SlideShare a Scribd company logo
1 of 163
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lê Ngọc Văn
2. TS. Hà Việt Hùng
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Bùi Thị Hương Trầm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 20
1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu .................................................................20
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc ............................................25
1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc ...................................29
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc 36
1.5. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án .....................44
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ................... 52
2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................52
2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................64
Chương 3: QUAN NIỆM CHUNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC .. 79
3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên ....79
3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội ..................81
3.3. Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân ................................84
3.4. Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc ..............86
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC ...........................................................................................95
4.1. Khu vực sống và quan niệm hạnh phúc ..........................................95
4.2. Nhóm tuổi và quan niệm hạnh phúc ...............................................97
4.3. Tôn giáo và quan niệm hạnh phúc ................................................100
4.4. Dân tộc và quan niệm hạnh phúc ..................................................103
4.5. Mức sống và quan niệm hạnh phúc ..............................................108
Chương 5: ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC ..........................................................................................113
5.1. Tình trạng hôn nhân và quan niệm hạnh phúc ..............................113
5.2. Độ dài hôn nhân và quan niệm hạnh phúc ....................................118
5.3. Đặc điểm hôn nhân, đặc điểm cá nhân và quan niệm hạnh phúc..129
KẾT LUẬN .....................................................................................................................137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .......144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................146
PHỤ LỤC ........................................................................................................................157
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1: Thông tin người trả lời 14
Bảng 2: Phân bố mẫu phỏng vấn sâu 17
Bảng 3.1:Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự
nhiên xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
79
Bảng 3.2: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội xếp
theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
82
Bảng 3.3: Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân xếp theo thứ
tự ưu tiên của người trả lời
84
Bảng 4.1: Quan niệm hạnh phúc theo nhóm nông thôn - đô thị 96
Bảng 4.2: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tuổi 98
Bảng 4.3: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tôn giáo 101
Bảng 4.4: Quan niệm về hạnh phúc theo dân tộc 105
Bảng 4.5: Quan niệm về hạnh phúc theo mức sống 109
Bảng 5.1: Quan niệm về hạnh phúc theo tình trạng hôn nhân 114
Bảng 5.2: Quan niệm hạnh phúc theo độ dài hôn nhân 119
Bảng 5.3: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực kinh tế - môi trường tự nhiên
127
Bảng 5.4: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực gia đình - xã hội
130
Bảng 5.5: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực đời sống cá nhân
132
DANH MỤC BIỂU
Trang
Biểu 3.1: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc 87
Biểu 3.2: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc
chia theo giới tính
92
Hộp: Quan niệm hạnh phúc thay đổi theo giai đoạn phát triển của gia đình 123
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Không có vấn đề gì liên quan đến
nhân loại mà không liên quan đến phụ nữ. Hạnh phúc không phải là một
ngoại lệ. Ở Việt Nam và trên thế giới, từ trước đến nay mặc dù có rất ít công
trình nghiên cứu riêng biệt liên quan đến quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc, nhưng đã có khá nhiều tranh luận. Đáng tiếc, những tranh luận đó
lúc đầu phần lớn là ý kiến của đàn ông. Họ đưa ra và ấn định những giá trị,
chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử, vai trò đặc trưng cho phụ nữ và nam giới. Trải
qua những thời kỳ lịch sử rất lâu dài của các hình thái kinh tế - xã hội tiền
công nghiệp hóa, cho đến trước các cuộc cách mạng về công nghiệp, nữ tính
và nam tính là điều không một ai nghi ngờ. Nó chi phối quan niệm về hạnh
phúc gắn liền với phẩm chất giới tính mà xã hội gán cho họ.
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc chỉ thật sự thay đổi khi chính
phụ nữ nhận thức lại về cái gọi là “nữ tính” của mình từ các làn sóng nữ quyền
do phụ nữ khởi xướng, bắt đầu từ làn sóng nữ quyền thứ nhất cuối thế kỷ XIX
sang đầu thế kỷ XX, xuất hiện ở nước Anh và phát triển mạnh ở Mỹ, đến làn
sóng nữ quyền thứ hai những năm 1960 - 1970 của thế kỷ XX, phát triển ở Anh,
Mỹ sang các nước phương Tây, và làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu từ những
năm 1980 lan rộng ra toàn cầu. Kể từ đây, quan niệm về hạnh phúc trở thành
cuộc tranh luận của hai giới chứ không còn là sự áp đặt của đàn ông.
Có thể nhận thấy trong xã hội Việt Nam truyền thống, hạnh phúc từ
quan niệm của người phụ nữ về căn bản hầu như không mang mầu sắc cá
nhân mà gắn liền với hạnh phúc của gia đình, cộng đồng. Ngay cả những việc
riêng tư liên quan trực tiếp đến đời sống cá nhân của mình như chuyện hôn
nhân, người phụ nữ cũng tùy thuộc vào sự định đoạt của người khác. Nhà sử
học Nguyễn Thừa Hỷ gọi đó là những cuộc hôn nhân “phi cá nhân”. Ông viết:
2
“Đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam truyền thống là tính
chất phi cá nhân, nghĩa là không chỉ là việc riêng tư của hai người nam nữ tự
nguyện đến với nhau trên cơ sở gắn bó tình cảm và giao kết xã hội. Đó là một
công việc dân sự được dàn xếp “theo quy ước” của tập thể, có ý kiến và sự công
nhận của cộng đồng (cha mẹ, gia đình, họ hàng, làng xóm)” [84, tr.162]. Chính
vì không có quyền quyết định hạnh phúc của mình cho nên trong hôn nhân,
người phụ nữ chỉ còn biết trông chờ vào sự may rủi và tin vào duyên số: “Thân
em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?; Thân em như giếng giữa
đàng/Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”; Thân em như hạt mưa sa/Hạt
vào đài các hạt ra ruộng cày (Ca dao) [124, tr.223]
Khi đã lấy chồng, người phụ nữ tiếp tục phụ thuộc vào chồng và gia
đình nhà chồng. Họ quan niệm hạnh phúc gắn liền với việc thực hiện tốt nhất
và đẩy đủ nhất vai trò, bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu
trong gia đình theo những chuẩn mực và mong đợi của người khác. Trong
suốt cuộc đời của mình, phụ nữ là người lao động, người nội trợ, chăm sóc gia
đình, hy sinh cho chồng con và gia đình nhà chồng. Hạnh phúc của họ là lấy
chồng, có nhiều con, yêu chồng, thương con, nghe theo lời dạy bảo của
chồng, cha mẹ chồng và “gánh vác giang sơn nhà chồng”.
Liệu đây có phải là một “bí ẩn nữ tính” của người phụ nữ? Bởi vì
dường như không phải chỉ có người phụ nữ Việt Nam truyền thống coi gia
đình, chồng con là niềm hạnh phúc duy nhất của mình mà hàng triệu cô gái Mỹ
vào các thập niên 50-60 của thế kỷ XX cũng ước mơ trở thành “bà nội trợ”.
Betty Friedan, người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn nữ tính” xuất
bản lần đầu tiên ở Mỹ năm 1963 đã viết: “Mơ ước duy nhất của họ [những
người phụ nữ Mỹ] là trở thành người vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn
nhất của họ là có năm đứa con và một ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của
họ là làm sao có chồng và giữ được chồng. Họ không nghĩ tới các vấn đề phi
nữ tính của thế giới bên ngoài nhà; họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng
3
đại. Họ hãnh diện với vai trò phụ nữ của mình, và tự hào điền vào chỗ trống
trong mục điều tra dân số cụm từ: “Nghệ nghiệp: nội trợ” [39, tr.33].
Thực tiễn này đã và đang gây ra những tranh luận cả trong đời sống và
trong khoa học xung quanh quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trong
nhiều thập kỷ đã qua, về mặt lý thuyết ít nhất chúng ta đã chứng kiến hai
trường phái đối lập nhau. Đó là trường phái chức năng và trường phái nữ
quyền. Trường phái chức năng (đại diện là T. Parsons) cho rằng, quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc gắn liền với bản năng giới tính của họ. Các
nhà chức năng luận sáng tạo ra một thuật ngữ, một khái niệm phù hợp với
luận điểm này, đó là “thiên chức của người phụ nữ”. Theo đó, bản tính tự
nhiên của phụ nữ là sinh đẻ, nuôi con, làm việc nhà, và với họ hạnh phúc là
khi có chồng, có con và làm tốt tất cả những công việc trong phạm vi gia
đình. Hạnh phúc của người phụ nữ là “hạnh phúc của bà nội trợ”. Ngược lại,
bản tính tự nhiên của người đàn ông là hoạt động bên ngoài xã hội, và người
đàn ông chỉ cảm thấy hạnh phúc khi tạo dựng nên sư nghiệp cho bản thân và
kiếm tiền nuôi sống vợ con, gia đình. Phụ nữ và nam giới có vai trò khác nhau
nhưng “bổ sung” cho nhau. Sự kết hợp giữa nam và nữ, vợ và chồng tạo nên
một gia đình hoàn hảo, ở đó người chồng đóng vai trò “công cụ”, người vợ
đóng vai trò “biểu cảm” (T. Parons). Quan niệm này đã hình thành từ rất lâu
trong lịch sử, tạo nên những giá trị và khuôn mẫu ứng xử vững bền được cả
người dân và người lãnh đạo xã hội đồng tình. Nó chính là cơ sở xã hội để
hình thành nên quan điểm chức năng luận trong lý thuyết xã hội học về vai trò
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Quan niệm chức năng luận này không hề bị thách thức gì trong các xã
hội nông nghiệp châu Á và cả xã hội phương Tây trong thời kỳ đầu của quá
trình công nghiệp hóa (trong đó có nước Mỹ). Nhưng với quá trình công
nghiệp hóa, nhiều giá trị nhân văn mới về tự do, dân chủ, bình đẳng, về quyền
con người đã hình thành trong lòng các nước phương Tây. Đây là cơ sở xã hội
4
để hình thành trường phải nữ quyền thay đổi quan niệm về hạnh phúc của
người phụ nữ. Người ta xem xét lại cái gọi là “thiên chức giới tính của phụ
nữ”. Các nhà nữ quyền là những người đầu tiên lên tiếng về sự không thỏa
đáng của khái niệm này. Đối với các nhà nữ quyền, nữ tính không bao gồm tất
cả những vai trò mà xã hội gán cho người phụ nữ ngoài hai đặc điểm không
thay đổi là sinh đẻ và cho con bú. Những vai trò còn lại như làm việc nhà,
chăm sóc trẻ em, người già, người ốm… là những công việc mà cả phụ nữ và
nam giới đều có thể làm được và có thể chuyển hóa cho nhau tùy hoàn cảnh.
Kết quả nghiên cứu của các nhà nữ quyền về đời sống gia đình ở Mỹ và các
nước phương tây khác đã đưa ra những kết luận ngược lại với quan điểm chức
năng về cảm nhận của người phụ nữ đối với công việc nội trợ trong gia đình.
Đó không phải là cảm nhận hạnh phúc như người ta gán cho họ mà là sự buồn
chán khi phải nuôi con nhỏ, làm việc nhà, đó là cảm giác bị cầm tù khi chỉ
sống quanh quẩn trong bốn bức tường của ngôi nhà với những công việc lặp
đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác. Gavron, H. (1966) đã sử dụng khái
niệm “người vợ bị giam cầm” để mô tả và phân tích những người mẹ trẻ
thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động cảm nhận về sự bất hạnh của
mình trong hôn nhân. Tác giả đi đến kết luận rằng, mặc dù có một số cặp vợ
chồng trẻ chia sẻ công việc gia đình (đó là loại gia đình mà sau này Young và
Willmott (1975) gọi là “gia đình đối xứng -symmetrical family”, còn lại hầu
hết những người vợ khác cảm thấy hôn nhân là một thứ cạm bẫy (traped) và
là nơi bị giam hãm (imprisoned) dẫn theo Lê Ngọc Văn [66].
Ngày nay quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có nhiều thay
đổi, nhưng cuộc tranh luận về hạnh phúc vẫn còn tiếp diễn trên phạm vi toàn
thế giới, từ các nước phương Tây sang các nước phương Đông, từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Các nước Phương Tây đã có lịch sử
nghiên cứu 50 năm về phụ nữ và hạnh phúc và đã đạt được các bước đi dài. Ở
Việt Nam, cuộc tranh luận này dường như chỉ mới bắt đầu. Hơn thế nữa,
những quan niệm khác nhau về hạnh phúc không dừng lại ở phạm vi các
5
“tranh luận” mà quan trọng hơn, nó được thể hiện bằng các hành động trong
đời sống thực tiễn.
Nhìn lại các nghiên cứu về phụ nữ, ta sẽ không xa lạ gì với những
nghiên cứu về sự bất hạnh như ly hôn, bạo lực, bất bình đẳng, trầm cảm...
Những nghiên cứu về hạnh phúc lại ít nhiều bị thờ ơ. Con người thường dễ kể
về những căng thẳng, đau khổ, lo lắng hơn là chia sẻ cách họ thụ hưởng hạnh
phúc như thế nào. Nói chung, con người trải nghiệm các cảm giác tiêu cực
một cách sẵn sàng và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Dường như,
chiến lược tồn tại của con người thường là hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là
tìm kiếm hạnh phúc.
Rất khó để tìm thấy một tiêu đề hay một tên đề tài trọn vẹn cho một
nghiên cứu riêng về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Có lẽ quan
điểm “phi cá nhân” về hạnh phúc đã chi phối chủ đề nghiên cứu này? Điểm
qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm của người phụ nữ
về hạnh phúc, có thể thấy một xu hướng nổi bật là quan niệm hạnh phúc chỉ
được đề cập đến trong các chủ đề về hạnh phúc gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chẳng hạn, Ở Việt Nam, xuất hiện các bài viết đề cao vai trò của người phụ
nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình như: “Vài nét bàn về
hạnh phúc gia đình ở Việt Nam” [71]; “Gia đình hạnh phúc”, “Bảo vệ hạnh
phúc gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc” [69]; “Quan niệm về hạnh
phúc gia đình thời kỳ đổi mới” [98].
Có thể nhận thấy, nghiên cứu khoa học về hạnh phúc ở Việt Nam nói
chung và về người phụ nữ nói riêng còn để lại quá nhiều khoảng trống cả về
lý thuyết và thực tiễn. Thế giới đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại hóa với
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi
người, trong đó phụ nữ là một nửa nhân loại. Vậy, người phụ nữ quan niệm
như thế nào về hạnh phúc? Vì sao hình thành các tranh luận khác nhau, thậm
chí đối lập nhau về hạnh phúc? Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc có
6
thay đổi theo thời gian hay không? Vì sao thay đổi hoặc không thay đổi? Có
sự khác biệt trong quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau về
hạnh phúc hay không? Vì sao có sự khác biệt hay không khác biệt? Những
câu hỏi này chỉ có thể được trả lời thông qua các nghiên cứu xã hội học thực
nghiệm. Đề tài: “Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh
phúc” là một nỗ lực của tác giả góp phần làm sáng tỏ quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, qua đó cung cấp những luận cứ
khoa học góp phần nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ và kiểm chứng tính
đúng đắn của các lý thuyết xã hội học có liên quan qua trường hợp Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc; trên cơ sở đó cung cấp những luận
cứ khoa học nhằm nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc.
- Nhận diện quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
- Phân tích điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm của người
phụ nữ ở các nhóm xã hội khác nhau về hạnh phúc.
- Cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá
trị hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những
chính sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
7
3.2. Khách thể nghiên cứu
Người phụ nữ tại các điểm nghiên cứu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung, vấn đề nghiên cứu: Quan niệm của người phụ nữ
Việt Nam hiện nay về hạnh phúc được xem xét trên ba lĩnh vực chính: quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên;
quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực gia đình - xã hội; và quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực đời sống cá nhân.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án sẽ phân tích bộ số liệu
của đề tài độc lập cấp quốc gia: “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm,
thực trạng và chỉ số đánh giá” do PGS.TS Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực
hiện từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018. Với tư cách là thành viên và là thư
ký đề tài, tác giả luận án đã được chủ nhiệm cho phép gắn các nội dung phục
vụ riêng cho luận án vào trong bộ công cụ của đề tài (phiếu hỏi, hướng dẫn
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm) để thu thập thông tin. Bên cạnh đó, chủ
nhiệm đề tài cũng tạo điều kiện để tác giả luận án thực hiện riêng các phỏng
vấn sâu trong thời gian khảo sát thực địa để phục vụ luận án. Luận án chính là
một sản phẩm đào tạo của đề tài cấp Nhà nước.
Đề tài độc lập cấp quốc gia điều tra tại 05 tỉnh, thành phố đại diện cho
05 vùng địa lý, mỗi tỉnh lựa chọn 01 phường và 01 xã. Cụ thể như sau:
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Ninh Bình
Vùng Tây Bắc Bộ: Sơn La
Vùng Tây Nguyên: Đắc Lắc
Vùng Đông Nam Bộ: Tp. Hồ Chí Minh
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: An Giang
8
- Phạm vi về thời gian: Phạm vi thời gian được nói ở đây là khoảng thời
gian mà đối tượng nghiên cứu đang vận hành. Nói một cách cụ thể, đề tài cần
nghiên cứu quan niệm và thực tế hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, muốn thấy được hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam
hiện nay thì tất yếu cần phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội
nông nghiệp cổ truyền trước đó. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, luận
án sẽ mở rộng phạm vi về thời gian qua việc thực hiện các nghiên cứu hồi cố
(cũng có thể qua các tài liệu lịch sử, các dấu ấn để lại qua văn hóa dân gian,
các tác phẩm văn học, nghệ thuật, v.v…) về hạnh phúc của người phụ nữ Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc?
- Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có quan niệm khác
nhau về hạnh phúc?
- Yếu tố nào tác động rõ nhất đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc?
5. Giả thuyết nghiên cứu, biến số và khung phân tích
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là có thu
nhập ổn định, gia đình hòa thuận và có sức khỏe tốt.
Giả thuyết 2: Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có sự
tương đồng nhiều hơn khác biệt trong quan niệm về hạnh phúc.
Giả thuyết 3: Yếu tố mức sống có tác động rõ nhất đến quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc.
9
5.2. Biến số
- Biến độc lập:
Yếu tố cá nhân: tuổi, học vấn, giới tính, tôn giáo, khu vực, mức sống, việc
làm, tài sản, sức khỏe, tình trạng hôn nhân.
Yếu tố xã hội: sự tham gia, các mối quan hệ thân hữu, sự cân bằng cuộc
sống và công việc.
Yếu tố tự nhiên: các vấn đề môi trường, các vấn đề đô thị hóa.
- Biến can thiệp: Điều kiện kinh tế - xã hội của 05 địa bàn nghiên cứu;
quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo hạnh
phúc cho phụ nữ.
- Biến phụ thuộc: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về
hạnh phúc được đo trên ba khía cạnh: quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực
kinh tế-môi trường tự nhiên; quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình-xã
hội; quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân.
5.3. Khung phân tích
10
Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước và địa phương
Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật
Định
hướng
giải
pháp
Đặc điểm cá nhân: khu vực
nông thôn - đô thị, nhóm tuổi,
tôn giáo, dân tộc, mức sống
Đặc điểm hôn nhân: tình trạng
hôn nhân, độ dài hôn nhân
QUAN
NIỆM
CỦA
NGƯỜI
PHỤ NỮ
VỀ HẠNH
PHÚC
Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực kinh tế-
môi trường tự nhiên
Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực gia
đình-xã hội
Quan niệm hạnh phúc
trong đời sống cá nhân
11
6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận
Luận án ứng dụng một số lý thuyết sau:
- Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của mỗi cá nhân trong sự phát
triển của một hệ thống. Trong hệ thống này bao gồm rất nhiều yếu tố và
chúng luôn tương tác với nhau tạo thành thể thống nhất.
Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng nó lại
dựa trên những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó
là mức độ thỏa mãn của con người trong các mối quan hệ với môi trường
sống xung quanh. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi
trường của chính bản thân cá nhân con người. Như vậy, cảm nhận hạnh phúc
của người phụ nữ vốn có quan hệ không thể tách rời với ba môi trường sống
đã nêu và lý thuyết hệ thống là cơ sở giúp tìm được mẫu số chung, giúp trả lời
câu hỏi người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc, nhìn một
cách tổng thể.
- Lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một
trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Trong
thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con
người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu về an toàn (safety needs)
Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
12
Luận án nghiên cứu sử dụng lý thuyết này để phân tích và lý giải trong
mối tương quan giữa nhu cầu và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ.
Cũng có khi quan niệm thúc đẩy nhu cầu và có khi quan niệm hạn chế nhu
cầu. Đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện
nay, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thể hiện trong mối liên hệ
chặt chẽ với việc đáp ứng các nhu cầu như thế nào.
Cụ thể, lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích sự
thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc
các nhóm xã hội khác nhau. Những thay đổi và khác biệt này phản ánh sự
thỏa mãn nhu cầu của người phụ nữ ở các cấp độ khác nhau. Gỉa thuyết ở đây
là phụ nữ trong xã hội truyền thống đề cao việc thỏa mãn các nhu cầu kinh tế
- vật chất, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, cộng đồng; trong khi phụ nữ
trong xã hội hiện đại ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn, quan hệ bên
trong gia đình, hộ hàng, cộng đồng, còn thỏa mãn nhu cầu trong các mối quan
hệ xã hội, và nhu cầu được thể hiện mình… Tương tự như vậy, hạnh phúc
theo quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm nghèo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số… nghiêng về thỏa mãn nhu cầu cơ bản về kinh tế - vật chất và quan
hệ gia đình, trong khi phụ nữ ở khu vực thành phố, phụ nữ có trình độ học vấn
cao, phụ nữ nhóm kinh tế khá giả… có thể sẽ đề cao các giá trị hạnh phúc
thuộc về thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội và cống hiến bản thân cho xã hội…
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này bao gồm việc sưu tầm và sử dụng các kết quả nghiên
cứu đã có, các số liệu thống kê, các tài liệu có liên quan... Phương pháp phân
tích thứ cấp giúp cho luận án sử dụng các nguồn dữ liệu đã có theo quan điểm
của riêng mình. Nhưng điều quan trọng hơn là các nguồn tài liệu thứ cấp còn
giúp cho những người thực hiện đề tài biết được lịch sử vấn đề nghiên cứu,
13
trong đó các tác giả đi trước đã làm được gì, những gì họ chưa làm được,
những gì họ đã làm nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Các tài liệu
thứ cấp cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn mang tính lịch sử - so sánh
để phát hiện sự khác biệt về hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay với hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở các xã hội nông nghiệp cổ
truyền trước đó. Tóm lại, việc điểm lại các nghiên cứu và tài liệu đã có sẽ giúp
tác giả luận án biết được rằng cần bắt đầu từ đâu và cần đi tiếp như thế nào.
6.2.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê có sẵn
Như đã đề cập tới ở phần phạm vi không gian nghiên cứu, luận án sẽ sử
dụng số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan
niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” để phân tích quan niệm và các yếu tố tác
động tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những chính
sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
Cơ sở số liệu:
Đề tài “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số
đánh giá” là một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ đã giao cho Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực hiện trong
30 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018). Đề tài tiến hành điều tra khảo sát
theo phương pháp điều tra định lượng và điều tra định tính.
Điều tra định lượng: Tiến hành điều tra 2.500 phiếu theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên tại 05 tỉnh/thành. Tuy nhiên, vì luận án chỉ tìm hiểu
quan niệm của người phụ nữ nên sẽ tiến hành lọc mẫu, chỉ chọn ra người trả
lời là nữ để có được thông tin một cách trực tiếp: người phụ nữ tự đưa ra quan
niệm của chính bản thân mình về hạnh phúc. Chính vì thế mẫu phân tích của
luận án còn 1.443 phiếu.
14
Đặc điểm mẫu phân tích:
Bảng 1: Thông tin người trả lời
Số lượng Tỉ lệ (%)
Khu vực sống
Nông thôn 644 44,6
Đô thị 799 55,4
Nhóm tuổi
Dưới 40 674 46,8
40-59 622 43,2
60 trở lên 145 10,0
Theo tôn giáo
Có 791 54,9
Không 649 45,1
Dân tộc
Kinh 1013 70,7
Dân tộc khác 420 29,3
Mức sống
Khá 260 18,1
Trung bình 738 51,5
Nghèo 436 30,4
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn 1205 91,3
Độc thân 115 8,7
Độ dài hôn nhân
1-10 năm 367 29,7
11-30 năm 590 47,8
31 năm trở lên 277 22,5
Nguồn: Số liệu xử lý của luận án
15
Điều tra định tính: thực hiện 192 cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, thảo
luận nhóm đại diện cho các nhóm xã hội.
Phương pháp phân tích số liệu:
Trên cơ sở số liệu gốc, tác giả tiến hành lọc người trả lời là nữ để phân
tích theo mục đích, nội dung nghiên cứu của luận án bằng chương trình SPSS.
Các phân tích tần suất (frequency), phân tích nhị biến (crosstabs), hồi quy
logistic sẽ được sử dụng.
Phân tích tần suất (frequency): cung cấp thông tin chung về quan niệm
hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Phân tích nhị biến (crosstabs): kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng yếu
tố độc lập đến hạnh phúc của người phụ nữ. Hệ số Khi-bình phương (chi-
square) được sử dụng để xem xét những yếu tố đó có mức độ quan hệ như thế
nào đến hạnh phúc của người phụ nữ, các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống
kê không?.
Phân tích hồi quy logistic: phân tích hồi quy là sự phân tích mối quan
hệ phụ thuộc của một biến số (gọi là biến phụ thuộc) vào các biến số khác
(gọi là biến độc lập hoặc biến giải thích). Trên cơ sở khung lý thuyết đã được
xây dựng, tất cả các biến số được giả định có liên quan về mặt lý thuyết với
hạnh phúc của người phụ nữ (đã phân tích nhị biến) sẽ được đưa vào mô hình
hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy cho phép xác định được những yếu tố tác
động thực sự đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Nếu chỉ dừng lại
ở phân tích nhị biến, một số biến số có thể tác động đồng thời đến quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Nói một cách cụ thể hơn, phân tích hồi quy
logistic giúp tác giả luận án nhận diện rõ hơn sự khác biệt/tương đồng trong
quan niệm của người phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau.
16
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Bên cạnh phương pháp phân tích số liệu của đề tài cấp nhà nước, tác
giả sẽ thực hiện riêng các phỏng vấn sâu bởi có nhiều lý do khiến các câu hỏi
định lượng không thể có được đầy đủ những thông tin mà luận án cần thu
thập. Luận án sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 50 người phụ nữ đảm bảo cơ cấu về
độ tuổi, dân tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống, vùng miền… Cụ thể:
Tỉnh Sơn La: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Ninh Bình: 10 phỏng vấn sâu
Thành phố Hồ Chí Minh: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh An Giang: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Đắc Lắc: 10 phỏng vấn sâu
Luận án thực hiện phương pháp nghiên cứu case study bởi đặc trưng
của hạnh phúc là mang tính chủ quan, là một quá trình dựa trên trạng thái
tương đối ổn định, dài lâu, không phải là trạng thái tinh thần, tình cảm viên
mãn hay hứng thú nhất thời, bất chợt. Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu sẽ tập
trung nghiên cứu tình huống để xác định điểm mốc thời gian mà người phụ nữ
cảm thấy hạnh phúc. Từ điểm mốc này, các sự kiện/yếu tố liên quan sẽ được
khai thác để tìm hiểu quan niệm và yếu tố tác động tới quan niệm hạnh phúc
của người phụ nữ.
Luận án chọn mẫu phỏng vấn sâu theo phương pháp có chủ đích và
phân chia theo năm tiêu chí chính: khu vực, nhóm tuổi, mức sống, tôn giáo,
dân tộc. Một số tiêu chí khác như trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, độ dài
hôn nhân được lồng ghép trong 5 tiêu chí chính vừa nêu.
17
Bảng 2: Phân bổ mẫu phỏng vấn sâu
Nhóm tuổi Mức sống Dân tộc
Tổng
<40 40-59 >=60 Giàu TB Nghèo Thiểu số Kinh
Ninh
Bình
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Sơn La
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Đắc Lắc
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Tp. Hồ
Chí
Minh
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
An
Giang
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Tổng 6 6 7 6 8 7 5 5 50
Kinh nghiệm cho thấy, người học vấn cao thường có nhiều hiểu biết
việc điều tra, cho nên họ thường dễ dàng tiếp nhận các câu hỏi và thường cho
những trả lời chính xác; người thuộc tầng lớp trung bình thường đưa ra những
câu trả lời thường không thật chính xác lắm; người nhút nhát thường không
dám trả lời vì sợ sai; người có quá khứ phức tạp thường dè dặt; đối với người
tự tin thì người nghiên cứu rất khó tìm câu trả lời chuẩn xác; đối với người
bông đùa, khôi hài thì người nghiên cứu thường thu được những câu trả lời có
độ tin cậy thấp; còn người ba hoa thường hay đưa vấn đề đi lung tung. Khó
nắm bắt nhất là những người có bản lĩnh tự tin thái quá, vì họ rất kín kẽ, biết
cách dấu kín một cách nhất quán mọi suy nghĩ, nếu người nghiên cứu không
có kinh nghiệm "cài các bẫy logic", thì rất khó tìm được câu trả lời ở những
người này [82]. Chính vì thế, trước mỗi đối tượng được chọn để phỏng vấn,
người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận phỏng vấn khác nhau. Phương
pháp tiếp cận tâm lý học cũng sẽ được áp dụng để thu thập những thông tin
cần thiết cho nghiên cứu.

Nguồn: đã trích dẫn
18
6.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
- Thông tin thu thập được từ thực tế bao gồm: báo cáo tình hình kinh tế
xã hội tại các địa bàn nghiên cứu, các file ghi âm phỏng vấn sâu và báo cáo
điền dã tại thực địa.
- Các file ghi âm sẽ được gỡ băng trên Word.
- Luận án sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý thông tin định lượng.
- Các thông tin định lượng và định tính sẽ được kết hợp hợp lý trên cơ
sở khoa học để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Các phân tích định lượng được
phân tích trên mối quan hệ nhân quả. Các phân tích định tính sẽ hỗ trợ để giải
thích, làm rõ số liệu.
7. Điểm mới của luận án
- Trên thế giới hiện nay, rất nhiều nghiên cứu về hạnh phúc đã được
thực hiện nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này ít được đề cập tới. Đến thời điểm
hiện tại, ở Việt Nam chỉ có thể kể tên 05 nghiên cứu trực tiếp về hạnh phúc
nói chung và chưa có nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc của người phụ nữ
(điều này sẽ được làm rõ trong phần tổng quan tài liệu). Vì vậy, kết quả của
luận án sẽ góp phần nhận diện quan niệm về hạnh phúc từ góc nhìn của người
phụ nữ.
- Tại Việt Nam, mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về hạnh
phúc. Những công trình sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích các yếu
tố tác động tới hạnh phúc còn ít ỏi hơn. Bằng việc sử dụng mô hình hồi quy
đa biến trong phân tích bộ số liệu của đề tài cấp nhà nước đầu tiên về bộ chỉ
số hạnh phúc của người Việt Nam, tác giả luận án hy vọng rằng sẽ xác định
được những yếu tố thúc đẩy hoặc hạn chế hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong các chính sách phát triển và gợi mở những hướng nghiên cứu
tiếp theo.
19
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
8.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần xây dựng nhận diện và hoàn thiện hơn khái niệm
“Hạnh phúc” từ góc nhìn của người phụ nữ.
- Thông qua việc vận dụng các lý thuyết để phân tích, giải thích kết quả
điều tra thực nghiệm quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh
phúc, luận án góp phần kiểm định mức độ phổ biến, tính đúng đắn của 02 lý
thuyết (lý thuyết hệ thống và lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow) trong
bối cảnh của xã hội Việt Nam.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của luận án sẽ mang đến những nhận thức mới có tính hệ
thống về quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, và đó
là những bằng chứng quan trọng cho việc hoạch định chính sách hoặc triển
khai những biện pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người phụ nữ nói riêng và những chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
- Trên thế giới hiện nay, việc nghiên cứu về hạnh phúc đã trở thành một
ngành khoa học thực thụ nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này dường như vẫn
đang bị bỏ trống. Tác giả luận án hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp
phần nhỏ trong việc đặt nền móng cho quá trình hình thành một chuyên ngành
khoa học xã hội về hạnh phúc trong tương lai ở Việt Nam.
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình nghiên
cứu, giảng dạy các bộ môn xã hội học gia đình, giới và phát triển…
9. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung luận án gồm 5 chương (20 tiết).
20
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ là nhóm xã hội có nhiều
biến động theo những chiều hướng khác nhau, từ lao động việc làm đến đời
sống hôn nhân và gia đình, từ sức khỏe sinh sản đến bình đẳng giới trong gia
đình và xã hội, v.v… Những vấn đề này thu hút được một khối lượng khá lớn
các nghiên cứu xã hội học với những quy mô khác nhau, từ quy mô quốc gia
đến quy mô vùng miền, khu vực và cả các nghiên cứu trường hợp (case
studies). Những nghiên cứu này đã mô tả và cung cấp cho người đọc thông tin
đa dạng, nhiều chiều về đời sống của người phụ nữ, lý giải nguyên nhân xã
hội những biến đổi vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội, v.v…
Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, hạnh phúc với tư cách là đối
tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệm, đặc biệt là xã hội học hầu như
còn vắng bóng cả trên bình diện hạnh phúc xã hội nói chung và hạnh phúc của
các nhóm xã hội nói riêng, trong đó có nhóm phụ nữ.
Khi tìm kiếm các công trình nghiên cứu về hạnh phúc, tác giả luận án
nhận thấy: nếu phạm trù “happiness” (hạnh phúc) được đề cập đến rất nhiều
trong các công trình nghiên cứu nước ngoài thì phạm trù “conception of
happiness” (quan niệm về hạnh phúc) lại ít được đề cập tới. Các công trình
liên quan tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc còn hiếm hoi hơn rất
nhiều và thường là những công trình nghiên cứu về gia đình (với các chủ đề
như: sự hài lòng/không hài lòng về cuộc sống gia đình, sự hài lòng/không hài
lòng về quan hệ hôn nhân, gia đình, trong mối quan hệ cộng đồng) chứ không
phải những công trình nghiên cứu riêng về hạnh phúc … Và như thế mới chỉ
đề cập tới được những khía cạnh xung quanh hạnh phúc của người phụ nữ
21
chứ chưa phải là một cái nhìn tổng thể và quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc cũng chưa được đề cập đến.
Ở Việt Nam, trong bối cảnh các công trình nghiên cứu về hạnh phúc là
rất ít, tác giả chưa tìm được công trình nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc từ
góc nhìn của phụ nữ. Có một công trình gần nhất với vấn đề nghiên cứu của
luận án là một luận văn thạc sỹ của Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright
(FETP) sử dụng bộ số liệu của cuộc Điều tra giá trị thế giới tại Việt Nam năm
2001. Luận văn này đề cập đến hạnh phúc trong tương quan giới tính (nam-
nữ): giữa phụ nữ và nam giới, ai là người hạnh phúc hơn?, có nghĩa là mới chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu một khía cạnh rất nhỏ trong cảm nhận hạnh phúc chứ
không phân tích quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
Trong khi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thường vắng bóng
ở các công trình nghiên cứu thì lại được nhắc đến khá thường xuyên trên báo
chí Việt Nam, tiêu biểu là Báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Phụ
nữ thành phố Hồ Chí Minh, Báo Thanh niên hay một số báo mạng như
Phununet.com, Vietnamnet.vn, VnEpress... Các báo này thường có các diễn
đàn về hạnh phúc trên chuyên mục Phụ nữ và thời cuộc, Đời sống, Bạn đọc,
Tâm sự, Chia sẻ…Cách hiểu về “hạnh phúc” trên báo chí mang nhiều tính chất
giải trí và đặt quan niệm hạnh phúc gắn liền với quan niệm hạnh phúc gia đình.
Do có ít các công trình nghiên cứu trực tiếp về quan niệm của người
phụ nữ về hạnh phúc nên luận án sẽ mở rộng phạm vi tìm kiếm tài liệu ở hai
khía cạnh: (1) không chỉ tìm các tài liệu về “conception of happiness”(quan
niệm hạnh phúc) mà tìm thêm các tài liệu về “happiness” (hạnh phúc), “self-
reported happiness” (hạnh phúc chủ quan), “life satisfaction” (sự thỏa mãn
về cuộc sống), “quality of life” (chất lượng cuộc sống), “welfare/well-being”
(phúc lợi) và (2) không chỉ tìm các công trình nghiên cứu khoa học, sách, luận
án, luận văn mà còn tìm thêm các báo cáo, bài viết, tư liệu ghi chép, báo, tạp
chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật.
22
Muốn hiểu được quan niệm của người phụ nữ hiện nay về hạnh phúc,
tất yếu phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ
truyền trước đó. Để làm được điều này, luận án sẽ tìm kiếm các tài liệu lịch sử
ở dạng tư liệu ghi chép, báo, tạp chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật từ
đầu thế kỷ 20 đến năm 1975.
Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, trong phần tổng quan, tác giả
luận án chia thành ba phần: (1) Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc; (2)
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến
quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Từ đó, tác giả phát hiện các vấn
đề đặt ra từ nguồn tài liệu, đánh giá về các kết quả nghiên cứu đã có, xác định
kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu cho luận án.
Hạnh phúc bắt đầu trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học thực
nghiệm từ những năm 1960 và hạnh phúc của người phụ nữ được quan tâm
nghiên cứu từ những năm 1970 ở các nước phương Tây. Martin Sehgman,
GS. Đại học Pennsylvania, Chủ tịch Hiệp hội bác sĩ tâm lý Mỹ là một trong
những người nhiệt thành lên tiếng đòi môn nghiên cứu về hạnh phúc phải
được chú trọng với tính cách là một khoa học liên ngành, chuyên nghiên cứu
định lượng về hạnh phúc, nhằm bổ sung, thay thế cho những lĩnh vực mà triết
học và tôn giáo còn đang giải thích một cách rối rắm hoặc trừu tượng [54].
Các chủ đề về phụ nữ liên quan tới hạnh phúc được tập trung chủ yếu ở
ngành Tâm lý học xã hội và Xã hội học. Tâm lý học chú trọng đến trị liệu và
tư vấn để người phụ nữ có những cảm xúc tích cực hơn. Xã hội học chú trọng
lý giải nguồn gốc và các yếu tố tác động tới hạnh phúc của người phụ nữ từ
các góc độ: cá nhân, gia đình, xã hội.
Hạnh phúc của người phụ nữ là một trong những nội dung quan trọng
của điều tra xã hội của Mỹ (General Social Survey - GSS). Tuy nhiên, trước
đó, vào năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh
phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn của nước Anh được coi là
23
tác phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Từ đó đến nay, nhiều
bài báo khoa học về hạnh phúc đã được công bố, nhiều công trình khoa học
về hạnh phúc đã được xuất bản.
Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report) đầu tiên được
công bố vào tháng 4 năm 2012, nhằm hỗ trợ Hội nghị cấp cao của Liên Hợp
Quốc về hạnh phúc và phúc lợi xã hội. Số liệu của báo cáo được thu thập từ
người dân tại hơn 150 quốc gia. Với Hội nghị này, LHQ khuyến cáo các nước
nên coi hạnh phúc là thước đo đúng đắn của tiến bộ xã hội và là mục tiêu của
chính sách công. Kể từ đó WHR được tiếp tục nghiên cứu và công bố vào
Ngày Quốc tế về Hạnh phúc các năm 2013, 2015, 2016, 2017, 2018. Khoảng
thời gian mỗi báo cáo giới hạn để đo đạc hạnh phúc của các quốc gia là 3
năm, chẳng hạn Báo cáo 2016 nghiên cứu, đánh giá hạnh phúc của các quốc
gia trong các năm từ 2013 đến 2015, Báo cáo 2017 nghiên cứu, đánh giá hạnh
phúc của các quốc gia trong các năm từ 2014 đến 2016.
Ban đầu, hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc nằm trong một chủ đề
nghiên cứu rộng hơn là chất lượng cuộc sống (quality of life). Các nghiên cứu
về chủ đề này cố gắng xác định xem thế nào là một cuộc sống tốt đẹp và thực
tế đã đáp ứng được những yêu cầu hiện thực hóa nó được bao nhiêu, từ đó tìm
ra những điều làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Trường phái nghiên cứu này
xuất phát từ hệ tư tưởng của thời Khai sáng (Enlighment) mà theo đó, trọng
tâm của cuộc đời con người chính là cuộc sống của chính họ, chứ không phải
phục vụ cho các đấng quân vương hay ở một cõi thiên đường nào đó. Vì vậy,
việc cố gắng để đạt được mục đích và sự hạnh phúc là những giá trị chủ đạo và
có thực của mọi thời đại, và đời sống xã hội chính là môi trường để công dân có
được cuộc sống tốt đẹp đó. Sang thế kỷ 19, thuyết Thực lợi (Utilitarian) cho rằng
một xã hội tốt đẹp là xã hội mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhiều người nhất.
Đến thế kỷ XX, quan điểm này được mở rộng và được hiện thực hóa thông qua
24
những cải cách xã hội và có tác động quan trọng đến việc xây dựng các nhà
nước phúc lợi (Welfare State) [65].
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc
1.2.1. Hướng tiếp cận xã hội học
Đến những năm 1970, hạnh phúc đã trở thành tâm điểm của các nghiên
cứu về Chỉ báo xã hội ở Mỹ (American Social Indicator), ở Đức và các khu
vực thuộc vùng Normandi. Vào những năm 1980, lần đầu tiên một cuộc khảo
sát lịch đại quy mô về hạnh phúc được thực hiện ở Australia do hai tác giả
Heady và Wearing thực hiện. Đây có thể coi là một nghiên cứu biến đổi quan
niệm về hạnh phúc của con người ở tầm quốc gia qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau. Các tác giả như Veenhoven (1984), Argyle (1987) và Meyers (1992)
đều có những nghiên cứu về chủ đề này. Năm 1993, Veenhoven (hiện nay là
Giám đốc Cơ sở dữ liệu Hạnh phúc thế giới, tại Hà Lan) đã xây dựng một thư
mục gồm 2.475 nghiên cứu về đánh giá cuộc sống và đó chính là một phần
trong cơ sở dữ liệu thế giới về hạnh phúc.
Những nghiên cứu về hạnh phúc chú trọng vào một số câu hỏi như:
• Hạnh phúc là gì?
• Con người thực sự hạnh phúc là như thế nào?
• Mọi người có hạnh phúc như nhau không?
• Nếu không thì tại sao lại có sự khác biệt đó?
• Những yếu tố nào quyết định mức độ hạnh phúc?
• Hạnh phúc có đo được không?
• Liệu có thể kéo dài hạnh phúc và làm cho nó tăng lên không?
Hạnh phúc của người phụ nữ là chủ đề rất được quan tâm trong lĩnh
vực nghiên cứu giới, đặc biệt khi nghiên cứu về bất bình đẳng: bất bình đẳng
trong giáo dục, bất bình đẳng trong việc làm, bất bình đẳng trong tham chính,
bất bình đẳng trong thụ hưởng hạnh phúc… Theo tác giả Betsey Stevenson và
25
Justin Wolfers: trên thực tế, tồn tại một khoảng cách giới trong thụ hưởng
hạnh phúc. Betsey Stevenson and Justin Wolfers đưa ra một “nghịch lý suy
giảm hạnh phúc của phụ nữ” (paradox of declining female happiness). Hai tác
giả phân tích hạnh phúc của phụ nữ trong 35 năm bằng việc phân tích bộ số
liệu Khảo sát Xã hội của Mỹ (GSS - General Social Survey). Khảo sát này bắt
đầu thực hiện từ năm 1972 và được lặp lại hàng năm. Mẫu nghiên cứu khoảng
1.500 người mỗi năm từ 1972-1993 (ngoại trừ năm 1979, 1981, 1992) và tiếp
tục với khoảng 3.000 người mỗi năm từ 1994 đến 2004, tăng lên 4.500 người
vào năm 2006. Khoảng thời gian dài của GSS và việc sử dụng phương án
khảo sát phù hợp để đo lường hạnh phúc là rất lý tưởng cho việc phân tích xu
hướng hạnh phúc theo thời gian [2].
Kết quả phân tích GSS cho thấy: những năm 1970, phụ nữ hạnh phúc
hơn nam giới nhưng sau đó, mức độ hạnh phúc của phụ nữ có xu hướng giảm,
trong khi mức độ hạnh phúc của nam giới ở một khoảng ổn định. Đến những
năm 1990, phụ nữ hạnh phúc ít hơn nam giới. Điều này liên quan đến quyền
lực kinh tế và quyền của người phụ nữ. Phong trào giải phóng phụ nữ, quyền
tự do kinh tế, chính trị, xã hội đã thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và họ cũng
kỳ vọng rằng người phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh phúc. Tuy nhiên, trên thực tế
không phải như vậy. Người phụ nữ vừa phải nỗ lực kiếm tiền ngoài xã hội,
vừa phải chăm sóc con cái và làm việc nhà. Việc nhà ít khiến đàn ông bị trầm
cảm nhưng đóng góp vào sự trầm cảm của phụ nữ [2]
Cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa nam và nữ trong cảm nhận về
hạnh phúc diễn ra sôi nổi ở nhiều ấn phẩm khoa học nghiên cứu về hạnh
phúc. Tác giả Chris Herbst cùng đồng quan điểm với Betsey Stevenson và
Justin Wolfers khi cho rằng: có sự khác biệt về giới trong cảm nhận hạnh
phúc. Sự khác biệt này thay đổi theo thời gian, giai đoạn lịch sử và khác nhau
ở mỗi quốc gia, khu vực. Do đó, quan hệ giữa giới và hạnh phúc cũng theo đó
mà rất khác biệt [5].
Một nghiên cứu xã hội học bàn nhiều tới hạnh phúc của người phụ nữ
một cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull
26
Shin (người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri,
Columbia, Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004)
thu thập được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn
Quốc, Singapor, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích
mức độ hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn
nhân (sự ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới đem lại hạnh
phúc cho con người và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7
quốc gia nho giáo kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi
lên là các quốc gia hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở
các tốp sau, vì chịu nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân.
Về xếp hạng khu vực, đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc
hơn bất hạnh nhưng đa số người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49].
Hướng tiếp cận xã hội học thể hiện rõ ưu điểm trong những nghiên
cứu lịch đại về hạnh phúc. Các nghiên cứu không chỉ đo lường được sự
biến đổi hạnh phúc theo thời gian mà còn phân tích các yếu tố tạo nên hạnh
phúc theo nhiều chiều cạnh, nhiều tầng lớp. Một số các yếu tố tạo nên hạnh
phúc của phụ nữ được các nghiên cứu xã hội học nhấn mạnh như: quyền
lực kinh tế và công việc chăm sóc không được trả công [2]; quyền quyết
định trong gia đình [13]; tình trạng hôn nhân, khu vực nông thôn - đô thị
[3]; sự gắn kết vợ chồng [102]…
1.2.2. Hướng tiếp cận tâm lý học
Từ năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh
phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn nước Anh được coi là tác
phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Những học giả đầu tiên có
công trong việc hình thành khoa học về hạnh phúc là nhà tâm lý Martin
Seligman thuộc Đại học Pennsylvania (Mỹ); nhà tâm lý Edward Diener với
biệt hiệu "tiến sĩ Hạnh Phúc", thuộc Đại học Illinois (Mỹ), và nhà tâm lý học
Mihaly Csikszentmihalyi (người Mỹ gốc Hungary).
27
Nhìn chung, hạnh phúc được nghiên cứu theo một số chủ đề lớn như:
sức khỏe liên quan đến chất lượng cuộc sống, tâm lý tích cực của con người...
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu về chủ đề này đã được xuất
bản vào các năm 1987 (Argyle), 1999 (Diener), 2006 (Dolan và các tác giả
khác), 1984, 1995 (Veenhoven). Từ năm 2000, tạp chí Nghiên cứu về Hạnh
phúc (Journal of Happiness Studies) đã ra đời.
Cuộc khảo sát đầu tiên có sự đo lường về hạnh phúc được thực hiện ở
Mỹ trong những năm 1960. Mục đích của nó là lập biểu đồ về sức khỏe tinh
thần của con người. Vào thời điểm đó, hạnh phúc cũng là một chủ đề trong
một nghiên cứu quốc gia về những vấn đề cần quan tâm đối với con người
của tác giả Cantril (1965).
Kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực là một trong những bí quyết
của hạnh phúc. Cách chúng ta phản ứng lại những điều khó chịu liên quan
mật thiết với trạng thái tinh thần khỏe mạnh tổng thể của ta. Khi Davidson
khảo sát trạng thái tâm lý của đối tượng thí nghiệm, ông phát hiện ra rằng sự
chiếm ưu thế vượt trội của phần bên trái hay phần bên phải trong thùy trước
trán cũng được phản ảnh trong cuộc sống hàng ngày. Những người có não
phải hoạt động mạnh hơn, ít kiểm soát cảm xúc tiêu cực hơn thường có xu
hướng sống nội tâm, bi quan và hay nghi ngờ. Họ hay trầm trọng hóa những
vấn đề nhỏ, có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm tương đối cao và nói chung có xu
hướng bất hạnh. Ngược lại, những người có thùy trước trán bên trái hoạt động
mạnh hơn thường tỏ ra vui vẻ, hướng ngoại. Họ luôn tự tin, lạc quan, tinh thần
phấn chấn. Họ thấy dễ dàng gần gũi mọi người và dường như được sinh ra với
khả năng luôn nhìn thấy phía tươi đẹp của cuộc sống [103].
Trong lĩnh vực nghiên cứu về não bộ của phụ nữ và nam giới, các nhà
khoa học cũng luôn băn khoăn để tìm ra câu trả lời, liệu có hay không chính
xác cụm từ: “Bộ não phụ nữ và Bộ não nam giới”?. Bộ não phụ nữ có khác bộ
não nam giới trong cách kiểm soát những cảm xúc tiêu cực để hạnh phúc?
28
Dưới tác động về hoóc môn giới tính và sự khác biệt về nhiễm sắc thể,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, về cơ bản bộ não của phụ nữ và nam giới là
khác nhau trên cơ sở sinh học, mà không cần có sự can thiệp nào khác từ các
yếu tố xã hội hay văn hóa (Richie và cộng sự 2017, Brizenine 2007, Kimura
1999; trích theo Trần Thị Vân Nương, 2017). Các ấn phẩm như “You Just
Don’t Understand” (Chỉ là Anh không hiểu) (1990) của Tannen và “Men from
Mars, Women from Venus” (Đàn ông đến từ sao Hỏa, đàn bà đến từ sao Kim)
(1992) của John Gray, phân tích sự khác nhau cơ bản giữa phụ nữ và nam
giới. Một số công trình gần đây thảo luận về sự khác nhau giữa não bộ của
phụ nữ và nam giới (Ví dụ, The Female Brain (Bộ não nữ giới) (2006) của
Brizendine; Why Gender Matters (Tại sao giới lại là vấn đề) (2005) của Sax.
Qua các kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học theo tiếp cận tâm lý hy
vọng sẽ tạo ra nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần
kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn.
1.2.3. Hướng tiếp cận kinh tế học
Bên cạnh các nhà tâm lý học, các nhà kinh tế học cũng bắt đầu nghiên
cứu về hạnh phúc. Trên thực tế, các nhà triết học và kinh tế học cổ điển như
Aristotle, Bentham, Mill, Smith đã từng đưa vấn đề hạnh phúc vào trong các
công trình nghiên cứu của mình. Kinh tế học về hạnh phúc nhấn mạnh đến
những quan niệm mở rộng về tính thực dụng (utility) và phúc lợi (welfare).
Richard Easterlin, nhà kinh tế học hiện đại, là người đầu tiên trở lại chủ đề
nghiên cứu về hạnh phúc vào những năm 1970. Đến cuối những năm 1990,
nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này đã được các nhà kinh tế khác thực
hiện. Nói đến kinh tế học về hạnh phúc không có nghĩa là cách đo lường phúc
lợi dựa trên thu nhập, mà là cách tiếp cận nhằm đo lường sự mở rộng về chất
lượng cuộc sống con người (wellbeing).
Luận điểm quan trọng của tiếp cận kinh tế trong nghiên cứu hạnh phúc
là: dù những cá nhân là khác nhau nhưng đều có chung mức độ ổn định về
29
hạnh phúc chủ quan. Những sự kiện cuộc sống quan trọng có thể tạo ra sự
phân tán tại thời điểm nhưng ảnh hưởng thường là tạm thời, sau một thời gian
“phân tán”, mọi người lại quay trở về thời điểm trước đây của họ. Khi phân
tích hạnh phúc từ tiếp cận kinh tế, cần phải giải thích mối liên kết ít nhất giữa
bộ ba của các biến số: tính cách ổn định của con người (bao gồm cả những nét
tính cách riêng); các sự kiện đời sống quan trọng, những thang đo của hạnh
phúc chủ quan (sự hài lòng cuộc sống, tác động tích cực); và tình trạng ốm
yếu (lo lắng, thất vọng, tác động tiêu cực). Cách phân tích này rất thuyết phục
vì nó được phát triển trong một kết cấu tích lũy từng tầng lớp chứng minh để
hỗ trợ nó và làm cho nó có vẻ hấp dẫn hơn trong việc giải thích các liên kết
giữa ba bộ biến. Tiếp cận kinh tế học chỉ ra rằng các cá nhân khác nhau về
đường cơ sở hay điểm khởi đầu của hạnh phúc chủ quan một phần do sự khác
biệt về điểm số đặc tính cá nhân ổn định của tinh thần hướng ngoại và thần kinh
nhạy cảm. Những người hướng ngoại đạt điểm hạnh phúc chủ quan cao hơn so
với những người hướng nội và những người tương đối nhạy cảm (dễ bị kích
thích) đạt điểm thấp hơn những cá nhân ổn định về mặt cảm xúc.
Tiếp cận kinh tế học có một ý nghĩa quan trọng khi đưa ra dự báo các
sự kiện cuộc sống sẽ xảy ra trong bất kỳ một khoảng thời gian nhất định của
một người bình thường, sau đó hạnh phúc chủ quan sẽ không thay đổi. Mô
hình này của các kết quả đã giúp đưa ra “mức độ cân bằng” của hạnh phúc và
đau khổ (chứ không phải là “đường cơ sở” hoặc “điểm khởi đầu”) và để nhận
thức tính cách, sự kiện cuộc sống, hạnh phúc và đau khổ như đang được ở
trạng thái cân bằng.
1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
Tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc là một điều khó
khăn bởi bản chất của hạnh phúc là do ý chủ quan của người trả lời. Trong khi
đó, ý chủ quan lại được phát triển và hình thành thông qua trải nghiệm sống
cùng với sự giáo dục và văn hóa. Đôi khi tồn tại sự xung đột giữa quan niệm
30
và hành động. Theo Menis Yousry, quan niệm gồm hai phần: phần thứ nhất là
ý thức hiện tại của chúng ta - chúng ta có thể gọi đây là bản chất của chúng ta
(phần mà chúng ta cũng có thể gọi là trái tim hoặc tiếng nói bên trong, và đây
là bản thân chúng ta) - và phần thứ hai là tính cách của chúng ta, phần mà
chúng ta sử dụng để thể hiện bản thân với thế giới. Hai chiều này của ý thức
có thể xung đột với nhau khi quan niệm của chúng ta thường không phù hợp
với những gì được cho là bản thân chúng ta và cách chúng ta nên hành xử [76,
tr.21]. Khi đề cập tới mâu thuẫn này trong quan niệm về hạnh phúc của phụ
nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, Betty Fridan với công trình nghiên cứu “Bí ẩn nữ tính”
đã tạo nên một bước đột phá mang tính tiên phong về giá trị hạnh phúc của
phụ nữ. Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1963 và được đánh giá là cuốn sách
quan trọng nhất thế kỷ 20. “Bí ẩn nữ tính” phân tích quan niệm, suy nghĩ,
niềm tin ở phụ nữ “rõ đến nỗi mỗi người đều có thể nhận ra mình trong đó…
mọi thứ giữa đàn ông và đàn bà là khác nhau” (Nhận xét của Caroline Birt
trong phần mở đầu của cuốn sách Bí ẩn nữ tính).
Theo quan niệm của phụ nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, hạnh phúc là khi vai trò
bà nội trợ hiện đại được đáp ứng, gồm: làm vợ, làm bồ, làm mẹ, làm y tá,
người tiêu dùng, đầu bếp, lái xe, chuyên gia về trang trí nội thất, chăm trẻ, sửa
thiết bị, làm mới đồ gỗ, dinh dưỡng và giáo dục (13 vai trò) [39, tr.49]. Người
phụ nữ dường như không có bất kỳ một tham vọng nghề nghiệp nào. Quan
niệm của phụ nữ về hạnh phúc lúc bấy giờ là kết hôn và có bốn đứa con. Các
chuyên gia thống kê đặc biệt sửng sốt trước sự gia tăng đột biến số trẻ em.
Thay vì sinh hai con như trước, giờ phụ nữ có bốn, năm, sáu đứa con. Những
người phụ nữ từng muốn theo đuổi nghề nghiệp thì nay biến con cái thành
nghề nghiệp của mình [39, tr.31]. Mơ ước duy nhất của họ là trở thành người
vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn nhất của họ là có năm đứa con và một
ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của họ là làm sao có chồng và giữ được
chồng. Họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng đại. Họ hãnh diện với vai
31
trò phụ nữ của mình và tự hào điền vào chỗ trống trong mục điều tra dân số
cụm từ: “Nghề nghiệp: nội trợ” [39, tr.33].
Câu hỏi đặt ra ở đây là: khi người phụ nữ suy nghĩ theo quan niệm
chung của xã hội về hạnh phúc, liệu họ có quan niệm riêng của họ về hạnh
phúc không? Quan niệm của chính họ về hạnh phúc là gì? Một bà mẹ bốn
con, bỏ học đại học năm 19 tuổi để lấy chồng và “đã thử mọi thứ mà người ta
cho là phụ nữ hay làm – có thú vui riêng, làm vườn, muối dưa, làm đồ hộp,
giao du với hàng xóm, tham gia các ủy ban, tổ chức những buổi tiệc trà bên
Hội phụ huynh… nhưng tôi tuyệt vọng. Tôi bắt đầu thấy mình không có tính
cách. Tôi chỉ là người bưng đồ ăn, mặc quần áo cho bọn trẻ, dọn giường, ai đó
được gọi đến khi muốn có thứ gì đó. Nhưng tôi là ai mới được chứ?” [39,
tr.37]. Rõ ràng người phụ nữ Mỹ giữa thế kỷ 20 đã “bị mắc bẫy” giữa quan
niệm xã hội về “bà nội trợ Mỹ hạnh phúc” với quan niệm của chính bản thân
họ về hạnh phúc.
Vấn đề đặt ra trong cuốn sách của Betty Fridan cho thấy quan niệm
hạnh phúc là một phạm trù không dễ trở thành đối tượng mổ xẻ duy lý và
định lượng của khoa học. Từ trước đến nay, khoa học vẫn thường bất lực
trước sự biến thiên phức tạp của đối tượng này. Thật khó để hiểu thế nào là
hạnh phúc. Định lượng được nó qua các phân tích khoa học chính xác lại càng
khó hơn. Nhưng chẳng lẽ khoa học, đặc biệt các khoa học chính xác và thực
nghiệm lại không giúp được gì để con người có thể hiểu hạnh phúc một cách
dễ dàng hơn. Ý tưởng này không được các nhà triết học và thần học hưởng
ứng. Nhưng nó lại thôi thúc các nhà tâm lý học, các chuyên gia khoa học xã
hội và thậm chí cả các nhà toán học... bất chấp thất bại, nhẫn nại nghiên cứu
và thể nghiệm [54].
Vấn đề là ở chỗ, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc dẫu phức
tạp thế nào cũng không thể tách rời khỏi bối cảnh xã hội và những đặc điểm
cá nhân của chính người phụ nữ đó. Và như thế thì quan niệm hạnh phúc của
32
người phụ nữ không phải là một đại lượng trừu tượng. Với cách tiếp cận khoa
học phù hợp, ta có thể tìm hiểu và định lượng được nó một cách cụ thể. Đi
theo hướng này, luận án bắt đầu thử nghiệm tìm hiểu quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
Như đã đề cập ở phần đôi nét về nguồn tài liệu: muốn hiểu rõ được
quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, tất yếu phải so
sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó.
Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, luận án chia làm 04 giai đoạn: đầu
thế kỷ 20 đến 1945; từ 1946 - 1954; từ 1955 đến 1975; từ 1976 đến nay.
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đầu thế kỷ 20 đến 1945
Những biến chuyển về bối cảnh kinh tế xã hội giai đoạn này tác động
trực tiếp tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Việc mở riêng các
trường nữ học cho nữ thanh niên đã định hướng quan niệm về hạnh phúc.
Theo quan niệm của một bộ phận phụ nữ cấp tiến lúc bấy giờ: hạnh phúc là có
học hành, có nghề nghiệp, có ý chí tự lập và tự chủ về kinh tế. Phụ nữ được
cổ vũ học hành để nâng cao kiến thức, tập thể dục để nâng cao sức khoẻ, và
có nghề nghiệp để tự chủ cuộc sống. Trên các tờ báo thời bấy giờ, có thể bắt
gặp những khẩu hiện như “Chị em ta đừng ăn bám chồng con nữa” (Phương
Lan, Phụ nữ Tân Văn số 64, tr.5). Hạnh phúc là khi phụ nữ được nhìn nhận và
tôn trọng: “phụ nữ biết khuyên chồng, dạy con nên người hữu ích cho xã hội,
biết lo về nghề nghiệp để gia đình được sung túc, đất nước được thịnh vượng,
thì ấy là quốc sự” (Cái chức vụ của phụ nữ trong các kỳ tuyển cử, Phụ nữ Tân
Văn, số 4, tr.5). Theo ghi chép “Hồ sơ Guermut” của phái bộ điều tra do
chính phủ Pháp phái sang thuộc địa, ở mục “điều kiện của đàn bà và trẻ con”
thể hiện rõ quan niệm hạnh phúc của phụ nữ: có quyền đối với tài sản do
mình làm ra, đi học tại trường thực nghiệm cho con gái, có nơi tìm việc làm
dành riêng cho phụ nữ, luật lao động được thi hành nghiêm túc, được đảm bảo
quyền nghỉ ngơi khi sinh nở, quyền ly dị khi chồng ngoại tình…
Tuy nhiên, quan niệm hạnh phúc trên mang tính “hình mẫu” của một
cuộc đấu tranh ý thức hệ nhiều hơn là trên thực tế. Đó là quan niệm của phụ
33
nữ tầng lớp thị dân và trí thức. Xét trên diện rộng toàn xã hội, các lề thói cũ
đạo lý Khổng Mạnh vẫn được duy trì. Vai trò của gia tộc can thiệp khá sâu
vào đời sống cá nhân và người phụ nữ cũng không nằm ngoài quy luật này.
Hạnh phúc trong quan niệm của người phụ nữ giai đoạn này không phải là
hạnh phúc cá nhân mà là hạnh phúc của gia tộc, là việc duy trì truyền thống
danh giá của dòng họ [48].
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1946 - 1954
Giai đoạn này là thời kỳ đất nước đối mặt với vô vàn khó khăn thách
thức do tình trạng thù trong giặc ngoài. Không khí kháng chiến, đánh giặc giữ
nước, bảo vệ tự do dân tộc là mục tiêu, là mong muốn của mỗi cá nhân, mỗi
gia đình. Với người phụ nữ, hạnh phúc trong giai đoạn này là có chồng đi
kháng chiến và gánh vác các công việc ở hậu phương. Phụ nữ làm tất cả các
công việc của nghề nông thay thế cho nam giới. Phụ nữ tham gia công an xã,
dân quân, hoặc trở thành đội trưởng, đội phó sản xuất. Rất nhiều phòng trào
được phát động: “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, “Phụ nữ học
cày, học bừa”, “Chống bắt lính”, “Tầm vông diệt giặc”, “đòn gánh đánh càn”.
Có thể nói, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc bị ảnh hưởng sâu sắc
bởi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Hình ảnh một người phụ nữ
hạnh phúc là đảm đang, thủy chung, hiếu thuận và yêu nước. Hạnh phúc là
được tuyên dương, khen thưởng vì lao động giỏi [92].
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1955 - 1975
Trong giai đoạn này, nền kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của miền
Bắc có sự biến đổi sâu sắc. Xu hướng xây dựng và nhịp điệu biến đổi ở miền
Bắc luôn luôn bị chi phối bởi sự nghiệp chống Mỹ сứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trong
giai đoạn này là đảm đang các công việc gia đình và tích cực tham gia công
tác chính trị - xã hội.
34
Trong gia đình, người phụ nữ đảm nhiệm vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế. Nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đã miêu tả sinh động hoạt động
kinh tế của người phụ nữ như sau: “Trên đám ruộng của người tiểu nông họ
trồng đủ các thứ lúa, khoai, vừng, lạc, đậu. Trong thửa vườn nho nhỏ mùa nào
thứ ấy, mỗi thứ một tý. Có chuồng gia súc với trâu bò, lợn và có sân gia cầm:
gà, vịt, ngỗng, ngan,… Ngoài ra lại có khung cửi để dệt vải lụa. Nghĩa là
trong kinh tế gia đình chúng ta thấy đủ các thành phần của nền kinh tế toàn
quốc: có cây công nghiệp như thầu dầu, vừng, lạc, đậu,… và cây lương thực;
có chăn nuôi gia súc và gia cầm; có ao chuôm thả cá, thả bèo, thả rau muống;
có thủ công nghiệp - nghề phụ của người dân” [91, tr.481]. Ngoài xã hội,
người phụ nữ tham gia tích cực các hoạt động từ cấp cơ sở đến cấp trung
ương… Trên báo Phụ nữ Việt Nam thời kỳ này đăng tải rất nhiều tấm gương
điển hình phụ nữ trong mọi lĩnh vực của hợp tác hóa nông nghiệp, Ví dụ:
“Hàng năm, hàng nghìn kiện tướng làm phân, làm thủy lợi đã chiếm những kỷ
lục cao nhất như Nguyễn Thị Hoàn, Cao Thị Min, Phùng Thị Thử, Phạm Thị
Ngoãn,v.v…” (15 năm phấn đấu thực hiện và bạo vệ quyền nam nữ bình
đẳng. Báo PNVN, số 84, tháng 9/1960).
Có thể nói, thời kỳ này, quan niệm hạnh phúc được định hướng bởi
nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa. Mô hình “gia đình dân chủ, hòa thuận và
hạnh phúc”, hay mô hình gia đình mới, gia đình xã hội xã hội chủ nghĩa đã
được nhà nước chủ trương xây dựng và tuyên truyền phát động khá sâu rộng
như là mô hình gia đình lý tưởng để hướng tới [89]. Và mô hình này cũng
định hướng quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1976 - nay
Đây là giai đoạn nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất, bước vào
thời kỳ đổi mới tư duy về mọi mặt. Nền kinh tế phát triển đã tạo ra giá đỡ vật
chất cho những biến đổi xã hội, trong đó có biến đổi cơ cấu xã hội, biến đổi
giá trị xã hội. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Ủy, quan niệm của
35
người phụ nữ về hạnh phúc không gắn với tiền bạc mà nghiêng nhiều hơn về
gia đình. Do đó, phụ nữ luôn hạnh phúc hơn nam giới. Tác giả luận giải điều
này từ văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là: nữ
giới thường an phận hơn, hạnh phúc của họ không gắn liền với tiền bạc và
kinh tế nên ít bị ảnh hưởng bởi các suy thoái kinh tế và cảm thấy hạnh phúc
hơn [113, tr.37].
Trái ngược với kết quả này, điều tra của Công ty Nghiên cứu thị
trường Nielsen lại chỉ ra rằng phụ nữ Việt Nam kém hạnh phúc hơn nam
giới. Trong 51 quốc gia tham gia điều tra, chỉ có 3 quốc gia có thực tế này
là Việt Nam, Brazil và Nam Phi. Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh
phúc là khi họ có những mối quan hệ tích cực và ba mối quan hệ quan
trọng là: mối quan hệ với bạn bè, mối quan hệ với con cái và mối quan hệ
với đồng nghiệp và lãnh đạo [127].
Trên đây là kết quả rất khác biệt của hai điều tra có quy mô lớn đề cập
tới quan niệm về hạnh phúc. Sự khác biệt có thể do thời điểm điều tra khác
nhau hoặc do lựa chọn mẫu nghiên cứu khác nhau.
Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa, xã
hội Việt Nam đang có biến chuyển sâu sắc, dẫn theo đó là những biến đổi
trong hệ giá trị. Cuộc sống vật chất của con người ngày một nâng cao và điều
này ảnh hưởng như thế nào tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc?
Những bài viết trên báo chí đã đưa ra một thực trạng: quan niệm kiểu “hạnh
phúc là một tấm chăn hẹp” hay “chỉ có hạnh phúc khi có tiền”, “hạnh phúc
của người này là khổ đau của người kia”… đang dần len lỏi vào suy nghĩ của
một bộ phận người dân. Những yếu tố cốt yếu tạo nên hạnh phúc của người
phụ nữ trong truyền thống như sự hy sinh, nhường nhịn, chung thủy, lòng
khoan dung…có thể không còn là những giá trị quan trọng trong suy nghĩ của
một bộ phận phụ nữ hiện nay.
36
Việc các kết quả nghiên cứu khác nhau và sự biến đổi trong quan niệm
về hạnh phúc đã cho thấy sự cần thiết có một nghiên cứu cụ thể về quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Trên thực tế, người phụ nữ quan niệm như
thế nào về hạnh phúc? Đây là câu hỏi sẽ được giải đáp trong luận án.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc
1.4.1 Mức sống và hạnh phúc
Xưa nay, hầu hết các lý thuyết đạo đức xã hội thường nói rằng, tiền bạc
gần như không có liên hệ nhân quả nào với hạnh phúc. Tuy nhiên, các nhà
khoa học đã cố gắng tìm hiểu mối quan hệ này và kết quả cũng rất khác biệt.
Nhà xã hội học Glenn Firebaugh, Đại học Pennsylvama and Laura
Tach, Đại học Harvard (Mỹ) đã nghiên cứu về vấn đề này và rút ra kết luận:
hạnh phúc là khi có tiền nhưng với điều kiện người kiếm ra tiền phải cảm thấy
họ kiếm được nhiều hơn những người quanh họ. Cũng cho kết quả tương sự là
nghiên cứu của Edward Diener, nhà tâm lý học Đại học lninois (Mỹ). Diener
kết luận, sẽ là không đúng nếu nói hạnh phúc không cần đến tiền bạc nhưng
mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp. Quan niệm hạnh phúc là khi có tiền tồn
tại tương đối phổ biến. Dẫn chứng là nhóm người giàu thường có tỉ lệ hài
lòng với cuộc sống cao hơn nhiều so với nhóm người nghèo. Hiện tượng này
đúng cho cả những nước giàu và những nước nghèo. Chuyên gia kinh tế
Andrew Oswald của Đại học Warwick (Anh) cũng đồng ý với Edward Diener
khi nghiên cứu một nhóm người trúng xổ số từ 2.000 USD đến 250.000 USD.
Kết quả chỉ ra là mức độ hài lòng với cuộc sống của nhóm người này tăng so
với hai năm trước khi họ trúng số. Và mức độ hài lòng tăng tỷ lệ thuận với
mức thưởng: trúng thưởng càng lớn người trúng thưởng càng hài lòng hơn với
cuộc sống của mình [53].
Các nghiên cứu ở Châu Mỹ La tinh cũng cho thấy bất bình đẳng thu
nhập có tác động tiêu cực đến cảm nhận hạnh phúc của người nghèo và có tác
37
động tích cực đến người giàu. Ở khu vực mà bất bình đẳng lớn và những thiết
chế công cũng như thị trường lao động không hiệu quả thì bất bình đẳng là
biểu hiện của những ưu thế hoặc yếu thế kéo dài chứ không phải là cơ hội và
tính cơ động của các nhóm. Tình trạng mất quyền và nghèo khổ thường
không thể làm cho người ta hạnh phúc [26].
Tuy nhiên, Daniel Kahneman, người nhận giải Nobel kinh tế năm 2002,
cùng các đồng nghiệp ở Đại học Princeton, Mỹ lại thu được kết quả khác và
đưa ra phát hiện mới khi nghiên cứu mối liên hệ giữa hạnh phúc và thu nhập
của các hộ gia đình. Trước tiên, nghiên cứu của Daniel Kahneman xác nhận là
tỷ lệ hạnh phúc ở những gia đình có thu nhập trên 90.000 USD cao gấp đôi
những gia đình có thu nhập dưới 20.000 USD. Nhưng số liệu cho thấy hầu
như không có sự khác biệt nào về hạnh phúc giữa nhóm gia đình có thu nhập
trên 90.000 USD với nhóm có thu nhập từ 50.000 đến 90.000 USD. Daniel
Kahneman kết luận: quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc rất mờ nhạt và quan
niệm “hạnh phúc là khi có tiền” không có cơ sở rõ ràng. Không phải ngẫu
nhiên mà các tư tưởng gia thường khuyên con người không nên lấy tiền bạc
làm thước đo hạnh phúc [53].
Đồng quan điểm với Daniel Kahneman, các nhà nghiên cứu hạnh phúc
theo tiếp cận kinh tế học cho rằng: người nghèo vẫn có thể có hạnh phúc và
người giàu chưa hẳn đã có hạnh phúc; một quốc gia giàu có chưa hẳn là một
quốc gia có nhiều người hạnh phúc hơn một quốc gia kém giàu có hơn. Vì
người nghèo có ít nhu cầu hơn nên họ có thể dễ thỏa mãn hơn và do đó cũng
dễ cảm thấy hạnh phúc hơn khi đạt được các nhu cầu cơ bản và tất yếu. Người
nghèo thì thoát nghèo là hạnh phúc, trong khi người giàu lại lo chất lượng
cuộc sống bị suy giảm [4].
Ở nghiên cứu đầu tiên của mình, Easterlin chỉ ra một nghịch lý vẫn
chưa có lời giải đáp. Khi hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc đều cho kết
quả là trong mỗi quốc gia, những người giàu có hạnh phúc hơn những người
38
nghèo, thì các nghiên cứu về hạnh phúc giữa các quốc gia và theo thời gian
khác nhau lại cho thấy rất ít mối liên hệ nếu có giữa tăng thu nhập bình quân
đầu người với mức độ hạnh phúc [26]. Nhìn chung, ở các nước giàu có hơn
thì người dân ở đó sẽ hạnh phúc hơn, nhưng hạnh phúc dường như chỉ tăng
theo mức tăng thu nhập đến một điểm nhất định và không vượt qua điểm mốc
đó. Ngay cả giữa các quốc gia nghèo hơn và kém hạnh phúc hơn thì mối quan
hệ giữa thu nhập trung bình và mức hạnh phúc trung bình cũng không rõ ràng.
Khi nghiên cứu về hạnh phúc ở các nước Châu Á, yếu tố thu nhập cũng
là một trong những yếu tố chủ điểm. Có hai luồng tranh luận về sự cần thiết
nghiên cứu mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc. Quan điểm thứ nhất, ví
dụ quan điểm của Doh Chull Shin [49], nghiên cứu hạnh phúc cần thoát ly
khỏi yếu tố thu nhập bởi kinh nghiệm nghiên cứu hạnh phúc ở những quốc
gia Nho giáo (trong đó có Việt Nam) cho thấy, nhiều người vẫn còn chịu chi
phối bởi văn hóa Nho giáo truyền thống nên lo ngại rằng nếu phát biểu những
quan niệm gắn liền với vật chất có thể bị coi là người dung tục, tầm thường.
Quan điểm thứ hai cởi mở, cân bằng hơn khi coi thu nhập là một trong những
yếu tố tạo nên hạnh phúc. Ví dụ: Frijters, Haisken-DeNew & Shields (2004)
đã ghi nhận rằng sự tăng lên của thu nhập dẫn tới hạnh phúc cao hơn. Hay
nghiên cứu của Stevenson, B. and J.Wolfers (2008) cho thấy thu nhập rất
quan trọng bởi nó định hướng mức sống và khả năng tiêu dùng - những yếu tố
tiền đề của hạnh phúc. Những kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa mức
sống và hạnh phúc gợi ra rằng: trong quan niệm về hạnh phúc, tiền chỉ là một
yếu tố, chắc chắn còn có những yếu tố khác nữa.
1.4.2 Tình trạng hôn nhân và hạnh phúc
Người phụ nữ có quan niệm hạnh phúc là phải kết hôn? Một số
nghiên cứu đã đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này. Nghiên cứu của Carol
Graham, Soumya Chattopadhyay thực hiện năm 2012 cho thấy có mối liên hệ
giữa hạnh phúc và tình trạng hôn nhân. Nhìn chung, những người đã kết hôn
cảm thấy hạnh phúc hơn những người không kết hôn. Những người trẻ đã kết
39
hôn (trong độ tuổi từ 15-40) ít hạnh phúc hơn mức trung bình, trong khi đó,
những người trên 40 tuổi đã kết hôn hạnh phúc hơn mức trung bình. Cùng với
đó, những người đã kết hôn ở khu vực đô thị hạnh phúc hơn mức trung bình.
Tuy vậy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ hạnh phúc giữa
những người kết hôn và không kết hôn ở khu vực nông thôn [3].
Một nghiên cứu cũng bàn nhiều tới các yếu tố tạo nên hạnh phúc một
cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull Shin
(người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri, Columbia,
Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004) thu thập
được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn Quốc,
Singapo, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích mức độ
hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn nhân (sự
ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới là yếu tố đem lại hạnh
phúc và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7 quốc gia nho giáo
kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi lên là các quốc gia
hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở các tốp sau, vì chịu
nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân. Về xếp hạng khu vực,
đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc hơn bất hạnh nhưng đa số
người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49].
Mối quan hệ giữa hôn nhân và hạnh phúc là mối quan hệ rất đặc biệt.
Nếu hôn nhân là chỉ báo cao nhất thể hiện hạnh phúc gia đình thì ly hôn lại là
chỉ báo thể hiện sự thất vọng về hạnh phúc gia đình ở mức độ cao. Trong
quan niệm của người phụ nữ, hôn nhân đem tới hạnh phúc nhưng các vấn đề
trong hôn nhân như bạo lực, căng thẳng… lại có tác động rất tiêu cực đến tình
trạng sức khỏe thể chất và tinh thần cũng như cảm nhận hạnh phúc của phụ
nữ đó. Thậm chí làm gia tăng tỷ lệ tự tử, trầm cảm, nghiện rượu và nhiều tệ
nạn xã hội khác…
40
1.4.3 Mức gắn kết vợ chồng và hạnh phúc
Theo tác giả Moos, R. and Moos, B.S. (1994) khái niệm gắn kết là
“mức độ cam kết, giúp đỡ và hỗ trợ mà các thành viên trong gia đình dành
cho nhau” [trích theo 20, tr.6]. Trong đó, những cam kết về vai trò trách
nhiệm có tác động rất quan trọng tới quan niệm và cảm nhận hạnh phúc của
người phụ nữ.
Sự gắn kết vợ chồng có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc. Hai vợ chồng dành cho nhau những lời khen,
thường xuyên biểu lộ tình yêu, tạo cơ hội gặp nhau ngay cả khi giải quyết
mâu thuẫn (tránh giải quyết qua tin nhắn), mềm dẻo trong giải quyết vấn đề
và đôi khi cần sự tức giận (“Angry but honest conversations”) - có thể tức
giận nhưng trung thực rất có ích cho việc đem lại hạnh phúc lâu dài. Khi nói
lên sự thật, sẽ dễ tha thứ và quên. Hơn thế nữa, khi nói rõ ràng về sự tức giận
có vai trò rất quan trọng. Nó như một dấu hiệu để người bạn đời biết rằng
hành vi đó là không được chấp nhận, qua đó mỗi cá nhân sẽ tự điều chỉnh
hành vi [23].
Một số nghiên cứu cho thấy quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
bị ảnh hưởng bởi khuôn mẫu giới trong gia đình. Với người phụ nữ, hạnh
phúc là khi có người chồng làm chỗ dựa về kinh tế. Cả hai vợ chồng đều kiếm
được tiền càng tốt nhưng để hạnh phúc, nhất định vợ không nên kiếm tiền
nhiều hơn chồng. Khi người chồng khẳng định được vai trò “công cụ” của
mình thì khi đó, hạnh phúc của người phụ nữ là “giữ lửa” cho gia đình. Người
phụ nữ sẽ không mong gì hơn là gia đình hoà thuận, các quan hệ nội ngoại ôn
hoà. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hạnh phúc và tình trạng kinh tế của người
chồng là thay đổi theo thời gian. Năm 1950, với người phụ nữ, hạnh phúc là
có người chồng có tình trạng và năng lực nghề nghiệp cao hơn mình. Đến
cuối năm 1970, kết quả nghiên cứu cho thấy hạnh phúc là khi chồng - vợ có
tình trạng kinh tế xã hội tương đương nhau [2].
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc
Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc

More Related Content

What's hot

XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ nataliej4
 
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viec
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viecQuan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viec
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viecjangvi
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852KimBumt1
 
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuan van Viet
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂM
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂMLuận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂM
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂMViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAYLuận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.An Tran
 

What's hot (20)

Luận văn: Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPTLuận văn: Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viec
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viecQuan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viec
Quan tri nhan su - De tai: Hop nhap vao moi truong lam viec
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
 
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Luận văn: Công tác đối với bệnh nhân bị bạo lực học đường, HAY
Luận văn: Công tác đối với bệnh nhân bị bạo lực học đường, HAYLuận văn: Công tác đối với bệnh nhân bị bạo lực học đường, HAY
Luận văn: Công tác đối với bệnh nhân bị bạo lực học đường, HAY
 
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂM
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂMLuận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂM
Luận văn: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ , 9 ĐIỂM
 
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...
Báo cáo thực tập Quản trị nguồn nhân lực tại ngân hàng điểm cao - sdt/ ZALO 0...
 
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAYLuận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Nâng cao sự hài lòng của khách hàng tại ngân hàng, HAY
 
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
TLH.TL.Tâm lý học giáo dục đạo đức.
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinhKhó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
 
Luận án: Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở tại TPHCM
Luận án: Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở tại TPHCMLuận án: Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở tại TPHCM
Luận án: Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở tại TPHCM
 
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAYLuận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
 
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Giao thông thủy bộ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Giao thông thủy bộLuận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Giao thông thủy bộ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Giao thông thủy bộ
 

Similar to Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc

LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...HanaTiti
 
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...nataliej4
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Phật Ngôn
 
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửTriết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửMan_Ebook
 
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH nataliej4
 
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdf
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdfQUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdf
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdfNuioKila
 
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdf
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdfVẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdf
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdfHanaTiti
 

Similar to Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc (20)

LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KI...
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
 
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
 
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...
CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG BÀ MẸ CÔNG NHÂN ĐƠN THÂN Ở CÁC KHU CƠNG NGHIỆP NHÌN TỪ GĨ...
 
Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp
Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệpCuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp
Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAYLuận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam sau 1986
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam sau 1986Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam sau 1986
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam sau 1986
 
Xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nay
Xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nayXung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nay
Xung đột văn hóa trong tiểu thuyết viết về nông thôn từ 1986 đến nay
 
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
Xây Dựng hạnh phúc gia đình (Thích Thắng Hoan)
 
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửTriết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
 
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
 
Luận án: Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại, HAY
Luận án: Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại, HAYLuận án: Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại, HAY
Luận án: Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại, HAY
 
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
 
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdf
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdfQUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdf
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC CỦA SINH VIÊN TẠI HÀ NỘI 6274568.pdf
 
Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx
Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docxCơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx
Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx
 
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdf
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdfVẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdf
VẤN ĐỀ CÔNG LÝ TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CỦA JOHN RAWLS.pdf
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Tình dục học
Tình dục họcTình dục học
Tình dục học
 
Tiểu luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.doc
Tiểu luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.docTiểu luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.doc
Tiểu luận về gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.doc
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdflevanthu03031984
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh Anlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpaminh0502
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haingTonH1
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxGingvin36HC
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 

Luận án: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HẠNH PHÚC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Hà Nội - 2019
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HẠNH PHÚC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Mã số: 62 31 03 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Lê Ngọc Văn 2. TS. Hà Việt Hùng Hà Nội - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Bùi Thị Hương Trầm
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 20 1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu .................................................................20 1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc ............................................25 1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc ...................................29 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc 36 1.5. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án .....................44 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ................... 52 2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................52 2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................64 Chương 3: QUAN NIỆM CHUNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC .. 79 3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên ....79 3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội ..................81 3.3. Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân ................................84 3.4. Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc ..............86 Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC ...........................................................................................95 4.1. Khu vực sống và quan niệm hạnh phúc ..........................................95 4.2. Nhóm tuổi và quan niệm hạnh phúc ...............................................97 4.3. Tôn giáo và quan niệm hạnh phúc ................................................100 4.4. Dân tộc và quan niệm hạnh phúc ..................................................103 4.5. Mức sống và quan niệm hạnh phúc ..............................................108 Chương 5: ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC ..........................................................................................113 5.1. Tình trạng hôn nhân và quan niệm hạnh phúc ..............................113 5.2. Độ dài hôn nhân và quan niệm hạnh phúc ....................................118 5.3. Đặc điểm hôn nhân, đặc điểm cá nhân và quan niệm hạnh phúc..129 KẾT LUẬN .....................................................................................................................137 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .......144 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................146 PHỤ LỤC ........................................................................................................................157
  • 5. DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 1: Thông tin người trả lời 14 Bảng 2: Phân bố mẫu phỏng vấn sâu 17 Bảng 3.1:Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời 79 Bảng 3.2: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời 82 Bảng 3.3: Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời 84 Bảng 4.1: Quan niệm hạnh phúc theo nhóm nông thôn - đô thị 96 Bảng 4.2: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tuổi 98 Bảng 4.3: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tôn giáo 101 Bảng 4.4: Quan niệm về hạnh phúc theo dân tộc 105 Bảng 4.5: Quan niệm về hạnh phúc theo mức sống 109 Bảng 5.1: Quan niệm về hạnh phúc theo tình trạng hôn nhân 114 Bảng 5.2: Quan niệm hạnh phúc theo độ dài hôn nhân 119 Bảng 5.3: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên 127 Bảng 5.4: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội 130 Bảng 5.5: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực đời sống cá nhân 132
  • 6. DANH MỤC BIỂU Trang Biểu 3.1: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc 87 Biểu 3.2: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc chia theo giới tính 92 Hộp: Quan niệm hạnh phúc thay đổi theo giai đoạn phát triển của gia đình 123
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Không có vấn đề gì liên quan đến nhân loại mà không liên quan đến phụ nữ. Hạnh phúc không phải là một ngoại lệ. Ở Việt Nam và trên thế giới, từ trước đến nay mặc dù có rất ít công trình nghiên cứu riêng biệt liên quan đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc, nhưng đã có khá nhiều tranh luận. Đáng tiếc, những tranh luận đó lúc đầu phần lớn là ý kiến của đàn ông. Họ đưa ra và ấn định những giá trị, chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử, vai trò đặc trưng cho phụ nữ và nam giới. Trải qua những thời kỳ lịch sử rất lâu dài của các hình thái kinh tế - xã hội tiền công nghiệp hóa, cho đến trước các cuộc cách mạng về công nghiệp, nữ tính và nam tính là điều không một ai nghi ngờ. Nó chi phối quan niệm về hạnh phúc gắn liền với phẩm chất giới tính mà xã hội gán cho họ. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc chỉ thật sự thay đổi khi chính phụ nữ nhận thức lại về cái gọi là “nữ tính” của mình từ các làn sóng nữ quyền do phụ nữ khởi xướng, bắt đầu từ làn sóng nữ quyền thứ nhất cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, xuất hiện ở nước Anh và phát triển mạnh ở Mỹ, đến làn sóng nữ quyền thứ hai những năm 1960 - 1970 của thế kỷ XX, phát triển ở Anh, Mỹ sang các nước phương Tây, và làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu từ những năm 1980 lan rộng ra toàn cầu. Kể từ đây, quan niệm về hạnh phúc trở thành cuộc tranh luận của hai giới chứ không còn là sự áp đặt của đàn ông. Có thể nhận thấy trong xã hội Việt Nam truyền thống, hạnh phúc từ quan niệm của người phụ nữ về căn bản hầu như không mang mầu sắc cá nhân mà gắn liền với hạnh phúc của gia đình, cộng đồng. Ngay cả những việc riêng tư liên quan trực tiếp đến đời sống cá nhân của mình như chuyện hôn nhân, người phụ nữ cũng tùy thuộc vào sự định đoạt của người khác. Nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ gọi đó là những cuộc hôn nhân “phi cá nhân”. Ông viết:
  • 8. 2 “Đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam truyền thống là tính chất phi cá nhân, nghĩa là không chỉ là việc riêng tư của hai người nam nữ tự nguyện đến với nhau trên cơ sở gắn bó tình cảm và giao kết xã hội. Đó là một công việc dân sự được dàn xếp “theo quy ước” của tập thể, có ý kiến và sự công nhận của cộng đồng (cha mẹ, gia đình, họ hàng, làng xóm)” [84, tr.162]. Chính vì không có quyền quyết định hạnh phúc của mình cho nên trong hôn nhân, người phụ nữ chỉ còn biết trông chờ vào sự may rủi và tin vào duyên số: “Thân em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?; Thân em như giếng giữa đàng/Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”; Thân em như hạt mưa sa/Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày (Ca dao) [124, tr.223] Khi đã lấy chồng, người phụ nữ tiếp tục phụ thuộc vào chồng và gia đình nhà chồng. Họ quan niệm hạnh phúc gắn liền với việc thực hiện tốt nhất và đẩy đủ nhất vai trò, bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu trong gia đình theo những chuẩn mực và mong đợi của người khác. Trong suốt cuộc đời của mình, phụ nữ là người lao động, người nội trợ, chăm sóc gia đình, hy sinh cho chồng con và gia đình nhà chồng. Hạnh phúc của họ là lấy chồng, có nhiều con, yêu chồng, thương con, nghe theo lời dạy bảo của chồng, cha mẹ chồng và “gánh vác giang sơn nhà chồng”. Liệu đây có phải là một “bí ẩn nữ tính” của người phụ nữ? Bởi vì dường như không phải chỉ có người phụ nữ Việt Nam truyền thống coi gia đình, chồng con là niềm hạnh phúc duy nhất của mình mà hàng triệu cô gái Mỹ vào các thập niên 50-60 của thế kỷ XX cũng ước mơ trở thành “bà nội trợ”. Betty Friedan, người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn nữ tính” xuất bản lần đầu tiên ở Mỹ năm 1963 đã viết: “Mơ ước duy nhất của họ [những người phụ nữ Mỹ] là trở thành người vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn nhất của họ là có năm đứa con và một ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của họ là làm sao có chồng và giữ được chồng. Họ không nghĩ tới các vấn đề phi nữ tính của thế giới bên ngoài nhà; họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng
  • 9. 3 đại. Họ hãnh diện với vai trò phụ nữ của mình, và tự hào điền vào chỗ trống trong mục điều tra dân số cụm từ: “Nghệ nghiệp: nội trợ” [39, tr.33]. Thực tiễn này đã và đang gây ra những tranh luận cả trong đời sống và trong khoa học xung quanh quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trong nhiều thập kỷ đã qua, về mặt lý thuyết ít nhất chúng ta đã chứng kiến hai trường phái đối lập nhau. Đó là trường phái chức năng và trường phái nữ quyền. Trường phái chức năng (đại diện là T. Parsons) cho rằng, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc gắn liền với bản năng giới tính của họ. Các nhà chức năng luận sáng tạo ra một thuật ngữ, một khái niệm phù hợp với luận điểm này, đó là “thiên chức của người phụ nữ”. Theo đó, bản tính tự nhiên của phụ nữ là sinh đẻ, nuôi con, làm việc nhà, và với họ hạnh phúc là khi có chồng, có con và làm tốt tất cả những công việc trong phạm vi gia đình. Hạnh phúc của người phụ nữ là “hạnh phúc của bà nội trợ”. Ngược lại, bản tính tự nhiên của người đàn ông là hoạt động bên ngoài xã hội, và người đàn ông chỉ cảm thấy hạnh phúc khi tạo dựng nên sư nghiệp cho bản thân và kiếm tiền nuôi sống vợ con, gia đình. Phụ nữ và nam giới có vai trò khác nhau nhưng “bổ sung” cho nhau. Sự kết hợp giữa nam và nữ, vợ và chồng tạo nên một gia đình hoàn hảo, ở đó người chồng đóng vai trò “công cụ”, người vợ đóng vai trò “biểu cảm” (T. Parons). Quan niệm này đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử, tạo nên những giá trị và khuôn mẫu ứng xử vững bền được cả người dân và người lãnh đạo xã hội đồng tình. Nó chính là cơ sở xã hội để hình thành nên quan điểm chức năng luận trong lý thuyết xã hội học về vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Quan niệm chức năng luận này không hề bị thách thức gì trong các xã hội nông nghiệp châu Á và cả xã hội phương Tây trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa (trong đó có nước Mỹ). Nhưng với quá trình công nghiệp hóa, nhiều giá trị nhân văn mới về tự do, dân chủ, bình đẳng, về quyền con người đã hình thành trong lòng các nước phương Tây. Đây là cơ sở xã hội
  • 10. 4 để hình thành trường phải nữ quyền thay đổi quan niệm về hạnh phúc của người phụ nữ. Người ta xem xét lại cái gọi là “thiên chức giới tính của phụ nữ”. Các nhà nữ quyền là những người đầu tiên lên tiếng về sự không thỏa đáng của khái niệm này. Đối với các nhà nữ quyền, nữ tính không bao gồm tất cả những vai trò mà xã hội gán cho người phụ nữ ngoài hai đặc điểm không thay đổi là sinh đẻ và cho con bú. Những vai trò còn lại như làm việc nhà, chăm sóc trẻ em, người già, người ốm… là những công việc mà cả phụ nữ và nam giới đều có thể làm được và có thể chuyển hóa cho nhau tùy hoàn cảnh. Kết quả nghiên cứu của các nhà nữ quyền về đời sống gia đình ở Mỹ và các nước phương tây khác đã đưa ra những kết luận ngược lại với quan điểm chức năng về cảm nhận của người phụ nữ đối với công việc nội trợ trong gia đình. Đó không phải là cảm nhận hạnh phúc như người ta gán cho họ mà là sự buồn chán khi phải nuôi con nhỏ, làm việc nhà, đó là cảm giác bị cầm tù khi chỉ sống quanh quẩn trong bốn bức tường của ngôi nhà với những công việc lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác. Gavron, H. (1966) đã sử dụng khái niệm “người vợ bị giam cầm” để mô tả và phân tích những người mẹ trẻ thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động cảm nhận về sự bất hạnh của mình trong hôn nhân. Tác giả đi đến kết luận rằng, mặc dù có một số cặp vợ chồng trẻ chia sẻ công việc gia đình (đó là loại gia đình mà sau này Young và Willmott (1975) gọi là “gia đình đối xứng -symmetrical family”, còn lại hầu hết những người vợ khác cảm thấy hôn nhân là một thứ cạm bẫy (traped) và là nơi bị giam hãm (imprisoned) dẫn theo Lê Ngọc Văn [66]. Ngày nay quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có nhiều thay đổi, nhưng cuộc tranh luận về hạnh phúc vẫn còn tiếp diễn trên phạm vi toàn thế giới, từ các nước phương Tây sang các nước phương Đông, từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Các nước Phương Tây đã có lịch sử nghiên cứu 50 năm về phụ nữ và hạnh phúc và đã đạt được các bước đi dài. Ở Việt Nam, cuộc tranh luận này dường như chỉ mới bắt đầu. Hơn thế nữa, những quan niệm khác nhau về hạnh phúc không dừng lại ở phạm vi các
  • 11. 5 “tranh luận” mà quan trọng hơn, nó được thể hiện bằng các hành động trong đời sống thực tiễn. Nhìn lại các nghiên cứu về phụ nữ, ta sẽ không xa lạ gì với những nghiên cứu về sự bất hạnh như ly hôn, bạo lực, bất bình đẳng, trầm cảm... Những nghiên cứu về hạnh phúc lại ít nhiều bị thờ ơ. Con người thường dễ kể về những căng thẳng, đau khổ, lo lắng hơn là chia sẻ cách họ thụ hưởng hạnh phúc như thế nào. Nói chung, con người trải nghiệm các cảm giác tiêu cực một cách sẵn sàng và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Dường như, chiến lược tồn tại của con người thường là hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là tìm kiếm hạnh phúc. Rất khó để tìm thấy một tiêu đề hay một tên đề tài trọn vẹn cho một nghiên cứu riêng về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Có lẽ quan điểm “phi cá nhân” về hạnh phúc đã chi phối chủ đề nghiên cứu này? Điểm qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc, có thể thấy một xu hướng nổi bật là quan niệm hạnh phúc chỉ được đề cập đến trong các chủ đề về hạnh phúc gia đình, cộng đồng và xã hội. Chẳng hạn, Ở Việt Nam, xuất hiện các bài viết đề cao vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình như: “Vài nét bàn về hạnh phúc gia đình ở Việt Nam” [71]; “Gia đình hạnh phúc”, “Bảo vệ hạnh phúc gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc” [69]; “Quan niệm về hạnh phúc gia đình thời kỳ đổi mới” [98]. Có thể nhận thấy, nghiên cứu khoa học về hạnh phúc ở Việt Nam nói chung và về người phụ nữ nói riêng còn để lại quá nhiều khoảng trống cả về lý thuyết và thực tiễn. Thế giới đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại hóa với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người, trong đó phụ nữ là một nửa nhân loại. Vậy, người phụ nữ quan niệm như thế nào về hạnh phúc? Vì sao hình thành các tranh luận khác nhau, thậm chí đối lập nhau về hạnh phúc? Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc có
  • 12. 6 thay đổi theo thời gian hay không? Vì sao thay đổi hoặc không thay đổi? Có sự khác biệt trong quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau về hạnh phúc hay không? Vì sao có sự khác biệt hay không khác biệt? Những câu hỏi này chỉ có thể được trả lời thông qua các nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Đề tài: “Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc” là một nỗ lực của tác giả góp phần làm sáng tỏ quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, qua đó cung cấp những luận cứ khoa học góp phần nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ và kiểm chứng tính đúng đắn của các lý thuyết xã hội học có liên quan qua trường hợp Việt Nam. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc; trên cơ sở đó cung cấp những luận cứ khoa học nhằm nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. - Nhận diện quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc. - Phân tích điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ ở các nhóm xã hội khác nhau về hạnh phúc. - Cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những chính sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
  • 13. 7 3.2. Khách thể nghiên cứu Người phụ nữ tại các điểm nghiên cứu. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung, vấn đề nghiên cứu: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc được xem xét trên ba lĩnh vực chính: quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên; quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực gia đình - xã hội; và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực đời sống cá nhân. - Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án sẽ phân tích bộ số liệu của đề tài độc lập cấp quốc gia: “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” do PGS.TS Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực hiện từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018. Với tư cách là thành viên và là thư ký đề tài, tác giả luận án đã được chủ nhiệm cho phép gắn các nội dung phục vụ riêng cho luận án vào trong bộ công cụ của đề tài (phiếu hỏi, hướng dẫn phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm) để thu thập thông tin. Bên cạnh đó, chủ nhiệm đề tài cũng tạo điều kiện để tác giả luận án thực hiện riêng các phỏng vấn sâu trong thời gian khảo sát thực địa để phục vụ luận án. Luận án chính là một sản phẩm đào tạo của đề tài cấp Nhà nước. Đề tài độc lập cấp quốc gia điều tra tại 05 tỉnh, thành phố đại diện cho 05 vùng địa lý, mỗi tỉnh lựa chọn 01 phường và 01 xã. Cụ thể như sau: Vùng Đồng bằng sông Hồng: Ninh Bình Vùng Tây Bắc Bộ: Sơn La Vùng Tây Nguyên: Đắc Lắc Vùng Đông Nam Bộ: Tp. Hồ Chí Minh Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: An Giang
  • 14. 8 - Phạm vi về thời gian: Phạm vi thời gian được nói ở đây là khoảng thời gian mà đối tượng nghiên cứu đang vận hành. Nói một cách cụ thể, đề tài cần nghiên cứu quan niệm và thực tế hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, muốn thấy được hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam hiện nay thì tất yếu cần phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, luận án sẽ mở rộng phạm vi về thời gian qua việc thực hiện các nghiên cứu hồi cố (cũng có thể qua các tài liệu lịch sử, các dấu ấn để lại qua văn hóa dân gian, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, v.v…) về hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. 4. Câu hỏi nghiên cứu - Người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc? - Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có quan niệm khác nhau về hạnh phúc? - Yếu tố nào tác động rõ nhất đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc? 5. Giả thuyết nghiên cứu, biến số và khung phân tích 5.1. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết 1: Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là có thu nhập ổn định, gia đình hòa thuận và có sức khỏe tốt. Giả thuyết 2: Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có sự tương đồng nhiều hơn khác biệt trong quan niệm về hạnh phúc. Giả thuyết 3: Yếu tố mức sống có tác động rõ nhất đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
  • 15. 9 5.2. Biến số - Biến độc lập: Yếu tố cá nhân: tuổi, học vấn, giới tính, tôn giáo, khu vực, mức sống, việc làm, tài sản, sức khỏe, tình trạng hôn nhân. Yếu tố xã hội: sự tham gia, các mối quan hệ thân hữu, sự cân bằng cuộc sống và công việc. Yếu tố tự nhiên: các vấn đề môi trường, các vấn đề đô thị hóa. - Biến can thiệp: Điều kiện kinh tế - xã hội của 05 địa bàn nghiên cứu; quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo hạnh phúc cho phụ nữ. - Biến phụ thuộc: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc được đo trên ba khía cạnh: quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế-môi trường tự nhiên; quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình-xã hội; quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân. 5.3. Khung phân tích
  • 16. 10 Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước và địa phương Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật Định hướng giải pháp Đặc điểm cá nhân: khu vực nông thôn - đô thị, nhóm tuổi, tôn giáo, dân tộc, mức sống Đặc điểm hôn nhân: tình trạng hôn nhân, độ dài hôn nhân QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế- môi trường tự nhiên Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình-xã hội Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân
  • 17. 11 6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận Luận án ứng dụng một số lý thuyết sau: - Lý thuyết hệ thống Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của mỗi cá nhân trong sự phát triển của một hệ thống. Trong hệ thống này bao gồm rất nhiều yếu tố và chúng luôn tương tác với nhau tạo thành thể thống nhất. Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng nó lại dựa trên những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó là mức độ thỏa mãn của con người trong các mối quan hệ với môi trường sống xung quanh. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường của chính bản thân cá nhân con người. Như vậy, cảm nhận hạnh phúc của người phụ nữ vốn có quan hệ không thể tách rời với ba môi trường sống đã nêu và lý thuyết hệ thống là cơ sở giúp tìm được mẫu số chung, giúp trả lời câu hỏi người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc, nhìn một cách tổng thể. - Lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc: Nhu cầu cơ bản (basic needs) Nhu cầu về an toàn (safety needs) Nhu cầu về xã hội (social needs) Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs) Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
  • 18. 12 Luận án nghiên cứu sử dụng lý thuyết này để phân tích và lý giải trong mối tương quan giữa nhu cầu và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ. Cũng có khi quan niệm thúc đẩy nhu cầu và có khi quan niệm hạn chế nhu cầu. Đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thể hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với việc đáp ứng các nhu cầu như thế nào. Cụ thể, lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích sự thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau. Những thay đổi và khác biệt này phản ánh sự thỏa mãn nhu cầu của người phụ nữ ở các cấp độ khác nhau. Gỉa thuyết ở đây là phụ nữ trong xã hội truyền thống đề cao việc thỏa mãn các nhu cầu kinh tế - vật chất, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, cộng đồng; trong khi phụ nữ trong xã hội hiện đại ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn, quan hệ bên trong gia đình, hộ hàng, cộng đồng, còn thỏa mãn nhu cầu trong các mối quan hệ xã hội, và nhu cầu được thể hiện mình… Tương tự như vậy, hạnh phúc theo quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… nghiêng về thỏa mãn nhu cầu cơ bản về kinh tế - vật chất và quan hệ gia đình, trong khi phụ nữ ở khu vực thành phố, phụ nữ có trình độ học vấn cao, phụ nữ nhóm kinh tế khá giả… có thể sẽ đề cao các giá trị hạnh phúc thuộc về thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội và cống hiến bản thân cho xã hội… 6.2. Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp này bao gồm việc sưu tầm và sử dụng các kết quả nghiên cứu đã có, các số liệu thống kê, các tài liệu có liên quan... Phương pháp phân tích thứ cấp giúp cho luận án sử dụng các nguồn dữ liệu đã có theo quan điểm của riêng mình. Nhưng điều quan trọng hơn là các nguồn tài liệu thứ cấp còn giúp cho những người thực hiện đề tài biết được lịch sử vấn đề nghiên cứu,
  • 19. 13 trong đó các tác giả đi trước đã làm được gì, những gì họ chưa làm được, những gì họ đã làm nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Các tài liệu thứ cấp cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn mang tính lịch sử - so sánh để phát hiện sự khác biệt về hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay với hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó. Tóm lại, việc điểm lại các nghiên cứu và tài liệu đã có sẽ giúp tác giả luận án biết được rằng cần bắt đầu từ đâu và cần đi tiếp như thế nào. 6.2.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê có sẵn Như đã đề cập tới ở phần phạm vi không gian nghiên cứu, luận án sẽ sử dụng số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” để phân tích quan niệm và các yếu tố tác động tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc của người phụ nữ. Qua đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những chính sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng. Cơ sở số liệu: Đề tài “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” là một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ đã giao cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực hiện trong 30 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018). Đề tài tiến hành điều tra khảo sát theo phương pháp điều tra định lượng và điều tra định tính. Điều tra định lượng: Tiến hành điều tra 2.500 phiếu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên tại 05 tỉnh/thành. Tuy nhiên, vì luận án chỉ tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ nên sẽ tiến hành lọc mẫu, chỉ chọn ra người trả lời là nữ để có được thông tin một cách trực tiếp: người phụ nữ tự đưa ra quan niệm của chính bản thân mình về hạnh phúc. Chính vì thế mẫu phân tích của luận án còn 1.443 phiếu.
  • 20. 14 Đặc điểm mẫu phân tích: Bảng 1: Thông tin người trả lời Số lượng Tỉ lệ (%) Khu vực sống Nông thôn 644 44,6 Đô thị 799 55,4 Nhóm tuổi Dưới 40 674 46,8 40-59 622 43,2 60 trở lên 145 10,0 Theo tôn giáo Có 791 54,9 Không 649 45,1 Dân tộc Kinh 1013 70,7 Dân tộc khác 420 29,3 Mức sống Khá 260 18,1 Trung bình 738 51,5 Nghèo 436 30,4 Tình trạng hôn nhân Kết hôn 1205 91,3 Độc thân 115 8,7 Độ dài hôn nhân 1-10 năm 367 29,7 11-30 năm 590 47,8 31 năm trở lên 277 22,5 Nguồn: Số liệu xử lý của luận án
  • 21. 15 Điều tra định tính: thực hiện 192 cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đại diện cho các nhóm xã hội. Phương pháp phân tích số liệu: Trên cơ sở số liệu gốc, tác giả tiến hành lọc người trả lời là nữ để phân tích theo mục đích, nội dung nghiên cứu của luận án bằng chương trình SPSS. Các phân tích tần suất (frequency), phân tích nhị biến (crosstabs), hồi quy logistic sẽ được sử dụng. Phân tích tần suất (frequency): cung cấp thông tin chung về quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Phân tích nhị biến (crosstabs): kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng yếu tố độc lập đến hạnh phúc của người phụ nữ. Hệ số Khi-bình phương (chi- square) được sử dụng để xem xét những yếu tố đó có mức độ quan hệ như thế nào đến hạnh phúc của người phụ nữ, các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống kê không?. Phân tích hồi quy logistic: phân tích hồi quy là sự phân tích mối quan hệ phụ thuộc của một biến số (gọi là biến phụ thuộc) vào các biến số khác (gọi là biến độc lập hoặc biến giải thích). Trên cơ sở khung lý thuyết đã được xây dựng, tất cả các biến số được giả định có liên quan về mặt lý thuyết với hạnh phúc của người phụ nữ (đã phân tích nhị biến) sẽ được đưa vào mô hình hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy cho phép xác định được những yếu tố tác động thực sự đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Nếu chỉ dừng lại ở phân tích nhị biến, một số biến số có thể tác động đồng thời đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Nói một cách cụ thể hơn, phân tích hồi quy logistic giúp tác giả luận án nhận diện rõ hơn sự khác biệt/tương đồng trong quan niệm của người phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau.
  • 22. 16 6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Bên cạnh phương pháp phân tích số liệu của đề tài cấp nhà nước, tác giả sẽ thực hiện riêng các phỏng vấn sâu bởi có nhiều lý do khiến các câu hỏi định lượng không thể có được đầy đủ những thông tin mà luận án cần thu thập. Luận án sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 50 người phụ nữ đảm bảo cơ cấu về độ tuổi, dân tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống, vùng miền… Cụ thể: Tỉnh Sơn La: 10 phỏng vấn sâu Tỉnh Ninh Bình: 10 phỏng vấn sâu Thành phố Hồ Chí Minh: 10 phỏng vấn sâu Tỉnh An Giang: 10 phỏng vấn sâu Tỉnh Đắc Lắc: 10 phỏng vấn sâu Luận án thực hiện phương pháp nghiên cứu case study bởi đặc trưng của hạnh phúc là mang tính chủ quan, là một quá trình dựa trên trạng thái tương đối ổn định, dài lâu, không phải là trạng thái tinh thần, tình cảm viên mãn hay hứng thú nhất thời, bất chợt. Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu sẽ tập trung nghiên cứu tình huống để xác định điểm mốc thời gian mà người phụ nữ cảm thấy hạnh phúc. Từ điểm mốc này, các sự kiện/yếu tố liên quan sẽ được khai thác để tìm hiểu quan niệm và yếu tố tác động tới quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ. Luận án chọn mẫu phỏng vấn sâu theo phương pháp có chủ đích và phân chia theo năm tiêu chí chính: khu vực, nhóm tuổi, mức sống, tôn giáo, dân tộc. Một số tiêu chí khác như trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, độ dài hôn nhân được lồng ghép trong 5 tiêu chí chính vừa nêu.
  • 23. 17 Bảng 2: Phân bổ mẫu phỏng vấn sâu Nhóm tuổi Mức sống Dân tộc Tổng <40 40-59 >=60 Giàu TB Nghèo Thiểu số Kinh Ninh Bình Nông thôn 1 1 1 1 1 5 Đô thị 1 1 1 1 1 5 Sơn La Nông thôn 1 1 1 1 1 5 Đô thị 1 1 1 1 1 5 Đắc Lắc Nông thôn 1 1 1 1 1 5 Đô thị 1 1 1 1 1 5 Tp. Hồ Chí Minh Nông thôn 1 1 1 1 1 5 Đô thị 1 1 1 1 1 5 An Giang Nông thôn 1 1 1 1 1 5 Đô thị 1 1 1 1 1 5 Tổng 6 6 7 6 8 7 5 5 50 Kinh nghiệm cho thấy, người học vấn cao thường có nhiều hiểu biết việc điều tra, cho nên họ thường dễ dàng tiếp nhận các câu hỏi và thường cho những trả lời chính xác; người thuộc tầng lớp trung bình thường đưa ra những câu trả lời thường không thật chính xác lắm; người nhút nhát thường không dám trả lời vì sợ sai; người có quá khứ phức tạp thường dè dặt; đối với người tự tin thì người nghiên cứu rất khó tìm câu trả lời chuẩn xác; đối với người bông đùa, khôi hài thì người nghiên cứu thường thu được những câu trả lời có độ tin cậy thấp; còn người ba hoa thường hay đưa vấn đề đi lung tung. Khó nắm bắt nhất là những người có bản lĩnh tự tin thái quá, vì họ rất kín kẽ, biết cách dấu kín một cách nhất quán mọi suy nghĩ, nếu người nghiên cứu không có kinh nghiệm "cài các bẫy logic", thì rất khó tìm được câu trả lời ở những người này [82]. Chính vì thế, trước mỗi đối tượng được chọn để phỏng vấn, người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận phỏng vấn khác nhau. Phương pháp tiếp cận tâm lý học cũng sẽ được áp dụng để thu thập những thông tin cần thiết cho nghiên cứu.  Nguồn: đã trích dẫn
  • 24. 18 6.2.4. Phương pháp xử lý thông tin - Thông tin thu thập được từ thực tế bao gồm: báo cáo tình hình kinh tế xã hội tại các địa bàn nghiên cứu, các file ghi âm phỏng vấn sâu và báo cáo điền dã tại thực địa. - Các file ghi âm sẽ được gỡ băng trên Word. - Luận án sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý thông tin định lượng. - Các thông tin định lượng và định tính sẽ được kết hợp hợp lý trên cơ sở khoa học để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Các phân tích định lượng được phân tích trên mối quan hệ nhân quả. Các phân tích định tính sẽ hỗ trợ để giải thích, làm rõ số liệu. 7. Điểm mới của luận án - Trên thế giới hiện nay, rất nhiều nghiên cứu về hạnh phúc đã được thực hiện nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này ít được đề cập tới. Đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam chỉ có thể kể tên 05 nghiên cứu trực tiếp về hạnh phúc nói chung và chưa có nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc của người phụ nữ (điều này sẽ được làm rõ trong phần tổng quan tài liệu). Vì vậy, kết quả của luận án sẽ góp phần nhận diện quan niệm về hạnh phúc từ góc nhìn của người phụ nữ. - Tại Việt Nam, mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về hạnh phúc. Những công trình sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích các yếu tố tác động tới hạnh phúc còn ít ỏi hơn. Bằng việc sử dụng mô hình hồi quy đa biến trong phân tích bộ số liệu của đề tài cấp nhà nước đầu tiên về bộ chỉ số hạnh phúc của người Việt Nam, tác giả luận án hy vọng rằng sẽ xác định được những yếu tố thúc đẩy hoặc hạn chế hạnh phúc của người phụ nữ. Qua đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị hạnh phúc trong các chính sách phát triển và gợi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo.
  • 25. 19 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 8.1. Ý nghĩa lý luận - Luận án góp phần xây dựng nhận diện và hoàn thiện hơn khái niệm “Hạnh phúc” từ góc nhìn của người phụ nữ. - Thông qua việc vận dụng các lý thuyết để phân tích, giải thích kết quả điều tra thực nghiệm quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, luận án góp phần kiểm định mức độ phổ biến, tính đúng đắn của 02 lý thuyết (lý thuyết hệ thống và lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow) trong bối cảnh của xã hội Việt Nam. 8.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả của luận án sẽ mang đến những nhận thức mới có tính hệ thống về quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, và đó là những bằng chứng quan trọng cho việc hoạch định chính sách hoặc triển khai những biện pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người phụ nữ nói riêng và những chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung. - Trên thế giới hiện nay, việc nghiên cứu về hạnh phúc đã trở thành một ngành khoa học thực thụ nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này dường như vẫn đang bị bỏ trống. Tác giả luận án hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ trong việc đặt nền móng cho quá trình hình thành một chuyên ngành khoa học xã hội về hạnh phúc trong tương lai ở Việt Nam. - Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn xã hội học gia đình, giới và phát triển… 9. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận án gồm 5 chương (20 tiết).
  • 26. 20 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ là nhóm xã hội có nhiều biến động theo những chiều hướng khác nhau, từ lao động việc làm đến đời sống hôn nhân và gia đình, từ sức khỏe sinh sản đến bình đẳng giới trong gia đình và xã hội, v.v… Những vấn đề này thu hút được một khối lượng khá lớn các nghiên cứu xã hội học với những quy mô khác nhau, từ quy mô quốc gia đến quy mô vùng miền, khu vực và cả các nghiên cứu trường hợp (case studies). Những nghiên cứu này đã mô tả và cung cấp cho người đọc thông tin đa dạng, nhiều chiều về đời sống của người phụ nữ, lý giải nguyên nhân xã hội những biến đổi vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, v.v… Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, hạnh phúc với tư cách là đối tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệm, đặc biệt là xã hội học hầu như còn vắng bóng cả trên bình diện hạnh phúc xã hội nói chung và hạnh phúc của các nhóm xã hội nói riêng, trong đó có nhóm phụ nữ. Khi tìm kiếm các công trình nghiên cứu về hạnh phúc, tác giả luận án nhận thấy: nếu phạm trù “happiness” (hạnh phúc) được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu nước ngoài thì phạm trù “conception of happiness” (quan niệm về hạnh phúc) lại ít được đề cập tới. Các công trình liên quan tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc còn hiếm hoi hơn rất nhiều và thường là những công trình nghiên cứu về gia đình (với các chủ đề như: sự hài lòng/không hài lòng về cuộc sống gia đình, sự hài lòng/không hài lòng về quan hệ hôn nhân, gia đình, trong mối quan hệ cộng đồng) chứ không phải những công trình nghiên cứu riêng về hạnh phúc … Và như thế mới chỉ đề cập tới được những khía cạnh xung quanh hạnh phúc của người phụ nữ
  • 27. 21 chứ chưa phải là một cái nhìn tổng thể và quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc cũng chưa được đề cập đến. Ở Việt Nam, trong bối cảnh các công trình nghiên cứu về hạnh phúc là rất ít, tác giả chưa tìm được công trình nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc từ góc nhìn của phụ nữ. Có một công trình gần nhất với vấn đề nghiên cứu của luận án là một luận văn thạc sỹ của Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright (FETP) sử dụng bộ số liệu của cuộc Điều tra giá trị thế giới tại Việt Nam năm 2001. Luận văn này đề cập đến hạnh phúc trong tương quan giới tính (nam- nữ): giữa phụ nữ và nam giới, ai là người hạnh phúc hơn?, có nghĩa là mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một khía cạnh rất nhỏ trong cảm nhận hạnh phúc chứ không phân tích quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trong khi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thường vắng bóng ở các công trình nghiên cứu thì lại được nhắc đến khá thường xuyên trên báo chí Việt Nam, tiêu biểu là Báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Báo Thanh niên hay một số báo mạng như Phununet.com, Vietnamnet.vn, VnEpress... Các báo này thường có các diễn đàn về hạnh phúc trên chuyên mục Phụ nữ và thời cuộc, Đời sống, Bạn đọc, Tâm sự, Chia sẻ…Cách hiểu về “hạnh phúc” trên báo chí mang nhiều tính chất giải trí và đặt quan niệm hạnh phúc gắn liền với quan niệm hạnh phúc gia đình. Do có ít các công trình nghiên cứu trực tiếp về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc nên luận án sẽ mở rộng phạm vi tìm kiếm tài liệu ở hai khía cạnh: (1) không chỉ tìm các tài liệu về “conception of happiness”(quan niệm hạnh phúc) mà tìm thêm các tài liệu về “happiness” (hạnh phúc), “self- reported happiness” (hạnh phúc chủ quan), “life satisfaction” (sự thỏa mãn về cuộc sống), “quality of life” (chất lượng cuộc sống), “welfare/well-being” (phúc lợi) và (2) không chỉ tìm các công trình nghiên cứu khoa học, sách, luận án, luận văn mà còn tìm thêm các báo cáo, bài viết, tư liệu ghi chép, báo, tạp chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật.
  • 28. 22 Muốn hiểu được quan niệm của người phụ nữ hiện nay về hạnh phúc, tất yếu phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó. Để làm được điều này, luận án sẽ tìm kiếm các tài liệu lịch sử ở dạng tư liệu ghi chép, báo, tạp chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1975. Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, trong phần tổng quan, tác giả luận án chia thành ba phần: (1) Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc; (2) Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Từ đó, tác giả phát hiện các vấn đề đặt ra từ nguồn tài liệu, đánh giá về các kết quả nghiên cứu đã có, xác định kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu cho luận án. Hạnh phúc bắt đầu trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệm từ những năm 1960 và hạnh phúc của người phụ nữ được quan tâm nghiên cứu từ những năm 1970 ở các nước phương Tây. Martin Sehgman, GS. Đại học Pennsylvania, Chủ tịch Hiệp hội bác sĩ tâm lý Mỹ là một trong những người nhiệt thành lên tiếng đòi môn nghiên cứu về hạnh phúc phải được chú trọng với tính cách là một khoa học liên ngành, chuyên nghiên cứu định lượng về hạnh phúc, nhằm bổ sung, thay thế cho những lĩnh vực mà triết học và tôn giáo còn đang giải thích một cách rối rắm hoặc trừu tượng [54]. Các chủ đề về phụ nữ liên quan tới hạnh phúc được tập trung chủ yếu ở ngành Tâm lý học xã hội và Xã hội học. Tâm lý học chú trọng đến trị liệu và tư vấn để người phụ nữ có những cảm xúc tích cực hơn. Xã hội học chú trọng lý giải nguồn gốc và các yếu tố tác động tới hạnh phúc của người phụ nữ từ các góc độ: cá nhân, gia đình, xã hội. Hạnh phúc của người phụ nữ là một trong những nội dung quan trọng của điều tra xã hội của Mỹ (General Social Survey - GSS). Tuy nhiên, trước đó, vào năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn của nước Anh được coi là
  • 29. 23 tác phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Từ đó đến nay, nhiều bài báo khoa học về hạnh phúc đã được công bố, nhiều công trình khoa học về hạnh phúc đã được xuất bản. Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report) đầu tiên được công bố vào tháng 4 năm 2012, nhằm hỗ trợ Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về hạnh phúc và phúc lợi xã hội. Số liệu của báo cáo được thu thập từ người dân tại hơn 150 quốc gia. Với Hội nghị này, LHQ khuyến cáo các nước nên coi hạnh phúc là thước đo đúng đắn của tiến bộ xã hội và là mục tiêu của chính sách công. Kể từ đó WHR được tiếp tục nghiên cứu và công bố vào Ngày Quốc tế về Hạnh phúc các năm 2013, 2015, 2016, 2017, 2018. Khoảng thời gian mỗi báo cáo giới hạn để đo đạc hạnh phúc của các quốc gia là 3 năm, chẳng hạn Báo cáo 2016 nghiên cứu, đánh giá hạnh phúc của các quốc gia trong các năm từ 2013 đến 2015, Báo cáo 2017 nghiên cứu, đánh giá hạnh phúc của các quốc gia trong các năm từ 2014 đến 2016. Ban đầu, hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc nằm trong một chủ đề nghiên cứu rộng hơn là chất lượng cuộc sống (quality of life). Các nghiên cứu về chủ đề này cố gắng xác định xem thế nào là một cuộc sống tốt đẹp và thực tế đã đáp ứng được những yêu cầu hiện thực hóa nó được bao nhiêu, từ đó tìm ra những điều làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Trường phái nghiên cứu này xuất phát từ hệ tư tưởng của thời Khai sáng (Enlighment) mà theo đó, trọng tâm của cuộc đời con người chính là cuộc sống của chính họ, chứ không phải phục vụ cho các đấng quân vương hay ở một cõi thiên đường nào đó. Vì vậy, việc cố gắng để đạt được mục đích và sự hạnh phúc là những giá trị chủ đạo và có thực của mọi thời đại, và đời sống xã hội chính là môi trường để công dân có được cuộc sống tốt đẹp đó. Sang thế kỷ 19, thuyết Thực lợi (Utilitarian) cho rằng một xã hội tốt đẹp là xã hội mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhiều người nhất. Đến thế kỷ XX, quan điểm này được mở rộng và được hiện thực hóa thông qua
  • 30. 24 những cải cách xã hội và có tác động quan trọng đến việc xây dựng các nhà nước phúc lợi (Welfare State) [65]. 1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc 1.2.1. Hướng tiếp cận xã hội học Đến những năm 1970, hạnh phúc đã trở thành tâm điểm của các nghiên cứu về Chỉ báo xã hội ở Mỹ (American Social Indicator), ở Đức và các khu vực thuộc vùng Normandi. Vào những năm 1980, lần đầu tiên một cuộc khảo sát lịch đại quy mô về hạnh phúc được thực hiện ở Australia do hai tác giả Heady và Wearing thực hiện. Đây có thể coi là một nghiên cứu biến đổi quan niệm về hạnh phúc của con người ở tầm quốc gia qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Các tác giả như Veenhoven (1984), Argyle (1987) và Meyers (1992) đều có những nghiên cứu về chủ đề này. Năm 1993, Veenhoven (hiện nay là Giám đốc Cơ sở dữ liệu Hạnh phúc thế giới, tại Hà Lan) đã xây dựng một thư mục gồm 2.475 nghiên cứu về đánh giá cuộc sống và đó chính là một phần trong cơ sở dữ liệu thế giới về hạnh phúc. Những nghiên cứu về hạnh phúc chú trọng vào một số câu hỏi như: • Hạnh phúc là gì? • Con người thực sự hạnh phúc là như thế nào? • Mọi người có hạnh phúc như nhau không? • Nếu không thì tại sao lại có sự khác biệt đó? • Những yếu tố nào quyết định mức độ hạnh phúc? • Hạnh phúc có đo được không? • Liệu có thể kéo dài hạnh phúc và làm cho nó tăng lên không? Hạnh phúc của người phụ nữ là chủ đề rất được quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu giới, đặc biệt khi nghiên cứu về bất bình đẳng: bất bình đẳng trong giáo dục, bất bình đẳng trong việc làm, bất bình đẳng trong tham chính, bất bình đẳng trong thụ hưởng hạnh phúc… Theo tác giả Betsey Stevenson và
  • 31. 25 Justin Wolfers: trên thực tế, tồn tại một khoảng cách giới trong thụ hưởng hạnh phúc. Betsey Stevenson and Justin Wolfers đưa ra một “nghịch lý suy giảm hạnh phúc của phụ nữ” (paradox of declining female happiness). Hai tác giả phân tích hạnh phúc của phụ nữ trong 35 năm bằng việc phân tích bộ số liệu Khảo sát Xã hội của Mỹ (GSS - General Social Survey). Khảo sát này bắt đầu thực hiện từ năm 1972 và được lặp lại hàng năm. Mẫu nghiên cứu khoảng 1.500 người mỗi năm từ 1972-1993 (ngoại trừ năm 1979, 1981, 1992) và tiếp tục với khoảng 3.000 người mỗi năm từ 1994 đến 2004, tăng lên 4.500 người vào năm 2006. Khoảng thời gian dài của GSS và việc sử dụng phương án khảo sát phù hợp để đo lường hạnh phúc là rất lý tưởng cho việc phân tích xu hướng hạnh phúc theo thời gian [2]. Kết quả phân tích GSS cho thấy: những năm 1970, phụ nữ hạnh phúc hơn nam giới nhưng sau đó, mức độ hạnh phúc của phụ nữ có xu hướng giảm, trong khi mức độ hạnh phúc của nam giới ở một khoảng ổn định. Đến những năm 1990, phụ nữ hạnh phúc ít hơn nam giới. Điều này liên quan đến quyền lực kinh tế và quyền của người phụ nữ. Phong trào giải phóng phụ nữ, quyền tự do kinh tế, chính trị, xã hội đã thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và họ cũng kỳ vọng rằng người phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh phúc. Tuy nhiên, trên thực tế không phải như vậy. Người phụ nữ vừa phải nỗ lực kiếm tiền ngoài xã hội, vừa phải chăm sóc con cái và làm việc nhà. Việc nhà ít khiến đàn ông bị trầm cảm nhưng đóng góp vào sự trầm cảm của phụ nữ [2] Cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa nam và nữ trong cảm nhận về hạnh phúc diễn ra sôi nổi ở nhiều ấn phẩm khoa học nghiên cứu về hạnh phúc. Tác giả Chris Herbst cùng đồng quan điểm với Betsey Stevenson và Justin Wolfers khi cho rằng: có sự khác biệt về giới trong cảm nhận hạnh phúc. Sự khác biệt này thay đổi theo thời gian, giai đoạn lịch sử và khác nhau ở mỗi quốc gia, khu vực. Do đó, quan hệ giữa giới và hạnh phúc cũng theo đó mà rất khác biệt [5]. Một nghiên cứu xã hội học bàn nhiều tới hạnh phúc của người phụ nữ một cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull
  • 32. 26 Shin (người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri, Columbia, Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004) thu thập được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn Quốc, Singapor, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích mức độ hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn nhân (sự ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới đem lại hạnh phúc cho con người và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7 quốc gia nho giáo kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi lên là các quốc gia hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở các tốp sau, vì chịu nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân. Về xếp hạng khu vực, đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc hơn bất hạnh nhưng đa số người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49]. Hướng tiếp cận xã hội học thể hiện rõ ưu điểm trong những nghiên cứu lịch đại về hạnh phúc. Các nghiên cứu không chỉ đo lường được sự biến đổi hạnh phúc theo thời gian mà còn phân tích các yếu tố tạo nên hạnh phúc theo nhiều chiều cạnh, nhiều tầng lớp. Một số các yếu tố tạo nên hạnh phúc của phụ nữ được các nghiên cứu xã hội học nhấn mạnh như: quyền lực kinh tế và công việc chăm sóc không được trả công [2]; quyền quyết định trong gia đình [13]; tình trạng hôn nhân, khu vực nông thôn - đô thị [3]; sự gắn kết vợ chồng [102]… 1.2.2. Hướng tiếp cận tâm lý học Từ năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn nước Anh được coi là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Những học giả đầu tiên có công trong việc hình thành khoa học về hạnh phúc là nhà tâm lý Martin Seligman thuộc Đại học Pennsylvania (Mỹ); nhà tâm lý Edward Diener với biệt hiệu "tiến sĩ Hạnh Phúc", thuộc Đại học Illinois (Mỹ), và nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi (người Mỹ gốc Hungary).
  • 33. 27 Nhìn chung, hạnh phúc được nghiên cứu theo một số chủ đề lớn như: sức khỏe liên quan đến chất lượng cuộc sống, tâm lý tích cực của con người... Kết quả nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu về chủ đề này đã được xuất bản vào các năm 1987 (Argyle), 1999 (Diener), 2006 (Dolan và các tác giả khác), 1984, 1995 (Veenhoven). Từ năm 2000, tạp chí Nghiên cứu về Hạnh phúc (Journal of Happiness Studies) đã ra đời. Cuộc khảo sát đầu tiên có sự đo lường về hạnh phúc được thực hiện ở Mỹ trong những năm 1960. Mục đích của nó là lập biểu đồ về sức khỏe tinh thần của con người. Vào thời điểm đó, hạnh phúc cũng là một chủ đề trong một nghiên cứu quốc gia về những vấn đề cần quan tâm đối với con người của tác giả Cantril (1965). Kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực là một trong những bí quyết của hạnh phúc. Cách chúng ta phản ứng lại những điều khó chịu liên quan mật thiết với trạng thái tinh thần khỏe mạnh tổng thể của ta. Khi Davidson khảo sát trạng thái tâm lý của đối tượng thí nghiệm, ông phát hiện ra rằng sự chiếm ưu thế vượt trội của phần bên trái hay phần bên phải trong thùy trước trán cũng được phản ảnh trong cuộc sống hàng ngày. Những người có não phải hoạt động mạnh hơn, ít kiểm soát cảm xúc tiêu cực hơn thường có xu hướng sống nội tâm, bi quan và hay nghi ngờ. Họ hay trầm trọng hóa những vấn đề nhỏ, có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm tương đối cao và nói chung có xu hướng bất hạnh. Ngược lại, những người có thùy trước trán bên trái hoạt động mạnh hơn thường tỏ ra vui vẻ, hướng ngoại. Họ luôn tự tin, lạc quan, tinh thần phấn chấn. Họ thấy dễ dàng gần gũi mọi người và dường như được sinh ra với khả năng luôn nhìn thấy phía tươi đẹp của cuộc sống [103]. Trong lĩnh vực nghiên cứu về não bộ của phụ nữ và nam giới, các nhà khoa học cũng luôn băn khoăn để tìm ra câu trả lời, liệu có hay không chính xác cụm từ: “Bộ não phụ nữ và Bộ não nam giới”?. Bộ não phụ nữ có khác bộ não nam giới trong cách kiểm soát những cảm xúc tiêu cực để hạnh phúc?
  • 34. 28 Dưới tác động về hoóc môn giới tính và sự khác biệt về nhiễm sắc thể, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, về cơ bản bộ não của phụ nữ và nam giới là khác nhau trên cơ sở sinh học, mà không cần có sự can thiệp nào khác từ các yếu tố xã hội hay văn hóa (Richie và cộng sự 2017, Brizenine 2007, Kimura 1999; trích theo Trần Thị Vân Nương, 2017). Các ấn phẩm như “You Just Don’t Understand” (Chỉ là Anh không hiểu) (1990) của Tannen và “Men from Mars, Women from Venus” (Đàn ông đến từ sao Hỏa, đàn bà đến từ sao Kim) (1992) của John Gray, phân tích sự khác nhau cơ bản giữa phụ nữ và nam giới. Một số công trình gần đây thảo luận về sự khác nhau giữa não bộ của phụ nữ và nam giới (Ví dụ, The Female Brain (Bộ não nữ giới) (2006) của Brizendine; Why Gender Matters (Tại sao giới lại là vấn đề) (2005) của Sax. Qua các kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học theo tiếp cận tâm lý hy vọng sẽ tạo ra nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. 1.2.3. Hướng tiếp cận kinh tế học Bên cạnh các nhà tâm lý học, các nhà kinh tế học cũng bắt đầu nghiên cứu về hạnh phúc. Trên thực tế, các nhà triết học và kinh tế học cổ điển như Aristotle, Bentham, Mill, Smith đã từng đưa vấn đề hạnh phúc vào trong các công trình nghiên cứu của mình. Kinh tế học về hạnh phúc nhấn mạnh đến những quan niệm mở rộng về tính thực dụng (utility) và phúc lợi (welfare). Richard Easterlin, nhà kinh tế học hiện đại, là người đầu tiên trở lại chủ đề nghiên cứu về hạnh phúc vào những năm 1970. Đến cuối những năm 1990, nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này đã được các nhà kinh tế khác thực hiện. Nói đến kinh tế học về hạnh phúc không có nghĩa là cách đo lường phúc lợi dựa trên thu nhập, mà là cách tiếp cận nhằm đo lường sự mở rộng về chất lượng cuộc sống con người (wellbeing). Luận điểm quan trọng của tiếp cận kinh tế trong nghiên cứu hạnh phúc là: dù những cá nhân là khác nhau nhưng đều có chung mức độ ổn định về
  • 35. 29 hạnh phúc chủ quan. Những sự kiện cuộc sống quan trọng có thể tạo ra sự phân tán tại thời điểm nhưng ảnh hưởng thường là tạm thời, sau một thời gian “phân tán”, mọi người lại quay trở về thời điểm trước đây của họ. Khi phân tích hạnh phúc từ tiếp cận kinh tế, cần phải giải thích mối liên kết ít nhất giữa bộ ba của các biến số: tính cách ổn định của con người (bao gồm cả những nét tính cách riêng); các sự kiện đời sống quan trọng, những thang đo của hạnh phúc chủ quan (sự hài lòng cuộc sống, tác động tích cực); và tình trạng ốm yếu (lo lắng, thất vọng, tác động tiêu cực). Cách phân tích này rất thuyết phục vì nó được phát triển trong một kết cấu tích lũy từng tầng lớp chứng minh để hỗ trợ nó và làm cho nó có vẻ hấp dẫn hơn trong việc giải thích các liên kết giữa ba bộ biến. Tiếp cận kinh tế học chỉ ra rằng các cá nhân khác nhau về đường cơ sở hay điểm khởi đầu của hạnh phúc chủ quan một phần do sự khác biệt về điểm số đặc tính cá nhân ổn định của tinh thần hướng ngoại và thần kinh nhạy cảm. Những người hướng ngoại đạt điểm hạnh phúc chủ quan cao hơn so với những người hướng nội và những người tương đối nhạy cảm (dễ bị kích thích) đạt điểm thấp hơn những cá nhân ổn định về mặt cảm xúc. Tiếp cận kinh tế học có một ý nghĩa quan trọng khi đưa ra dự báo các sự kiện cuộc sống sẽ xảy ra trong bất kỳ một khoảng thời gian nhất định của một người bình thường, sau đó hạnh phúc chủ quan sẽ không thay đổi. Mô hình này của các kết quả đã giúp đưa ra “mức độ cân bằng” của hạnh phúc và đau khổ (chứ không phải là “đường cơ sở” hoặc “điểm khởi đầu”) và để nhận thức tính cách, sự kiện cuộc sống, hạnh phúc và đau khổ như đang được ở trạng thái cân bằng. 1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc Tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc là một điều khó khăn bởi bản chất của hạnh phúc là do ý chủ quan của người trả lời. Trong khi đó, ý chủ quan lại được phát triển và hình thành thông qua trải nghiệm sống cùng với sự giáo dục và văn hóa. Đôi khi tồn tại sự xung đột giữa quan niệm
  • 36. 30 và hành động. Theo Menis Yousry, quan niệm gồm hai phần: phần thứ nhất là ý thức hiện tại của chúng ta - chúng ta có thể gọi đây là bản chất của chúng ta (phần mà chúng ta cũng có thể gọi là trái tim hoặc tiếng nói bên trong, và đây là bản thân chúng ta) - và phần thứ hai là tính cách của chúng ta, phần mà chúng ta sử dụng để thể hiện bản thân với thế giới. Hai chiều này của ý thức có thể xung đột với nhau khi quan niệm của chúng ta thường không phù hợp với những gì được cho là bản thân chúng ta và cách chúng ta nên hành xử [76, tr.21]. Khi đề cập tới mâu thuẫn này trong quan niệm về hạnh phúc của phụ nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, Betty Fridan với công trình nghiên cứu “Bí ẩn nữ tính” đã tạo nên một bước đột phá mang tính tiên phong về giá trị hạnh phúc của phụ nữ. Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1963 và được đánh giá là cuốn sách quan trọng nhất thế kỷ 20. “Bí ẩn nữ tính” phân tích quan niệm, suy nghĩ, niềm tin ở phụ nữ “rõ đến nỗi mỗi người đều có thể nhận ra mình trong đó… mọi thứ giữa đàn ông và đàn bà là khác nhau” (Nhận xét của Caroline Birt trong phần mở đầu của cuốn sách Bí ẩn nữ tính). Theo quan niệm của phụ nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, hạnh phúc là khi vai trò bà nội trợ hiện đại được đáp ứng, gồm: làm vợ, làm bồ, làm mẹ, làm y tá, người tiêu dùng, đầu bếp, lái xe, chuyên gia về trang trí nội thất, chăm trẻ, sửa thiết bị, làm mới đồ gỗ, dinh dưỡng và giáo dục (13 vai trò) [39, tr.49]. Người phụ nữ dường như không có bất kỳ một tham vọng nghề nghiệp nào. Quan niệm của phụ nữ về hạnh phúc lúc bấy giờ là kết hôn và có bốn đứa con. Các chuyên gia thống kê đặc biệt sửng sốt trước sự gia tăng đột biến số trẻ em. Thay vì sinh hai con như trước, giờ phụ nữ có bốn, năm, sáu đứa con. Những người phụ nữ từng muốn theo đuổi nghề nghiệp thì nay biến con cái thành nghề nghiệp của mình [39, tr.31]. Mơ ước duy nhất của họ là trở thành người vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn nhất của họ là có năm đứa con và một ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của họ là làm sao có chồng và giữ được chồng. Họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng đại. Họ hãnh diện với vai
  • 37. 31 trò phụ nữ của mình và tự hào điền vào chỗ trống trong mục điều tra dân số cụm từ: “Nghề nghiệp: nội trợ” [39, tr.33]. Câu hỏi đặt ra ở đây là: khi người phụ nữ suy nghĩ theo quan niệm chung của xã hội về hạnh phúc, liệu họ có quan niệm riêng của họ về hạnh phúc không? Quan niệm của chính họ về hạnh phúc là gì? Một bà mẹ bốn con, bỏ học đại học năm 19 tuổi để lấy chồng và “đã thử mọi thứ mà người ta cho là phụ nữ hay làm – có thú vui riêng, làm vườn, muối dưa, làm đồ hộp, giao du với hàng xóm, tham gia các ủy ban, tổ chức những buổi tiệc trà bên Hội phụ huynh… nhưng tôi tuyệt vọng. Tôi bắt đầu thấy mình không có tính cách. Tôi chỉ là người bưng đồ ăn, mặc quần áo cho bọn trẻ, dọn giường, ai đó được gọi đến khi muốn có thứ gì đó. Nhưng tôi là ai mới được chứ?” [39, tr.37]. Rõ ràng người phụ nữ Mỹ giữa thế kỷ 20 đã “bị mắc bẫy” giữa quan niệm xã hội về “bà nội trợ Mỹ hạnh phúc” với quan niệm của chính bản thân họ về hạnh phúc. Vấn đề đặt ra trong cuốn sách của Betty Fridan cho thấy quan niệm hạnh phúc là một phạm trù không dễ trở thành đối tượng mổ xẻ duy lý và định lượng của khoa học. Từ trước đến nay, khoa học vẫn thường bất lực trước sự biến thiên phức tạp của đối tượng này. Thật khó để hiểu thế nào là hạnh phúc. Định lượng được nó qua các phân tích khoa học chính xác lại càng khó hơn. Nhưng chẳng lẽ khoa học, đặc biệt các khoa học chính xác và thực nghiệm lại không giúp được gì để con người có thể hiểu hạnh phúc một cách dễ dàng hơn. Ý tưởng này không được các nhà triết học và thần học hưởng ứng. Nhưng nó lại thôi thúc các nhà tâm lý học, các chuyên gia khoa học xã hội và thậm chí cả các nhà toán học... bất chấp thất bại, nhẫn nại nghiên cứu và thể nghiệm [54]. Vấn đề là ở chỗ, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc dẫu phức tạp thế nào cũng không thể tách rời khỏi bối cảnh xã hội và những đặc điểm cá nhân của chính người phụ nữ đó. Và như thế thì quan niệm hạnh phúc của
  • 38. 32 người phụ nữ không phải là một đại lượng trừu tượng. Với cách tiếp cận khoa học phù hợp, ta có thể tìm hiểu và định lượng được nó một cách cụ thể. Đi theo hướng này, luận án bắt đầu thử nghiệm tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc. Như đã đề cập ở phần đôi nét về nguồn tài liệu: muốn hiểu rõ được quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, tất yếu phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó. Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, luận án chia làm 04 giai đoạn: đầu thế kỷ 20 đến 1945; từ 1946 - 1954; từ 1955 đến 1975; từ 1976 đến nay. - Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đầu thế kỷ 20 đến 1945 Những biến chuyển về bối cảnh kinh tế xã hội giai đoạn này tác động trực tiếp tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Việc mở riêng các trường nữ học cho nữ thanh niên đã định hướng quan niệm về hạnh phúc. Theo quan niệm của một bộ phận phụ nữ cấp tiến lúc bấy giờ: hạnh phúc là có học hành, có nghề nghiệp, có ý chí tự lập và tự chủ về kinh tế. Phụ nữ được cổ vũ học hành để nâng cao kiến thức, tập thể dục để nâng cao sức khoẻ, và có nghề nghiệp để tự chủ cuộc sống. Trên các tờ báo thời bấy giờ, có thể bắt gặp những khẩu hiện như “Chị em ta đừng ăn bám chồng con nữa” (Phương Lan, Phụ nữ Tân Văn số 64, tr.5). Hạnh phúc là khi phụ nữ được nhìn nhận và tôn trọng: “phụ nữ biết khuyên chồng, dạy con nên người hữu ích cho xã hội, biết lo về nghề nghiệp để gia đình được sung túc, đất nước được thịnh vượng, thì ấy là quốc sự” (Cái chức vụ của phụ nữ trong các kỳ tuyển cử, Phụ nữ Tân Văn, số 4, tr.5). Theo ghi chép “Hồ sơ Guermut” của phái bộ điều tra do chính phủ Pháp phái sang thuộc địa, ở mục “điều kiện của đàn bà và trẻ con” thể hiện rõ quan niệm hạnh phúc của phụ nữ: có quyền đối với tài sản do mình làm ra, đi học tại trường thực nghiệm cho con gái, có nơi tìm việc làm dành riêng cho phụ nữ, luật lao động được thi hành nghiêm túc, được đảm bảo quyền nghỉ ngơi khi sinh nở, quyền ly dị khi chồng ngoại tình… Tuy nhiên, quan niệm hạnh phúc trên mang tính “hình mẫu” của một cuộc đấu tranh ý thức hệ nhiều hơn là trên thực tế. Đó là quan niệm của phụ
  • 39. 33 nữ tầng lớp thị dân và trí thức. Xét trên diện rộng toàn xã hội, các lề thói cũ đạo lý Khổng Mạnh vẫn được duy trì. Vai trò của gia tộc can thiệp khá sâu vào đời sống cá nhân và người phụ nữ cũng không nằm ngoài quy luật này. Hạnh phúc trong quan niệm của người phụ nữ giai đoạn này không phải là hạnh phúc cá nhân mà là hạnh phúc của gia tộc, là việc duy trì truyền thống danh giá của dòng họ [48]. - Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1946 - 1954 Giai đoạn này là thời kỳ đất nước đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức do tình trạng thù trong giặc ngoài. Không khí kháng chiến, đánh giặc giữ nước, bảo vệ tự do dân tộc là mục tiêu, là mong muốn của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Với người phụ nữ, hạnh phúc trong giai đoạn này là có chồng đi kháng chiến và gánh vác các công việc ở hậu phương. Phụ nữ làm tất cả các công việc của nghề nông thay thế cho nam giới. Phụ nữ tham gia công an xã, dân quân, hoặc trở thành đội trưởng, đội phó sản xuất. Rất nhiều phòng trào được phát động: “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, “Phụ nữ học cày, học bừa”, “Chống bắt lính”, “Tầm vông diệt giặc”, “đòn gánh đánh càn”. Có thể nói, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Hình ảnh một người phụ nữ hạnh phúc là đảm đang, thủy chung, hiếu thuận và yêu nước. Hạnh phúc là được tuyên dương, khen thưởng vì lao động giỏi [92]. - Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1955 - 1975 Trong giai đoạn này, nền kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của miền Bắc có sự biến đổi sâu sắc. Xu hướng xây dựng và nhịp điệu biến đổi ở miền Bắc luôn luôn bị chi phối bởi sự nghiệp chống Mỹ сứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trong giai đoạn này là đảm đang các công việc gia đình và tích cực tham gia công tác chính trị - xã hội.
  • 40. 34 Trong gia đình, người phụ nữ đảm nhiệm vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đã miêu tả sinh động hoạt động kinh tế của người phụ nữ như sau: “Trên đám ruộng của người tiểu nông họ trồng đủ các thứ lúa, khoai, vừng, lạc, đậu. Trong thửa vườn nho nhỏ mùa nào thứ ấy, mỗi thứ một tý. Có chuồng gia súc với trâu bò, lợn và có sân gia cầm: gà, vịt, ngỗng, ngan,… Ngoài ra lại có khung cửi để dệt vải lụa. Nghĩa là trong kinh tế gia đình chúng ta thấy đủ các thành phần của nền kinh tế toàn quốc: có cây công nghiệp như thầu dầu, vừng, lạc, đậu,… và cây lương thực; có chăn nuôi gia súc và gia cầm; có ao chuôm thả cá, thả bèo, thả rau muống; có thủ công nghiệp - nghề phụ của người dân” [91, tr.481]. Ngoài xã hội, người phụ nữ tham gia tích cực các hoạt động từ cấp cơ sở đến cấp trung ương… Trên báo Phụ nữ Việt Nam thời kỳ này đăng tải rất nhiều tấm gương điển hình phụ nữ trong mọi lĩnh vực của hợp tác hóa nông nghiệp, Ví dụ: “Hàng năm, hàng nghìn kiện tướng làm phân, làm thủy lợi đã chiếm những kỷ lục cao nhất như Nguyễn Thị Hoàn, Cao Thị Min, Phùng Thị Thử, Phạm Thị Ngoãn,v.v…” (15 năm phấn đấu thực hiện và bạo vệ quyền nam nữ bình đẳng. Báo PNVN, số 84, tháng 9/1960). Có thể nói, thời kỳ này, quan niệm hạnh phúc được định hướng bởi nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa. Mô hình “gia đình dân chủ, hòa thuận và hạnh phúc”, hay mô hình gia đình mới, gia đình xã hội xã hội chủ nghĩa đã được nhà nước chủ trương xây dựng và tuyên truyền phát động khá sâu rộng như là mô hình gia đình lý tưởng để hướng tới [89]. Và mô hình này cũng định hướng quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. - Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1976 - nay Đây là giai đoạn nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất, bước vào thời kỳ đổi mới tư duy về mọi mặt. Nền kinh tế phát triển đã tạo ra giá đỡ vật chất cho những biến đổi xã hội, trong đó có biến đổi cơ cấu xã hội, biến đổi giá trị xã hội. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Ủy, quan niệm của
  • 41. 35 người phụ nữ về hạnh phúc không gắn với tiền bạc mà nghiêng nhiều hơn về gia đình. Do đó, phụ nữ luôn hạnh phúc hơn nam giới. Tác giả luận giải điều này từ văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là: nữ giới thường an phận hơn, hạnh phúc của họ không gắn liền với tiền bạc và kinh tế nên ít bị ảnh hưởng bởi các suy thoái kinh tế và cảm thấy hạnh phúc hơn [113, tr.37]. Trái ngược với kết quả này, điều tra của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen lại chỉ ra rằng phụ nữ Việt Nam kém hạnh phúc hơn nam giới. Trong 51 quốc gia tham gia điều tra, chỉ có 3 quốc gia có thực tế này là Việt Nam, Brazil và Nam Phi. Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là khi họ có những mối quan hệ tích cực và ba mối quan hệ quan trọng là: mối quan hệ với bạn bè, mối quan hệ với con cái và mối quan hệ với đồng nghiệp và lãnh đạo [127]. Trên đây là kết quả rất khác biệt của hai điều tra có quy mô lớn đề cập tới quan niệm về hạnh phúc. Sự khác biệt có thể do thời điểm điều tra khác nhau hoặc do lựa chọn mẫu nghiên cứu khác nhau. Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa, xã hội Việt Nam đang có biến chuyển sâu sắc, dẫn theo đó là những biến đổi trong hệ giá trị. Cuộc sống vật chất của con người ngày một nâng cao và điều này ảnh hưởng như thế nào tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc? Những bài viết trên báo chí đã đưa ra một thực trạng: quan niệm kiểu “hạnh phúc là một tấm chăn hẹp” hay “chỉ có hạnh phúc khi có tiền”, “hạnh phúc của người này là khổ đau của người kia”… đang dần len lỏi vào suy nghĩ của một bộ phận người dân. Những yếu tố cốt yếu tạo nên hạnh phúc của người phụ nữ trong truyền thống như sự hy sinh, nhường nhịn, chung thủy, lòng khoan dung…có thể không còn là những giá trị quan trọng trong suy nghĩ của một bộ phận phụ nữ hiện nay.
  • 42. 36 Việc các kết quả nghiên cứu khác nhau và sự biến đổi trong quan niệm về hạnh phúc đã cho thấy sự cần thiết có một nghiên cứu cụ thể về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trên thực tế, người phụ nữ quan niệm như thế nào về hạnh phúc? Đây là câu hỏi sẽ được giải đáp trong luận án. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc 1.4.1 Mức sống và hạnh phúc Xưa nay, hầu hết các lý thuyết đạo đức xã hội thường nói rằng, tiền bạc gần như không có liên hệ nhân quả nào với hạnh phúc. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã cố gắng tìm hiểu mối quan hệ này và kết quả cũng rất khác biệt. Nhà xã hội học Glenn Firebaugh, Đại học Pennsylvama and Laura Tach, Đại học Harvard (Mỹ) đã nghiên cứu về vấn đề này và rút ra kết luận: hạnh phúc là khi có tiền nhưng với điều kiện người kiếm ra tiền phải cảm thấy họ kiếm được nhiều hơn những người quanh họ. Cũng cho kết quả tương sự là nghiên cứu của Edward Diener, nhà tâm lý học Đại học lninois (Mỹ). Diener kết luận, sẽ là không đúng nếu nói hạnh phúc không cần đến tiền bạc nhưng mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp. Quan niệm hạnh phúc là khi có tiền tồn tại tương đối phổ biến. Dẫn chứng là nhóm người giàu thường có tỉ lệ hài lòng với cuộc sống cao hơn nhiều so với nhóm người nghèo. Hiện tượng này đúng cho cả những nước giàu và những nước nghèo. Chuyên gia kinh tế Andrew Oswald của Đại học Warwick (Anh) cũng đồng ý với Edward Diener khi nghiên cứu một nhóm người trúng xổ số từ 2.000 USD đến 250.000 USD. Kết quả chỉ ra là mức độ hài lòng với cuộc sống của nhóm người này tăng so với hai năm trước khi họ trúng số. Và mức độ hài lòng tăng tỷ lệ thuận với mức thưởng: trúng thưởng càng lớn người trúng thưởng càng hài lòng hơn với cuộc sống của mình [53]. Các nghiên cứu ở Châu Mỹ La tinh cũng cho thấy bất bình đẳng thu nhập có tác động tiêu cực đến cảm nhận hạnh phúc của người nghèo và có tác
  • 43. 37 động tích cực đến người giàu. Ở khu vực mà bất bình đẳng lớn và những thiết chế công cũng như thị trường lao động không hiệu quả thì bất bình đẳng là biểu hiện của những ưu thế hoặc yếu thế kéo dài chứ không phải là cơ hội và tính cơ động của các nhóm. Tình trạng mất quyền và nghèo khổ thường không thể làm cho người ta hạnh phúc [26]. Tuy nhiên, Daniel Kahneman, người nhận giải Nobel kinh tế năm 2002, cùng các đồng nghiệp ở Đại học Princeton, Mỹ lại thu được kết quả khác và đưa ra phát hiện mới khi nghiên cứu mối liên hệ giữa hạnh phúc và thu nhập của các hộ gia đình. Trước tiên, nghiên cứu của Daniel Kahneman xác nhận là tỷ lệ hạnh phúc ở những gia đình có thu nhập trên 90.000 USD cao gấp đôi những gia đình có thu nhập dưới 20.000 USD. Nhưng số liệu cho thấy hầu như không có sự khác biệt nào về hạnh phúc giữa nhóm gia đình có thu nhập trên 90.000 USD với nhóm có thu nhập từ 50.000 đến 90.000 USD. Daniel Kahneman kết luận: quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc rất mờ nhạt và quan niệm “hạnh phúc là khi có tiền” không có cơ sở rõ ràng. Không phải ngẫu nhiên mà các tư tưởng gia thường khuyên con người không nên lấy tiền bạc làm thước đo hạnh phúc [53]. Đồng quan điểm với Daniel Kahneman, các nhà nghiên cứu hạnh phúc theo tiếp cận kinh tế học cho rằng: người nghèo vẫn có thể có hạnh phúc và người giàu chưa hẳn đã có hạnh phúc; một quốc gia giàu có chưa hẳn là một quốc gia có nhiều người hạnh phúc hơn một quốc gia kém giàu có hơn. Vì người nghèo có ít nhu cầu hơn nên họ có thể dễ thỏa mãn hơn và do đó cũng dễ cảm thấy hạnh phúc hơn khi đạt được các nhu cầu cơ bản và tất yếu. Người nghèo thì thoát nghèo là hạnh phúc, trong khi người giàu lại lo chất lượng cuộc sống bị suy giảm [4]. Ở nghiên cứu đầu tiên của mình, Easterlin chỉ ra một nghịch lý vẫn chưa có lời giải đáp. Khi hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc đều cho kết quả là trong mỗi quốc gia, những người giàu có hạnh phúc hơn những người
  • 44. 38 nghèo, thì các nghiên cứu về hạnh phúc giữa các quốc gia và theo thời gian khác nhau lại cho thấy rất ít mối liên hệ nếu có giữa tăng thu nhập bình quân đầu người với mức độ hạnh phúc [26]. Nhìn chung, ở các nước giàu có hơn thì người dân ở đó sẽ hạnh phúc hơn, nhưng hạnh phúc dường như chỉ tăng theo mức tăng thu nhập đến một điểm nhất định và không vượt qua điểm mốc đó. Ngay cả giữa các quốc gia nghèo hơn và kém hạnh phúc hơn thì mối quan hệ giữa thu nhập trung bình và mức hạnh phúc trung bình cũng không rõ ràng. Khi nghiên cứu về hạnh phúc ở các nước Châu Á, yếu tố thu nhập cũng là một trong những yếu tố chủ điểm. Có hai luồng tranh luận về sự cần thiết nghiên cứu mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc. Quan điểm thứ nhất, ví dụ quan điểm của Doh Chull Shin [49], nghiên cứu hạnh phúc cần thoát ly khỏi yếu tố thu nhập bởi kinh nghiệm nghiên cứu hạnh phúc ở những quốc gia Nho giáo (trong đó có Việt Nam) cho thấy, nhiều người vẫn còn chịu chi phối bởi văn hóa Nho giáo truyền thống nên lo ngại rằng nếu phát biểu những quan niệm gắn liền với vật chất có thể bị coi là người dung tục, tầm thường. Quan điểm thứ hai cởi mở, cân bằng hơn khi coi thu nhập là một trong những yếu tố tạo nên hạnh phúc. Ví dụ: Frijters, Haisken-DeNew & Shields (2004) đã ghi nhận rằng sự tăng lên của thu nhập dẫn tới hạnh phúc cao hơn. Hay nghiên cứu của Stevenson, B. and J.Wolfers (2008) cho thấy thu nhập rất quan trọng bởi nó định hướng mức sống và khả năng tiêu dùng - những yếu tố tiền đề của hạnh phúc. Những kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa mức sống và hạnh phúc gợi ra rằng: trong quan niệm về hạnh phúc, tiền chỉ là một yếu tố, chắc chắn còn có những yếu tố khác nữa. 1.4.2 Tình trạng hôn nhân và hạnh phúc Người phụ nữ có quan niệm hạnh phúc là phải kết hôn? Một số nghiên cứu đã đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này. Nghiên cứu của Carol Graham, Soumya Chattopadhyay thực hiện năm 2012 cho thấy có mối liên hệ giữa hạnh phúc và tình trạng hôn nhân. Nhìn chung, những người đã kết hôn cảm thấy hạnh phúc hơn những người không kết hôn. Những người trẻ đã kết
  • 45. 39 hôn (trong độ tuổi từ 15-40) ít hạnh phúc hơn mức trung bình, trong khi đó, những người trên 40 tuổi đã kết hôn hạnh phúc hơn mức trung bình. Cùng với đó, những người đã kết hôn ở khu vực đô thị hạnh phúc hơn mức trung bình. Tuy vậy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ hạnh phúc giữa những người kết hôn và không kết hôn ở khu vực nông thôn [3]. Một nghiên cứu cũng bàn nhiều tới các yếu tố tạo nên hạnh phúc một cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull Shin (người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri, Columbia, Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004) thu thập được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn Quốc, Singapo, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích mức độ hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn nhân (sự ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới là yếu tố đem lại hạnh phúc và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7 quốc gia nho giáo kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi lên là các quốc gia hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở các tốp sau, vì chịu nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân. Về xếp hạng khu vực, đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc hơn bất hạnh nhưng đa số người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49]. Mối quan hệ giữa hôn nhân và hạnh phúc là mối quan hệ rất đặc biệt. Nếu hôn nhân là chỉ báo cao nhất thể hiện hạnh phúc gia đình thì ly hôn lại là chỉ báo thể hiện sự thất vọng về hạnh phúc gia đình ở mức độ cao. Trong quan niệm của người phụ nữ, hôn nhân đem tới hạnh phúc nhưng các vấn đề trong hôn nhân như bạo lực, căng thẳng… lại có tác động rất tiêu cực đến tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần cũng như cảm nhận hạnh phúc của phụ nữ đó. Thậm chí làm gia tăng tỷ lệ tự tử, trầm cảm, nghiện rượu và nhiều tệ nạn xã hội khác…
  • 46. 40 1.4.3 Mức gắn kết vợ chồng và hạnh phúc Theo tác giả Moos, R. and Moos, B.S. (1994) khái niệm gắn kết là “mức độ cam kết, giúp đỡ và hỗ trợ mà các thành viên trong gia đình dành cho nhau” [trích theo 20, tr.6]. Trong đó, những cam kết về vai trò trách nhiệm có tác động rất quan trọng tới quan niệm và cảm nhận hạnh phúc của người phụ nữ. Sự gắn kết vợ chồng có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Hai vợ chồng dành cho nhau những lời khen, thường xuyên biểu lộ tình yêu, tạo cơ hội gặp nhau ngay cả khi giải quyết mâu thuẫn (tránh giải quyết qua tin nhắn), mềm dẻo trong giải quyết vấn đề và đôi khi cần sự tức giận (“Angry but honest conversations”) - có thể tức giận nhưng trung thực rất có ích cho việc đem lại hạnh phúc lâu dài. Khi nói lên sự thật, sẽ dễ tha thứ và quên. Hơn thế nữa, khi nói rõ ràng về sự tức giận có vai trò rất quan trọng. Nó như một dấu hiệu để người bạn đời biết rằng hành vi đó là không được chấp nhận, qua đó mỗi cá nhân sẽ tự điều chỉnh hành vi [23]. Một số nghiên cứu cho thấy quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi khuôn mẫu giới trong gia đình. Với người phụ nữ, hạnh phúc là khi có người chồng làm chỗ dựa về kinh tế. Cả hai vợ chồng đều kiếm được tiền càng tốt nhưng để hạnh phúc, nhất định vợ không nên kiếm tiền nhiều hơn chồng. Khi người chồng khẳng định được vai trò “công cụ” của mình thì khi đó, hạnh phúc của người phụ nữ là “giữ lửa” cho gia đình. Người phụ nữ sẽ không mong gì hơn là gia đình hoà thuận, các quan hệ nội ngoại ôn hoà. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hạnh phúc và tình trạng kinh tế của người chồng là thay đổi theo thời gian. Năm 1950, với người phụ nữ, hạnh phúc là có người chồng có tình trạng và năng lực nghề nghiệp cao hơn mình. Đến cuối năm 1970, kết quả nghiên cứu cho thấy hạnh phúc là khi chồng - vợ có tình trạng kinh tế xã hội tương đương nhau [2].