hành những mệnh lệnh của ông biện lý, các Tòa án khác ủy thác và phải làm nhiệm vụ điều tra về mặt hình sự khi có việc tiểu hình hay đại hình xảy ra trong địa hạt mình, đồng thời phải báo cáo ông biện lý Tòa án tỉnh. b) Chế định Hội thẩm nhân dân Đầu năm 1946, Văn bản pháp luật đầu tiên quy định việc tổ chức các cơ quan tư pháp là Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán (ban hành ngày 24-1-1946). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Phụ thẩm (Hội thẩm) cũng như việc tuyển cử, tham gia của Phụ thẩm vào việc xét xử của TAND. Theo Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946, các Tòa án xử việc hình, ngoài các Thẩm phán còn có 2 vị Phụ thẩm nhân dân. Tòa sơ cấp khi xét xử gồm có Thẩm phán, một Lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc mà không có Phụ thẩm. Tòa án đệ nhị cấp: Khi xét xử các việc tiểu hình (những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm) hay phạt bạc trên 9 đồng (tiền lúc đó) thì ngoài
  • 37. 37 Chánh án (chủ tọa) còn có hai vị Phụ thẩm. Chánh án chỉ hỏi Phụ thẩm về tội trạng và hình phạt, rồi tự mình quyết định (vấn đề thủ tục tạm tha hay liên quan đến dân sự, thương sự thì Chánh án không phải hỏi Phụ thẩm). Khi xét xử việc đại hình thì HĐXX gồm có Chánh án, hai Thẩm phán làm Phụ thẩm chuyên môn và hai Phụ thẩm nhân dân. Khi nghị án có Chánh án, 2 Thẩm phán và 2 Phụ thẩm nhân dân cùng nghị xử. Tòa thượng thẩm khi xét xử phúc thẩm các việc tiểu hình và đại hình, ngoài ông Chánh án, 2 Hội thẩm (chuyên môn) còn có 2 Phụ thẩm nhân dân cùng nghị án (trừ các vấn đề liên quan đến thủ tục, tạm tha, đòi bồi thường về dân sự, thương sự do Chánh án tự quyết định). Tại Sắc lệnh 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các tòa án có sửa về thẩm quyền và tên gọi các Tòa án. Hệ thống Tòa án gồm: Tòa án huyện; Tòa án tỉnh, thành phố; Tòa án phúc thẩm khu, hoặc Tòa án liên khu (nếu có điều kiện thành lập). Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta (ngày 9/11/1946) đã chính thức ghi nhận: "Trong khi xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình". Bước vào những năm 50, với đà phát triển của chế độ dân chủ nhân dân, nền tư pháp đã có những cải cách lớn để thực sự trở thành nền tư pháp nhân dân. Cái mốc lớn của cuộc cải cách này là việc ban hành Sắc lệnh số 85 ngày 22-5-1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Sắc lệnh số 85 đã sửa đổi một cách cơ bản Sắc lệnh số 13 nói trên. Sau đó Sắc lệnh số 151 ngày 17/11/1950 (đặt thể lệ chỉ định các HTND và định thành phần TAND liên khu trong trường hợp đặc biệt); Sắc lệnh số 156 ngày 22/11/1950 (tổ chức TAND liên khu), Sắc lệnh số 12 ngày 30/3/1957 và Thông tư số 2 P/4 ngày 5/2/1952 của Bộ Tư pháp (sửa đổi bộ phận chế định HTND) đã sửa đổi bổ sung, chi tiết hơn về chế định HTND tham gia xét xử. Theo các Sắc lệnh nói trên, Phụ thẩm nhân dân được đổi là HTND, số lượng HTND được tăng lên, quyền hạn và nghĩa vụ được mở rộng, đặc biệt là
  • 38. 38 HTND tham gia xét xử cả việc hình sự và dân sự, được tham gia quyết định về mọi vấn đề trong xét xử vụ án (xem hồ sơ, biểu quyết về tội trạng và hình phạt...). Khi xử án, TAND huyện và TAND tỉnh gồm 1 Thẩm phán và 2 HTND. TAND phúc thẩm khu hoặc thành phố gồm 2 Thẩm phán và 3 HTND. Hội thẩm và Thẩm phán phải cộng tác chặt chẽ với nhau, cùng chịu trách nhiệm trước Chính phủ và nhân dân về hoạt động của Tòa án. Mặc dù mỗi người có trách nhiệm riêng phụ thuộc nhiệm vụ và kỷ luật riêng tùy theo tính chất của họ là cán bộ dân cử (Hội thẩm) hay công chức nhà nước (Thẩm phán). Nhiệm vụ quan trọng của HTND là xét xử và tuyên truyền giáo dục pháp luật, thể hiện nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân. Bởi thế họ phải là sợi dây liên lạc giữa Tòa án và nhân dân. Pháp luật quy định rõ những việc Hội thẩm phải làm (xử án, hòa giải, điều tra, giáo dục trong nhân dân; những việc nên làm (giáo dục phạm nhân, kiểm tra huấn luyện) và những việc không nên làm (những việc thuộc về hành chính, kỹ thuật chuyên môn). Nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án và nguyên tắc quyết định theo đa số được thể hiện ngay từ Sắc lệnh 13/SL, thời kỳ này tiếp tục được cụ thể hóa. Theo các Thông tư số 2 P/4 ngày 5-2-1952 của Bộ Tư pháp; Thông tư 512HC, Thông tư số 1671/HCTP ngày 11-9-1956 của liên bộ Nội vụ - Tư pháp; Thông tư số 248 P/4 ngày 25-8-1950 của Bộ Tư pháp; Thông tư số 289 ngày 4-10-1950 của Bộ Tư pháp, vai trò của HTND được thể hiện: - Sau khi lập danh sách HTND, các TAND tỉnh, thành phố triệu tập cuộc họp các HTND để phổ biến nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, trao đổi về lịch công tác. TAND tạo điều kiện phổ biến văn bản, tài liệu tư pháp và bồi dưỡng thường xuyên cho HTND. Các cuộc họp tổng kết nửa năm, hàng năm của Tòa án đều mời HTND. - Đối với mỗi phiên tòa, trừ trường hợp thật đặc biệt, nói chung Tòa án phải báo cho HTND 7 ngày trước khi mở phiên tòa. HTND phải đến Tòa án trước phiên tòa ít nhất 1 ngày, cần thiết Tòa án có thể yêu cầu HTND điều tra thêm trước khi ngồi tòa.
  • 39. 39 - Trong HĐXX, HTND và Thẩm phán làm việc có thảo luận và cùng quyết định, phân công theo trách nhiệm. Chánh án và HTND phân công điều khiển phiên tòa và thuyết trình. Hội thẩm có quyền hỏi đương sự, bị can, những người làm chứng. - Hội thẩm nhân dân còn là một thành viên của Hội đồng tư pháp (một hình thức phối hợp hai ngành xử án và công tố), họp mỗi tháng một lần hoặc bất thường, bàn về đường lối xét xử và kế hoạch tư pháp. Theo Sắc lệnh số 156 ngày 22-11-1950; Sắc lệnh số 151 ngày 17-11-1950 và Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tháng 9-1951; 9-1952 và Thông tư 138/ HCTP ngày 23-11-1957 của Bộ Tư pháp thì HTND được lựa chọn theo hai cách: bầu và chỉ định (cử). Như vậy, những năm 50, trong hoàn cảnh chưa ổn định lúc đó, bên cạnh chế độ bầu HTND còn có những trường hợp cử HTND để kịp thời đáp ứng yêu cầu xét xử của Tòa án. Vì có những nơi chưa có Hội đồng nhân dân hoặc chưa họp được Hội đồng nhân dân hoặc trong danh sách HTND thiếu một thành phần nào đó cần cho một vụ án cụ thể. Chế độ đãi ngộ với HTND rất được chú trọng, các văn bản hướng dẫn được sửa đổi liên tục cho phù hợp. Lương bổng của HTND hưởng như các Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính cấp tương đương. Tóm lại, trong giai đoạn đầu tiên (1945-1959) Nhà nước dân chủ nhân dân đã cố gắng từng bước củng cố chế độ nhân dân tham gia xét xử thông qua chế định HTND. Trong hoàn cảnh Nhà nước vừa được xây dựng, vừa tiến hành kháng chiến, đứng trước rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta vẫn cố gắng thực hiện những quy định của Hiến pháp và pháp luật về Hội thẩm Mặc dù còn sơ khai, nhưng Nhà nước ta đã đề ra được những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự hình thành và hoàn thiện chế định HTND. Điều này không chỉ đáp ứng đòi hỏi của công tác xét xử lúc đó, mà còn là nền móng và những kinh nghiệm tốt cho các giai đoạn tiếp sau này. Số lượng HTND ngày một
  • 40. 40 tăng, chú trọng năng lực xét xử và bồi dưỡng cho HTND, mặc dù thực hiện chế độ bầu Hội thẩm nhưng có lúc do yêu cầu thực tế xét xử, đã thực hiện chế độ cử HTND. Các nguyên tắc Tòa án độc lập xét xử, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, đặc biệt là nguyên tắc Hội thẩm ngang quyền Thẩm phán ngày càng được cụ thể hóa. Thời kỳ này Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối quản lý công tác HTND, đã có nhiều văn bản sát thực tế hướng dẫn: việc bầu, cử HTND; mối liên hệ giữa HTND, TAND và cơ quan tư pháp; chế độ đãi ngộ với HTND... 1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992) a) Chế định thẩm phán Bước cải cách lớn lao đầu tiên trong lịch sử Tư pháp Việt Nam được đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, thay thế Hiến pháp năm 1946. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã thông qua hai đạo luật về tổ chức TAND và Viện kiểm sát nhân dân làm thay đổi cơ bản về cơ cấu tổ chức các cơ quan xét xử Việt Nam và cơ cấu thẩm phán tòa án. Tổ chức cơ quan tòa án được chuyển từ chỗ theo cấp xét xử sang tổ chức theo lãnh thổ, mà trước hết, theo các đơn vị hành chính gồm: TANDTC, TAND ở các địa phương và các Tòa án quân sự. Không còn chế định hai ngạch thẩm phán (sơ cấp và đệ nhị cấp), chỉ có thẩm phán xét xử chứ không còn thẩm phán buộc tội. Bên cạnh đó, từ năm 1960 đến khi có Hiến pháp năm 1992, áp dụng chế độ thẩm phán bầu ở các Tòa án thay cho chế độ bổ nhiệm thẩm phán. Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở các cấp Tòa án, chế độ này có những ưu điểm là bảo đảm cho quần chúng nhân dân thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện hoạt động xét xử. Tuy nhiên chế độ bầu Thẩm phán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như: nặng về hình thức, nhiệm kỳ của Thẩm phán bằng với Hội đồng nhân dân, hoạt động xét xử của Tòa án chưa độc lập vì còn lệ thuộc vào vào chính quyền địa phương...
  • 41. 41 Ở giai đoạn này, thẩm quyền và nhiệm vụ của thẩm phán cũng có sự thay đổi đáng kể. Ở TAND huyện chỉ được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự. Thành phần HĐXX gồm một thẩm phán và hai HTND tham gia. Việc xét xử sơ thẩm do một thẩm phán tiến hành chỉ áp dụng với những vụ án nhỏ, đơn giản và không quan trọng. Ở cấp huyện, thẩm phán còn có nhiệm vụ hòa giải những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc hình nhỏ mà không phải mở phiên tòa. Ở TAND tỉnh và tương đương, thẩm phán được quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Trong giai đoạn hai của lịch sử tư pháp Việt Nam còn một lần cải cách nữa diễn ra bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 và một loạt đạo luật được thay đổi theo, trong đó có Luật Tổ chức TAND năm 1981 thay thế Luật Tổ chức TAND năm 1960. Theo các văn bản pháp luật mới này, những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND và thẩm phán nhân dân vẫn được duy trì như chế độ bầu cử thẩm phán được thực hiện ở TAND các cấp; việc xét xử ở TAND có HTND tham gia; khi xét xử, HTND và thẩm phán ngang quyền nhau, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thêm vào đó, các đạo luật mới ban hành cũng quy định bổ sung, chi tiết hơn và cụ thể hơn như về nhiệm kỳ của thẩm phán TAND các cấp, tiêu chuẩn để được bầu là thẩm phán, thẩm quyền của TAND các cấp… b) Chế định hội thẩm nhân dân Từ năm 1960 đến trước Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 ngày 25/12/2001, tuy Việt Nam có ba lần sửa đổi Hiến pháp, có ba bản Hiến pháp khác nhau và kèm theo sự hiện diện của Pháp lệnh về Thẩm phán và hội thẩm TAND; nhưng chế định HTND về cơ bản là ổn định, có chút ít thay đổi, bổ sung, song không tạo thành bước ngoặt. Sự ổn định đó thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây: - Việc xét xử ở các TAND có HTND tham gia theo quy định của pháp luật. - Khi xét xử, HTND ngang quyền với thẩm phán.
  • 42. 42 - Khi xét xử, thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. - Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra. - Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960 quy định hệ thống TAND có TAND khu vực tự trị (thuộc phạm trù các TAND địa phương). Thời kỳ đó, Việt Nam có hai khu vực tự trị là Việt Bắc và Tây Bắc. Tổ chức TAND khu vực tự trị sẽ do Hội đồng nhân dân khu vực tự trị quy định, tức là do điều lệ của Hội đồng nhân dân khu vực tự trị Việt Bắc và Tây Bắc quy định. Theo đó, sự tham gia của HTND vào công việc xét xử của Tòa án có sự khác với quy định chung. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ, trong trường hợp xét xử những vụ án mà đương sự hoặc bị cáo thuộc nhiều dân tộc khác nhau thì HĐXX gồm một thẩm phán và bốn HTND; khi xét xử phúc thẩm và khi cần thiết có thể thêm hai hoặc bốn HTND. Đến năm 1980, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND, trong hệ thống các TAND không còn TAND khu tự trị. Trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, chế định HTND vẫn được tiếp tục ghi nhận, song ở mức độ khác, mức độ kế thừa và phát triển. Điều này thể hiện ở những điều như HTND giờ đây nằm trong cơ cấu nhân sự của Tòa án các cấp; những quy định nhằm đảm bảo cho nguyên tắc: "Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán" được tăng cường; tiêu chuẩn HTND được quy định rõ ràng; nhiệm kỳ của HTND được kéo dài (đến 5 năm); kiến thức pháp lý của HTND được chú trọng... 1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10 a) Chế định Thẩm phán Tại Điều 128 Hiến pháp năm 1992 và Điều 3 Luật Tổ chức TAND năm 1992 đã quy định chế độ bổ nhiệm thay thế chế độ chế độ bầu cử Thẩm phán. Tất cả các Thẩm phán TAND đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
  • 43. 43 nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Thẩm phán tòa án các cấp là 5 năm. Riêng Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Nhiệm kỳ của Chánh án TANDTC theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 16 của Luật Tổ chức TAND thì việc quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ của Chánh án TANDTC. Cụ thể hóa quy định này, ngày 29/09/1993 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án TANDTC, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý TAND địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực. Trên cơ sở nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án TANDTC đã ban hành Quy chế số 91/TP-TA ngày 19/01/1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý TAND cấp huyện về mặt tổ chức. Trên cơ sở các văn bản pháp luật trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 141/QĐ-QLTA-THA ngày 21/03/1994 phân cấp cho Giám đốc Sở Tư pháp quản lý về tổ chức các TAND cấp huyện và Quyết định số 142/QĐ-QLTA ngày 21/03/1994 ủy quyền cho Chánh án TAND cấp tỉnh quản lý một số công việc về mặt tổ chức đối với TAND cấp tỉnh. Nền tư pháp nước ta bước sang một trang mới với sự hiện diện của Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, một văn bản pháp luật quan trọng được ban hành đó là Pháp lệnh Thẩm phán và HTND. Pháp lệnh này đã quy định các tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán. Qua thực tiễn thi hành Luật Tổ chức TAND năm 1992 đến năm 2002 cho thấy, nhiều quy định trong Luật cần được nghiên cứu, sửa đổi để tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện tổ chức hệ thống TAND, nhằm đảm bảo cho TAND thực hiện tốt chức năng của mình. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
  • 44. 44 cũng đã định ra những hướng lớn về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND. Ngày 02/04/2002 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Tổ chức TAND năm 2002. Việc ban hành đạo Luật này là một bước cải cách tư pháp lớn đối với ngành TAND. Đó là việc thay đổi việc quản lý các TAND địa phương và các Tòa án quân sự về tổ chức từ Bộ trưởng Bộ Tư pháp có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án tối cao quản lý có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. So với Luật Tổ chức TAND năm 1992, trong Luật Tổ chức TAND năm 2002 đã quy định bổ sung về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán; quy định về mối quan hệ giữa Thẩm phán với các cơ quan, tổ chức và công dân. Khi thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình, Thẩm phán có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước, Ủy ban Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002, tuy chế độ bổ nhiệm thẩm phán vẫn được duy trì và được thực hiện đối với Tòa án các cấp, song vai trò của thẩm phán và đặc biệt của Chánh án TANDTC được tăng cường mạnh mẽ. Các tiêu chuẩn đối với thẩm phán được quy định với những yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn. b) Chế định Hội thẩm nhân dân Các quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán, HTND năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của Tòa án và Hội thẩm. Riêng đối với chức danh HTND, các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002 (được ban hành trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày 25/12/2001) đã tạo ra bước ngoặt đáng kể. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp luật cao, quy định khá đầy đủ về chế định HTND như việc bầu, cử