Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong Luật tố tụng hình sự- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, cho các bạn tham khảo
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN ĐỨC HIẾU
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2008
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN ĐỨC HIẾU
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2008
3. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
6
1.1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trƣớc tòa án
6
1.1.1. Khái niệm 6
1.1.2. Vị trí 11
1.1.3. Ý nghĩa 16
1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án 19
1.2.1. Bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ 20
1.2.2. Bình đẳng trong việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu 29
1.2.3. Bình đẳng trong tranh luận 31
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án 34
1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
38
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945- đến năm 1988 38
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay 40
1.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án trong luật tố tụng
hình sự một số nƣớc
43
1.5.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 44
1.5.2. Cộng hòa liên bang Đức 46
1.5.3. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản 50
1.5.4. Cộng hòa Liên bang Nga 53
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
57
2.1. Quy địnhcủa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trƣớc tòa án
57
2.1.1. Nhóm các điều luật quy định về quyền của những người tham gia tố 57
4. tụng
2.1.2. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật
60
2.1.3. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
việc đưa ra yêu cầu
62
2.1.4. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
tranh luận
65
2.2. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đẳm quyền bình đẳng trƣớc tòa án 67
2.2.1. Giai đoạn từ năm 1989 - 2002 67
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay 69
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
79
3.1. Đánh giá nguyên nhân của thực trạng 79
3.1.1. Nguyên nhân từ pháp luật 80
3.1.2. Nguyên nhân từ những người tiến hành tố tụng và những người tham
gia tố tụng.
85
3.1.3. Nguyên nhân từ điều kiện vật chất, cơ sở kinh tế 87
3.2. Định hƣớng nâng cao hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trƣớc tòa án
89
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả 93
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HSST Hình sự sơ thẩm
HSPT Hình sự phúc thẩm
GĐT Giám đốc thẩm
TT Tái thẩm
HĐTP Hội đồng thẩm phán
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
TAND Toà án nhân dân
NQ Nghị quyết
TW Trung ương
6. DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm của ngành Tòa án từ 1989 – 2002 (tr67)
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm của ngành Tòa án từ 2003 – 2007 (tr68)
Bảng 2.3 Bảng tổng hợp số liệu xét xử án hình sự của cấp phúc thẩm cải
sửa, hủy án sơ thẩm của ngành Tòa án từ 2003 - 2007
7. DANH MỤC BẢNG
STT Bảng Nội dung Trang
1. 2.1. Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án từ 1989 –
2002
69
2. 2.2. Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án từ 2003 –
2007
70
3. 2.3. Bảng tổng hợp số liệu xét xử án hình sự của cấp phúc
thẩm cải sửa, huỷ án sơ thẩm của ngành Toà án từ
2003 - 2007
72
8. 1
MỞ ĐẦU
1- Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền bình đẳng trước tòa án không những thể hiện quyền bình đẳng
của công dân trước pháp luật, trước các cơ quan công quyền mà còn là sự bảo
đảm cho những người tham gia tố tụng được bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án.
Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 qui định nguyên tắc cơ bản bảo đảm
quyền bình đẳng trước toà án làm cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án.
Tuy nhiên, việc áp dụng và thực thi nguyên tắc này chưa thật hiệu quả,
còn để xảy ra những vi phạm làm ảnh đến tính khách quan của bản án và
quyết định của toà án, làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm…Thực tiễn
xét xử cho thấy, Viện kiểm sát còn có những biểu hiện như: không đáp ứng
yêu cầu của những người tham tố tụng, ít tranh luận hoặc không tranh luận
với bị cáo, với người bào chữa, không tạo điều kiện để họ có thể đưa ra chứng
cứ và lập luận bào chữa. Toà án chưa bảo đảm thực hiện tốt việc tranh luận,
thẩm vấn, đánh giá chứng cứ tại phiên toà, vẫn còn những biêu hiện thiếu dân
chủ trong tranh luận. Thực trạng này chưa phù hợp với mục tiêu của Nghị
quyết 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp "xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án để làm sáng tỏ về mặt khoa học và áp dụng
nguyên tắc này trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện
để góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc đã nêu không
9. 2
những có ý nghĩa lý luận- thực tiễn pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề
mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do tôi quyết định lựa chọn đề tài
“Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong Luật tố tụng
hình sự- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2- Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1988 và được sửa đổi bổ sung năm 2003, cũng đã có những
bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc này như:
- Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương chi tiết bài giảng : Các nguyên
tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, Tài liệu tập huấn việc thi hành Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
- Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân.
- Phạm Hồng Hải (1998), Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc
tội, NXB Công an nhân dân.
- Vũ Mộc (2002) "Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị", Thông
tin khoa học pháp lý.
Ngoài ra, nguyên tắc còn được đề cập, phân tích trong một số Giáo
trình và sách tham khảo như:
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp.
10. 3
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới
dạng là các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách chuyên khảo hay sách tham khảo. Cho đến nay trong
khoa học Luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập riêng đến nguyên tắc này một cách tương đối đồng bộ và có hệ thống. Đặc
biệt, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc này cũng đòi hỏi
cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn. Vì vậy, luận
văn sẽ tiếp cận, nghiên cứu tương đối có hệ thống nguyên tắc đảm bảo quyền
bình đằng trước toà án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của nguyên tắc này.
3- Mục đích của đề tài
Với đề tài, này tác giả mong muốn:
- Làm rõ cơ sở lý luận của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp
luật và áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn.
- Đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án trong giai đoạn hiện
nay.
4- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu một số vấn đề sau:
a) Khái niệm, vị trí, ý nghĩa quyền bình đẳng trong tố tụng hình sự.
b) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bình đẳng
trước tòa án trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. So sánh quy định của
một số nước trên thế giới về nội dung nguyên tắc này.
c) Nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc.
11. 4
d) Đưa ra giải pháp hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước tòa án.
5- Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung
vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
a) Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm quyền
bình đẳng trước tòa án và so sánh nguyên tắc này với một số nguyên tắc liên
quan.
b) Nêu được vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc này.
c) Khái quát sự hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước tòa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. So sánh quy
định của một số nước trên thế giới về nội dung nguyên tắc này. Nghiên cứu
thực tiễn áp dụng nguyên tắc này.
d) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bình đẳng, đánh giá thực tiễn,
nêu được vai trò, ý nghĩa của việc hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước tòa,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003.
6- Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử
và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học Luật hình
sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật; v.v... và các công trình
của các nhà khoa học-luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ án
hình sự trong thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và
đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự.
12. 5
7- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh lý luận, thực tiễn của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng
định mối tương quan, bổ trợ trong việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án với các nguyên tắc khác. Qua nghiên cứu
cũng chứng minh được giá trị của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, cũng như ý nghĩa trong quá trình
xét xử, xác định sự thật khách quan của vụ án.
Trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc bình đẳng trước tòa án ở một số
nước trên thế giới và quá trình phát triển của nguyên tắc trong quá trình lập
pháp Việt Nam, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc để đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong
thực tiễn. Đặc biệt, để góp phần phần vào công cuộc cải cách tư pháp tác giả
luận văn kiến nghị bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình
sự, đây là thành tựu của nền pháp lý nhân loại, là nguyên tắc liên quan, bổ trợ
cho nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và góp phần bảo vệ
quyền con người. Luận văn làm rõ tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa
và vai trò chủ động của Kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa. Ngoài ra, điểm
mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định
rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ đề cập đến nguyên tắc bình đẳng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,
do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ
nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và
sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
8- Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
13. 6
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trƣớc tòa án trong tố tụng hình sự
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp
dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Tòa án
Chƣơng 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Tòa án
14. 7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trƣớc tòa án
1.1.1. Khái niệm
Bình đẳng là một trong những quyền tự nhiên cơ bản của con người, gắn
bó mật thiết với con người trong hoạt động xã hội. Nhân loại đã trải qua đấu
tranh, hy sinh để bảo vệ quyền bình đẳng, nên bảo đảm quyền bình đẳng là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà nước văn minh.
Trong số các quyền thì bình đẳng trước Tòa án, bình đẳng trước pháp
luật là những quyền quan trọng được thế giới ghi nhận: “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, không có bất kỳ sự phân biệt
nào”(Điều 7-Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền). “Mọi người đều được
hưởng quyền bình đẳng, được xem xét công bằng và công khai bởi một tòa án
độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và nghĩa vụ của họ
cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” (Điều 10-Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền).
Pháp luật là hệ thống các quy tắc điều chỉnh quan hệ xã hội, là công cụ
quản lý của nhà nước, đồng thời còn là chỗ dựa cho người dân, để họ bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại các hành vi vi phạm. Vì
vậy, bình đẳng trước pháp luật là quyền của công dân mà nhà nước có trách
nhiệm bảo đảm thực thi quyền đó trong thực tế.
Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp trong xã hội và
xử lý các vi phạm pháp luật thông qua hoạt động xét xử bằng việc ra bản án
hoặc quyết định. Hoạt động của Tòa án đòi hỏi phải khách quan, công minh,
xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật để bảo đảm mọi vi phạm pháp
luật đều được xử lý, đồng thời không làm oan người vô tội. Để mục tiêu này
15. 8
trở thành hiện thực trong thực tế thì Tòa án cần phải đảm bảo quyền bình
đẳng của những người tham gia tố tụng trước tòa.
Với ý nghĩa đó thì bình đẳng trước tòa án luôn được coi là nguyên tắc cơ
bản bảo đảm quá trình xét xử diễn ra công bằng, khách quan, chính xác: “Tất
cả mọi người đều bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán”(Điều 14-Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị). Những tuyên ngôn trên chính
là những lời cam kết và là sự công nhận của các quốc gia, các dân tộc tiến bộ
trên thế giới về quyền bình đẳng của con người trước tòa án, trước pháp luật.
Điều đó chứng tỏ, quyền bình đẳng trước Tòa án là một trong những quyền cơ
bản của con người, được toàn thế giới công nhận và bảo đảm để quyền đó
được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
Hiến pháp và pháp luật nước ta đã ghi nhận bình đẳng trước tòa án, bình
đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của con người “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật”(Điều 52-Hiến pháp 1992), “Tố tụng hình sự tiến hành
theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”(Điều 5-Bộ luật tố
tụng hình sự 2003).
Ở nhà nước ta các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng đều xác định vị trí bình đẳng của các công dân không
có sự phân biệt. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là: khi tham gia tố tụng
hình sự mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Trong cùng một vai
trò của người tham gia tố tụng như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử không ai được loại trừ hoặc được áp dụng những ưu
đãi ngoài quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình giải quyết vụ án
đều phải theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật tố
16. 9
tụng hình sự. Tính thống nhất thể hiện ở việc cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục chung trên toàn quốc
và đối với tất cả những người tham gia tố tụng ở tất cả các vụ án khác nhau
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đối với các thủ tục đặc biệt, thủ
tục rút gọn chỉ áp dụng với đối tượng và trong phạm vi luật định, bất kỳ ai,
bất kỳ vụ án nào có đủ điều kiện luật định trong trường hợp đặc biệt thì mới
áp dụng thủ tục đặc biệt. Bất kỳ ai phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự
không phân biệt địa vị, đẳng cấp, giới tính, tôn giáo.
Bình đẳng trước pháp luật là quyền bình đẳng của công dân trước sự điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật, còn bình đẳng trước Tòa án là quyền bình
đẳng của công dân trước một cơ quan nhà nước cụ thể, cơ quan thực hiện
chức năng xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, xét xử là hoạt động trọng
tâm và Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án là yêu cầu quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định nhất trong cả quá trình tố tụng.
Nghị Quyết số 49 NQ/TW của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” nhận định: “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm”. Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 khẳng định “Không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Việc một người bị khởi tố, điều tra, truy tố trước Tòa án chưa thể kết
luận người đó có tội và chưa thể áp dụng trách nhiệm hình sự. Thời điểm thực
hiện trách nhiệm hình sự khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, chỉ
có Tòa án mới có thẩm quyền nhân danh nhà nước tuyên bố một người là có
tội và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ. Thẩm quyền đó được thực hiện
chỉ sau khi thông qua hoạt động xét xử, bằng việc xem xét toàn bộ các chứng
cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa và dựa vào
các quy định của pháp luật, Tòa án mới có căn cứ phán quyết cuối cùng một
người có phải là tội phạm hay không.
17. 10
Như vậy, hoạt động xét xử chính là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình
sự và tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng.
Và nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, vừa bảo đảm quyền cơ bản của
con người đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ án khách quan, đúng người,
đúng tội. Với ý nghĩa quan trọng đó, Bộ luật tố tụng hình sự ghi nhận: “Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án ”(Điều 19- Bộ luật tố
tụng hình sự 2003).
Quyền bình đẳng ở đây được xem xét trên hai phương diện:
Thứ nhất, trong cùng một vai trò khi tham gia tố tụng thì quyền và nghĩa
vụ của những người tham gia tố tụng là như nhau. Ví dụ, cùng là bị cáo trong
vụ án, không thể có việc bị cáo này được quyền xuất trình chứng cứ, được
quyền đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa án, còn bị cáo khác lại không
được hưởng các quyền đó.
Thứ hai, đối với các vai trò khác nhau khi tham gia tố tụng: dù là đại diện
cho nhà nước thực hiện chức năng buộc tội (Kiểm sát viên) hay bên gỡ tội (bị
cáo, người đại diện của bị cáo, người bào chữa) và những người tham gia tố
tụng khác thì họ cũng đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án.
Nội dung của nguyên tắc này là phải đảm bảo quyền bình đẳng trong
việc thu thập và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu theo quy
định của pháp luật. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự
luật định, được dùng làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội,
18. 11
giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Nếu không đảm bảo quyền bình
đẳng trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ sẽ dẫn đến tình trạng nhiều
chứng cứ buộc tội, xét xử phiến diện không khách quan chính xác. Tại phiên
tòa các bên có quyền bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ, được đưa ra các
yêu cầu làm rõ các chứng cứ đã thu thập được và yêu cầu thu thập thêm
chứng cứ mới. Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa các bên có quyền yêu cầu Tòa
án bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nếu như quyền lợi của họ
bị xâm phạm.
Tại phiên tòa các bên có quyền bình đẳng trong tranh luận và được Tòa
án bảo đảm quyền bình đẳng ấy. Tranh luận tức là các bên được trình bày
quan điểm riêng của mình, đưa ra các căn cứ để chứng minh luận điểm của
mình, từ kết quả tranh luận của các bên, những mâu thuẫn trong vụ án được
làm rõ, kết hợp với các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, tòa án sẽ bác
bỏ những quan điểm thiếu căn cứ và đưa ra phán quyết cuối cùng. Tại phiên
tòa, tất cả các chứng cứ tài liệu được xem xét công khai, lập luận của Kiểm
sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được trình
bày và được xem xét toàn diện, để việc tranh luận được hiệu quả, khách quan
thì cần thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng của các bên.
Như vậy, quyền bình đẳng trước tòa án là quyền được tòa án đối xử công
bằng và những người tham gia tố tụng có quyền ngang nhau trong việc thu
thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và góp phần giải quyết vụ
án khách quan, công bằng, chính xác.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chính là việc xác định các cơ
chế, các biện pháp để thực thi và bảo vệ quyền bình đẳng trong thực tế. Bộ
luật tố tụng hình sự chỉ rõ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm, tạo điều kiện để
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền bình đẳng.
19. 12
Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình
sự, bởi vì bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chính là bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, góp phần giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, chính xác. Nguyên tắc này không chỉ được ghi nhận
trong tố tụng hình sự Việt Nam mà còn được pháp luật quốc tế ghi nhận. Là
nguyên tắc cơ bản nên nguyên tắc này chi phối hoạt động xây dựng và áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án, mà
hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, theo đó Tòa
án là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án”.
1.1.2. Vị trí
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của những người tham gia tố tụng
trước tòa án có vị trí rất quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự, nó tác động,
chi phối các nguyên tắc khác và là định hướng cho hoạt động xây dựng, áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Khẳng định nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình
sự vì nguyên tắc này bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người, đó
là quyền bình đẳng trước Tòa án.
Ngoài ra, nguyên tắc này là phương châm, định hướng chi phối các hoạt
động tố tụng trong giai đoạn xét xử- mà giai đoạn xét xử là giai đoạn quan
trọng nhất, cơ bản nhất của tố tụng hình sự. Tại giai đoạn này, Tòa án với tính
cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện công việc xét xử vụ án, giải quyết
20. 13
những vấn đề bản chất của vụ án bao gồm định tội danh, quyết định hình phạt
đối với người phạm tội [32, tr 176].
Khẳng định nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản không chỉ dừng ở nhận
định cảm tính, mà nhận định như vậy là căn cứ vào tính khách quan, tính khoa
học của nguyên tắc. Đây là kết quả nghiên cứu của khoa học tố tụng hình sự,
nó phản ánh quy luật phát triển khách quan quá trình đấu tranh chống tội
phạm và giải quyết vụ án hình sự. Mục đích của xét xử là xác định sự thật
khách quan của vụ án để quyết định một người có tội hay không có tội và áp
dụng hình phạt tương ứng để giáo dục cải tạo riêng và phòng ngừa tội phạm
chung. Thực tế khách quan đã chứng minh không thể có được phán quyết
chính xác, khách quan nếu không đảm bảo được quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước tòa án. Nếu bên buộc tội có nhiều quyền hơn,
được thiên vị hơn tất yếu dẫn đến việc oan sai, kết án oan người vô tội, ngược
lại quá thiên vị bên bị buộc tội sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, hình phạt sẽ
không tương xứng với hành vi phạm tội. Cả hai khuynh hướng trên đều không
phù hợp với phương châm giải quyết vụ án hình sự vừa phải đảm bảo tính
chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời phải tôn trọng và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, để giải quyết chính xác,
khách quan vụ án cần phải quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án là nguyên tắc cơ bản.
Để nhận định rõ hơn về vị trí của nguyên tắc này có thể so sánh với một
số nguyên tắc khác trong giai đoạn xét xử của tòa án được quy định trong luật
tố tụng hình sự.
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, một số nguyên tắc liên
quan đến hoạt động xét xử không thể là nguyên tắc cơ bản thí dụ: “Nguyên
tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia”(Điều 15), “Nguyên tắc xét
xử công khai” (Điều 18)...Các nguyên tắc trên đều rất quan trọng đối với hoạt
21. 14
động xét xử của tòa án, song những nguyên tắc này không cơ bản vì không
chi phối toàn bộ giai đoạn xét xử và áp dụng vẫn có ngoại lệ.
“Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia”: trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán và “trong trường hợp
cần thiết có thể thêm hai Hội thẩm” (Điều 224- Bộ luật tố tụng hình sự). Như
vậy, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia hội đồng xét xử ở phiên tòa sơ thẩm,
phiên tòa phúc thẩm không tham gia và chỉ trong trường hợp cần thiết thì mới
có Hội thẩm.
Đối với “Nguyên tắc xét xử công khai” vẫn có trường hợp ngoại lệ khi
cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật
của đương sự, mặc dù Toà án phải tuyên án công khai.
Qua so sánh với một số nguyên tắc được quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự hiện nay càng thấy được vị trí quan trọng của nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án. Nguyên tắc này vừa có vị trí quan trọng trong
toàn bộ giai đoạn xét xử, không có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào và việc
không đảm bảo nguyên tắc sẽ dẫn đến việc xét xử không công bằng, thiếu
chính xác.
Là nguyên tắc cơ bản nên nguyên tắc này chi phối các nguyên tắc khác,
tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của các nguyên tắc khác như:
“Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” (Điều 4),
“nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”
(Điều 5), “nguyên tắc xác định sự thật vụ án” (Điều 10), và “nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ bị can, bị cáo” (Điều 11). Quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân cần phải được tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt
trong quan hệ tố tụng hình sự nguyên tắc này càng phải được đề cao, bởi vì tố
tụng hình sự điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến điều tra, truy tố,
xét xử- mỗi hành vi tố tụng, quyết định tố tụng đều tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích của công dân. Chính việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa
22. 15
án cũng là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của công dân. Nội dung quyền
bình đẳng trước tòa án là mọi người được bình đẳng đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật, đưa ra yêu cầu và được tranh luận dân chủ trước tòa án. Tòa án phải
xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ sự thật vụ án, phán quyết của tòa án
phải dựa vào các chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả
tranh luận tại phiên tòa, để có phán quyết khách quan, toàn diện, chính xác
cần phải đảm bảo quyền bình đẳng của các bên. Do đó, đảm bảo quyền bình
đẳng trước tòa án vừa thể hiện sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân- trong
đó có quyền được bào chữa, quyền được tranh luận và quyền bình đẳng trước
pháp luật, đồng thời đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án, giải
quyết chính xác vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định “Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của
bản án và quyết định của Tòa án” (Điều 22), theo đó bản án và quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan,
tổ chức và mọi công dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này
chỉ thực sự có hiệu quả khi bản án, quyết định của tòa án là kết quả của phiên
tòa công bằng, bảo đảm đầy đủ quyền bình đẳng của những người tham gia tố
tụng.
Xét về vị trí của nguyên tắc trong tố tụng hình sự, “Nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án” còn có quan hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác như: “Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9), “Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng”(Điều 14).
Nguyên tắc tại Điều 9 còn được gọi là “Nguyên tắc suy đoán vô tội”
nhằm xác lập, củng cố và bảo vệ quyền tự do, bình đẳng của công dân trong
tố tụng hình sự tránh sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị
can, bị cáo dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan. Theo quy định
trên, nguyên tắc suy đoán vô tội là: Thứ nhất, trước thời điểm bản án kết tội
23. 16
của tòa án có hiệu lực pháp luật, bị can, bị cáo được coi là chưa có tội. Thứ
hai, không ai ngoài tòa án có quyền khẳng định một người là có tội. Thứ ba,
Tòa án chỉ có thể khẳng định một người là có tội bằng bản án buộc tội theo
theo trình tự, thủ tục của tố tụng hình sự. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng
nhận thức sâu sắc và tuân thủ triệt để nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn đối với
thân phận của bị cáo và đối với việc giải quyết vụ án. Bởi vì, ý thức chủ quan
của người tiến hành tố tụng sẽ công tâm, không định kiến, luôn tạo sự bình
đẳng giữa các bên trong việc xuất trình chứng cứ và tranh luận bình đẳng. Bị
cáo sẽ tránh được định kiến, các chứng cứ buộc tội gỡ tội, các tình tiết tăng
nặng giảm nhẹ và các tình tiết khác về nhân thân được xem xét toàn diện, các
ý kiến tranh luận của bên buộc tội và bên gỡ tội được xem xét công khai,
không thiên lệch.
Nếu như nguyên tắc “Suy đoán vô tội” xóa bỏ định kiến chủ quan luôn
coi bị cáo đã là người có tội và góp phần đảm bảo quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước tòa án, thì nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng” lại yêu cầu những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng phải vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ. Vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ tức là không có động cơ, mục
đích riêng ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án, việc họ thực hiện nhiệm
vụ hoàn toàn theo quy định của pháp luật nhằm mục đích giải quyết vụ án
khách quan, chính xác. Người tiến hành tố tụng không vô tư, vì lợi ích cá
nhân nên bênh vực bên mình được hưởng lợi ích sẽ dẫn đến việc bất bình
đẳng trong quá trình xét xử, các chứng cứ và các ý kiến đối lập sẽ không được
xem xét. Do vậy, bảo đảm sự vô tư cũng góp phần bảo đảm cho sự bình đẳng
của những người tham gia tố tụng trước tòa án.
Từ những phân tích trên cho thấy “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án” có vị trí quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nhận thức
đầy đủ về vị trí của nguyên tắc góp phần áp dụng hiệu quả nguyên tắc trong
24. 17
thực tiễn. Đây là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự, chi phối và
tác động đến các nguyên tắc khác, góp phần đảm bảo hiệu quả trong việc áp
dụng các nguyên tắc khác như: “Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân”, “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật”, “Nguyên tắc xác định sự thật vụ án” và “Nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ bị can, bị cáo”. Đồng thời, nguyên
tắc này cũng có quan hệ mật thiết, gắn bó và cần áp dụng thống nhất, đồng bộ
với các nguyên tắc như: “Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, “Nguyên tắc bảo đảm sự vô
tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng”.
1.1.3. Ý nghĩa
Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án” có ý nghĩa quan
trọng không chỉ đối với những người tham gia tố tụng mà còn có ý nghĩa đối
với cả các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Trước hết, nguyên tắc này bảo đảm quyền và lợi ích của bị cáo và những
người tham gia tố tụng. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quan hệ pháp
luật đặc biệt, bởi lẽ khi một người bị cáo buộc có hành vi phạm tội thì người
đó có thể sẽ bị áp dụng các biện pháp tố tụng nghiêm khắc như: bị khởi tố,
điều tra, truy tố… bị áp dụng các biện pháp điều tra như: khám xét người,
khám chỗ ở, chỗ làm việc, bị tạm giữ đồ vật, bị kê biên tài sản… bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn như: bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Các biện pháp trên
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bị cáo. Bị cáo sẽ bị hạn chế quyền tự
quyền tự do thư tín, quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền tự do thân thể,
ngoài ra bị cáo còn bị ác cảm, bị coi thường bởi dư luận xã hội. Trong giai
đoạn này quyền của bị cáo bị hạn chế rất nhiều, khả năng tự thu thập chứng
cứ gỡ tội cho mình là rất khó.
Nếu kết quả điều tra, truy tố, xét xử chứng minh đúng là bị cáo có tội thì
cũng không phải bàn cãi nhiều. Nhưng kết quả chứng minh bị cáo vô tội hoặc
25. 18
hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì hậu quả thật quá nặng
nề. Có thể khẳng định không phải mọi trường hợp một người bị khởi tố, truy
tố, xét xử sẽ là người phạm tội! Trường hợp oan, sai hoàn toàn có thể xảy ra,
không phải là hiếm và nguyên nhân thì có rất nhiều. Mặt khác, các cơ quan
tiến hành tố tụng có rất nhiều quyền năng, được trang bị các công cụ, phương
tiện, hỗ trợ cho quá trình điều tra, truy tố xét xử. Trong khi đó, bị cáo bị hạn
chế mọi mặt từ khi bị khởi tố. Mặc dù luật quy định Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát vừa phải làm rõ những chứng cứ xác định có tội, đồng thời cũng tìm
các chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thực tế nghĩa vụ này không phải lúc nào cũng
được thực hiện tận tâm, trọn vẹn, nghiêm túc.
Do đó, pháp luật cần phải bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra tài
liệu, chứng cứ, đưa ra yêu cầu và được tranh luận dân chủ trước tòa. Tại phiên
tòa, những chứng cứ gỡ tội cần được xem xét, những yêu cầu cần được quan
tâm và những lời tranh luận cần được bảo đảm, chỉ khi tòa án bảo đảm quyền
bình đẳng trong việc tranh luận và xem xét chứng cứ thì mới có nhiều căn cứ
để ra bản án chính xác, khách quan. Bảo đảm quyền bình đẳng chính là bảo
đảm quyền được tranh luận, quyền được xuất trình chứng cứ, quyền được
chứng minh sự thật vụ án. Có như vậy thì quyền lợi của bị cáo mới được bảo
đảm, sự thật mới được xác định một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Đối với những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan cũng vậy. Những người này tham gia tố tụng họ cũng có quyền và lợi
ích riêng, họ cần phải được bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ và được tranh luận bình đẳng để bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng.
26. 19
Thứ hai, nguyên tắc này cũng có ý nghĩa bảo đảm cho các cơ quan tiến
hành tố tụng (đặc biệt là Tòa án) giải quyết vụ án khách quan. Tại phiên tòa,
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được bình đẳng trong việc đưa
ra tranh luận và đưa ra chứng cứ, có như vậy phiên tòa mới đúng là nơi xem
xét đánh giá cuối cùng toàn bộ vụ án trên cơ sở các chứng cứ đã được thu
thập và chứng cứ mới được trình tại phiên tòa, Tòa án không phải là tượng
trưng, xét xử không phải là hình thức. Cả cơ quan tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng cần nhận thức rằng: Tòa án mới là cơ quan đánh giá chứng
cứ và phán xét cuối cùng một người là có tội hay vô tội. Khi đó, chắc chắn
các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
sẽ tiến hành điều tra, truy tố cẩn thận, toàn diện, chứng cứ thu thập phải đầy
đủ, khách quan, đúng thủ tục, bởi các chứng cứ này sẽ được xem xét, đối
chứng và tranh luận tại phiên tòa. Nếu chứng cứ của Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát không có giá trị chứng minh hoặc không khách quan thì chắc chắn sẽ
bị Tòa án bác bỏ.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án cũng có ý nghĩa quan trọng trong
việc tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Đại diện Viện kiểm sát giữ
quyền công tố sẽ phải nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ, xem xét lại đầy đủ các
chứng cứ trước khi ra phiên tòa để việc kết tội thuyết phục và có cơ sở. Tại
phiên tòa, các chứng cứ một lần nữa lại được xem xét, thẩm tra công khai, đối
với các tình tiết của vụ án còn chưa rõ ràng, thì được làm rõ qua tranh luận,
qua chứng cứ của bên gỡ tội, khi đó Đại diện viện kiểm sát sẽ cân nhắc các
chứng cứ buộc tội của mình, các chứng cứ gỡ tội của bị cáo, các chứng cứ của
các đương sự khác để đưa ra quan điểm giải quyết vụ án. Quan điểm này sẽ là
khách quan trong việc giải quyết vụ án. Với Tòa án, bảo đảm quyền bình đẳng
tại phiên tòa sẽ tạo góc nhìn đa chiều, sẽ không có kết luận phiến diện, thiếu
khách quan bởi trên cơ sở tổng hợp đầy đủ, toàn diện ý kiến của các bên tòa
án sẽ ra phán quyết cuối cùng.
27. 20
Thứ ba, nguyên tắc này góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự một
cách dân chủ, minh bạch theo Nghị Quyết của Bộ chính trị về cải cách tư
pháp. Mục tiêu của cải cách tư pháp là “xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao”[3]. Nghị quyết chỉ rõ: cải cách tư pháp phải lấy xét xử là hoạt động
trọng tâm, Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ
quốc. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án” có ý nghĩa quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Nếu coi xét xử là hoạt động trọng
tâm, thì các tài liệu chứng cứ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải được
đối chiếu, xem xét qua việc thẩm vấn và qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Không phải bản Kết luận điều tra, không phải bản Cáo trạng, mà Bản án của
tòa án mới là phán xét cuối cùng quy kết một người là có tội.
Để có bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục thì phán quyết của bản
án đó phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa,
bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp. Nghị quyết của Bộ chính trị số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 cũng chỉ
rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa, và những người tham gia tố
tụng khác…”. Muốn có tranh tụng thì tòa án phải bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án của những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên. Có thể nói
bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là yêu cầu và là điều kiện cơ bản để
thực hiện phiên tòa tranh tụng, và để giải quyết vụ án dân chủ, minh bạch,
đúng pháp luật.
Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đều chỉ rõ phải đảm bảo
quyền bình đẳng trong tranh tụng tại phiên tòa, đây là điều kiện đảm bảo giải
28. 21
quyết khách quan vụ án. Như vậy, nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án” vừa có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của những
người tham gia tố tụng, đồng thời đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết khách quan vụ án. Đặc biệt, trong công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay, nguyên tắc này góp phần giải quyết vụ án dân chủ, minh bạch, lớn hơn
nữa là góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong
sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh.
1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Tòa án
1.2.1. Bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ là yếu tố quan trọng
và cơ bản nhất để chứng minh các vấn đề trong vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã đưa ra định nghĩa về chứng cứ như sau:
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm
căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu đồ vật khác.
Định nghĩa về chứng cứ mà Bộ luật tố tụng hình sự đưa ra khá đầy đủ,
vừa nêu được các thuộc tính của chứng cứ và vừa xác định nguồn của chứng
cứ. Chứng cứ có các thuộc tính cơ bản sau: tính khách quan, tính liên quan và
tính hợp pháp.
Tính khách quan của chứng cứ:
29. 22
Chứng cứ là những gì “có thật”, có thật là thể hiện tính khách quan, tức
là những tài liệu được coi là chứng cứ phải tồn tại trong thực tế khách quan.
Tính khách quan đó là tồn tại độc lập với ý thức con người, đang hiện hữu
trong thực tế, không phải do sự suy diễn, phỏng đoán mà được tồn tại ở dạng
vật chất. Chứng cứ mang tính khách quan còn là những tài liệu thể hiện đúng
sự thật của vụ án chứ không phải là tài liệu giả mạo, được các bên làm giả,
đánh tráo, bịa đặt. Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội sẽ tác động
vào thế giới khách quan và để lại những dấu vết trong thế giới khách quan.
Các dấu vết này sẽ tồn tại trong thực tế khách quan, bản thân những dấu vết
này cũng mang tính khách quan, và cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào
những dấu vết khách quan để chứng minh vụ án. Do đó không thể dùng
những suy đoán chủ quan, hay những dấu vết do tạo lập giả mạo để làm
chứng cứ chứng minh. Như vậy tính khách quan chính là những gì có thật, tồn
tại độc lập với ý thức con người, không phải do sự tưởng tượng, suy diễn.
Tính liên quan của chứng cứ:
Trong một vụ án có rất nhiều sự vật hiện tượng xảy ra, nhưng phải là
những gì được cơ quan tiến hành tố tụng “dùng làm căn cứ” để xác định có
hay hành vi phạm tội và các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án. Không phải tất cả các vật, dấu vết, lời khai… đều là chứng cứ mà
chỉ những gì liên quan, có giá trị chứng minh vụ án mới được dùng làm chứng
cứ. Những điều cần biết trong vụ án hình sự cần chứng minh: sự việc phạm
tội, người thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS, tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và những vấn đề khác có
liên quan đến vụ án, đây là đối tượng chứng minh của vụ án. Những vật
chứng, tài liệu nào chứng minh cho những đối tượng trên thì được coi là
chứng cứ, tính liên quan thể hiện mối liên hệ giữa sự kiện dùng làm căn cứ
chứng minh với đối tượng cần chứng minh.
Tính hợp pháp của chứng cứ:
30. 23
Chứng cứ có tính hợp pháp phải “được thu thập theo đúng trình tự, thủ
tục” do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tính khách quan và tính liên quan
của chứng cứ là những thuộc tính tự nhiên, vốn có thuộc mặt khách quan còn
tính hợp pháp lại phản ánh sự nhận thức chủ quan đối với các quy luật khách
quan. Bởi vì việc quy định trình tự thủ tục thu thập chứng cứ phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của nhà làm luật, chứng cứ được coi là hợp pháp nếu tuân theo
đúng trình tự đã được luật quy định.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự phải xác định được đúng
nguồn của chứng cứ trước tiên và phải có biện pháp thu thập chứng cứ theo
đúng luật định.
Nguồn của chứng cứ gồm: Vật chứng; Lời khai của người là chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết luận
giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu đồ vật khác.
Việc pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể nguồn của chứng cứ góp phần
phân biệt giữa những tài liệu đồ vật thuộc nguồn luật định và những thông tin
tội phạm được thu thập bằng các biện pháp trinh sát của cơ quan điều tra hoặc
các nguồn khác. Tuy nhiên chỉ những tài liệu có xuất xứ từ các nguồn trên
mới được coi là chứng cứ.
Xác định nguồn của chứng cứ, cần có những biện pháp thu thập chứng
cứ theo luật định: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can (Chương X); Lấy lời khai
người làm chứng, người bị hại, đối chất, nhận dạng (Chương XI); Khám xét,
thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản (Chương XII); Khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám định(Chương XIII). Đây là
những biện pháp điều tra luật định buộc các cơ quan điều tra phải căn cứ vào
đó để áp dụng, trình tự thủ tục điều tra phải tuân theo quy định của pháp luật.
Chỉ những kết quả thu thập được từ các biện pháp điều tra trên thì mới coi là
hợp pháp và được dùng làm chứng cứ.
31. 24
Chứng cứ được coi là hợp pháp ngoài việc phải áp dụng các biện pháp
thu thập theo luật định, còn phải đúng thẩm quyền và đúng trình tự luật định.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định khá đầy đủ về trình tự, thủ tục
và các biện pháp thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với
người tham gia tố tụng mặc dù có cho phép được thu thập chứng cứ, nhưng
quy định còn thiếu cụ thể về trình tự, thủ tục và biện pháp thu thập. Theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, cơ quan tiến hành tố tụng khi
điều tra vụ án vừa có trách nhiệm thu thập các chứng cứ buộc tội, đồng thời
phải thu thập cả các chứng cứ gỡ tội. Vì thế, người tham gia tố tụng không có
nghĩa vụ phải thu thập chứng cứ, và họ không có nhiều thẩm quyền trong việc
thu thập chứng cứ.
Tuy nhiên, quyền được đưa ra chứng cứ chứng minh là quyền chính đáng
của những người tham gia tố tụng và cải cách tư pháp hướng tới phiên tòa
tranh tụng thì phải bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ.
Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ là phải bảo đảm
quyền bình đẳng trong các hoạt động sau:
Bình đẳng trong thu thập chứng cứ;
Bình đẳng trong khi áp dụng các thủ tục thu thập chứng cứ;
Bình đẳng trong kiểm tra chứng cứ;
Và bình đẳng trong đánh giá chứng cứ.
Trong kiểu tố tụng tranh tụng ở các nước theo hệ thống luật án lệ, bình
đẳng trong thu thập chứng cứ là điều kiện cơ bản để có tranh tụng trước tòa án
và được bảo đảm tuyệt đối. Kiểu tố tụng này cho rằng: “tố tụng là một cuộc
tranh đấu tại Tòa án giữa một bên là nhà nước (thông qua đại diện) và một
bên là công dân bị nghi thực hiện tội phạm; là cuộc đấu tranh thì hai bên đều
được sử dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập,
kiểm tra và đánh giá chứng cứ, phân tích và đưa ra các kết luận đối với
những việc cụ thể”[70, tr 123]. Trong kiểu tố tụng này, không chỉ có nhà
32. 25
nước (thông qua đại diện) mà cá nhân cũng có quyền trong việc thu thập,
kiểm tra, phân tích và đánh giá chứng cứ. Về nguyên tắc, hai bên có khả năng
như nhau không chỉ tại phiên tòa mà cả trong giai đoạn trước phiên tòa (giai
đoạn điều tra). Công việc của họ là thu thập chứng cứ để buộc tội hoặc bào
chữa, phục vụ cho cuộc đấu tranh ở Tòa án và họ có trách nhiệm chứng minh
tính có lỗi (buộc tội) hoặc tính không có lỗi, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(gỡ tội).
Trong khi, đối với hệ tố tụng thẩm vấn: “hệ thống chứng cứ đặc trưng
của hình thức tố tụng này là tính hợp lệ của chứng cứ, khi đánh giá chúng với
những đòi hỏi hết sức khắt khe, nhưng nhiều quy định về chứng cứ lại hết sức
trừu tượng. Chẳng hạn lời nhận tội của bị cáo được coi là “chứng cứ vua” của
mọi loại chứng cứ. Phiên tòa không phải là sự cạnh tranh của hai bên đối địch
mà là sự tiếp tục điều tra, các bên phải cung cấp tất cả các chứng cứ thích hợp
cho Tòa án” [25]. Mô hình tố tụng này bao giờ cũng đề cao vai trò của Thẩm
phán, bị cáo không phải là chủ thể của tố tụng mà là đối tượng truy cứu của tố
tụng, việc tranh tụng là khá mờ nhạt “vì sự thật chỉ có thể và phải được tìm ra
trong quá trình thẩm vấn và điều tra”.
Có thể nhận xét ở mỗi kiểu tố tụng có những ưu điểm và hạn chế, song ở
kiểu tố tụng tranh tụng đề cao vai trò chủ động của bên buộc tội và bên gỡ tội
tại phiên tòa, quyền của bị cáo được bảo đảm hơn tại phiên tòa. Như vậy, bảo
đảm quyền bình đẳng trong thu thập chứng cứ chính là tiếp thu và kế thừa
thành tựu pháp lý của nhân loại, đồng thời cũng phù hợp với định hướng cải
cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta hiện hay đó là “việc xét xử của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo [2] và chính Mác cũng đã viết: “sự thật chỉ có thể được tìm ra
thông qua tranh luận…”.
33. 26
Bảo đảm quyền bình đẳng trong thu thập chứng cứ thì pháp luật phải quy
định bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền tự mình thu
thập chứng cứ. Pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm điều tra thu thập
chứng cứ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi điều tra, truy tố, xét xử
ngoài nhiệm vụ thu thập, xem xét các chứng cứ buộc tội, đồng thời phải thu
thập, xem xét các chứng cứ gỡ tội. Bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh
mình vô tội. Chính vì thế, hiển nhiên dẫn đến việc pháp luật quy định rất hạn
chế các biện pháp, các thủ tục thu thập chứng cứ của những người tham gia tố
tụng. Trách nhiệm thu thập chứng cứ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng,
nhưng bị cáo và những người tham gia tố tụng cũng cần được trao cho quyền
được tự mình thu thập chứng cứ. Cần phải thống nhất nhận thức rằng: tự mình
thu thập chứng cứ không có nghĩa các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ thu thập
chứng cứ buộc tội, không còn nhiệm vụ phải thu thập chứng cứ gỡ tội, nhiệm
vụ này hoàn toàn giao hết cho bị cáo, luật sư, những người tham gia tố tụng
khác; mà cùng với hoạt động thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố
tụng thì những người tham gia tố tụng cũng được trao quyền và có trách
nhiệm thu thập chứng cứ cho mình. Được tự mình thu thập chứng cứ hoặc
nhờ Luật sư, người bảo vệ quyền lợi của mình thu thập chứng cứ vừa đảm bảo
quyền tự bào chữa, đảm bảo quyền lợi chính đáng của bản thân, đồng thời
đảm bảo quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ trước Tòa án.
Tuy nhiên, nếu pháp luật trao quyền được tự mình thu thập chứng cứ mà
không quy định đầy đủ trình tự thủ tục và các biện pháp thu thập chứng cứ thì
quyền đó chỉ là hình thức, không đảm bảo hiệu quả cho những người tham gia
tố tụng thực hiện quyền của mình. Do đó, cần có sự bình đẳng trong việc áp
dụng các thủ tục thu thập chứng cứ.
Thu thập chứng cứ trải qua một quá trình lâu dài, bằng nhiều biện pháp
nghiệp vụ khác nhau, không thể yêu cầu sự bình đẳng trong thu thập chứng cứ
nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng có biện pháp điều tra gì thì những
34. 27
người tiến hành tố tụng được quyền áp dụng các biện pháp điều tra đấy. Yêu
cầu đó là máy móc, không thực tế, không phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
Có nhiều biện pháp điều tra chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới có đủ điều
kiện, khả năng và thẩm quyền để áp dụng như: khởi tố bị can, khám xét, tạm
giữ đồ vật, tài liệu, khám nghiệm…
Ngoài ra, xét về nhiệm vụ và mục đích cũng không thể đòi hỏi những
người tham gia tố tụng được áp dụng đầy đủ các biện pháp điều tra như các
cơ quan tiến hành tố tụng. Các biện pháp điều tra trong Tố tụng hình sự có thể
chia làm hai loại: Các biện pháp thu thập chứng cứ và các biện pháp đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án. Trong quá trình điều tra, thu thập thập chứng cứ,
những người tham gia tố tụng có nhiệm vụ và mục đích riêng là tìm các
chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (đối với bị cáo và
người bào chữa) hoặc các chứng cứ phục vụ yêu cầu và lợi ích của mình (đối
với người tham gia tố tụng khác như bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan). Trong khi đó, cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phải xác định có
hay không sự việc phạm tội, xác định người thực hiện tội phạm (gồm tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò đồng phạm), đồng thời phải
xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị và tìm biện pháp
khắc phục. Với những nhiệm vụ như vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng
có nhiều biện pháp điều tra thu thập chứng cứ là tất yếu.
Bình đẳng trong việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ thể hiện ở
những nội dung sau:
Đối với người bào chữa, có quyền tiếp cận một cách không hạn chế đối
với các hồ sơ có liên quan đến việc thẩm vấn bị can, bị cáo, các kết luận của
giám định viên. Kết quả giám định là một trong những tài liệu, chứng cứ quan
trọng để giải quyết vụ án, cho nên không chỉ cơ quan tiến hành tố tụng được
quyết định trưng cầu giám định mà những người tham gia tố tụng cũng phải
được quyền trưng cầu giám định.
35. 28
Trong các giai đoạn tố tụng, người bào chữa có quyền kiểm tra các biên
bản lấy lời khai của bị can, các hoạt động tố tụng điều tra mà luật quy định
luật sư phải có mặt hoặc lẽ ra phải có mặt. Được quyền ghi chép, sao chụp tài
liệu có trong hồ sơ sau khi đã kết thúc điều tra. Các quyền này đảm bảo cho
phía bào chữa có được các thông tin cần thiết để phục vụ quá trình giải quyết
vụ án, tìm ra các chứng cứ cho việc bào chữa. Ngoài ra, bằng việc kiểm tra
các biên bản sẽ hạn chế các vi phạm tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.
Được thu thập tài liệu từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu những người
này không hợp tác thì có quyền yêu cầu cơ quan điều tra thu thập. Phải định
rõ biện pháp thu thập cũng như hậu quả pháp lý đối với các cá nhân, tổ chức
không tạo điều kiện để người bào chữa thu thập chứng cứ.
Bình đẳng trong áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ còn thể hiện
giữa những người tham gia tố tụng có quyền ngang nhau trong việc được yêu
cầu áp dụng các biện pháp điều tra. Trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào, khi có
vấn đề cần chứng minh, cần phải áp tiến hành điều tra thu thập chứng cứ,
những người tham gia tố tụng như: luật sư, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn, bị đơn dân sự có quyền yêu cầu các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ.
Người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng, có quyền đưa ra chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tòa án là
đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này; tránh trường hợp sợ phiền
phức nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
Mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư. Luật sư
được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ và không loại trừ cả đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bởi lẽ tham gia tố tụng từ sớm thì quyền
lợi của bị cáo càng được bảo đảm, thời gian để luật sư thu thập chứng cứ càng
nhiều. Điều này cũng phù hợp với Điều 5 “Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật” và Điều 11 “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
36. 29
tạm giữ, bị can, bị cáo” trong Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, không đơn
thuần chỉ là luật sư tham gia tố tụng từ thời điểm nào như bấy lâu nay vẫn
tranh luận trong khoa học mà quan trọng người bào chữa có địa vị pháp lý
như nào để có thể bình đẳng trong thu thập, áp dụng biện pháp thu thập chứng
cứ.
Chứng cứ thu thập được cần phải được kiểm tra, đánh giá. Việc kiểm tra
đánh giá chứng cứ không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền mà
những người tham gia tố tụng cũng có quyền năng đó. Bởi vì, với những
chứng cứ là lời khai của nhân chứng, bị cáo, bị hại… được phản ánh bằng ý
thức chủ quan, có thể không đúng sự thật do nhiều nguyên nhân: do trình độ,
trí nhớ không tốt hoặc do động cơ cá nhân. Hoặc những chứng cứ là kết luận
giám định mà có nhiều ý kiến khác nhau, có nhiều chỗ không rõ ràng, hay
chứng cứ là vật chứng, tài liệu, đồ vật qua thời gian bị mất đi tính chất ban
đầu, hoặc do việc làm giả, ngụy tạo chứng cứ. Cho nên chứng cứ cần phải
được kiểm tra, đánh giá.
Việc kiểm tra được tiến hành bằng các biện pháp: phân tích các thuộc
tính của chứng cứ xem có giá trị chứng minh và có phù hợp thực tế khách
quan hay không; So sánh đối chiếu các chứng cứ xem có phù hợp không, nếu
mâu thuẫn thì do đâu; Đưa ra chứng cứ mới để làm sáng tỏ chứng cứ đã thu
thập được.
Đánh giá chứng cứ nhằm xác định giá trị của chứng cứ xem chứng cứ đó
chứng minh cho đối tượng nào trong vụ án, hiệu quả chứng minh cao hay
thấp. Qua đó đánh giá tổng hợp xem các chứng cứ thu thập được có đủ cơ sở
chứng minh tội phạm hay chưa, từ đó đưa ra kết luận về vụ án.
Tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá
của mình về kết quả thu thập chứng cứ. Để đảm bảo quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, các bên tham gia tố tụng được công khai đưa ý kiến
đánh giá của mình về các chứng cứ mà cơ quan điều tra và những người tham
37. 30
gia tố tụng khác thu thập được. Không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng mới
có quyền đánh giá chứng cứ của những người tham gia tố tụng thu thập được
mà những người tham gia tố tụng cũng có quyền đánh giá các chứng cứ được
thu thập trong giai đoạn điều tra và chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa.
Các đánh giá khác nhau, phản biện khác nhau của các bên tham gia tố tụng tại
phiên tòa sẽ giúp Tòa án khách quan, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh
giá để ra phán quyết.
Xem xét từ góc độ tranh tụng, các bên tham gia tố tụng đều có quyền
kiểm tra, đánh giá tài liệu, chứng cứ từ những người khác dưới sự điều khiển
của chủ tọa phiên tòa. Hiện nay, gánh nặng xét hỏi thuộc về tòa án, pháp luật
chỉ cho phép một số ít các bên tham gia xét hỏi (Đại diện viện kiểm sát, Luật
sư), cần quy định những người tham gia tố tụng khác được quyền hỏi về
những chứng cứ chưa rõ ràng. Yêu cầu kiểm tra, làm rõ các chứng cứ còn
mâu thuẫn, được hỏi và đưa ra quan điểm của mình về các chứng cứ chưa rõ
ràng đó.
Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ là một nội dung
của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án, không chỉ giúp cho
những người tham gia tố tụng có cơ hội chứng minh quan điểm và làm rõ hơn
các tình tiết trong vụ án mà còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc
biệt là Tòa án có được những chứng cứ quan trọng để kiểm tra, đánh giá, đối
chiếu từ đó có phán quyết chính xác hơn.
1.2.2. Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, những người tham gia tố tụng
thường có vai trò thụ động. Các phương hướng và các biện pháp điều tra đều
do các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động lên kế hoạch thực hiện. Trong quá
trình điều tra, truy tố các hoạt động điều tra được giữ bí mật, những người
tham gia tố tụng rất khó có cơ hội để đưa ra yêu cầu đóng góp cho quá trình
giải quyết vụ án, cũng như yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, tại
38. 31
phiên tòa công khai, đầy đủ những người tham gia, các chứng cứ và các yêu
cầu được xem xét toàn diện, bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra yêu
cầu trước tòa án vừa thể hiện tính dân chủ, tạo cơ hội cho những người tham
gia tố tụng chủ động, tích cực tham gia giải quyết vụ án và đề xuất cho Tòa án
những vấn đề cần giải quyết để Tòa án có những phán quyết đầy đủ, toàn diện
hơn.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, các quy định về quyền của
những người tham gia tố tụng như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự đều ghi nhận quyền được “đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu”. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu cũng chính
là tuân thủ quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Trước hết Tòa án phải bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra các
yêu cầu giải quyết vụ án:
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng
cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do
các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và
không loại trừ việc thiếu khách quan. Trong vụ án hình sự, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên đa số các
trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chú trọng thu thập các chứng cứ
buộc tội trước, coi nhẹ việc thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên gỡ tội
(bị can, bị cáo, luật sư) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm
hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa, không đảm bảo được quyền
lợi chính đáng của họ. Vì vậy, chỉ có tại phiên tòa những người tham gia tố
tụng mới có cơ hội, điều kiện để xem xét công khai các chứng cứ đã được
các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, để qua đó bị cáo và những người tham
gia tố tụng được đưa ra yêu cầu thu thập thêm chứng cứ mới, triệu tập thêm
người làm chứng, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật mới. Tòa án có trách nhiệm
39. 32
bảo đảm để các bên thực hiện quyền tố tụng này mà không sợ bị phiền phức,
không sợ đi lệch kế hoạch xét xử. Những yêu cầu này cần phải được tòa án
xem xét, nếu có căn cứ cần phải được đáp ứng vì sẽ giúp cho việc giải quyết
vụ án toàn diện hơn.
Phiên tòa có tầm quan trọng đối với những người tham gia tố tụng, đặc
biệt là bị cáo và người bào chữa. Phiên tòa là cuộc điều tra công khai nhằm
kiểm tra tính hợp pháp của chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kiểm tra tính xác
thực của của các chứng cứ qua việc xét hỏi bị cáo, nhân chứng, bị hại…để
làm rõ sự thật khách quan. Đối với bên bào chữa việc đối chất, đưa ra chứng
cứ mới, bác bỏ chứng cứ buộc tội có nhiều thuận lợi bởi tại đây có mặt đầy đủ
những người tham gia tố tụng.
Ngoài ra các yêu cầu chính đáng khác của những người tham gia tố tụng
mà Tòa án phải bảo đảm đó là:
Khi nghe chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền và nghĩa vụ, họ có quyền yêu
cầu chủ tọa phiên tòa giải thích quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa nếu
chủ tọa quyên không làm việc đó. Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng
nếu có căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa nếu chưa nhận được bản cáo
trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc nhận được nhưng không đúng
thời hạn quy định. Yêu cầu này liên quan đến quyền được biết mình bị truy tố,
xét xử về tội gì và để có thời gian chuẩn bị cho việc bảo vệ tại phiên tòa.
Có quyền yêu cầu hoãn phiên tòa nếu người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của mình không thể tham gia phiên tòa với lý do chính đáng.
Những người tham gia phiên tòa có quyền bình đẳng yêu cầu được xem
biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi bổ sung vào biên bản phiên tòa
vì biên bản phiên tòa cũng được coi là chứng cứ, những lời khai tại phiên tòa
có thể được dùng làm chứng cứ, những người tham gia tố tụng cần được xem
để giúp cho việc kháng cáo và xét xử ở phiên tòa phúc thẩm.
40. 33
Có quyền yêu cầu công bố những tài liệu đã có trong hồ sơ, được xem
xét vật chứng, kết luận giám định, được nhận xét và yêu cầu làm rõ những
vấn đề chưa rõ ràng, chưa đầy đủ hoặc mâu thuẫn trong chứng cứ và kết luận
giám định. Nếu những chứng cứ hoặc kết luận giám định có mâu thuẫn không
được làm rõ thì những người tham gia tố tụng phải có quyền yêu cầu giám
định bổ sung, giám định lại.
Trước khi kết thúc phần xét hỏi, được quyền yêu cầu Hội đồng xét xử xét
hỏi thêm những vấn đề chưa rõ.
Đối với những yêu cầu bảo vệ lợi ích riêng của mình thì người bị hại,
nguyên đơn dân sự có quyền yêu cầu mức bồi thường và các biện pháp bảo
đảm bồi thường. Bị cáo và bị đơn dân sự có quyền yêu cầu làm rõ căn cứ đòi
mức bồi thường.
Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu vừa thể hiện tính
dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền lợi của những người tham gia tố tụng,
đồng thời giúp cho việc xét xử của Tòa án toàn diện hơn vì những yêu cầu đó
sẽ góp phần bổ sung, khắc phục thiếu sót không chỉ về thủ tục tố tụng mà cả
nội dung vụ án.
1.2.3. Bình đẳng trong tranh luận
Đảm bảo quyền bình đẳng trong tranh luận tại Tòa án có thể nói là nội
dung quan trọng nhất. Nếu như phần thẩm vấn chủ yếu để làm rõ các chứng
cứ đã thu thập được, đối chiếu với lời khai của các nhân chứng, bị cáo, bị hại,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì phần tranh luận để cho các bên
kiểm tra, đánh giá chứng cứ, phát biểu quan điểm buộc tội và gỡ tội. Phần
tranh luận sẽ đánh giá toàn diện nội dung vụ án. Các công việc như nghiên
cứu hồ sơ, phân tích, đánh giá chứng cứ cũng nhằm giúp cho việc bào chữa
tại phiên tòa. Chính vì thế mà Nghị Quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị cũng
đã chỉ rõ: “Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
41. 34
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo…”.
Bảo đảm quyền bình đẳng trong tranh luận nghĩa là các bên buộc tội, bên
gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác đều có cơ hội và được tạo điều
kiện và có địa vị pháp lý ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu,
được trình bày ý kiến riêng của mình. Đồng thời được bình đẳng trong việc
kiểm tra, đánh giá chứng cứ, luận điểm của bên kia. Có thể chấp nhận hoặc
phản đối ý kiến của phía bên kia, đặc biệt đối với bị cáo, bình đẳng trong
tranh luận là phải đảm bảo cho bị cáo được quyền đối đáp với quan điểm của
đại diện viện kiểm sát. Việc bị cáo đối đáp bình đẳng không được cho rằng bị
cáo ngoan cố, chối tội, có thái độ không thành khẩn, bởi lẽ bị cáo chưa có bản
án kết tội của Tòa án thì không thể cho là chối tội, miễn là bị cáo đưa ra được
căn cứ, tài liệu chứng minh cho quan điểm của mình và việc tranh luận bình
đẳng cũng là quyền lợi chính đáng của bị cáo được pháp luật bảo vệ.
Có một thủ tục tố tụng trước khi mở phiên tòa đó là tòa án phải giao
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhiều người cho rằng đây là sự đồng tình của
Thẩm pháp đối với Kết luận điều tra của cơ quan điều tra và Cáo trạng của
Viện kiểm sát. Thực ra không phải vậy, quan điểm này sẽ dẫn đến tình trạng
thiếu công bằng, Thẩm phán bị thiên lệch, bên bị buộc tội sẽ ảnh hưởng đến
nỗ lực bào chữa. Do đó cần hiều rằng, quyết định đưa vụ án ra xét xử là do
không có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ vụ
án. Căn cứ vào hồ sơ đã thu thập được của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có
đủ điều kiện tối thiểu để mở phiên tòa xét xử, việc truy tố là có căn cứ. Tại
phiên tòa căn cứ vào chứng cứ, tài liệu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
chứng cứ gỡ tội của bên bào chữa và kết quả tranh luận công khai tại phiên
tòa, Tòa án sẽ quyết định các vấn đề về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân
sự. Chính vì thế việc bảo đảm quyền bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa
42. 35
có ý nghĩa quan trọng, bởi tại phiên tòa các vấn đề sẽ được xem xét, đánh giá
công khai, kết quả tranh luận là căn cứ quan trọng để Tòa án ra bản án.
Trong phần tranh luận công khai tại phiên tòa, các bên không bị hạn chế
về thời gian tranh luận, cũng như không bị ngắt lời nếu như phần tranh luận
đó có căn cứ, là những luận điểm mới được nêu ra. Chủ tọa phiên tòa có
quyền ngắt lời, cắt bỏ những câu hỏi hoặc những vấn đề do những người tham
gia tranh luận nêu ra nếu nó không liên quan đến vụ án, nhưng không được
hạn chế thời gian tranh luận. Với mỗi câu hỏi hoặc vấn đề chưa rõ ràng thì
cần phải tranh luận để làm rõ. Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát
viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát
viên tranh luận. Chỉ không tranh luận khi vấn đề đã được giải đáp cụ thể, rõ
ràng, những người tham gia tố tụng không trình bày gì thêm.
Một vấn đề cần xem xét đó là khái niệm tranh tụng và tranh luận tại
phiên tòa. Trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không sử dụng khái niệm
tranh tụng, chỉ sử dụng khái niệm tranh luận tại phiên tòa. Khái niệm tranh
luận có nội hàm hẹp hơn khái niệm tranh tụng. Tranh luận chủ yếu là việc đối
đáp, trình bày ý kiến của mình đối với bên tham gia tố tụng khác, phần tranh
luận chỉ bắt đầu sau khi kết thúc phần xét hỏi. Khái niệm tranh tụng là của
kiểu tố tụng tranh tụng. Theo đó, tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh
luận tại phiên tòa mà nó còn thể hiện ở các phần khác của phiên tòa xét xử và
các giai đoạn tố tụng khác, bởi vì cứ có hoạt động buộc tội thì cũng xuất hiện
hoạt động gỡ tội. Ví dụ có hoạt động bắt giữ thì có sự tham gia của luật sư, có
hoạt động điều tra thì luật sư cũng được tham gia và được tự mình tiến hành
thu thập chứng cứ. Tại phiên tòa, tranh tụng có cả ở phần thẩm vấn. Cụ thể,
sau khi bên buộc tội hỏi bị cáo theo hướng buộc tội thì người bào chữa cũng
được hỏi bị cáo theo hướng gỡ tội, chứ không phải Hội đồng xét xử hỏi, Kiểm
sát viên hỏi xong hết các bị cáo mới đến lượt người bào chữa. Để bảo đảm
43. 36
quyền bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa cần áp dụng những yếu tố hợp
lý, tích cực của kiểu tố tụng tranh tụng. Đó là chúng ta đang học tập, tiếp thu
tinh hoa và thành tựu khoa học pháp lý của nhân loại.
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án
Cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là cách thức, phương thức
để quyền bình đẳng trước tòa án được thực hiện. Cơ chế này xác định chủ thể
nào có trách nhiệm đảm bảo quyền bình đẳng trước phiên tòa, cũng như các
căn cứ, cách thức để thực hiện quyền bình đẳng ấy.
Pháp luật tố tụng hình sự đã xác định trách nhiệm bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa thuộc về Tòa án. Ngoài quy định của pháp luật thực định, thì
hoạt động tố tụng cũng thể hiện vai trò chủ yếu thuộc về Tòa án. Như ta biết,
tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng, những cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Hoạt
động tố tụng hình sự là một quá trình giải quyết vụ án hình sự, gồm nhiều giai
đoạn khác nhau do nhiều cơ quan tiến hành và nhiều cá nhân tham gia. Nhưng
tựu chung thì gồm hoạt động buộc tội, hoạt động gỡ tội và hoạt động xét xử.
Hoạt động buộc tội do một cơ quan đại diện cho nhà nước thực hiện (cơ quan
công tố), hoạt động gỡ tội do bị cáo và người bào chữa thực hiện, Tòa án là cơ
quan xét xử, là người trọng tài có quyền phán quyết cuối cùng. Để vụ án được
giải quyết khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật
thì các bên phải có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, đưa ra yêu cầu và bình đẳng trong tranh luận. Trách nhiệm, nghĩa vụ tạo
điều kiện cho các bên thực hiện quyền bình đẳng thuộc về Tòa án. Tòa án là
cơ quan duy nhất có quyền tuyên bố một người là có tội hay không có tội, có
quyền áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Chỉ có tòa án mới có quyền
xét xử và ra phán quyết cuối cùng. Vì thế, đầu tiên phải xác định trách nhiệm
thuộc về tòa án.
44. 37
Thứ hai, để Tòa án thực hiện tốt trách nhiệm của mình thì cần phải có
nền tư pháp độc lập, xét xử độc lập. Xét xử là hoạt động thuộc nhánh quyền
tư pháp. Hoạt động xét xử không phụ thuộc vào bất kỳ tác động, sự can thiệp
từ bên ngoài hay ý chí chủ quan nào mà chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã
được thu thập và được xem xét tại phiên tòa. Khi xét xử, Hội đồng xét xử độc
lập, quyết định theo theo đa số, chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán của Tòa
án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên trong việc phán quyết
vụ án cụ thể. Các bản án, quyết định sai sẽ được xem xét theo trình tự thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Hoạt động xét xử không để cơ quan lập pháp quyết định thay hay cơ quan
hành pháp can thiệp, mà chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và
quyết định.
Thứ ba, để bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án thì chủ thể đầu tiên và
quan trọng nhất chính là Tòa án, bên cạnh đó, các chủ thể khác cùng với Tòa
án cũng có trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng này. Giai đoạn đầu tiên, Cơ
quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra là những cơ quan tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm cần
phải khách quan, thận trọng trong hoạt động điều tra, các chứng cứ tài liệu thu
thập phải theo đúng quy định pháp luật, có thái độ khách quan khi tiến hành
điều tra, tôn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản của công dân khi tiến hành
điều tra. Ví dụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can có quyền mời luật sư, có
quyền bào chữa; Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn cần phải thường xuyên
kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp đó, nghiêm cấm mọi
hình thức truy bức, nhục hình… Viện kiểm sát với chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cần đảm bảo không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, kịp thời phát hiện xử lý các trường hợp vi
phạm tố tụng, chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Viện kiểm sát cần nắm
45. 38
chắc hồ sơ, kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra. Tại phiên tòa phải kiểm tra,
đối chiếu các chứng cứ đã thu thập được thông qua việc hỏi bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, trong tranh luận phải làm rõ những vấn đề mà
luật sư nêu ra.
Đối với bị cáo cần sớm mời người bào chữa tham gia vào quá trình tố
tụng. Người bào chữa cần tham gia hỏi cung, nghiên cứu hồ sơ vụ án, phải
chủ động thu thập chứng cứ gỡ tội. Cần phải phát hiện sai sót về thủ tục tố
tụng và tính thiếu căn cứ trong việc kết tội từ ngay giai đoạn điều tra mà
không cần đợi đến khi phiên tòa bắt đầu, từ đó kiến nghị cơ quan tiến hành tố
tụng khắc phục nhằm bảo đảm quyền lợi cho bị cáo và tránh oan sai mà các
cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, người bào chữa cùng với Tòa án
có trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng của những người tham gia tố tụng,
còn có một số cơ quan khác cũng góp phần quan trọng trong việc làm rõ
chứng cứ và làm rõ các tình tiết khác của vụ án như cơ quan giám định tư
pháp. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, việc trưng cầu giám định là hoạt
động bình thường, nhưng đối với bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng
khác việc trưng cầu giám định là hết sức khó khăn, bởi vì nhiều trường hợp
không có điều kiện kinh tế, hệ thống cơ quan giám định tư pháp còn hạn chế,
trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định quy định hiện còn
chưa chặt chẽ rõ ràng, do đó cần hoàn thiện chế định giám định tư pháp để
những người tham gia tố tụng có điều kiện thu thập, kiểm tra chứng cứ, góp
phần bảo vệ quyền lợi của mình tại phiên tòa.
Như vậy, cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án xác định trách
nhiệm đầu tiên và cơ bản thuộc về Tòa án. Các cơ quan tiến hành tố tụng khác
và những người tiến hành tố tụng cũng có trách nhiệm cùng với Tòa án bảo
đảm quyền này.