SlideShare a Scribd company logo
1 of 192
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án..............................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án .........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .......................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................3
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án...........................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.................................................................4
7. Kết cấu của luận án .................................................................................................4
Chương 1....................................................................................................................5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..........5
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân.......................................................5
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân.......................................................9
1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em
trong gia đình, gia đình nông dân..............................................................................16
1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân
Ninh Bình..................................................................................................................19
1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ..............................23
Tiểu kết chương 1....................................................................................................23
Chương 2..................................................................................................................25
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN .........................................................................25
2.1. Giáo dục đạo đức cho trẻ em..............................................................................25
2.2. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân ......................................54
Tiểu kết chương 2....................................................................................................61
Chương 3..................................................................................................................62
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
Ở NINH BÌNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
...................................................................................................................................62
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................62
3.2. Thực trạng và nguyên nhân việc giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................73
3.3. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức cho trẻ em tại các gia đình nông
dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ................................................................................102
Tiểu kết chương 3..................................................................................................107
Chương 4 ................................................................................................................108
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở NINH
BÌNH HIỆN NAY ..................................................................................................108
4.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách.............................................................108
4.2. Nhóm giải pháp dành cho gia đình và các bậc cha mẹ ....................................118
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự ý thức, tự hoàn thiện của trẻ em trong các
gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay ...................................................................139
4.4. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho trẻ em ...................................................................................140
Tiểu kết chương 4..................................................................................................147
KẾT LUẬN............................................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................180
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Giáo dục đạo đức là đề tài được quan tâm nghiên cứu từ xa xưa. Trong đó, giáo
dục đạo đức cho trẻ em có vai trò quan trọng. Đạo đức trẻ em được hình thành, phát
triển từ tổng hòa các yếu tố như tự nhiên - xã hội, truyền thống - hiện đại, hiểu biết - ý
thức - hành vi… Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình là một môi trường đặc
biệt, bởi lẽ gia đình không chỉ là tổ ấm, là trường học đầu tiên, là cái nôi nuôi dưỡng
của mỗi người mà còn là tế bào của xã hội. Gần đây, gia đình không chỉ nổi lên như
một vấn đề quan trọng và cấp thiết của riêng Việt Nam mà nó còn đang được đặt ra với
các dân tộc trên toàn thế giới. Ở mọi nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của
nó. Nó không chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp
phần quyết định đối với tương lai.
Ở nước ta hiện nay, hơn 70% dân số là nông dân. Bởi vậy, gia đình nông dân có
vai trò là cầu nối cung cấp cho xã hội những thế hệ công dân tương lai. Do đó, việc
giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân có tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng tới
chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước mai sau.
Tuy nhiên, trong các gia đình nông dân hiện nay đang nổi lên nhiều vấn đề đáng
báo động. Nhiều bậc cha mẹ suốt ngày bận bịu với công việc đồng áng mà cuộc sống
vẫn khó khăn, không ít người phải lao vào kiếm tiền nên buông lỏng việc giáo dục con
cái. Họ ỉ lại vào ông bà, nhà trường và xã hội nên trẻ em trong các gia đình này có
nhiều biểu hiện lệch lạc về đạo đức, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành
nhân cách như: không tôn trọng ông bà, cha mẹ, những người lớn tuổi; tự ý bỏ học mà
cha mẹ không hay biết; vô ý thức, không tôn trọng kỷ luật, nhiều em có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, sa ngã vào các tệ nạn như ma túy, cờ bạc, giết người, cướp của...
Nhiều ổ nhóm tội phạm bị bắt giữ khi độ tuổi của các “thành viên” chưa tròn 16. Dư
luận không khỏi bàng hoàng trước những vụ giết người man rợ mà tội phạm là “trẻ
con” như vụ án Lê Văn Luyện giết người ở tiệm vàng Ngọc Bích… Thậm chí, nhiều
người còn cho rằng tội phạm ngày nay đang “trẻ hóa”, trẻ em đang trở thành “mồi
ngon” của tội phạm. Theo báo cáo thống kê tình hình phạm tội trong lứa tuổi chưa
thành niên trong 5 năm, giai đoạn từ (2006 đến 2010) cả nước có gần 500.000 vụ
2
với gần 76.000 em vi phạm pháp luật, tăng hơn 3.000 vụ so với 5 năm trước đó.
Điều đáng lưu tâm là 40,9% trẻ em phạm tội là những em có hoàn cảnh khó khăn,
bỏ học, lang thang, thiếu sự quan tâm của gia đình [152].
Ninh Bình là một trong những tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Thời gian
qua, đặc biệt là những năm gần đây, số trẻ em phạm tội có chiều hướng gia tăng. Theo
các báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án IV “Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm
hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên” của Công an tỉnh Ninh Bình từ
năm 2002 đến nay, toàn tỉnh phát hiện ngày càng nhiều vụ việc do đối tượng là người
chưa thành niên gây ra, đáng lo ngại là mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng. Điều
này khiến cho không ít bậc làm cha, làm mẹ ở tỉnh Ninh Bình phải lo lắng.
Trẻ em vi phạm pháp luật ở tỉnh Ninh Bình ngày càng gia tăng do nhiều nguyên
nhân khác nhau, không loại trừ nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình, trong đó có gia
đình nông dân. Khi mà đời sống phải dựa vào kinh tế nông nghiệp là chính, các thành
viên của gia đình chủ yếu là giai cấp nông dân thì phần lớn thời gian phục vụ mục đích
mưu sinh. Đồng nghĩa với điều này là quỹ thời gian dành cho giáo dục trẻ em trong các
gia đình nông dân của tỉnh Ninh Bình bị thu hẹp. Không ít cha mẹ lo kiếm tiền để nuôi
con hơn là lo dạy con. Mặt khác, họ chưa được trang bị đầy đủ về những kiến thức cần
thiết về phương pháp dạy dỗ, những nội dung dạy dỗ phù hợp với từng lứa tuổi…
Đã đến lúc, chúng ta cần có sự nhìn nhận nghiêm túc hơn, đúng đắn, đầy đủ hơn
về công tác giáo dục đạo đức cho trẻ em ở nhiều cách tiếp cận khác nhau. Từ tất cả
những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các
gia đình nông dân ở Ninh Bình hiện nay”, với mong muốn đóng góp thêm vào sự
nghiệp “trồng người” bắt đầu từ môi trường giáo dục là các gia đình nông dân trên địa
bàn nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích
Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ em, luận án
phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân tỉnh Ninh
Bình; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh hiện nay.
3
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho trẻ em
+ Phân tích khái quát về gia đình và chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của
gia đình
+ Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các
gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình
+ Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo
đức cho trẻ em tại các gia đình nông dân trên địa bản nghiên cứu
+ Phân tích yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho trẻ em của các gia đình nông dân ở Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia
đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức cho
trẻ Việt Nam dưới 16 tuổi, chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và lớp 10 trung học phổ
thông, đang sống trong các gia đình nông dân tại tỉnh Ninh Bình hiện nay.
+ Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
+ Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ đề ra dựa trên quan điểm của triết
học và đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo dục đạo đức, các tài liệu tổng kết thực tiễn của
các cơ quan Đảng, Nhà nước, tỉnh Ninh Bình liên quan đến các nội dung trong luận án.
Đồng thời, luận án có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa
học đã được công bố của các tác giả, hoặc tập thể tác giả ở trong và ngoài nước có liên
4
quan đến đề tài để góp phần làm sáng tỏ thực chất, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho
trẻ em trong gia đình nông dân nói chung, gia đình nông dân ở Ninh Bình nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp như:
lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, điều tra xã hội học…
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của giáo dục đạo đức cho trẻ
em trong gia đình nông dân.
- Luận án góp phần làm rõ sự cần thiết và những nội dung, phương pháp giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở Ninh Bình hiện nay, luận án nêu lên những luận cứ khoa học cho việc đề
xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em trong
gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông
dân.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có ý nghĩa khuyến nghị trong vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các
gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác
giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án
gồm 4 chương với 14 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân
Trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình.
Ở Liên Xô trước kia, các nhà khoa học đã quan tâm đến đạo đức, giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong gia đình với những tác phẩm tiêu biểu như: “Nguyên lý
đạo đức cộng sản” của A. Siskin, “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao động
công ích” của Busơlya, 2 tác phẩm “Giáo dục trong gia đình Mác” và “Dạy con
yêu lao động” của tác giả I.A. Pê-trec-nhi-cô-va, “Đạo đức học” - 2 tập của
Bandzeladze…
Một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Nguyên lý đạo đức cộng sản” của A.
Siskin (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961). Tác giả cuốn sách đã xuất phát từ
quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu
phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục đạo đức. Ông cho rằng đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh một lĩnh vực riêng biệt. Nói đến đạo đức là
nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở thành khuôn phép, quy tắc điều
chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội. Với xuất phát điểm như vậy,
khi giáo dục đạo đức, theo tác giả, các chủ thể giáo dục phải nhận thức được đạo
đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng trên cơ sở kinh tế xã hội, cho nên nó
thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Vì vậy, người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào
những chế độ xã hội nhất định để giáo dục những giá trị đạo đức được xã hội đó
thừa nhận. Đây là một đóng góp quan trọng của tác giả. Đặc biệt, chương III của
cuốn sách đã đưa ra những nguyên tắc, khuôn phép của nền đạo đức cộng sản chủ
nghĩa, trong đó có chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo…
được xem như những chuẩn mực của con người ở xã hội đương thời và theo chúng
6
tôi, đó chính là những điều mà khi giáo dục đạo đức, các chủ thể của quá trình giáo
dục phải hết sức quan tâm.
Tác giả Busơlya với cuốn sách: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao
động công ích” (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1962) [21] đưa ra quan niệm của
mình về lao động như là cơ sở để làm điểm xuất phát cho những vấn đề cần chuyển
tải đến bạn đọc. Tác giả đề cập tới tác dụng của lao động là nền tảng cuộc sống của
con người. Bởi lẽ, các giá trị vật chất cũng như tinh thần được tạo ra trong lao động,
chính bản thân con người cũng được phát triển, hoàn thiện thêm về thể lực, trí lực
và đạo đức. Theo tác giả, lao động công ích được coi là một phương tiện giáo dục
đạo đức quan trọng nhất cho học sinh. Toàn bộ cuốn sách tập trung minh chứng cho
điều này và tác giả đã rất thành công trong việc đưa những quan niệm của mình về
cách thức giáo dục đạo đức cho đối tượng là các em học sinh, góp phần phổ biến
một phương pháp giáo dục đạo đức gắn với lao động phục vụ cộng đồng. Cuốn
sách đưa ra những minh họa trong thực tiễn hàng ngày ở các nước xô viết đương
thời để thuyết phục người đọc. Đây là nhưng kinh nghiệm quý báu mà các bậc cha
mẹ có thể tham khảo khi giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình của mình.
Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc, những vấn đề lý luận trong
xây dựng đạo đức, giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường đã được đề cập
tương đối rõ nét trong ấn phẩm: “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường” (Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, 1996) của tập thể tác giả Zhao
Xiuyi, Dong Fangshuo, Ren Jiantao … [142]. Đáng chú ý là các tác giả cho rằng
trong xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay, xây dựng đạo
đức là một nhiệm vụ quan trọng vì nó liên quan mật thiết đến đời sống tinh thần của
con người, không những thế giáo dục đạo đức cho con người mà nó còn là một
trong những nội dung hạt nhân của quá trình xây dựng nền văn minh tinh thần ở
một nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc. Đồng thời,
giáo dục đạo đức cho con người là một trong những vấn đề mà đông đảo quần
chúng nhân dân ở Trung Quốc quan tâm nhất. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi
7
nghiên cứu của giới lý luận như nhiều người từng quan niệm. Tác phẩm đã tập
trung vào mối quan hệ giữa việc phát triển kinh tế thị trường với các ảnh hưởng của
nó tới các vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức, thông qua đó, tập thể tác giả đưa ra
những nhận định về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho con người nói chung,
đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở đất nước Trung Quốc là hết sức cần thiết.
Như vậy, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu ở Trung Quốc, trong quá
trình cải cách cũng xuất hiện mối quan hệ phức tạp giữa kinh tế thị trường với luân
lý đạo đức, giữa mặt truyền thống và mặt hiện đại trong giáo dục đạo đức. Mặc dù
phức tạp và đa dạng như vậy nhưng tập thể tác giả cho rằng việc thực hiện các
chuẩn mực và quy phạm đạo đức diễn ra một cách tự giác, tự nguyện sau khi các
thành viên xã hội đã nhận thức đúng đắn về một nền đạo đức xã hội nhất định. Vì
thế, những người tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cần lưu tâm một điều là
không nên ép buộc người khác thực hiện hành vi đạo đức mà nên làm cho họ hiểu
những giá trị đạo đức để họ thực hiện hành vi đạo đức một cách tự nguyện. Có thể
nói, đấy là đóng góp quan trọng mà cuốn sách mang lại cho người đọc quan tâm tới
vấn đề giáo dục đạo đức.
Các tác giả đã xuất phát từ quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ
nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục
đạo đức. Nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ
nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở
thành khuôn phép, quy tắc điều chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội.
Người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào những chế độ xã hội nhất định để giáo dục
những giá trị đạo đức được xã hội đó thừa nhận.
Ở nước ta, từ trước đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến
vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình và gia
đình nông dân.
Cuốn sách: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” do Nhà
xuất bản Khoa học xã hội ấn hành (1980) của tác giả Trần Văn Giàu [53] đã đưa lại
8
cho người đọc một cái nhìn khái quát về các giá trị đạo đức cơ bản của dân tộc ta
như yêu nước, cần cù, sáng tạo, anh dũng, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo
tác giả, Hồ Chủ tịch là người kết tinh của các giá trị truyền thống và đạo đức cách
mạng Việt Nam, đồng thời cũng là người rất trọng đạo đức và giáo dục đạo đức.
Cuốn sách: “Tuổi thơ” (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1985), của tác giả Trang
Thanh [114] là một cuốn nhật ký của chính tác giả viết về những kinh nghiệm của bản
thân trong quá trình nuôi dưỡng, giáo dục con cái tại gia đình. Những năm tháng đầu
tiên của tuổi thơ là khoảng thời gian xây dựng nền tảng cho toàn bộ quá trình phát triển
thể lực và trí lực của con người tương lai. Như vậy, tác giả đã cung cấp cho người đọc
những kinh nghiệm thực tiễn quý báu, góp thêm tiếng nói vào việc giáo dục đạo đức
cho trẻ em có hiệu quả hơn.
Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004) trong cuốn sách: “Hệ thống phạm trù
đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội) [77] các tác giả đi sâu phân tích hệ thống các phạm trù cơ bản của đạo đức học
như vấn đề lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, lương tâm, thiện, ác… với tư cách là những
phạm trù luôn được thể hiện rõ nét ở cách hành xử của mỗi cá nhân trong cuộc sống
thường ngày.
“Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức” do Nguyễn Hữu Hợp chủ biên
(Nhà xuất bản Giáo dục, 2010) [68] tập trung nghiên cứu sâu các phương pháp giáo
dục đạo đức cho từng nội dung cụ thể.
Tác giả Thích Minh Hòa (2011) trong cuốn sách: “Ý nghĩa giáo dục đạo đức”
(Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh) [60] tiếp cận và trình bày
những ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức theo tinh thần của các pháp thế gian và theo
tinh thần của giáo lý Phật Đà.
Trên đây là những tài liệu có liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân. Nhìn chung, các nghiên cứu đã
bàn luận xung quanh những vấn đề lý luận là chủ yếu. Tuy nhiên, tiếp cận vấn đề dưới
góc độ nghiên cứu ứng dụng vẫn còn cần tiếp tục khai thác và bổ sung.
9
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân
Ở nước ta, do đòi hỏi của thực tiễn, các công trình nghiên cứu về thực trạng giáo
dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân ngày càng
trở nên phong phú.
Một trong những đề tài cấp Nhà nước tiêu biểu là KX 07 - 09: “Vai trò của gia
đình trong sự hình thành phát triển nhân cách con người Việt Nam” của Trung tâm
nghiên cứu về gia đình và phụ nữ do GS. Lê Thi làm chủ nhiệm [118], được in ấn
thành sách: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
phát hành năm 1994. Phần thứ nhất, các tác giả tập trung vào những vấn đề lý luận
chung về gia đình. Phần hai, các tác giả đi sâu phân tích chức năng giáo dục của gia
đình. Cuốn sách góp phần nêu lên một bức tranh tương đối toàn diện về vai trò của gia
đình, các thành viên trong gia đình với việc giáo dục thế hệ trẻ; những nội dung,
phương pháp giáo dục hiện nay cũng như sự ảnh hưởng của các môi trường giáo dục
khác đến giáo dục gia đình.
Luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam” (1999) [101] của Trần Sĩ Phán đã tập trung
phân tích vai trò của giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay. Vì vậy, việc tập
trung nghiên cứu vai trò của giáo dục đạo đức cho lứa tuổi nhỏ hơn vẫn cần có sự đầu
tư hơn nữa, nhất là vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, bởi lẽ, đây là lứa
tuổi mà giáo dục gia đình sẽ quyết định tới sự hình thành nhân cách của trẻ ở giai đoạn
phát triển tiếp theo.
Nguyễn Văn Lý trong luận án Tiến sĩ Triết học (2000) với đề tài: “Kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” [86] đặt ra vấn đề cấp thiết phải có những đổi mới
trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Theo tác giả, những nội dung các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta rất phong phú, đa dạng, trong đó có yêu nước, nhân
ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù, tiết kiệm, khiêm tốn, giản dị, lạc quan,
10
thủy chung… là những nội dung cơ bản cần được giáo dục cho thế hệ trẻ. Bên cạnh
đó, luận án cũng đưa ra những vấn đề đạo đức hiện nay, mang hơi thở của thời đại
mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang được tiếp xúc. Vấn đề mà tác giả đặt ra để
giải quyết là làm thế nào chúng ta vẫn giữ gìn được những nét tốt đẹp trong truyền
thống đạo đức đã có tự ngàn đời, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh
hoa của xã hội hiện đại về lĩnh vực đạo đức. Tác giả khẳng định giáo dục phải quán
triệt trong cả ba môi trường là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, gia đình,
nhà trường quan trọng đặc biệt, với điều kiện phát triển kinh tế như hiện nay, những
mặt tích cực, tiêu cực của xã hội đang dội vào cuộc sống của từng gia đình. Việc coi
trọng chức năng kinh tế của gia đình là rất cần thiết để tạo điều kiện cho việc thực
hiện các chức năng khác nhưng nhiều gia đình không chú trọng đến việc giáo dục,
tự giáo dục của các thành viên trong gia đình hoặc họ chú ý trí dục hơn đức dục.
Tác giả cũng đưa ra kết quả nghiên cứu có gia đình quan tâm đến giáo dục đạo đức
thì tỏ ra lúng túng trong triển khai nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức. Như
vậy, tác giả Nguyễn Văn Lý trong luận án tiến sĩ của mình đã tiếp cận, nghiên cứu
đề tài từ góc độ triết học, khẳng định trong bối cảnh hiện nay, đạo đức truyền thống
vẫn luôn là nền tảng để xây dựng đạo đức mới.
Trong luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân
cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” (2000) tác giả Lê Thị
Thủy [122] cho rằng đạo đức với chức năng điều chỉnh hành vi của con người, chức
năng nhận thức, chức năng giáo dục, nó có vai trò quan trọng đối với sự hình thành
nhân cách con người Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đạo đức với quá trình
hình thành nhân cách của con người trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Bài viết: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay và những
biến động trong lĩnh vực đạo đức” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [25], đăng trên
Tạp chí Triết học số 9, tháng 12 - 2001. Tác giả đã phân tích mối quan hệ tác động
đan xem giữa những yếu tố thuộc về nền kinh tế thị trường với những vấn đề thuộc
11
về lĩnh vực đạo đức. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng tất cả những biến động trong
lĩnh vực đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong chế
độ kinh tế - xã hội. Vì vậy, để xây dựng một cách vững chắc các mối quan hệ đạo
đức và phẩm chất đạo đức lành mạnh trong điều kiện hiện nay ở nước ta thì phải kết
hợp những biện pháp mạnh của pháp luật với giáo dục đạo đức.
Luận án Tiến sĩ Triết học của tác giả Đỗ Tuyết Bảo (2001), đề tài: “Giáo dục
đạo đức cho học sinh trường Trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều
kiện đổi mới hiện nay” [13]. Tác giả luận án quan niệm giáo dục đạo đức là một trong
những điểm chủ yếu cốt lõi của nội dung giáo dục, nó giữ vị trí chủ đạo, xuyên suốt
toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách để hình thành những phẩm chất cao đẹp của con
người. Chúng ta càng phải chú ý giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông đối với
học sinh ở lứa tuổi thiếu niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự hình
thành, phát triển nhân cách của mình.
Tác giả Đỗ Tuyết Bảo cũng nhấn mạnh rằng sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang
đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực, cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành phần
đang phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng mặt khác nó cũng
bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, trong sự cảm thụ
văn hóa nghệ thuật cũng như trong tâm lý đạo đức của các tầng lớp dân cư. Những ảnh
hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ, làm sai lệch các chuẩn mực đạo
đức, dẫn tới suy thoái về đạo đức ở một bộ phận dân cư trong xã hội, ảnh hưởng xấu tới
nhân cách của thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức cho học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh
trong điều kiện mới hiện nay được đặt ra trong khung cảnh và ý nghĩa xã hội đó.
Tác giả Lê Ngọc Anh (2002) trong bài viết: “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp
sống văn hóa gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
[6] đăng trên Tạp chí Triết học, số 1, tháng 1 - 2002 đề cập đến sự thay đổi của đạo đức
xã hội trong kinh tế thị trường. Quan niệm về sức mạnh của đồng tiền đã có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giáo dục các giá trị đạo đức nhân văn chân chính, giáo dục đạo lý
truyền thống trong gia đình. Trong bối cảnh đó, theo tác giả, gia đình vẫn mãi mãi là
cái nôi nuôi dưỡng, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cho con người từ lúc nhỏ đến lúc
12
trưởng thành. Gia đình là trường học đầu tiên giáo dưỡng nhân cách và lối sống có văn
hóa, có đạo lý cho con người. Gia giáo bao giờ cũng đi trước giáo dục xã hội. Vinh dự
và trách nhiệm của gia đình là cung cấp cho xã hội những công dân ưu tú cả về tài năng
lẫn đạo đức [6; tr. 20].
Bài viết: “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Nguyễn
Thị Khoa (2002) [76] đăng trên Tạp chí Triết học, số 4, tháng 4 - 2002 đề cập đến một
thực trạng đáng buồn là trong xã hội xuất hiện những hiện tượng coi thường giáo dục
gia đình xảy ra ngày càng nhiều. Hiện tượng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức,
cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, làm phá vỡ dần dần
những mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình. Trước tình hình đó, tác giả nhận thấy
Nhà nước, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân cần coi trọng việc xây dựng đạo đức gia
đình trên cơ sở kế thừa những quy tắc truyền thống như tôn kính, phụng dưỡng ông bà
cha mẹ, đề cao việc tu dưỡng bản thân… để góp phần xây dựng đạo đức xã hội [76; tr.
23].
Nguyễn Đức Mạnh (2002) trong luận án Tiến sĩ Xã hội học, đề tài: “Vai trò của
gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hư ở thành phố: qua nghiên cứu ở thành phố Hà
Nội” [89] tập trung vào đối tượng là trẻ em hư ở thành phố. Giáo dục trẻ em hư là việc
làm khó khăn đối với nhiều gia đình. Tác giả đã nghiên cứu tìm tòi, điều tra xã hội học
và đi đến kết luận văn hóa gia đình có ý nghĩa to lớn. Những tính cách của các thành
viên trong gia đình chính là sản phẩm văn hóa trong gia đình mà họ đã tồn tại. Vì vậy,
một gia đình có môi trường văn hóa lành mạnh chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất tốt đến
tính cách sau này của con cháu.
Tác giả Lê Thị Hoài Thanh với công trình luận án Tiến sĩ Triết học (2003), đề
tài: “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Việt Nam hiện nay” [112] đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu
tố truyền thống với các yếu tố hiện đại trong giáo dục đạo đức, tác giả chú ý phân tích
đặc điểm, xu hướng biến đổi về đạo đức của thanh niên nước ta hiện nay để tìm tòi ra
những vấn đề cần giải quyết. Tác giả đặc biệt chú ý đến việc chuyển tải các nội dung
chủ yếu thuộc về giá trị đạo đức truyền thống đến với thế hệ trẻ như: chủ nghĩa yêu
13
nước, lòng nhân ái, thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính yêu lao động,
cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo, đức tính khiêm tốn,
giản dị, lạc quan… với mong muốn các em trên bước đường hội nhập, tiếp thu những
điều mới mẻ, hiện đại, đừng lãng quên những giá trị đạo đức tốt đẹp của cha ông đã
được hun đúc qua rất nhiều thế hệ trong lịch sử. Đây là một trong những nguồn tài liệu
quý báu để luận án làm cơ sở xây dựng tiêu chí đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong gia đình nông dân ở Ninh Bình.
Hoàng Bá Thịnh (2006) trong cuốn sách: “Biến đổi chức năng của gia đình và
giáo dục trẻ em hiện nay” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội) [119] đã cho rằng
ngày nay, phương pháp giáo dục con cái theo kiểu độc đoán, áp đặt đã giảm, tính dân
chủ trong mối quan hệ gia đình được tôn trọng và đề cao hơn trước. Xuất phát từ nhận
định như vậy, tác giả tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các chủ thể giáo dục trong
gia đình đối với sự phát triển của trẻ em nói chung và đạo đức trẻ em nói riêng. Tác giả
đem đến cho người đọc nhiều thông tin cho thấy cha mẹ có trình độ văn hóa thấp cũng
ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc và giáo dục con cái. Một trong những biểu hiện rõ
nét là số liệu thống kê tư pháp cho thấy cứ 100 thanh thiếu niên phạm pháp thì 50%
trong số đó là có nguyên nhân từ việc gia đình buông lỏng quản lý, giáo dục thường
xuyên, dẫn đến uốn nắn những hành vi sai trái của con em mình không kịp thời, gây
nên hậu quả đáng buồn.
Tác giả Trịnh Duy Huy (2007) trong công trình luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài:
“Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
[69] tập trung phân tích những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, tác động của nó
đối với sự phát triển đạo đức, những chuẩn mực và thực trạng đạo đức của nước ta.
Trong thời gian gần đây, vấn đề giáo dục đạo đức tiếp tục được các học giả
nghiên cứu ở những khía cạnh cụ thể hơn với những đối tượng và địa bàn nghiên cứu
chuyên biệt hơn.
Tác giả Nguyễn Thị Thọ (2010) trong luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Đạo
đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” tập trung làm rõ tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay. Tác giả nhấn
14
mạnh khía cạnh giáo dục đạo đức, giáo dục nề nếp gia phong, gia lễ là quan trọng nhất
trong giáo dục gia đình, vì đạo đức là thành phần cốt lõi của nhân cách… giáo dục đạo
đức trong gia đình tạo nền tảng nhân cách cho con người vào đời, ở đời và làm người
[121; tr. 22]. Có thể nói, dưới góc độ triết học, đạo đức học, tác giả đã đưa ra được cái
nhìn tổng quát về đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta, tìm ra
những giải pháp mang tính định hướng trong việc xây dựng đạo đức gia đình.
Nguyễn Thị Tố Quyên trong luận án Tiến sĩ Xã hội học (2010), đề tài: “Vai trò
của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi Trung học cơ sở ở Hà Nội
hiện nay” [110] đưa ra quan niệm giáo dục đạo đức gồm bốn nội dung cơ bản là giáo
dục giá trị đạo đức, giáo dục chuẩn mực đạo đức, giáo dục hành vi đạo đức và giáo dục
lý tưởng đạo đức. Tác giả luận án cũng đã phân tích đến các yếu tố ảnh hưởng như mức
sống của gia đình, tình trạng hôn nhân, số thành viên, số thế hệ trong gia đình, nghề
nghiệp, trình độ học vấn của cha mẹ, vị thế xã hội, tuổi tác… đến việc giáo dục đạo
đức cho học sinh Trung học cơ sở và địa bàn nghiên cứu mà tác giả thực hiện là thành
phố Hà Nội. Với sự phân tích của mình, tác giả đi đến khẳng định gia đình là môi
trường quan trọng bậc nhất của giáo dục đạo đức, là nơi bảo tồn những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Một xã hội muốn vững mạnh, một dân tộc muốn phát huy và
giữ gìn bản sắc của mình trước hết phải chăm lo xây dựng gia đình lành mạnh, trong đó
các giá trị đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển [110; tr. 47]
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu, tác giả đi đến nhận định về tầm quan trọng
của giáo dục gia đình là 15 năm đầu tiên trong cuộc đời một con người, gia đình chịu
trách nhiệm về con em mình 90.000 giờ, trong đó nhà trường phổ thông chỉ quản lý
con em chúng ta khoảng 15.000 giờ [110; tr. 32]
Tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình trong giáo
dục đạo đức cho trẻ em theo hướng tiếp cận xã hội học. Điểm đặc biệt của công trình
này là tìm hiểu, phân tích thái độ, hành vi tiếp nhận của con cái đối với giáo dục đạo
đức của cha mẹ trong gia đình. Qua khảo sát thực tế tại 2 khu vực là quận Ba Đình và
huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội, tác giả luận án nhận thấy là hầu hết các bậc phụ
huynh đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình đối với
15
sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ em. Tuy nhiên, do áp lực của công việc và
hoạt động kiếm sống nên nhiều bậc cha mẹ gặp phải khó khăn, thiếu thời gian quan
tâm chăm sóc, giáo dục con cái.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, tác giả luận án đi đến kết luận chung rằng
trong một xã hội đang biến đổi, do hạn chế về tri thức, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm
sống, phương pháp, kỹ năng giáo dục… vẫn còn một số lượng đáng kể các bậc cha mẹ
chưa làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện chức năng giáo dục con cái. Những
giá trị đạo đức quý báu của dân tộc như lòng hiếu thảo, nhân ái, yêu lao động, trung
thực… là những nội dung mà các phụ huynh tập trung giáo dục cho con cái trong gia
đình.
Ngô Thị Thu Ngà (2011) nghiên cứu đề tài: “Giá trị đạo đức truyền thống với
việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” [98]. Trong luận án Tiến
sĩ Triết học này, tác giả đã phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới
cho thế hệ trẻ ở nước ta bối cảnh hiện nay, đặc biệt tập trung vào giáo dục những giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta.
Liên quan đến đề tài còn có nhiều công trình như luận án Tiến sĩ Khoa học giáo
dục, đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho vận động viên
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Lê Ngọc Trung (2012) [126] cũng đề cập
đến giáo dục đạo đức nhưng hướng vào đối tượng vận động viên của nước ta là chủ
yếu. Hà Thị Kim Linh (2012) với luận án Tiến sĩ Giáo dục học đã tập trung nghiên cứu
đề tài: “Sử dụng trò chơi dân gian nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học miền
núi Đông bắc” [80] cũng đã đóng góp vào sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục đạo
đức nói riêng.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức, giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân trên đây đã giúp chúng ta
hình dung được một bức tranh tương đối đa dạng với nhiều nội dung, phương pháp
giáo dục khác nhau cho những thành viên của gia đình nói chung và trẻ em nói riêng.
Tuy nhiên, số lượng công trình nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong gia đình nông dân còn khá khiêm tốn, trong khi thực tế đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cần được sự quan tâm, sự chung tay góp sức của toàn xã hội.
16
1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ
em trong gia đình, gia đình nông dân
Trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản”, tác giả A. Siskin không chỉ
dừng lại ở việc nêu, phân tích một số nội dung chủ yếu khi giáo dục đạo đức cho trẻ em
ở trong gia đình, còn đề cập đến phương pháp giáo dục như thế nào thì hiệu quả và như
thế nào là sai lầm. Tác giả đưa ra dẫn chứng về phương pháp dạy con theo kiểu nuông
chiều, đòi sao nghe vậy, mặc ý nghịch ngợm, không theo dõi, bảo ban, tha thứ đối với
những sai lầm nghiêm trọng của con cái, những thái độ đó rất dễ dẫn đến sai lầm. Nó
tiềm ẩn những nhân tố có thể làm hư hỏng trẻ em, làm cho chúng trở thành kẻ vị kỷ, trở
thành đứa trẻ lệch lạc về đạo đức. Ngược lại, lối giáo dục trẻ em chỉ dựa vào trừng
phạt, dọa nạt, roi vọt đánh mắng có nguy cơ tiềm ẩn là vùi dập trẻ em, biến các em
thành những người nhút nhát, sợ sệt, giả dối, a dua xu nịnh, lì lợm... Nguyên tắc tôn
trọng con người tới mức cao nhất là một trong những nguyên tắc rất quan trọng mà gia
đình Xô - viết dựa vào đó để tiến hành giáo dục đạo đức đúng đắn cho trẻ em [111; tr.
271]. Có thể nói, tác giả đã cung cấp cho người đọc một số điểm đáng lưu ý khi giáo
dục đạo đức phải căn cứ vào đối tượng giáo dục để có phương pháp hợp lý, mang lại
hiệu quả như mong muốn.
Cũng trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản” tác giả còn đề cập đến
những cha mẹ giải quyết vấn đề giáo dục con cái theo quan điểm tiện cho cá nhân
mình, mà không nhớ rằng bản thân mình có trách nhiệm đối với xã hội. Theo tác giả,
khi cha mẹ chứng kiến những hành vi hư hỏng, xấu xa của con mình thì trước tiên phải
tự hỏi mình xem đã giáo dục con cái mình như thế nào. Điều này cũng có nghĩa là khi
sử dụng các phương pháp giáo dục, trong đó có việc nêu gương thì trước tiên, cha mẹ
với tư cách là các chủ thể giáo dục phải là những tấm gương sáng cho con cái họ noi
theo. Tác giả đưa ra ví dụ như những hành vi gương mẫu, uy tín đạo đức của cha mẹ,
quan hệ trong sạch giữa cha mẹ và con cái, việc tổ chức đúng đắn đời sống cá nhân, đời
sống chung trong gia đình… tất cả những cái đó thường xuyên có tác dụng lớn lao, có
thể nói vắn tắt là có tác dụng quyết định đối với việc giáo dục con cái trong gia đình.
Những người làm cha mẹ phải luôn luôn ghi nhớ mãi mãi rằng trách nhiệm lớn lao của
mình đối với xã hội là giáo dục người công dân tương lai cho đất nước, phải làm cho
17
con cái trở thành những người công dân trung thành với Tổ quốc. Người công dân ấy
phải có đầy lòng hăng hái, dũng cảm, cứng cỏi, quyết tâm khắc phục bất cứ một trở lực
nào, trung thành, thẳng thắn, thật thà. Các bậc cha mẹ phải làm tròn những nhiệm vụ
cao là trong giáo dục đạo đức cho con cái thì con cái mới biết ơn người làm cha làm
mẹ.
A. C. Ma-ca-ren-cô là nhà giáo dục nổi tiếng của Xô - viết trước đây đã dành
nhiều tâm huyết, năng lực và tình yêu cho con trẻ. Trong cuốn sách: “Nói chuyện về
giáo dục gia đình” (Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1978) [87] ông cho rằng giáo
dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình, nó không
khó khăn ghê gớm như nhiều người lầm tưởng. Cuốn sách khuyên các bậc cha mẹ phải
có tình yêu, trách nhiệm và kiến thức; giáo dục gia đình phải tiến hành ngay từ đầu, khi
các em còn nhỏ. Những nguyên lý giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả
A. C. Ma-ca-ren-cô cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Ngoài ra, từ trang 215 đến trang 227 của “Đạo đức học” - tập 2 (Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 1985) [11], Bandzeladze tập trung đề cập đến phương pháp nêu
gương của những người làm cha làm mẹ và tác dụng của phương pháp này. Trên cơ sở
phân tích cả về mặt lý thuyết lẫn những ví dụ thực tế, ông đưa ra nhận định rằng giáo
dục được những người có đức hạnh là một sự bảo đảm cho sự tiến bộ xã hội, đồng thời
đây cũng là một nguồn hạnh phúc cá nhân. Lớp trẻ được giáo dục tốt, đó là một sự đền
bù xứng đáng cho công lao của bố mẹ. Không phải chỉ có bố mẹ có nghĩa vụ với con,
ngược lại, con cũng có nghĩa vụ đối với bố mẹ [11; tr. 224]. Những quan niệm trên góp
phần vào việc giáo dục đạo đức đối với các thành viên trong gia đình đều phải quan
tâm chăm sóc lẫn nhau, tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức luôn đi liền với nhau,
biểu hiện ở nhiều góc độ với những chủ thể khác nhau, tránh tình trạng cha mẹ luôn là
người áp đặt việc thực hiện những hành vi đạo đức cho con cái và ngược lại.
Cuốn sách: “Những tình huống ứng xử trong gia đình” do Lê Minh chủ biên
(Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998) [95] đưa ra quan niệm đứa trẻ là thành viên
non nớt nhất, như một cái mầm cây vừa mới nhú, chưa thể một mình chống đỡ trước
bão táp, nhưng trẻ lại có một cơ thể đầy nhựa sống tiềm ẩn để phát triển. Tạo nhân cách
cho trẻ nhân cách cho trẻ ngay từ khi lọt lòng mẹ đến sau này là một khoa học và đòi
18
hỏi phải có nghệ thuật, trong đó, muốn giáo dục con có hiệu quả thì các thành viên phải
cùng nhau vun đắp tình yêu thương. Giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình bằng
tình cảm thương yêu của những người lớn tuổi, nhất là bố mẹ, dành cho con là một
trong những phương pháp được tác giả cho rằng có hiệu quả.
“Dạy con nên người” của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố Hà Nội
(2000) [62] cũng là một cuốn sách hay mà ở đó, các tác giả cung cấp những kiến thức
hết sức cần thiết về nội dung (trong đó có nội dung giáo dục đạo đức), phương pháp,
trách nhiệm của những người làm cha, làm mẹ khi giáo dục con cái trong gia đình của
mình, ở đó có những ví dụ minh họa cụ thể giúp các bậc cha mẹ dễ dàng hình dung và
đó là những tài liệu tham khảo hữu ích cho quá trình giáo dục con em mình.
Tác giả Phạm Minh Hạc chủ biên (2001) cuốn sách: “Về phát triển toàn diện
con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [55] vạch ra định hướng cơ bản xây
dựng đạo đức con người trong thời kỳ này là trau dồi hệ thống các chuẩn mực đạo đức
về những mối quan hệ sau: nhận thức chính trị - tư tưởng, sự tự hoàn thiện bản thân.
Tác giả Hồ Sỹ Vịnh trong bài viết: “Xây dựng bản lĩnh văn hóa Việt Nam để
thích nghi với xu thế toàn cầu hóa” được in ở cuốn sách: “Giá trị truyền thống trước
những thách thức của toàn cầu hóa” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
nhìn nhận vấn đề gia đình từ góc độ văn hóa. Ông cho rằng có sự mâu thuẫn giữa các
thành viên trong gia đình, đồng thời sẽ phải có những phương thức giải quyết thấu tình,
đạt lý, có sức thuyết phục, làm gương cho con cháu noi theo. Điều này có thể được bắt
đầu từ việc giáo dục cho các bậc làm cha, làm mẹ, đúng như Mác nói là người giáo dục
cũng cần được giáo dục. Đây không phải là quan niệm mới mẻ những không ít bậc phụ
huynh chưa ý thức sâu sắc về nó nên điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo
dục đạo đức trong môi trường gia đình.
Cuốn sách: “Dạy con nên người” do tác giả Hà Phương biên soạn, năm 2009
[104], tập trung nghiên cứu những cách thức giáo dục trẻ về tính độc lập, lòng bao
dung, lễ độ, tự tin… trong môi trường giáo dục là gia đình. Những ví dụ minh họa
được tác giả đưa ra hết sức cụ thể và thuyết phục.
19
Những công trình trên đã đưa ra nhiều tiếng nói khác nhau liên quan đến các
phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông
dân. Nhìn chung, các tác giả đã xuất phát từ việc phân tích thực trạng để rút ra
nguyên nhân, trên cơ sở đó có phương hướng giải quyết đúng đắn, giải pháp phù
hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Các công trình đã quan tâm lý giải, đưa
ra nhiều cách thức khác nhau để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình sao cho
đạt hiệu quả cao. Hai đối tượng được quan tâm đề cập nhiều nhất khi nói về giải
pháp chính là chủ thể giáo dục (chủ yếu là cha mẹ) và khách thể giáo dục (trẻ em).
Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về các phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong một loại gia đình nào đó như gia đình công nhân, gia đình nông dân,
gia đình trí thức… thì đây còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Tìm hiểu việc
thực hiện chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của gia đình nông dân tại một tỉnh là
Ninh Bình hiện nay vẫn là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.
1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân
Ninh Bình
“Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”. Vì vậy, trẻ em phải được chăm sóc
trong điều kiện tốt nhất, đó không phải là nhiệm vụ của riêng các cấp hay các ngành
nào, mà chính là nhiệm vụ của toàn xã hội.
Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ được xem là một trong những chính sách ưu
tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước và địa phương trong việc đảm bảo an sinh xã
hội, vì mục tiêu phát triển ổn định, lâu dài của đất nước. Vì vậy, đã có nhiều văn
bản được đưa ra, đi vào thực tiễn cuộc sống để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
tiêu biểu như:
Chỉ thị 20 - CT/TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình
mới; Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Công văn
số 1271/LĐTBXH-BVCSTE ngày 12/4/2013 của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội về việc triển khai Tháng hành động vì trẻ em năm 2013, nhiều địa phương trên
cả nước đã xây dựng kế hoạch triển khai "Tháng hành động vì trẻ em" (1/6/2013 -
20
30/6/2013) với chủ đề: “Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho trẻ em nghèo và trẻ em
dân tộc thiểu số". Chỉ thị 38/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII)
và Thông tri 04/TT-TW của Thường vụ Bộ chính trị về tăng cường lãnh đạo công
tác Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chỉ thị 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em; Thông tư liên tịch 121 giữa Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam về
việc phối hợp hoạt động bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trong cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Nghị quyết Liên tịch số
01 giữa Bộ Công an và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về tham gia “Quản lý giáo
dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội” giai đoạn 2008 - 2012.
Nhằm cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết từ năm 1990, thời gian
qua, các cấp, các ngành ở tỉnh Ninh Bình đã quan tâm ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, triển khai công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; lồng ghép các mục tiêu
về trẻ em vào nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa
phương, qua đó tạo điều kiện để mọi chăm sóc toàn diện cho trẻ em về sức khỏe,
học tập, vui chơi giải trí, phát triển tài năng. Trên cơ sở văn bản của Trung ương,
của tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp xã đã ban hành nhiều
văn bản để hướng dẫn, chỉ đạo việc triển khai thực hiện luật và các chính sách về
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền như ban hành các văn bản, in sách, tờ rơi,
loa đài truyền thanh, báo chí, truyền hình, pano, áp phích, khẩu hiệu, hội họp, diễn
đàn, tọa đàm…, nội dung Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em; Luật bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; 15 mục tiêu Chương trình hành động vì trẻ em; các
tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, những nội dung phòng tránh tai nạn
thương tích, phòng ngừa xâm hại trẻ em... được phổ biến tới mọi người dân trong
tỉnh.
Công tác truyền thông, tuyên truyền, vận động được quan tâm đúng mức đã
góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã
21
hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đóng góp vào việc thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh [153].
Ở tỉnh Ninh Bình, chưa có văn bản cụ thể về công tác giáo dục đạo đức cho
trẻ em trong gia đình nông dân. Những văn bản có liên quan đến vấn đề này là 102/
UBND - VP6 (18/5/2013) của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc hoạt động nhân ngày
gia đình Việt Nam 28/6; văn bản 19/ BC - UBND (1/3/2012) báo cáo tình hình đầu
tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn
2006 - 2011. Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình số 13/2002 về việc triển
khai thực hiện nghị định 134/1999/ QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giai đoạn 1999 - 2002.
Thông qua văn bản 20/ BC - UBND năm 2012, báo cáo tình hình thực hiện chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em, Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em Tỉnh phối hợp
với các ban, ngành, đoàn thể, Đài phát thanh truyền hình, Báo Ninh Bình tổ chức
tuyên truyền các quy định trong quyết định 134, các mục tiêu của chương trình hành
động góp phần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lực
lượng xã hội, các gia đình và mọi công dân đối với công tác bảo vệ chăm sóc trẻ
em.
Những năm qua, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể và sự ủng hộ của các tầng lớp
nhân dân, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh đã thực sự đi
vào cuộc sống. Công tác tuyên truyền được triển khai sâu rộng, đạt hiệu quả cao.
Thực hiện sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các phong trào thi đua diễn ra
sôi nổi, rộng khắp, tiêu biểu là: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc”, “Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan”, “xây dựng làng, xã, gia
đình văn hoá”, “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”… được đẩy mạnh, có sự
phối hợp tích cực giữa Hội Phụ nữ với ngành văn hoá, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng nhân dân.
22
Nhìn chung, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn xã
hội mà trực tiếp là gia đình, nhà trường.
Trong các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học, các bài viết nêu trên, các
tác giả đã đứng ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã
hội học, triết học, quản lý giáo dục… để cùng nhìn nhận, xem xét, đánh giá những vấn
đề có liên quan đến giáo dục đạo đức, gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình, giáo
dục đạo đức cho trẻ em. Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình được nhiều
tác giả đề cập đến với tư cách là một nội dung chủ yếu của giáo dục gia đình. Điều này
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển nhân cách trẻ em.
Tựu chung lại, những tài liệu đã được công bố rộng rãi cung cấp cho người đọc
những cái nhìn tổng thể, bao quát giống như một bức tranh toàn cảnh những vấn đề
xung quanh việc làm rất có ý nghĩa là giáo dục đạo đức cho trẻ em tại gia đình.
Tuy nhiên, phần lớn những công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận vấn đề ở
diện rộng, cũng có những công trình nghiên cứu công phu về giáo dục đạo đức cho đối
tượng là thế hệ trẻ nói chung, sinh viên Việt Nam, vận động viên, học sinh trung học cơ
sở sống trên địa bàn thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… nhưng bàn
về giáo dục đạo đức cho đối tượng trẻ em là con của gia đình nông dân, đặc biệt là
nghiên cứu đạo đức học vận dụng vào thực tiễn ở một tỉnh như Ninh Bình thì cho đến
nay vẫn còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong
các gia đình nông dân ở Ninh Bình là vấn đề còn là vấn đề ít được quan tâm nghiên
cứu.
Chúng tôi nhận định rằng các tác giả đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau
xung quanh những biến đổi, những tác động của các yếu tố tới việc giáo dục đạo đức.
Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, mỗi công trình đề cập đến những khía cạnh khác
nhau. Song, chúng ta có thể thấy rằng, các nghiên cứu chuyên biệt về cách thức giáo
dục những giá trị đạo đức cho trẻ em vẫn cần được quan tâm thích đáng hơn nữa, bởi
các em chính là người chủ tương lai của quê hương, đất nước. Những công trình của
23
các tác giả đã được công bố với giá trị nhiều mặt của nó là tài liệu hết sức quý báu giúp
tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu của mình.
1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đặt
ra như sau:
Một là, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình.
Hai là, về phương diện lý luận, giáo dục đạo đức cho trẻ em có tầm quan trọng
đặc biệt, được cả nhân loại quan tâm. Điều này được thể hiện thông qua hoạt động của
các tổ chức quốc tế, nhưng ở mỗi nước, vấn đề trên được quan tâm ở nhiều mức độ
khác nhau. Vậy, làm thế nào để những tri thức lý luận về giáo dục đạo đức cho trẻ em
được đi vào thực tiễn cuộc sống là vấn đề được đặt ra, đòi hỏi sự quan tâm giải quyết
của các cấp, các ngành, các địa phương và sự chung tay của toàn xã hội.
Ba là, những đặc thù về kinh tế xã hội của các gia đình nông dân cũng như
những đặc thù của quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình đó cũng
đang là mảng trống, cần được tiếp tục khai thác, nghiên cứu sâu.
Bốn là, quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân tỉnh Ninh
Bình chịu tác động của những yếu tố nào, trong đó, yếu tố nào là chủ đạo? Đây cũng là
một vấn đề được đặt ra để giải quyết.
Năm là, Ninh Bình đã nỗ lực xây dựng và triển khai thực hiện nhiều chương
trình hành động để giáo dục đạo đức cho trẻ em. Vậy phương hướng cơ bản và những
giải pháp cụ thể nào được đưa ra để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở Ninh Bình mang lại hiệu quả cao?
Vì vậy, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ hơn những vấn đề này trong luận án.
Tiểu kết chương 1
Vấn đề gia đình nói chung, giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng đã và đang
được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Thông qua việc đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở bốn nhóm
chính: Những nghiên cứu về giáo dục đạo đức; những nghiên cứu về gia đình và giáo
24
dục đạo đức trong gia đình; những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em, những
nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân Ninh Bình; tác giả
đã chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
Với đề tài: “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh
Bình hiện nay”, tác giả luận án mong muốn trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về
giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nói chung, gia đình nông dân Ninh Bình nói
riêng, luận án đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình.
25
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
2.1. Giáo dục đạo đức cho trẻ em
2.1.1. Đạo đức
2.1.1.1. Quan niệm về đạo đức
Từ trước đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức. Ngày nay, đạo
đức được định nghĩa như sau:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [59; tr.8].
Có thể thấy rằng, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con
người. Nhân loại đã sáng tạo ra nhiều hình thức khác nhau như phong tục tập quán,
pháp luật, tôn giáo, đạo đức... để điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức điều chỉnh
hành vi của con người một cách tự giác, tự nguyện với những yêu cầu đa dạng và được
thể hiện với những mức độ phổ quát khác nhau.
Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc cho những quan điểm về đạo đức ở con
người. Muốn tìm hiểu một hiện tượng đạo đức không thể dừng lại ở việc giải thích nội
dung khái niệm mà phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai
cấp, nghĩa là tìm hiểu tồn tại xã hội đã đẻ ra hiện tượng đạo đức ấy. Đạo đức có tính
giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại của nó [138; tr 24].
Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép, chuẩn mực,
quy tắc, chuẩn mực đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và
nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức bao giờ cũng biểu
hiện lợi ích của một giai cấp nhất định [59; tr. 10].
2.1.1.2. Cấu trúc của đạo đức
Căn cứ vào mối quan hệ giữa ý thức và hành động, người ta có thể chia đạo đức
thành ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những
quy tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại;
mật khác, nó còn bao trùm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người.
26
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo
đức; là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ý thức và thực tiễn đạo
đức có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của
con người [59; tr. 13 - 14].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực của tồn tại xã hội.
Nếu căn cứ theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, cái phổ biến
với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức
cá nhân.
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định. Nó
tồn tại như một hệ thống kinh nghiệm xã hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức
trong cộng đồng. Đạo đức xã hội bao giờ cũng tồn tại như một hình thái ý thức xã hội
đặc thù, một hệ thống giá trị, chuẩn mực, một phương thức điều chỉnh hành vi. Nó tồn
tại như một môi trường khách quan đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, phản ánh và khẳng định
tồn tại xã hội của các cá nhân ấy trong cộng đồng xã hội. Hầu hết mỗi cá nhân trong
quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn đều phải tiếp thu đạo đức xã hội như
là hệ thống kinh nghiệm xã hội, lý tưởng, chuẩn mực... để biến những giá trị chung đó
thành kinh nghiệm của bản thân, lý tưởng của bản thân chuẩn mực mà mình cần vươn
tới... Có thể coi sự hình thành đạo đức cá nhân là quá trình xã hội hóa cá nhân về mặt
đạo đức. Mức độ xã hội hóa đánh dấu trình độ phát triển của đạo đức cá nhân. Có thể
nói, đạo đức cá nhân là biểu hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm
hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội [59; tr. 16 - 17].
Muốn chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân thì phải thông qua hệ thống
giáo dục đạo đức. C. Mác cho rẳng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [88; tr.11]. Như vậy, cùng với việc đề cập
đến tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự hình thành nhân cách
đạo đức, C.Mác còn đặc biệt chú ý đến việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”,
“những điều kiện xứng đáng nhất, hợp với bản chất người nhất”, coi đó là môi
trường để giáo dục đạo đức cho con người có vai trò đặc biệt quan trọng.
Đạo đức là cơ sở để hình thành năng lực, giúp con người đem năng lực của
mình vào hoạt động với mục đích chân chính, động cơ trong sang, kết hợp hài hòa
27
sự phát triển cá nhân với sự phát triển xã hội. Đạo đức đảm bảo cho năng lực được
sử dụng và phát huy một cách phù hợp với nhân tính, trong quỹ đạo của cái thiện,
không bị lợi dụng vào những hành vi xấu, phản đạo đức, phi nhân tính. Sự tốt đẹp
của đạo đức, tác dụng và hiệu quả của nó phải được chứng thực ở hành động, việc
làm chứ không chỉ dừng lại ở lời nói.
2.1.2. Giáo dục đạo đức
2.1.2.1. Quan niệm về giáo dục đạo đức
Giáo dục là lĩnh vực liên quan mật thiết tới sự phát triển bền vững của mọi quốc
gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói riêng. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu
Bình đã phát biểu rằng phải tìm mọi cách để giải quyết tốt vấn đề giáo dục, cho dù ở
các mặt khác phải nhẫn nại một chút, thậm chí hi sinh một chút về tốc độ. Ông còn cho
rằng kế hoạch lớn trăm năm phải lấy giáo dục là gốc.
Theo chúng tôi, giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Giáo dục
đạo đức là quá trình tuyên truyền những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã hội,
biến nó thành thước đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một
sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội [109; tr. 41]. Giáo dục đạo đức là
một quá trình hai mặt, một mặt là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt
khác, đối tượng giáo dục tự biến đổi bản thân, tự hoàn thiện mình.
2.1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức đóng vai trò chủ đạo trong hình thành và phát triển nhân cách
của con người nói chung, trẻ em nói riêng. Thông qua hoạt động giáo dục, trẻ em được
tác động có mục đích, có phương pháp và có kế hoạch để thay đổi theo những chuẩn
mực, giá trị xã hội quy định.
Nhân cách được tạo lập bởi hai thành tố chủ yếu là đức và tài, hay nói cách
khác là sự kết hợp giữa đạo đức với năng lực cá nhân. Đối với mỗi cá thể người, lúc
khởi đầu, khi vừa sinh ra mới chỉ thuần túy là một thực thể sinh vật, chưa hề có
nhân cách, mặc dù nó là một sinh vật - người. Đạo đức là một trong những phương
diện và là phương diện cốt yếu nhất của nhân cách.
Đạo đức trong xã hội là kết quả đúc kết những kinh nghiệm xã hội lịch sử, là
một mặt quan trọng của văn hóa, kết tinh trong từng con người. Giáo dục đạo đức là
28
con đường chủ yếu của sự phát triển nhân cách. Giáo dục xuất hiện từ buổi bình
minh của loài người, trước hết là sự truyền đạt những kinh nghiệm sống, trong đó
quan trọng là kinh nghiệm lao động. Bản chất của hoạt động giáo dục là các quá
trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ nhằm duy trì
và phát triển cộng đồng xã hội.
Khi đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu một sự giáo dục
nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong
những hoàn cảnh nào đó còn chịu sự khiển trách của lương tâm… Cá nhân phải có
trách nhiệm chuyển những đòi hỏi của xã hội thành những nhu cầu, mục đích trong
hoạt động của mình. Do vậy, điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản
chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người [59; tr. 11].
Thông qua quá trình giáo dục đạo đức, những quy tắc, chuẩn mực, lý tưởng đạo
đức xã hội được biến thành sức mạnh của đạo đức cá nhân. Sự hình thành đạo đức cá
nhân được thực hiện thông qua hai con đường phổ biến nhất là nhận thức đạo đức của
cá nhân và hoạt động thực tiễn đạo đức của bản thân họ. Bên cạnh đó, đạo đức của mỗi
cá nhân cũng như sự tham gia của mỗi cá nhân vào hoạt động xã hội sẽ góp phần biến
đạo đức cá nhân thành đạo đức xã hội.
Theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (Điều 29.1.a) giáo dục có
mục tiêu “phát triển tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất
của trẻ em”. Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình và là tương lai của đất nước.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không chỉ là vấn đề đạo lý mà còn là vấn đề
pháp lý đã được thể chế hóa ở nước ta để các thành viên trong gia đình, xã hội có
trách nhiệm thực hiện.
Ở nước ta, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức tác động mạnh
mẽ, thường xuyên đến hành động hàng ngày của con người trong cuộc sống, hướng
chúng ta đến cái chân, cái thiện, cái mỹ; chống lại cái xấu, cái ác, cái giả tạo…
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giáo dục đạo đức,
Đảng ta đã lấy con người làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách xã hội
và chủ trương đưa văn hoá vào phát triển, “làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu
dân cư, từng gia đình, từng người… Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [43; tr. 213]. Có thể nói, giáo
29
dục đạo đức sẽ góp phần vào việc hình thành, phát triển nhân cách cho mỗi con
người nói chung và trẻ em nói riêng.
2.1.3. Trẻ em
2.1.3.1. Quan niệm về trẻ em
Trước hết, cần khẳng định rằng trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là
tương lai của dân tộc. Chúng ta quan niệm: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
cũng là vì vậy. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ em từ trước đến nay luôn là một trong
những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề trẻ em đã được đề
cập chính thức trong nhiều văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế. Nước ta là nước
đầu tiên của châu Á, nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hiệp
quốc về quyền trẻ em.
Đề cập đến khái niệm về trẻ em, theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền
trẻ em trong điều 1 - phần I: “Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi
luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn” [17; tr. 88].
Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
nghiên cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, tội phạm học, y học, xã
hội học… Ở nước ta, từ phương diện xã hội học, trẻ em được nhìn nhận như một
nhóm xã hội đặc biệt đang trong quá trình xã hội hóa, đang tiếp thu kiến thức, kỹ
năng để tham gia hoạt động xã hội với tư cách là một chủ thể có độ tuổi từ 16 trở
xuống. Trên phương diện tâm lý học, trẻ em Việt Nam thường được hiểu là những
đối tượng mà các chức năng tâm lý thần kinh cao cấp chưa hoạt động theo quỹ đạo
chiến lược làm việc của hai bán cầu não như người trưởng thành. Trong cuộc sống
cũng như trong nghiên cứu, rất nhiều người có cùng quan điểm như trên.
Theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam: “Trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [106; tr. 5]. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi
nghiên cứu trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, chủ yếu là lứa tuổi học sinh
Trung học cơ sở và lớp 10 Trung học phổ thông.
2.1.3.2. Vị trí của trẻ em đối với sự phát triển xã hội
Tổ chức Liên Hiệp Quốc ngay từ những ngày đầu mới ra đời đã quan tâm
đến trẻ em. Một trong những hành động trước hết của tổ chức này là thành lập Quỹ
nhi đồng Liên Hiệp Quốc. Vấn đề trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận
30
trong Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hội Quốc liên thông qua vào năm
1924 dựa trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923.
Tuy nhiên, việc bảo vệ trẻ em đòi hỏi phải có một khuôn khổ và chuẩn mực
được cộng đồng quốc tế nhất trí. Đó là ý tưởng về một Công ước quốc tế về quyền
trẻ em. Công ước được soạn thảo trong suốt 10 năm. Nó có hiệu lực và trở thành
Luật quốc tế từ ngày 2 tháng 9 năm 1990.
Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên của xã hội, ngày càng có khả
năng hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể, có ý thức và là người chủ của gia đình,
của dân tộc, của đất nước trong tương lai.
Có lẽ, cộng đồng xã hội nào cũng mong muốn trẻ em lớn lên sẽ trở thành
những công dân có ích. Bởi vậy, công ước về quyền trẻ em coi trẻ em không phải
chỉ là đối tượng được bảo vệ mà còn là một chủ thể, một con người đang trong quá
trình phát triển có quyền tự quyết định lấy tương lai của mình. Các em được coi như
những thành viên của quá trình phát triển và những thành viên này đóng vai trò tích
cực trong cộng đồng xã hội. Trẻ em có vị trí quan trọng đối với xã hội tương lai nên
khi còn nhỏ, các em có quyền nhận được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục từ các thành
viên trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trẻ em được quyền phát biểu ý kiến và
người khác phải lắng nghe ý kiến của các em. Khi trẻ em được tôn trọng và được
trao quyền sẽ có trách nhiệm trở thành những người lớn được tôn trọng và được trao
quyền.
Trong giáo dục gia đình, trẻ em là đối tượng giáo dục được quan tâm hàng
đầu. Hầu hết các nhà tâm lý học, giáo dục học đều cho rằng, trong những năm đầu
của cuộc đời, trẻ em dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và hoàn thiện
những thói quen nhất định. Ngoài ra, trẻ em là người chưa trưởng thành, còn non
nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương nên cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt.
Vì trẻ em có vị trí, vai trò quan trọng đối với gia đình và xã hội nên người
lớn cần tạo điều kiện để trẻ được tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến
cuộc sống của các em, nhưng chúng ta cần xác định rõ rằng điều này không có
nghĩa là trẻ em có quyền hành đối với người lớn.
31
Việt Nam phê chuẩn Công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990 nhưng
vấn đề trẻ em đã được quan tâm từ rất sớm. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời
thường nhắc nhở:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”
Bác cũng mong muốn: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không,
dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Đảng, Nhà nước ta xác định mọi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội trước
hết phải hướng vào mục tiêu phát triển con người, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đem lại hạnh phúc cho con người, trước hết là trẻ em. Điều này được thể hiện rõ nét
qua các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta luôn coi trọng việc thúc đẩy phong
trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được
sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và
đạo đức… Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích
ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào
lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, giáo dục và nuôi dưỡng
nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, Đảng ta còn xác
định và thực hiện giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, trong đó, giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội phải phối hợp chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau.
Trên đây là những quan điểm, phương hướng của Đảng khẳng định tầm quan
trọng của giáo dục gia đình, góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực của
các bậc làm cha, làm mẹ trong giáo dục gia đình nông dân. Mặt khác, các chủ thể
giáo dục ở ngoài xã hội cũng có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ các chủ thể giáo dục
trong gia đình, cùng góp sức vì tương lai của trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở nông
thôn.
Trẻ em là niềm hạnh phúc, niềm hi vọng, niềm tự hào của không ít gia đình
Việt Nam. Đó là người kế tục sự nghiệp của cha ông, dòng họ… Vì thế, các em cần
32
được chăm sóc, giáo dục tốt, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu không chỉ đến gia đình
mà là cả xã hội.
2.1.4. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình
2.1.4.1. Quan niệm về gia đình
Gia đình là tổ ấm của con người, là tế bào của xã hội. Con người từ xa xưa
cho đến nay đều mơ ước có một tổ ấm để sống đời sống cá nhân của mình và rồi, từ
cái tổ ấm này, từ cái tế bào lành mạnh này mà đóng góp tích cực vào xã hội. Bởi
vậy, không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học cũng như các
triết gia, các nhà xã hội học… quan tâm nghiên cứu về gia đình. Vậy gia đình là gì?
Để trả lời cho câu hỏi này cho đến hiện nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau bởi
đây là một phạm trù rộng, không ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh
tế, xã hội.
Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật thiết với xã hội. Tổ chức
này xác định rằng gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản của xã hội, có quyền hưởng
sự bảo vệ của xã hội và của Nhà nước. Trên cơ sở đó, Liên hiệp quốc cũng lưu ý
đến khía cạnh cộng đồng về kinh tế của gia đình khi đưa ra định nghĩa rằng gia đình
là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung.
Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn xem xét gia đình là một tập hợp dựa trên các
quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dưỡng, đã gắn bó những con người
có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về thân nhân, bởi sự
cộng đồng về đạo đức và vật chất, để tương trợ nhau, cùng làm kinh tế chung và
nuôi dạy con cái [128; tr.17].
Giáo sư Lê Thi là một trong những người đã dày công nghiên cứu về đề tài gia
đình. Theo Giáo sư: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình
thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ quan hệ hôn
nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Đồng thời,
gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có
quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền
lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được
nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn nhân và gia đình của nước
33
ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những
cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [118; tr.20].
Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình bởi lẽ các tác giả
đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, gia đình là thiết chế có
tính toàn cầu nhưng lại có những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn
minh này sang nền văn minh khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do vậy, không
thể đưa ra một định nghĩa chung có thế áp dụng cho toàn cầu.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng có ba mối quan hệ thường
được nhắc tới khi đề cập đến gia đình. Đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ tính giao giữa nam và nữ được pháp luật thừa
nhận, liên kết với nhau để chung sống và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan
hệ cơ bản đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ
khác.
Quan hệ huyết thống là mối quan hệ ràng buộc giữa cha mẹ với con cái, là hệ
quả tất yếu của hôn nhân. Ngoài ra, nó còn được thể hiện trong mối quan hệ gắn bó
giữa các anh chị em ruột với nhau.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng được
nuôi dưỡng. Họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi được
pháp luật thừa nhận, bảo vệ, mà cao hơn cả là tình thương yêu, sự chăm sóc, đùm
bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.
Theo chúng tôi, gia đình là một nhóm người đặc biệt được hình thành, phát
triển, củng cố bởi các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần chung, gắn bó với
nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao nhất là nuôi dưỡng
các thành viên, xây dựng gia đình bền chặt, phát triển kinh tế gia đình.
2.1.4.2. Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển vì nó có sứ mệnh đảm đương
những chức năng đặc biệt mà tự nhiên và xã hội giao cho, không một thiết chế xã
hội nào có thể thay thế được. Các chức năng của gia đình tồn tại trong mối liên hệ
thống nhất, tác động lẫn nhau để tạo nên con người, xã hội hóa con người. Gia đình
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân

More Related Content

What's hot

giáo trình cơ sở văn hóa việt nam
giáo trình cơ sở văn hóa việt namgiáo trình cơ sở văn hóa việt nam
giáo trình cơ sở văn hóa việt nam
MChau NTr
 

What's hot (20)

Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAYHành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Luận văn: Kỹ năng giao tiếp của sinh viên Sư phạm trường Cao đẳng Cần Thơ
Luận văn:  Kỹ năng giao tiếp của sinh viên Sư phạm trường Cao đẳng Cần ThơLuận văn:  Kỹ năng giao tiếp của sinh viên Sư phạm trường Cao đẳng Cần Thơ
Luận văn: Kỹ năng giao tiếp của sinh viên Sư phạm trường Cao đẳng Cần Thơ
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCOLuận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
 
Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo
Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáoĐặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo
Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
 
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfVĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
 
giáo trình cơ sở văn hóa việt nam
giáo trình cơ sở văn hóa việt namgiáo trình cơ sở văn hóa việt nam
giáo trình cơ sở văn hóa việt nam
 
Luận văn: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở Hà Nội
Luận văn: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở Hà NộiLuận văn: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở Hà Nội
Luận văn: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS ở Hà Nội
 
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNGGIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
 
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan lyNhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
 
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộcLuận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
 
Đề tài: Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua kể chuyện
Đề tài: Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua kể chuyệnĐề tài: Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua kể chuyện
Đề tài: Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua kể chuyện
 
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại quận Bình Tân, HAY
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại quận Bình Tân, HAYĐề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại quận Bình Tân, HAY
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại quận Bình Tân, HAY
 
Thuyết tâm lí xã hội
Thuyết tâm lí xã hộiThuyết tâm lí xã hội
Thuyết tâm lí xã hội
 
Đề tài: Quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sin...
Đề tài: Quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sin...Đề tài: Quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sin...
Đề tài: Quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sin...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
 
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet của sinh viên
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet của sinh viênĐề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet của sinh viên
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet của sinh viên
 
Kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục của học sinh tiểu học tại tp hồ chí minh...
Kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục của học sinh tiểu học tại tp hồ chí minh...Kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục của học sinh tiểu học tại tp hồ chí minh...
Kỹ năng phòng tránh xâm hại tình dục của học sinh tiểu học tại tp hồ chí minh...
 

Similar to Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân

Similar to Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân (20)

Nâng Cao Kỹ Năng Hõa Nhập Cộng Đồng Cho Trẻ Em Mồ Côi Sống Trong Trung Tâm Bả...
Nâng Cao Kỹ Năng Hõa Nhập Cộng Đồng Cho Trẻ Em Mồ Côi Sống Trong Trung Tâm Bả...Nâng Cao Kỹ Năng Hõa Nhập Cộng Đồng Cho Trẻ Em Mồ Côi Sống Trong Trung Tâm Bả...
Nâng Cao Kỹ Năng Hõa Nhập Cộng Đồng Cho Trẻ Em Mồ Côi Sống Trong Trung Tâm Bả...
 
Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long – ...
Công  tác  xây dựng  gia  đình văn  hóa  ở  huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long – ...Công  tác  xây dựng  gia  đình văn  hóa  ở  huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long – ...
Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long – ...
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ: XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ: XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC  PHỔ THÔNGLUẬN VĂN THẠC SĨ: XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC  PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ: XÂY DỰNG VĂN HÓA NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân BìnhLuận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
 
QUẢN TRỊ DỰ ÁN
QUẢN TRỊ DỰ ÁNQUẢN TRỊ DỰ ÁN
QUẢN TRỊ DỰ ÁN
 
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAYLuận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
 
Qui trình tiến hành giáo dục hòa nhập.pdf
Qui trình tiến hành giáo dục hòa nhập.pdfQui trình tiến hành giáo dục hòa nhập.pdf
Qui trình tiến hành giáo dục hòa nhập.pdf
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOTLuận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
 
Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên
 Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên
Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên
 
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAYCông tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
 
Ảnh hưởng của phong cách giáo dục đến nhận thức về giá trị đạo đức
Ảnh hưởng của phong cách giáo dục đến nhận thức về giá trị đạo đứcẢnh hưởng của phong cách giáo dục đến nhận thức về giá trị đạo đức
Ảnh hưởng của phong cách giáo dục đến nhận thức về giá trị đạo đức
 
Luận văn tâm lý học: Ảnh hưởng của phong cách giáo dục của cha mẹ đến nhận th...
Luận văn tâm lý học: Ảnh hưởng của phong cách giáo dục của cha mẹ đến nhận th...Luận văn tâm lý học: Ảnh hưởng của phong cách giáo dục của cha mẹ đến nhận th...
Luận văn tâm lý học: Ảnh hưởng của phong cách giáo dục của cha mẹ đến nhận th...
 
Luận văn: Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi sống trong Tr...
Luận văn: Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi sống trong Tr...Luận văn: Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi sống trong Tr...
Luận văn: Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi sống trong Tr...
 
Đề tài: Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Bình Hải, hu...
Đề tài: Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Bình Hải, hu...Đề tài: Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Bình Hải, hu...
Đề tài: Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Bình Hải, hu...
 
Quản lý xây dựng mầm non đạt chuẩn quốc gia
Quản lý xây dựng mầm non đạt chuẩn quốc giaQuản lý xây dựng mầm non đạt chuẩn quốc gia
Quản lý xây dựng mầm non đạt chuẩn quốc gia
 
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niênKết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
 
Hoạt Động Công Tác Xã Hội Cá Nhân Đối Với Trẻ Em Khuyết Tật Vận Động Tại Thàn...
Hoạt Động Công Tác Xã Hội Cá Nhân Đối Với Trẻ Em Khuyết Tật Vận Động Tại Thàn...Hoạt Động Công Tác Xã Hội Cá Nhân Đối Với Trẻ Em Khuyết Tật Vận Động Tại Thàn...
Hoạt Động Công Tác Xã Hội Cá Nhân Đối Với Trẻ Em Khuyết Tật Vận Động Tại Thàn...
 
Hoạt động công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động tại thanh hóa
Hoạt động công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động tại thanh hóaHoạt động công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động tại thanh hóa
Hoạt động công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động tại thanh hóa
 
Luan van giao duc dao duc cho hoc sinh ca biet tai thpt to hieu
Luan van giao duc dao duc cho hoc sinh ca biet tai thpt to hieuLuan van giao duc dao duc cho hoc sinh ca biet tai thpt to hieu
Luan van giao duc dao duc cho hoc sinh ca biet tai thpt to hieu
 
NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG VỀ GIA ĐÌNH CỦA TRẺ EM LÀNG SOS – THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI – ...
NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG VỀ GIA ĐÌNH CỦA TRẺ EM LÀNG SOS – THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI – ...NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG VỀ GIA ĐÌNH CỦA TRẺ EM LÀNG SOS – THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI – ...
NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG VỀ GIA ĐÌNH CỦA TRẺ EM LÀNG SOS – THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI – ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
levanthu03031984
 

Recently uploaded (20)

Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viênKỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 

Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân

  • 1. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án..............................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án .........................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .......................................................3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................3 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án...........................................................4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.................................................................4 7. Kết cấu của luận án .................................................................................................4 Chương 1....................................................................................................................5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..........5 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân.......................................................5 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân.......................................................9 1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân..............................................................................16 1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân Ninh Bình..................................................................................................................19 1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ..............................23 Tiểu kết chương 1....................................................................................................23 Chương 2..................................................................................................................25 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN .........................................................................25 2.1. Giáo dục đạo đức cho trẻ em..............................................................................25 2.2. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân ......................................54 Tiểu kết chương 2....................................................................................................61 Chương 3..................................................................................................................62
  • 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở NINH BÌNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................................................................................................................62 3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................62 3.2. Thực trạng và nguyên nhân việc giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................73 3.3. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức cho trẻ em tại các gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ................................................................................102 Tiểu kết chương 3..................................................................................................107 Chương 4 ................................................................................................................108 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở NINH BÌNH HIỆN NAY ..................................................................................................108 4.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách.............................................................108 4.2. Nhóm giải pháp dành cho gia đình và các bậc cha mẹ ....................................118 4.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự ý thức, tự hoàn thiện của trẻ em trong các gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay ...................................................................139 4.4. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em ...................................................................................140 Tiểu kết chương 4..................................................................................................147 KẾT LUẬN............................................................................................................149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................180
  • 3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Giáo dục đạo đức là đề tài được quan tâm nghiên cứu từ xa xưa. Trong đó, giáo dục đạo đức cho trẻ em có vai trò quan trọng. Đạo đức trẻ em được hình thành, phát triển từ tổng hòa các yếu tố như tự nhiên - xã hội, truyền thống - hiện đại, hiểu biết - ý thức - hành vi… Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình là một môi trường đặc biệt, bởi lẽ gia đình không chỉ là tổ ấm, là trường học đầu tiên, là cái nôi nuôi dưỡng của mỗi người mà còn là tế bào của xã hội. Gần đây, gia đình không chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng và cấp thiết của riêng Việt Nam mà nó còn đang được đặt ra với các dân tộc trên toàn thế giới. Ở mọi nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của nó. Nó không chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp phần quyết định đối với tương lai. Ở nước ta hiện nay, hơn 70% dân số là nông dân. Bởi vậy, gia đình nông dân có vai trò là cầu nối cung cấp cho xã hội những thế hệ công dân tương lai. Do đó, việc giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân có tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước mai sau. Tuy nhiên, trong các gia đình nông dân hiện nay đang nổi lên nhiều vấn đề đáng báo động. Nhiều bậc cha mẹ suốt ngày bận bịu với công việc đồng áng mà cuộc sống vẫn khó khăn, không ít người phải lao vào kiếm tiền nên buông lỏng việc giáo dục con cái. Họ ỉ lại vào ông bà, nhà trường và xã hội nên trẻ em trong các gia đình này có nhiều biểu hiện lệch lạc về đạo đức, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành nhân cách như: không tôn trọng ông bà, cha mẹ, những người lớn tuổi; tự ý bỏ học mà cha mẹ không hay biết; vô ý thức, không tôn trọng kỷ luật, nhiều em có hành vi nguy hiểm cho xã hội, sa ngã vào các tệ nạn như ma túy, cờ bạc, giết người, cướp của... Nhiều ổ nhóm tội phạm bị bắt giữ khi độ tuổi của các “thành viên” chưa tròn 16. Dư luận không khỏi bàng hoàng trước những vụ giết người man rợ mà tội phạm là “trẻ con” như vụ án Lê Văn Luyện giết người ở tiệm vàng Ngọc Bích… Thậm chí, nhiều người còn cho rằng tội phạm ngày nay đang “trẻ hóa”, trẻ em đang trở thành “mồi ngon” của tội phạm. Theo báo cáo thống kê tình hình phạm tội trong lứa tuổi chưa thành niên trong 5 năm, giai đoạn từ (2006 đến 2010) cả nước có gần 500.000 vụ
  • 4. 2 với gần 76.000 em vi phạm pháp luật, tăng hơn 3.000 vụ so với 5 năm trước đó. Điều đáng lưu tâm là 40,9% trẻ em phạm tội là những em có hoàn cảnh khó khăn, bỏ học, lang thang, thiếu sự quan tâm của gia đình [152]. Ninh Bình là một trong những tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây, số trẻ em phạm tội có chiều hướng gia tăng. Theo các báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án IV “Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên” của Công an tỉnh Ninh Bình từ năm 2002 đến nay, toàn tỉnh phát hiện ngày càng nhiều vụ việc do đối tượng là người chưa thành niên gây ra, đáng lo ngại là mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng. Điều này khiến cho không ít bậc làm cha, làm mẹ ở tỉnh Ninh Bình phải lo lắng. Trẻ em vi phạm pháp luật ở tỉnh Ninh Bình ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau, không loại trừ nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình, trong đó có gia đình nông dân. Khi mà đời sống phải dựa vào kinh tế nông nghiệp là chính, các thành viên của gia đình chủ yếu là giai cấp nông dân thì phần lớn thời gian phục vụ mục đích mưu sinh. Đồng nghĩa với điều này là quỹ thời gian dành cho giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân của tỉnh Ninh Bình bị thu hẹp. Không ít cha mẹ lo kiếm tiền để nuôi con hơn là lo dạy con. Mặt khác, họ chưa được trang bị đầy đủ về những kiến thức cần thiết về phương pháp dạy dỗ, những nội dung dạy dỗ phù hợp với từng lứa tuổi… Đã đến lúc, chúng ta cần có sự nhìn nhận nghiêm túc hơn, đúng đắn, đầy đủ hơn về công tác giáo dục đạo đức cho trẻ em ở nhiều cách tiếp cận khác nhau. Từ tất cả những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình hiện nay”, với mong muốn đóng góp thêm vào sự nghiệp “trồng người” bắt đầu từ môi trường giáo dục là các gia đình nông dân trên địa bàn nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án - Mục đích Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ em, luận án phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân tỉnh Ninh Bình; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh hiện nay.
  • 5. 3 - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau: + Phân tích tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho trẻ em + Phân tích khái quát về gia đình và chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của gia đình + Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình + Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức cho trẻ em tại các gia đình nông dân trên địa bản nghiên cứu + Phân tích yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em của các gia đình nông dân ở Ninh Bình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức cho trẻ Việt Nam dưới 16 tuổi, chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và lớp 10 trung học phổ thông, đang sống trong các gia đình nông dân tại tỉnh Ninh Bình hiện nay. + Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. + Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu từ năm 1986 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ đề ra dựa trên quan điểm của triết học và đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo dục đạo đức, các tài liệu tổng kết thực tiễn của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tỉnh Ninh Bình liên quan đến các nội dung trong luận án. Đồng thời, luận án có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố của các tác giả, hoặc tập thể tác giả ở trong và ngoài nước có liên
  • 6. 4 quan đến đề tài để góp phần làm sáng tỏ thực chất, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân nói chung, gia đình nông dân ở Ninh Bình nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, điều tra xã hội học… 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án góp phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân. - Luận án góp phần làm rõ sự cần thiết và những nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân. - Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình hiện nay, luận án nêu lên những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân. - Ý nghĩa thực tiễn Luận án có ý nghĩa khuyến nghị trong vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương với 14 tiết.
  • 7. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân Trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình. Ở Liên Xô trước kia, các nhà khoa học đã quan tâm đến đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình với những tác phẩm tiêu biểu như: “Nguyên lý đạo đức cộng sản” của A. Siskin, “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao động công ích” của Busơlya, 2 tác phẩm “Giáo dục trong gia đình Mác” và “Dạy con yêu lao động” của tác giả I.A. Pê-trec-nhi-cô-va, “Đạo đức học” - 2 tập của Bandzeladze… Một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Nguyên lý đạo đức cộng sản” của A. Siskin (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961). Tác giả cuốn sách đã xuất phát từ quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục đạo đức. Ông cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh một lĩnh vực riêng biệt. Nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở thành khuôn phép, quy tắc điều chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội. Với xuất phát điểm như vậy, khi giáo dục đạo đức, theo tác giả, các chủ thể giáo dục phải nhận thức được đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng trên cơ sở kinh tế xã hội, cho nên nó thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Vì vậy, người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào những chế độ xã hội nhất định để giáo dục những giá trị đạo đức được xã hội đó thừa nhận. Đây là một đóng góp quan trọng của tác giả. Đặc biệt, chương III của cuốn sách đã đưa ra những nguyên tắc, khuôn phép của nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa, trong đó có chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo… được xem như những chuẩn mực của con người ở xã hội đương thời và theo chúng
  • 8. 6 tôi, đó chính là những điều mà khi giáo dục đạo đức, các chủ thể của quá trình giáo dục phải hết sức quan tâm. Tác giả Busơlya với cuốn sách: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao động công ích” (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1962) [21] đưa ra quan niệm của mình về lao động như là cơ sở để làm điểm xuất phát cho những vấn đề cần chuyển tải đến bạn đọc. Tác giả đề cập tới tác dụng của lao động là nền tảng cuộc sống của con người. Bởi lẽ, các giá trị vật chất cũng như tinh thần được tạo ra trong lao động, chính bản thân con người cũng được phát triển, hoàn thiện thêm về thể lực, trí lực và đạo đức. Theo tác giả, lao động công ích được coi là một phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng nhất cho học sinh. Toàn bộ cuốn sách tập trung minh chứng cho điều này và tác giả đã rất thành công trong việc đưa những quan niệm của mình về cách thức giáo dục đạo đức cho đối tượng là các em học sinh, góp phần phổ biến một phương pháp giáo dục đạo đức gắn với lao động phục vụ cộng đồng. Cuốn sách đưa ra những minh họa trong thực tiễn hàng ngày ở các nước xô viết đương thời để thuyết phục người đọc. Đây là nhưng kinh nghiệm quý báu mà các bậc cha mẹ có thể tham khảo khi giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình của mình. Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc, những vấn đề lý luận trong xây dựng đạo đức, giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường đã được đề cập tương đối rõ nét trong ấn phẩm: “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” (Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, 1996) của tập thể tác giả Zhao Xiuyi, Dong Fangshuo, Ren Jiantao … [142]. Đáng chú ý là các tác giả cho rằng trong xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay, xây dựng đạo đức là một nhiệm vụ quan trọng vì nó liên quan mật thiết đến đời sống tinh thần của con người, không những thế giáo dục đạo đức cho con người mà nó còn là một trong những nội dung hạt nhân của quá trình xây dựng nền văn minh tinh thần ở một nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc. Đồng thời, giáo dục đạo đức cho con người là một trong những vấn đề mà đông đảo quần chúng nhân dân ở Trung Quốc quan tâm nhất. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi
  • 9. 7 nghiên cứu của giới lý luận như nhiều người từng quan niệm. Tác phẩm đã tập trung vào mối quan hệ giữa việc phát triển kinh tế thị trường với các ảnh hưởng của nó tới các vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức, thông qua đó, tập thể tác giả đưa ra những nhận định về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho con người nói chung, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở đất nước Trung Quốc là hết sức cần thiết. Như vậy, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu ở Trung Quốc, trong quá trình cải cách cũng xuất hiện mối quan hệ phức tạp giữa kinh tế thị trường với luân lý đạo đức, giữa mặt truyền thống và mặt hiện đại trong giáo dục đạo đức. Mặc dù phức tạp và đa dạng như vậy nhưng tập thể tác giả cho rằng việc thực hiện các chuẩn mực và quy phạm đạo đức diễn ra một cách tự giác, tự nguyện sau khi các thành viên xã hội đã nhận thức đúng đắn về một nền đạo đức xã hội nhất định. Vì thế, những người tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cần lưu tâm một điều là không nên ép buộc người khác thực hiện hành vi đạo đức mà nên làm cho họ hiểu những giá trị đạo đức để họ thực hiện hành vi đạo đức một cách tự nguyện. Có thể nói, đấy là đóng góp quan trọng mà cuốn sách mang lại cho người đọc quan tâm tới vấn đề giáo dục đạo đức. Các tác giả đã xuất phát từ quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục đạo đức. Nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở thành khuôn phép, quy tắc điều chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội. Người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào những chế độ xã hội nhất định để giáo dục những giá trị đạo đức được xã hội đó thừa nhận. Ở nước ta, từ trước đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình và gia đình nông dân. Cuốn sách: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành (1980) của tác giả Trần Văn Giàu [53] đã đưa lại
  • 10. 8 cho người đọc một cái nhìn khái quát về các giá trị đạo đức cơ bản của dân tộc ta như yêu nước, cần cù, sáng tạo, anh dũng, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo tác giả, Hồ Chủ tịch là người kết tinh của các giá trị truyền thống và đạo đức cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là người rất trọng đạo đức và giáo dục đạo đức. Cuốn sách: “Tuổi thơ” (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1985), của tác giả Trang Thanh [114] là một cuốn nhật ký của chính tác giả viết về những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình nuôi dưỡng, giáo dục con cái tại gia đình. Những năm tháng đầu tiên của tuổi thơ là khoảng thời gian xây dựng nền tảng cho toàn bộ quá trình phát triển thể lực và trí lực của con người tương lai. Như vậy, tác giả đã cung cấp cho người đọc những kinh nghiệm thực tiễn quý báu, góp thêm tiếng nói vào việc giáo dục đạo đức cho trẻ em có hiệu quả hơn. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004) trong cuốn sách: “Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội) [77] các tác giả đi sâu phân tích hệ thống các phạm trù cơ bản của đạo đức học như vấn đề lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, lương tâm, thiện, ác… với tư cách là những phạm trù luôn được thể hiện rõ nét ở cách hành xử của mỗi cá nhân trong cuộc sống thường ngày. “Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức” do Nguyễn Hữu Hợp chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục, 2010) [68] tập trung nghiên cứu sâu các phương pháp giáo dục đạo đức cho từng nội dung cụ thể. Tác giả Thích Minh Hòa (2011) trong cuốn sách: “Ý nghĩa giáo dục đạo đức” (Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh) [60] tiếp cận và trình bày những ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức theo tinh thần của các pháp thế gian và theo tinh thần của giáo lý Phật Đà. Trên đây là những tài liệu có liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân. Nhìn chung, các nghiên cứu đã bàn luận xung quanh những vấn đề lý luận là chủ yếu. Tuy nhiên, tiếp cận vấn đề dưới góc độ nghiên cứu ứng dụng vẫn còn cần tiếp tục khai thác và bổ sung.
  • 11. 9 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân Ở nước ta, do đòi hỏi của thực tiễn, các công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân ngày càng trở nên phong phú. Một trong những đề tài cấp Nhà nước tiêu biểu là KX 07 - 09: “Vai trò của gia đình trong sự hình thành phát triển nhân cách con người Việt Nam” của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ do GS. Lê Thi làm chủ nhiệm [118], được in ấn thành sách: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, phát hành năm 1994. Phần thứ nhất, các tác giả tập trung vào những vấn đề lý luận chung về gia đình. Phần hai, các tác giả đi sâu phân tích chức năng giáo dục của gia đình. Cuốn sách góp phần nêu lên một bức tranh tương đối toàn diện về vai trò của gia đình, các thành viên trong gia đình với việc giáo dục thế hệ trẻ; những nội dung, phương pháp giáo dục hiện nay cũng như sự ảnh hưởng của các môi trường giáo dục khác đến giáo dục gia đình. Luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam” (1999) [101] của Trần Sĩ Phán đã tập trung phân tích vai trò của giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay. Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu vai trò của giáo dục đạo đức cho lứa tuổi nhỏ hơn vẫn cần có sự đầu tư hơn nữa, nhất là vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, bởi lẽ, đây là lứa tuổi mà giáo dục gia đình sẽ quyết định tới sự hình thành nhân cách của trẻ ở giai đoạn phát triển tiếp theo. Nguyễn Văn Lý trong luận án Tiến sĩ Triết học (2000) với đề tài: “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [86] đặt ra vấn đề cấp thiết phải có những đổi mới trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Theo tác giả, những nội dung các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta rất phong phú, đa dạng, trong đó có yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù, tiết kiệm, khiêm tốn, giản dị, lạc quan,
  • 12. 10 thủy chung… là những nội dung cơ bản cần được giáo dục cho thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra những vấn đề đạo đức hiện nay, mang hơi thở của thời đại mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang được tiếp xúc. Vấn đề mà tác giả đặt ra để giải quyết là làm thế nào chúng ta vẫn giữ gìn được những nét tốt đẹp trong truyền thống đạo đức đã có tự ngàn đời, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của xã hội hiện đại về lĩnh vực đạo đức. Tác giả khẳng định giáo dục phải quán triệt trong cả ba môi trường là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, gia đình, nhà trường quan trọng đặc biệt, với điều kiện phát triển kinh tế như hiện nay, những mặt tích cực, tiêu cực của xã hội đang dội vào cuộc sống của từng gia đình. Việc coi trọng chức năng kinh tế của gia đình là rất cần thiết để tạo điều kiện cho việc thực hiện các chức năng khác nhưng nhiều gia đình không chú trọng đến việc giáo dục, tự giáo dục của các thành viên trong gia đình hoặc họ chú ý trí dục hơn đức dục. Tác giả cũng đưa ra kết quả nghiên cứu có gia đình quan tâm đến giáo dục đạo đức thì tỏ ra lúng túng trong triển khai nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức. Như vậy, tác giả Nguyễn Văn Lý trong luận án tiến sĩ của mình đã tiếp cận, nghiên cứu đề tài từ góc độ triết học, khẳng định trong bối cảnh hiện nay, đạo đức truyền thống vẫn luôn là nền tảng để xây dựng đạo đức mới. Trong luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” (2000) tác giả Lê Thị Thủy [122] cho rằng đạo đức với chức năng điều chỉnh hành vi của con người, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, nó có vai trò quan trọng đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đạo đức với quá trình hình thành nhân cách của con người trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Bài viết: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [25], đăng trên Tạp chí Triết học số 9, tháng 12 - 2001. Tác giả đã phân tích mối quan hệ tác động đan xem giữa những yếu tố thuộc về nền kinh tế thị trường với những vấn đề thuộc
  • 13. 11 về lĩnh vực đạo đức. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng tất cả những biến động trong lĩnh vực đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong chế độ kinh tế - xã hội. Vì vậy, để xây dựng một cách vững chắc các mối quan hệ đạo đức và phẩm chất đạo đức lành mạnh trong điều kiện hiện nay ở nước ta thì phải kết hợp những biện pháp mạnh của pháp luật với giáo dục đạo đức. Luận án Tiến sĩ Triết học của tác giả Đỗ Tuyết Bảo (2001), đề tài: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” [13]. Tác giả luận án quan niệm giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu cốt lõi của nội dung giáo dục, nó giữ vị trí chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách để hình thành những phẩm chất cao đẹp của con người. Chúng ta càng phải chú ý giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự hình thành, phát triển nhân cách của mình. Tác giả Đỗ Tuyết Bảo cũng nhấn mạnh rằng sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực, cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng mặt khác nó cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, trong sự cảm thụ văn hóa nghệ thuật cũng như trong tâm lý đạo đức của các tầng lớp dân cư. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, dẫn tới suy thoái về đạo đức ở một bộ phận dân cư trong xã hội, ảnh hưởng xấu tới nhân cách của thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức cho học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện mới hiện nay được đặt ra trong khung cảnh và ý nghĩa xã hội đó. Tác giả Lê Ngọc Anh (2002) trong bài viết: “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” [6] đăng trên Tạp chí Triết học, số 1, tháng 1 - 2002 đề cập đến sự thay đổi của đạo đức xã hội trong kinh tế thị trường. Quan niệm về sức mạnh của đồng tiền đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục các giá trị đạo đức nhân văn chân chính, giáo dục đạo lý truyền thống trong gia đình. Trong bối cảnh đó, theo tác giả, gia đình vẫn mãi mãi là cái nôi nuôi dưỡng, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cho con người từ lúc nhỏ đến lúc
  • 14. 12 trưởng thành. Gia đình là trường học đầu tiên giáo dưỡng nhân cách và lối sống có văn hóa, có đạo lý cho con người. Gia giáo bao giờ cũng đi trước giáo dục xã hội. Vinh dự và trách nhiệm của gia đình là cung cấp cho xã hội những công dân ưu tú cả về tài năng lẫn đạo đức [6; tr. 20]. Bài viết: “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Nguyễn Thị Khoa (2002) [76] đăng trên Tạp chí Triết học, số 4, tháng 4 - 2002 đề cập đến một thực trạng đáng buồn là trong xã hội xuất hiện những hiện tượng coi thường giáo dục gia đình xảy ra ngày càng nhiều. Hiện tượng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức, cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, làm phá vỡ dần dần những mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình. Trước tình hình đó, tác giả nhận thấy Nhà nước, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân cần coi trọng việc xây dựng đạo đức gia đình trên cơ sở kế thừa những quy tắc truyền thống như tôn kính, phụng dưỡng ông bà cha mẹ, đề cao việc tu dưỡng bản thân… để góp phần xây dựng đạo đức xã hội [76; tr. 23]. Nguyễn Đức Mạnh (2002) trong luận án Tiến sĩ Xã hội học, đề tài: “Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hư ở thành phố: qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội” [89] tập trung vào đối tượng là trẻ em hư ở thành phố. Giáo dục trẻ em hư là việc làm khó khăn đối với nhiều gia đình. Tác giả đã nghiên cứu tìm tòi, điều tra xã hội học và đi đến kết luận văn hóa gia đình có ý nghĩa to lớn. Những tính cách của các thành viên trong gia đình chính là sản phẩm văn hóa trong gia đình mà họ đã tồn tại. Vì vậy, một gia đình có môi trường văn hóa lành mạnh chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất tốt đến tính cách sau này của con cháu. Tác giả Lê Thị Hoài Thanh với công trình luận án Tiến sĩ Triết học (2003), đề tài: “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” [112] đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố truyền thống với các yếu tố hiện đại trong giáo dục đạo đức, tác giả chú ý phân tích đặc điểm, xu hướng biến đổi về đạo đức của thanh niên nước ta hiện nay để tìm tòi ra những vấn đề cần giải quyết. Tác giả đặc biệt chú ý đến việc chuyển tải các nội dung chủ yếu thuộc về giá trị đạo đức truyền thống đến với thế hệ trẻ như: chủ nghĩa yêu
  • 15. 13 nước, lòng nhân ái, thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính yêu lao động, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo, đức tính khiêm tốn, giản dị, lạc quan… với mong muốn các em trên bước đường hội nhập, tiếp thu những điều mới mẻ, hiện đại, đừng lãng quên những giá trị đạo đức tốt đẹp của cha ông đã được hun đúc qua rất nhiều thế hệ trong lịch sử. Đây là một trong những nguồn tài liệu quý báu để luận án làm cơ sở xây dựng tiêu chí đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân ở Ninh Bình. Hoàng Bá Thịnh (2006) trong cuốn sách: “Biến đổi chức năng của gia đình và giáo dục trẻ em hiện nay” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội) [119] đã cho rằng ngày nay, phương pháp giáo dục con cái theo kiểu độc đoán, áp đặt đã giảm, tính dân chủ trong mối quan hệ gia đình được tôn trọng và đề cao hơn trước. Xuất phát từ nhận định như vậy, tác giả tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các chủ thể giáo dục trong gia đình đối với sự phát triển của trẻ em nói chung và đạo đức trẻ em nói riêng. Tác giả đem đến cho người đọc nhiều thông tin cho thấy cha mẹ có trình độ văn hóa thấp cũng ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc và giáo dục con cái. Một trong những biểu hiện rõ nét là số liệu thống kê tư pháp cho thấy cứ 100 thanh thiếu niên phạm pháp thì 50% trong số đó là có nguyên nhân từ việc gia đình buông lỏng quản lý, giáo dục thường xuyên, dẫn đến uốn nắn những hành vi sai trái của con em mình không kịp thời, gây nên hậu quả đáng buồn. Tác giả Trịnh Duy Huy (2007) trong công trình luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” [69] tập trung phân tích những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, tác động của nó đối với sự phát triển đạo đức, những chuẩn mực và thực trạng đạo đức của nước ta. Trong thời gian gần đây, vấn đề giáo dục đạo đức tiếp tục được các học giả nghiên cứu ở những khía cạnh cụ thể hơn với những đối tượng và địa bàn nghiên cứu chuyên biệt hơn. Tác giả Nguyễn Thị Thọ (2010) trong luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” tập trung làm rõ tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay. Tác giả nhấn
  • 16. 14 mạnh khía cạnh giáo dục đạo đức, giáo dục nề nếp gia phong, gia lễ là quan trọng nhất trong giáo dục gia đình, vì đạo đức là thành phần cốt lõi của nhân cách… giáo dục đạo đức trong gia đình tạo nền tảng nhân cách cho con người vào đời, ở đời và làm người [121; tr. 22]. Có thể nói, dưới góc độ triết học, đạo đức học, tác giả đã đưa ra được cái nhìn tổng quát về đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta, tìm ra những giải pháp mang tính định hướng trong việc xây dựng đạo đức gia đình. Nguyễn Thị Tố Quyên trong luận án Tiến sĩ Xã hội học (2010), đề tài: “Vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi Trung học cơ sở ở Hà Nội hiện nay” [110] đưa ra quan niệm giáo dục đạo đức gồm bốn nội dung cơ bản là giáo dục giá trị đạo đức, giáo dục chuẩn mực đạo đức, giáo dục hành vi đạo đức và giáo dục lý tưởng đạo đức. Tác giả luận án cũng đã phân tích đến các yếu tố ảnh hưởng như mức sống của gia đình, tình trạng hôn nhân, số thành viên, số thế hệ trong gia đình, nghề nghiệp, trình độ học vấn của cha mẹ, vị thế xã hội, tuổi tác… đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở và địa bàn nghiên cứu mà tác giả thực hiện là thành phố Hà Nội. Với sự phân tích của mình, tác giả đi đến khẳng định gia đình là môi trường quan trọng bậc nhất của giáo dục đạo đức, là nơi bảo tồn những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Một xã hội muốn vững mạnh, một dân tộc muốn phát huy và giữ gìn bản sắc của mình trước hết phải chăm lo xây dựng gia đình lành mạnh, trong đó các giá trị đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển [110; tr. 47] Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu, tác giả đi đến nhận định về tầm quan trọng của giáo dục gia đình là 15 năm đầu tiên trong cuộc đời một con người, gia đình chịu trách nhiệm về con em mình 90.000 giờ, trong đó nhà trường phổ thông chỉ quản lý con em chúng ta khoảng 15.000 giờ [110; tr. 32] Tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em theo hướng tiếp cận xã hội học. Điểm đặc biệt của công trình này là tìm hiểu, phân tích thái độ, hành vi tiếp nhận của con cái đối với giáo dục đạo đức của cha mẹ trong gia đình. Qua khảo sát thực tế tại 2 khu vực là quận Ba Đình và huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội, tác giả luận án nhận thấy là hầu hết các bậc phụ huynh đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình đối với
  • 17. 15 sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ em. Tuy nhiên, do áp lực của công việc và hoạt động kiếm sống nên nhiều bậc cha mẹ gặp phải khó khăn, thiếu thời gian quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, tác giả luận án đi đến kết luận chung rằng trong một xã hội đang biến đổi, do hạn chế về tri thức, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm sống, phương pháp, kỹ năng giáo dục… vẫn còn một số lượng đáng kể các bậc cha mẹ chưa làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện chức năng giáo dục con cái. Những giá trị đạo đức quý báu của dân tộc như lòng hiếu thảo, nhân ái, yêu lao động, trung thực… là những nội dung mà các phụ huynh tập trung giáo dục cho con cái trong gia đình. Ngô Thị Thu Ngà (2011) nghiên cứu đề tài: “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” [98]. Trong luận án Tiến sĩ Triết học này, tác giả đã phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ ở nước ta bối cảnh hiện nay, đặc biệt tập trung vào giáo dục những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Liên quan đến đề tài còn có nhiều công trình như luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục, đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho vận động viên Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Lê Ngọc Trung (2012) [126] cũng đề cập đến giáo dục đạo đức nhưng hướng vào đối tượng vận động viên của nước ta là chủ yếu. Hà Thị Kim Linh (2012) với luận án Tiến sĩ Giáo dục học đã tập trung nghiên cứu đề tài: “Sử dụng trò chơi dân gian nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học miền núi Đông bắc” [80] cũng đã đóng góp vào sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Tóm lại, những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân trên đây đã giúp chúng ta hình dung được một bức tranh tương đối đa dạng với nhiều nội dung, phương pháp giáo dục khác nhau cho những thành viên của gia đình nói chung và trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, số lượng công trình nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân còn khá khiêm tốn, trong khi thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần được sự quan tâm, sự chung tay góp sức của toàn xã hội.
  • 18. 16 1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân Trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản”, tác giả A. Siskin không chỉ dừng lại ở việc nêu, phân tích một số nội dung chủ yếu khi giáo dục đạo đức cho trẻ em ở trong gia đình, còn đề cập đến phương pháp giáo dục như thế nào thì hiệu quả và như thế nào là sai lầm. Tác giả đưa ra dẫn chứng về phương pháp dạy con theo kiểu nuông chiều, đòi sao nghe vậy, mặc ý nghịch ngợm, không theo dõi, bảo ban, tha thứ đối với những sai lầm nghiêm trọng của con cái, những thái độ đó rất dễ dẫn đến sai lầm. Nó tiềm ẩn những nhân tố có thể làm hư hỏng trẻ em, làm cho chúng trở thành kẻ vị kỷ, trở thành đứa trẻ lệch lạc về đạo đức. Ngược lại, lối giáo dục trẻ em chỉ dựa vào trừng phạt, dọa nạt, roi vọt đánh mắng có nguy cơ tiềm ẩn là vùi dập trẻ em, biến các em thành những người nhút nhát, sợ sệt, giả dối, a dua xu nịnh, lì lợm... Nguyên tắc tôn trọng con người tới mức cao nhất là một trong những nguyên tắc rất quan trọng mà gia đình Xô - viết dựa vào đó để tiến hành giáo dục đạo đức đúng đắn cho trẻ em [111; tr. 271]. Có thể nói, tác giả đã cung cấp cho người đọc một số điểm đáng lưu ý khi giáo dục đạo đức phải căn cứ vào đối tượng giáo dục để có phương pháp hợp lý, mang lại hiệu quả như mong muốn. Cũng trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản” tác giả còn đề cập đến những cha mẹ giải quyết vấn đề giáo dục con cái theo quan điểm tiện cho cá nhân mình, mà không nhớ rằng bản thân mình có trách nhiệm đối với xã hội. Theo tác giả, khi cha mẹ chứng kiến những hành vi hư hỏng, xấu xa của con mình thì trước tiên phải tự hỏi mình xem đã giáo dục con cái mình như thế nào. Điều này cũng có nghĩa là khi sử dụng các phương pháp giáo dục, trong đó có việc nêu gương thì trước tiên, cha mẹ với tư cách là các chủ thể giáo dục phải là những tấm gương sáng cho con cái họ noi theo. Tác giả đưa ra ví dụ như những hành vi gương mẫu, uy tín đạo đức của cha mẹ, quan hệ trong sạch giữa cha mẹ và con cái, việc tổ chức đúng đắn đời sống cá nhân, đời sống chung trong gia đình… tất cả những cái đó thường xuyên có tác dụng lớn lao, có thể nói vắn tắt là có tác dụng quyết định đối với việc giáo dục con cái trong gia đình. Những người làm cha mẹ phải luôn luôn ghi nhớ mãi mãi rằng trách nhiệm lớn lao của mình đối với xã hội là giáo dục người công dân tương lai cho đất nước, phải làm cho
  • 19. 17 con cái trở thành những người công dân trung thành với Tổ quốc. Người công dân ấy phải có đầy lòng hăng hái, dũng cảm, cứng cỏi, quyết tâm khắc phục bất cứ một trở lực nào, trung thành, thẳng thắn, thật thà. Các bậc cha mẹ phải làm tròn những nhiệm vụ cao là trong giáo dục đạo đức cho con cái thì con cái mới biết ơn người làm cha làm mẹ. A. C. Ma-ca-ren-cô là nhà giáo dục nổi tiếng của Xô - viết trước đây đã dành nhiều tâm huyết, năng lực và tình yêu cho con trẻ. Trong cuốn sách: “Nói chuyện về giáo dục gia đình” (Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1978) [87] ông cho rằng giáo dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình, nó không khó khăn ghê gớm như nhiều người lầm tưởng. Cuốn sách khuyên các bậc cha mẹ phải có tình yêu, trách nhiệm và kiến thức; giáo dục gia đình phải tiến hành ngay từ đầu, khi các em còn nhỏ. Những nguyên lý giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả A. C. Ma-ca-ren-cô cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị. Ngoài ra, từ trang 215 đến trang 227 của “Đạo đức học” - tập 2 (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1985) [11], Bandzeladze tập trung đề cập đến phương pháp nêu gương của những người làm cha làm mẹ và tác dụng của phương pháp này. Trên cơ sở phân tích cả về mặt lý thuyết lẫn những ví dụ thực tế, ông đưa ra nhận định rằng giáo dục được những người có đức hạnh là một sự bảo đảm cho sự tiến bộ xã hội, đồng thời đây cũng là một nguồn hạnh phúc cá nhân. Lớp trẻ được giáo dục tốt, đó là một sự đền bù xứng đáng cho công lao của bố mẹ. Không phải chỉ có bố mẹ có nghĩa vụ với con, ngược lại, con cũng có nghĩa vụ đối với bố mẹ [11; tr. 224]. Những quan niệm trên góp phần vào việc giáo dục đạo đức đối với các thành viên trong gia đình đều phải quan tâm chăm sóc lẫn nhau, tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức luôn đi liền với nhau, biểu hiện ở nhiều góc độ với những chủ thể khác nhau, tránh tình trạng cha mẹ luôn là người áp đặt việc thực hiện những hành vi đạo đức cho con cái và ngược lại. Cuốn sách: “Những tình huống ứng xử trong gia đình” do Lê Minh chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998) [95] đưa ra quan niệm đứa trẻ là thành viên non nớt nhất, như một cái mầm cây vừa mới nhú, chưa thể một mình chống đỡ trước bão táp, nhưng trẻ lại có một cơ thể đầy nhựa sống tiềm ẩn để phát triển. Tạo nhân cách cho trẻ nhân cách cho trẻ ngay từ khi lọt lòng mẹ đến sau này là một khoa học và đòi
  • 20. 18 hỏi phải có nghệ thuật, trong đó, muốn giáo dục con có hiệu quả thì các thành viên phải cùng nhau vun đắp tình yêu thương. Giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình bằng tình cảm thương yêu của những người lớn tuổi, nhất là bố mẹ, dành cho con là một trong những phương pháp được tác giả cho rằng có hiệu quả. “Dạy con nên người” của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố Hà Nội (2000) [62] cũng là một cuốn sách hay mà ở đó, các tác giả cung cấp những kiến thức hết sức cần thiết về nội dung (trong đó có nội dung giáo dục đạo đức), phương pháp, trách nhiệm của những người làm cha, làm mẹ khi giáo dục con cái trong gia đình của mình, ở đó có những ví dụ minh họa cụ thể giúp các bậc cha mẹ dễ dàng hình dung và đó là những tài liệu tham khảo hữu ích cho quá trình giáo dục con em mình. Tác giả Phạm Minh Hạc chủ biên (2001) cuốn sách: “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [55] vạch ra định hướng cơ bản xây dựng đạo đức con người trong thời kỳ này là trau dồi hệ thống các chuẩn mực đạo đức về những mối quan hệ sau: nhận thức chính trị - tư tưởng, sự tự hoàn thiện bản thân. Tác giả Hồ Sỹ Vịnh trong bài viết: “Xây dựng bản lĩnh văn hóa Việt Nam để thích nghi với xu thế toàn cầu hóa” được in ở cuốn sách: “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) nhìn nhận vấn đề gia đình từ góc độ văn hóa. Ông cho rằng có sự mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, đồng thời sẽ phải có những phương thức giải quyết thấu tình, đạt lý, có sức thuyết phục, làm gương cho con cháu noi theo. Điều này có thể được bắt đầu từ việc giáo dục cho các bậc làm cha, làm mẹ, đúng như Mác nói là người giáo dục cũng cần được giáo dục. Đây không phải là quan niệm mới mẻ những không ít bậc phụ huynh chưa ý thức sâu sắc về nó nên điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục đạo đức trong môi trường gia đình. Cuốn sách: “Dạy con nên người” do tác giả Hà Phương biên soạn, năm 2009 [104], tập trung nghiên cứu những cách thức giáo dục trẻ về tính độc lập, lòng bao dung, lễ độ, tự tin… trong môi trường giáo dục là gia đình. Những ví dụ minh họa được tác giả đưa ra hết sức cụ thể và thuyết phục.
  • 21. 19 Những công trình trên đã đưa ra nhiều tiếng nói khác nhau liên quan đến các phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân. Nhìn chung, các tác giả đã xuất phát từ việc phân tích thực trạng để rút ra nguyên nhân, trên cơ sở đó có phương hướng giải quyết đúng đắn, giải pháp phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Các công trình đã quan tâm lý giải, đưa ra nhiều cách thức khác nhau để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình sao cho đạt hiệu quả cao. Hai đối tượng được quan tâm đề cập nhiều nhất khi nói về giải pháp chính là chủ thể giáo dục (chủ yếu là cha mẹ) và khách thể giáo dục (trẻ em). Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về các phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong một loại gia đình nào đó như gia đình công nhân, gia đình nông dân, gia đình trí thức… thì đây còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Tìm hiểu việc thực hiện chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của gia đình nông dân tại một tỉnh là Ninh Bình hiện nay vẫn là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. 1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân Ninh Bình “Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”. Vì vậy, trẻ em phải được chăm sóc trong điều kiện tốt nhất, đó không phải là nhiệm vụ của riêng các cấp hay các ngành nào, mà chính là nhiệm vụ của toàn xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ được xem là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước và địa phương trong việc đảm bảo an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định, lâu dài của đất nước. Vì vậy, đã có nhiều văn bản được đưa ra, đi vào thực tiễn cuộc sống để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tiêu biểu như: Chỉ thị 20 - CT/TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới; Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Công văn số 1271/LĐTBXH-BVCSTE ngày 12/4/2013 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc triển khai Tháng hành động vì trẻ em năm 2013, nhiều địa phương trên cả nước đã xây dựng kế hoạch triển khai "Tháng hành động vì trẻ em" (1/6/2013 -
  • 22. 20 30/6/2013) với chủ đề: “Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho trẻ em nghèo và trẻ em dân tộc thiểu số". Chỉ thị 38/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) và Thông tri 04/TT-TW của Thường vụ Bộ chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chỉ thị 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em; Thông tư liên tịch 121 giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam về việc phối hợp hoạt động bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trong cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Nghị quyết Liên tịch số 01 giữa Bộ Công an và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về tham gia “Quản lý giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội” giai đoạn 2008 - 2012. Nhằm cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết từ năm 1990, thời gian qua, các cấp, các ngành ở tỉnh Ninh Bình đã quan tâm ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; lồng ghép các mục tiêu về trẻ em vào nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương, qua đó tạo điều kiện để mọi chăm sóc toàn diện cho trẻ em về sức khỏe, học tập, vui chơi giải trí, phát triển tài năng. Trên cơ sở văn bản của Trung ương, của tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp xã đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn, chỉ đạo việc triển khai thực hiện luật và các chính sách về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn. Bằng nhiều hình thức tuyên truyền như ban hành các văn bản, in sách, tờ rơi, loa đài truyền thanh, báo chí, truyền hình, pano, áp phích, khẩu hiệu, hội họp, diễn đàn, tọa đàm…, nội dung Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em; Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; 15 mục tiêu Chương trình hành động vì trẻ em; các tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, những nội dung phòng tránh tai nạn thương tích, phòng ngừa xâm hại trẻ em... được phổ biến tới mọi người dân trong tỉnh. Công tác truyền thông, tuyên truyền, vận động được quan tâm đúng mức đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã
  • 23. 21 hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh [153]. Ở tỉnh Ninh Bình, chưa có văn bản cụ thể về công tác giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân. Những văn bản có liên quan đến vấn đề này là 102/ UBND - VP6 (18/5/2013) của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc hoạt động nhân ngày gia đình Việt Nam 28/6; văn bản 19/ BC - UBND (1/3/2012) báo cáo tình hình đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2006 - 2011. Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình số 13/2002 về việc triển khai thực hiện nghị định 134/1999/ QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giai đoạn 1999 - 2002. Thông qua văn bản 20/ BC - UBND năm 2012, báo cáo tình hình thực hiện chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em Tỉnh phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, Đài phát thanh truyền hình, Báo Ninh Bình tổ chức tuyên truyền các quy định trong quyết định 134, các mục tiêu của chương trình hành động góp phần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng xã hội, các gia đình và mọi công dân đối với công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em. Những năm qua, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh đã thực sự đi vào cuộc sống. Công tác tuyên truyền được triển khai sâu rộng, đạt hiệu quả cao. Thực hiện sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các phong trào thi đua diễn ra sôi nổi, rộng khắp, tiêu biểu là: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan”, “xây dựng làng, xã, gia đình văn hoá”, “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”… được đẩy mạnh, có sự phối hợp tích cực giữa Hội Phụ nữ với ngành văn hoá, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nhân dân.
  • 24. 22 Nhìn chung, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn xã hội mà trực tiếp là gia đình, nhà trường. Trong các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học, các bài viết nêu trên, các tác giả đã đứng ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, triết học, quản lý giáo dục… để cùng nhìn nhận, xem xét, đánh giá những vấn đề có liên quan đến giáo dục đạo đức, gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức cho trẻ em. Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình được nhiều tác giả đề cập đến với tư cách là một nội dung chủ yếu của giáo dục gia đình. Điều này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển nhân cách trẻ em. Tựu chung lại, những tài liệu đã được công bố rộng rãi cung cấp cho người đọc những cái nhìn tổng thể, bao quát giống như một bức tranh toàn cảnh những vấn đề xung quanh việc làm rất có ý nghĩa là giáo dục đạo đức cho trẻ em tại gia đình. Tuy nhiên, phần lớn những công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận vấn đề ở diện rộng, cũng có những công trình nghiên cứu công phu về giáo dục đạo đức cho đối tượng là thế hệ trẻ nói chung, sinh viên Việt Nam, vận động viên, học sinh trung học cơ sở sống trên địa bàn thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… nhưng bàn về giáo dục đạo đức cho đối tượng trẻ em là con của gia đình nông dân, đặc biệt là nghiên cứu đạo đức học vận dụng vào thực tiễn ở một tỉnh như Ninh Bình thì cho đến nay vẫn còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình là vấn đề còn là vấn đề ít được quan tâm nghiên cứu. Chúng tôi nhận định rằng các tác giả đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau xung quanh những biến đổi, những tác động của các yếu tố tới việc giáo dục đạo đức. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, mỗi công trình đề cập đến những khía cạnh khác nhau. Song, chúng ta có thể thấy rằng, các nghiên cứu chuyên biệt về cách thức giáo dục những giá trị đạo đức cho trẻ em vẫn cần được quan tâm thích đáng hơn nữa, bởi các em chính là người chủ tương lai của quê hương, đất nước. Những công trình của
  • 25. 23 các tác giả đã được công bố với giá trị nhiều mặt của nó là tài liệu hết sức quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu của mình. 1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đặt ra như sau: Một là, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình. Hai là, về phương diện lý luận, giáo dục đạo đức cho trẻ em có tầm quan trọng đặc biệt, được cả nhân loại quan tâm. Điều này được thể hiện thông qua hoạt động của các tổ chức quốc tế, nhưng ở mỗi nước, vấn đề trên được quan tâm ở nhiều mức độ khác nhau. Vậy, làm thế nào để những tri thức lý luận về giáo dục đạo đức cho trẻ em được đi vào thực tiễn cuộc sống là vấn đề được đặt ra, đòi hỏi sự quan tâm giải quyết của các cấp, các ngành, các địa phương và sự chung tay của toàn xã hội. Ba là, những đặc thù về kinh tế xã hội của các gia đình nông dân cũng như những đặc thù của quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình đó cũng đang là mảng trống, cần được tiếp tục khai thác, nghiên cứu sâu. Bốn là, quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân tỉnh Ninh Bình chịu tác động của những yếu tố nào, trong đó, yếu tố nào là chủ đạo? Đây cũng là một vấn đề được đặt ra để giải quyết. Năm là, Ninh Bình đã nỗ lực xây dựng và triển khai thực hiện nhiều chương trình hành động để giáo dục đạo đức cho trẻ em. Vậy phương hướng cơ bản và những giải pháp cụ thể nào được đưa ra để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình mang lại hiệu quả cao? Vì vậy, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ hơn những vấn đề này trong luận án. Tiểu kết chương 1 Vấn đề gia đình nói chung, giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng đã và đang được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Thông qua việc đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở bốn nhóm chính: Những nghiên cứu về giáo dục đạo đức; những nghiên cứu về gia đình và giáo
  • 26. 24 dục đạo đức trong gia đình; những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân Ninh Bình; tác giả đã chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án. Với đề tài: “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình hiện nay”, tác giả luận án mong muốn trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nói chung, gia đình nông dân Ninh Bình nói riêng, luận án đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
  • 27. 25 Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN 2.1. Giáo dục đạo đức cho trẻ em 2.1.1. Đạo đức 2.1.1.1. Quan niệm về đạo đức Từ trước đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức. Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [59; tr.8]. Có thể thấy rằng, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Nhân loại đã sáng tạo ra nhiều hình thức khác nhau như phong tục tập quán, pháp luật, tôn giáo, đạo đức... để điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người một cách tự giác, tự nguyện với những yêu cầu đa dạng và được thể hiện với những mức độ phổ quát khác nhau. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc cho những quan điểm về đạo đức ở con người. Muốn tìm hiểu một hiện tượng đạo đức không thể dừng lại ở việc giải thích nội dung khái niệm mà phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp, nghĩa là tìm hiểu tồn tại xã hội đã đẻ ra hiện tượng đạo đức ấy. Đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại của nó [138; tr 24]. Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép, chuẩn mực, quy tắc, chuẩn mực đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định [59; tr. 10]. 2.1.1.2. Cấu trúc của đạo đức Căn cứ vào mối quan hệ giữa ý thức và hành động, người ta có thể chia đạo đức thành ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại; mật khác, nó còn bao trùm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người.
  • 28. 26 Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức; là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ý thức và thực tiễn đạo đức có quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức của con người [59; tr. 13 - 14]. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực của tồn tại xã hội. Nếu căn cứ theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định. Nó tồn tại như một hệ thống kinh nghiệm xã hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức trong cộng đồng. Đạo đức xã hội bao giờ cũng tồn tại như một hình thái ý thức xã hội đặc thù, một hệ thống giá trị, chuẩn mực, một phương thức điều chỉnh hành vi. Nó tồn tại như một môi trường khách quan đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy trong cộng đồng xã hội. Hầu hết mỗi cá nhân trong quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn đều phải tiếp thu đạo đức xã hội như là hệ thống kinh nghiệm xã hội, lý tưởng, chuẩn mực... để biến những giá trị chung đó thành kinh nghiệm của bản thân, lý tưởng của bản thân chuẩn mực mà mình cần vươn tới... Có thể coi sự hình thành đạo đức cá nhân là quá trình xã hội hóa cá nhân về mặt đạo đức. Mức độ xã hội hóa đánh dấu trình độ phát triển của đạo đức cá nhân. Có thể nói, đạo đức cá nhân là biểu hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm hết thảy mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội [59; tr. 16 - 17]. Muốn chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân thì phải thông qua hệ thống giáo dục đạo đức. C. Mác cho rẳng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [88; tr.11]. Như vậy, cùng với việc đề cập đến tính quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự hình thành nhân cách đạo đức, C.Mác còn đặc biệt chú ý đến việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng đáng nhất, hợp với bản chất người nhất”, coi đó là môi trường để giáo dục đạo đức cho con người có vai trò đặc biệt quan trọng. Đạo đức là cơ sở để hình thành năng lực, giúp con người đem năng lực của mình vào hoạt động với mục đích chân chính, động cơ trong sang, kết hợp hài hòa
  • 29. 27 sự phát triển cá nhân với sự phát triển xã hội. Đạo đức đảm bảo cho năng lực được sử dụng và phát huy một cách phù hợp với nhân tính, trong quỹ đạo của cái thiện, không bị lợi dụng vào những hành vi xấu, phản đạo đức, phi nhân tính. Sự tốt đẹp của đạo đức, tác dụng và hiệu quả của nó phải được chứng thực ở hành động, việc làm chứ không chỉ dừng lại ở lời nói. 2.1.2. Giáo dục đạo đức 2.1.2.1. Quan niệm về giáo dục đạo đức Giáo dục là lĩnh vực liên quan mật thiết tới sự phát triển bền vững của mọi quốc gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói riêng. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu rằng phải tìm mọi cách để giải quyết tốt vấn đề giáo dục, cho dù ở các mặt khác phải nhẫn nại một chút, thậm chí hi sinh một chút về tốc độ. Ông còn cho rằng kế hoạch lớn trăm năm phải lấy giáo dục là gốc. Theo chúng tôi, giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Giáo dục đạo đức là quá trình tuyên truyền những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội [109; tr. 41]. Giáo dục đạo đức là một quá trình hai mặt, một mặt là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt khác, đối tượng giáo dục tự biến đổi bản thân, tự hoàn thiện mình. 2.1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức Giáo dục đạo đức đóng vai trò chủ đạo trong hình thành và phát triển nhân cách của con người nói chung, trẻ em nói riêng. Thông qua hoạt động giáo dục, trẻ em được tác động có mục đích, có phương pháp và có kế hoạch để thay đổi theo những chuẩn mực, giá trị xã hội quy định. Nhân cách được tạo lập bởi hai thành tố chủ yếu là đức và tài, hay nói cách khác là sự kết hợp giữa đạo đức với năng lực cá nhân. Đối với mỗi cá thể người, lúc khởi đầu, khi vừa sinh ra mới chỉ thuần túy là một thực thể sinh vật, chưa hề có nhân cách, mặc dù nó là một sinh vật - người. Đạo đức là một trong những phương diện và là phương diện cốt yếu nhất của nhân cách. Đạo đức trong xã hội là kết quả đúc kết những kinh nghiệm xã hội lịch sử, là một mặt quan trọng của văn hóa, kết tinh trong từng con người. Giáo dục đạo đức là
  • 30. 28 con đường chủ yếu của sự phát triển nhân cách. Giáo dục xuất hiện từ buổi bình minh của loài người, trước hết là sự truyền đạt những kinh nghiệm sống, trong đó quan trọng là kinh nghiệm lao động. Bản chất của hoạt động giáo dục là các quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ nhằm duy trì và phát triển cộng đồng xã hội. Khi đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu một sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong những hoàn cảnh nào đó còn chịu sự khiển trách của lương tâm… Cá nhân phải có trách nhiệm chuyển những đòi hỏi của xã hội thành những nhu cầu, mục đích trong hoạt động của mình. Do vậy, điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người [59; tr. 11]. Thông qua quá trình giáo dục đạo đức, những quy tắc, chuẩn mực, lý tưởng đạo đức xã hội được biến thành sức mạnh của đạo đức cá nhân. Sự hình thành đạo đức cá nhân được thực hiện thông qua hai con đường phổ biến nhất là nhận thức đạo đức của cá nhân và hoạt động thực tiễn đạo đức của bản thân họ. Bên cạnh đó, đạo đức của mỗi cá nhân cũng như sự tham gia của mỗi cá nhân vào hoạt động xã hội sẽ góp phần biến đạo đức cá nhân thành đạo đức xã hội. Theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (Điều 29.1.a) giáo dục có mục tiêu “phát triển tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất của trẻ em”. Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình và là tương lai của đất nước. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không chỉ là vấn đề đạo lý mà còn là vấn đề pháp lý đã được thể chế hóa ở nước ta để các thành viên trong gia đình, xã hội có trách nhiệm thực hiện. Ở nước ta, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức tác động mạnh mẽ, thường xuyên đến hành động hàng ngày của con người trong cuộc sống, hướng chúng ta đến cái chân, cái thiện, cái mỹ; chống lại cái xấu, cái ác, cái giả tạo… Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giáo dục đạo đức, Đảng ta đã lấy con người làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách xã hội và chủ trương đưa văn hoá vào phát triển, “làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người… Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [43; tr. 213]. Có thể nói, giáo
  • 31. 29 dục đạo đức sẽ góp phần vào việc hình thành, phát triển nhân cách cho mỗi con người nói chung và trẻ em nói riêng. 2.1.3. Trẻ em 2.1.3.1. Quan niệm về trẻ em Trước hết, cần khẳng định rằng trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Chúng ta quan niệm: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” cũng là vì vậy. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ em từ trước đến nay luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề trẻ em đã được đề cập chính thức trong nhiều văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế. Nước ta là nước đầu tiên của châu Á, nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. Đề cập đến khái niệm về trẻ em, theo công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em trong điều 1 - phần I: “Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn” [17; tr. 88]. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, tội phạm học, y học, xã hội học… Ở nước ta, từ phương diện xã hội học, trẻ em được nhìn nhận như một nhóm xã hội đặc biệt đang trong quá trình xã hội hóa, đang tiếp thu kiến thức, kỹ năng để tham gia hoạt động xã hội với tư cách là một chủ thể có độ tuổi từ 16 trở xuống. Trên phương diện tâm lý học, trẻ em Việt Nam thường được hiểu là những đối tượng mà các chức năng tâm lý thần kinh cao cấp chưa hoạt động theo quỹ đạo chiến lược làm việc của hai bán cầu não như người trưởng thành. Trong cuộc sống cũng như trong nghiên cứu, rất nhiều người có cùng quan điểm như trên. Theo luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [106; tr. 5]. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi nghiên cứu trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, chủ yếu là lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở và lớp 10 Trung học phổ thông. 2.1.3.2. Vị trí của trẻ em đối với sự phát triển xã hội Tổ chức Liên Hiệp Quốc ngay từ những ngày đầu mới ra đời đã quan tâm đến trẻ em. Một trong những hành động trước hết của tổ chức này là thành lập Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc. Vấn đề trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận
  • 32. 30 trong Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hội Quốc liên thông qua vào năm 1924 dựa trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Tuy nhiên, việc bảo vệ trẻ em đòi hỏi phải có một khuôn khổ và chuẩn mực được cộng đồng quốc tế nhất trí. Đó là ý tưởng về một Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Công ước được soạn thảo trong suốt 10 năm. Nó có hiệu lực và trở thành Luật quốc tế từ ngày 2 tháng 9 năm 1990. Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên của xã hội, ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể, có ý thức và là người chủ của gia đình, của dân tộc, của đất nước trong tương lai. Có lẽ, cộng đồng xã hội nào cũng mong muốn trẻ em lớn lên sẽ trở thành những công dân có ích. Bởi vậy, công ước về quyền trẻ em coi trẻ em không phải chỉ là đối tượng được bảo vệ mà còn là một chủ thể, một con người đang trong quá trình phát triển có quyền tự quyết định lấy tương lai của mình. Các em được coi như những thành viên của quá trình phát triển và những thành viên này đóng vai trò tích cực trong cộng đồng xã hội. Trẻ em có vị trí quan trọng đối với xã hội tương lai nên khi còn nhỏ, các em có quyền nhận được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục từ các thành viên trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trẻ em được quyền phát biểu ý kiến và người khác phải lắng nghe ý kiến của các em. Khi trẻ em được tôn trọng và được trao quyền sẽ có trách nhiệm trở thành những người lớn được tôn trọng và được trao quyền. Trong giáo dục gia đình, trẻ em là đối tượng giáo dục được quan tâm hàng đầu. Hầu hết các nhà tâm lý học, giáo dục học đều cho rằng, trong những năm đầu của cuộc đời, trẻ em dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và hoàn thiện những thói quen nhất định. Ngoài ra, trẻ em là người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương nên cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Vì trẻ em có vị trí, vai trò quan trọng đối với gia đình và xã hội nên người lớn cần tạo điều kiện để trẻ được tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống của các em, nhưng chúng ta cần xác định rõ rằng điều này không có nghĩa là trẻ em có quyền hành đối với người lớn.
  • 33. 31 Việt Nam phê chuẩn Công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990 nhưng vấn đề trẻ em đã được quan tâm từ rất sớm. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời thường nhắc nhở: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” Bác cũng mong muốn: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đảng, Nhà nước ta xác định mọi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội trước hết phải hướng vào mục tiêu phát triển con người, nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho con người, trước hết là trẻ em. Điều này được thể hiện rõ nét qua các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta luôn coi trọng việc thúc đẩy phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức… Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, giáo dục và nuôi dưỡng nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, Đảng ta còn xác định và thực hiện giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, trong đó, giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội phải phối hợp chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Trên đây là những quan điểm, phương hướng của Đảng khẳng định tầm quan trọng của giáo dục gia đình, góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực của các bậc làm cha, làm mẹ trong giáo dục gia đình nông dân. Mặt khác, các chủ thể giáo dục ở ngoài xã hội cũng có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ các chủ thể giáo dục trong gia đình, cùng góp sức vì tương lai của trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở nông thôn. Trẻ em là niềm hạnh phúc, niềm hi vọng, niềm tự hào của không ít gia đình Việt Nam. Đó là người kế tục sự nghiệp của cha ông, dòng họ… Vì thế, các em cần
  • 34. 32 được chăm sóc, giáo dục tốt, nếu không sẽ ảnh hưởng xấu không chỉ đến gia đình mà là cả xã hội. 2.1.4. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình 2.1.4.1. Quan niệm về gia đình Gia đình là tổ ấm của con người, là tế bào của xã hội. Con người từ xa xưa cho đến nay đều mơ ước có một tổ ấm để sống đời sống cá nhân của mình và rồi, từ cái tổ ấm này, từ cái tế bào lành mạnh này mà đóng góp tích cực vào xã hội. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học cũng như các triết gia, các nhà xã hội học… quan tâm nghiên cứu về gia đình. Vậy gia đình là gì? Để trả lời cho câu hỏi này cho đến hiện nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau bởi đây là một phạm trù rộng, không ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội. Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật thiết với xã hội. Tổ chức này xác định rằng gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản của xã hội, có quyền hưởng sự bảo vệ của xã hội và của Nhà nước. Trên cơ sở đó, Liên hiệp quốc cũng lưu ý đến khía cạnh cộng đồng về kinh tế của gia đình khi đưa ra định nghĩa rằng gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung. Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn xem xét gia đình là một tập hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dưỡng, đã gắn bó những con người có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về thân nhân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất, để tương trợ nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái [128; tr.17]. Giáo sư Lê Thi là một trong những người đã dày công nghiên cứu về đề tài gia đình. Theo Giáo sư: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn nhân và gia đình của nước
  • 35. 33 ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [118; tr.20]. Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình bởi lẽ các tác giả đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, gia đình là thiết chế có tính toàn cầu nhưng lại có những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chung có thế áp dụng cho toàn cầu. Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng có ba mối quan hệ thường được nhắc tới khi đề cập đến gia đình. Đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên. Quan hệ hôn nhân là quan hệ tính giao giữa nam và nữ được pháp luật thừa nhận, liên kết với nhau để chung sống và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan hệ cơ bản đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ khác. Quan hệ huyết thống là mối quan hệ ràng buộc giữa cha mẹ với con cái, là hệ quả tất yếu của hôn nhân. Ngoài ra, nó còn được thể hiện trong mối quan hệ gắn bó giữa các anh chị em ruột với nhau. Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng được nuôi dưỡng. Họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi được pháp luật thừa nhận, bảo vệ, mà cao hơn cả là tình thương yêu, sự chăm sóc, đùm bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống. Theo chúng tôi, gia đình là một nhóm người đặc biệt được hình thành, phát triển, củng cố bởi các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần chung, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao nhất là nuôi dưỡng các thành viên, xây dựng gia đình bền chặt, phát triển kinh tế gia đình. 2.1.4.2. Chức năng cơ bản của gia đình Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển vì nó có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà tự nhiên và xã hội giao cho, không một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Các chức năng của gia đình tồn tại trong mối liên hệ thống nhất, tác động lẫn nhau để tạo nên con người, xã hội hóa con người. Gia đình