SlideShare a Scribd company logo
1 of 133
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA
VIỆN KIỂM SÁT VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
[
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA
VIỆN KIỂM SÁT VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
[
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.PHẠM MẠNH HÙNG
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................3
MỤC LỤC...................................................................................................................4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..........................................................................14
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
Chương 1.....................................................................................................................6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG.......................................................................................6
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI............................6
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời và vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ
thống pháp luật quốc tế ............................................................................................6
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người........................6
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người .....................................................................6
1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người .......................................................10
1.1.2. Khái quát pháp luật quốc tề về quyền con người và bảo vệ quyền con người
..............................................................................................................................12
1.1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong một số điều ước quốc
tế...........................................................................................................................12
1.1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng
hình sự một số nước.............................................................................................21
1.2. Khái quát về vấn đề quyền con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ
thống pháp luật Việt Nam ......................................................................................26
1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp...........26
1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự.................................................................................................................30
1.2.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Hình sự
..............................................................................................................................30
1.2.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Thi hành
án hình sự.............................................................................................................33
Có thể nói, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực
tiễn. Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng
mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
do họ gây ra. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý
được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ
nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này
nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm
mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt
khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung...........................................................35
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị quy định quyền không bị
tra tấn Điều 7: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách
tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử
dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện
của người đó”. Công ước đặt ra những chuẩn mực cho các quốc gia thành viên
để bảo vệ nhóm quyền không bị tra tấn, được đối xử nhân đạo, không bị giam
giữ độc đoán, tra tấn, nhục hình. Các nước thành viên Công ước, dựa trên các
nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và
văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy định riêng nhưng không được
trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Công ước [3, tr.20-21].
..............................................................................................................................35
Những vấn đề này đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ từ văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001 và 2013); cho đến các văn bản luật và dưới luật đã cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự, Luật Thi hành án hình sự... Đây chính là nền tảng pháp lý để ngăn chặn và
trừng trị những hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay
bị hạ nhục. Với tinh thần đó, một số quy định của Luật thi hành án hình sự
cũng đã thể hiện được được những quyền cơ bản được ghi nhận trong các công
ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, cụ thể như sau:....................................36
* Quy định để đảm bảo những người phải chấp hành án phạt tù được đối xử
nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người:.........36
Quyền được đối xử nhân đạo, được tôn trọng nhân phẩm đã được thể hiện ở
chính mục đích của hình phạt tù và thông qua chế độ chấp hành án. Người chấp
hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản, như
quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Những
quyền này được quy định cụ thể tại Luật Thi hành án hình sự năm 2010...........36
Một trong các nguyên tắc thi hành án hình sự được đề ra trong Luật là “tôn
trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 3
Điều 4). Bên cạnh đó, cần “kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi
hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ
phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác
của người chấp hành án” (Khoản 4 Điều 4). Luật Thi hành án hình sự cũng
nghiêm cấm “xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”
(Khoản 9 Điều 9). Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một chương quy định
về thi hành án phạt tù và chế độ quản lý, giam giữ, giáo dục phạm nhân
(Chương III, từ Điều 21 đến Điều 53) [3, tr.23-24]............................................36
Với tinh thần tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người, Luật Thi hành
án hình sự đã quy định rất cụ thể việc phân khu giam giữ phạm nhân, quy định
rõ những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: phạm nhân nữ; phạm
nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân là
người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân
thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam (Điều 27). Các chế độ liên
quan thiết thực của phạm nhân như chê độ ăn, mặc, ở, chăm sóc sinh hoạt, y tế,
học tập, học nghề, lao động, gặp, liên lạc, nhận quà của thân nhân… đều được
quy định trong Luật này [3, tr.23-24]..................................................................37
* Về quy định dành riêng cho người chưa thành niên để đảm bảo việc giam giữ
được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp lứa tuổi của họ:..37
Xuất phát từ tinh thần nhân văn cao cả là nhằm giáo dục, giúp đỡ người chưa
thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội, tại Khoản 2 Điều 27 Luật Thi hành án hình sự quy định:
..............................................................................................................................37
… Trong các khu giam giữ quy định tại Khoản 1 Điều này, những phạm nhân
dưới đây được bố trí giam giữ riêng: ..................................................................37
a) Phạm nhân nữ;....................................................................................37
b) Phạm nhân là người chưa thành niên;................................................37
c) …..........................................................................................................37
Không chỉ được giam giữ riêng, Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một
mục để quy định đối với các phạm nhân là người chưa thành niên với các điều
kiện đối xử tốt hơn so với các phạm nhân đã thành niên (mục 3 Chương III).
Chẳng hạn như chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ và vui chơi giải trí,
giáo dục, học văn hóa, học nghề, lao động... Phạm nhân là người chưa thành
niên được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành
niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng;
Phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực riêng và phù hợp
với độ tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại... [3, tr.26].................................................................................37
Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định rõ trách nhiệm của trại
giam trong việc giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên về văn hoá, pháp
luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hoá, giới tính và sức khoẻ,
chuẩn bị điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù
(khoản 2 Điều 51) [3, tr.26-27]. ..........................................................................38
Bên cạnh quy định về quyền không bị tra tấn, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị 1966 đặt ra các nghĩa vụ chính đối với các quốc gia thành viên
liên quan đến nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng
bức như sau: Một là, các quốc gia cần nghiêm cấm việc bắt giữ làm nô lệ bất cứ
người nào; chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm. Hai
là, các quốc gia không được bắt buộc lao động cưỡng bức. Ba là, cần có những
quy định về các trường hợp ngoại lệ của lao động cưỡng bức. Đây là những
chuẩn mực mà Công ước đặt ra cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm
quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức. Các nước thành
viên Công ước, dựa trên những nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy
định riêng nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định
tại Điều 8 Công ước [3, tr.60-61]........................................................................38
Vấn đề này đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận, cụ thể hóa một cách thống
nhất, đồng bộ từ Hiến pháp cho đến các Bộ luật, các luật, pháp lệnh và các văn
bản dưới luật. Trong đó, Luật Thi hành án hình sự đã có những quy định về vấn
đề lao động của các tù nhân. Các quy định này đã thể hiện được nguyên tắc bảo
đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền lợi ích hợp pháp
của người chấp hành án, với mục đích của lao động tù nhân nhằm giáo dục, cải
tạo trên cơ sở phù hợp với tình hình sức khỏe, độ tuổi và giới tính. ...................38
Theo quy định của Luật thi hành án hình sự, trong thời gian chấp hành án phạt
tù, phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân, lao động và được học văn
hóa, học nghề. Việc lao động được tổ chức phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp
ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng. Các ngày thứ 7, chủ nhật,
lễ, tết, phạm nhân được nghỉ lao động theo quy định của pháp luật...................38
Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không quá 8 giờ 1 ngày.
Trường hợp đột xuất hoặc thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân
làm thêm giờ nhưng không được quá 2 giờ 1 ngày. Trường hợp phạm nhân lao
động thêm giờ hoặc lao động trong ngày thứ 7, chủ nhật thì được nghỉ bù hoặc
bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật. Phạm nhân nữ được bố trí làm những công việc
phù hợp với giới tính, sức khỏe và độ tuổi; không làm công việc nặng nhọc, độc
hại thuộc danh mục cấm sử dụng lao động nữ. Phạm nhân mắc bệnh hoặc có
nhược điểm về thể chất, tinh thần thì tùy mức độ, tính chất của bệnh tật và trên
cơ sở chỉ định của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời gian
lao động.36 Phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực
riêng phù hợp với lứa tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm
hoặc tiếp xúc với các chất độc hại [3, tr. 65-66].................................................39
Như vậy, có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định về lao động tù nhân khá đầy
đủ và toàn diện, mục đích của lao động tù nhân nhằm giáo dục, cải tạo trên cơ
sở phù hợp với tình hình sức khỏe, độ tuổi và giới tính.......................................39
Tóm lại, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và
loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ
gây ra. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được
thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này
nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm
mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt
khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung...........................................................39
Chương 2...................................................................................................................41
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT..................................................................................41
2.1. Khái quát về Viện kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con ngƣời trong tố
tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử trƣớc năm 2003 ......................................41
2.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời ........................41
2.1.1.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công
an và của cơ quan điều tra khác.........................................................................43
2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân
dân........................................................................................................................46
2.1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án và
quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật................................48
2.1.1.4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giam, tạm giữ và cải
tạo.........................................................................................................................49
2.1.2. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi có BLTTHS năm 2003......................53
2.1.2.1. Việc kiểm sát bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra
các vụ án hình sự.................................................................................................55
2.1.2.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự..............58
2.1.2.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc tạm giữ, tạm giam.......................................................................59
2.1.2.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án.................................61
2.2. Bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát nhân dân trong BLTTHS 2003 .62
2.2.1. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc khởi tố và điều tra vụ án hình sự của VKSND.................62
2.2.2. Bảo vệ quyền con người qua các hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ................................................................69
2.2.3. Bảo vệ quyền con người thông qua các hoạt động kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và kiểm sát thi hành án hình sự................................................74
2.2.3.1. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tam
giam......................................................................................................................74
2.2.3.2. Bảo vệ quyền con người thông qua các hoạt động kiểm sát thi hành án
hình sự..................................................................................................................78
Chương 3...................................................................................................................81
THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC BẢO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN.....................................................................................................81
3.1. Thực tiễn bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát nhân dân trong các
giai đoạn tố tụng hình sự ........................................................................................81
3.1.1. Trong giai đoạn khởi tố và điều tra.........................................................81
3.1.2. Trong giai đoạn truy tố và xét xử các vụ án hình sự.............................85
3.1.3. Trong giai đoạn thi hành án hình sự......................................................90
3.1.4. Đánh giá chung (hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập) ........................................................................................................92
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò
bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát..........................................................94
Để khắc phục những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong thực tiễn trên, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, cần tiến hành thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:.94
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự .............94
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn, và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự .......................97
3.3. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con
ngƣời của VKSND.................................................................................................101
3.3.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát
........................................................................................................................... 101
3.3.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm
sát...................................................................................................................... 103
3.3.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng
hình sự.............................................................................................................. 105
3.3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát..... 107
3.4.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ
cấp ưu đãi... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát 110
KẾT LUẬN............................................................................................................112
Trên cơ sở nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND trong tố tụng
hình sự Việt Nam, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau: .......................................112
1. Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người là vấn đề mang tính toàn
cầu, được ghi nhận trong hệ thống các điều ước quốc tế và trong hệ thống pháp luật
của mỗi quốc gia. Việt Nam đã tham gia nhiều văn kiện quốc tế về đảm bảo quyền
con người, cụ thể hóa các cam kết quốc tế vào hiến pháp và xây dựng, từng bước
hoàn thiện các hành lang pháp lý về quyền con người và đảm bảo quyền con người
được thực hiện có hiệu quả tại Việt Nam. Không chỉ được ghi nhận trong hệ thống
các ngành luật, quyền con người và bảo vệ quyền con người còn được ghi nhận và
đảm bảo thực hiện thông qua các quy định trong Hiến pháp – Đạo luật gốc. Đảng và
Nhà nước ta luôn xác định quyền con người là một giá trị tích đặc biệt, có tầm quan
trọng đặc biệt trong đời sống xã hội; đồng thời thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa và
là kim chỉ nam cho việc định hướng xây dựng hiến pháp và pháp luật..................112
2. TTHS là quá trình nhà nước đưa người phạm tội ra xử lý trước pháp luật; luôn
thể hiện đậm tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Do đó,
vừa đảm bảo việc phát hiện xử lý tội phạm, vừa phải đảm bảo không xâm phạm
quyền con người là vấn đề bức thiết đặt ra TTHS. Vấn đề bảo vệ quyền con người
trong TTHS được bảo vệ thông qua các quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của hệ
thống cơ quan tư pháp hình sự và đặc biệt là thông qua vai trò của hệ thống VKS
trong pháp luật TTHS..............................................................................................112
5. Trước tình hình đó, việc sửa đổi bổ sung một số quy định trong BLTTHS về các
nguyên tắc cơ bản trong TTHS; bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với
VKSND trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cùng với đó, việc tiến hành đổi
mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát; đổi mới phương
thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát; tăng cường quan hệ phối hợp
và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác, đặc
biệt là mối quan hệ giữa Tòa án với VKS; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện
làm việc, chế độ lương, phụ cấp ưu đãi... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó
có cán bộ Kiểm sát góp phần mang lại hiệu quả tích cực cho hoạt động thực hiện
chức năng nhiệm vụ của VKS trong TTHS, qua đó góp phần vào công cuộc cải cách
tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền cơ
bản của công dân.....................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................114
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự BLDS
Bộ luật Hình sự BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS
Tố tụng hình sự TTHS
Viện kiểm sát VKS
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa VNDCCH
Xã hội chủ nghĩa XHCN
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không
chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn
được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả
tước đoạt. Nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực
TTHS. Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như
các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường… nhưng có thể nói, quyền con
người trong TTHS lại là quyền dễ bị xâm phạm, bị tổn thương nhất và hậu quả
để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự
do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách là quá trình
nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội phạm; luôn
thể hiện đậm tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự
thiếu quân bình về thế và lực của các bên tham gia quan hệ TTHS; mà sự yếu thế
luôn thuộc về những người bị buộc tội. Chính vì vậy, hoạt động TTHS, trong bất
cứ nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến
vấn đề bảo vệ quyền con người.
Phát hiện, xử lý tội phạm là công việc của bất kỳ nhà nước nào nhằm bảo
vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, của cá nhân trong xã hội đó. Vừa đảm bảo
việc phát hiện xử lý tội phạm, vừa phải đảm bảo không xâm phạm quyền con
người là một mâu thuẫn mà giải quyết hài hòa mâu thuẫn này đó chính là biểu
hiện của một kiểu TTHS trong một nhà nước văn minh. Công việc đầu tiên ở đâu
cũng đòi hỏi và nhà nước nào cũng có nhiệm vụ phải làm là: Ghi nhận cụ thể
những quyền con người nào trong hệ thống pháp luật TTHS của mình. Việc ghi
nhận này không phải là sự ban phát từ phía nhà nước mà bắt nguồn từ nhiều yếu
tố trong đó có việc thừa nhận những giá trị cao quý nhân loại đã thừa nhận
chung. Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện Quốc tế về quyền con người
trong TTHS như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ
2
bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo
và hạ nhục con người năm 1985….
Nghiên cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định quyền con người
trong TTHS là sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do, trong lĩnh vực
TTHS. Theo đó, quyền con người trong TTHS bao gồm những quyền: Quyền
được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai;
Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự , nhân phâm và quyền
tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS phải
trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và biện
hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Người chưa thành niên phải được áp
dụng thủ tục TTHS đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền
được nhanh chóng minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi….;
Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử (Điều 10, 11 UHDR,
Điều 14, 15 và 11 ICCPR) …
Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội - đối tượng quan
trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Bên cạnh đó,khi nghiên cứu về quyền con
người trong TTHS chúng ta còn cần quan tâm đến quyền của nạn nhân của tội
phạm (người bị hại), quyền của người làm chứng và những người liên quan
khác, quyền con người của những người tiến hành tố tụng như điều tra viên,
công tố viên và thẩm phán. Những người này họ cũng có quyền con người của
họ như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm, quyền được
bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng con đường TTHS. Các
quyền đó được bảo về thông qua các quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của hệ
thống cơ quan tư pháp hình sự và đặc biệt là thông qua vai trò của hệ thống VKS
trong pháp luật tố TTHS.
Cho đến nay, Việt Nam chúng ta đã tham gia phần lớn và cam kết thực
hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện
về quyền con người. Điều đó được thể hiện trong BLTTHS của nước CHXHCN
Việt Nam ở mức độ khác nhau: Có thể trang trọng quy định là nguyên tắc cơ
bản, Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm
3
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, suy đoán vô tội, quyền
bào chữa quyền kháng cáo, quyền minh oan. Hay được thể hiện thông qua các
quy định về hệ thống các cơ quan tư pháp hình sự, quyền và nghĩa vụ của hệ
thống tư pháp hình sự trong đó có quy định về vai trò của VKS trong việc bảo
đảm quyền con người theo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự…
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số
49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 với nội dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật…”, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của hệ thống
tư pháp hình sự, đặc biệt là vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong TTHS cũng là một vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá
trình hoàn thiện pháp luật TTHS trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu các quy
định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò của VKS trong việc bảo
vệ quyền con người và thực tiễn áp dụng, cũng như đưa ra các giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó trên thực tế
không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do
luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài “Viện Kiểm sát với vai
trò bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn
thạc sĩ luật học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khi lựa chọn đề tài cho luận văn của mình, tác giả luận văn có mục đích
tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về vai trò của VKS
trong việc bảo về quyền con người theo pháp luật TTHS Việt Nam và việc thực
hiện chúng trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự. Thông qua sự tìm hiểu đó,
4
tác giả luận văn đưa ra những nhận xét và đánh giá theo quan điểm của cá nhân
về sự phù hợp hay không phù hợp của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó
luận văn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về vai
trò của VKS trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp luật TTHS Việt Nam,
cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động của Viện
Kiểm sát trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Đối tượng nghiên cứu: Tác giả luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp
luật có liên quan đến quyền con người và bảo vệ quyền con người trong TTHS
tụng hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề xung quanh
việc quy định về vai trò của VKS và việc thực hiện vai trò đó của VKS trong
việc bảo vệ quyền con người trong BLTTHS 2003, kết hợp với việc nghiên cứu
đánh giá tình hình áp dụng các quy định đó trong thực tế xét xử các vụ án hình
sự và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó
trong thực tiễn.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn tác giả đã dựa trên các quan
điểm của Đảng, của Nhà nước về vị trí, vai trò của VKSND và việc bảo vệ
quyền con người của VKS trong các hoạt động tố tụng hình sự. Ngoài ra, tác giả
luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp…
khi nghiên cứu đề tài.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Với việc nghiên cứu đề tài này, luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn
đề lý luận về quyền con người, về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền con
người, đặc biệt là quyền con người trong TTHS. Trên cơ sở đó đánh giá thực
5
trạng và đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật về vai trò bảo vệ
quyền con người của VKS trong pháp luật TTHS Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận văn được thể
hiện trong ba chương với nội dung như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và bảo vệ
quyền con người.
- Chương 2: Vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt
Nam của Viện Kiểm sát.
- Chương 3: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện Kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
bảo vệ quyền con người của Viện Kiểm sát nhân dân.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời và vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ
thống pháp luật quốc tế
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm
chủ yếu, khác nhau về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên
(natural rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được
hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con
người, do đó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa
hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà
nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay
tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các
mối quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các
quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật
hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp
lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền
con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong
tục, tập quán, truyền thống văn hóa… của các xã hội [25].
Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác – Lênin đã khắc phục được
tính phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan
điểm nêu trên. Học thuyết Mác – Lênin xem xét con người với tư cách là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một
7
thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con
người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó,
Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một
đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định
bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [20].
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi
định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất
định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền
con người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office
of High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc
(omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements)
và tự do cơ bản (fundamental) của con người [25, tr.37].
Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con
người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép
(entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt
giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn
giản chỉ vì họ là con người” [25, tr.37].
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ
quan nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng
Dung,
Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người,
được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người – một động vật
cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật
khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [15].
8
Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy
đủ và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi
vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15].
Cho đến nay, giữa các nhà khoa học – luật gia trong và ngoài nước vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung,
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế [24].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ
yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con
người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân
phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền,
những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con
người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân
văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm
với nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai
khái niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự
khác biệt nhất định.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền
công dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc
mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch,
không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể
hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công
dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
9
chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền
công dân mà pháp luật nước đó quy định.
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể
trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa
thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con
người. Khi được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân.
Đồng thời, pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong
việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45].
Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định
nghĩa triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một
định nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy
có sự khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về
nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem
xét dưới nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn
giáo… mà mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên
không lĩnh vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu
mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc
tế, định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy
LHQ về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người” [25, tr.41].
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về quyền con người như
sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo
thông qua hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Khái niệm này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái
niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được
bảo vệ bằng pháp luật quốc gia.
10
1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi
hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là
bẩm sinh, vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các
quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con
người không thể được bảo đảm đầu đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật,
mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại
dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có
hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47].
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cũng với quyền, tự do
và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – luôn là đối tượng phản
ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa
các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với
tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do
tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt,
không thể thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các
quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện
những quyền pháp lý – những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự
nhiên mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực.
Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật
là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng
vai trò là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con
người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các
cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận
dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47].
Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể
nhiều điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó
pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai
trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế
11
hóa quyền con người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có
cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm
bảo pháp lý thực hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ
quyền con người chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật
[16]. Như vậy, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy
định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền
con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống.
Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm
thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo
pháp lý bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong hệ
thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không được
thường xuyên. Khả năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá trình tổ
chức thực hiện trước hết phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế hóa quyền
con người tự nhiên thành quyền công dân, cùng với các thiết chế bảo đảm thực
hiện nó trong hệ thống pháp luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng bộ thuận tiện
khả thi của các quy định pháp luật về quyền công dân; xây dựng thiết chế tổ
chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước hướng đến mục tiêu thực hiện bảo vệ
quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng ngăn ngừa sự tùy tiện,
lạm quyền của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, hòa nhập pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước
thông qua pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Theo nhận thức của cộng đồng Quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà
nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): nghĩa vụ này đòi hỏi
các nhà nước không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp
hoặc gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.
12
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện
các quyền con người [41, tr.58].
Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận
thức đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và
Công ước quốc tế về quyền con người. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền công
dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và
bảo vệ quyền con người.
Như vậy, đảm bảo pháp lý về quyền con người là hệ thống các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm
thực hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các quy định và
thiết chế đó được thực hiện trong thực tế.
Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng
hàng đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền
con người; là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền
con người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.2. Khái quát pháp luật quốc tề về quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong một số điều ước quốc tế
i. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948
* Bối cảnh ra đời Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của
con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm
1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Tuyên ngôn phát sinh trực tiếp từ
những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền
đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được
hưởng. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa
ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia [68].
13
Bản tuyên ngôn ra đời trong bối cảnh mọi quốc gia trên thế giới đều bị tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp bởi Chiến tranh Thế giới thứ hai, 70 triệu người đã
tử vong. Kế hoạch thiết lập một tổ chức quốc tế để hình thành một Liên Hợp
Quốc đã được khởi xướng từ cuộc chiến này. Mùa xuân năm 1945, 50 chính phủ
và hàng trăm các tổ chức phi chính phủ đã nhóm họp tại San Francisco. Các
quốc gia đã vạch ra "thể chế" của Liên Hiệp Quốc mới. “Hiến chương” của Liên
Hiệp Quốc thể hiện các quan điểm “chính thức” và “không chính thức”. Lời mở
đầu của Hiến chương Liên Hiệp Quốc khẳng định quyết tâm: Chúng ta, các
thành viên của Liên Hiệp Quốc khẳng định quyết tâm… thực sự tin tưởng vào
những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng
giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ, …
Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi thành lập ủy ban về nhân quyền.
Với sự hỗ trợ của Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hiệp Quốc
(UNESCO), Ủy ban Nhân quyền mới bắt tay vào nghiên cứu xem các nền văn
hóa, các quốc gia và các nhà học giả khác nhau nhìn nhận như thế nào về các
quyền của con người. Các quan điểm đa dạng này giúp ủy ban hiểu vấn đề một
cách sâu sắc hơn và hoàn thiện hơn công trình của họ.
Tháng 9 năm 1948, ủy ban đệ trình bản dự thảo tuyên ngôn cho Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc. Sau đó là các cuộc tranh luận kéo dài nhằm làm rõ ngôn
ngữ của bản dự thảo và thống nhất ý kiến. Quá trình thương thảo và thông qua
kéo dài trong 2 năm, bao gồm 81 cuộc họp, 168 bản sửa đổi, bổ sung và gần
1.400 lần biểu quyết. Sự kiện có ý nghĩa nhất diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm
1948. Đại hội đồng chính thức thông qua bản Tuyên ngôn Thế giới với 100%
phiếu thuận và 8 phiếu trắng. Đây là một kết quả đáng ghi nhớ đối với một tiến
trình phi thường [68].
* Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948
Tuyên ngôn bao gồm 30 điều, lần đầu tiên liệt kê một cách toàn diện
những quyền của con người trong tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh
tế, xã hội và văn hóa. Tuyên ngôn thực chất không phải là một điều ước quốc tế
có hiệu lực, nhưng nó có một sức mạnh “luân lý” to lớn đối với các quốc gia trên
thế giới. Tập hợp các quyền con người trong tuyên ngôn trở thành một tiêu
14
chuẩn chung được hầu hết các quốc gia quy định vào luật pháp của đất nước
mình. Tuyên ngôn nhân quyền có tác động to lớn đối với thế giới và được đánh
giá là một trong những văn kiện có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử. Nó đã
thôi thúc sự phát triển nhân quyền ở rất nhiều quốc gia, các địa phương và các
vùng lãnh thổ [45, tr.20-21].
Giá trị cơ bản – nguyên lý xuyên suốt toàn bộ Tuyên ngôn – được nêu
trong Điều 1: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng như nhau về
nhân phẩm và các quyền”. Sự khẳng định này vẫn còn nguyên giá trị thực hiện
và tin tưởng qua nhiều. Bản thân Tuyên ngôn không thể thay đổi hoặc xoay
chuyển thái độ của toàn nhân loại. Tuy nhiên, nó chỉ ra một hướng đi quan trọng.
Các nhà soạn thảo Tuyên ngôn đã chủ ý đưa vào một số các nguyên tắc đạo lý và
luật pháp. Rất nhiều trong số 30 điều khoản của tuyên ngôn đề cập đến các
quyền dân sự và chính trị, nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực, vi phạm, chà
đạp quyền con người. Các điều khoản khác đề cập đến các quyền tự do chung
của mỗi cá nhân, như là quyền tự do phát ngôn. Ngoài ra còn có các điều khoản
về các quyền về văn hóa, xã hội và kinh tế như là quyền được đi học và quyền
được làm việc.
Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết: Không được
phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản Tuyên ngôn này theo
hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào
được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành
vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn
này [14].
* Tầm quan trọng của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948
Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền là một trong những văn kiện quan
trọng nhất của thế kỷ 20. Nó đã trở thành một hòn đá tảng cho mọi hành động của
các chính phủ, mọi người dân và các tổ chức phi chính phủ. Tuyên ngôn Thế giới
về Nhân quyền có ý nghĩa đạo đức và chính trị mà ít văn kiện nào sánh được.
Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền là kim chỉ nam cho các hành động
hiện thời và tư tưởng tiến bộ cho việc thực hiện sau này ở các quốc gia. Các
chuẩn mực của Tuyên ngôn ngày càng được thể chế hóa tại các nước và được coi
15
là cơ sở cho các Đạo luật quốc tế về nhân quyền và các hiệp định khác về các
quyền cơ bản của con người. Ngoài ra, Tuyên ngôn còn là cơ sở hết sức linh hoạt
cho việc không ngừng phát triển sâu rộng hơn khái niệm cơ bản nhất về các
quyền con người. Tập hợp các quyền và tự do trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền được coi là khuôn mẫu, thước đo chung (common standards of
achievement) mà mọi dân tộc, quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới, cũng như
để sử dụng trong việc đánh giá sự tôn trọng và thực hiện các quyền con người.
Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế, song Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền có sức nặng luân lý rất to lớn. Hiện tại, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế (international
customary law) về quyền con người, tức là có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia
trên thế giới [14].
Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền ra đời là một bước tiến mới khẳng
định các quyền phổ quát cho toàn thể nhân loại. Bản tuyên ngôn này phản ánh sự
đa dạng của các nền tảng tư tưởng, văn hóa và lịch sử, ghi nhận trang trọng lần
đầu tiên các quyền dân sự và chính trị cơ bản, bên cạnh các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa, cho mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Bản Tuyên ngôn với 30
điều khoản, cũng chính là nền tảng cho hai công ước quốc tế về quyền con người
cùng được thông qua vào năm 1966: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
ii. Công ước Quốc tế về các Quyền Chính trị và Dân sự 1966
* Bối cảnh ra đời Công ước ICCPR 1966
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt là Công ước ICCPR) là công ước
quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966
và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976. Công ước ICCPR nêu tổng quan về
các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Cụ thể, các bên tham gia ký
kết sẽ phải tôn trọng các quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm
quyền sống, quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và
quyền được xét xử bình đẳng và theo đúng trình tự pháp luật. Tính tới ngày 19
tháng 12 năm 2010, đã có 72 nước ký vào Công ước và 167 bên tham gia [68].
16
Công ước ICCPR bắt nguồn từ quá trình soạn thảo trùng với Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền. Một bản “Tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người”
đã được đưa ra tại Hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc năm 1945, tức Hội nghị
San Francisco. Sau đó Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp quốc được giao
trách nhiệm soạn thảo và hoàn thiện Công ước. Mới đầu trong quá trình soạn
thảo, bản thảo được chia nhỏ thành một tuyên ngôn về các quyền con người tổng
quát và một bộ quy tắc rằng buộc các bên tham gia ký. Bản đầu tiên sau này trở
thành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và được thông qua ngày 10 tháng 12
năm 1948.
Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng
giữa các thành viên Liên Hiệp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của
các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, dẫn
đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, “Một cái chứa các quyền dân sự
và chính trị, và cái kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”. Hai bộ nhỏ
này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ
nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc. Mỗi công ước
đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc [68].
Như vậy, Bộ quy tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền
Dân sự và Chính trị, trong khi bộ thứ hai thì trở thành Công ước Quốc tế về các
Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo
luận tại các cuộc họp của đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 1954 và được chấp
thuận năm 1966.
* Nội dung chính của Công ước ICCPR 1966
Công ước ICCPR gồm 6 phần, 53 điều có hiệu lực ngày 23 tháng 03 năm
1976. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận những
phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân
loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Do đó, về các quyền
dân sự và chính trị, Công ước quy định [39, tr.39-41]:
Phần I (Điều 1) công nhận quyền tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm
quyền được "tự do định đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát
17
triển kinh tế, xã hội và văn hoá" trong điều kiện thực tế của mình. Công nhận
rằng quyền sinh kế của một dân tộc không bao giờ bị tước bỏ.
Phần II (Điều 2 - 5) yêu cầu các bên thực hiện các bước cần thiết để hiện
thực hóa các quyền được công nhận trong Công ước, đồng thời trừng phạt và sửa
chữa bất kỳ vi phạm nào trong quá khứ và hiện tại. Nó yêu cầu các bên cam kết
tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được thừa nhận trong Công Ước.
Phần III (Điều 6 - 27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm
các quyền sau: Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra
tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8); Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là
quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11); Quyền
bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Bị cáo về các
tội hình sự có quyền được chấp nhận là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có
tội theo luật (Điều 14, 15, và 16); Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự
do di chuyển, tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu
và giữ quan điểm mà không bị ai can thiệp, tự do lập hội và hội họp, tự do lập
gia đình, quyền khai sinh và quyền bí mật đời tư (Điều 12, 13, 17 – 24); Ngăn
cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng
tộc, tôn giáo (Điều 20); Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập,
theo hoặc không theo một đảng chính trih và quyền bầu cử (Điều 25); Quyền
được đối xử bình đẳng của các cộng đồng thiểu số trước luật (Điều 26 và 27).
Nhiều trong số các quyền trên yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội
viên phải thực hiện.
Phần IV (Điều 28 - 45) quy định các nguyên tắc thành lập và hoạt động của
Ủy ban Nhân quyền cùng các công việc giám sát và báo cáo. Đồng thời, nó cũng
yêu cầu các quốc gia thừa nhận năng lực của Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn
giữa các nước liên quan đến việc thực thi Công ước (Điều 41 và 42).
Phần V (Điều 46 - 47) giải thích rằng Công ước sẽ không bị diễn giải theo
cách can thiệp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc hoặc "quyền của mọi dân tộc
được thụ hưởng và sử dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn tài nguyên của
họ".
Phần VI (Điều 48 - 53) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu
lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.
18
Nội dung quan trọng nhất của Công ước chính là phần III, gồm các quy định
về nội hàm của các quyền dân sự và chính trị. Đây là những chuẩn mực (standards),
hay các quy phạm (norms), quan trọng nhất về các quyền dân sự và chính trị. Về cơ
bản, chúng là các quyền thuộc về các cá nhân (individual rights).
* Ý nghĩa của Công ước ICCPR 1966
Công ước ICCPR 1966 nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ
bản của con người. Công ước là một phần của hệ thống bộ luật nhân quyền quốc
tế. Một trong những quyền quan trọng khác được công ước long trọng ghi nhận ở
Chương I là quyền dân tộc tự quyết. Công ước khẳng định: Mọi dân tộc đều có
quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế
chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Sau đó, các
quyền dân sự - chính trị được trình bày một cách có hệ thống trong công ước.
Các điều khoản đều hướng tới sự bảo đảm tốt nhất đối với quyền sống, sự tự do,
quyền được đối xử bình đẳng và sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị
quốc gia. Là một dạng cam kết quốc tế có hiệu lực, công ước ràng buộc nghĩa vụ
của các quốc gia thành viên trong việc xây dựng pháp luật quốc gia để thực hiện
công ước. Việt Nam đã gia nhập công ước này vào ngày 24/9/1982.
iii. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
* Bối cảnh ra đời của Công ước ICESCR 1966
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và văn hóa (International
Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, viết tắt: Công ước ICESCR)
là một công ước quốc tế được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16
tháng 02 năm 1966, có hiệu lực từ ngày 03 thnsg 01 năm 1976. Các quốc gia
tham gia Công ước cam kết trao các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho các cá
nhân, bao gồm quyền công đoàn và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục và
quyền được đảm bảo mức sống phù hợp. Tính tới ngày 15 tháng 12 năm 2008,
đã có 160 quốc gia tham gia và 69 nước đã ký công ước [68]. Công ước ICESCR
là một phần của Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế, cùng với Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân Quyền và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị.
19
Quá trình soạn thảo Công ước ICESCR được bắt đầu từ những ý tưởng
đầu tiên về một Bộ luật quốc tế về nhân quyền (International Bill of Human
Rights) được đặt nền móng trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945. Năm
1947, khi xây dựng những thiết chế đầu tiên về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc,
các nhà soạn thảo của Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations
Commission on Human Rights – viết tắt là CHR) muốn có một văn bản mang
tính tuyên ngôn về các nguyên tắc chung và một văn bản mang tính công cụ để
ràng buộc nghĩa vụ pháp lý với các quốc gia thành viên. Văn bản mang tính
nguyên tắc chung nêu trên sau này trở thành Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân
quyền, được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào năm 1948 [40, tr.18].
Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng
giữa các thành viên Liên Hiệp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của
các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, dẫn
đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, một bản chứa các quyền dân sự
và chính trị, và bản kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Hai bộ nhỏ
này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ
nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc. Mỗi Công
ước đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc. Bộ quy
tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị,
trong khi cái thứ hai trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội
và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo luận tại cuộc họp Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 1954, và được chấp thuận vào năm 1966 [68].
* Các nội dung cơ bản công ước ICESCR:
Công ước ICESCR gồm Lời nói đầu và 31 điều được chia làm 5 phần với
các nội dung chính như sau [40, tr.53-57]:
Lời nói đầu của Công ước gồm 7 đoạn và có nội dung tương tự Lời nói
đầu của Công ước ICCPR. Phần này nêu rõ sự đồng thuận của các nước tham gia
Công ước, công nhận phẩm giá của con người, nêu lại nguồn gốc các quyền của
con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn có, công nhận rằng lý tưởng về con người
tự do đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc trong
20
việc tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự do của con người cũng như nghĩa vụ
của mỗi cá nhân tuân thủ và thúc đẩy những quyền ấy.
Phần thứ nhất của ICESCR đề cập đến quyền tự quyết của các dân tộc.
Phần này nằm trọn vẹn trong một điều (Điều 1) và có nội dung giống Phần thứ
nhất (Điều 1) của ICCPR.
Điều 1 Công ước ghi nhận quyền tự quyết của các dân tộc trong việc
quyết định thế chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và việc
sử dụng của cải, tài nguyên thiên nhiên của dân tộc mình. Ngoài ra, Điều này
còn ghi nhận quyền của các dân tộc không bị tước đoạt phương tiện sinh tồn của
mình, cũng như nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy
việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc.
Phần thứ hai của Công ước bao gồm các Điều 2, 3, 4 và Điều 5. Các điều
này quy đinh về nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên công ước, cụ thể
bao gồm: Điều 2 yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp để
phấn đấu đạt tới đảm bảo hoàn toàn các quyền được ghi nhận trong Công ước.
Điều này cũng quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên không được phân
biệt đối xử trong việc bảo đảm thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công
ước. Tuy nhiên, Điều 2 cho phép các nước đang phát triển có thể lựa chọn mức
độ đảm bảo các quyền kinh tế được ghi nhận trong Công ước với công dân nước
ngoài. Điều 3 quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong thụ hưởng các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được ghi nhận trong Công ước. Điều 4 quy đinh
về việc hạn chế và các điều kiện phải tuân thủ khi hạn chế các quyền trong Công
ước. Điều 5 quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn cao hơn trong luật pháp quốc
gi so với các quyền được ghi nhận trong Công ước.
Phần thứ ba của Công ước bao gồm các Điều từ 6 đến Điều 15 quy định về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể: quyền làm việc (Điều 6,7 và 8); quy
định về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội (Điều 9); quyền về gia đình, hôn nhân
tự do và chăm sóc bà mẹ và trẻ em (Điều 10); quyền không bị đói, quyền có lương
thực thích đáng và quyền có nơi cư trú thích đáng (Điều 11), quyền được hưởng
tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể (Điều 12);
quyền về giáo dục (Điều 13,14); quyền tham gia vào đời sống văn hóa (Điều 15).
21
Phần thứ tư của Công ước bao gồm các Điều từ 16 đến Điều 25. Phần này
tập trung quy định về cơ chế bảo đảm thực thi ICESCR. Cơ chế này bao gồm
việc báo cáo của quốc gia thành viên, vai trò của ECOSOC, CHR và các tổ chức
chuyên môn của Liên Hiệp Quốc cũng như mối quan hệ điều phối trong bộ máy
Liên Hiệp Quốc có liên quan đến Công ước.
Phần thứ năm của Công ước bao gồm các Điều từ 26 đến Điều 31, quy
định các vấn đề về thủ tục, cụ thể như việc ký kết, tham gia, thời điểm có hiệu
lực, việc áp dụng trong các nước liên bang, việc sửa đổi, ngôn ngữ thể hiện của
Công ước [40, tr.53-57].
* Tầm quan trọng và ý nghĩa của Công ước ICESCR
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 nêu lên mọi
người dân đều có quyền làm việc và được làm việc trong những điều kiện an
toàn nhất, quyền tham gia công đoàn, quyền được hưởng an sinh và xã hội,
quyền được học tập và thụ hưởng cuộc sống ở mức phù hợp, không ngừng nâng
cao điều kiện cuộc sống. Song song với việc quy định về quyền của con người,
công ước nêu cụ thể trách nhiệm của các quốc gia thành viên, bằng các biện
pháp lập pháp hoặc phát triển kinh tế - xã hội phải tạo điều kiện để cá nhân phát
triển đầy đủ và sung túc nhất [45, tr.22-23].
1.1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng
hình sự một số nước
i. Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng
hình sự Nhật Bản
Bộ luật TTHS Nhật Bản được ban hành vào năm 1890, đến năm 1923
được sửa đổi bổ sung theo mô hình của Đức dựa trên nguyên tắc thẩm vấn và
chế độ thẩm vấn sơ bộ được áp dụng. Năm 1947 ban hành Luật tổ chức Viện
kiểm sát và được thực thi đến nay. Năm 1948 Bộ luạt tố tụng hình sự Nhật Bản
được sửa đổi bổ sung lần thứ hai dựa trên mô hình của Hoa Kỳ và được sửa đổi
dựa theo nguyên tắc tranh tụng [43].
Bộ luật TTHS Nhật Bản với 7 quyền và 507 Điều, với mục đích là “làm
sáng tỏ những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một
22
cách nhanh chóng đối với các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến
việc duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân” [42].
Quyển I với 16 chương gồm những quy định chung về Thẩm quyền của Tòa án;
vấn đề thay đổi và yêu cầu thay đổi cán bộ Tòa án; năng lực kiện tụng; người
bảo chữa và trợ lý, về quyết định; tài liệu và tống đạt, vấn đề thời hạn; các lệnh
triệu tập, tạm gian và đưa vào trại giam; vấn đề tạm giữ; việc kiểm tra; thẩm định
nhân chững; giám định của chuyên gia; việc phiên dịch và biên dịch; vấn đề bảo
quản chứng cứ; các chi phí tòa án và việc bồi thường các chi phí. Quyển II về sơ
thẩm với 4 chương quy định về việc điều tra; hoạt động công tố; việc xét xử
công khai và phần thủ tục phán quyết nhanh. Quyển III về vấn đề kháng cáo với
những quy định chung về kháng cáo; kháng cáo Koso và kháng cáo kokoku.
Quyển IV về việc xét xử lại. Quyển V về vấn đề kháng cáo ngoại lệ. Quyển VI
về thủ tục rút gọn. Quyển VII về việc thi hành quyết định của Tòa án [42].
Trong luật TTHS Nhật Bản thủ tục điều tra được quy định: Về nguyên tắc
điều tra gồm: Nguyên tắc điều tra tự nguyện và nguyên tắc điều tra bắt. Tất cả
các biện pháp sử dụng trong điều tra bắt buộc đều được quy định cụ thể trong Bộ
luật TTHS.
Về bắt giữ: Việc bắt giữ người phạm tội phải được thực hiện theo lệnh,
quyết định phê chuẩn của Thẩm phán Tòa án, trừ trường hợp bắt giữ người có
hành vi phạm tội quả tang. Cảnh sát hoặc Kiểm sát viên đề nghị Thẩm phán ra
lệnh bắt giữ. Trong trường hợp Cảnh sát bắt giữ bị can, người bị bắt giữ bị tạm
giữ tại đồn cảnh sát trong vòng 48 giờ theo lệnh của cảnh sát. Trong trường hợp
Cảnh sát cho rằng cần thiết phải tạm giam bị can, cảnh sát sẽ giao bị can cho
VKS. Việc tạm giam bị can phải được Thẩm phán Tòa án phê chuẩn. Việc quy
định như trên trong điều tra đã thể hiện được mục đích “đảm bảo nhân quyền đối
với từng cá nhân" đã nêu ngay trong của Bộ luật này [43].
Về việc giải quyết vụ án cuối thời hạn điều tra, theo quy định tại Bộ luật
này: Kết thúc thời hạn điều tra, VKS sẽ quyết định không truy tố nếu thuộc các
trường hợp: Bị can chết, quá thời hiệu truy tố, người phạm tội ở độ tuổi vị thành
niên, người phạm tội không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, người pham tội
không coi là tội phạm. Nếu VKS truy tố thì việc truy tố được thực hiện dưới
23
danh nghĩa của Kiểm sát viên không phải của Viện kiểm sát. Trong giai đoạn
truy tố, Kiểm sát viên chỉ gửi cho Tòa án Bản truy tố không bao gồm tài liệu
chứng cứ hoăc vật chứng của của vụ án. Trong Bản truy tố của Kiểm sát viên chỉ
đề cập ngắn gọn họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp của bị cáo cũng như
ngày, tháng, địa điểm, hậu quả của vụ án hình sự bị buộc tội. Mục đích của chế
định này là để tránh làm cho Thẩm phán có định kiến về vụ án hình sự trước khi
xét xử [43].
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Bộ luật có quy định: Luật sư bào chữa
được quyền xem xét chứng cứ: Kiểm sát viên phải cho Luật sư bào chữa thẩm
tra chứng cứ cần thiết tối thiểu mà Kiểm sát viên cho rằng cần có để làm bằng
chứng cho vụ án hình sự bị buộc tội. Chỉ những chứng cứ mà Luật sư bào chữa
đồng ý mới được phép trình ra trước Hội đồng xét xử, không được Luật sư bào
chữa đồng ý, về nguyên tắc chứng cứ có thể không được trình tại Tòa án và
trong trường hợp này có thể kiểm tra nhân chứng tại phiên tòa. Trong trường hợp
vụ án hình sự phức tạp hoặc bị cáo không nhận tội sẽ có nhiều vấn đề được giải
quyết, điều đó có thể làm kéo dài phiên tòa xét xử. Thẩm phán, Luật sư và Kiểm
sát viên có thể cùng tiến hành thủ tục chỉnh lý các vấn đề trước khi mở phiên tòa.
Thông qua thủ tục này, các vấn đề tranh luận trong phiên tòa có thể được làm rõ
và tập trung giải quyết( Thủ tục này được chỉnh lý và sửa đổi năm 2005) [43].
Về thủ tục xét xử: Thẩm phán hỏi về họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa
chỉ, nghề nghiệp (nghiêm cấm hỏi về tiền án, tiền sự và gia đình). Đây là điểm
khác biệt so với Luật TTHS Việt Nam.
Kiểm sát viên đọc bản truy tố; Thẩm phán thông báo quyền của bị cáo giữ
im lặng; Bị cáo thừa nhận có tội hay không có tội; Kiểm sát viên phát biểu mở
đầu (giải thích chi tiết về vụ án xét xử); Kiểm sát viên, hoặc Luật sư bào chữa đề
nghị kiểm tra chứng cứ [43].
Tại phiên tòa người bị hại có thể ngồi cạnh Kiểm sát viên, tiến hành kiểm
tra nhân chứng, hỏi bị cáo, trình bày ý kiến của mình về vụ việc hoặc áp dụng
pháp luật. Kết thúc phiên tòa Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa phát biểu ý kiến
cuối cùng về vụ án, sau đó bị cáo trình bày lời nói sau cùng, Hội đồng xét xử ra
bản án (khoảng 1 tuần).
24
Về Hệ thông bồi thẩm đoàn (Ở Việt Nam gọi là Hội thẩm nhân dân): Năm
2009 Bộ luật TTHS Nhật Bản mới có chế định Bồi thẩm đoàn, bồi thẩm đoàn ở
Nhật Bản không theo nhiệm kỳ như Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam. Khi có vụ
án hình sự được đưa ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền chọn bất
kỳ người nào để tham gia bồi thẩm đoàn, những người được chọn làm bồi thẩm
đoàn đại diện cho lực lượng xã hội để phán quyết đối với bị cáo và họ chỉ tham
gia vào vụ án nhất định, khi vụ án kết thúc thì họ cũng đương nhiên kết thúc
nhiệm kỳ của bồi thẩm đoàn [43].
Như vậy, thông qua các quy định của Bộ luật TTHS Nhật Bản, chúng ta
có thể nhân thấy vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được
các nhà làm luật Nhật Bản quan tâm được biệt khi ngày trong mục đích của Bộ
luật để nêu rất rõ ràng “duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với
từng cá nhân” và thông qua rất nhiều quy định khác thể hiện trong từng chương
của Bộ luật này.
ii. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Cộng hòa Liên bang Đức
Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức với 8 phần và 477 điều. Trong
pháp luật TTHS Đức, Các viện Công tố của Đức thực hiện hai chức năng cơ bản
là điều tra các vụ án hình sự và nhân danh nhà nước để buộc tội bị cáo tại phiên
tòa. Viện công tố được xem là cơ quan duy nhất có thẩm quyền điều tra hình sự;
Trong khi đó, cơ quan cảnh sát chỉ thực hiện những nhiệm vụ điều tra theo các
chỉ thị từ viện công tố, nói cách khác, viện công tố chỉ đạo và giám sát các hoạt
động điều tra [18].
Về hoạt động điều tra, pháp luật tố tụng hình sự của Đức quy định rất chặt
chẽ những hoạt động xâm phạm đến các quyền tự do của công dân nhất là khi áp
dụng các biện pháp: bắt tạm giam, khám xét, bắt giữ, nghe, ghi âm liên lạc các
cuộc viễn thông và khám người. Những hoạt động này chỉ có hiệu lực nếu được
áp dụng tương xứng với mục đích của từng hoạt động trên. Mọi bằng chứng liên
quan thu được do vi phạm nguyên tắc này sẽ không được Tòa án chấp nhận. Khi
xem xét áp dụng một trong những biện pháp như vậy, cơ quan công tố phải làm
đơn đề nghị thẩm phán Tòa án địa phương ra lệnh (Điều 162) [52]. Lệnh phải
25
được ban hành ngay khi có đủ chứng cứ chứng minh sự cần thiết tiến hành các
biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn đó [5].
Tất cả các giai đoạn tố tụng, việc thẩm vấn bị cáo tuân theo nguyên tắc
không được có hành động tàn tệ với bị can, bị cáo. Họ được quyền giữ im lặng
từ khi bắt đầu cuộc điều tra và phải được thông báo về quyền này trước phiên
thấm vấn, hỏi cung đầu tiên.
Đối với vấn đề bắt và tạm giam, Luật tố tụng của Đức phân biệt giữa biện
pháp tạm giam và bắt. Tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử (giai đoạn điều tra)
là sự hạn chế nghiêm khắc nhất quyền tự do cá nhân. Do đó, chỉ có Thẩm phán
mới có quyền ra lệnh này và lệnh này phải được thực hiện như một biện pháp an
ninh chứ không phải mới mục đích làm cho người bị tình nghi nếm mùi nhà tù
khi mà giả định vô tội vẫn đang áp dụng [5]. Viện công tố, trong vòng 24 tiếng
sau khi có lệnh tạm giam, phải đưa người bị tạm giam trình diện thẩm phán
ngay; Sau khi có lệnh bắt tạm giam thì thẩm phán phải tiến hành thủ tục thẩm tra
lệnh này .
Theo quy định, thời hạn tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử được tự động
trừ vào thời gian chấp hành án, trừ khi bị can từ bỏ đặc quyền này do thái độ bất
hợp tác sau khi phạm tội. Việc tạm giam được thực hiện theo lệnh của Thẩm phán
(Điều 114 I) dựa trên đơn yêu cầu của Công tố viên (Điều 125 I và 128 II). Lệnh
tam giam phải xác định rõ bị can và các chi tiết về tội trạng của người đó, cơ sở
pháp lý cũng như cơ sở của việc bắt giữ và sự cần thiết của việc bắt giữ. Luật tạm
giam phải được hủy bỏ trong các trường họp do Luật này quy định.
Pháp luật TTHS Đức cũng xây dựng chế định thẩm phán điều tra: theo đó,
trong giai đoạn điều tra các vụ án nghiêm trọng, thẩm phán điều tra có quyền hỏi
cung người bị tình nghi bảo để đảm các quyền lợi cho họ (chẳng hạn như khi
thẩm phán quyết định có phê chuẩn lệnh khám nhà hay tạm giam người bị tình
nghi hay không), cũng như hỗ trợ cho các hoạt động điều tra của viện công tố.
Luật TTHS Đức cũng quy định Luật sư có quyền tham gia bất cứ giai đoạn nào
của TTHS để bảo đảm quyền và lợi ích cho người bị tình nghi.
Qua những phân tích ở trên, có thể khẳng định, trong hệ thống pháp luật
TTHS các nước, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được ghi
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữLuận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễnLuận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
 
Luận văn: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật
Luận văn: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luậtLuận văn: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật
Luận văn: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT

Similar to Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT (20)

Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễnĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
 
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAYLuận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAYLuận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
 
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOTĐề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOTLuận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA VIỆN KIỂM SÁT VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC [ Hà Nội - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA VIỆN KIỂM SÁT VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC [ Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.PHẠM MẠNH HÙNG Hà Nội - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ PHƢƠNG NGA
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................3 MỤC LỤC...................................................................................................................4 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..........................................................................14 MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1 Chương 1.....................................................................................................................6 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG.......................................................................................6 VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI............................6 1.1. Khái niệm quyền con ngƣời và vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ thống pháp luật quốc tế ............................................................................................6 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người........................6 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người .....................................................................6 1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người .......................................................10 1.1.2. Khái quát pháp luật quốc tề về quyền con người và bảo vệ quyền con người ..............................................................................................................................12 1.1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong một số điều ước quốc tế...........................................................................................................................12 1.1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước.............................................................................................21 1.2. Khái quát về vấn đề quyền con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ thống pháp luật Việt Nam ......................................................................................26 1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp...........26 1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.................................................................................................................30 1.2.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Hình sự ..............................................................................................................................30
  • 5. 1.2.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Thi hành án hình sự.............................................................................................................33 Có thể nói, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung...........................................................35 Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị quy định quyền không bị tra tấn Điều 7: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Công ước đặt ra những chuẩn mực cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm quyền không bị tra tấn, được đối xử nhân đạo, không bị giam giữ độc đoán, tra tấn, nhục hình. Các nước thành viên Công ước, dựa trên các nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy định riêng nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Công ước [3, tr.20-21]. ..............................................................................................................................35 Những vấn đề này đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ từ văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001 và 2013); cho đến các văn bản luật và dưới luật đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự... Đây chính là nền tảng pháp lý để ngăn chặn và trừng trị những hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục. Với tinh thần đó, một số quy định của Luật thi hành án hình sự
  • 6. cũng đã thể hiện được được những quyền cơ bản được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, cụ thể như sau:....................................36 * Quy định để đảm bảo những người phải chấp hành án phạt tù được đối xử nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người:.........36 Quyền được đối xử nhân đạo, được tôn trọng nhân phẩm đã được thể hiện ở chính mục đích của hình phạt tù và thông qua chế độ chấp hành án. Người chấp hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản, như quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Những quyền này được quy định cụ thể tại Luật Thi hành án hình sự năm 2010...........36 Một trong các nguyên tắc thi hành án hình sự được đề ra trong Luật là “tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 3 Điều 4). Bên cạnh đó, cần “kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án” (Khoản 4 Điều 4). Luật Thi hành án hình sự cũng nghiêm cấm “xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 9 Điều 9). Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một chương quy định về thi hành án phạt tù và chế độ quản lý, giam giữ, giáo dục phạm nhân (Chương III, từ Điều 21 đến Điều 53) [3, tr.23-24]............................................36 Với tinh thần tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người, Luật Thi hành án hình sự đã quy định rất cụ thể việc phân khu giam giữ phạm nhân, quy định rõ những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam (Điều 27). Các chế độ liên quan thiết thực của phạm nhân như chê độ ăn, mặc, ở, chăm sóc sinh hoạt, y tế, học tập, học nghề, lao động, gặp, liên lạc, nhận quà của thân nhân… đều được quy định trong Luật này [3, tr.23-24]..................................................................37
  • 7. * Về quy định dành riêng cho người chưa thành niên để đảm bảo việc giam giữ được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp lứa tuổi của họ:..37 Xuất phát từ tinh thần nhân văn cao cả là nhằm giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội, tại Khoản 2 Điều 27 Luật Thi hành án hình sự quy định: ..............................................................................................................................37 … Trong các khu giam giữ quy định tại Khoản 1 Điều này, những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: ..................................................................37 a) Phạm nhân nữ;....................................................................................37 b) Phạm nhân là người chưa thành niên;................................................37 c) …..........................................................................................................37 Không chỉ được giam giữ riêng, Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một mục để quy định đối với các phạm nhân là người chưa thành niên với các điều kiện đối xử tốt hơn so với các phạm nhân đã thành niên (mục 3 Chương III). Chẳng hạn như chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ và vui chơi giải trí, giáo dục, học văn hóa, học nghề, lao động... Phạm nhân là người chưa thành niên được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng; Phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực riêng và phù hợp với độ tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại... [3, tr.26].................................................................................37 Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định rõ trách nhiệm của trại giam trong việc giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên về văn hoá, pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hoá, giới tính và sức khoẻ, chuẩn bị điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù (khoản 2 Điều 51) [3, tr.26-27]. ..........................................................................38 Bên cạnh quy định về quyền không bị tra tấn, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 đặt ra các nghĩa vụ chính đối với các quốc gia thành viên liên quan đến nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức như sau: Một là, các quốc gia cần nghiêm cấm việc bắt giữ làm nô lệ bất cứ
  • 8. người nào; chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm. Hai là, các quốc gia không được bắt buộc lao động cưỡng bức. Ba là, cần có những quy định về các trường hợp ngoại lệ của lao động cưỡng bức. Đây là những chuẩn mực mà Công ước đặt ra cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức. Các nước thành viên Công ước, dựa trên những nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy định riêng nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định tại Điều 8 Công ước [3, tr.60-61]........................................................................38 Vấn đề này đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận, cụ thể hóa một cách thống nhất, đồng bộ từ Hiến pháp cho đến các Bộ luật, các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật. Trong đó, Luật Thi hành án hình sự đã có những quy định về vấn đề lao động của các tù nhân. Các quy định này đã thể hiện được nguyên tắc bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, với mục đích của lao động tù nhân nhằm giáo dục, cải tạo trên cơ sở phù hợp với tình hình sức khỏe, độ tuổi và giới tính. ...................38 Theo quy định của Luật thi hành án hình sự, trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân, lao động và được học văn hóa, học nghề. Việc lao động được tổ chức phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng. Các ngày thứ 7, chủ nhật, lễ, tết, phạm nhân được nghỉ lao động theo quy định của pháp luật...................38 Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không quá 8 giờ 1 ngày. Trường hợp đột xuất hoặc thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng không được quá 2 giờ 1 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động thêm giờ hoặc lao động trong ngày thứ 7, chủ nhật thì được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật. Phạm nhân nữ được bố trí làm những công việc phù hợp với giới tính, sức khỏe và độ tuổi; không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh mục cấm sử dụng lao động nữ. Phạm nhân mắc bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì tùy mức độ, tính chất của bệnh tật và trên cơ sở chỉ định của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời gian lao động.36 Phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực
  • 9. riêng phù hợp với lứa tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại [3, tr. 65-66].................................................39 Như vậy, có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định về lao động tù nhân khá đầy đủ và toàn diện, mục đích của lao động tù nhân nhằm giáo dục, cải tạo trên cơ sở phù hợp với tình hình sức khỏe, độ tuổi và giới tính.......................................39 Tóm lại, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung...........................................................39 Chương 2...................................................................................................................41 VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT..................................................................................41 2.1. Khái quát về Viện kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử trƣớc năm 2003 ......................................41 2.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời ........................41 2.1.1.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và của cơ quan điều tra khác.........................................................................43 2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân dân........................................................................................................................46 2.1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật................................48 2.1.1.4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giam, tạm giữ và cải tạo.........................................................................................................................49 2.1.2. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi có BLTTHS năm 2003......................53
  • 10. 2.1.2.1. Việc kiểm sát bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.................................................................................................55 2.1.2.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự..............58 2.1.2.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam.......................................................................59 2.1.2.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án.................................61 2.2. Bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát nhân dân trong BLTTHS 2003 .62 2.2.1. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố và điều tra vụ án hình sự của VKSND.................62 2.2.2. Bảo vệ quyền con người qua các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ................................................................69 2.2.3. Bảo vệ quyền con người thông qua các hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và kiểm sát thi hành án hình sự................................................74 2.2.3.1. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tam giam......................................................................................................................74 2.2.3.2. Bảo vệ quyền con người thông qua các hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự..................................................................................................................78 Chương 3...................................................................................................................81 THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC BẢO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.....................................................................................................81 3.1. Thực tiễn bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát nhân dân trong các giai đoạn tố tụng hình sự ........................................................................................81 3.1.1. Trong giai đoạn khởi tố và điều tra.........................................................81
  • 11. 3.1.2. Trong giai đoạn truy tố và xét xử các vụ án hình sự.............................85 3.1.3. Trong giai đoạn thi hành án hình sự......................................................90 3.1.4. Đánh giá chung (hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập) ........................................................................................................92 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò bảo vệ quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát..........................................................94 Để khắc phục những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong thực tiễn trên, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cần tiến hành thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:.94 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự .............94 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự .......................97 3.3. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con ngƣời của VKSND.................................................................................................101 3.3.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát ........................................................................................................................... 101 3.3.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát...................................................................................................................... 103 3.3.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng hình sự.............................................................................................................. 105 3.3.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát..... 107 3.4.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ cấp ưu đãi... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát 110 KẾT LUẬN............................................................................................................112
  • 12. Trên cơ sở nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND trong tố tụng hình sự Việt Nam, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau: .......................................112 1. Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người là vấn đề mang tính toàn cầu, được ghi nhận trong hệ thống các điều ước quốc tế và trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việt Nam đã tham gia nhiều văn kiện quốc tế về đảm bảo quyền con người, cụ thể hóa các cam kết quốc tế vào hiến pháp và xây dựng, từng bước hoàn thiện các hành lang pháp lý về quyền con người và đảm bảo quyền con người được thực hiện có hiệu quả tại Việt Nam. Không chỉ được ghi nhận trong hệ thống các ngành luật, quyền con người và bảo vệ quyền con người còn được ghi nhận và đảm bảo thực hiện thông qua các quy định trong Hiến pháp – Đạo luật gốc. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định quyền con người là một giá trị tích đặc biệt, có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội; đồng thời thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa và là kim chỉ nam cho việc định hướng xây dựng hiến pháp và pháp luật..................112 2. TTHS là quá trình nhà nước đưa người phạm tội ra xử lý trước pháp luật; luôn thể hiện đậm tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Do đó, vừa đảm bảo việc phát hiện xử lý tội phạm, vừa phải đảm bảo không xâm phạm quyền con người là vấn đề bức thiết đặt ra TTHS. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS được bảo vệ thông qua các quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của hệ thống cơ quan tư pháp hình sự và đặc biệt là thông qua vai trò của hệ thống VKS trong pháp luật TTHS..............................................................................................112 5. Trước tình hình đó, việc sửa đổi bổ sung một số quy định trong BLTTHS về các nguyên tắc cơ bản trong TTHS; bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với VKSND trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cùng với đó, việc tiến hành đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát; đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát; tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác, đặc biệt là mối quan hệ giữa Tòa án với VKS; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ cấp ưu đãi... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát góp phần mang lại hiệu quả tích cực cho hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKS trong TTHS, qua đó góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền cơ bản của công dân.....................................................................................................113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................114
  • 13.
  • 14. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Bộ luật Dân sự BLDS Bộ luật Hình sự BLHS Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS Tố tụng hình sự TTHS Viện kiểm sát VKS Viện kiểm sát nhân dân VKSND Việt Nam Dân chủ Cộng hòa VNDCCH Xã hội chủ nghĩa XHCN
  • 15. 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt. Nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực TTHS. Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường… nhưng có thể nói, quyền con người trong TTHS lại là quyền dễ bị xâm phạm, bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách là quá trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội phạm; luôn thể hiện đậm tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên tham gia quan hệ TTHS; mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội. Chính vì vậy, hoạt động TTHS, trong bất cứ nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người. Phát hiện, xử lý tội phạm là công việc của bất kỳ nhà nước nào nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, của cá nhân trong xã hội đó. Vừa đảm bảo việc phát hiện xử lý tội phạm, vừa phải đảm bảo không xâm phạm quyền con người là một mâu thuẫn mà giải quyết hài hòa mâu thuẫn này đó chính là biểu hiện của một kiểu TTHS trong một nhà nước văn minh. Công việc đầu tiên ở đâu cũng đòi hỏi và nhà nước nào cũng có nhiệm vụ phải làm là: Ghi nhận cụ thể những quyền con người nào trong hệ thống pháp luật TTHS của mình. Việc ghi nhận này không phải là sự ban phát từ phía nhà nước mà bắt nguồn từ nhiều yếu tố trong đó có việc thừa nhận những giá trị cao quý nhân loại đã thừa nhận chung. Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện Quốc tế về quyền con người trong TTHS như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ
  • 16. 2 bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985…. Nghiên cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định quyền con người trong TTHS là sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do, trong lĩnh vực TTHS. Theo đó, quyền con người trong TTHS bao gồm những quyền: Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự , nhân phâm và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi….; Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử (Điều 10, 11 UHDR, Điều 14, 15 và 11 ICCPR) … Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội - đối tượng quan trọng nhất cần bảo vệ trong TTHS. Bên cạnh đó,khi nghiên cứu về quyền con người trong TTHS chúng ta còn cần quan tâm đến quyền của nạn nhân của tội phạm (người bị hại), quyền của người làm chứng và những người liên quan khác, quyền con người của những người tiến hành tố tụng như điều tra viên, công tố viên và thẩm phán. Những người này họ cũng có quyền con người của họ như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm, quyền được bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng con đường TTHS. Các quyền đó được bảo về thông qua các quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của hệ thống cơ quan tư pháp hình sự và đặc biệt là thông qua vai trò của hệ thống VKS trong pháp luật tố TTHS. Cho đến nay, Việt Nam chúng ta đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về quyền con người. Điều đó được thể hiện trong BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam ở mức độ khác nhau: Có thể trang trọng quy định là nguyên tắc cơ bản, Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm
  • 17. 3 phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, suy đoán vô tội, quyền bào chữa quyền kháng cáo, quyền minh oan. Hay được thể hiện thông qua các quy định về hệ thống các cơ quan tư pháp hình sự, quyền và nghĩa vụ của hệ thống tư pháp hình sự trong đó có quy định về vai trò của VKS trong việc bảo đảm quyền con người theo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự… Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…”, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của hệ thống tư pháp hình sự, đặc biệt là vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong TTHS cũng là một vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật TTHS trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền con người và thực tiễn áp dụng, cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó trên thực tế không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài “Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Khi lựa chọn đề tài cho luận văn của mình, tác giả luận văn có mục đích tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về vai trò của VKS trong việc bảo về quyền con người theo pháp luật TTHS Việt Nam và việc thực hiện chúng trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự. Thông qua sự tìm hiểu đó,
  • 18. 4 tác giả luận văn đưa ra những nhận xét và đánh giá theo quan điểm của cá nhân về sự phù hợp hay không phù hợp của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó luận văn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động của Viện Kiểm sát trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI - Đối tượng nghiên cứu: Tác giả luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp luật có liên quan đến quyền con người và bảo vệ quyền con người trong TTHS tụng hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề xung quanh việc quy định về vai trò của VKS và việc thực hiện vai trò đó của VKS trong việc bảo vệ quyền con người trong BLTTHS 2003, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định đó trong thực tế xét xử các vụ án hình sự và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó trong thực tiễn. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Quá trình nghiên cứu đề tài của luận văn tác giả đã dựa trên các quan điểm của Đảng, của Nhà nước về vị trí, vai trò của VKSND và việc bảo vệ quyền con người của VKS trong các hoạt động tố tụng hình sự. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp… khi nghiên cứu đề tài. 5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Với việc nghiên cứu đề tài này, luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người, về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền con người trong TTHS. Trên cơ sở đó đánh giá thực
  • 19. 5 trạng và đề xuất phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật về vai trò bảo vệ quyền con người của VKS trong pháp luật TTHS Việt Nam. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận văn được thể hiện trong ba chương với nội dung như sau: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền con người và bảo vệ quyền con người. - Chương 2: Vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam của Viện Kiểm sát. - Chương 3: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người của Viện Kiểm sát nhân dân.
  • 20. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI 1.1. Khái niệm quyền con ngƣời và vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong hệ thống pháp luật quốc tế 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ yếu, khác nhau về quyền con người. Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa… của các xã hội [25]. Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác – Lênin đã khắc phục được tính phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan điểm nêu trên. Học thuyết Mác – Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một
  • 21. 7 thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [20]. Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office of High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental) của con người [25, tr.37]. Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [25, tr.37]. Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người – một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [15].
  • 22. 8 Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15]. Cho đến nay, giữa các nhà khoa học – luật gia trong và ngoài nước vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [24]. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm với nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định. Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
  • 23. 9 chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời, pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45]. Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định nghĩa triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một định nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo… mà mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [25, tr.41]. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về quyền con người như sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Khái niệm này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia.
  • 24. 10 1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo đảm đầu đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47]. Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cũng với quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47]. Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế
  • 25. 11 hóa quyền con người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật [16]. Như vậy, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống. Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không được thường xuyên. Khả năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá trình tổ chức thực hiện trước hết phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế hóa quyền con người tự nhiên thành quyền công dân, cùng với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng bộ thuận tiện khả thi của các quy định pháp luật về quyền công dân; xây dựng thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước hướng đến mục tiêu thực hiện bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước thông qua pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Theo nhận thức của cộng đồng Quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người. Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.
  • 26. 12 Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các quyền con người [41, tr.58]. Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và Công ước quốc tế về quyền con người. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người. Như vậy, đảm bảo pháp lý về quyền con người là hệ thống các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các quy định và thiết chế đó được thực hiện trong thực tế. Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con người; là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.1.2. Khái quát pháp luật quốc tề về quyền con người và bảo vệ quyền con người 1.1.2.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong một số điều ước quốc tế i. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 * Bối cảnh ra đời Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Tuyên ngôn phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng. Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia [68].
  • 27. 13 Bản tuyên ngôn ra đời trong bối cảnh mọi quốc gia trên thế giới đều bị tác động trực tiếp hoặc gián tiếp bởi Chiến tranh Thế giới thứ hai, 70 triệu người đã tử vong. Kế hoạch thiết lập một tổ chức quốc tế để hình thành một Liên Hợp Quốc đã được khởi xướng từ cuộc chiến này. Mùa xuân năm 1945, 50 chính phủ và hàng trăm các tổ chức phi chính phủ đã nhóm họp tại San Francisco. Các quốc gia đã vạch ra "thể chế" của Liên Hiệp Quốc mới. “Hiến chương” của Liên Hiệp Quốc thể hiện các quan điểm “chính thức” và “không chính thức”. Lời mở đầu của Hiến chương Liên Hiệp Quốc khẳng định quyết tâm: Chúng ta, các thành viên của Liên Hiệp Quốc khẳng định quyết tâm… thực sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ, … Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi thành lập ủy ban về nhân quyền. Với sự hỗ trợ của Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO), Ủy ban Nhân quyền mới bắt tay vào nghiên cứu xem các nền văn hóa, các quốc gia và các nhà học giả khác nhau nhìn nhận như thế nào về các quyền của con người. Các quan điểm đa dạng này giúp ủy ban hiểu vấn đề một cách sâu sắc hơn và hoàn thiện hơn công trình của họ. Tháng 9 năm 1948, ủy ban đệ trình bản dự thảo tuyên ngôn cho Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Sau đó là các cuộc tranh luận kéo dài nhằm làm rõ ngôn ngữ của bản dự thảo và thống nhất ý kiến. Quá trình thương thảo và thông qua kéo dài trong 2 năm, bao gồm 81 cuộc họp, 168 bản sửa đổi, bổ sung và gần 1.400 lần biểu quyết. Sự kiện có ý nghĩa nhất diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. Đại hội đồng chính thức thông qua bản Tuyên ngôn Thế giới với 100% phiếu thuận và 8 phiếu trắng. Đây là một kết quả đáng ghi nhớ đối với một tiến trình phi thường [68]. * Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 Tuyên ngôn bao gồm 30 điều, lần đầu tiên liệt kê một cách toàn diện những quyền của con người trong tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuyên ngôn thực chất không phải là một điều ước quốc tế có hiệu lực, nhưng nó có một sức mạnh “luân lý” to lớn đối với các quốc gia trên thế giới. Tập hợp các quyền con người trong tuyên ngôn trở thành một tiêu
  • 28. 14 chuẩn chung được hầu hết các quốc gia quy định vào luật pháp của đất nước mình. Tuyên ngôn nhân quyền có tác động to lớn đối với thế giới và được đánh giá là một trong những văn kiện có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử. Nó đã thôi thúc sự phát triển nhân quyền ở rất nhiều quốc gia, các địa phương và các vùng lãnh thổ [45, tr.20-21]. Giá trị cơ bản – nguyên lý xuyên suốt toàn bộ Tuyên ngôn – được nêu trong Điều 1: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng như nhau về nhân phẩm và các quyền”. Sự khẳng định này vẫn còn nguyên giá trị thực hiện và tin tưởng qua nhiều. Bản thân Tuyên ngôn không thể thay đổi hoặc xoay chuyển thái độ của toàn nhân loại. Tuy nhiên, nó chỉ ra một hướng đi quan trọng. Các nhà soạn thảo Tuyên ngôn đã chủ ý đưa vào một số các nguyên tắc đạo lý và luật pháp. Rất nhiều trong số 30 điều khoản của tuyên ngôn đề cập đến các quyền dân sự và chính trị, nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực, vi phạm, chà đạp quyền con người. Các điều khoản khác đề cập đến các quyền tự do chung của mỗi cá nhân, như là quyền tự do phát ngôn. Ngoài ra còn có các điều khoản về các quyền về văn hóa, xã hội và kinh tế như là quyền được đi học và quyền được làm việc. Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết: Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản Tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này [14]. * Tầm quan trọng của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền là một trong những văn kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Nó đã trở thành một hòn đá tảng cho mọi hành động của các chính phủ, mọi người dân và các tổ chức phi chính phủ. Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền có ý nghĩa đạo đức và chính trị mà ít văn kiện nào sánh được. Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền là kim chỉ nam cho các hành động hiện thời và tư tưởng tiến bộ cho việc thực hiện sau này ở các quốc gia. Các chuẩn mực của Tuyên ngôn ngày càng được thể chế hóa tại các nước và được coi
  • 29. 15 là cơ sở cho các Đạo luật quốc tế về nhân quyền và các hiệp định khác về các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra, Tuyên ngôn còn là cơ sở hết sức linh hoạt cho việc không ngừng phát triển sâu rộng hơn khái niệm cơ bản nhất về các quyền con người. Tập hợp các quyền và tự do trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được coi là khuôn mẫu, thước đo chung (common standards of achievement) mà mọi dân tộc, quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới, cũng như để sử dụng trong việc đánh giá sự tôn trọng và thực hiện các quyền con người. Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế, song Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có sức nặng luân lý rất to lớn. Hiện tại, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế (international customary law) về quyền con người, tức là có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia trên thế giới [14]. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền ra đời là một bước tiến mới khẳng định các quyền phổ quát cho toàn thể nhân loại. Bản tuyên ngôn này phản ánh sự đa dạng của các nền tảng tư tưởng, văn hóa và lịch sử, ghi nhận trang trọng lần đầu tiên các quyền dân sự và chính trị cơ bản, bên cạnh các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, cho mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Bản Tuyên ngôn với 30 điều khoản, cũng chính là nền tảng cho hai công ước quốc tế về quyền con người cùng được thông qua vào năm 1966: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. ii. Công ước Quốc tế về các Quyền Chính trị và Dân sự 1966 * Bối cảnh ra đời Công ước ICCPR 1966 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt là Công ước ICCPR) là công ước quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976. Công ước ICCPR nêu tổng quan về các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Cụ thể, các bên tham gia ký kết sẽ phải tôn trọng các quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm quyền sống, quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và quyền được xét xử bình đẳng và theo đúng trình tự pháp luật. Tính tới ngày 19 tháng 12 năm 2010, đã có 72 nước ký vào Công ước và 167 bên tham gia [68].
  • 30. 16 Công ước ICCPR bắt nguồn từ quá trình soạn thảo trùng với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Một bản “Tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người” đã được đưa ra tại Hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc năm 1945, tức Hội nghị San Francisco. Sau đó Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp quốc được giao trách nhiệm soạn thảo và hoàn thiện Công ước. Mới đầu trong quá trình soạn thảo, bản thảo được chia nhỏ thành một tuyên ngôn về các quyền con người tổng quát và một bộ quy tắc rằng buộc các bên tham gia ký. Bản đầu tiên sau này trở thành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948. Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng giữa các thành viên Liên Hiệp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, dẫn đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, “Một cái chứa các quyền dân sự và chính trị, và cái kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”. Hai bộ nhỏ này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc. Mỗi công ước đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc [68]. Như vậy, Bộ quy tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, trong khi bộ thứ hai thì trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo luận tại các cuộc họp của đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 1954 và được chấp thuận năm 1966. * Nội dung chính của Công ước ICCPR 1966 Công ước ICCPR gồm 6 phần, 53 điều có hiệu lực ngày 23 tháng 03 năm 1976. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Do đó, về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quy định [39, tr.39-41]: Phần I (Điều 1) công nhận quyền tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm quyền được "tự do định đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát
  • 31. 17 triển kinh tế, xã hội và văn hoá" trong điều kiện thực tế của mình. Công nhận rằng quyền sinh kế của một dân tộc không bao giờ bị tước bỏ. Phần II (Điều 2 - 5) yêu cầu các bên thực hiện các bước cần thiết để hiện thực hóa các quyền được công nhận trong Công ước, đồng thời trừng phạt và sửa chữa bất kỳ vi phạm nào trong quá khứ và hiện tại. Nó yêu cầu các bên cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được thừa nhận trong Công Ước. Phần III (Điều 6 - 27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm các quyền sau: Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8); Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11); Quyền bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Bị cáo về các tội hình sự có quyền được chấp nhận là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật (Điều 14, 15, và 16); Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự do di chuyển, tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu và giữ quan điểm mà không bị ai can thiệp, tự do lập hội và hội họp, tự do lập gia đình, quyền khai sinh và quyền bí mật đời tư (Điều 12, 13, 17 – 24); Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo (Điều 20); Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập, theo hoặc không theo một đảng chính trih và quyền bầu cử (Điều 25); Quyền được đối xử bình đẳng của các cộng đồng thiểu số trước luật (Điều 26 và 27). Nhiều trong số các quyền trên yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội viên phải thực hiện. Phần IV (Điều 28 - 45) quy định các nguyên tắc thành lập và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền cùng các công việc giám sát và báo cáo. Đồng thời, nó cũng yêu cầu các quốc gia thừa nhận năng lực của Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn giữa các nước liên quan đến việc thực thi Công ước (Điều 41 và 42). Phần V (Điều 46 - 47) giải thích rằng Công ước sẽ không bị diễn giải theo cách can thiệp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc hoặc "quyền của mọi dân tộc được thụ hưởng và sử dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn tài nguyên của họ". Phần VI (Điều 48 - 53) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.
  • 32. 18 Nội dung quan trọng nhất của Công ước chính là phần III, gồm các quy định về nội hàm của các quyền dân sự và chính trị. Đây là những chuẩn mực (standards), hay các quy phạm (norms), quan trọng nhất về các quyền dân sự và chính trị. Về cơ bản, chúng là các quyền thuộc về các cá nhân (individual rights). * Ý nghĩa của Công ước ICCPR 1966 Công ước ICCPR 1966 nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Công ước là một phần của hệ thống bộ luật nhân quyền quốc tế. Một trong những quyền quan trọng khác được công ước long trọng ghi nhận ở Chương I là quyền dân tộc tự quyết. Công ước khẳng định: Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Sau đó, các quyền dân sự - chính trị được trình bày một cách có hệ thống trong công ước. Các điều khoản đều hướng tới sự bảo đảm tốt nhất đối với quyền sống, sự tự do, quyền được đối xử bình đẳng và sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị quốc gia. Là một dạng cam kết quốc tế có hiệu lực, công ước ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc xây dựng pháp luật quốc gia để thực hiện công ước. Việt Nam đã gia nhập công ước này vào ngày 24/9/1982. iii. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 * Bối cảnh ra đời của Công ước ICESCR 1966 Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, viết tắt: Công ước ICESCR) là một công ước quốc tế được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 02 năm 1966, có hiệu lực từ ngày 03 thnsg 01 năm 1976. Các quốc gia tham gia Công ước cam kết trao các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho các cá nhân, bao gồm quyền công đoàn và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục và quyền được đảm bảo mức sống phù hợp. Tính tới ngày 15 tháng 12 năm 2008, đã có 160 quốc gia tham gia và 69 nước đã ký công ước [68]. Công ước ICESCR là một phần của Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế, cùng với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị.
  • 33. 19 Quá trình soạn thảo Công ước ICESCR được bắt đầu từ những ý tưởng đầu tiên về một Bộ luật quốc tế về nhân quyền (International Bill of Human Rights) được đặt nền móng trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945. Năm 1947, khi xây dựng những thiết chế đầu tiên về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, các nhà soạn thảo của Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Commission on Human Rights – viết tắt là CHR) muốn có một văn bản mang tính tuyên ngôn về các nguyên tắc chung và một văn bản mang tính công cụ để ràng buộc nghĩa vụ pháp lý với các quốc gia thành viên. Văn bản mang tính nguyên tắc chung nêu trên sau này trở thành Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền, được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào năm 1948 [40, tr.18]. Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng giữa các thành viên Liên Hiệp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, dẫn đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, một bản chứa các quyền dân sự và chính trị, và bản kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Hai bộ nhỏ này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc. Mỗi Công ước đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc. Bộ quy tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, trong khi cái thứ hai trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo luận tại cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 1954, và được chấp thuận vào năm 1966 [68]. * Các nội dung cơ bản công ước ICESCR: Công ước ICESCR gồm Lời nói đầu và 31 điều được chia làm 5 phần với các nội dung chính như sau [40, tr.53-57]: Lời nói đầu của Công ước gồm 7 đoạn và có nội dung tương tự Lời nói đầu của Công ước ICCPR. Phần này nêu rõ sự đồng thuận của các nước tham gia Công ước, công nhận phẩm giá của con người, nêu lại nguồn gốc các quyền của con người bắt nguồn từ phẩm giá vốn có, công nhận rằng lý tưởng về con người tự do đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc trong
  • 34. 20 việc tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự do của con người cũng như nghĩa vụ của mỗi cá nhân tuân thủ và thúc đẩy những quyền ấy. Phần thứ nhất của ICESCR đề cập đến quyền tự quyết của các dân tộc. Phần này nằm trọn vẹn trong một điều (Điều 1) và có nội dung giống Phần thứ nhất (Điều 1) của ICCPR. Điều 1 Công ước ghi nhận quyền tự quyết của các dân tộc trong việc quyết định thế chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và việc sử dụng của cải, tài nguyên thiên nhiên của dân tộc mình. Ngoài ra, Điều này còn ghi nhận quyền của các dân tộc không bị tước đoạt phương tiện sinh tồn của mình, cũng như nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc. Phần thứ hai của Công ước bao gồm các Điều 2, 3, 4 và Điều 5. Các điều này quy đinh về nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên công ước, cụ thể bao gồm: Điều 2 yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp để phấn đấu đạt tới đảm bảo hoàn toàn các quyền được ghi nhận trong Công ước. Điều này cũng quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên không được phân biệt đối xử trong việc bảo đảm thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công ước. Tuy nhiên, Điều 2 cho phép các nước đang phát triển có thể lựa chọn mức độ đảm bảo các quyền kinh tế được ghi nhận trong Công ước với công dân nước ngoài. Điều 3 quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được ghi nhận trong Công ước. Điều 4 quy đinh về việc hạn chế và các điều kiện phải tuân thủ khi hạn chế các quyền trong Công ước. Điều 5 quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn cao hơn trong luật pháp quốc gi so với các quyền được ghi nhận trong Công ước. Phần thứ ba của Công ước bao gồm các Điều từ 6 đến Điều 15 quy định về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể: quyền làm việc (Điều 6,7 và 8); quy định về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội (Điều 9); quyền về gia đình, hôn nhân tự do và chăm sóc bà mẹ và trẻ em (Điều 10); quyền không bị đói, quyền có lương thực thích đáng và quyền có nơi cư trú thích đáng (Điều 11), quyền được hưởng tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể (Điều 12); quyền về giáo dục (Điều 13,14); quyền tham gia vào đời sống văn hóa (Điều 15).
  • 35. 21 Phần thứ tư của Công ước bao gồm các Điều từ 16 đến Điều 25. Phần này tập trung quy định về cơ chế bảo đảm thực thi ICESCR. Cơ chế này bao gồm việc báo cáo của quốc gia thành viên, vai trò của ECOSOC, CHR và các tổ chức chuyên môn của Liên Hiệp Quốc cũng như mối quan hệ điều phối trong bộ máy Liên Hiệp Quốc có liên quan đến Công ước. Phần thứ năm của Công ước bao gồm các Điều từ 26 đến Điều 31, quy định các vấn đề về thủ tục, cụ thể như việc ký kết, tham gia, thời điểm có hiệu lực, việc áp dụng trong các nước liên bang, việc sửa đổi, ngôn ngữ thể hiện của Công ước [40, tr.53-57]. * Tầm quan trọng và ý nghĩa của Công ước ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 nêu lên mọi người dân đều có quyền làm việc và được làm việc trong những điều kiện an toàn nhất, quyền tham gia công đoàn, quyền được hưởng an sinh và xã hội, quyền được học tập và thụ hưởng cuộc sống ở mức phù hợp, không ngừng nâng cao điều kiện cuộc sống. Song song với việc quy định về quyền của con người, công ước nêu cụ thể trách nhiệm của các quốc gia thành viên, bằng các biện pháp lập pháp hoặc phát triển kinh tế - xã hội phải tạo điều kiện để cá nhân phát triển đầy đủ và sung túc nhất [45, tr.22-23]. 1.1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước i. Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản Bộ luật TTHS Nhật Bản được ban hành vào năm 1890, đến năm 1923 được sửa đổi bổ sung theo mô hình của Đức dựa trên nguyên tắc thẩm vấn và chế độ thẩm vấn sơ bộ được áp dụng. Năm 1947 ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát và được thực thi đến nay. Năm 1948 Bộ luạt tố tụng hình sự Nhật Bản được sửa đổi bổ sung lần thứ hai dựa trên mô hình của Hoa Kỳ và được sửa đổi dựa theo nguyên tắc tranh tụng [43]. Bộ luật TTHS Nhật Bản với 7 quyền và 507 Điều, với mục đích là “làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một
  • 36. 22 cách nhanh chóng đối với các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến việc duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân” [42]. Quyển I với 16 chương gồm những quy định chung về Thẩm quyền của Tòa án; vấn đề thay đổi và yêu cầu thay đổi cán bộ Tòa án; năng lực kiện tụng; người bảo chữa và trợ lý, về quyết định; tài liệu và tống đạt, vấn đề thời hạn; các lệnh triệu tập, tạm gian và đưa vào trại giam; vấn đề tạm giữ; việc kiểm tra; thẩm định nhân chững; giám định của chuyên gia; việc phiên dịch và biên dịch; vấn đề bảo quản chứng cứ; các chi phí tòa án và việc bồi thường các chi phí. Quyển II về sơ thẩm với 4 chương quy định về việc điều tra; hoạt động công tố; việc xét xử công khai và phần thủ tục phán quyết nhanh. Quyển III về vấn đề kháng cáo với những quy định chung về kháng cáo; kháng cáo Koso và kháng cáo kokoku. Quyển IV về việc xét xử lại. Quyển V về vấn đề kháng cáo ngoại lệ. Quyển VI về thủ tục rút gọn. Quyển VII về việc thi hành quyết định của Tòa án [42]. Trong luật TTHS Nhật Bản thủ tục điều tra được quy định: Về nguyên tắc điều tra gồm: Nguyên tắc điều tra tự nguyện và nguyên tắc điều tra bắt. Tất cả các biện pháp sử dụng trong điều tra bắt buộc đều được quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS. Về bắt giữ: Việc bắt giữ người phạm tội phải được thực hiện theo lệnh, quyết định phê chuẩn của Thẩm phán Tòa án, trừ trường hợp bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Cảnh sát hoặc Kiểm sát viên đề nghị Thẩm phán ra lệnh bắt giữ. Trong trường hợp Cảnh sát bắt giữ bị can, người bị bắt giữ bị tạm giữ tại đồn cảnh sát trong vòng 48 giờ theo lệnh của cảnh sát. Trong trường hợp Cảnh sát cho rằng cần thiết phải tạm giam bị can, cảnh sát sẽ giao bị can cho VKS. Việc tạm giam bị can phải được Thẩm phán Tòa án phê chuẩn. Việc quy định như trên trong điều tra đã thể hiện được mục đích “đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân" đã nêu ngay trong của Bộ luật này [43]. Về việc giải quyết vụ án cuối thời hạn điều tra, theo quy định tại Bộ luật này: Kết thúc thời hạn điều tra, VKS sẽ quyết định không truy tố nếu thuộc các trường hợp: Bị can chết, quá thời hiệu truy tố, người phạm tội ở độ tuổi vị thành niên, người phạm tội không có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, người pham tội không coi là tội phạm. Nếu VKS truy tố thì việc truy tố được thực hiện dưới
  • 37. 23 danh nghĩa của Kiểm sát viên không phải của Viện kiểm sát. Trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên chỉ gửi cho Tòa án Bản truy tố không bao gồm tài liệu chứng cứ hoăc vật chứng của của vụ án. Trong Bản truy tố của Kiểm sát viên chỉ đề cập ngắn gọn họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp của bị cáo cũng như ngày, tháng, địa điểm, hậu quả của vụ án hình sự bị buộc tội. Mục đích của chế định này là để tránh làm cho Thẩm phán có định kiến về vụ án hình sự trước khi xét xử [43]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Bộ luật có quy định: Luật sư bào chữa được quyền xem xét chứng cứ: Kiểm sát viên phải cho Luật sư bào chữa thẩm tra chứng cứ cần thiết tối thiểu mà Kiểm sát viên cho rằng cần có để làm bằng chứng cho vụ án hình sự bị buộc tội. Chỉ những chứng cứ mà Luật sư bào chữa đồng ý mới được phép trình ra trước Hội đồng xét xử, không được Luật sư bào chữa đồng ý, về nguyên tắc chứng cứ có thể không được trình tại Tòa án và trong trường hợp này có thể kiểm tra nhân chứng tại phiên tòa. Trong trường hợp vụ án hình sự phức tạp hoặc bị cáo không nhận tội sẽ có nhiều vấn đề được giải quyết, điều đó có thể làm kéo dài phiên tòa xét xử. Thẩm phán, Luật sư và Kiểm sát viên có thể cùng tiến hành thủ tục chỉnh lý các vấn đề trước khi mở phiên tòa. Thông qua thủ tục này, các vấn đề tranh luận trong phiên tòa có thể được làm rõ và tập trung giải quyết( Thủ tục này được chỉnh lý và sửa đổi năm 2005) [43]. Về thủ tục xét xử: Thẩm phán hỏi về họ tên, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ, nghề nghiệp (nghiêm cấm hỏi về tiền án, tiền sự và gia đình). Đây là điểm khác biệt so với Luật TTHS Việt Nam. Kiểm sát viên đọc bản truy tố; Thẩm phán thông báo quyền của bị cáo giữ im lặng; Bị cáo thừa nhận có tội hay không có tội; Kiểm sát viên phát biểu mở đầu (giải thích chi tiết về vụ án xét xử); Kiểm sát viên, hoặc Luật sư bào chữa đề nghị kiểm tra chứng cứ [43]. Tại phiên tòa người bị hại có thể ngồi cạnh Kiểm sát viên, tiến hành kiểm tra nhân chứng, hỏi bị cáo, trình bày ý kiến của mình về vụ việc hoặc áp dụng pháp luật. Kết thúc phiên tòa Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa phát biểu ý kiến cuối cùng về vụ án, sau đó bị cáo trình bày lời nói sau cùng, Hội đồng xét xử ra bản án (khoảng 1 tuần).
  • 38. 24 Về Hệ thông bồi thẩm đoàn (Ở Việt Nam gọi là Hội thẩm nhân dân): Năm 2009 Bộ luật TTHS Nhật Bản mới có chế định Bồi thẩm đoàn, bồi thẩm đoàn ở Nhật Bản không theo nhiệm kỳ như Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam. Khi có vụ án hình sự được đưa ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền chọn bất kỳ người nào để tham gia bồi thẩm đoàn, những người được chọn làm bồi thẩm đoàn đại diện cho lực lượng xã hội để phán quyết đối với bị cáo và họ chỉ tham gia vào vụ án nhất định, khi vụ án kết thúc thì họ cũng đương nhiên kết thúc nhiệm kỳ của bồi thẩm đoàn [43]. Như vậy, thông qua các quy định của Bộ luật TTHS Nhật Bản, chúng ta có thể nhân thấy vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được các nhà làm luật Nhật Bản quan tâm được biệt khi ngày trong mục đích của Bộ luật để nêu rất rõ ràng “duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đối với từng cá nhân” và thông qua rất nhiều quy định khác thể hiện trong từng chương của Bộ luật này. ii. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức với 8 phần và 477 điều. Trong pháp luật TTHS Đức, Các viện Công tố của Đức thực hiện hai chức năng cơ bản là điều tra các vụ án hình sự và nhân danh nhà nước để buộc tội bị cáo tại phiên tòa. Viện công tố được xem là cơ quan duy nhất có thẩm quyền điều tra hình sự; Trong khi đó, cơ quan cảnh sát chỉ thực hiện những nhiệm vụ điều tra theo các chỉ thị từ viện công tố, nói cách khác, viện công tố chỉ đạo và giám sát các hoạt động điều tra [18]. Về hoạt động điều tra, pháp luật tố tụng hình sự của Đức quy định rất chặt chẽ những hoạt động xâm phạm đến các quyền tự do của công dân nhất là khi áp dụng các biện pháp: bắt tạm giam, khám xét, bắt giữ, nghe, ghi âm liên lạc các cuộc viễn thông và khám người. Những hoạt động này chỉ có hiệu lực nếu được áp dụng tương xứng với mục đích của từng hoạt động trên. Mọi bằng chứng liên quan thu được do vi phạm nguyên tắc này sẽ không được Tòa án chấp nhận. Khi xem xét áp dụng một trong những biện pháp như vậy, cơ quan công tố phải làm đơn đề nghị thẩm phán Tòa án địa phương ra lệnh (Điều 162) [52]. Lệnh phải
  • 39. 25 được ban hành ngay khi có đủ chứng cứ chứng minh sự cần thiết tiến hành các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn đó [5]. Tất cả các giai đoạn tố tụng, việc thẩm vấn bị cáo tuân theo nguyên tắc không được có hành động tàn tệ với bị can, bị cáo. Họ được quyền giữ im lặng từ khi bắt đầu cuộc điều tra và phải được thông báo về quyền này trước phiên thấm vấn, hỏi cung đầu tiên. Đối với vấn đề bắt và tạm giam, Luật tố tụng của Đức phân biệt giữa biện pháp tạm giam và bắt. Tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử (giai đoạn điều tra) là sự hạn chế nghiêm khắc nhất quyền tự do cá nhân. Do đó, chỉ có Thẩm phán mới có quyền ra lệnh này và lệnh này phải được thực hiện như một biện pháp an ninh chứ không phải mới mục đích làm cho người bị tình nghi nếm mùi nhà tù khi mà giả định vô tội vẫn đang áp dụng [5]. Viện công tố, trong vòng 24 tiếng sau khi có lệnh tạm giam, phải đưa người bị tạm giam trình diện thẩm phán ngay; Sau khi có lệnh bắt tạm giam thì thẩm phán phải tiến hành thủ tục thẩm tra lệnh này . Theo quy định, thời hạn tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử được tự động trừ vào thời gian chấp hành án, trừ khi bị can từ bỏ đặc quyền này do thái độ bất hợp tác sau khi phạm tội. Việc tạm giam được thực hiện theo lệnh của Thẩm phán (Điều 114 I) dựa trên đơn yêu cầu của Công tố viên (Điều 125 I và 128 II). Lệnh tam giam phải xác định rõ bị can và các chi tiết về tội trạng của người đó, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở của việc bắt giữ và sự cần thiết của việc bắt giữ. Luật tạm giam phải được hủy bỏ trong các trường họp do Luật này quy định. Pháp luật TTHS Đức cũng xây dựng chế định thẩm phán điều tra: theo đó, trong giai đoạn điều tra các vụ án nghiêm trọng, thẩm phán điều tra có quyền hỏi cung người bị tình nghi bảo để đảm các quyền lợi cho họ (chẳng hạn như khi thẩm phán quyết định có phê chuẩn lệnh khám nhà hay tạm giam người bị tình nghi hay không), cũng như hỗ trợ cho các hoạt động điều tra của viện công tố. Luật TTHS Đức cũng quy định Luật sư có quyền tham gia bất cứ giai đoạn nào của TTHS để bảo đảm quyền và lợi ích cho người bị tình nghi. Qua những phân tích ở trên, có thể khẳng định, trong hệ thống pháp luật TTHS các nước, vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được ghi