SlideShare a Scribd company logo
1 of 175
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ NGỌC HÀ
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ NGỌC HÀ
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................8
1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ......................................................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước....................................................................13
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu...........................................................................27
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu....................................................30
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...............................................................................33
2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.........33
2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................33
2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...............................47
2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản
khác của tố tụng hình sự.........................................................................................53
2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................53
2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng
xét xử.........................................................................................................................55
2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức
năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự...............................................57
2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.....................57
2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự.................................61
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự ......................................................................................................................66
Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN.........................................................................................................................69
3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
...................................................................................................................................69
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam ...................................................................................................................69
iii
3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế
giới và kinh nghiệm cho Việt Nam...........................................................................90
3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự..................95
3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia bào chữa trong các
vụ án hình sự .............................................................................................................95
3.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố...........................................................................................105
3.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn
xét xử.......................................................................................................................113
3.2.4. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội ...................118
3.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự.......................................................................................122
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......131
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam..................................................................131
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam.................................................................................................................137
4.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự.............................................................................................................137
4.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự.............................................................................................................146
KẾT LUẬN............................................................................................................158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ .............................................................159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................160
PHỤ LỤC...............................................................................................................166
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV Điều tra viên
HĐXX Hội đồng xét xử
KSV Kiểm sát viên
NBC Người bào chữa
TA Tòa án
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
THTT Tiến hành tố tụng
TTHS Tố tụng hình sự
TAND Tòa án nhân dân
TGPL Trợ giúp pháp lý
VKS Viện kiểm sát
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VAHS Vụ án hình sự
v
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm............................95
Bảng 3.2: Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa trong quá trình
tham gia giải quyết vụ án ...............................................................................98
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan THTT từ
năm 2013 đến 2018 ........................................................................................98
Biểu đồ 3.2: Số luật sư trên toàn quốc từ năm 2013 đến 2018 .................................99
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các chức năng của tố tụng hình sự là một trong những vấn đề lý luận quan
trọng, cơ bản của tố tụng hình sự. Mặc dù còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về các
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự nhưng đa số các ý kiến đều thừa nhận có ba
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và
chức năng xét xử. Các chức năng này luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Việc tồn tại chức năng bào chữa
cùng với chức năng buộc tội, chức năng xét xử là nhu cầu tất yếu khách quan, xuất
phát từ mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng bào chữa trong
TTHS. Chức năng bào chữa là gì, nội dung của chức năng bào chữa bao gồm những
vấn đề gì, chức năng bào chữa có đồng nhất với hoạt động bào chữa của luật sư hay
không, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa có giống với chủ thể của quyền bào
chữa không… vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau.
Bào chữa trong tố tụng hình sự có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau như: bào chữa là một chức năng của tố tụng hình sự, bào chữa là một nguyên
tắc của tố tụng hình sự, bào chữa là quyền của người bị buộc tội, bào chữa là một
chế định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ là một chức năng của tố tụng
hình sự, chức năng bào chữa có phạm vi rộng hơn cả. Chức năng bào chữa có vai
trò và ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, chức năng bào chữa góp phần bảo
vệ công lý, xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Cùng với chức năng buộc tội và chức năng
xét xử, chức năng bào chữa tạo nên sự vận hành mang tính ổn định của hệ thống tố
tụng hình sự. Như vậy, nhìn từ góc độ lý luận, chức năng bào chữa có vai trò rất
quan trọng đối với công cuộc cải cách tư pháp, nhằm mục đích không ngừng phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 và
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như tăng
cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh việc
mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa và người bị buộc tội; bảo đảm tranh
tụng với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Ngày 30/3/2009,
2
Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số
33/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của luật sư. Đây là văn bản của Đảng chỉ đạo toàn diện, đầy đủ nhất cho việc phát
triển nghề luật sư. Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015 ra đời,
thay thế cho BLTTHS năm 2003. Các vấn đề có liên quan đến bào chữa trong tố
tụng hình sự đã được quy định thành chương riêng, đó là chương về bào chữa, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong đó, có sự ghi nhận các quy định
về người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, lựa chọn và chỉ định
người bào chữa, thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa và các hoạt động
tham gia tố tụng khác của người bào chữa như : việc đăng kí bào chữa, việc gặp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, thu thập chứng cứ, giao tài liệu,
đồ vật, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa… Tuy nhiên, một số quy định thể
hiện chức năng bào chữa trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn bất cập, hạn chế, vì
vậy cần tiếp tục hoàn thiện để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Như vậy, xét từ góc độ quy định pháp luật, việc
nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng
trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải
cách tư pháp nói riêng.
Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện các chức năng bào chữa, chức năng
buộc tội và chức năng xét xử chưa được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng
chồng chéo nhau, các chủ thể thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng
của mình. Bên cạnh đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa
ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn,
nhưng chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía người bào
chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định
của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào chữa chưa thực sự được cơ quan
tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hơn nữa, nhận thức của cơ quan bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa
chưa thực sự đúng đắn. Vị trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham
gia tố tụng, ngang hàng và bình đẳng với Kiểm sát viên. Cùng với các cơ quan tiến
hành tố tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan
của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư
pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi công dân.
3
Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những khía cạnh
khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết trong tạp chí chuyên
ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa học… Đó là các nội dung
liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, người bào
chữa, vai trò của người bào chữa, chức năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử
của tố tụng hình sự, chức năng buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ
tiến sỹ, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về
chức năng bào chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam ” là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu
dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật
và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án đưa ra những kiến
nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự.
Để thực hiện mục đích này, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau :
- Làm rõ vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong TTHS như : cơ sở quy
định chức năng bào chữa; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa;
hình thức thực hiện chức năng bào chữa…
- Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện quy định
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa và các giải pháp bảo
đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc
điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề tài là thực tiễn thực hiện chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và
làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu,
ví dụ điển hình trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự để đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào
chữa trong TTHS Việt Nam.
Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được nghiên cứu
trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời,
giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và giai đoạn BLTTHS năm
2015 có hiệu lực thi hành.
Các vấn đề thực tiễn về chức năng bào chữa chủ yếu nghiên cứu trong khoảng
10 năm trở lại đây (thời gian thực hiện BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015)
từ năm 2009 đến 2019, trong đó có sự so sánh về thực trạng thực hiện các quy định
về chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2003 và thực trạng thực hiện chức năng
bào chữa theo BLTTHS năm 2015.
Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua việc
nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi toàn quốc và
phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS trên cơ sở báo cáo
của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương như Bắc Giang, Bắc
Ninh... Luận án không nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện chức năng bào chữa
trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư pháp trong quân đội.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận án
được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Luật tố tụng hình sự kết hợp
tiếp cận đa ngành, liên ngành.
Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành
Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa
học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử, tiếp cận đa
ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh… Cụ thể :
Tiếp cận của chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự, Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật: phân tích, luận giải các vấn đề lý luận của người bào
chữa, người bị buộc tội như quyền và nghĩa vụ của họ, các hoạt động bào chữa của
các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chức năng của Nhà nước, chức năng của
5
pháp luật… Đặc biệt, việc tiếp cận chức năng bào chữa trong TTHS cần phải dựa
trên lý thuyết chức năng luận.
Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung của chức năng bào
chữa đặt trong một chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ và tác động qua lại giữa
chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử - ba chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự …
Tiếp cận đa ngành, liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã
hội nhân văn như xã hội học, luật học so sánh…
Tiếp cận lịch sử : Dưới góc độ lịch sử, chức năng bào chữa trong TTHS xuất
hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời của người bào chữa và hoạt động của người
bào chữa. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên cứu và
các nội dung liên quan đến chức năng bào chữa được phân tích, đánh giá trong từng
giai đoạn lịch sử khác nhau.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và
các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.Trên cơ sở
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm
và vi phạm pháp luật khác, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ
thể là: phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp…
Chương 1, tác giả luận án sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích tài
liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu về chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự Việt Nam, trên phương diện lý luận và thực tiễn. Sử dụng phương pháp so
sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong
nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó, đánh
giá và so sánh các công trình nghiên cứu nhằm xác định rõ những kết quả nghiên
cứu liên quan đến luận án, có sự kế thừa những kết quả này đồng thời xác định
những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ
cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển.
- Chương 2, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá và đưa ra
các khái niệm, đặc điểm, nội dung của chức năng bào chữa, cơ sở quy định chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Chương 3, sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những quy
định của pháp luật về chức năng bào chữa thể hiện trong từng giai đoạn lịch sử nhất
6
định như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, trong BLTTHS 1988, BLTTHS
2003 và BLTTHS 2015; phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của
người bào chữa, người bị buộc tội, bị can bị cáo; trên cơ sở đó rút ra bất cập, hạn
chế, thiếu sót trong qui định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Luận án cũng sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học khi lập bảng hỏi, tiến hành khảo sát một số
luật sư ở Hà Nội và địa phương.
- Chương 4, sử dụng phương pháp phân tích, dự báo nhằm đưa ra phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án đã đóng góp mới
về mặt khoa học như sau :
- Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan trọng của
chức năng bào chữa trong TTHS như: cách tiếp cận chức năng bào chữa dựa trên cơ
sở chức năng luận; cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS; khái niệm,
đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa trong TTHS; hình thức thực hiện chức
năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và
chức năng xét xử trong tố tụng hình sự… Đồng thời, luận án phân tích để luận giải
sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua từng thời kỳ
lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng bào chữa trong TTHS
Việt Nam.
- Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong
TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu định
tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận. Cụ thể: Làm rõ những
bất cập trong các quy định của pháp luật TTHS ảnh hưởng đến việc thực hiện chức
năng bào chữa trong TTHS; Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp
luật về chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội; Nêu và phân tích
được những khó khăn, bất cập mà chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gặp phải
trên thực tế… Luận án đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với một số luật
sư hành nghề trong vụ án hình sự trên thực tế để thấy được thực tiễn thực hiện một
số quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 có liên quan đến chức năng bào chữa
như: việc thực hiện một số quyền mới của luật sư, việc tạo điều kiện của các cơ
quan tiến hành tố tụng đối với luật sư trong quá trình bào chữa và bảo vệ quyền lợi
7
cho thân chủ ở giai đoạn trước khi ra phiên tòa (khởi tố, điều tra, truy tố, chuẩn bị
xét xử) và tại phiên tòa…
- Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật
và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế. Các giải pháp
này bao gồm các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, đặc biệt là pháp luật
TTHS về chức năng bào chữa và nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về
chức năng bào chữa trong TTHS như: giải pháp về con người, giải pháp về kinh tế,
chính trị, xã hội…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Cụ thể : Khái niệm, đặc điểm của
chức năng bào chữa trong TTHS, hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong
TTHS, mối quan hệ của chức năng bào chữa và chức năng buộc tội, chức năng xét
xử trong TTHS…
Luận án có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá
nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy
định của pháp luật. Đồng thời, luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt
động nghiên cứu và giảng dạy về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
chia thành bốn chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam
Chƣơng 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện
Chƣơng 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên cứu từ
nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham gia tố
tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng, thực hiện
các quy định pháp luật về chức năng bào chữa.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình sự là rất
cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là phương thức để
thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Theo bài viết “Major legal systems in
world today” (tạm dịch: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại)
của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press năm 1978 thì hệ thống pháp luật
của các quốc gia trên thế giới được phân thành 4 nhóm là: hệ thống pháp luật châu
âu lục địa, hệ thống thông luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và hệ
thống pháp luật dựa trên vấn đề tôn giáo và truyền thống pháp luật khác.
Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của tác giả Jean-
Phillipe Rivaud năm 2000 đã tập trung phân tích, so sánh các mô hình tố tụng hình
sự trên thế giới, đồng thời khẳng định các quyền cơ bản của người bị buộc tội như
quyền có người bào chữa, quyền im lặng, quyền được bào chữa miễn phí…
Cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch
tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999) đã phân tích đặc điểm
và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đặc biệt là so sánh mô
hình tố tụng kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng công bằng. Tất cả các truyền thống
pháp luật này đều có chung mục đích là phát hiện tội phạm, tìm ra sự thật khách quan
của vụ án nhưng mỗi truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác nhau, quan
trọng là cách thức nào tốt nhất để tìm ra sự thật của vụ án. Sự khác nhau của các mô
hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau của các chức năng tố tụng, trong đó có chức
năng bào chữa và những nội dung cơ bản của chức năng bào chữa.
Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác
giả James Claude và Joseph Daly (thông tin khoa học pháp lý tháng 10/1994) đã chỉ
ra sự giống nhau trong hệ thống pháp luật của 2 nước này, đó là mô hình tố tụng
thẩm vấn nhưng kết hợp yếu tố tranh tụng. Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức của cơ quan
tư pháp hình sự, quy định về các quyền bào chữa của người bị buộc tội.
9
Các công trình nghiên cứu về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình
sự có thể kể đến bài viết “The role of the defense attorney: not just an advocate”
(tạm dịch: vai trò của luật sư bào chữa: không chỉ là một người ủng hộ) của tác giả
Roberta K.flowers năm 2009 [100]. Bài viết khẳng định vai trò của Luật sư bào
chữa không chỉ là 1 người ủng hộ cho khách hàng của mình, mà còn là 1 thành viên
của liên đoàn luật sư, người bào chữa chuyên nghiệp, không chỉ đại diện cho khách
hàng mà còn là 1 cán bộ của hệ thống pháp luật, có trách nhiệm bảo vệ pháp lý, bảo
vệ công dân. Bài viết cũng chỉ ra 3 vai trò, biện pháp để chức năng bào chữa có hiệu
quả, đó là vai trò của luật sư bào chữa, vai trò của cán bộ tòa án và vai trò của bộ tư
pháp (ở các nước theo truyền thống án lệ thì cơ quan công tố thuộc nhánh quyền lực
hành pháp).
Bài viết “Basic principles on the role of lawyers” (tạm dịch: Những nguyên
tắc cơ bản về vai trò của luật sư) của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ
nội dung nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua
việc chỉ ra các quy định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính
phủ trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được
nhanh chóng tiếp cận với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân
tích rõ các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và
phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có
liên quan, thu thập chứng cứ….
Các công trình nghiên cứu về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đa
số đều khẳng định có 3 chức năng cơ bản tồn tại, đó là chức năng buộc tội, chức
năng gỡ tội (bào chữa) và chức năng xét xử. Bài viết “Rethinking the functions of
criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các chức năng của tố tụng hình sự) năm
2010 của tác giả Peter A Renella, nhà nghiên cứu luật tại đại học luật Boston đã đặt
ra câu hỏi: các chức năng nào phục vụ cho tố tụng hình sự? Sau khi phân tích đặc
điểm của các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, tác giả đã đồng ý với quan điểm
là tồn tại 3 chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự.
Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết “Defense
function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa Kỳ tại trang web
www.americanbar.org / american Justice section archive đã nêu lên các tiêu chuẩn
chung của người bào chữa và các chức năng của luật sư bào chữa. Theo đó, Luật sư
bào chữa là một thành phần thiết yếu của hệ thống tố tụng hình sự, bảo vệ công lý
và lẽ phải. Một tòa án thành lập đúng quy định để xét xử một vụ án hình sự phải
được xem như là một thực thể ba bên bao gồm các thẩm phán, công tố viên và luật
sư bào chữa cho bị cáo. Các tiêu chuẩn cũng như chức năng của luật sư bào chữa,
10
đó là: Luật sư bào chữa phải có lòng can đảm, sự tận tâm để tham gia giải quyết vụ
án một cách hiệu quả và chất lượng, thể hiện bằng việc hành động tuân theo các quy
định của pháp luật. Đồng thời, khi gặp các bất cập liên quan đến chính sách hình sự
và quy định của pháp luật, người bào chữa phải đề xuất ý kiến, tìm cách cải cách và
cải thiện hành chính tư pháp hình sự. Người bào chữa không có nhiệm vụ phải thực
hiện bất kỳ chỉ thị nào của bị cáo mà không đúng với quy định của pháp luật hoặc vi
phạm pháp luật. Người bào chữa không được xuyên tạc hoặc bóp méo sự thật, cung
cấp các chứng cứ, tài liệu sai sự thật cho Tòa án… Người bào chữa phải được
hướng dẫn và tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, những điều được làm
và không được làm khi hành nghề luật sư.
Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense
counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch: Chức năng của cảnh sát, công
tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả
Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison), một
giảng viên của trường đại học luật Wiseunsin, Modison đã khẳng định: Các chức
năng bào chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình
TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai đoạn
điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ và để bảo vệ
anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những người bảo vệ pháp
luật (người tiến hành tố tụng).
Bài viết “The emerging Role and Function of the Criminal defense
lawyer”(tạm dịch: Vai trò và chức năng của luật sư bào chữa) của tác giả Samuel
Dash (1969) tại trang web http:// scholar ship.law.urc.ed/nclr đã khẳng định vai trò
ngày càng to lớn của luật sư bào chữa. Trước đây, luật sư bào chữa bị kì thị và cô
lập với chính những người làm công tác bảo vệ pháp luật, vai trò của luật sư bào
chữa mờ nhạt và ít được nhắc tới. Song ngày nay, vai trò của luật sư bào chữa được
nhìn nhận đúng mực hơn, các quyền của luật sư bào chữa được bổ sung phù hợp với
chức năng bào chữa của họ.
Bài viết “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” của tác giả Xiong
Qiuhong, phó giáo sư-tiến sỹ của Viện luật, Viện khoa học xã hội Trung Quốc năm
2005 đã đưa ra những quan điểm của mình về luật sư bào chữa, quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn trước khi vụ án được đưa ra xét xử.
Theo đó, quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền đặc trưng, có tác dụng và
hiệu lực trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, thông qua các tài liệu và sự
kiện, tình tiết để bào chữa theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Thực chất,
người bị buộc tội có quyền bác bỏ cáo buộc hình sự từ phía những người tiến hành
11
tố tụng, có quyền trình bày ý kiến và đưa ra tình tiết nhằm chứng minh sự vô tội,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Luật sư bào chữa
tham gia vụ án dựa trên cơ sở có sự buộc tội và được người bị buộc tội mời bào
chữa hoặc các trường hợp khác do bào chữa chỉ định. Ở giai đoạn điều tra, các luật
sư có thể tư vấn pháp lý để người bị nghi thực hiện tội phạm nộp đơn hoặc khiếu
nại. Trong trường hợp nghi can bị bắt giữ, các luật sư tham gia bào chữa cho họ có
thể áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với nghi phạm. Luật sư bào chữa có thể gặp
người có thẩm quyền để hỏi về những căn cứ buộc tội đối với nghi can mà mình bảo
vệ. Ở giai đoạn truy tố, trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án từ cơ
quan điều tra, viện kiểm sát thông báo cho người bị buộc tội có thể ủy thác cho luật
sư bào chữa của mình.. Bài viết cũng khẳng định, điều tra tội phạm và bảo vệ nhân
quyền là hai mục đích của thủ tục tố tụng hình sự, trong đó có quyền bào chữa của
người bị buộc tội. Đồng thời, khẳng định sự độc lập, vai trò quan trọng của chức
năng bào chữa và nêu lên những hạn chế của chế định bào chữa trong BLTTHS
Trung Quốc.
Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, các bài viết về quyền
con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền có người bào chữa tương đối nhiều.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này chỉ dừng ở phạm vi pháp luật quốc gia. Bên
cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và chủ yếu mang tính mô
tả pháp luật tố tụng hình sự của các nước, trong đó tập trung nghiên cứu về quyền tự
bào chữa của người bị buộc tội và quyền được nhờ người khác bào chữa. Ở phạm vi
toàn cầu, quyền có người bào chữa được ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị (ICCPR), theo đó, một người bị cáo buộc về một hành vi
phạm tội sẽ có các quyền sau đây: Thứ nhất: quyền được có khoảng thời gian hợp
lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị việc bào chữa, có quyền trao đổi với người
bào chữa do mình lựa chọn; Thứ hai: có quyền được tự bào chữa hoặc thông qua
người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ ba: Trong trường hợp một người không có
người bào chữa, anh ta sẽ được cung cấp người bào chữa chỉ định. Ở phạm vi khu
vực, quyền có người bào chữa được ghi nhận trong các công ước về quyền con
người ở 3 khu vực, đó là Công ước Châu Âu, Công ước Châu Mỹ về quyền con
người và hiến chương Châu Phi về con người và quyền con người.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền con
người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như:
Bài viết “the guarantees for accused peorsons under Article 6 of the
European convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị
buộc tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos
12
stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó tập trung
phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào chữa của người bị
buộc tội.
Cuốn sách “Criminal process and human rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự
và vấn đề quyền con người) của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của
trường Đại học Luật tại Melbourne, Australia, năm 2001 về các quyền con người
nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh
quyền được tiếp cận người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa,
quyền được có người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như
người chưa thành niên hoặc người khuyết tật…
Bài viết “Human rights protections and China’s criminal proceduce law in
practice” (tạm dịch: Bảo vệ quyền con người và vấn đề thi hành trên thực tế trong
tố tụng hình sự Trung Quốc) của Các nhà khoa học trong tổ chức phi chính phủ về
nhân quyền ở Trung Quốc (nguồn trang web: hrichina@hrichina.org/ “Human
rights in china”. Bài viết có nội dung chính về vấn đề bảo vệ quyền con người trong
đó có quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực hiện quyền này trên thực tế của tố
tụng hình sự Trung Quốc. Tại Trung Quốc, luật sư là người bào chữa chủ yếu. Luật
luật sư ở Trung Quốc ra đời lần đầu tiên năm 1996, khẳng định luật sư có 2 chức
năng chính là: cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và tham gia tố tụng, bào chữa, đại
diện cho thân chủ. Luật sư có nghĩa vụ bảo vệ khách hàng, tư cách luật sư xuất hiện
khi có người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Cũng theo bài viết này, trong luật tố
tụng hình sự Trung Quốc, luật sư bảo vệ quyền của người bị buộc tội trên cơ sở
được trao một số quyền năng như: quyền thu thập chứng cứ, quyền được truy cập,
tiếp cận các tài liệu do bên công tố thu thập nhưng trên thực tế, việc tiếp cận này
khá khó khăn, vì vậy đã ảnh hưởng và làm suy yếu khả năng bào chữa của họ…
Cuốn sách “Criminal proceduce – law and practice” của tác giả Rolando V.del
carmen Trường Đại học bang Sam Houston, (in tại Printed in the United states of
American) có 15 chương, nội dung tập trung chủ yếu về nguồn gốc quy định các quyền
của người bị buộc tội, các nguyên tắc cơ bản theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kì,
tổng quan về quá trình tư pháp hình sự, các quyền cơ bản của bị cáo.
Cuốn “Brownlie’s document on the man right” (tạm dịch: tài liệu cơ bản về
quyền con người) của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin năm 2010 tập trung
phân tích các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào
chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội.
Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS.JamesB.Jacob,
Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề cập đến
13
việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng, trong đó có quyền bào
chữa. Sách “Toward an international criminal procedure” (tạm dịch: hướng tới
một thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với
nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, các
bảo đảm pháp lý cần thiết để người bào chữa trợ giúp người bị buộc tội thực hiện
quyền bào chữa của họ. Tác giả cuốn sách này đã phân tích, so sánh sự khác nhau
về thủ tục tố tụng hình sự của 2 hệ thống pháp luật là Anh-Mỹ và Châu Âu lục địa ở
các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau, nhưng ở giai đoạn nào cũng luôn đảm bảo
quyền được xét xử công bằng, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội.
Bài viết “Rights of the people: Individual freedom and bills of right” (tạm
dịch: các quyền của con người: Tự do cá nhân và Tuyên ngôn nhân quyền) năm
2010 của tác giả Melvin Urofski tập trung phân tích các quyền con người, trong đó
có quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự. Như vậy, nhóm các công trình, bài viết nêu trên về các vấn đề lý luận
của quyền con người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đã cung cấp cho nghiên
cứu sinh một khối lượng kiến thức nền tảng về quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự ở một số quốc gia trên thế giới.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tham khảo hữu ích đối
với nghiên cứu sinh để học hỏi,đưa ra giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm và hoàn
thiện pháp luật về chức năng bào chữa tại Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có chức năng bào
chữa. Các công trình này chủ yếu tập trung làm rõ 3 chức năng cơ bản của tố tụng
hình sự là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Bên cạnh
đó còn có các công trình khác liên quan đến những vấn đề lý luận về quyền con
người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vấn đề đảm bảo quyền bào chữa trên thực
tế, vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa… Những vấn đề lý luận đó giúp cho
nghiên cứu sinh có được cách tiếp cận đúng đắn về chức năng bào chữa, mối quan
hệ giữa chức năng bào chữa với các chức năng khác của Tố tụng hình sự.
1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự
Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận của luận
án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau được công bố.
14
* Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lý luận
về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Các chức năng của tố
tụng hình sự quyết định mô hình tố tụng hình sự, hay nói cách khác, mô hình tố
tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Có thể
kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC
chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam (năm 2010). Đề án này
nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của
một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi
hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam.
Bài viết “ Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp” của tác giả TS. Lê Hữu Thể - Phó Viện trưởng, VKSNDTC và ThS. Nguyễn
Thị Thủy - Trưởng phòng Viện Khoa học kiểm sát (Nguồn: http://www.nclp.org.vn)
nêu lên những đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, khẳng định dù áp
dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng luôn tồn tại ba chức năng cơ bản:
buộc tội, bào chữa và xét xử. Vai trò của các chủ thể được phân định theo các chức
năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với các chức
năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của
TTHS. Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình
TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn Thái Phúc trong báo cáo
Hội thảo tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2015 đã nêu lên quan điểm: các chức
năng cơ bản của tố tụng hình sự là những phương diện hoạt động tồn tại khách quan
trong tiến trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng
bào chữa và chức năng xét xử. Mối quan hệ qua lại giữa chúng cũng có tính khách
quan và tuân theo quy luật nhất định. Giải pháp trong việc hoàn thiện mô hình
TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước,
tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa.
Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa học “Các chức
năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”
(năm 2015) có nêu lên vấn đề về lý thuyết chức năng luận. Theo đó, cần nhận thức
các chức năng của tố tụng hình sự dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu
sắc hơn vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời khẳng định: các chức năng của tố tụng
hình sự cần được tiếp cận dựa trên lý thuyết chức năng luận.
Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ “Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng ( bào vệ tại Học viện
khoa học xã hội năm 2012) đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc
tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực
15
trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất
những giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Theo tác
giả thì chức năng bào chữa xuất phát từ quyền được bào chữa của người bị buộc tội
và do đó chức năng này phát sinh ngay sau khi có quyết định buộc tội của cơ quan
tiến hành tố tụng và hiện diện trong cả 3 giai đoạn tố tụng là điều tra, truy tố và xét
xử. Chức năng bào chữa có nội dung rộng hơn những quan niệm truyền thống hiện
nay cho rằng, đó chỉ là việc thực hiện của bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Mặc dù luận án cũng đã nêu lên một số vấn đề lý luận cơ bản về chức
năng bào chữa như khái niệm, nội dung và phạm vi của chức năng bào chữa, tuy
nhiên việc phân tích các nội dung này còn khá mờ nhạt, các vấn đề lý luận khác như
đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của chức năng bào chữa chưa được đề cập tới.
Năm 2015, Học viện Khoa học xã hội đã tổ chức buổi Hội thảo khoa học về
“Các chức năng của Tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay ”. Nội dung của Hội thảo tập trung làm rõ các vấn đề như : Cơ sở lý luận
và thực tiễn về các chức năng của TTHS (Lý thuyết chức năng, khái niệm, ý nghĩa,
vai trò của các chức năng tố tụng hình sự), các chức năng của tố tụng hình sự và
những vấn đề đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay… Năm 2016,
Học viện khoa học xã hội tiếp tục triển khai đề tài “Các chức năng của Tố tụng
hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (chủ nhiệm đề tài : TS. Đinh
Thị Mai). Đề tài nêu lên cơ sở lý luận về các chức năng của TTHS, mối quan hệ
giữa các chức năng của TTHS, phân loại các chức năng của TTHS, các chức năng
TTHS của một số nước trên thế giới và so sánh với Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài
cũng phân tích thực trạng quy định các chức năng của TTHS Việt Nam và thực
trạng thực hiện các quy định nêu trên, nêu lên vấn đề đổi mới nhận thức và hoàn
thiện các chức năng của TTHS Việt Nam hiện nay. Tài liệu và kết quả của Hội thảo,
đề tài nêu trên thực sự có giá trị, là công trình nghiên cứu tham khảo rất có ý nghĩa
với nghiên cứu sinh.
Cũng liên quan đến các chức năng của tố tụng hình sự còn có bài viết “Phân
định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử”
của tác giả Hà An (Nguồn: Báo điện tử Đại biểu nhân dân). Theo đó, để tăng cường
tranh tụng trong tố tụng hình sự theo chủ trương mà Đảng đã đề ra thì cần phải phân
định được rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự đó là buộc tội, bào
chữa và xét xử. Cần phải tạo được cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa, nâng cao
vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Một nguồn tham khảo tiếp
theo cho nghiên cứu sinh, đó là luận án tiến sỹ luật học “ Chức năng xét xử trong tố
16
tụng hình sự Việt Nam ” của tác giả Lê Tiến Châu (bảo vệ tại Viện Nhà nước và
Pháp luật năm 2008). Luận án có cách tiếp cận khoa học trong việc phân tích, làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng TTHS nói chung và chức năng xét xử
nói riêng; vị trí và vai trò của chức năng xét xử trong các mô hình, hình thức
TTHS ; những biểu hiện thể hiện nội dung của chức năng xét xử trong các quy định
của pháp luật. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với nghiên cứu sinh khi
học hỏi cách tiếp cận vấn đề, kết cấu luận án và những luận giải mang tính khoa
học; cách trình bày logic, mạch lạc trong quá trình phân tích nội dung luận án.
* Những công trình nghiên cứu về quyền con người trong mối quan hệ với
quyền bào chữa của người bị buộc tội : Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Quyền
con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học” do GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội năm 2010 (2 tập); cuốn sách “Cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người ” GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội,
2011); bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm, (Tạp chí TAND số 11,
13 và 14/2006); Luận văn thạc sỹ luật học“Quyền con người và vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hường (2007).
Nhóm các công trình này đã phân tích nội dung, khẳng định quyền con người là
quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi các nhà nước ra đời. Đồng thời khẳng định
quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Trong mối quan hệ tố tụng
giữa chủ thể buộc tội và người bị buộc tội, người bị buộc tội luôn yếu thế do đó nhà
nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự để họ có thể tự bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp của mình. Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại
Văn Trình (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011) đã
nêu lên một số vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Qua đó, khẳng định việc nghiên cứu bảo đảm
quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự; nhìn từ góc độ lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật đều có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư
pháp nói riêng ở nước ta. Bài viết “Pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga với
việc bảo vệ các quyền con người” của GS.TSKH Lê Cảm đăng trên tạp chí lập pháp
số 02 năm 2011 nêu lên việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
của liên bang Nga, việc bảo vệ quyền con người bằng các quy định chung của pháp
luật tố tụng hình sự liên bang Nga hay ở giai đoạn trước khi xét xử và trong khi xét
17
xử. Với sự tồn tại của mô hình TTHS hỗn hợp, thiên về yếu tố tranh tụng, nhà nước
pháp quyền dân chủ Liên bang Nga cho phép khẳng định tính nổi trội hơn cả của việc
bảo vệ thực sự (chứ không phải là hình thức) quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia
tố tụng hình sự, quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong lĩnh vực TTHS.
* Các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của các chức năng tố
tụng hình sự: Bài viết “Bàn về chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng
hình sự” năm 2003 của tác giả Hoàng Thị Sơn trên tạp chí luật học đã nêu lên một
số quan điểm về chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, từ đó
xây dựng khái niệm của các chức năng này. Bên cạnh đó, bài viết cũng đặt ra vấn
đề: chức năng bào chữa xuất hiện từ thời điểm nào? Từ khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự hay từ khi có quyết định khởi tố bị can? Phạm vi của chức năng bào chữa
ra sao? Có ý kiến cho rằng chức năng bào chữa xuất hiện từ khi vụ án hình sự được
khởi tố và nó đối lập với tất cả các biện pháp cưỡng chế về tố tụng chứ không phải
chỉ đối lập với việc buộc tội. Cũng có ý kiến cho rằng, chức năng bào chữa xuất
hiện sớm hơn. Theo quan điểm của tác giả bài viết thì chức năng bào chữa xuất hiện
từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trong Báo cáo tham luận của tác giả PGS.TS
Hoàng Thị Minh Sơn tại Hội thảo khoa học “ Các chức năng của tố tụng hình sự
trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”(năm 2015) khẳng định: việc
nghiên cứu bào chữa dưới góc độ chức năng tố tụng có phạm vi rộng hơn so với các
góc độ khác như: bào chữa là một nguyên tắc của TTHS, bào chữa là một chế định
tố tụng hay bào chữa là quyền của người bị buộc tội. Theo tác giả, chức năng bào
chữa là một dạng hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật quy định và bảo đảm
cho bên bị buộc tội có khả năng đưa ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội, làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cơ sở phát sinh quyền bào chữa là sự buộc
tội, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa và chức năng buộc tội là sự đối lập, phạm
vi của chức năng bào chữa được bắt đầu khi bị buộc tội và kết thúc khi bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, mục đích của chức năng bào chữa là
chống lại sự buộc tội và giảm nhẹ TNHS cho bên buộc tội. Luận văn thạc sỹ luật
học của tác giả Trần Hoài Lâm về “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ”
(năm 2006) cũng đã nêu lên khái niệm, nội dung của chức năng bào chữa. Theo đó,
nội dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào chữa,
hay nói cách khác, đó chính là địa vị pháp lý của chủ thể bào chữa gắn liền với các
bảo đảm quyền đó. Tham khảo những quan điểm khoa học trong bài viết nêu trên đã
giúp nghiên cứu sinh tiếp cận vấn đề một cách đúng đắn hơn.
* Các công trình nghiên cứu về tranh tụng cũng là nguồn tài liệu hữu ích có
liên quan đến cơ sở lý luận của luận án. Có thể kể đến luận án tiến sĩ “Nguyên tắc
18
tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Nguyễn Văn Hiển, năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu toàn diện
các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc
tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả
nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không cần thay
đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của chức năng
bào chữa và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Ngoài ra còn có bài viết “Một
số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí Khoa học
pháp lý số 1, năm 2003; bài viết “ Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc
cơ bản của luật TTHS ” của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm 2004;
bài viết“Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh
tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ
và Pháp luật số tháng 3/2010; bài viết “Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà
mở rộng tranh tụng” của TS. Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên để về tranh tụng năm 2003, luận văn thạc sỹ “Tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lưu Bình Dương năm
2004… Các công trình trên đã khẳng định hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình
sự là hoạt động của bên buộc tội và bên gỡ tội, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình để phản bác chứng cứ, lập luận của đối
phương nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm đề xuất của mình, góp phần
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa tham gia tranh tụng là
nhằm giúp cho việc xác định sự thật khách quan về vụ án, để bảo đảm cho phán
quyết của HĐXX chính xác, công minh. Các bài viết nêu trên cũng đưa ra một số
kiến nghị có liên quan đến nguyên tắc tranh tụng như: Phân định 3 chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự : buộc tội, bào chữa và xét xử; quy định các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện đúng chức năng của mình, không làm thay chức năng của cơ
quan khác; chức năng bào chữa thuộc về bị cáo và người bào chữa của họ; quy đinh
cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong tố tụng hình
sự, mở rộng quyền và tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào
chữa thực hiện các quyền chứng minh vô tội, giảm nhẹ hình phạt...
Như vậy, với các nhóm công trình nghiên cứu nêu trên có liên quan đến
những vấn đề lý luận của luận án đã giúp nghiên cứu sinh có cách tiếp cận đúng đắn
về cơ sở lý luận của chức năng bào chữa, từ đó xác định hướng kiến nghị hoàn thiện
pháp luật dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, sự
liên quan mật thiết giữa các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng
hình sự…
19
1.2.2. Nhóm các công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án
Dưới góc độ nghiên cứu bào chữa là một chức năng của TTHS, có thể kể đến
luận án thạc sỹ luật học “ Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ” của Trần
Hoàng Lâm (bảo vệ tại năm 2007). Trong luận văn này, tác giả phân tích lịch sử
phát triển của chức năng bào chữa và quy định của pháp luật về chức năng bào chữa
theo BLTTHS 2003, khẳng định chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, họ quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định
của pháp luật. Tác giả luận văn phân tích các quy định của pháp luật về chức năng
bào chữa theo từng giai đoạn cụ thể, đó là giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự. Từ đó, đưa ra các biện pháp đảm bảo chức năng bào chữa trong
TTHS Việt Nam, bao gồm nhóm biện pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
về chức năng bào chữa, nhóm biện pháp trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật
về chức năng bào chữa. Mặc dù tác giả của luận văn đã nêu lên một số nội dung về
chức năng bào chữa, quy định của pháp luật về chức năng bào chữa nhưng các vấn
đề này còn chung chung, khái quát, chưa toát lên được những đặc điểm nổi bật của
chức năng bào chữa, những luận giải trong luận văn còn ít và chưa thực sự thuyết
phục. Thực trạng của hoạt động bào chữa cũng được nghiên cứu khá lâu so với thời
điểm hiện tại. Một số biện pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức
năng bào chữa không còn hợp thời, nhất là khi BLTTHS 2015 ra đời, thay thế cho
BLTTHS 2003.
Những vấn đề liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa cũng được nghiên
cứu ở nhiều phạm vi và góc độ khác nhau, trong đó chủ yếu là các công trình
nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, việc thực hiện
quyền bào chữa trên thực tế, vai trò của người bào chữa…
* Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa:
Quyền bào chữa, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội được ghi
nhận từ rất sớm trong lịch sử TTHS Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Tuy
nhiên, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trên thực tế có nhiều bất cập và hạn
chế. Luận án tiến sỹ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong
TTHS ” của tác giả Hoàng Thị Sơn (bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2003) là
công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật viết về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo. Trong luận án tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về quyền bào
chữa, từ đó hình thành khái niệm về quyền bào chữa, nêu lên ý nghĩa của việc thực
hiện quyền bào chữa. Bên cạnh đó, tác giả nêu và phân tích hình thức thực hiện
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo; thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; từ những hạn chế
20
và bất cập trong việc thực hiện quyền bào chữa trên thực tế, tác giả đã đề xuất các
giải pháp có giá trị để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa. Luận án này là
một công trình nghiên cứu tham khảo hữu ích, một số luận giải mang tính khoa học
vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, luận án nghiên cứu các quy định về bào chữa
trong BLTTHS năm 1988, vì vậy có những vấn đề nghiên cứu đã quá cũ so với thời
điểm hiện nay, trong điều kiện hoàn cảnh BLTTHS 2015 ra đời và thay thế cho
BLTTHS 2003.
Cũng liên quan đến quyền bào chữa, năm 1999 PGS.TS Phạm Hồng Hải đã
viết sách chuyên khảo về“Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội”. Theo
cuốn sách này thì quyền bào chữa trong TTHS là tổng hòa các hành vi tố tụng do
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với
quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ quan điểm buộc tội
của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong vụ án hình
sự. Bào chữa tồn tại trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, ở đâu có buộc tội
thì ở đó có bào chữa. Nội dung của cuốn sách nêu lên các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự 2003 về quyền bào chữa của người bị buộc tội ; nghĩa vụ, trách nhiệm
của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án trong việc bảo đảm quyền bào chữa của
những đối tượng này.
Năm 2010, chương trình phát triển liên hiệp quốc đã công bố báo cáo về
quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam. Trong báo cáo
nêu rõ sự khái quát về tiêu chuẩn quốc tế về quyền bào chữa trong các vụ án hình
sự. Theo đó, quyền bào chữa trong khuôn khổ quốc tế bao gồm: quyền có đủ thời
gian để chuẩn bị cho phiên tòa, bao gồm cả việc tiếp xúc với người bào chữa; quyền
được thông tin bí mật với người bào chữa, quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp
lý, việc từ chối cung cấp người bào chữa trong thời gian ngắn, quyền bào chữa
trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử. Báo cáo cũng nêu lên nghiên cứu so sánh
về quyền bào chữa tại một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa liên
bang Đức, Australia ; khái quát pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa; so sánh
quyền bào chữa trong các vụ án hình sự giữa chuẩn mực quốc tế với pháp luật và
thực tiễn tại Việt Nam.
Luận án tiến sỹ luật học“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong TTHS” của tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch (bảo vệ tại trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014) cũng đã khẳng định tầm quan trọng
của quyền bào chữa nói chung và quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên nói riêng. Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về quyền
bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS Việt Nam, đánh
21
giá được vai trò của quyền bào chữa và xác định rõ những đặc điểm về nội dung,
hình thức thực hiện quyền bào chữa… Mặc dù những quy định trong BLTTHS
2003 đã phản ánh được tinh thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người
chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, thông qua việc phân tích thực tiễn thực hiện
quyền bào chữa đối với các trường hợp đặc thù này, cho thấy những quy định trong
BLTTHS 2003 đã phần nào ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật, thực hiện quyền
bào chữa trên thực tế; gây khó khăn và cản trở cho việc bào chữa, không đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo nói chung và người chưa thành
niên nói riêng. Các kiến nghị liên quan đến việc yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa
trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo đáp ứng hội nhập quốc tế…
Liên quan đến quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng, có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam” của
tác giả Lại Văn Trình (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm
2011). Luận án đã khái quát các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn
lịch sử nhất định như trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003; nêu lên các quy định về
địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng và ngườii bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đưa
ra các kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam.
Vấn đề đảm bảo quyền bào chữa có thể được quy định giống nhau hoặc khác
nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Luận án“Đảm bảo quyền có người bào chữa
của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ”
của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2011) có sự so sánh khá chi tiết về các quy định của pháp luật đối với
quyền bào chữa trong TTHS của Việt Nam, Đức và Pháp; những vướng mắc trong
pháp luật TTHS Việt Nam, Đức, Pháp về thực hiện và bảo đảm quyền có người bào
chữa. Từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về bảo
đảm quyền bào chữa, dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc từ hệ thống pháp luật
TTHS của Đức và Pháp về bảo đảm quyền bào chữa; đồng thời kiến nghị một số
biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng luật bảo đảm quyền có người bào
chữa ở Việt Nam. Những kiến nghị này chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề: mở rộng
hoạt động tranh tụng và ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản, quan
trọng của TTHS; nâng cao năng lực nhận thức của cơ quan THTT và người THTT ;
tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Bên cạnh đó, luận án cũng
22
đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho người bào chữa tham gia tố tụng như bổ sung thêm quyền của người bào
chữa, cơ chế tạo điều kiện và phối hợp giữa người bào chữa và người tiến hành tố
tụng…
Năm 2014, tác giả Đặng Trần Thanh Ngọc đã bảo vệ thành công luận án
“Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay” tại Học viện
khoa học xã hội. Luận án đã nêu lên bản chất của hoạt động thực hiện quyền bào
chữa trong TTHS, chủ thể thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, các yếu tố tác
động đến hiệu quả thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, phân tích thực tiễn thực
hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và của người bào chữa,
đưa ra những nguyên nhân, hạn chế, bất cập về việc thực hiện quyền bào chữa trong
TTHS, từ đó nêu lên quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền
bào chữa trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
* Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến người bào chữa
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bào chữa và người bị buộc
tội, bị can, bị cáo. Liên quan đến người bào chữa, đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Có thể kể đến sách chuyên khảo của Nguyễn
Văn Tuân về “Vai trò của luật sư trong TTHS” năm 2001. Nội dung cơ bản của
cuốn sách tập trung phân tích các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình
sự nói chung và vai trò của luật sư trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nói
riêng. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định tầm quan trọng của luật sư khi tham gia
giải quyết các vụ án hình sự. Vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét thông qua việc
thực hiện các quyền mà BLTTHS quy định…
Năm 2012, tác giả Phan Văn Hòa đã nghiên cứu và bảo vệ thành công luận
văn thạc sỹ luật học với đề tài “Người bào chữa trong TTHS Việt Nam”. Luận văn
đã khái quát về sự hình thành và phát triển chế định người bào chữa, chỉ ra những
đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển chế định người bào chữa
trong từng giai đoạn, đánh giá thực trạng áp dụng chế định người bào chữa, phân
tích làm rõ những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định này trong TTHS, nguyên
nhân của thực trạng đó. Theo quan điểm của tác giả thì luật sư là người bào chữa
chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đội ngũ luật sư vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất
lượng lại phân bổ không đồng đều ở các địa phương nên chẳng những làm hạn chế
sự lựa chọn của bị can, bị cáo mà trong nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số liệu thực tế cho thấy những
vụ án hình sự có luật sư tham gia bào chữa chiếm tỉ lệ rất thấp trên tổng số án hình
sự mà Tòa án đã đưa ra xét xử . Từ thực tế nêu trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị
23
hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về người bào chữa, mở rộng phạm vi những
người có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cả về phương diện
pháp lý lẫn thực tiễn.
Năm 2014, tác giả Nguyễn Văn Phương đã bảo vệ thành công luận văn thạc
sỹ luật học với đề tài “Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay”. Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ
luật học “Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam” năm 2015 của tác giả Lê Trung Sơn. Các luận văn này đều nêu lên khái niệm,
đặc điểm, vai trò, hoạt động của người bào chữa trong TTHS; khái quát quy định
của Pháp luật TTHS Việt Nam về người bào chữa ở các giai đoạn, thực trạng hoạt
động bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nêu lên nguyên
nhân của những hạn chế trong việc thực hiện hoạt động bào chữa và đưa ra các biện
pháp khắc phục, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của người bào
chữa trong TTHS, đặc biệt là nhấn mạnh và khẳng định vai trò của người bào chữa
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng như việc áp dụng chế định người
bào chữa trong giai đoạn này trên thực tế.
Cũng liên quan đến đề tài về bào chữa, năm 2015 tác giả Ngô Thị Ngọc Vân
đã bảo vệ thành công Luận án tiến sỹ luật học “Hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” tại Đại học Luật Hà Nội. Theo quan
điểm của tác giả thì hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự được tiến hành nhằm chống lại việc buộc tội, xác định sự vô tội của
người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ
án. Hoạt động bào chữa của Luật sư đã có đóng góp quan trọng góp phần xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thực hiện việc dân chủ hoá hoạt động tố tụng,
tăng cường tranh tụng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy
nhiên, hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế.
Đôi khi, luật sư gặp khó khăn từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình… Nguyên nhân của các bất
cập, hạn chế đó bao gồm nguyên nhân từ các quy định của pháp luật cũng như sự
nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động bào chữa của luật sư.
Luận án đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật
sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, các giải pháp về hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư.
Một số bài viết có liên quan đến vai trò của luật sư bào chữa có thể kể
đến“Vị trí của luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử” đăng trong Tạp chí luật học
24
số 5/2003 của PTS. TS. Phạm Hồng Hải. Bài viết phân tích vai trò của luật sư bào
chữa trong phiên tòa xét xử, việc thể hiện quyền bào chữa của những người bị buộc
tội trong TTHS; phân tích sự tham gia của luật sư với tư cách là người bào chữa tại
phiên tòa xét xử, phân tích các quyền cụ thể của luật sư theo quy định của BLTTHS
như: quyền đề nghị Tòa án quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, quyền quyết
định tạm đình chỉ vụ án, quyền thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn… Đồng
thời, bài viết cũng đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò của
luật sư trong phiên tòa xét xử, trong đó có những đề xuất, kiến nghị với Tòa án
trong việc tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền của mình; đề xuất, kiến nghị
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của luật sư trên thực tế trong quá trình xét
xử các vụ án hình sự.
Ngoài ra, còn một số bài viết khác chủ yếu nghiên cứu về lý luận như: Bài
viết“Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật
TTHS 2003”đăng trên Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004 của LS Phạm Hồng
Hải; bài viết “Người bào chữa trong TTHS” của tác giả Trần Văn Bảy, đăng trên
tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2001 ; bài viết “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của
người bào chữa với bị can, bị cáo trong TTHS” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí
Dân chủ và pháp luật, số 11/2008; bài viết “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người
bào chữa trong TTHS” của TS. Nguyễn Thái Phúc, tạp chí Kiểm sát, số Xuân
1/2009; bài viết “Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà hình sự” của tác
giả Nguyễn Ngọc Khanh, tạp chí Luật học, số 7/2008… Nhóm các bài viết này chủ
yếu đề cập đến quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò của người bào chữa ; phân
loại người bào chữa trong TTHS, sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong
TTHS…
* Nhóm các công trình liên quan đến thực trạng, giải pháp hoàn thiện
chức năng bào chữa
Trong các tạp chí chuyên ngành có khá nhiều bài viết có liên quan đến thực
trạng thực hiện quyền bào chữa trên thực tế và những biện pháp bảo đảm có hiệu
quả việc thực hiện quyền bào chữa. Có thể kể đến một số bài viết như: Bài viết
“Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng
trên tạp chí nhà nước và pháp luật của tác giả Hồ Sỹ Sơn năm 2000; Bài viết “Thực
trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo” đăng trên
Tạp chí Luật học, số 4/2002 của tác giả Hoàng Thị Sơn; Bài viết “Thực trạng hoạt
động của luật sư - Người bào chữa qua hơn một năm thì hành Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003”của PGS.TS Phạm Hồng Hải đăng trên Tạp chí kiểm sát số 24 (12-
2005). Các bài viết này chủ yếu nêu lên thực trạng của hoạt động bào chữa và
25
những đảm bảo có hiệu quả với việc thực hiện quyền bào chữa. Nguyên tắc đảm
bảo quyền bào chữa được ghi nhận ở quy định của luật TTHS như: người bào chữa
có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ của cơ quan điều tra đối với
một người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã; người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; quy định người bào chữa có
quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan tới việc bào chữa … Tuy nhiên,
trên thực tế thì việc thực hiện các quyền trên gặp khó khăn từ phía các cơ quan tiến
hành tố tụng. Vai trò của NBC còn hạn chế và nhiều khi chưa được một số cơ quan
có thẩm quyền thực sự tôn trọng… Các bài viết nêu trên cũng đưa ra một số kiến
nghị trên cơ sở phân tích thực trạng như: kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ban
hành Thông tư hoặc Thông tư liên ngành để giải thích, hướng dẫn thực hiện các quy
định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ tục và nội dung tham gia bào chữa của luật
sư trong trong các vụ án hình sự; đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận bào
chữa cho luật sư và thủ tục cho phép luật sư vào gặp bị can, bị cáo trong trại giam;
các ý kiến tranh luận tại phiên tòa của luật sư cần được đánh giá như ý kiến của
kiểm sát viên và phải được chấp nhận khi có căn cứ…
Năm 2012, TS. Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng VKSNDTC và Ths Lê Thị
Thủy, VKSNDTC có bài viết “Hoàn thiện chế định người bào chữa trong Bộ luật
TTHS năm 2003 đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp” công bố trong tài liệu Hội
thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa. Bài viết
phân tích về thực trạng chế định người bào chữa trong TTHS Việt Nam và đưa ra
những đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS như: Phân định rành
mạch các chức năng cơ bản của TTHS: buộc tội, bào chữa, xét xử; Bổ sung các cơ
chế để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định; Bổ sung một
số quyền của người bào chữa để thực hiện tốt chức năng tranh tụng: quyền thu thập
chứng cứ, quyền chất vấn, đối chất người làm chứng, người bị hại và người tham
gia tố tụng khác trong các giai đoạn tố tụng; Mở rộng diện các chủ thể thực hiện
chức năng bào chữa nhằm khắc phục tình trạng thiếu luật sư và hỗ trợ các bị can, bị
cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không có điều kiện nhờ luật sư bào chữa…
Trong báo cáo về thực trạng hành nghề luật sư trong hoạt động tố tụng hình
sự của Liên đoàn luật sư Việt Nam năm 2013 cũng đã nêu rõ những thuận lợi và
khó khăn của luật sư – NBC trong hoạt động tố tụng. Theo đó,thực trạng thi hành
các quy định trong BLTTHS về bảo đảm quyền bào chữa còn nhiều bất cập, vướng
mắc và khó khăn, hạn chế không chỉ ảnh hưởng đến việc bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền hành nghề của luật sư, mà
26
còn ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, khả năng tiếp cận
công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp… Những
vướng mắc, khó khăn, bất cập liên quan vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của luật sư
khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự xuất phát từ các nguyên nhân như:
quyền bào chữa gắn chặt với chức năng gỡ tội, có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với
các chức năng cơ bản khác của TTHS Việt Nam là chức năng buộc tội và chức năng
xét xử. Tuy nhiên, do mô hình TTHS Việt Nam về cơ bản vẫn là mô hình TTHS
thẩm vấn, chưa phân định rõ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của TTHS.
Trên thực tế, việc khởi tố, tiến hành điều tra và đề nghị truy tố vẫn thuộc phần chủ
động của CQĐT, vai trò của VKS có phần thụ động, Tòa án thay vì đóng vai trò là
trọng tài khách quan, lại đang trở thành một chủ thể buộc tội.
Trong tài liệu tại Hội thảo quốc tế về “Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của
luật sư bào chữa” năm 2012, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp, Phó chủ nhiệm Đoàn luật
sư thành phố Hà Nội đã công bố bài viết “Hoàn thiện các quy định của bộ luật
TTHS năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa của luật sư”. Bài viết phân tích cơ sở
pháp lý, căn cứ cần bảo đảm quyền bào chữa của luật sư. Bên cạnh đó, tác giả cũng
đã chỉ ra nguyên nhân, thực trạng của những hạn chế, cản trở quyền hành nghề của
luật sư như: Do nhận thức, quan điểm của những người tiến hành tố tụng và người bào
chữa;Tố tụng hình sự chưa được coi trọng đúng mức, những tài liệu, chứng cứ được
thu thập không đúng tố tụng vẫn được sử dụng; việc tham gia của người bào chữa từ
khi khởi tố vụ án còn hạn chế, chủ yếu có mặt để chứng kiến… Trên cơ sở phân tích
những tồn tại, hạn chế, bài viết đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp như: cần quán
triệt và thay đổi nhận thức về hoạt động, vai trò của người bào chữa; cần quy định
cụ thể trong Bộ luật TTHS về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia…
Trong đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư” của trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2013 cũng có những nội dung liên quan đến luận án. Nội dung của đề tài
nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa, xác định những bất cập của các quy định này dẫn đến việc chưa thực sự
bảo đảm hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư; nghiên cứu thực trạng hoạt động
bào chữa của luật sư, tìm hiểu những vướng mắc, hạn chế trong hoạt động bào chữa
của luật sư; từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể sửa đổi, bổ sung một số quy định
của pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư. Năm
2014, Học viện tư pháp đã thông qua đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao vị thế
và vai trò của luật sư trong tiến trình cải cách tư pháp”. Đề tài đã nêu lên vị thế và
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình PhướcLuận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 

Similar to Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (20)

Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAYNguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (Trên cơ s...
Vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (Trên cơ s...Vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (Trên cơ s...
Vai trò của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (Trên cơ s...
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAYLuận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 

Recently uploaded (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 

Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ NGỌC HÀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ NGỌC HÀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN Hà Nội - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN
  • 4. ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................8 1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ......................................................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước....................................................................13 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu...........................................................................27 1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu....................................................30 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ...............................................................................33 2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.........33 2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................33 2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...............................47 2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản khác của tố tụng hình sự.........................................................................................53 2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................53 2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử.........................................................................................................................55 2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự...............................................57 2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.....................57 2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự.................................61 2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ......................................................................................................................66 Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN.........................................................................................................................69 3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................................................................................................................69 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................................................69
  • 5. iii 3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam...........................................................................90 3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự..................95 3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự .............................................................................................................95 3.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố...........................................................................................105 3.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn xét xử.......................................................................................................................113 3.2.4. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội ...................118 3.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.......................................................................................122 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......131 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam..................................................................131 4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................................................................................................137 4.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.............................................................................................................137 4.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.............................................................................................................146 KẾT LUẬN............................................................................................................158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ .............................................................159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................160 PHỤ LỤC...............................................................................................................166
  • 6. iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên NBC Người bào chữa TA Tòa án TANDTC Tòa án nhân dân tối cao THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự TAND Tòa án nhân dân TGPL Trợ giúp pháp lý VKS Viện kiểm sát VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao VAHS Vụ án hình sự
  • 7. v DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Danh mục bảng Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm............................95 Bảng 3.2: Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa trong quá trình tham gia giải quyết vụ án ...............................................................................98 Danh mục biểu đồ Biểu đồ 3.1: Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan THTT từ năm 2013 đến 2018 ........................................................................................98 Biểu đồ 3.2: Số luật sư trên toàn quốc từ năm 2013 đến 2018 .................................99
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các chức năng của tố tụng hình sự là một trong những vấn đề lý luận quan trọng, cơ bản của tố tụng hình sự. Mặc dù còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự nhưng đa số các ý kiến đều thừa nhận có ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Việc tồn tại chức năng bào chữa cùng với chức năng buộc tội, chức năng xét xử là nhu cầu tất yếu khách quan, xuất phát từ mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng bào chữa trong TTHS. Chức năng bào chữa là gì, nội dung của chức năng bào chữa bao gồm những vấn đề gì, chức năng bào chữa có đồng nhất với hoạt động bào chữa của luật sư hay không, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa có giống với chủ thể của quyền bào chữa không… vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Bào chữa trong tố tụng hình sự có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: bào chữa là một chức năng của tố tụng hình sự, bào chữa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, bào chữa là quyền của người bị buộc tội, bào chữa là một chế định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ là một chức năng của tố tụng hình sự, chức năng bào chữa có phạm vi rộng hơn cả. Chức năng bào chữa có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, chức năng bào chữa góp phần bảo vệ công lý, xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Cùng với chức năng buộc tội và chức năng xét xử, chức năng bào chữa tạo nên sự vận hành mang tính ổn định của hệ thống tố tụng hình sự. Như vậy, nhìn từ góc độ lý luận, chức năng bào chữa có vai trò rất quan trọng đối với công cuộc cải cách tư pháp, nhằm mục đích không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh việc mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa và người bị buộc tội; bảo đảm tranh tụng với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Ngày 30/3/2009,
  • 9. 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 33/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Đây là văn bản của Đảng chỉ đạo toàn diện, đầy đủ nhất cho việc phát triển nghề luật sư. Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015 ra đời, thay thế cho BLTTHS năm 2003. Các vấn đề có liên quan đến bào chữa trong tố tụng hình sự đã được quy định thành chương riêng, đó là chương về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong đó, có sự ghi nhận các quy định về người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, lựa chọn và chỉ định người bào chữa, thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa và các hoạt động tham gia tố tụng khác của người bào chữa như : việc đăng kí bào chữa, việc gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, thu thập chứng cứ, giao tài liệu, đồ vật, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa… Tuy nhiên, một số quy định thể hiện chức năng bào chữa trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn bất cập, hạn chế, vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Như vậy, xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện các chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và chức năng xét xử chưa được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng chồng chéo nhau, các chủ thể thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng của mình. Bên cạnh đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn, nhưng chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía người bào chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào chữa chưa thực sự được cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, nhận thức của cơ quan bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa chưa thực sự đúng đắn. Vị trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng và bình đẳng với Kiểm sát viên. Cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi công dân.
  • 10. 3 Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những khía cạnh khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết trong tạp chí chuyên ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa học… Đó là các nội dung liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, người bào chữa, vai trò của người bào chữa, chức năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử của tố tụng hình sự, chức năng buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ tiến sỹ, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về chức năng bào chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ” là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Để thực hiện mục đích này, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau : - Làm rõ vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong TTHS như : cơ sở quy định chức năng bào chữa; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa; hình thức thực hiện chức năng bào chữa… - Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện quy định về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự - Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa và các giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề tài là thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu, ví dụ điển hình trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 11. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được nghiên cứu trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và giai đoạn BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Các vấn đề thực tiễn về chức năng bào chữa chủ yếu nghiên cứu trong khoảng 10 năm trở lại đây (thời gian thực hiện BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015) từ năm 2009 đến 2019, trong đó có sự so sánh về thực trạng thực hiện các quy định về chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2003 và thực trạng thực hiện chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2015. Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi toàn quốc và phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS trên cơ sở báo cáo của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương như Bắc Giang, Bắc Ninh... Luận án không nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện chức năng bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư pháp trong quân đội. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Luật tố tụng hình sự kết hợp tiếp cận đa ngành, liên ngành. Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử, tiếp cận đa ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh… Cụ thể : Tiếp cận của chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật: phân tích, luận giải các vấn đề lý luận của người bào chữa, người bị buộc tội như quyền và nghĩa vụ của họ, các hoạt động bào chữa của các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chức năng của Nhà nước, chức năng của
  • 12. 5 pháp luật… Đặc biệt, việc tiếp cận chức năng bào chữa trong TTHS cần phải dựa trên lý thuyết chức năng luận. Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung của chức năng bào chữa đặt trong một chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ và tác động qua lại giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử - ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự … Tiếp cận đa ngành, liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như xã hội học, luật học so sánh… Tiếp cận lịch sử : Dưới góc độ lịch sử, chức năng bào chữa trong TTHS xuất hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời của người bào chữa và hoạt động của người bào chữa. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên cứu và các nội dung liên quan đến chức năng bào chữa được phân tích, đánh giá trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.Trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là: phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp… Chương 1, tác giả luận án sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích tài liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, trên phương diện lý luận và thực tiễn. Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó, đánh giá và so sánh các công trình nghiên cứu nhằm xác định rõ những kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án, có sự kế thừa những kết quả này đồng thời xác định những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển. - Chương 2, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá và đưa ra các khái niệm, đặc điểm, nội dung của chức năng bào chữa, cơ sở quy định chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Chương 3, sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về chức năng bào chữa thể hiện trong từng giai đoạn lịch sử nhất
  • 13. 6 định như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015; phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội, bị can bị cáo; trên cơ sở đó rút ra bất cập, hạn chế, thiếu sót trong qui định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Luận án cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học khi lập bảng hỏi, tiến hành khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương. - Chương 4, sử dụng phương pháp phân tích, dự báo nhằm đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án đã đóng góp mới về mặt khoa học như sau : - Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan trọng của chức năng bào chữa trong TTHS như: cách tiếp cận chức năng bào chữa dựa trên cơ sở chức năng luận; cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa trong TTHS; hình thức thực hiện chức năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự… Đồng thời, luận án phân tích để luận giải sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua từng thời kỳ lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. - Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận. Cụ thể: Làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật TTHS ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS; Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội; Nêu và phân tích được những khó khăn, bất cập mà chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gặp phải trên thực tế… Luận án đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với một số luật sư hành nghề trong vụ án hình sự trên thực tế để thấy được thực tiễn thực hiện một số quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 có liên quan đến chức năng bào chữa như: việc thực hiện một số quyền mới của luật sư, việc tạo điều kiện của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với luật sư trong quá trình bào chữa và bảo vệ quyền lợi
  • 14. 7 cho thân chủ ở giai đoạn trước khi ra phiên tòa (khởi tố, điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử) và tại phiên tòa… - Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế. Các giải pháp này bao gồm các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, đặc biệt là pháp luật TTHS về chức năng bào chữa và nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS như: giải pháp về con người, giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội… 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Cụ thể : Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong TTHS, hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, mối quan hệ của chức năng bào chữa và chức năng buộc tội, chức năng xét xử trong TTHS… Luận án có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy định của pháp luật. Đồng thời, luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học và phòng ngừa tội phạm… 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia thành bốn chương: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam Chƣơng 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện Chƣơng 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
  • 15. 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham gia tố tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng, thực hiện các quy định pháp luật về chức năng bào chữa. Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình sự là rất cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Theo bài viết “Major legal systems in world today” (tạm dịch: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại) của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press năm 1978 thì hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới được phân thành 4 nhóm là: hệ thống pháp luật châu âu lục địa, hệ thống thông luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật dựa trên vấn đề tôn giáo và truyền thống pháp luật khác. Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của tác giả Jean- Phillipe Rivaud năm 2000 đã tập trung phân tích, so sánh các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới, đồng thời khẳng định các quyền cơ bản của người bị buộc tội như quyền có người bào chữa, quyền im lặng, quyền được bào chữa miễn phí… Cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999) đã phân tích đặc điểm và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đặc biệt là so sánh mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng công bằng. Tất cả các truyền thống pháp luật này đều có chung mục đích là phát hiện tội phạm, tìm ra sự thật khách quan của vụ án nhưng mỗi truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác nhau, quan trọng là cách thức nào tốt nhất để tìm ra sự thật của vụ án. Sự khác nhau của các mô hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau của các chức năng tố tụng, trong đó có chức năng bào chữa và những nội dung cơ bản của chức năng bào chữa. Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác giả James Claude và Joseph Daly (thông tin khoa học pháp lý tháng 10/1994) đã chỉ ra sự giống nhau trong hệ thống pháp luật của 2 nước này, đó là mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng kết hợp yếu tố tranh tụng. Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp hình sự, quy định về các quyền bào chữa của người bị buộc tội.
  • 16. 9 Các công trình nghiên cứu về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự có thể kể đến bài viết “The role of the defense attorney: not just an advocate” (tạm dịch: vai trò của luật sư bào chữa: không chỉ là một người ủng hộ) của tác giả Roberta K.flowers năm 2009 [100]. Bài viết khẳng định vai trò của Luật sư bào chữa không chỉ là 1 người ủng hộ cho khách hàng của mình, mà còn là 1 thành viên của liên đoàn luật sư, người bào chữa chuyên nghiệp, không chỉ đại diện cho khách hàng mà còn là 1 cán bộ của hệ thống pháp luật, có trách nhiệm bảo vệ pháp lý, bảo vệ công dân. Bài viết cũng chỉ ra 3 vai trò, biện pháp để chức năng bào chữa có hiệu quả, đó là vai trò của luật sư bào chữa, vai trò của cán bộ tòa án và vai trò của bộ tư pháp (ở các nước theo truyền thống án lệ thì cơ quan công tố thuộc nhánh quyền lực hành pháp). Bài viết “Basic principles on the role of lawyers” (tạm dịch: Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư) của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ nội dung nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua việc chỉ ra các quy định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được nhanh chóng tiếp cận với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân tích rõ các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có liên quan, thu thập chứng cứ…. Các công trình nghiên cứu về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đa số đều khẳng định có 3 chức năng cơ bản tồn tại, đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội (bào chữa) và chức năng xét xử. Bài viết “Rethinking the functions of criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các chức năng của tố tụng hình sự) năm 2010 của tác giả Peter A Renella, nhà nghiên cứu luật tại đại học luật Boston đã đặt ra câu hỏi: các chức năng nào phục vụ cho tố tụng hình sự? Sau khi phân tích đặc điểm của các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, tác giả đã đồng ý với quan điểm là tồn tại 3 chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự. Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết “Defense function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa Kỳ tại trang web www.americanbar.org / american Justice section archive đã nêu lên các tiêu chuẩn chung của người bào chữa và các chức năng của luật sư bào chữa. Theo đó, Luật sư bào chữa là một thành phần thiết yếu của hệ thống tố tụng hình sự, bảo vệ công lý và lẽ phải. Một tòa án thành lập đúng quy định để xét xử một vụ án hình sự phải được xem như là một thực thể ba bên bao gồm các thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa cho bị cáo. Các tiêu chuẩn cũng như chức năng của luật sư bào chữa,
  • 17. 10 đó là: Luật sư bào chữa phải có lòng can đảm, sự tận tâm để tham gia giải quyết vụ án một cách hiệu quả và chất lượng, thể hiện bằng việc hành động tuân theo các quy định của pháp luật. Đồng thời, khi gặp các bất cập liên quan đến chính sách hình sự và quy định của pháp luật, người bào chữa phải đề xuất ý kiến, tìm cách cải cách và cải thiện hành chính tư pháp hình sự. Người bào chữa không có nhiệm vụ phải thực hiện bất kỳ chỉ thị nào của bị cáo mà không đúng với quy định của pháp luật hoặc vi phạm pháp luật. Người bào chữa không được xuyên tạc hoặc bóp méo sự thật, cung cấp các chứng cứ, tài liệu sai sự thật cho Tòa án… Người bào chữa phải được hướng dẫn và tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, những điều được làm và không được làm khi hành nghề luật sư. Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch: Chức năng của cảnh sát, công tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison), một giảng viên của trường đại học luật Wiseunsin, Modison đã khẳng định: Các chức năng bào chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ và để bảo vệ anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những người bảo vệ pháp luật (người tiến hành tố tụng). Bài viết “The emerging Role and Function of the Criminal defense lawyer”(tạm dịch: Vai trò và chức năng của luật sư bào chữa) của tác giả Samuel Dash (1969) tại trang web http:// scholar ship.law.urc.ed/nclr đã khẳng định vai trò ngày càng to lớn của luật sư bào chữa. Trước đây, luật sư bào chữa bị kì thị và cô lập với chính những người làm công tác bảo vệ pháp luật, vai trò của luật sư bào chữa mờ nhạt và ít được nhắc tới. Song ngày nay, vai trò của luật sư bào chữa được nhìn nhận đúng mực hơn, các quyền của luật sư bào chữa được bổ sung phù hợp với chức năng bào chữa của họ. Bài viết “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” của tác giả Xiong Qiuhong, phó giáo sư-tiến sỹ của Viện luật, Viện khoa học xã hội Trung Quốc năm 2005 đã đưa ra những quan điểm của mình về luật sư bào chữa, quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn trước khi vụ án được đưa ra xét xử. Theo đó, quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền đặc trưng, có tác dụng và hiệu lực trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, thông qua các tài liệu và sự kiện, tình tiết để bào chữa theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Thực chất, người bị buộc tội có quyền bác bỏ cáo buộc hình sự từ phía những người tiến hành
  • 18. 11 tố tụng, có quyền trình bày ý kiến và đưa ra tình tiết nhằm chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Luật sư bào chữa tham gia vụ án dựa trên cơ sở có sự buộc tội và được người bị buộc tội mời bào chữa hoặc các trường hợp khác do bào chữa chỉ định. Ở giai đoạn điều tra, các luật sư có thể tư vấn pháp lý để người bị nghi thực hiện tội phạm nộp đơn hoặc khiếu nại. Trong trường hợp nghi can bị bắt giữ, các luật sư tham gia bào chữa cho họ có thể áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với nghi phạm. Luật sư bào chữa có thể gặp người có thẩm quyền để hỏi về những căn cứ buộc tội đối với nghi can mà mình bảo vệ. Ở giai đoạn truy tố, trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án từ cơ quan điều tra, viện kiểm sát thông báo cho người bị buộc tội có thể ủy thác cho luật sư bào chữa của mình.. Bài viết cũng khẳng định, điều tra tội phạm và bảo vệ nhân quyền là hai mục đích của thủ tục tố tụng hình sự, trong đó có quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, khẳng định sự độc lập, vai trò quan trọng của chức năng bào chữa và nêu lên những hạn chế của chế định bào chữa trong BLTTHS Trung Quốc. Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, các bài viết về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền có người bào chữa tương đối nhiều. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này chỉ dừng ở phạm vi pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và chủ yếu mang tính mô tả pháp luật tố tụng hình sự của các nước, trong đó tập trung nghiên cứu về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội và quyền được nhờ người khác bào chữa. Ở phạm vi toàn cầu, quyền có người bào chữa được ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR), theo đó, một người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội sẽ có các quyền sau đây: Thứ nhất: quyền được có khoảng thời gian hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị việc bào chữa, có quyền trao đổi với người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ hai: có quyền được tự bào chữa hoặc thông qua người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ ba: Trong trường hợp một người không có người bào chữa, anh ta sẽ được cung cấp người bào chữa chỉ định. Ở phạm vi khu vực, quyền có người bào chữa được ghi nhận trong các công ước về quyền con người ở 3 khu vực, đó là Công ước Châu Âu, Công ước Châu Mỹ về quyền con người và hiến chương Châu Phi về con người và quyền con người. Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như: Bài viết “the guarantees for accused peorsons under Article 6 of the European convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos
  • 19. 12 stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó tập trung phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Cuốn sách “Criminal process and human rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự và vấn đề quyền con người) của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của trường Đại học Luật tại Melbourne, Australia, năm 2001 về các quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh quyền được tiếp cận người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa, quyền được có người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như người chưa thành niên hoặc người khuyết tật… Bài viết “Human rights protections and China’s criminal proceduce law in practice” (tạm dịch: Bảo vệ quyền con người và vấn đề thi hành trên thực tế trong tố tụng hình sự Trung Quốc) của Các nhà khoa học trong tổ chức phi chính phủ về nhân quyền ở Trung Quốc (nguồn trang web: hrichina@hrichina.org/ “Human rights in china”. Bài viết có nội dung chính về vấn đề bảo vệ quyền con người trong đó có quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực hiện quyền này trên thực tế của tố tụng hình sự Trung Quốc. Tại Trung Quốc, luật sư là người bào chữa chủ yếu. Luật luật sư ở Trung Quốc ra đời lần đầu tiên năm 1996, khẳng định luật sư có 2 chức năng chính là: cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và tham gia tố tụng, bào chữa, đại diện cho thân chủ. Luật sư có nghĩa vụ bảo vệ khách hàng, tư cách luật sư xuất hiện khi có người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Cũng theo bài viết này, trong luật tố tụng hình sự Trung Quốc, luật sư bảo vệ quyền của người bị buộc tội trên cơ sở được trao một số quyền năng như: quyền thu thập chứng cứ, quyền được truy cập, tiếp cận các tài liệu do bên công tố thu thập nhưng trên thực tế, việc tiếp cận này khá khó khăn, vì vậy đã ảnh hưởng và làm suy yếu khả năng bào chữa của họ… Cuốn sách “Criminal proceduce – law and practice” của tác giả Rolando V.del carmen Trường Đại học bang Sam Houston, (in tại Printed in the United states of American) có 15 chương, nội dung tập trung chủ yếu về nguồn gốc quy định các quyền của người bị buộc tội, các nguyên tắc cơ bản theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kì, tổng quan về quá trình tư pháp hình sự, các quyền cơ bản của bị cáo. Cuốn “Brownlie’s document on the man right” (tạm dịch: tài liệu cơ bản về quyền con người) của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin năm 2010 tập trung phân tích các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS.JamesB.Jacob, Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề cập đến
  • 20. 13 việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng, trong đó có quyền bào chữa. Sách “Toward an international criminal procedure” (tạm dịch: hướng tới một thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, các bảo đảm pháp lý cần thiết để người bào chữa trợ giúp người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Tác giả cuốn sách này đã phân tích, so sánh sự khác nhau về thủ tục tố tụng hình sự của 2 hệ thống pháp luật là Anh-Mỹ và Châu Âu lục địa ở các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau, nhưng ở giai đoạn nào cũng luôn đảm bảo quyền được xét xử công bằng, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội. Bài viết “Rights of the people: Individual freedom and bills of right” (tạm dịch: các quyền của con người: Tự do cá nhân và Tuyên ngôn nhân quyền) năm 2010 của tác giả Melvin Urofski tập trung phân tích các quyền con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Như vậy, nhóm các công trình, bài viết nêu trên về các vấn đề lý luận của quyền con người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đã cung cấp cho nghiên cứu sinh một khối lượng kiến thức nền tảng về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu sinh để học hỏi,đưa ra giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm và hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa tại Việt Nam. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có chức năng bào chữa. Các công trình này chủ yếu tập trung làm rõ 3 chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Bên cạnh đó còn có các công trình khác liên quan đến những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vấn đề đảm bảo quyền bào chữa trên thực tế, vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa… Những vấn đề lý luận đó giúp cho nghiên cứu sinh có được cách tiếp cận đúng đắn về chức năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với các chức năng khác của Tố tụng hình sự. 1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau được công bố.
  • 21. 14 * Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Các chức năng của tố tụng hình sự quyết định mô hình tố tụng hình sự, hay nói cách khác, mô hình tố tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam (năm 2010). Đề án này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam. Bài viết “ Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả TS. Lê Hữu Thể - Phó Viện trưởng, VKSNDTC và ThS. Nguyễn Thị Thủy - Trưởng phòng Viện Khoa học kiểm sát (Nguồn: http://www.nclp.org.vn) nêu lên những đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, khẳng định dù áp dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng luôn tồn tại ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa và xét xử. Vai trò của các chủ thể được phân định theo các chức năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với các chức năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS. Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn Thái Phúc trong báo cáo Hội thảo tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2015 đã nêu lên quan điểm: các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là những phương diện hoạt động tồn tại khách quan trong tiến trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Mối quan hệ qua lại giữa chúng cũng có tính khách quan và tuân theo quy luật nhất định. Giải pháp trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước, tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa. Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa học “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ” (năm 2015) có nêu lên vấn đề về lý thuyết chức năng luận. Theo đó, cần nhận thức các chức năng của tố tụng hình sự dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu sắc hơn vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời khẳng định: các chức năng của tố tụng hình sự cần được tiếp cận dựa trên lý thuyết chức năng luận. Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ “Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng ( bào vệ tại Học viện khoa học xã hội năm 2012) đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực
  • 22. 15 trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Theo tác giả thì chức năng bào chữa xuất phát từ quyền được bào chữa của người bị buộc tội và do đó chức năng này phát sinh ngay sau khi có quyết định buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng và hiện diện trong cả 3 giai đoạn tố tụng là điều tra, truy tố và xét xử. Chức năng bào chữa có nội dung rộng hơn những quan niệm truyền thống hiện nay cho rằng, đó chỉ là việc thực hiện của bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Mặc dù luận án cũng đã nêu lên một số vấn đề lý luận cơ bản về chức năng bào chữa như khái niệm, nội dung và phạm vi của chức năng bào chữa, tuy nhiên việc phân tích các nội dung này còn khá mờ nhạt, các vấn đề lý luận khác như đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của chức năng bào chữa chưa được đề cập tới. Năm 2015, Học viện Khoa học xã hội đã tổ chức buổi Hội thảo khoa học về “Các chức năng của Tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”. Nội dung của Hội thảo tập trung làm rõ các vấn đề như : Cơ sở lý luận và thực tiễn về các chức năng của TTHS (Lý thuyết chức năng, khái niệm, ý nghĩa, vai trò của các chức năng tố tụng hình sự), các chức năng của tố tụng hình sự và những vấn đề đặt ra đối với cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay… Năm 2016, Học viện khoa học xã hội tiếp tục triển khai đề tài “Các chức năng của Tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (chủ nhiệm đề tài : TS. Đinh Thị Mai). Đề tài nêu lên cơ sở lý luận về các chức năng của TTHS, mối quan hệ giữa các chức năng của TTHS, phân loại các chức năng của TTHS, các chức năng TTHS của một số nước trên thế giới và so sánh với Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích thực trạng quy định các chức năng của TTHS Việt Nam và thực trạng thực hiện các quy định nêu trên, nêu lên vấn đề đổi mới nhận thức và hoàn thiện các chức năng của TTHS Việt Nam hiện nay. Tài liệu và kết quả của Hội thảo, đề tài nêu trên thực sự có giá trị, là công trình nghiên cứu tham khảo rất có ý nghĩa với nghiên cứu sinh. Cũng liên quan đến các chức năng của tố tụng hình sự còn có bài viết “Phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: Buộc tội, bào chữa và xét xử” của tác giả Hà An (Nguồn: Báo điện tử Đại biểu nhân dân). Theo đó, để tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo chủ trương mà Đảng đã đề ra thì cần phải phân định được rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự đó là buộc tội, bào chữa và xét xử. Cần phải tạo được cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa, nâng cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Một nguồn tham khảo tiếp theo cho nghiên cứu sinh, đó là luận án tiến sỹ luật học “ Chức năng xét xử trong tố
  • 23. 16 tụng hình sự Việt Nam ” của tác giả Lê Tiến Châu (bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2008). Luận án có cách tiếp cận khoa học trong việc phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng TTHS nói chung và chức năng xét xử nói riêng; vị trí và vai trò của chức năng xét xử trong các mô hình, hình thức TTHS ; những biểu hiện thể hiện nội dung của chức năng xét xử trong các quy định của pháp luật. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với nghiên cứu sinh khi học hỏi cách tiếp cận vấn đề, kết cấu luận án và những luận giải mang tính khoa học; cách trình bày logic, mạch lạc trong quá trình phân tích nội dung luận án. * Những công trình nghiên cứu về quyền con người trong mối quan hệ với quyền bào chữa của người bị buộc tội : Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học” do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội năm 2010 (2 tập); cuốn sách “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người ” GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, (Nxb KHXH, Hà Nội, 2011); bài viết “ Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ” của PGS. TSKH. Lê Cảm, (Tạp chí TAND số 11, 13 và 14/2006); Luận văn thạc sỹ luật học“Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hường (2007). Nhóm các công trình này đã phân tích nội dung, khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi các nhà nước ra đời. Đồng thời khẳng định quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Trong mối quan hệ tố tụng giữa chủ thể buộc tội và người bị buộc tội, người bị buộc tội luôn yếu thế do đó nhà nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự để họ có thể tự bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011) đã nêu lên một số vấn đề lý luận bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Qua đó, khẳng định việc nghiên cứu bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự; nhìn từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật đều có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Bài viết “Pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga với việc bảo vệ các quyền con người” của GS.TSKH Lê Cảm đăng trên tạp chí lập pháp số 02 năm 2011 nêu lên việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự của liên bang Nga, việc bảo vệ quyền con người bằng các quy định chung của pháp luật tố tụng hình sự liên bang Nga hay ở giai đoạn trước khi xét xử và trong khi xét
  • 24. 17 xử. Với sự tồn tại của mô hình TTHS hỗn hợp, thiên về yếu tố tranh tụng, nhà nước pháp quyền dân chủ Liên bang Nga cho phép khẳng định tính nổi trội hơn cả của việc bảo vệ thực sự (chứ không phải là hình thức) quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong lĩnh vực TTHS. * Các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của các chức năng tố tụng hình sự: Bài viết “Bàn về chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự” năm 2003 của tác giả Hoàng Thị Sơn trên tạp chí luật học đã nêu lên một số quan điểm về chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, từ đó xây dựng khái niệm của các chức năng này. Bên cạnh đó, bài viết cũng đặt ra vấn đề: chức năng bào chữa xuất hiện từ thời điểm nào? Từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự hay từ khi có quyết định khởi tố bị can? Phạm vi của chức năng bào chữa ra sao? Có ý kiến cho rằng chức năng bào chữa xuất hiện từ khi vụ án hình sự được khởi tố và nó đối lập với tất cả các biện pháp cưỡng chế về tố tụng chứ không phải chỉ đối lập với việc buộc tội. Cũng có ý kiến cho rằng, chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn. Theo quan điểm của tác giả bài viết thì chức năng bào chữa xuất hiện từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trong Báo cáo tham luận của tác giả PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn tại Hội thảo khoa học “ Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”(năm 2015) khẳng định: việc nghiên cứu bào chữa dưới góc độ chức năng tố tụng có phạm vi rộng hơn so với các góc độ khác như: bào chữa là một nguyên tắc của TTHS, bào chữa là một chế định tố tụng hay bào chữa là quyền của người bị buộc tội. Theo tác giả, chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng hình sự được pháp luật quy định và bảo đảm cho bên bị buộc tội có khả năng đưa ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cơ sở phát sinh quyền bào chữa là sự buộc tội, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa và chức năng buộc tội là sự đối lập, phạm vi của chức năng bào chữa được bắt đầu khi bị buộc tội và kết thúc khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật, mục đích của chức năng bào chữa là chống lại sự buộc tội và giảm nhẹ TNHS cho bên buộc tội. Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Hoài Lâm về “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ” (năm 2006) cũng đã nêu lên khái niệm, nội dung của chức năng bào chữa. Theo đó, nội dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào chữa, hay nói cách khác, đó chính là địa vị pháp lý của chủ thể bào chữa gắn liền với các bảo đảm quyền đó. Tham khảo những quan điểm khoa học trong bài viết nêu trên đã giúp nghiên cứu sinh tiếp cận vấn đề một cách đúng đắn hơn. * Các công trình nghiên cứu về tranh tụng cũng là nguồn tài liệu hữu ích có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án. Có thể kể đến luận án tiến sĩ “Nguyên tắc
  • 25. 18 tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của chức năng bào chữa và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Ngoài ra còn có bài viết “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTHS” của tác giả Lê Tiến Châu, tạp chí Khoa học pháp lý số 1, năm 2003; bài viết “ Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật TTHS ” của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 6, năm 2004; bài viết“Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3/2010; bài viết “Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà mở rộng tranh tụng” của TS. Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên để về tranh tụng năm 2003, luận văn thạc sỹ “Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lưu Bình Dương năm 2004… Các công trình trên đã khẳng định hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự là hoạt động của bên buộc tội và bên gỡ tội, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận của mình để phản bác chứng cứ, lập luận của đối phương nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm đề xuất của mình, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa tham gia tranh tụng là nhằm giúp cho việc xác định sự thật khách quan về vụ án, để bảo đảm cho phán quyết của HĐXX chính xác, công minh. Các bài viết nêu trên cũng đưa ra một số kiến nghị có liên quan đến nguyên tắc tranh tụng như: Phân định 3 chức năng cơ bản của tố tụng hình sự : buộc tội, bào chữa và xét xử; quy định các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng của mình, không làm thay chức năng của cơ quan khác; chức năng bào chữa thuộc về bị cáo và người bào chữa của họ; quy đinh cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong tố tụng hình sự, mở rộng quyền và tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa thực hiện các quyền chứng minh vô tội, giảm nhẹ hình phạt... Như vậy, với các nhóm công trình nghiên cứu nêu trên có liên quan đến những vấn đề lý luận của luận án đã giúp nghiên cứu sinh có cách tiếp cận đúng đắn về cơ sở lý luận của chức năng bào chữa, từ đó xác định hướng kiến nghị hoàn thiện pháp luật dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, sự liên quan mật thiết giữa các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng hình sự…
  • 26. 19 1.2.2. Nhóm các công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án Dưới góc độ nghiên cứu bào chữa là một chức năng của TTHS, có thể kể đến luận án thạc sỹ luật học “ Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ” của Trần Hoàng Lâm (bảo vệ tại năm 2007). Trong luận văn này, tác giả phân tích lịch sử phát triển của chức năng bào chữa và quy định của pháp luật về chức năng bào chữa theo BLTTHS 2003, khẳng định chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, họ quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Tác giả luận văn phân tích các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa theo từng giai đoạn cụ thể, đó là giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Từ đó, đưa ra các biện pháp đảm bảo chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam, bao gồm nhóm biện pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa, nhóm biện pháp trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa. Mặc dù tác giả của luận văn đã nêu lên một số nội dung về chức năng bào chữa, quy định của pháp luật về chức năng bào chữa nhưng các vấn đề này còn chung chung, khái quát, chưa toát lên được những đặc điểm nổi bật của chức năng bào chữa, những luận giải trong luận văn còn ít và chưa thực sự thuyết phục. Thực trạng của hoạt động bào chữa cũng được nghiên cứu khá lâu so với thời điểm hiện tại. Một số biện pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa không còn hợp thời, nhất là khi BLTTHS 2015 ra đời, thay thế cho BLTTHS 2003. Những vấn đề liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa cũng được nghiên cứu ở nhiều phạm vi và góc độ khác nhau, trong đó chủ yếu là các công trình nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, việc thực hiện quyền bào chữa trên thực tế, vai trò của người bào chữa… * Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa: Quyền bào chữa, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử TTHS Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trên thực tế có nhiều bất cập và hạn chế. Luận án tiến sỹ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS ” của tác giả Hoàng Thị Sơn (bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2003) là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật viết về quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Trong luận án tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về quyền bào chữa, từ đó hình thành khái niệm về quyền bào chữa, nêu lên ý nghĩa của việc thực hiện quyền bào chữa. Bên cạnh đó, tác giả nêu và phân tích hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo; từ những hạn chế
  • 27. 20 và bất cập trong việc thực hiện quyền bào chữa trên thực tế, tác giả đã đề xuất các giải pháp có giá trị để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa. Luận án này là một công trình nghiên cứu tham khảo hữu ích, một số luận giải mang tính khoa học vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, luận án nghiên cứu các quy định về bào chữa trong BLTTHS năm 1988, vì vậy có những vấn đề nghiên cứu đã quá cũ so với thời điểm hiện nay, trong điều kiện hoàn cảnh BLTTHS 2015 ra đời và thay thế cho BLTTHS 2003. Cũng liên quan đến quyền bào chữa, năm 1999 PGS.TS Phạm Hồng Hải đã viết sách chuyên khảo về“Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội”. Theo cuốn sách này thì quyền bào chữa trong TTHS là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ quan điểm buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong vụ án hình sự. Bào chữa tồn tại trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, ở đâu có buộc tội thì ở đó có bào chữa. Nội dung của cuốn sách nêu lên các quy định của pháp luật tố tụng hình sự 2003 về quyền bào chữa của người bị buộc tội ; nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án trong việc bảo đảm quyền bào chữa của những đối tượng này. Năm 2010, chương trình phát triển liên hiệp quốc đã công bố báo cáo về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam. Trong báo cáo nêu rõ sự khái quát về tiêu chuẩn quốc tế về quyền bào chữa trong các vụ án hình sự. Theo đó, quyền bào chữa trong khuôn khổ quốc tế bao gồm: quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa, bao gồm cả việc tiếp xúc với người bào chữa; quyền được thông tin bí mật với người bào chữa, quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý, việc từ chối cung cấp người bào chữa trong thời gian ngắn, quyền bào chữa trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử. Báo cáo cũng nêu lên nghiên cứu so sánh về quyền bào chữa tại một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa liên bang Đức, Australia ; khái quát pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa; so sánh quyền bào chữa trong các vụ án hình sự giữa chuẩn mực quốc tế với pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam. Luận án tiến sỹ luật học“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS” của tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014) cũng đã khẳng định tầm quan trọng của quyền bào chữa nói chung và quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng. Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS Việt Nam, đánh
  • 28. 21 giá được vai trò của quyền bào chữa và xác định rõ những đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa… Mặc dù những quy định trong BLTTHS 2003 đã phản ánh được tinh thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, thông qua việc phân tích thực tiễn thực hiện quyền bào chữa đối với các trường hợp đặc thù này, cho thấy những quy định trong BLTTHS 2003 đã phần nào ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật, thực hiện quyền bào chữa trên thực tế; gây khó khăn và cản trở cho việc bào chữa, không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo nói chung và người chưa thành niên nói riêng. Các kiến nghị liên quan đến việc yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo đáp ứng hội nhập quốc tế… Liên quan đến quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng, có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011). Luận án đã khái quát các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn lịch sử nhất định như trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003; nêu lên các quy định về địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng và ngườii bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đưa ra các kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam. Vấn đề đảm bảo quyền bào chữa có thể được quy định giống nhau hoặc khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Luận án“Đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh (bảo vệ tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011) có sự so sánh khá chi tiết về các quy định của pháp luật đối với quyền bào chữa trong TTHS của Việt Nam, Đức và Pháp; những vướng mắc trong pháp luật TTHS Việt Nam, Đức, Pháp về thực hiện và bảo đảm quyền có người bào chữa. Từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền bào chữa, dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc từ hệ thống pháp luật TTHS của Đức và Pháp về bảo đảm quyền bào chữa; đồng thời kiến nghị một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng luật bảo đảm quyền có người bào chữa ở Việt Nam. Những kiến nghị này chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề: mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản, quan trọng của TTHS; nâng cao năng lực nhận thức của cơ quan THTT và người THTT ; tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Bên cạnh đó, luận án cũng
  • 29. 22 đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố tụng như bổ sung thêm quyền của người bào chữa, cơ chế tạo điều kiện và phối hợp giữa người bào chữa và người tiến hành tố tụng… Năm 2014, tác giả Đặng Trần Thanh Ngọc đã bảo vệ thành công luận án “Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay” tại Học viện khoa học xã hội. Luận án đã nêu lên bản chất của hoạt động thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, chủ thể thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, phân tích thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và của người bào chữa, đưa ra những nguyên nhân, hạn chế, bất cập về việc thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, từ đó nêu lên quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền bào chữa trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. * Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến người bào chữa Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bào chữa và người bị buộc tội, bị can, bị cáo. Liên quan đến người bào chữa, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Có thể kể đến sách chuyên khảo của Nguyễn Văn Tuân về “Vai trò của luật sư trong TTHS” năm 2001. Nội dung cơ bản của cuốn sách tập trung phân tích các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và vai trò của luật sư trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nói riêng. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định tầm quan trọng của luật sư khi tham gia giải quyết các vụ án hình sự. Vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét thông qua việc thực hiện các quyền mà BLTTHS quy định… Năm 2012, tác giả Phan Văn Hòa đã nghiên cứu và bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Người bào chữa trong TTHS Việt Nam”. Luận văn đã khái quát về sự hình thành và phát triển chế định người bào chữa, chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển chế định người bào chữa trong từng giai đoạn, đánh giá thực trạng áp dụng chế định người bào chữa, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định này trong TTHS, nguyên nhân của thực trạng đó. Theo quan điểm của tác giả thì luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đội ngũ luật sư vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng lại phân bổ không đồng đều ở các địa phương nên chẳng những làm hạn chế sự lựa chọn của bị can, bị cáo mà trong nhiều trường hợp còn ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số liệu thực tế cho thấy những vụ án hình sự có luật sư tham gia bào chữa chiếm tỉ lệ rất thấp trên tổng số án hình sự mà Tòa án đã đưa ra xét xử . Từ thực tế nêu trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị
  • 30. 23 hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về người bào chữa, mở rộng phạm vi những người có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn. Năm 2014, tác giả Nguyễn Văn Phương đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay”. Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ luật học “Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2015 của tác giả Lê Trung Sơn. Các luận văn này đều nêu lên khái niệm, đặc điểm, vai trò, hoạt động của người bào chữa trong TTHS; khái quát quy định của Pháp luật TTHS Việt Nam về người bào chữa ở các giai đoạn, thực trạng hoạt động bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, nêu lên nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện hoạt động bào chữa và đưa ra các biện pháp khắc phục, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của người bào chữa trong TTHS, đặc biệt là nhấn mạnh và khẳng định vai trò của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng như việc áp dụng chế định người bào chữa trong giai đoạn này trên thực tế. Cũng liên quan đến đề tài về bào chữa, năm 2015 tác giả Ngô Thị Ngọc Vân đã bảo vệ thành công Luận án tiến sỹ luật học “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” tại Đại học Luật Hà Nội. Theo quan điểm của tác giả thì hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành nhằm chống lại việc buộc tội, xác định sự vô tội của người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động bào chữa của Luật sư đã có đóng góp quan trọng góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thực hiện việc dân chủ hoá hoạt động tố tụng, tăng cường tranh tụng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, hoạt động bào chữa của Luật sư thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Đôi khi, luật sư gặp khó khăn từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình… Nguyên nhân của các bất cập, hạn chế đó bao gồm nguyên nhân từ các quy định của pháp luật cũng như sự nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động bào chữa của luật sư. Luận án đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, các giải pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư. Một số bài viết có liên quan đến vai trò của luật sư bào chữa có thể kể đến“Vị trí của luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử” đăng trong Tạp chí luật học
  • 31. 24 số 5/2003 của PTS. TS. Phạm Hồng Hải. Bài viết phân tích vai trò của luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử, việc thể hiện quyền bào chữa của những người bị buộc tội trong TTHS; phân tích sự tham gia của luật sư với tư cách là người bào chữa tại phiên tòa xét xử, phân tích các quyền cụ thể của luật sư theo quy định của BLTTHS như: quyền đề nghị Tòa án quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, quyền quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyền thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn… Đồng thời, bài viết cũng đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong phiên tòa xét xử, trong đó có những đề xuất, kiến nghị với Tòa án trong việc tạo điều kiện cho luật sư thực hiện quyền của mình; đề xuất, kiến nghị trong việc bảo đảm thực hiện các quyền của luật sư trên thực tế trong quá trình xét xử các vụ án hình sự. Ngoài ra, còn một số bài viết khác chủ yếu nghiên cứu về lý luận như: Bài viết“Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003”đăng trên Tạp chí nhà nước và pháp luật số 5/2004 của LS Phạm Hồng Hải; bài viết “Người bào chữa trong TTHS” của tác giả Trần Văn Bảy, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 1/2001 ; bài viết “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong TTHS” của TS. Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2008; bài viết “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong TTHS” của TS. Nguyễn Thái Phúc, tạp chí Kiểm sát, số Xuân 1/2009; bài viết “Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên toà hình sự” của tác giả Nguyễn Ngọc Khanh, tạp chí Luật học, số 7/2008… Nhóm các bài viết này chủ yếu đề cập đến quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò của người bào chữa ; phân loại người bào chữa trong TTHS, sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong TTHS… * Nhóm các công trình liên quan đến thực trạng, giải pháp hoàn thiện chức năng bào chữa Trong các tạp chí chuyên ngành có khá nhiều bài viết có liên quan đến thực trạng thực hiện quyền bào chữa trên thực tế và những biện pháp bảo đảm có hiệu quả việc thực hiện quyền bào chữa. Có thể kể đến một số bài viết như: Bài viết “Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng trên tạp chí nhà nước và pháp luật của tác giả Hồ Sỹ Sơn năm 2000; Bài viết “Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo” đăng trên Tạp chí Luật học, số 4/2002 của tác giả Hoàng Thị Sơn; Bài viết “Thực trạng hoạt động của luật sư - Người bào chữa qua hơn một năm thì hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”của PGS.TS Phạm Hồng Hải đăng trên Tạp chí kiểm sát số 24 (12- 2005). Các bài viết này chủ yếu nêu lên thực trạng của hoạt động bào chữa và
  • 32. 25 những đảm bảo có hiệu quả với việc thực hiện quyền bào chữa. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa được ghi nhận ở quy định của luật TTHS như: người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ của cơ quan điều tra đối với một người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; quy định người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan tới việc bào chữa … Tuy nhiên, trên thực tế thì việc thực hiện các quyền trên gặp khó khăn từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Vai trò của NBC còn hạn chế và nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm quyền thực sự tôn trọng… Các bài viết nêu trên cũng đưa ra một số kiến nghị trên cơ sở phân tích thực trạng như: kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư hoặc Thông tư liên ngành để giải thích, hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ tục và nội dung tham gia bào chữa của luật sư trong trong các vụ án hình sự; đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư và thủ tục cho phép luật sư vào gặp bị can, bị cáo trong trại giam; các ý kiến tranh luận tại phiên tòa của luật sư cần được đánh giá như ý kiến của kiểm sát viên và phải được chấp nhận khi có căn cứ… Năm 2012, TS. Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng VKSNDTC và Ths Lê Thị Thủy, VKSNDTC có bài viết “Hoàn thiện chế định người bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 2003 đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp” công bố trong tài liệu Hội thảo quốc tế về Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa. Bài viết phân tích về thực trạng chế định người bào chữa trong TTHS Việt Nam và đưa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS như: Phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: buộc tội, bào chữa, xét xử; Bổ sung các cơ chế để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định; Bổ sung một số quyền của người bào chữa để thực hiện tốt chức năng tranh tụng: quyền thu thập chứng cứ, quyền chất vấn, đối chất người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác trong các giai đoạn tố tụng; Mở rộng diện các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa nhằm khắc phục tình trạng thiếu luật sư và hỗ trợ các bị can, bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không có điều kiện nhờ luật sư bào chữa… Trong báo cáo về thực trạng hành nghề luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự của Liên đoàn luật sư Việt Nam năm 2013 cũng đã nêu rõ những thuận lợi và khó khăn của luật sư – NBC trong hoạt động tố tụng. Theo đó,thực trạng thi hành các quy định trong BLTTHS về bảo đảm quyền bào chữa còn nhiều bất cập, vướng mắc và khó khăn, hạn chế không chỉ ảnh hưởng đến việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền hành nghề của luật sư, mà
  • 33. 26 còn ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, khả năng tiếp cận công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp… Những vướng mắc, khó khăn, bất cập liên quan vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của luật sư khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự xuất phát từ các nguyên nhân như: quyền bào chữa gắn chặt với chức năng gỡ tội, có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với các chức năng cơ bản khác của TTHS Việt Nam là chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Tuy nhiên, do mô hình TTHS Việt Nam về cơ bản vẫn là mô hình TTHS thẩm vấn, chưa phân định rõ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của TTHS. Trên thực tế, việc khởi tố, tiến hành điều tra và đề nghị truy tố vẫn thuộc phần chủ động của CQĐT, vai trò của VKS có phần thụ động, Tòa án thay vì đóng vai trò là trọng tài khách quan, lại đang trở thành một chủ thể buộc tội. Trong tài liệu tại Hội thảo quốc tế về “Bộ luật TTHS năm 2003 và quyền của luật sư bào chữa” năm 2012, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp, Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã công bố bài viết “Hoàn thiện các quy định của bộ luật TTHS năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa của luật sư”. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý, căn cứ cần bảo đảm quyền bào chữa của luật sư. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chỉ ra nguyên nhân, thực trạng của những hạn chế, cản trở quyền hành nghề của luật sư như: Do nhận thức, quan điểm của những người tiến hành tố tụng và người bào chữa;Tố tụng hình sự chưa được coi trọng đúng mức, những tài liệu, chứng cứ được thu thập không đúng tố tụng vẫn được sử dụng; việc tham gia của người bào chữa từ khi khởi tố vụ án còn hạn chế, chủ yếu có mặt để chứng kiến… Trên cơ sở phân tích những tồn tại, hạn chế, bài viết đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp như: cần quán triệt và thay đổi nhận thức về hoạt động, vai trò của người bào chữa; cần quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia… Trong đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư” của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013 cũng có những nội dung liên quan đến luận án. Nội dung của đề tài nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, xác định những bất cập của các quy định này dẫn đến việc chưa thực sự bảo đảm hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư; nghiên cứu thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư, tìm hiểu những vướng mắc, hạn chế trong hoạt động bào chữa của luật sư; từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư. Năm 2014, Học viện tư pháp đã thông qua đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao vị thế và vai trò của luật sư trong tiến trình cải cách tư pháp”. Đề tài đã nêu lên vị thế và