Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ KIM CÚC
NGUY£N T¾C B×NH §¼NG TR¦íC TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ KIM CÚC
NGUY£N T¾C B×NH §¼NG TR¦íC TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Kim Cúc
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................ 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án ............................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án........... 7
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ........... 11
1.2. Mối quan hệ của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án trong mối quan hệ với các nguyên tắc tố tụng
hình sự khác ...................................................................................... 13
1.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
pháp luật một số nước trên thế giới................................................ 16
1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa........................................................... 16
1.3.2. Cộng hòa liên bang Đức..................................................................... 18
1.3.3. Cộng hòa liên bang Nga ..................................................................... 21
1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi
có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .............................................. 24
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988...................................... 24
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ............................................................................................ 25
5. Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN
BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG..........27
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án .................... 27
2.1.1. Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ...................... 27
2.1.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án......... 33
2.1.3. Các hình thức thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án........................................................................................ 40
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án...................................................................................... 43
2.2.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án............................................................ 43
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân khi thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.................................................... 46
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN
TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN........... 67
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật....................................................... 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án........................................................ 71
3.2.1. Củng cố, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự ........................................................................... 71
3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức
và kiến thức pháp luật cho những người tiến hành hình sự và
tham gia tố tụng hình sự ..................................................................... 73
3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến
thức pháp luật cho nhân dân............................................................... 77
KẾT LUẬN.................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 80
6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
KSV: Kiểm sát viên
NTGTT: Người tham gia tố tụng
TAND: Tòa án nhân dân
THTT: Tiến hành tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án là một trong những nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng
trong việc định hướng cho hoạt động xét xử tại Tòa án, bảo đảm giải quyết vụ
án hình sự khách quan, chính xác, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những người tham gia tố tụng, nâng cao hiệu quả thực tiễn trong công
cuộc cải cách tư pháp, hướng tới mục tiêu tranh tụng dân chủ trước Tòa án.
Chính vì vậy, ngay từ khi mới thành lập nhà nước, nội dung của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đã được ghi nhận trong nhiều văn bản
pháp luật, trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự - nguồn chủ yếu, cơ bản và
quan trọng nhất của pháp luật tố tụng hình sự.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận,
tuy nhiên vẫn còn những hạn chế thiếu sót. Nguyên nhân của tình trạng này
là do quy định của pháp luật còn nhiều bất cập chưa hoàn thiện, nhận thức
của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng về tầm quan
trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chưa cao. Kết
quả là sự vi phạm quyền bình đẳng của các bên vẫn còn tồn tại, làm giảm
chất lượng của hoạt động xét xử, vẫn còn oan sai và bỏ lọt tội phạm. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của các cơ quan tư pháp cũng như niềm tin
vào sự công bằng của pháp luật. Thực trạng này chưa phù hợp với mục tiêu
của Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp “Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa”.
8. 2
Nguyên tắc bình đẳng trước tòa án là một trong những nguyên tắc của
pháp luật quốc tế trong xã hội văn minh và là một tiêu chí để bảo vệ quyền
con người, do đó rất cần được bảo đảm trước tòa án. Tuy nhiên trong thời đại
ngày nay Luật tố tụng lại thừa nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án, do đó Luận văn này không phân tích về nội dung của nguyên tắc
bình đẳng trước tòa án mà tập trung nghiên cứu phân tích những nội dung để
bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Mặc dù việc nghiên cứu và hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án là vấn đề cần được quan tâm nhưng hiện nay có rất ít công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài
“Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình nhằm góp phần làm sáng tỏ nội
dung và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc này một cách có căn
cứ, có cơ sở, cũng như làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1988 và được sửa đổi bổ sung năm 2003. Nguyên tắc này là
biểu hiện nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN là mọi công dân bình
đẳng trước pháp luật trong TTHS nhằm nâng cao tính dân chủ trong việc
xét xử của Tòa án, đảm bảo việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Nguyên tắc này được đề cập khái quát, trong một số giáo trình
và sách tham khảo như:
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp.
Ngoài ra còn nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề tranh tụng trong đó có
9. 3
đề cập đến một số nội dung của quyền bình đẳng trước Tòa án như: cuốn sách
“Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của TS. Dương Thanh Biểu, Luận văn
thạc sỹ của tác giả Bùi Thị Giao về “Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình
sự”, “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam” của
Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện, hay các bài viết trên tạp chí khoa học pháp
lý như bài viết “Một số vấn đề cần chú ý đối với thẩm phán – chủ tọa phiên
tòa khi xét xử vụ án hình sự” của Đinh Văn Quế, “Tố tụng tranh tụng và vấn
đề cải cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền” của PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí, “Hoàn thiện một số quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm” của Nguyễn Đức Mai, “Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng
và tranh luận để nâng cao kỹ năng tranh luận của kiểm sát viên tại các phiên
tòa hình sự” của Nguyễn Hữu Hậu, “Một số giải pháp để đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa khi tranh tụng trong phiên tòa xét xử hình sự”
của Nguyễn Tiến Long, “Tranh tụng cần được ghi nhận như là một nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nước ta” của Nguyễn Văn Hiển, “Hoàn
thiện quy định của luật tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của
công dân trước pháp luật” của Phan Thị Thanh Mai.
Tuy nhiên tất cả những nghiên cứu trên đây chỉ ở dạng những bài
viết trên tạp chí chuyên ngành, một phần, một mục trong sách giáo khoa,
giáo trình. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu
riêng về vấn đề này một cách tổng quát và có hệ thống. Mặc dù vậy, các
công trình khoa học, các bài viết trên đây cũng là những tài liệu tham khảo
rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. Đặc biệt còn
nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu một
cách toàn diện và sâu sắc hơn, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc giải quyết các vụ án hình sự dưới góc độ
nghiên cứu là một luận văn thạc sỹ.
10. 4
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng trong việc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (từ năm 2009 đến năm 2014), mục đích
làm sáng tỏ vị trí, vai trò, và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng
cao hiệu quả của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án trong luật
Tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước Tòa án.
- So sánh mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc tố tụng
hình sự khác trong Bộ luật tố tụng hình sự.
- Phân tích thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của Tòa án, chỉ ra
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng nguyên tắc này
trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
việc thực hiện nguyên tắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu lịch sử nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ở
Việt Nam và quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về nguyên tắc này.
- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về nội dung của nguyên tắc và
một số quy định có liên quan.
- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
- Nghiên cứu để xây dựng hoàn thiện quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự về nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án.
* Phạm vi nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được ghi nhận
trong văn bản pháp luật về tố tụng như BLTT Dân sự, BLTT Hình sự… Luận
11. 5
văn chỉ tập trung làm rõ nguyên tắc này dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận trong BLTTHS 2003, nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật
trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư
pháp trong thời kỳ mới. Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rõ
những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh lý luận, thực tiễn của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng
định mối tương quan, bổ trợ trong việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án với các nguyên tắc tố tụng hình sự khác.
Qua nghiên cứu cũng chứng minh quyền bình đẳng trước toà án là một yếu tố
quan trọng để bảo vệ quyền con người và là một phương thức thủ tục để bảo
vệ pháp quyền, cũng như ý nghĩa quan trọng trong quá trình xét xử một vụ án
đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc này đảm bảo cho
hoạt động xét xử và nâng cao được tinh thần trách nhiệm của Tòa án cũng
như các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa…
phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Chính vì vậy hoạt động xét xử nếu không được bình đẳng và công khai
thì dễ dẫn đến lạm quyền, quan liêu và tham nhũng lộng hành.
Trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc bình đẳng trước tòa án ở một số
nước trên thế giới và quá trình phát triển của nguyên tắc trong quá trình lập
pháp Việt Nam, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc để đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong
12. 6
thực tiễn. Đặc biệt xuất phát từ những bất cập của nội dung tranh luận tại
phiên tòa hiện nay, đang cần có những thay đổi, bổ sung và căn cứ vào quy
định mới của hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
đảm bảo” cần thiết phải được cụ thể hóa nguyên tắc này trong luật.
Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát huy
hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công
tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo
đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động
tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Có phiên tòa chưa thực sự bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, số lượng án hủy,
sửa còn nhiều. Về mặt nhận thức vẫn tồn tại quan niệm "án bỏ túi", "án tại hồ
sơ" dẫn đến tâm lý xem nhẹ hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên nhân
của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của
pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực
chưa cao. Luận văn này làm rõ tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa và
vai trò chủ động của Kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa và việc Hiến pháp
quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một
bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án.
13. 7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo từ điển Tiếng Việt [44], bình đẳng hiểu theo một nghĩa đơn giản
nhất là “sự ngang hàng về địa vị và quyền lợi”. Theo khía cạnh pháp luật,
bình đẳng là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, gắn bó mật
thiết với con người trong đời sống xã hội. Nhân loại đã trải qua đấu tranh, hy
sinh để bảo vệ quyền bình đẳng, do đó, bảo đảm quyền bình đẳng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước văn minh. Bảo đảm quyền bình
đẳng là làm cho có sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ giữa những người
được pháp luật quy định cho họ có những quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
Trong số các quyền bình đẳng thì quyền bình đẳng trước pháp luật,
bình đẳng trước Tòa án là những quyền quan trọng được ghi nhận trong các
công ước quốc tế như một quy phạm phổ cập mang tính khái quát cao.
Tuyên ngôn chung về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 đã
chính thức ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ,
không có bất kỳ sự phân biệt nào (Điều 7); Mọi người đều được hưởng quyền
bình đẳng, được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án không thiên vị
trong quyền quyết định quyền và nghĩa vụ của họ cũng như bất cứ sự buộc tội
nào với họ (Điều 10).
Ở nước ta, ngay từ khi mới ra đời, nhà nước đã luôn tạo mọi điều kiện
14. 8
để thực hiện các quyền bình đẳng của công dân trong đó có quyền bình đẳng
trước tòa án. Lời nói đầu của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1945 đã lấy nguyên tắc “Đảm bảo quyền tự do dân chủ” là
cơ sở lý luận, là tư tưởng chỉ đạo trong mọi hoạt động lập pháp của Việt Nam.
Từ năm 1946 đến nay quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
được ghi nhận trong tất cả các Hiến pháp của Việt Nam như một nguyên tắc
định hiến. Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định “Mọi công dân bình đẳng trước
pháp luật” [24]. Điều này có nghĩa là mọi công dân không phân biệt nam
nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa…
trước pháp luật đều bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và tuân thủ
nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Đây là nguyên tắc cực kỳ quan trọng,
nguyên tắc này được bảo đảm thì xã hội mới có công bằng, pháp luật mới
được thi hành nghiêm chỉnh.
Dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, sự bình đẳng của công dân
trước pháp luật được hiểu là “Bất cứ người nào phạm tội, dù họ là ai cũng
phải bị xử lý theo luật hình sự, pháp luật không có quy định riêng cho từng
công dân cụ thể, tài sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền trước tòa
án và pháp luật; Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia
tố tụng hình sự; Mọi người đều phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của
mình trước tòa án trên cơ sở những điều khoản do BLTTHS quy định”.
Quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án thực chất là sự cụ
thể hóa nội dung của nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Tòa
án là cơ quan duy nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước có chức năng giải
quyết các tranh chấp trong xã hội và xử lý các vi phạm pháp luật thông qua
hoạt động xét xử bằng việc làm ra bản án hoặc quyết định. Bằng hoạt động
xét xử của mình, tòa án góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, thống nhất và pháp chế xã hội chủ nghĩa được tôn trọng. Muốn
15. 9
được như vậy, hoạt động của tòa án đòi hỏi phải khách quan, toàn diện, công
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để mục tiêu này trở thành hiện
thực trong thực tế thì tòa án cần phải bảo đảm quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước tòa. Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính
thức về bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án, song có thể hiểu một cách
khái quát nhất, bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là việc tòa án là cơ
quan có trách nhiệm bảo đảm cho viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa.
- Bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án - một nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Dưới góc độ cơ sở lý luận của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nói
chung, hệ nguyên tắc của pháp luật XHCN “là những nguyên lý, những tư
tưởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện,
linh hoạt và có ý nghĩa bao quát, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp
luật” [37, tr.348].
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc được hiểu là “những
phương châm, những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố
tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận” [39 tr.45]. Những
nguyên tắc của luật tố tụng hình sự không chỉ là là kim chỉ nam định hướng
cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn mà còn định hướng
cho hoạt động tố tụng hình sự.
Bình đẳng trước Tòa án được xác định là một nguyên tắc cơ bản, quan
trọng trong tố tụng hình sự vì:
Với nhiệm vụ được đặt ra là nhằm giải quyết các vụ án hình sự một
16. 10
cách nhanh chóng, khách quan, công minh, đúng pháp luật trên cơ sở bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng, BLTTHS đã
xác định cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân, cho nên họ có quyền và nghĩa vụ
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Muốn cho vụ án được giải quyết
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì bên buộc tội, bên gỡ tội và
những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần được giải quyết trong vụ
án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và được bình đẳng
trong việc đưa ra những yêu cầu trước tòa án. Mặt khác, họ cũng cần phải
tranh luận khi có ý kiến khác nhau về chứng cứ và các vấn đề cần được giải
quyết trong vụ án. Thực tế khách quan đã chứng minh không thể có được
phán quyết chính xác, khách quan nếu không đảm bảo được quyền bình đẳng
của những người tham gia tố tụng trước tòa án. Nếu bên buộc tội có nhiều
quyền hơn, được thiên vị hơn tất yếu dẫn đến việc oan sai, kết án oan người
vô tội, ngược lại, quá thiên vị bên bị buộc tội sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm,
hình phạt sẽ không tương xứng với hành vi phạm tội. Cả hai khuynh hướng
trên đều không phù hợp với phương châm giải quyết vụ án hình sự vừa phải
đảm bảo tính chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời phải tôn trọng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
BLTTHS đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa
án như sau:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực
hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [26, Điều 19].
17. 11
Quy định này thể hiện:
+ Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án gồm: kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp
của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
+ Nội dung của quyền bình đẳng được thể hiện thông qua các hoạt
động: đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; đưa ra yêu cầu và quyền tranh luận
tại phiên tòa.
+ Quyền bình đẳng phải được bảo đảm “tại Tòa án”. Tuy nhiên, thuật
ngữ “tại Tòa án” được sử dụng trong nguyên tắc này không có nghĩa là quyền
bình đẳng của các chủ thể chỉ được bảo đảm khi vụ án được đưa ra xét xử tại
một phiên tòa công khai. Quyền bình đẳng còn phải được bảo đảm cả trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử. Điều này được chứng minh qua các quy định của
BLTTHS cho phép bị cáo, người bào chữa có quyền được biết về các nội
dung của bản cáo trạng, các lý lẽ, chứng cứ sẽ được Viện kiểm sát cũng như
các chủ thể buộc tội khác đưa ra để có thể đưa ra các phản bác tại phiên tòa.
Đồng thời, họ cũng được Tòa án tạo điều kiện được biết về các kết luận giám
định khi có yêu cầu, được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ để làm cơ
sở cho các tranh luận tại phiên tòa. Sự chuẩn bị này tất yếu là để bảo đảm
quyền bình đẳng của các chủ thể này trước phiên tòa.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Nghị quyết số 49 – NQ/TW, ngày 02/6/2005, của Bộ Chính trị về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định mục tiêu chiến lược
là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao”, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện
18. 12
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án có ý nghĩa rất quan trọng
đối với hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần thực hiện mục tiêu của công
cuộc cải cách tư pháp.
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án định
hướng cho hoạt động tố tụng hình sự mà cụ thể là hoạt động xét xử của Tòa
án diễn ra thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Tòa án có được đầy đủ
các chứng cứ trên cơ sở xem xét một cách toàn diện các chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, các yêu cầu, lắng nghe lý lẽ của các bên tranh tụng từ đó đảm bảo cho
mọi phán quyết của Tòa án là khách quan, toàn diện và đầy đủ, đúng pháp
luật, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự là “phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.
Thứ hai, nguyên tắc này góp phần bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án của các bên tham gia tố tụng. Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tố
tụng hình sự là phương pháp quyền uy, thể hiện ở quan hệ giữa cơ quan tiến
hành tố tụng với những người tham gia tố tụng. Các quyết định của cơ quan
điều tra, viện kiểm sát, tòa án có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ
chức và mọi công dân. Tuy nhiên, quyền uy không có nghĩa là các cơ quan
này có thể hành động tùy ý mà phải thực hiện quyền uy của mình trong khuôn
khổ của pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đòi hỏi
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm các quyền mà pháp
luật trao cho những người tham gia tố tụng khác – bên thường được xem là có
địa vị tố tụng yếu hơn, tạo ra một cơ chế đắc lực để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể này.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án góp phần
vào việc động viên và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình
19. 13
tố tụng. Việc xét xử của tòa án diễn ra công khai, minh bạch, các phán quyết
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra tình trạng bị xét xử oan
sai, bỏ lọt tội phạm sẽ đảm bảo được lòng tin của nhân dân đối với pháp luật
và các cơ quan thực thi pháp luật, từ đó, khuyến khích mọi chủ thể tích cực
tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án có ý nghĩa
nâng cao ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng, đặc biệt nâng cao tinh
thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Đây là một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động thực tiễn. Đối với người tham gia tố tụng
khi hiểu rõ về nguyên tắc sẽ có sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ về hoạt động
tố tụng hình sự, về địa vị pháp lý của mình. Đối với người tiến hành tố tụng
phải luôn tự nâng cao ý thức trách nhiệm của mình, không ngừng trau dồi bản
lĩnh nghề nghiệp để đảm bảo hiệu lực của nhà nước, đảm bảo tìm ra sự thật
của vụ án một cách nhanh chóng, hạn chế tối đa việc xét xử oan sai cũng như
để bỏ lọt tội phạm, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, góp phần giữ gìn
trật tự xã hội.
Cuối cùng, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án còn có ý
nghĩa cho việc định hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự. Các điều khoản
cụ thể của BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật hình sự khác phải là sự cụ
thể hóa tư tưởng chỉ đạo của nguyên tắc này chứ không được mâu thuẫn với
nó. Do đó, tất cả các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa
vụ của người tiến hành tố tụng… phải không được vi phạm nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định tại Điều 19 BLTTHS.
1.2. Mối quan hệ của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tòa án trong mối quan hệ với các nguyên tắc tố tụng hình sự khác
Là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc bảo đảm
20. 14
quyền bình đẳng trước tòa án có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác được ghi nhận trong BLTTHS.
- Trước hết, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là sự cụ
thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật. Điều 5 BLTTHS quy định “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội. Bất kỳ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [26]. Thứ
nhất tất cả mọi người đều có vị thế ngang nhau trước pháp luật và có quyền
không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước
pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất là quyền bình đẳng trong
lĩnh vực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phân xã hội, địa vị xã
hội...trong cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa
vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Thứ hai pháp luật là thước đo chuẩn
mực của bình đẳng, là công cụ để bảo đảm sự bình đẳng giữa con người với
con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài
theo quy định của pháp luật. Theo đó quyền bình đẳng trước pháp luật được cụ
thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật
Quá trình tố tụng áp dụng là thống nhất cho mọi vụ án hình sự. Nguyên
tắc này chi phối toàn bộ mọi hoạt động tố tụng và như vậy nó cũng là nguyên
tắc chi phối hoạt động xét xử tại tòa án. Tại Tòa án, để giải quyết một cách
chính xác, toàn diện thì ngoài việc xác định những người tham gia tố tụng có
quyền và nghĩa vụ như nhau thì cần phải xác định được cả sự bình đẳng giữa
bên buộc tội và gỡ tội. Ở Việt Nam, bình đẳng trước pháp luật bao gồm cả bình
đẳng trước Tòa án bởi quyền đó được ghi nhận trong hiến pháp – nguồn của
các ngành luật và “trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân” [25, Điều 1].
21. 15
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật có mối liên hệ
mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội. Điều 9 BLTTHS quy định “không ai
bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật” [26]. Theo đó, tòa án là cơ quan nhà nước duy nhất có
quyền ra bản án kết tội và áp dụng hình phạt đối với bị cáo khi có các căn cứ
theo quy định của pháp luật. Trước thời điểm bản án kết tội của tòa án có hiệu
lực pháp luật thì bị can, bị cáo được coi là chưa có tội. Nguyên tắc này nhằm
xác lập, củng cố và bảo vệ quyền tự do, bình đẳng của công dân trong tố tụng
hình sự tránh sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị
cáo dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan. Như vậy, nguyên tắc suy
đoán vô tội là cơ sở cho việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và ngược
lại, trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án, các bên phải được
bình đẳng trong quá trình chứng minh tìm ra sự thật của vụ án, trong xác định
việc có tội hay không có tội của các chủ thể liên quan.
- Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham
gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS) là điều kiện cần thiết để thực hiện nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án.
Nếu như nguyên tắc “suy đoán vô tội” xóa bỏ định kiến chủ quan luôn
coi bị cáo là người có tội và góp phần bảo đảm quyền bình đẳng của những
người này trước tòa án thì nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tư của những người
tiến hành hoặc người tham gia tố tụng” lại yêu cầu những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng phải giữ được sự vô tư khi làm nhiệm vụ
của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp
luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách quan,
vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào
công việc. Không được có thái độ thiên vị hay định kiến đối với bất kỳ người
tham gia tố tụng nào. Nếu người tiến hành hoặc tham gia tố tụng không vô tư,
22. 16
vì lợi ích cá nhân sẽ dẫn đến việc bất bình đẳng trong quá trình xét xử, các
chứng cứ và các ý kiến đối lập sẽ không được xem xét hoặc xem xét một cách
không khách quan. Do vậy, bảo đảm sự vô tư cũng góp phần bảo đảm cho sự
bình đẳng của những người tham gia tố tụng trước tòa.
- Trong mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11 BLTTHS): việc thừa nhận địa vị
bình đẳng của các chủ thể trước Tòa án đóng vai trò quan trọng như một cơ sở
thực tế để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể vận dụng các quyền mà pháp
luật quy định để chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được đảm bảo sẽ góp
phần vào việc giúp giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
1.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong pháp
luật một số nước trên thế giới
1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật tố tụng hình sự nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (BLTTHS
Trung Hoa) được thông qua tại kì họp thứ 2, đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc lần thứ 5 ngày 01/7/1979, được sửa đổi ngày 17/3/1996 và có hiệu lực
thi hành cho đến nay [41]. Mặc dù không được quy định thành điều luật riêng
biệt nhưng nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
được quy định rất cụ thể trong phần thứ ba “Xét xử”.
BLTTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Kiểm sát viên và
người bào chữa phải xuất trình chứng cứ ra trước phiên tòa cho các bên kiểm
tra. Thẩm phán phải nghe ý kiến của kiểm sát viên, các bên đương sự, người
bào chữa và người đại diện được ủy quyền” [41, Điều 157]. Như vậy, tại
phiên tòa, các bên đều có quyền xuất trình, đưa ra chứng cứ và kiểm tra chứng
cứ. Sau khi các bên xuất trình chứng cứ, qua việc kiểm tra, đánh giá “nếu hội
23. 17
đồng xét xử có nghi ngờ về chứng cứ thì có thể tuyên bố hoãn phiên tòa để
tiến hành điều tra nhằm kiểm tra chứng cứ” [41, Điều 158].
BLTTHS Trung Hoa quy định: “Trong quá trình xét xử tại phiên tòa,
các bên đương sự, người bào chữa và người đại diện được ủy quyền có quyền
yêu cầu triệu tập nhân chứng mới, thu thập chứng cứ mới, giám định lại và
các yêu cầu khác” [41, Điều 159]. Theo quy định này, tại phiên tòa, các bên
được bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu về việc triệu tập nhân chứng mới và
thu thập chứng cứ mới. Đối với những vấn đề chưa rõ ràng, mâu thuẫn trong
kết luận giám định các bên được yêu cầu giám định lại. Tòa án có trách nhiệm
xem xét thực hiện các yêu cầu trên.
BLTTHS Trung Hoa quy định: “Với sự cho phép của thẩm phán chủ
tọa phiên tòa, kiểm sát viên, các bên đương sự, người bào chữa và người đại
diện được ủy quyền có thể trình bày quan điểm của mình về chứng cứ và về
vụ án và có thể tranh luận với nhau” [41, Điều 160]. Như vậy, các bên có
quyền tranh luận về tính hợp pháp và giá trị chứng minh của những chứng cứ
được xem xét, đánh giá, kiểm tra tại phiên tòa. Ngoài ra các vấn đề khác trong
vụ án nếu chưa rõ ràng các bên có quyền tranh luận làm rõ.
Theo quy định tại điều 155 BLTTHS Trung Hoa, tại phiên tòa không
chỉ hội đồng xét xử, kiểm sát viên có quyền hỏi những vấn đề liên quan đến
vụ án chưa được làm rõ mà người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người đại diện được ủy quyền có thể, với sự cho phép của thẩm phán chủ tọa,
cũng có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo. “Kiểm tra viên, các bên đương sự,
người bào chữa và người đại diện được ủy quyền với sự đồng ý của chủ tọa
phiên tòa có thể hỏi người làm chứng và người giám định” [41, Điều 156].
Như vậy, thẩm phán trong phần thẩm vấn và tranh luận, chủ yếu có chức năng
điều hành phiên tòa, vai trò của viện kiểm sát và những người tham gia tố
tụng rất chủ động, họ được bình đẳng trong việc hỏi những vấn đề chưa rõ,
24. 18
được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, bình đẳng trong yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước tòa.
So với pháp luật Việt Nam, các bên tham gia có vai trò tích cực hơn ở
phần xét hỏi, được phép đặt câu hỏi với bị cáo, hỏi người làm chứng và người
giám định những vấn đề liên quan trong vụ án. Tòa án có nhiều quyền năng
trong khi xét xử. Tòa án có quyền hoãn phiên tòa để tiến hành điều tra nếu có
nghi ngờ về chứng cứ. “Khi tiến hành kiểm tra chứng cứ, Tòa án nhân dân có
thể tiến hành thẩm tra, kiểm tra, thu giữ, giám định cũng như điều tra và
phong tỏa tài sản” (Điều 158). Tòa án có quyền trực tiếp tiến hành các hoạt
động kiểm tra, điều tra những vấn đề và những chứng cứ chưa rõ ràng, quyền
này giúp cho tòa án chủ động khi ra quyết định hoãn phiên tòa để kiểm tra
chứng cứ. Như vậy, quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu
cầu và tranh luận dân chủ được đảm bảo thực tế hơn.
1.3.2. Cộng hòa liên bang Đức
Cộng hòa liên bang Đức là đất nước theo truyền thống pháp luật châu
Âu lục địa, luật tố tụng hình sự được xây dựng và áp dụng theo mô hình tố tụng
thẩm vấn xét hỏi. Bộ luật tố tụng hình sự của CHLB Đức được xây dựng, hình
thành từ những năm 1890, được bổ sung nhiều lần. Đây là bộ luật đồ sộ với 8
phần, 477 điều luật [43]. Có thể tìm thấy nội dung của nguyên tắc đảm bảo
quyền bình đẳng trước tòa án ở phần thứ hai “Thủ tục xét xử sơ thẩm”.
Tố tụng hình sự Đức thuộc kiểu tố tụng hình sự thẩm vấn, việc điều tra
thu thập chứng cứ được chuẩn bị rất kỹ trước khi mở phiên tòa. Ngay trước
khi mở phiên tòa, tòa án cũng đã tham gia tích cực vào quá trình thu thập
chứng cứ. Ngay sau khi có người bị bắt là phải mang ngay tới thẩm phán của
tòa án địa phương. Đối với người có quyết định khởi tố và bị bắt giam, người
đó sẽ được đưa tới tòa án có thẩm quyền để tòa án quyết định trả tự do, tạm
giam hay tạm đưa đi chữa bệnh (Điều 129). Các lệnh bắt, tạm giữ, thu đồ vật,
25. 19
nghe lén, khám xét người và đồ vật… đều do thẩm phán quyết định phê
chuẩn, Cơ quan công tố chỉ quyết định trong những trường hợp khẩn cấp
(Điều 98, 100, 100b, 100d, 105). Thậm chí các hoạt động điều tra trinh sát,
thay đổi căn cước của cảnh sát, xâm nhập vào nhà riêng cũng cần phải có sự
đồng ý của thẩm phán (Điều 110a, 110b, 110c). Chính vì thế quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật cũng đã được thực hiện từ giai
đoạn trước khi tòa xét xử. Tại phiên tòa chủ yếu là các hoạt động kiểm tra lại
các chứng cứ đã được thu thập.
Sau khi bị bắt, bị cáo được áp giải lên tòa án để thẩm phán lấy lời
khai (Điều 134, 135). Luật quy định “Việc lấy lời khai phải tạo cơ hội cho
bị cáo bác bỏ lý do nghi ngờ anh ta và đưa ra những tình tiết có lợi cho
anh ta” [43, Điều 136]. Bị cáo cũng được hướng dẫn việc có thể yêu cầu
việc thu thập chứng cứ để phục vụ bào chữa. Tại phiên tòa các bên có quyền
kiểm tra chéo những chứng cứ lời khai nhân chứng và kết luận giám định
(Điều 239). Thẩm phán, công tố viên có quyền thẩm vấn bị cáo, người làm
chứng để làm rõ chứng cứ. Bị cáo và người bào chữa cũng có quyền hỏi nhân
chứng và người giám định.
Như vậy, khác với tố tụng hình sự Việt Nam, Thẩm phán Đức tham gia
tố tụng từ sớm, Thẩm phán cũng tham gia thu thập và kiểm tra chứng cứ thu
thập. Đương nhiên các bên vẫn có quyền trình chứng cứ mới, hơn nữa còn có
quyền thẩm vấn các vấn đề chưa rõ về chứng cứ và các vấn đề liên quan khác.
Bị cáo và những người tham gia tố tụng có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra các yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bị cáo có
quyền yêu cầu hoãn phiên tòa nếu cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm thời hạn
tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử (Thời hạn triệu tập ít nhất là một tuần
sau khi tống đạt quyết định triệu tập - Điều 217). Bị cáo có quyền yêu cầu
thẩm phán triệu tập người làm chứng, người giám định hoặc thu thập các
26. 20
chứng cứ khác đến phiên tòa, nếu chứng cứ mà bị cáo yêu cầu thu thập do cơ
quan có thẩm quyền cung cấp thì cơ quan công tố có trách nhiệm thực hiện
thu thập (Điều 219).
So với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, luật tố tụng hình sự Cộng
hòa Liên bang Đức có điểm khác biệt là: “Nếu thẩm phán chủ tọa phiên tòa
bãi bỏ việc triệu tập một người nào đó, bị cáo có thể có quyền triệu tập trực
tiếp. Người được triệu tập trực tiếp phải có nghĩa vụ có mặt tại thời điểm
được triệu tập” (Điều 220). Không chỉ cơ quan tiến hành tố tụng có quyền
triệu tập người khác đến tham dự phiên tòa, miễn là người được triệu tập biết
về nội dung vụ án, có khả năng cung cấp những lời khai có giá trị cho việc
giải quyết vụ án. “Tòa án có trách nhiệm mở rộng việc thu thập chứng cứ đối
với người làm chứng và người giám định được bị cáo và cơ quan công tố
triệu tập tới tòa án” (Điều 245).
BLTTHS Đức quy định: “Việc thu thập chứng cứ có thể bị từ chối nếu
có căn cứ cho rằng chứng cứ đó hoặc những tình tiết được chứng minh được
đưa ra quá muộn” [43, Điều 246]. Theo đó, đối với quy định thu thập chứng
cứ quá hạn có thể bị từ chối. Quy định như vậy có phần hạn chế quyền của
đương sự, có điểm khác với pháp luật Việt Nam về thu thập chứng cứ.
Như đã nói về hệ tố tụng thẩm vấn của CHLB Đức, các hoạt động điều
tra thu thập chứng cứ được thực hiện rất đầy đủ trước khi mở phiên tòa. Tòa
án tham gia tích cực vào quá trình này thậm chí tham gia từ khi có người bị
giam và bị khởi tố vụ án. Tại phiên tòa hoạt động chủ yếu là kiểm tra đánh giá
các chứng cứ đã thu thập. Các chứng cứ mới vẫn được đưa ra xem xét, nhưng
có rất ít cơ hội có chứng cứ mới.Việc kiểm tra xem xét đánh giá chứng cứ tại
phiên tòa chủ yếu là do thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển và thực hiện.
Tòa án sẽ công bố các lời khai trước đó nếu có mâu thuẫn về lời khai tại phiên
tòa và chứng cứ mới (Điều 254, 256). Tại phiên tòa các bên vẫn có quyền bổ
27. 21
sung chứng cứ và tranh luận trước tòa, nhưng chủ yếu là tranh luận về các
chứng cứ mới, các yêu cầu mới đã được đưa ra. Từ những chứng cứ được thu
thập trước đó và chứng cứ thu thập tại phiên tòa tòa án tự do đánh giá chứng
cứ - “Tòa án sẽ quyết định về kết quả chứng cứ thu thập được theo kết quả
thu được tại phiên tòa” (Điều 261).
Những quy định trên cho thấy, quyền bình đẳng của những người tham
gia tố tụng tại phiên tòa cũng được bảo đảm, công tố viên và bị cáo đều có
quyền triệu tập nhân chứng, người giám định… có quyền xuất trình chứng cứ
mới và kiểm tra chứng cứ, có quyền tranh luận và đưa ra ý kiến của mình.
Nhưng do Đức có hệ tố tụng thẩm vấn, vai trò của tòa án trong tố tụng hình sự
là rất lớn, có vai trò chủ yếu chi phối các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Đặc biệt tại phiên tòa yếu tố tranh tụng không nhiều, việc chứng minh giải
quyết vụ án chủ yếu do tòa án thực hiện. Tuy thế, các quyền bình đẳng của
những người tham gia tố tụng trước tòa án vẫn được đảm bảo cao.
1.3.3. Cộng hòa liên bang Nga
Bộ luật tố tụng hình sự liên bang Nga được quốc gia thông qua ngày
22/12/2000, được Hội đồng liên bang Nga phê chuẩn ngày 5/12/2001 và
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2002 (được sửa đổi ngày 27/7/2006) gồm
5 phần và chia thành 18 chương [42].
Trong mục “Những nguyên tắc của tố tụng hình sự” thuộc phần 1
Những quy định chung, tại khoản 4 - Điều 15 quy định: “Bên buộc tội và bên
gỡ tội bình đẳng trước tòa án” [42]. Tại phần quy định về quyền của các chủ
thể tham gia tố tụng cũng ghi nhận: quyền bình đẳng đưa ra chứng cứ, đưa ra
yêu cầu và tranh luận tại phiên tòa.
Khoản 2, Điều 86 quy định: “Người bị tình nghi, bị can, bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người đại diện của họ có quyền thu thập
và đưa ra những tài liệu bằng văn bản và những vật để đưa vào hồ sơ vụ án
28. 22
với tư cách là chứng cứ” [42]. Hồ sơ vụ án không chỉ có các chứng cứ của
cơ quan tiến hành tố tụng mà những người tham gia tố tụng cũng có quyền
thu thập, và đưa ra chứng cứ để lưu vào hồ sơ. Đặc biệt luật còn quy định
người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ bằng cách: “Tìm hiểu các chứng
từ, bản nhận xét và những tài liệu khác từ các cơ quan quyền lực nhà nước,
các cơ quan tự quản địa phương, các tổ chức xã hội, mà các cơ quan tổ
chức này có nghĩa vụ cung cấp những tài liệu hoặc bản sao tài liệu được yêu
cầu” [42, Điều 86, khoản 3]. Đây là quy định rất tiến bộ nhằm bảo đảm cho
quyền bình đẳng trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ được thực
hiện hiệu quả.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, phiên tòa là
nơi diễn ra các hoạt động điều tra công khai, tại tòa “Bên buộc tội đưa ra các
chứng cứ trước. Sau khi xem xét các chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, tiến
hành xem xét chứng cứ do bên bào chữa đưa ra” [42, Điều 274, khoản 2].
Các bên cũng có quyền yêu cầu triệu tập người làm chứng, người giám định
đến phiên tòa và đặt câu hỏi đối với người làm chứng, người giám định. Các
bên có quyền yêu cầu tòa án loại bỏ những chứng cứ trong danh sách chứng
cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Nếu tòa án chấp nhận yêu cầu này thì
chứng cứ sẽ không có giá trị pháp lí.
BLTTHS liên bang Nga quy định: “Tại phiên tòa bên buộc tội và bên
bào chữa bình đẳng về quyền đưa ra đề nghị thay đổi những tiến hành tố tụng
và đưa ra các yêu cầu, đưa ra chứng cứ, tham gia vào việc xem xét chứng cứ,
phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa” [42, Điều 242].
Khoản 1 Điều 282 BLTTHS Liên bang Nga quy định, những người
tham gia tố tụng có quyền được yêu cầu trưng cầu giám định, quyền được
yêu cầu triệu tập người giám định đến phiên tòa và hỏi những vấn đề liên
quan đến việc giám định: “Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của các bên có
29. 23
quyền triệu tập để lấy lời khai người giám định đã đưa ra kết luận giám định
trong quá trình điều tra để làm sáng tỏ hoặc bổ sung kết luận giám định mà
họ đã đưa ra” [42].
Hoạt động xét xử là hoạt động điều tra chứng cứ nên tại phiên tòa các
bên được bình đẳng đưa ra chứng cứ, được xem xét đánh giá và tranh luận về
giá trị chứng minh của chứng cứ. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa có trách
nhiệm “điều khiển phiên tòa áp dụng tất cả những biện pháp do bộ luật này
quy định để đảm bảo sự tranh tụng và bình đẳng của các bên” (Điều 243).
BLTTHS Liên bang Nga quy định: “Người bị hại và người đại diện
của họ, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, những người đại diện của họ,
bị cáo có quyền yêu cầu được tham gia vào quá trình tranh luận của các
bên” [42, Điều 292] . Quy định này đã mở rộng quyền của các bên khi
tham gia tranh luận.
Như vậy, mặc dù không có quy định riêng biệt về nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án, nhưng pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga
ghi nhận rất chi tiết, đầy đủ nội dung quyền bình đẳng trước Tòa án và có
những quy định bảo đảm cho quyền này được thực hiện trong thực tế.
Qua nghiên cứu nội dung quyền bình đẳng trước Tòa án trong bộ luật
tố tụng hình sự một số quốc gia phát triển trên thế giới có thể rút ra một số
nhận xét sau:
Bộ luật tố tụng hình sự các quốc gia trên đều tôn trọng nguyên tắc suy
đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng triệt để. Về mặt hình thức, nhiều quốc
gia không quy định đảm bảo quyền bình đẳng trước tòa án như một nguyên
tắc độc lập. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng đều quy định và bảo đảm quyền bình
đẳng của những người tham gia tố tụng trước tòa án, đều coi trọng giai đoạn
xét xử, coi đây là giai đoạn trọng tâm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Hoạt động xét xử là hoạt động điều tra, xem xét chứng cứ công khai và toàn
30. 24
diện nhằm chứng minh sự thật. Vì thế đảm bảo quyền bình đẳng là điều kiện
quan trọng góp phần giải quyết vụ án khách quan, toàn diện. Khi chưa có kết
luận của tòa án thì quyền được chứng minh, được yêu cầu và tranh luận của bị
cáo vẫn được bảo đảm tuyệt đối.
1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch
sử dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập tự do và tiến lên CNXH. Ngay sau
khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các văn bản pháp luật đã
được ban hành, trong đó có các văn bản về tổ chức tòa án, tố tụng hình sự.
Các văn bản pháp luật thời kỳ này mặc dù còn đơn giản, sơ sài song các vấn
đề liên quan đến con người nói chung cũng như những người tham gia tố tụng
nói riêng cũng đã được quan tâm ở một mức độ nhất định, bước đầu tạo ra
một cơ chế nhằm đảm bảo cho quyền bình đẳng của mọi công dân trước tòa
án. Chẳng hạn Sắc lệnh về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán ban hành
ngày 24/01/1946 quy định:
Sau khi nghe các bị can, các người làm chứng, cáo trạng của ông Biện lý,
và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ
thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về
tội trạng, hình phạt trường hợp tăng tội, và trường hợp giảm tội [5, Điều 31].
Theo quy định này thì tại phiên tòa, sau khi “biện lý” đọc cáo trạng
buộc tội, “bị can” và “người chứng” có quyền đưa ra ý kiến của riêng
mình. Các bị can được “cãi” (sau này dùng từ tranh luận) với quan điểm
buộc tội của ông biện lý. Như vậy, pháp luật ở thời kỳ này đã cho phép bị
cáo, người làm chứng, người buộc tội được quyền phát biểu ý kiến và tranh
luận tại phiên tòa.
31. 25
Sắc lệnh số 51/ SL ngày 17/4/1946 cũng tiếp tục thể hiện nội dung của
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của những người tham gia tố tụng đối với
việc xuất trình, xem xét chứng cứ, đưa ra yêu cầu trước Tòa án: “Khi ra phiên
toà, ông biện lý cũng như bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo, có quyền yêu cầu
toà thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật” [6, Điều 26]. Để
chứng minh sự thật vụ án, các bên tham gia tố tụng như “biện lý”, “bên bị”,
“bên dân sự nguyên cáo” đều có quyền yêu cầu tòa án tiến hành các biện pháp
để thu thập chứng cứ, chứng minh vụ án. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
nguyên tắc này được thực hiện.
Trong giai đoạn này, mặc dù không được ghi nhận một cách trực tiếp
trong bất cứ một văn bản tố tụng hình sự cụ thể nào song nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án đã được thừa nhận một cách gián tiếp qua sự
công nhận nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được ghi
nhận trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp đến là Hiến pháp năm 1959. Nếu như
Hiến pháp 1946 lần đầu tiên ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước
pháp luật như một quyền định hiến thì đến Hiến pháp 1959 lại một lần nữa
khẳng định đây là luật ban hành trong giai đoạn này.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003
BLTTHS của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 01/01/1989 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
quá trình phát triển của luật tố tụng hình sự. Lần đầu tiên các quy phạm pháp
luật về tố tụng được tập hợp một cách tương đối đầy đủ trong một văn bản
thống nhất và mang tính khái quát cao. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Điều 20 bộ luật này,
theo đó: “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ
32. 26
án và những người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án” [23].
Điều 20 BLTTHS 1988 đã chỉ rõ những chủ thể nào được bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án và những khía cạnh cơ bản về mặt nội dung của
quyền bình đẳng đó. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa đầy đủ, vẫn mang tính
hình thức, chưa chỉ ra cơ chế bảo đảm cho quyền này được thực hiện.
Xem xét quá trình hình thành và phát triển quy định của pháp luật từ
năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có thể thấy
rằng, ngay từ khi nhà nước mới được thành lập, nội dung của nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đã được ghi nhận. Việc ghi nhận này
chứng tỏ giá trị và ý nghĩa khách quan của nguyên tắc, thể hiện việc tôn
trọng quyền con người, quyền của những người tham gia tố tụng, đồng thời
có ý nghĩa quan trọng bảo đảm phán quyết của tòa án đúng pháp luật, khách
quan, có sức thuyết phục. Mặt khác, việc ghi nhận nguyên tắc này cũng thể
hiện ý thức chủ quan của nhà làm luật đó là tôn trọng những giá trị tiến bộ,
tích cực, có ý nghĩa lớn đối với việc giải quyết vụ án và đối với việc bảo vệ
quyền con người.
33. 27
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
2.1.1. Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo quy định tại Điều 19 BLTTHS các chủ thể được bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án gồm: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
- Kiểm sát viên
Điều 1 Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quy định:
“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án xác định chủ thể của
quyền bình đẳng trước Tòa án không phải là kiểm sát viên nói chung mà
chính là kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử đối với vụ án cụ thể được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Điều 37 BLTTHS quy định tại giai đoạn xét xử, Kiểm sát viên có
quyền tham gia phiên tòa, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án, của những người tham gia tố tụng, kiểm sát các bản án, các quyết
định của Tòa án. Theo quy định tại Điều 202, 205, 216 BLTTHS năm 2003
thì KSV có quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký, yêu cầu
34. 28
hoãn phiên tòa, yêu cầu xét hỏi thêm. Với vai trò là người tiến hành tố tụng
đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên
tòa, việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân của của KSV vừa là
quyền nhưng cũng đồng thời là trách nhiệm của KSV.
Việc quy định cho Kiểm sát viên có quyền bình đẳng tại phiên tòa có ý
nghĩa rất quan trọng. Thông qua quy định này, pháp luật không chỉ hướng tới
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ
chức nhà nước bị xâm hại mà còn có tác dụng lớn trong việc củng cố lòng tin
của nhân dân với việc đảm bảo rằng nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để
mọi tội phạm đều phải được xử lý công minh, khách quan, công bằng, đúng
người đúng tội.
- Bị cáo và bị đơn dân sự
Bị cáo và bị đơn dân sự là những chủ thể bị buộc phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật. Khoản 1 Điều 50 BLTTHS quy định “Bị cáo là người đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Như vậy, một người sẽ trở thành bị cáo khi
bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tuy nhiên bị cáo chưa phải là người có tội,
bị cáo chỉ bị coi là có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và
bản án đã có hiệu lực pháp luật. Bị đơn dân sự là “cá nhân, cơ quan, tổ chức
mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra” (Khoản 1 Điều 53 BLTTHS). Trước Tòa án, bị cáo
và bị đơn dân sự có quyền đưa ra những tài liệu, đồ vật, đưa ra những yêu
cầu, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. Đây là một yêu cầu tất yếu
nhằm tạo cho họ khả năng tối đa nhất để họ có thể tự bảo vệ mình trước các
cơ quan pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của mình không bị xâm phạm.
- Người bào chữa
Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc thừa nhận
35. 29
quyền bình đẳng trước Tòa án cũng là thừa nhận địa vị bình đẳng của người
bào chữa với bên buộc tội tại phiên tòa. Sự tham gia tố tụng của người bào
chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình,
người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án nói chung và phiên
tòa nói riêng để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.
Người bào chữa có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 58
BLTTHS: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên
tòa; sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ các tình tiết
xác định bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
cáo, tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án. Như vậy, việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ của người bào chữa. Ngoài ra, người bào chữa có
nghĩa vụ giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Tuy nhiên, người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà
họ còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa do đó họ phải tôn trọng
sự thật và pháp luật, khi phát hiện có sự vi phạm pháp luật của bất cứ chủ thể
nào bao gồm cả bị cáo thì họ phải có nghĩa vụ tố giác tội phạm với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Người bị hại và nguyên đơn dân sự
Người bị hại và nguyên đơn dân sự là những người bị thiệt hại do hành
vi phạm tội gây ra. “Người bị hại là người bị hại về thể chất, tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra” [26, Điều 51, khoản 1]. Mọi phán quyết của Tòa án
về tội phạm đều ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Còn đối với “Nguyên đơn dân
sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại” [26, Điều 52]. Nguyên đơn dân sự có thể là các cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội gây ra hoặc cũng có
36. 30
thể là cá nhân bị thiệt hại nhưng khác với người bị hại, thiệt hại của nguyên
đơn dân sự không phải là đối tượng của tội phạm mặc dù cũng do hành vi
phạm tội gây ra. Mặc dù thiệt hại của người bị hại và nguyên đơn dân sự khác
nhau nhưng hai chủ thể này đều được pháp luật quy định là một chủ thể bình
đẳng với người đại diện cho nhà nước đứng ra buộc tội bị cáo.
Người bị hại và nguyên đơn dân sự theo quy định đều có quyền đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; đề nghị mức bồi
thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tham gia phiên tòa, trình bày ý
kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Tuy nhiên, quyền của người bị hại và nguyên đơn dân sự khác
nhau ở chỗ: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo (điểm e, khoản 2
Điều 51 BLTTHS). Trong khi đó, nguyên đơn dân sự chỉ có quyền kháng cáo
bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại chứ không có
quyền đưa ra các kiến nghị về phần hình phạt. Quy định trên không những
hạn chế vai trò tích cực của nguyên đơn dân sự trong quá trình xác định sự
thật khách quan của vụ án mà còn không đảm bảo các nội dung cũng như ý
nghĩa thực tế mà nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án đã trao cho họ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là “người có quyền
lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng” [39, tr.135].
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có thể là người
không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành
tố tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền lợi,
37. 31
nghĩa vụ của họ do đó, cũng cần phải bảo đảm quyền bình đẳng cho họ
trước Tòa án.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự là người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất hoặc trong trường hợp người bị hại chết hoặc mất tích.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo chỉ có thể là người đại diện đương
nhiên chứ không thể là người đại diện theo ủy quyền. Không ai có thể ủy
quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo được,
ngay trong trường hợp đã có người đại diện hợp pháp thì bị cáo vẫn phải tham
gia tố tụng, người đại diện hợp pháp chỉ là người giúp đỡ bị cáo thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của BLTTHS. Người đại diện hợp
pháp của bị cáo có thể là cha, mẹ hoặc những người thân thích khác của bị
cáo nhưng phải là người đã thành niên và không thuộc trường hợp bị cấm làm
đại diện. Nếu bị cáo không còn người thân thích thì đại diện nhà trường, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức khác tham gia phiên tòa với
tư cách người đại diện hợp pháp của bị cáo [19]. Quyền và nghĩa vụ của
người đại diện hợp pháp của bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 57, khoản
3 Điều 303, Điều 304, Điều 306 BLTTHS năm 2003. Theo đó khi tham gia ở
giai đoạn xét xử thì họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án (gọi tắt là người đại
diện hợp pháp của đương sự) là người mà theo quy định của pháp luật hoặc
38. 32
theo ủy quyền của họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự hoặc của chính bản thân họ. Người đại diện hợp pháp phải là
một con người cụ thể chứ không thể là cơ quan, tổ chức. Họ phải là người đã
thành niên và đủ năng lực hành vi để tham gia tố tụng và không thuộc
trường hợp pháp luật cấm. Người đại diện hợp pháp của người bị hại bao
gồm người đại diện đương nhiên và người đại diện ủy quyền. Người đại diện
đương nhiên của đương sự là người mà theo pháp luật đương nhiên được
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đó là
các trường hợp đương sự chết, mất tích, đương sự là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, đương sự là cơ quan, tổ
chức. Người đại diện hợp pháp đương nhiên có các quyền và nghĩa vụ như
người được đại diện. Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của đương sự
là người được đương sự hoặc người đại diện hợp pháp đương nhiên của
đương sự ủy quyền tham gia tố tụng. Họ tham gia trong phạm vi quyền và
nghĩa vụ của người đã ủy quyền cho mình.
Việc quy định người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có
quyền bình đẳng trước Tòa án là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể được
đại diện khi họ không có đủ điều kiện để bảo vệ chính mình. Đồng thời, quy
định như vậy cũng là một hình thức nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của các
chủ thể tham gia tố tụng khác.
- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người được các cơ quan tiến
hành tố tụng chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hình sự (Điều 59 BLTTHS).
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là chủ thể mới được bổ sung
39. 33
trong BLTTHS năm 2003, quy định bổ sung này nhằm làm đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, không chỉ có bị cáo mới có quyền
mời người bào chữa để bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình mà những
đương sự khác cũng có quyền mời luật sư, bào chữa viên hoặc người khác
có đủ điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Người
bảo vệ quyền lợi của đương sự mặc dù không có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi
phán quyết của Tòa án nhưng họ bảo vệ quyền lợi cho những người bị ảnh
hưởng bởi phán quyết đó nên họ cũng là một chủ thể cần được bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa.
2.1.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Sự thật của vụ án chỉ có thể xác định được khách quan, toàn diện và
đầy đủ của vụ án cũng như mọi lập luận dẫn chiếu quy định của pháp luật. Vì
vậy Điều 19 BLTTHS năm 2003 đã quy định:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước
Tòa án... [26, Điều 19].
Như vậy quyền bình đẳng giữa Kiểm sát viên và người tham gia tố
tụng có lợi ích liên quan thể hiện ở nội dung: bình đẳng đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật; bình đẳng đưa ra yêu cầu và bình đẳng tranh luận dân chủ
tại phiên tòa.
- Bình đẳng trước Tòa án trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật
Khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm 2003 quy định: “Chứng cứ là những gì
có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay
không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những
40. 34
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Tuy nhiên, ngoài
chứng cứ, cũng có những tài liệu, đồ vật không phải là chứng cứ vẫn có giá trị
đối với quyền lợi của những người tham gia tố tụng và ảnh hưởng tới phán
quyết của Tòa án. Như vậy chứng cứ phải có tính khách quan, tính liên quan
và tính hợp pháp. Trong đó tính hợp pháp được hiểu là sự phù hợp của nó với
các quy định của pháp luật mà một trong các mặt thể hiện tính hợp pháp là
phải được thu thập theo trình tự, thủ tục luật định. Một thông tin, tài liệu, đồ
vật có thật trên thực tế liên quan đến vụ án hình sự chỉ trở thành chứng cứ khi
nó được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo trình tự thủ tục luật định
thể hiện qua hình thức văn bản tố tụng như biên bản thu giữ vật chứng, tài
liệu, đồ vật, biên bản lấy lời khai.... và đưa vào hồ sơ vụ án.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 65 BLTTHS năm 2003 đã quy định “Những
người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể
đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án”. Như
vậy chủ thể không chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật có liên quan mà còn
có thể cung cấp thông tin qua việc trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ
án để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình nên việc cung cấp thông tin của họ
phải được bảo đảm thực hiện bình đẳng, nhằm giúp tòa án có thêm căn cứ
phán quyết chính xác.
Trong quá trình chứng minh cần phải coi trọng chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội, các bên phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ để
chứng minh cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và như vậy mới có
đủ căn cứ để giải quyết vụ án được chính xác, khách quan; đảm bảo điều tra,
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Nội dung của quyền
bình đẳng trước Tòa án trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật được thể
hiện ở các khía cạnh sau:
41. 35
Người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm
chứng, có quyền đưa ra chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là
đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này, tránh trường hợp sợ phiền
phức nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
Chứng cứ thu thập được cần phải được kiểm tra, đánh giá. Bởi với
những chứng cứ là lời khai của người làm chứng, bị cáo, bị hại… được phản
ánh bằng ý thức chủ quan, có thể không đúng sự thật, hoặc những chứng cứ là
kết luận giám định mà có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều chỗ không rõ ràng
hay chứng cứ là vật chứng, tài liệu, đồ vật đã bị mất đi tính chất ban đầu do
những yếu tố khách quan và chủ quan. Cho nên, chứng cứ cần phải được kiểm
tra, đánh giá.
Tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh
giá của mình về kết quả thu thập chứng cứ. Để bảo đảm quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, các bên tham gia tố tụng cũng được công khai
đưa ý kiến đánh giá của mình về các chứng cứ mà cơ quan điều tra và những
người tham gia tố tụng khác thu thập được. Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ
được tiến hành ở các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền và dưới sự
kiểm tra của những người tham gia tố tụng. Các đánh giá khác nhau, phản
biện khác nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp Tòa án
khách quan, toàn diện, thận trọng hơn khi nhận định để ra phán quyết.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án trong việc đưa ra chứng cứ là
một nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, không
chỉ giúp cho những người tham gia tố tụng có cơ hội chứng minh quan điểm
và làm rõ hơn các tình tiết trong vụ án để bảo vệ quyền lợi cũng như quan
điểm của mình mà còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa
án có được những chứng cứ quan trọng để kiểm tra, đánh giá, đối chiếu từ đó
có thể đưa ra những bản án, quyết định chính xác hơn.
42. 36
- Bình đẳng trước Tòa án trong việc đưa ra yêu cầu
Theo quy định của BLTTHS hiện hành, những người tham gia tố tụng
như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
đều có quyền “đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Do đó, bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án trong việc đưa ra yêu cầu cũng là tuân thủ quy định pháp
luật tố tụng hình sự.
Yêu cầu hiểu theo nghĩa khái quát nhất là nguyện vọng, là ý kiến mà
các bên muốn đề đạt. Những yêu cầu chính đáng, có căn cứ và giúp cho việc
giải quyết vụ án được chính xác, khách quan thì đều được chấp nhận.
Theo quy định của BLTTHS, những người tham gia tố tụng có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra những yêu cầu với Tòa án về những vấn đề sau:
Thứ nhất đó là yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.
Điều 43 BLTTHS quy định, khi phát hiện ra căn cứ cho thấy những
người tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan trong quá trình xem xét, giải
quyết vụ án thì kiểm sát viên, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền yêu
cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.
Bình đẳng trong việc đưa ra các yêu cầu thay đổi người tiến hành tố
tụng tại phiên toàn là một trong những nội dung quan trọng của quyền bình
đẳng, nhằm hướng tới đảm bảo một nguyên tắc quan trọng đó là “bảo đảm
sự vô tư, khách quan của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng”.
Nội dung này nhằm bảo đảm cho vụ án được tiến hành một cách khách quan
đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh của các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Ngoài việc có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành, người tham gia
43. 37
tố tụng, các bên còn có quyền bình đẳng trong việc đưa ra các yêu cầu về xem
xét chứng cứ hoặc hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt theo quy định tại
Điều 205 BLTTHS.
Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra rất quan trọng
cho việc xét xử tại phiên tòa. Trong vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này có nghĩa là các cơ
quan này, trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của mình phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ các chứng cứ xác định có tội và vô tội. Tuy nhiên, các
cơ quan tiến hành tố tụng trong khi thu thập chứng cứ thường chú trọng thu
thập chứng cứ buộc tội mà coi nhẹ việc thu thập chứng cứ gỡ tội, điều này
dẫn đến các chứng cứ thường chưa đầy đủ. Trong khi đó, bên gỡ tội không
được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng
của họ tại phiên tòa, không đảm bảo được quyền lợi chính đáng của họ. Vì
vậy, chỉ có tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng mới có điều kiện để
xem xét công khai các chứng cứ đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu
thập để qua đó bị cáo và những người tham gia tố tụng được đưa ra yêu cầu
thu thập thêm chứng cứ, triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật mới.
Điều 205 cũng quy định những chủ thể tham gia phiên tòa được quyền
yêu cầu hoãn phiên tòa khi có người tham gia tố tụng vắng mặt. Ngoài ra, các
chủ thể còn được bình đẳng trong việc đưa ra các yêu cầu, được thông báo kết
quả điều tra, kết quả giám định, được biết về các nội dung, các tình tiết của vụ
án mà họ cảm thấy chưa sáng tỏ. Các bên cũng bình đẳng khi đưa ra các yêu
cầu về đối chất cũng như các đòi hỏi có liên quan. Hội đồng xét xử phải có
trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các yêu cầu trên và xem xét, quyết
định tất cả các yêu cầu đưa ra, không phân biệt yêu cầu của ai, yêu cầu về vấn
44. 38
đề gì. Tuy nhiên, không phải bên buộc tội có yêu cầu gì thì bên gỡ tội cũng có
thể đưa ra những yêu cầu tương đương như thế bởi lẽ mỗi yêu cầu có một ý
nghĩa khác nhau trong việc giải quyết vụ án.
- Bình đẳng trước Tòa án trong việc tranh luận
Tranh luận tại phiên tòa hình sự là một thủ tục (một phần) bắt buộc của
phiên tòa hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm), trong đó các chủ thể của bên buộc tội
và bên bào chữa đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các chứng cứ, các
tình tiết của vụ án đã được làm rõ tại phần xét hỏi và đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của bên đối lập về hướng
giải quyết các vấn đề trong vụ án giúp cho Hội đồng xét xử ra phán quyết về
vụ án đúng pháp luật [18, tr.14].
Tranh luận là “bàn cãi về một vấn đề nào đó” [44]. Bình đẳng trong
việc tranh luận được hiểu là các Kiểm sát viên và các chủ thể tham gia tố tụng
tại phiên tòa theo quy định có quyền phát biểu ý kiến của mình về đánh giá
chứng cứ, về pháp luật áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình hay đưa ra quan
điểm của mình về việc giải quyết vụ án và phản bác ý kiến của người khác.
Đảm bảo quyền bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa là nội dung quan
trọng nhất của nguyên tắc. Nếu như phần thẩm vấn chủ yếu để làm rõ các
chứng cứ đã thu thập được, đối chiếu với lời khai của các nhân chứng, bị cáo,
người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phần tranh luận để
cho các bên kiểm tra, đánh giá chứng cứ, phát biểu quan điểm buộc tội và gỡ
tội, Phần tranh luận sẽ đánh giá toàn diện nội dung của vụ án. Việc không
đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể trong quá trình tranh luận tại phiên
tòa có thể dẫn đến việc xét xử vụ án bị phiến diện, thiếu tính khách quan.
Bảo đảm quyền bình đẳng trong tranh luận tạo điều kiện cho bên buộc
tội, bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác được trình bày ý kiến
của mình bằng những lập luận, lý lẽ có tính logic, thuyết phục. Đồng thời,