Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ nữ so với nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó, cuộc đấu tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng đã rất lâu. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Cơ sở lý luận về quyền của lao động nữ. Lao động là nhân tố quyết định đối với sự phát triển xã hội loài người. Theo Ăng-ghen thì lao động đã tạo ra chính bản thân con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Luận Văn Giải Pháp Chủ Yếu Nâng Cao Vai Trò Của Lao Động Nữ Dân Tộc Tày Trong Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Tiểu Luận Quan Điểm Của Triết Học Mác-Lênin Về Con Người. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Tiểu Luận Quan Điểm Của Triết Học Mác-Lênin Về Con Người. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Công tác xã hội cá nhân với hộ nghèo đơn thân tại Đăk Lăk là một điều khó khăn đối với các bạn sinh viên khi không được thực tế quan sát, rất khó để viết lời thành văn. Liên hệ với AD qua Zalo: 0934.536.149
Cơ sở lý luận về quyền của lao động nữ. Lao động là nhân tố quyết định đối với sự phát triển xã hội loài người. Theo Ăng-ghen thì lao động đã tạo ra chính bản thân con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Luận Văn Giải Pháp Chủ Yếu Nâng Cao Vai Trò Của Lao Động Nữ Dân Tộc Tày Trong Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Tiểu Luận Quan Điểm Của Triết Học Mác-Lênin Về Con Người. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Tiểu Luận Quan Điểm Của Triết Học Mác-Lênin Về Con Người. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực phải chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Công tác xã hội cá nhân với hộ nghèo đơn thân tại Đăk Lăk là một điều khó khăn đối với các bạn sinh viên khi không được thực tế quan sát, rất khó để viết lời thành văn. Liên hệ với AD qua Zalo: 0934.536.149
Công tác xã hội cá nhân với hộ nghèo đơn thân tại Thành phố Buôn Ma Thuột. Báo cáo thực hành môn công tác xã hội cá nhân và gia đình của tôi tại buôn Tơng Jŭ, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, qua đây bản thân được biết thêm về quá trình hình thành, sự phát triển về tổng thể, cơ bản đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn có mặt chưa đáp ứng so với yêu cầu đặt ra. Do đó, việc tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này trên địa bàn, là việc làm cần thiết trong tình hình hiện nay.
Luận Văn Thạc Sĩ Thực Hiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Chính Trị. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận Giải Pháp Thúc Đẩy Sự Tham Gia Của Phụ Nữ Trong Việc Ban Hành Các Quyết Định Lãnh Đạo. Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội; thể hiện trình độ giải phóng phụ nữ và là thước đo của sự tiến bộ xã hội. Thực hiện bình đẳng giới bam gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó bình đẳng về chính trị, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong việc ban hành các quyết định lãnh đạo, quản lý là một nội dung có vai trò đặc biệt quan trọng.
Báo Cáo Thực Tập Về Bình Đẳng Giới, Quyền Cuả Phụ Nữ. Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật về bình đẳng giới và bình đẳng giữa vợ chồng ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu chỉ ra những khó khăn vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn thực hiện ở Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo sự bình đẳng của nữ giới trong xã hội, đặc biệt là bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình Việt Nam.
(TẢI FREE ZALO 0934 573 149)
Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con người để phân tích tầm quan trọng của nhân tố con người trong nền kinh tế tri thức
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx
Công tác xã hội cá nhân với hộ nghèo đơn thân tại Thành phố Buôn Ma Thuột. Báo cáo thực hành môn công tác xã hội cá nhân và gia đình của tôi tại buôn Tơng Jŭ, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk, qua đây bản thân được biết thêm về quá trình hình thành, sự phát triển về tổng thể, cơ bản đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn có mặt chưa đáp ứng so với yêu cầu đặt ra. Do đó, việc tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này trên địa bàn, là việc làm cần thiết trong tình hình hiện nay.
Luận Văn Thạc Sĩ Thực Hiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Chính Trị. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận Giải Pháp Thúc Đẩy Sự Tham Gia Của Phụ Nữ Trong Việc Ban Hành Các Quyết Định Lãnh Đạo. Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội; thể hiện trình độ giải phóng phụ nữ và là thước đo của sự tiến bộ xã hội. Thực hiện bình đẳng giới bam gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó bình đẳng về chính trị, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong việc ban hành các quyết định lãnh đạo, quản lý là một nội dung có vai trò đặc biệt quan trọng.
Báo Cáo Thực Tập Về Bình Đẳng Giới, Quyền Cuả Phụ Nữ. Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật về bình đẳng giới và bình đẳng giữa vợ chồng ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu chỉ ra những khó khăn vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn thực hiện ở Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo sự bình đẳng của nữ giới trong xã hội, đặc biệt là bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình Việt Nam.
(TẢI FREE ZALO 0934 573 149)
Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con người để phân tích tầm quan trọng của nhân tố con người trong nền kinh tế tri thức
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé
Similar to Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx (20)
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp. HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (giữa thế kỷ XIX), bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau chống lại sự chèn ép, khống chế và bần cùng hóa của tư bản lớn. Trên thực tế, ở mỗi nước có những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, nên sự ra đời và phát triển của các HTX có những đặc điểm khác nhau. Có nhiều định nghĩa về HTX, tiêu biểu là định nghĩa của Liên minh HTX quốc tế (ICA), của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ. Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy nhà nước thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến công vụ, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công chức. Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng như ở Pháp là bao gồm tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước, tất cả những người tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn như tại Anh, nơi công chức là những người thay mặt nhà nước giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ương, nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng. Dịch vụ công công trong tiếng Việt thường được gọi là dịch vụ công. Theo từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. Như vậy: Dịch vụ chính là sản phẩm hàng hóa giữa một bên cung ứng và một bên thụ hưởng thông qua các hoạt động nhất định và có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp. Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm này cho thấy, ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành khác không có, cụ thể:
Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên bậc đại học. Giáo dục đại học nói chung thường được hiểu là bao gồm giảng dạy, NCKH và chuyển giao ứng dụng. Thực ra, khi phân tích kỹ những quan điểm khác nhau về GDĐH, chúng ta có thể kể ra nhiều vai trò khác nhau của GDĐH trong xã hội. GDĐH đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” (feeder system) của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết phải có cả hai yếu tố: một hệ thống GDĐH và một lực lượng lao động. GDĐH truyền cho người học những kiến
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc. Cho đến nay, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, khái niệm "dân tộc" có hai nội hàm. Thứ nhất nó dùng để chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia tức là dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam, một thể chế chính trị - xã hội nhất định, một lãnh thổ, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Thứ hai, "dân tộc" dùng để chỉ cộng đồng tộc người cụ thể, có chung tiếng nói, có chung các đặc điểm sinh hoạt văn hóa, các phong tục, tập quán, ví dụ khi ta nói đến các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Bana, Êđê…
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc, đó là nhà nƣớc dân tộc. Nhà nƣớc dân tộc có thể là một tộc ngƣời, là dân tộc đơn nhất nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc ngƣời, là dân tộc đa tộc ngƣời nhƣ Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nƣớc khác. Nhà nƣớc dân tộc phải là nhà nƣớc độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc không chỉ là một cộng đồng ngƣời hay cộng đồng đa tộc ngƣời mà còn là một cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nƣớc và những điều kiện lịch sử nhất định.
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá. Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng, và hiểu theo nghĩa rộng là của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản Văn hóa (sau đây gọi là DSVH) của Việt Nam đã viết: " DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta" [37].
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng. Mặc dù tồn tại từ lâu trong lịch sử nhân loại, nhƣng đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tham nhũng mới thật sự đƣợc cảnh báo nhƣ là hiểm họa đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, bất kể chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đến nay chƣa có một định nghĩa nào mang tính tổng hợp và đƣợc chấp nhận trên phạm vi toàn về tham nhũng. Các nỗ lực xây dựng một định nghĩa nhƣ vậy đã gặp phải những vấn đề luật pháp, tội phạm học và ở nhiều quốc gia trên thế giới, là cả về chính trị [24, tr.18].
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội. Thu BHXH không ra đời cùng với khái niệm BHXH bởi hình thức sơ khai nhất của BHXH là những quỹ được hình thành do sự tự nguyện đóng góp của một cộng đồng người nhất định. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, BHXH ngày càng hướng tới nhiều đối tượng và các chế độ trợ cấp khác nhau. Bởi vậy, nguồn quỹ BHXH cũng đặt ra yêu cầu cần được bảo vệ và tăng trưởng tương xứng với mức độ chi. Dần dần quỹ BHXH được hình thành không phải từ sự tự nguyện của một nhóm nhỏ lẻ mà trở thành quy định bắt buộc đối với cộng đồng, sau đó là mỗi quốc gia và hiện nay nó được công nhận trên toàn thế giới. Cũng từ đó, thuật ngữ “thu BHXH” được xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Có thể nói, thu BHXH ra đời cũng là một tất yếu khách quan xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của BHXH như sau:
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế. Trên thế giới, do tính chất đặc thù của từng quốc gia nên khái niệm về biên chế cũng khác nhau, có nƣớc chỉ giới hạn biên chế trong cơ quan quản lý nhà nƣớc, thi hành pháp luật. Cũng có nƣớc biên chế áp dụng cho những ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp, thực hiện dịch vụ công.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI. Đối tƣợng tham gia của BHXH là NLĐ và ngƣời SDLĐ. Họ là những ngƣời trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản phần trăm nhất định so với tiền lƣơng của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nƣớc mà đối tƣợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG. Dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là vật phẩm, mà là công việc của một con người dưới hình thái là lao động thể lực, kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khả năng tổ chức và thương mại. Sản phẩm dịch vụ là một loại sản phẩm đặc biệt không nhìn thấy trước và chỉ được biết đến khi nó được sử dụng. Có thể hiểu “dịch vụ là hoạt động phục vụ thỏa mãn những nhu cầu cá nhân hay tập thể trong sản xuất và sinh hoạt”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC. Ở góc độ tổ chức quá trình lao động: “Quản lý nhân lực là lĩnh vực theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh, kiểm tra sự trao đổi chất (năng lượng, thần kinh, bắp thịt) giữa con người với các yếu tố vật chất của tự nhiên (công cụ lao động, đối tượng lao động, năng lượng...) trong quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần để thoả mãn nhu cầu của con người và xã hội nhằm duy trì, bảo vệ và phát triển tiềm năng của con người”. [2, tr4]
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ. Viên chức ngành y tế có vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, là những người trực tiếp tham gia các hoạt động khám chữa bệnh cho người dân. Viên chức ngành y tế phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực, y đức để đảm bảo theo từng vị trí việc làm. Hiện nay, viên chức ngành y tế chiếm khoảng 15% trên tổng số viên chức cả nước, đứng thứ hai sau khu vực giáo dục, đào tạo [4, tr.16]. Viên chức ngành y tế hiện nay bao gồm những người làm công tác quản lý, chuyên môn nghiệp vụ trong các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa, bệnh viện tuyến quận, huyện, phường xã, thị trấn và cả những người làm công tác y tế dự phòng,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP. Thuật ngữ “Hiến pháp” có gốc La tinh là “Constitutio” xuất hiện từ rất xa xưa với nghĩa: xác định, quy định [5, tr71]. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để chỉ các văn bản quy định của Nhà nước. Nhưng với nghĩa hiện nay, Hiến pháp được hiểu là một đạo luật cơ bản của một quốc gia do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Mọi cá nhân, cơ quan và tổ chức phải có nghĩa vụ tuân thủ hiến pháp. [7, tr13]
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH. Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La tinh thành Turnur và sau đó thành Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar (1980), từ Tourism (du lịch) lần đầu tiên được sử dụng trong tiếng Anh vào năm 1800 và được quốc tế hóa, nhiều nước đã sử dụng trực tiếp từ này mà không dịch nghĩa. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch là một từ gốc Hán - Việt, tạm hiểu là đi chơi, trải nghiệm.
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [21, tr.226]. Quan điểm học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn,
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1.1. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ nữ so
với nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó, cuộc đấu
tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào vận động ủng hộ
phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng đã rất lâu. Thực tiễn đó
làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã phát triển
qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới chỉ mới xuất
hiện những năm gần đây. Khoa học về phụ nữ và giới chính là sản phẩm của phong
trào đấu tranh của phụ nữ. Nó ra đời từ chính phong trào, thừa kế những di sản văn
hoá, tinh thần tiến bộ của loài người và đến lượt mình nó lại tạo cơ sở lý lụân, làm
phong phú thêm cho chính phong trào phụ nữ cũng như cho chính kho tàng kiến thức
của nhân loại. Nó đã gây được ảnh hưởng lớn, thậm chí làm đảo lộn nhiều nhận thức
và quan niệm của một số ngành khoa học. Ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ
mới được hình thành từ những năm 80. Mặc dù là một ngành khoa học còn rất non
trẻ nhưng nó đã trưởng thành nhanh chống, đạt được nhiếu thành tựu trong lĩnh vực
nghiên cứu phụ nữ học và triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng về người phụ
nữ ở Việt Nam cũng như vấn đề về bình đẳng nam nữ, góp phần quan trọng vào công
việc quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước ta. Thời gian gần đây, vấn đề giới
đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các cấp, các ngành và các lĩnh
vực khác nhau. Nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết về giới cũng như việc vận
dụng lý thuyết giới vào thực tiễn đang tăng lên không chỉ ở những nơi triển khai các
dự án về giới, xây dựng luận chứng, lập kế hoạch và soạn thảo chính sách kinh tế -
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xã hội liên quan tới giới mà còn cả những cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo về
giới trên toàn quốc.
Khái niệm giới, tuy mới được nói tới từ những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng
bản chất vấn đề giới và nội dung các quan điểm về giới thực ra đã được nói đến từ
lâu trong lịch sử thế giới mà chủ yếu liên quan tới vấn đề phụ nữ và sự bình đẳng
nam - nữ. Mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ, sự giống nhau và khác nhau giữa
hai giới, sự bình đẳng giữa hai giới… là vấn đề có từ xưa, từ khi loài người bắt đầu
xuất hiện trên trái đất. Tuy nhiên, cho đến ngày nay đó vẫn còn là vấn đề thời sự
đang được bàn luận sôi nổi và nghiêm túc.
1.1.1.1. Khái niệm giới
Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, Giới và giới tính là hai khái niệm
cặp đôi, liên quan chặt chẽ nhau. Trong đó tiếng Anh giới là GENDER và giới tính
là SEX. Do đó, để hiểu khái niệm giới, trước hết cần hiểu khái niệm giới tính.
Giới tính là một khaí niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ sự khác
biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá
trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã có những đặc
điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang thai và sinh con, hoặc
chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai.
Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ
về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan
niệm hay qui định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể
hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất, tinh
thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội. Ví dụ: Theo quan niệm
và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ thì phải làm hầu
hết các công việc trong nhà như chăm sóc con, nấu ăn, phục vụ chồng… Còn nam giới
thì có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội. Khi
sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và
chấp nhận từ nề nếp của gia đình, qui ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hoá.
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên qui định.
Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian
và thời gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền văn
hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới ở mọi nơi, mọi thời
đại đều giống nhau ở chức năng sinh sản là làm cho phụ nữ mang thai. Còn nói đến giới
là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hoàn
cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá… tạo nên. Địa vị thái độ và hành vi đó không bất biến
mà thay đổi do sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách
đây 50 năm về trước, đặc điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay không có sự
thay đổi, thế nhưng đặc điểm về giới-tức là địa vị xã hội, tương quan về mặt xã hội so
với nam giới-đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng tháng tám 1945, hoàn
cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc.
Từ những phân tích trên đây ta có khái niệm: giới là thuật ngữ dùng để chỉ
vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, mối quan hệ này được quyết
định và có thể thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh xã hội và văn hoá.
1.1.1.2. Vai trò giới
Vai trò giới là những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội mà xã hội
mong đợi ở nữ giới và nam giới trong xã hội hay một nền văn hoá cụ thể. Đó là mối
quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai làm gì, ai là người ra quyết định, tiếp cận
nguồn lực và các lợi ích.
Vai trò giới được chia làm ba nhóm cơ bản: vai trò sản xuất; vai trò tái sản
xuất và vai trò cộng đồng.
Vai trò sản xuất, thực hiện những hoạt động bao gồm sản xuất hàng hoá và
dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại như làm ruộng, đánh cá, thuê mướng
hoặc tự sử dụng lao động. những hoạt động này được trả công và tạo ra thu nhập, cả
nam và nữ có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất, nhưng nhìn chung các chức
năng và trách nhiệm của họ cũng khác nhau do sự phân công lao động theo giới
truyền thống. Những việc do phụ nữ làm thường được đánh giá thấp hơn nam giới.
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Vai trò tái sản xuất, là thực hiện các hoạt động tái sản xuất ra con người và
sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình như nuôi dạy và
chăm sóc trẻ con, chuẩn bị thức ăn, giữ gìn nhà cửa, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức
khoẻ gia đình… những công việc này được gọi là công việc tái sản xuất là thiết yếu
đối với đời sống con người, đảm bảo sự bền vững của dân số và lực lượng lao động.
Công việc này tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy ít khi
được coi là công việc thật sự, được làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa
vào các con tính. Đại đa số, công việc tái sản xuất là trách nhiệm của phụ nữ và trẻ
em gái.
Vai trò cộng đồng, thực hiện những hoạt động bao gồm một tổ hợp các sự
kiện xã hội và dịch vụ như hoà giải mâu thuẩn, các nghi lễ (đám tang, đám cuới, liên
hoan, cúng đình …), các hoạt động thúc đẩy cộng đồng, các hoạt động chính trị ở
địa phương… Công việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn
hoá tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời
gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại được trả công và có thể nhìn thấy
được như làm trưởng ban của một ban nào đó. Công việc này thường do nam giới
nắm giữ.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và chiếm khoản 50,6% lực lượng
lao động xã hội [1].
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam có vai trò và những đóng góp
to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong công cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc phát triển của đất nước, đặc biệt từ sau
quá trình đổi mới. Ngày nay phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, trong các
ngành như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ (may mặt, giầy dép và chế biến thuỷ
sản…), giáo dục, y tế, thương mại… và đã đạt được những thành tựu to lớn trong tất
cả các lĩnh vực, đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt
Nam. Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của phụ nữ đã được ghi nhận trong gia đình,
công việc và ngoài xã hội. Như trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới, đã xác định: “ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng
to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế, xã
hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy
đầu tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện
đời sống vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện
tốt nam nữ bình đẳng… Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là công tác của phụ nữ, là
trách nhiệm của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và của
từng gia đình”.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những định kiến từ chế độ phong kiến cùng với
phong tục tập quán lạc hậu lâu đời còn tồn tại, cũng như nhiều quốc gia khác, ở Việt
Nam vẫn còn tồn taị những bất bình giới, phụ nữ và trẻ em có vị thế thấp hơn nam giới;
ở nhiều nơi phụ nữ và trẻ em phải đối mặt với nhiều vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt
đối xử liên quan đến giới và bạo hành về giới…Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam vẫn phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn sau:
Về mặt xã hội, quan niệm “trọng nam khinh nữ” tồn tại ở nhiều nơi trên cả
nước, đặc biệt là vùng nông thôn, tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống bởi tình
trạng đói nghèo và phát triển kinh tế chậm ở nông thôn. Đây là những định kiến về
giới và sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ và phần nào dẫn đến tình trạng thiếu cơ
hội cho phụ nữ, địa vị thấp kém của phụ nữ và thậm chí cả bạo lực đối với phụ nữ.
Đây là sự thách thức trong cuộc chiến của toàn xã hội để cải thiện mối quan hệ về
giới, đảm bảo công bằng giới và thực hiện việc trao quyền cho phụ nữ.
Trong lĩnh vực giáo dục, theo Luật Giáo dục Việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái
được tiếp cận công bằng với các cơ hội học tập và thực tế là hiện nay số lượng trẻ
em gái theo học bậc tiểu học, trung học cơ sở đã bằng và gần bằng số trẻ em trai.
Tuy nhiên, vẫn còn có sự cách biệt về sồ lượng học sinh nữ và nam ở bậc học đại
học. Bậc học càng cao, càng có ít học sinh nữ. Trẻ em gái và phụ nữ thường có ít
thời gian cho việc học hơn là trẻ em trai và nam giới, vì họ phải dành nhiều thời gian
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cho việc nội trợ và một phần vì các quan niệm truyền thống, họ có ít cơ hội đi học
hơn các anh em trai của mình. Đặc biệt, nếu gia đình phải đối mặt với những khó
khăn về tài chính, trẻ em gái và phụ nữ phải bỏ học trước để kiếm tiền hổ trợ gia
đình. Trong các hoạt động kinh tế, hiện nay phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với những
thách thức mới như khả năng cạnh tranh thấp kém của lao động nữ, ít sơ hội việc
làm hơn (đặc biệt là những công việc có thu nhập cao), nguy cơ mất việc cao hơn so
với nam giới.
Trong lĩnh vực gia đình, nam giới thường đưa ra quyết định cuối cùng về sản
xuất, đầu tư, kinh doanh, phân bổ nguồn lực gia đình, hướng phát triển của gia đình
và định hướng cho con cái…Vai trò của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định là rất
thấp, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu vùng xa. Phụ nữ, trong khi vừa phải cáng
đáng việc ở cơ quan vừa phải tiếp tục gánh vác công việc nội trợ nặng nhọc mà
không nhận được đồng thù lao nào. Phụ nữ nông thôn Việt Nam làm việc trung bình
12,5 đến 14 giờ/ngày [37]. Nói cách khác, phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm việc
nhà hơn nam giới. Họ có xu hướng gánh vác cả ba vai trò cùng một lúc: công việc
gia đình (nội trợ và chăm sóc con cái) công việc sản xuất và công việc ngoài xã hội.
Đây là sự phân công lao động thiếu công bằng điển hình đang tồn tại ở Việt Nam.
Kết quả họ có rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi, học tập và đào tạo, các hoạt động
xã hội, văn hoá và vui chơi giải trí.
Vì vậy, như phân tích trên vai trò giới là những hành vi ứng xử mà xã hội
mong đợi ở phụ nữ và nam giới, vai trò giới đa dạng giữa cộng đồng và các nơi trên
thế giới, các vai trò giới thay đổi theo thời gian tương ứng với các điều kiện, hoàn
cảnh thay đổi của cộng đồng và các vai trò giới cũng thay đổi tương ứng với quan
niệm luôn thay đổi với việc chấp nhận hành vi ứng xử. Các vai trò và đặc điểm giới
có ảnh hưởng đến mối quan hệ quyền lực giữa phụ nữ và nam giới ở mọi cấp độ, có
thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về cơ hội và hưởng thụ thành quả đối với một
số nhóm người.
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Khi phân tích mối quan hệ giữa vai trò giới với tình trạng bất bình đẳng giới
và công cuộc phát triển thấy rằng: vai trò giới và những mong đợi xã hội đã ăn sâu
vào tiềm thức và trong nhiều trường hợp, còn được gia đình, nhà trường và các tổ
chức tôn giáo, đoàn thể xã hội và các cơ quan nhà nước khắc sâu thêm. Trong khi
đó vai trò giới và những mong đợi về mặt xã hội có thể mang lại những cơ hội, địa
vị và chất luợng cuộc sống khác nhau cho trẻ em trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam
giới. Nhìn chung, bất bình đẳng giới làm cho trẻ em gái và phụ nữ có địa vị bất bình
đẳng, phụ thuộc hoặc yếu thế so với trẻ em trai và nam giới, cản trở họ được hưởng
thụ đầy đủ các quyền con người cơ bản của mình và bất bình đẳng giới cũng là
nguyên nhân của nạn đói nghèo, cản trở công cuộc giảm nghèo cũng như quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội bền vững.
1.1.1.3. Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và
khác nhau giữa nam giới và nữ giới, biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối với
nam giới và nữ giới, là trạng thái xã hội trong đó nam giới và nữ giới có vị trí như
nhau, có các cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó
cho sự phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Thực chất bình đẳng giới chính là nữ giới và nam giới cùng có điều kiện bình
đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội
bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá
trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng
thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội.
Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là nam giới và phụ nữ hay em trai và em
gái có số lượng tham gia như nhau trong mọi hoạt động mà bình đẳng giới có nghĩa
là nam giới và nữ giới được hưởng các vị thế xã hội ngang nhau. Bình đẳng giới
không có nghĩa là nam giới và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng
và khác biệt của họ được thừa nhận và được coi trọng như nhau; có nghĩa là nam giới
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
và nữ giới được tạo những điều kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của
bản thân và có cơ hội để tham gia đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động
phát triển của cộng đồng trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; điều quan
trọng, bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được thụ hưởng các thành quả
một cách bình đẳng.
Cần phân tích rõ vị trí, vai trò và tác dụng của bình đẳng giới trong xây dựng
con người và phát triển kinh tế-xã hội, để ngày càng quan tâm hơn, nhận thức rõ hơn
những nội dung về bình đẳng giới, mọi người dù là nam giới hay phụ nữ, với tư cách
cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sẳn
có của mình, có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội…)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng nguồn lực
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
Vấn đề đặt ra là gỡ bỏ những rào cản về pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hoá và
xã hội, khiến cho một trong hai giới (nam hoặc nữ) không được thực hiện quyền,
hưởng lợi ích nói trên, trong đó các định kiến truyền thống về vai trò, trách nhiệm
và nghĩa vụ của nam giới và phụ nữ là nguyên nhân cội rễ dẫn đến những rào cản
này [59].
1.1.1.4. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng nói chung là nhu cầu của mọi thành viên trong đời sồng xã hội.
Song nhu cầu không phải là một “cái” luôn luôn được đáp ứng và con người có thể
đạt được mà chỉ có những nhu cầu nào được nâng lên thành “quyền” thì con người mới
có thể yêu cầu đáp ứng và đạt được điều mình mong muốn. Công cụ, phương tiện để
biến nhu cầu thành quyền chính là pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện theo một trình tự luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ bình đẳng giới nói riêng. Nói cách khác, quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sẽ được hiện thực hoá khi chúng được thể chế hoá trong pháp luật và bảo đảm cho các
qui định của pháp luật về quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới được thực hiện
trong thực tế.
Bình đẳng giới là một dạng của bình đẳng xã hội nói chung, nó cũng cần có
sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ
nữ, cũng như điều chỉnh những những lĩnh vực, những nơi mà phụ nữ đang thiệt
thòi, đang có vị trí thấp kém so với nam giới do nhiều nguyên nhân khác nhau bắt
nguồn từ đời sống xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh cho bình
đẳng giới ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy công cuộc đầu tranh cho bình đẳng giới
trên thế giới.
Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như công dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và văn hoá, trên thực tế, những định
kiến coi thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã hội. Hiến pháp
và pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ và phụ nữ cũng có những quyền như
nam giới, nhưng do những định kiến của xã hội nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại,
khó khăn khi tham gia vào các hoạt động chính trị, hoạt động quản lý nhà nước và
hoạt động xã hội. Chính vì vậy, ngoài những qui định chung về quyền con người,
quyền công dân, pháp luật còn có quy định riêng dành cho phụ nữ, đảm bảo cho phụ
nữ có đủ điều kiện phát triển bắt kịp nam giới (xuất phát điểm của phụ nữ rất thấp so
với nam giới)
Như vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền bình đẳng của
mình cùng với nam giới. Nhưng việc thực hiện quyền đó chỉ có hiệu lực và hiệu quả
khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật. Do định kiến
coi thường phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ thực hiện được quyền
bình đẳng của mình trong thực tế, Nhà nước phải ban hành nhiều qui định trong pháp
luật, trong đó có cả những chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi vi phạm quyền
bình đẳng của phụ nữ. Như vậy, pháp luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hoá quyền bình
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đẳng của phụ nữ mà còn qui định những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền
đó trên thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật về bình đẳng giới như
sau:
Pháp luật về bình đẳng giới là hệ thống các qui phạm pháp luật do nhà nước
ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền bình đẳng của phụ nữ và
nam giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn cầu và
được mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho thấy, phụ nữ
được bình đẳng cùng với nam giới tham gia vào mọi hoạt động của đời sống, đồng
thời cùng được thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ xã hội, đó chính là biểu hiện
sinh động năng lực làm chủ xã hội của một lực lượng lao động quan trọng, chiếm
hơn nữa nhân loại toàn cầu. Chỉ trên cơ sở bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến
bộ và công bằng xã hội được thực hiện. Trên thực tế, thực hiện mục tiêu bình đẳng
giới là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó
đi liền với nhiều bức xúc của xã hội.
Xem xét vấn đề bình đẳng giới giữa nam và nữ trong mối tương quan với các
vấn đề chính trị-xã hội khác, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của pháp luật về
bình đẳng giới như sau:
- Thứ nhất, pháp luật bình đẳng giới bao gồm các qui định của pháp luật về
quyền công dân nói chung và các qui định trực tiếp quyền bình đẳng của phụ nữ và
nam giới.
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ
với tư cách là quyền công dân, phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ có những quyền
của một công dân, được thừa nhận và tham gia vào mọi hoạt động trong đời sống
cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, Hiến
pháp và những văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến quyền bình đẳng của phụ
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nữ còn có những qui định riêng về quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 qui
định:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam
giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, gia đình.
Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới.
Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ
trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương [39].
Những qui định như vậy, đã hình thành nên một hệ thống các qui phạm pháp luật
qui định trực tiếp quyền bình đẳng nói chung và các quyền khác của phụ nữ.
- Thứ hai, pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới là tổng hợp
nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ quyền
bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Vịêc xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ
nữ không chỉ được qui định tại Hiến pháp mà còn được qui định trong nhiều văn bản
qui phạm pháp luật khác nhau như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Khiếu nại tố cáo, Bộ luật Lao động, Luật Bình đẳng giới…Đặc biệt, trong những văn
bản pháp luật này đều có những qui định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích
bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Ngoài hệ thống quyền
con người thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở là tiền đề cho việc bảo đảm
thực hiện các quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng của
phụ nữ không chỉ căn cứ vào những qui phạm pháp luật riêng qui định về quyền bình
đẳng của phụ nữ, mà còn liên quan đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực
khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về bình đẳng giới là tổng hợp của nhiều qui phạm
pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền bình đẳng của
phụ nữ với nam giới được thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
- Thứ ba, pháp luật về bình đẳng giới là sự kết hợp hài hoà giữa các qui phạm
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thúc đẫy và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới không chỉ là
mối quan tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở thành nghĩa
vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thông qua
nhiều văn kiện pháp lý qui định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Những văn kiện đó
thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng
và nâng cao địa vị của người phụ nữ.
Trong các văn kiện pháp lý quốc tế qui định trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền
bình đẳng của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai công ước quan trọng
nhất có liên quan là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 và
Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) năm 1979. Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nước luôn xem xét
khả năng thể chế hoá những qui định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp
luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong trách nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia
nhập và phê chuẩn các công ước này. Bên cạnh đó, Khi xây dựng pháp luật, chúng
ta cũng dựa trên truyền thống văn hoá và hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để điều
chỉnh và thông qua những qui phạm pháp luật phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt
Nam thể hiện tư tưởng tiến bộ, có tính thuyết phục, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới trong
hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ tư tưởng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh
đến nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử.
1.1.3. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu
tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận đươc sự quan tâm chung
của cộng đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước châu Á,
những hậu quả nặng nề của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến
vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống xã hội. Ngày nay, phụ nữ chiếm phân nữa
dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt nam hiện nay
đã trở thành một chế định quan trọng và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp
luật nước ta, là cơ sở để thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, từ cao nhất là Hiến
pháp, đến các luật chuyên ngành. Trong các bản Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ
lịch sử, nội dung bình đẳng giới đã được mở rộng một cách toàn diện hơn đồng thời
nhiều nội dung được cụ thể hoá trong các văn bản qui phạm pháp luật dưới Hiến
pháp như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung
2002; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997; Luật giáo dục năm 1998; Bộ luật
Hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và hàng trăm văn bản khác.
Vấn đề bình đẳng giới, càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang bước vào giai
đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực.
Nói đến nội dung của pháp luật về bình đẳng giới là đề cập đến các qui phạm
pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng lực và tư cách pháp lý
bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể
gồm những lĩnh vực cơ bản sau:
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và y tế
- Bình đẳng giới trong gia đình [21].
Nhìn từ hệ thống pháp luật quốc tế, những nội dung liên quan trực tiếp, gián
tiếp đến bình đẳng giới có thể thấy trong nhiều văn bản, trong đó tiêu biểu là Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948, Công ước Liên hợp quốc về
xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979. Công ước
CEDAW có ý nghĩa quan trọng đối với việc hiện thực hoá các quyền con người của
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phụ nữ, công ước này xác định cách thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân
biệt đối xử với phụ nữ trong hưởng thụ các quyền con người. Mục đích của công
ước CEDAW là trao cho phụ nữ những quyền con người đã được thừa nhận nhưng
trên thực tế họ chưa được hưởng bởi những phân biệt đối xử trong thực tế [63].
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ với tính cách là quyền công dân
sớm được xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu tiên, Hiến
pháp 1946, ngay từ lần đầu tiên đó, phụ nữ đã được công nhận có địa vị công dân
bình đẳng so với đàn ông:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1) “Tất cả công dân
Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều
6).
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham
gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”
(Điều 7).
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử, ứng cử đã trở thành qui tắc xuyên suốt
trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến nay: Công dân, không phân biệt dân
tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, thời hạn cư
trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người bị pháp luật hoặc Toà
án nhân dân tuớc các quyền đó.
Phù hợp với tinh thần chung của các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia ký
kết, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam có những qui định xác lập quyền bình đẳng
của phụ nữ và nam giới trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách
của Nhà nước, tham gia các chức vụ của nhà nước và thực hiện chức năng công cộng
ở mọi cấp. Cụ thể, Hiến pháp 1992 sửa đổi nêu rõ: “ công dân có quyền tham gia
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước…” (Điều 53).
Như vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới có một cơ sở pháp lý khá
đầy đủ và toàn diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật Việt Nam
có những qui định riêng, nhưng đồng thời cũng rất hài hòa với pháp luật quốc tế
trong việc khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, đây là quyền quan trọng cần
được bảo vệ trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử cùng với trách nhiệm quốc
gia và cả cộng đồng quốc tế, vì dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ.
Nhìn tổng thể, nhiều nội dung bình đẳng giới đã được qui định khá chi tiết,
phong phú trong các văn bản qui phạm pháp luật ở nước ta, đồng thời Việt Nam
được đánh gía là một trong những quốc gia có chính sách bình đẳng giới tiến bộ so
với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
vừa tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ vươn lên, vừa đòi hỏi phụ nữ phải năng động,
linh hoạt hơn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, làm chủ kỹ thuật hiện đại
tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất và xây dựng xã hội, đổi mới đất nước. Tuy
nhiên, các nội dung của pháp luật về bình đẳng giới đưa ra chủ yếu còn mang tính
cục bộ, rải rác thiếu tính hệ thống theo một nguyên tắc chung. Nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra chưa được rà soát kỹ, như việc đánh giá lại các văn bản pháp luật
hiện hành, trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ những chính sách liên quan về giới
để có những dự báo có tính khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về
bình đẳng giới.
1.1.4. Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới
Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là phương tiện thể chế hoá
chính sách bình đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lịch sử xã hội loài người từ khi nhà nước xuất hiện, pháp luật chính là
công cụ thể chế hoá đường lối, chủ trương và chính sách của giai cấp cầm quyền. Ở
Việt Nam, nền tảng của giai cấp cầm quyền xã hội là liên minh giai cấp công nhân,
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ
khi ra đời đến nay, Đảng luôn dành sự quan tâm cho phụ nữ, bảo vệ các lợi ích chính
đáng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong luận cương chính
trị đầu tiên của Đảng, tư tưởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ đã
được ghi nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền bình đẳng nam nữ, phụ nữ
được công nhận ngang quyền với nam giới. Tiếp đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ
thị và nghị quyết có tính chất định hướng và chỉ đạo nhằm bảo đảm cho phụ nữ
ngang quyền với nam giới như: Nghị quyết số 153/NQ-TW, 10/01/1967 về “công
tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44/CT-TW, 07/6/1984, về “ một số vấn đề cấp bách trong
công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết 04/NQ-TW của bộ chính trị về “ tăng cường và
đổi mới công tác vận động nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 04-NQ/TW ngày
12/7/1993 của Bộ Chính trị về “ đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ
trong tình hình mới”; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 29/9/1993 củ Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới, tăng cườngcông
tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thỉ 37/CT-TW16/5/1994 của Ban Bí
thư Trung ương về “một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; tiếp
theo là nghị quyết Đại hội IX của Đảng công sản Việt Nam v.v…Mọi văn bản đều
nhất quán một quan điểm “thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, bồi
dưỡng đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ học vấn, có cơ chế chính sách để phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp…” [15,
tr.126].
Tư tưởng trên đã trở thành nguyên tắc chung và được thể chế hoá trong Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác, pháp luật làm cho các chính
sách có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên qui mô toàn xã hội. Pháp luật bình
đẳng giới còn là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối chính sách của mình về
bình đẳng giới và về quyền của phụ nữ trong thực tiễn đời sống xã hội. Ngay từ khi
ra đời, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Châu Á đã ghi nhận trong pháp luật
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền của phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, một thực tế không thể không thừa nhận
là pháp luật của chúng ta chưa thể chế đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế đảm
bảo thực hiện trên thực tế đường lối chủ trương chính sách của Đảng về bình đẳng
giới nói chung về quyền phụ nữ nói riêng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình thực hiện bình đẳng giới trên thực tế.
- Thứ hai, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lý đấu tranh
thực hiện bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các gía trị xã hội và
bảo đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặt biệt quan trọng trong việc xác lập
và bảo vệ các quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Pháp luật là hệ thống các
qui định trong đó nêu ra các qui tắc xử sự chung cho phép hoặc bắt buộc tất cả các
chủ thể pháp luật. Hay nói cách khác, tất cả các chủ thể pháp luật gồm các cơ quan
nhà nước; mọi cán bộ, công chức, viên chức; các tổ chức chính trị, các tổ chức chính
trị-xã hội; các tổ chức xã hội; các tổ chức xã hội-nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế;
đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và mọi công dân có trách nhiệm thực hiện các
qui định của pháp luật. Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nêu rõ: “ Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, không ngừng
phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Luật Dân sự Việt Nam 2005 tại điều 5 qui
định: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác
biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế,…Để đối xử không
bình đẳng nhau” và đây chính là nguyên tắc có giá trị áp dụng đối với tất cả các chế
định, các qui phạm pháp luật dân sự, các quan hệ pháp luật dân sự. Luật Bình đẳng
giới qui định tại điều 4: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới,
tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế-xã hội và phát triển
nguồn lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ thiết lập, củng cố quan
hệ hợp tác hổ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình”
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Ngoài ra, pháp luật còn có những qui định về hình thức, biện pháp xử lý hành
vi phạm bình đẳng giới như: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định các biện pháp chế
tài đối với các tội xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử nói chung và tội xâm phạm quyền
bình đẳng của phụ nữ tại điều 126 và 130. Điều 130 qui định: “…phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm đối với
những người dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng xâm phạm quyền bình đẳng
của phụ nữ, trong đó có quyền tham gia vào hoạt động chính trị”. Điều 119 qui
định: “Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm…”
- Thứ ba là, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là cơ sở pháp lý để nâng
cao địa vị thấp kém hiện thời của phụ nữ
Có thể nói, nhờ pháp luật có những qui định xác lập và bảo vệ quyền bình
đẳng của phụ nữ mà phụ nữ có những cơ sở pháp lý cần thiết để đấu tranh cho việc
cải thiện và nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của mình.
Pháp luật về bình đẳng giới không chỉ xác lập địa vị bình đẳng của phụ nữ
trong đời sống xã hội mà còn là những qui tắc xử sự được sử dụng như thước đo
chuẩn mực chung, đồng thời có tính chất bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã
hội nhằm thực hiện bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Chính vì lẽ
đó, pháp luật về bình đẳng giới được sử dụng như cơ sở dẫn chiếu đối với những
hành vi trái pháp luật vi phạm quyền bình đẳng giới, bên cạnh đó, những qui định
của pháp luật bình đẳng giới có vai trò quan trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện
các quyền chính đáng của họ mà pháp luật đã ghi nhận. Hơn nữa, pháp luật bình
đẳng giới còn là cơ sở pháp lý chắc chắn để phụ nữ đấu tranh với những hành vi sai
trái, phân biệt đối xử với phụ nữ, những định kiến lạc hậu cản trở việc thực hiện
quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới. Nếu không có những qui định của pháp
luật về bình đẳng nam nữ thì những định kiến “hẹp hòi”, “trọng nam khinh nữ” đang
còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội, phụ nữ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong
việc tham gia vào các hoạt chung của công động đồng xã hội đặc biệt là tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia ứng cử vào các chức danh lãnh đạo và
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
vào quá trình hoạch định chính sách trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy,
pháp luật về bình đẳng giới có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ và thực
hiện quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới nhằm cải thiện và nâng cao vị thế
thấp kém hiện thời của phụ nữ so với nam giới.
- Thứ tư, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm việc thực hiện có hiệu
quả quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Bảo đảm quyền bình đẳng giới giữa nam và nữ chính là bảo đảm quyền con
người đã được pháp luật qui định và bảo vệ. Trong hệ thống quyền con người, về cơ
bản, phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới nhưng để có sự
bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện các quyền đó. Nói cách
khác, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã
hội; tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, quyền bình đẳng của
phụ nữ đối với nam giới là nền tảng, có tính quyết định việc thực hiện quyền kinh tế
xã hội và văn hoá.
Trong khoa học nghiên cứu về bình đẳng giới, những nguyên tắc về bình đẳng
giới được thừa nhận là:
Bình đẳng giới tỷ lệ thuận với phát triển kinh tế, xã hội trong nông
nghiệp và nông thôn; bình đẳng giới nhất quán với quan điểm phát triển
trên cơ sở tạo quyền; bình đẳng giới là biểu hiện của công bằng trong phát
triển kinh tế, xã hội và phát triển con người; phụ nữ và nam giới, trẻ em
gái và trẻ em trai là những đối tác bình đẳng trong quá trình phát triển của
quốc gia [10].
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua, là một thực tiễn
sinh động khẳng định vai trò của pháp luật, các văn bản pháp luật của nhà nước Việt
Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang từng bước tuân thủ và thể hiện
rõ nguyên tắc bình đẳng nam nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ. Từ đó, có sự nhìn
nhận, đánh giá đúng vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong nền kinh tế-xã hội. Đổi
mới kinh tế đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động có năng suất cao
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hơn và tăng thu nhập, giảm bớt gánh nặng gia đình cho phụ nữ, phụ nữ có nhiều điều
kiện tham gia hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Ngoài ra, phụ nữ đuợc
tiếp thêm động lực vượt lên những khó khăn, thử thách của cơ chế thị trường, nữ
công nhân, viên chức nổ lực lao động, tích cực học tập nâng cao trình độ văn hoá
tay nghề dưới nhiều hình thức đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới và cơ chế mới.
Trong một số lĩnh vực khác, nhiều phụ nữ được phong hàm giáo sư, phó giao sư, có
học vị tiến sĩ, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do phụ nữ làm chủ
nhiệm, tỷ lệ phụ nữ giữa các chức vụ lãnh đạo cũng có xu hướng tăng dần. Tuy vậy,
tỷ lệ cán bộ nữ giữ các chức vụ lãnh đạo tại các khu vực ra quyết định, hoạch định
chính sách, giữ các chức vụ quản lý ở các cấp, các ngành còn thấp.
- Thứ năm, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm thực hiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa quyền dân chủ của phụ nữ và nam giới, bảo
đảm công bằng xã hội
Khi nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới, không thể không nhìn từ gốc độ pháp
luật. Việc bảo đảm bình đẳng giới bằng pháp luật chính là cơ sở pháp lý để xác lập
địa vị pháp lý bình đẳng cho nam giới và nữ giới, bởi thông qua đó, phụ nữ và nam
giới mới được tham gia vào các quá trình ra quyết định một cách bình đẳng đối với
những vấn đề gắn liền với những lợi ích thiết thân của họ trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ đó hạn chế và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn những phân biệt đối xử về
giới mà phụ nữ thường là những nạn nhân. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình
đẳng về thực chất và chỉ có bình đẳng về thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền
vững địa vị pháp lý bình đẳng của nữ giới so với nam giới. Đây là, mối quan hệ biện
chứng giữa bình đẳng và pháp luật. Biểu hiện của bình đẳng giới về thực chất là, phụ
nữ và nam giới xác lập được địa vị pháp lý của mình, được tham gia một cách dân
chủ vào mọi hoạt động của đời sống chính trị-xã hội. Ngược lại, pháp luật là công
cụ để đảm bảo và bảo vệ quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới. Trong mối quan
hệ biện chứng này, nữ giới và nam giới là những người hưởng thụ quyền, nhưng
đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp đấu tranh xoá bỏ định kiến “trọng nam khinh nữ”,
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phân biệt đối xử đối với phụ nữ, tham gia xây dựng pháp luật về quyền bình đẳng
giới. Trong thực tế quyền bình đẳng của nam giới hầu như mặc nhiên đuợc thừa nhận
thì quyền của nữ giới phải qua quá trình đấu tranh gian khó mới có được, mới được
ghi nhận trong pháp luật và mới được thực hiện trong thực tế. Xác lập và thực hiện
quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới là yếu tố quyết định để xác lập và đảm bảo
cho phụ nữ được thực sự bình đẳng với nam giới.
Quyền bình đẳng giới, được thực thi trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình
đẳng, thực chất là bảo đảm cho phụ nữ và nam giới tham gia vào xây dựng, quản lý
nhà nước, quản lý xã hội và tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội. Sự
tham gia bình đẳng của nam giới và nữ giới vào các cấp ra quyết định chắc chắn sẽ
giúp cho những chính sách của nhà nước, đặc biệt là những chính sách có liên quan
đến phúc lợi xã hội mang tính cân bằng về giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu
hiện của việc tăng cường dân chủ trong xã hội.
Quyền bình đẳng giới đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa gồm: quyền công
dân, quyền con người; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước;
quyền được giáo dục-đào tạo; quyền được chọn nghề thích hợp và quyền tham gia
các hoạt động xã hội khác. Theo công ước Liên Hợp quốc về xoá mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), việc bảo đảm thực thi các quyền của phụ nữ và
nam giới phải thực hiện trên các điểm sau: bình đẳng, không phân biệt đối xử và
trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là yêu cầu khách quan,
trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt
lịch sử, dân chủ và bình đẳng không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là yêu cầu
khach quan. Hai phạm trù này không tách biệt, mà ngược lại, chúng hổ trợ và bổ sung
cho nhau. Như vậy, thực thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi quyền bình đẳng giữa
nam giới và nữ giới. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực thi được quyền bình
đẳng giới giữa nam vừa nữ mới là xã hội dân chủ và bình đẳng thực sự.
- Thứ sáu, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam tạo ra môi trường ổn định cho
việc tham gia vào hoạt động đấu tranh cho bình đẳng giới nói chung của thế giới.
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Sự hợp tác và các mối quan hệ ban giao giữa các quốc gia chỉ có thể phát triển
trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp
luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó.
Chính nhờ những đặc điểm đặc thù của mình mà pháp luật có khả năng thiết lập một
trật tự mà ở đó mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phải tôn trọng những cam kết
và phải chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra. Pháp luật bình đẳng giới cùng
với hệ thống pháp luật nói chung có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường
ổn định đó.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, việc một quốc gia muốn tạo lập được môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định phải có sự gắn kết chặt chẽ với các quốc gia
khác trong khu vực và trên thế giới nhằm bảo vệ những lợi ích cơ bản lâu dài của
quốc gia, dân tộc là điều rất cần thiết. Với phương châm Việt Nam muốn là bạn của
các nước trên thế giới, những năm qua hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp
luật bình đẳng giới Việt Nam nói riêng đã có nhiều bước phát triển mới ngày càng
toàn diện hơn, phù hợp hơn vừa thể hiện tính dân tộc vừa mang tính thời đại. Sự phù
hợp đó thể hiện ở vai trò của pháp luật bình đẳng giới nhằm tôn trọng, bảo vệ phụ
nữ nói chung và xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Ở Việt Nam, môi
trường pháp lý đáng tin cậy đã được hình thành, ngày càng được củng cố vững chắc,
tạo ra cơ sở cho sự phát triển và mở rộng các quan hệ hợp tác và mang lại nhiều hiệu
quả quan trọng. Trong đó việc pháp luật ghi nhận những giá trị mà người phụ nữ có,
cần và ủng hộ là điều cực kỳ quan trọng tạo tiền đề cần thiết để nâng cao vị thế của
ngưới phụ nữ so với nam giới ở Việt Nam cũng như trong quan hệ quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nứơc, đẩy nhanh sự
phát triển xã hội mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát
huy vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng, nhanh
chống xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và pháp luật bình đẳng giới phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát
triển chung của tình hình quốc tế và khu vực.
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức tạp,
đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ
soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan trong
lĩnh vực bình đẳng giới. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm tới cần định hướng tập
trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm của các ngành các cấp, phấn đầu xây
dựng hệ thống pháp luật về bình đẳng giới đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng,
phấn đấu năm 2020 hệ thống pháp luật về bình đẳng giới đạt đến trình độ tương
đối thống nhất, đồng bộ, toàn diện, bảo đảm kỹ thuật văn bản; phù hợp với pháp
luật quốc tế. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của chương trình đổi mới công
tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản qui phạm pháp luật trong
đó có pháp luật về bình đẳng giới.
1.2.1. Tính thống nhất
Các quan hệ xã hội về bình đẳng và bình đẳng giới là một chỉnh thể thống
nhất, do đó các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới, dùng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống nhất đó. Tính
thống nhất của pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng thể hiện ở
chổ các qui phạm pháp luật phù hợp với nhau, không mâu thuẩn, xung đột lẫn nhau
trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác định ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh
vực bình đẳng giới, sự tham gia của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống cơ
quan thực thi bảo vệ pháp luật và hoạt động bình đẳng giới còn đuợc bảo vệ bằng
nhiều biện pháp khác nữa, thì việc bảo đảm tính thống nhất là điều quan trọng.
Tính thống nhất của pháp luật về bình đẳng giới đòi hỏi các qui định của pháp
luật phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều hướng nhất
định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới
với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, sự thống nhất không chỉ trong phạm
vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ các nguyên tắc pháp chế trong việc
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xây dựng và bảo đảm qui phạm pháp luật về bình đẳng giới thống nhất với các qui
phạm pháp luật tương ứng nói chung; thống nhất giữa các qui phạm pháp luật trong
các văn bản có hiệu lực pháp lý cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn,
cụ thể là sự thống nhất giữa các qui định của Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật
Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình… với Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân
sự…; tính thống nhất của pháp luật còn thể hiện ở sự thống nhất của qui phạm pháp
luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hoá của dân tộc.
Tính thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
và chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng.
Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật thì cần
phải xem xét giữa các bộ phận qui phạm pháp luật của nó có trùng lặp, chồng chéo hay
mâu thuẫn và xung đột với nhau không. Tính thống nhất của pháp luật bình đẳng giới được
thực hiện trên những điểm sau:
Một là, thể hiện sự đồng bộ giữa Hiến pháp với Luật Bình đẳng giới và phải
xây dựng được một hệ thống qui phạm pháp luật căn bản trong Hiến pháp, hoàn
thiện Hiến pháp nhằm tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp
luật.
Hai là, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không xung đột, không trùng
lặp, chồng chéo trong luật bình đẳng giới, mỗi chế định pháp luật và giữa các qui
phạm pháp luật trong Luật Bình đẳng giới.
Ba là, thống nhất của hệ thống pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở sự đồng
bộ, thống nhất giữa luật Bình đẳng giới với các văn bản dưới luật.
Bốn là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phái đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất giữa các qui định trong luật bình đẳng giới với đường lối chính sách của
Đảng.
Thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật bình
đẳng giới. Pháp luật bình đẳng giới có được áp dụng hiệu quả trong thực tế hay
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
không phụ thuộc vào việc có tuân thủ tính thống nhất hay không. Thực tế nước ta
nhiều văn bản đã được ban hành nhưng rất khó đi vào cuộc sống vì sự mâu thuẫn
chồng chéo giữa các văn bản đó.
1.2.2. Tính toàn diện, cụ thể
Tính toàn diện, cụ thể là tiêu chí thể hiện mức độ hoàn thiện luật Bình đẳng
giới hoặc của cả hệ thống pháp luật bình đẳng giới. Tiêu chí này có ý nghĩa trong
việc "định lượng" một văn bản qui phạm pháp luật cũng như cả hệ thống pháp luật.
Do đó, nó có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ trên cơ sở "định lượng" mới có thể tiếp
tục nghiên cứu để "định tính" trong xây dựng pháp luật nói chung.
Tính toàn diện, cụ thể của pháp luật bình đẳng giới thể hiện khả năng đáp ứng
cao nhất nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng giới bằng pháp luật.
Nhà nước, với chức năng quản lý xã hội thông qua bộ máy các cơ quan quản lý nhà
nước, cần thiết chế một hệ thống pháp luật bình đẳng giới có tính toàn diện, cụ thể
để điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng giới. Trong lĩnh vực này, tính toàn
diện, cụ thể của pháp luật cần được xem xét, đánh giá các bình diện: các qui phạm
pháp luật đã thể chế hoá đầy đủ những quan điểm, đường lối, chính sách của nhà
nước về bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều
chỉnh mọi quan hệ xã hội giữa nhà nước với các chủ thể khác trong công cuộc đấu
tranh cho bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật có đủ để xử lý các hành vi xâm
phạm bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật đó đã tạo ra cơ sở pháp lý để phòng,
chống, đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm xâm phạm bình đẳng giới và các
qui phạm pháp luật thực định đó đã được thực thi trong thực tế.
Tính toàn diện, cụ thể của hệ thống pháp luật thể hiện ở hai cấp độ:
Ở cấp độ chung đòi hỏi hệ thống pháp luật bình đẳng giới phải có đủ các qui
phạm pháp luật theo cơ cấu nội dung lôgic và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật tương ứng.
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Ở cấp độ cụ thể đòi hỏi luật bình đẳng giới phải có đủ các chế định pháp luật
và các qui phạm pháp luật điều chỉnh những loại hành vi cụ thể, giải quyết những
vấn đề cụ thể như luật bình đẳng giới với những điều kiện cộng thêm cho phụ nữ để
khắc phục sự chênh lệch về xuất phát điểm của phụ nữ so với nam giới hiện thời.
1.2.3. Tính đồng bộ
Tính đồng bộ của pháp luật bình dẳng giới, thể hiện ở khía cạnh các yếu tố
tạo nên pháp luật bình đẳng giới phải được xây dựng và phát triển trong một qui
trình với một tốc độ, một thời gian chung; tính đồng bộ đó tạo ra sự phù hợp, mềm
dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm tính đồng
bộ đối với hệ thống pháp luật về bình đẳng giới là điều vô cùng cần thiết, đó là sự
đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách và thực thi bình đẳng giới; tổng thể hệ
thống văn bản qui phạm pháp luật về bình đẳng giới phải chứa đựng đầy đủ các qui
phạm pháp luật về nội dung và hình thức như ban hành kịp thời các văn bản hướng
dẫn áp dụng, đảm bảo cho các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới sớm được áp
dụng và thực thi trong đời sống xã hội.
1.2.4. Bảo đảm kỹ thuật văn bản
Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, trong đó có ba điểm quan
trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật:
- Kỹ thụât lập pháp thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp
dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp lụât về bình đẳng giới.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp
luật bình đẳng giới.
- Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động, logic, chính
xác và một nghĩa.
Trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở: hoạt động
xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải mang tính chuyên nghịêp, các chủ thể tham
gia vào hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải có hiểu biết sâu sắc về
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
giới, bình đẳng giới. Đặc biệt, tính chuyên nghịêp ở đây là yêu cầu đối với đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ chuyên gia
giỏi giúp việc cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật
bình đẳng giới cũng là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm đảm bảo yêu cầu chất
luợng của luật bình đẳng giới khi ban hành. Ngoài ra, kỹ thuật xây dựng văn bản qui
phạm pháp luật còn đuợc thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ và cách hành văn.
Ngôn ngữ pháp lý phải đảm bào tính cô động, logic, chính xác và một nghĩa, hành
văn phải ngắn gọn, rõ ràng, khách quan và dễ hiểu.
Xây dựng hệ thống qui phạm pháp luật bình đẳng giới có chất lượng tốt, có
sức sống lâu bền, có tính phổ thông đại chúng, mọi người dễ tiếp cận và thực hiện
trong cuộc sống, ít phải sửa đổi phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, kỹ thuật xây dựng
pháp luật nói chung.
1.2.5. Tính phù hợp với pháp luật quốc tế
Kể từ khi đổi mới, cải cách và mở cửa, nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, xã hội. Sự phát triển của đất nước
cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bình
đẳng giới nói riêng để một mặt có đầy đủ khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động
của đời sống xã hội trong đó có hoạt động bình đẳng giới, mặt khác, để phù hợp với
pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong bối cảnh hội nhập.
Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật bình
đẳng giới của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và thời đại. Điều
này, một mặt do chúng ta chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lược, của
chính sách bao vây và cấm vận, không có nhiều điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, hạn
chế sự tiếp thu những tinh hoa pháp luật quốc tế và cả sự phát triển của hệ thống pháp
luật quốc tế. Mặt khác, về chủ quan, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến công tác
lập pháp nói chung và xây dựng pháp luật bình đẳng giới nói riêng; phát triển và hoàn
28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thiện hệ thống pháp luật nói chung và chuyển hoá pháp luật quốc tế vào nội dung pháp
luật trong nước nói riêng.
Để hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới ở nước ta không thể không tham khảo
quá trình xây dựng và phát triển pháp luật bình đẳng giới ở các nước có nền lập pháp
phát triển, các điều ước liên quan mà Việt Nam tham gia, ký kết.
Ngày nay, các quan hệ giới, bình đẳng giới có vai trò rất quan trọng cho các
chủ thể là nam giới, phụ nữ và đồng thời là nhà nước vì nó gắn liền với từng hoạt
động của các chủ thể trong phạm vi đất nước và phạm vi quốc tế. Trong quá trình
triển khai, thực hiện pháp luật bình đẳng giới chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi vì chúng
ta đi sau nên sẽ tham khảo học hỏi kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế, cũng như
các nước đã áp dụng pháp luật bình đẳng giới bước đầu đã có những thành công nhất
định. Việc tham khảo, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và tiến bộ của nhân loại
mà còn là sự kết hợp và tiếp cận có kế thừa các qui định pháp luật trong nước với
pháp luật quốc tế. Như vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn trong bối cảnh
quốc gia trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về bình đẳng giới.
1.3. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ NHỮNG ĐIỂM
CẦN TIẾP THU VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
Ngày nay quyền của nam giới và nữ giới tham gia hoạt động trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội đã được tôn trọng và thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Sự tham gia của họ vào đời sống xã hội xuất phát từ gia trị phổ quát của quyền con
người. Cũng như nam giới, nữ giới với tư cách là con người, có quyền hưởng tất cả
các quyền mà “tạo hoá đã ban cho họ” và quyền tham gia mọi hoạt động của đời
sống xã hội.
Đến nay, đã có nhiều nước ban hành luật bình đẳng giới. Luật bình đẳng giới
đã có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Hai nước Phần Lan và Thụy Sỹ đã có
luật bình đẳng giới cách đây từ 10 đến 20 năm. Phụ nữ hai nước có sự tiến bộ rõ nét,
cả hai nước đều có nhiều phụ nữ đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong Quốc hội,
29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trong Chính phủ. Phần Lan là nước phát triển nhất Bắc Âu và Thụy Sỹ là nước phát
triển nhất Trung Âu. Cả hai nước đều theo chế độ cộng hoà, quyền lập pháp thuộc
về Quốc Hội và Tổng thống. Luật bình đẳng giới ở Phần Lan, Thụy Sỹ đã thực sự đi
vào cuộc sống vừa chi phối vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Các
luật, chính sách ban hành sau Luật Bình đẳng giới đều đều được Quốc hội xem xét
rất kỹ nếu có những qui định nào đó thể hiện sự bất bình đẳng giới đều không được
quốc hội thông qua. Luật Bình đẳng giới đã đề cập đến vấn đề bình đẳng nam nữ
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là vấn đề tiền lương,
thu nhập, vấn đề lao động việc làm, quyền thừa kế tài sản, trong đào tạo tuyển dụng
lao động…Chẳng hạn, trong tất cả các thông báo tuyển dụng lao động hay tuyển
sinh đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ quan đơn vị từ Trung ương
đến địa phương, kể cả các cơ sở sản xuất kinh doanh đều không được trái với lụât
bình đẳng giới, không có sự phân biệt đối xử nam, nữ như cấm thông báo tuyển dụng
có sự phân biệt đối xử và không một thông báo tuyển dụng lao động, tuyển sinh đào
tạo nào được phép áp dụng riêng cho nam hoặc nữ, thậm chí còn cấm cả những thói
quen bất hợp pháp. Ở Phần Lan còn qui định ở các cơ quan hoạch định, ban hành
chính sách, các cơ quan công quyền phải đảm bảo tỷ lệ nam- nữ là 50-50. Người chủ
sử dụng lao động có nghĩa vụ thức đẩy bình đẳng giới, các doanh nghiệp có từ 30
lao động trở lên phải có kế hoạch thực hiện bình đẳng giới, các cơ quan chức năng của
chính phủ thông qua thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện đơn vị nào vi phạm thì bị phạt và
người chủ doanh nghiệp, người đứng đầu đơn vị buộc phải có kế hoạch thực hiện đúng
qui định của Luật Bình đẳng giới.
Đối với quyền thừa kế tài sản, trước kia Phần Lan, chỉ có con trai trưởng mới
có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ. Nhưng sau khi Luật Bình đẳng giới ra đời thì quyền
thừa kế tài sản trong gia đình cho cả nam và nữ, đây là vấn đề gay go nhất, tranh luận
trong nhiều năm ở các cấp, các ngành, tồn tại hàng trăm năm ở Phần Lan đã có sự thay
đổi và được nhân dân đồng tình hoan nghênh. Luật Bình đẳng giới của Thụy Sỹ cấm
không được phân biệt đối xử với người lao động trên cơ sở giới tính của họ, tình trạng
30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hôn nhân, hoàn cảnh gia đình, kể cả trường hợp đó là người lao động nữ hoặc người
đang mang thai, sinh đẻ dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Điều cấm phân biệt
này đặc biệt áp dụng đối với việc thuê mướn nhân công, phân công nhiệm vụ, điều kiện
lao động, đào tạo cơ bản hoặc nâng cao, đề bạt hoặc đuổi việc. Các biện pháp thích hợp
để thực hiện bình đẳng thực sự không được coi là phân biệt đối xử. Đối với luật binh
đẳng giới, hai nước, tuổi về hưu thực hiện bình đẳng nam, nữ thậm chí ở tuổi 64, 65
tuổi, một số nước đang dự kiến nâng lên 68 tuổi. Tuy nhiên các nước này tỷ lệ sinh
đẻ thấp thiếu lao động [17].
Từ pháp luật về bình đẳng giới của một số nước nêu trên có thể nghiên cứu và
vận dụng vào Việt Nam trên những điểm sau đây:
- Khi ban hành các văn bản qui phạm pháp luật phải đối chiếu, bảo đảm phù hợp
với Luật bình đẳng giới coi đây là một thủ tục bắt buộc đối với các cơ quan chủ trì soạn
thảo, thẩm định dự thảo văn bản, là yêu cầu đối với Hội đồng và các Ủy ban của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân trước khi thông qua dự thảo văn bản. Trước khi tổ chức thực hiện
văn bản trong tờ trình của Chính phủ phải đề cập đến vấn đề bình đẳng giới nếu văn bản
ban hành có liên quan đến vấn đề giới.
- Để bảo đảm bình đẳng giới cần thiết phải qui định tỷ lệ nam nữ cụ thể, nhất
là đối với việc tham gia tổ chức bộ máy. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức trong các cơ
quan thuộc hệ thống chính trị như tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu Hội đồng
nhân dân, cán bộ nữ ở các cấp, ngành Trung ương và địa phương. Trong tổ chức thực
hiện các cơ quan Đảng, Nhà nước phải quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ bảo đảm
tỷ lệ cán bộ nữ đã qua đào tạo nhằm cung cấp một lực lượng cán bộ nữ bảo đảm cả về
số lượng và chất lượng cho yêu cầu bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay và tương
lai phát triển của đất nước.
- Các cơ quan, tổ chức sử dụng lao động nữ phải có kế hoạch thực hiện bình
đẳng giới.
- Nghiêm cấm mọi hình thức tuyển dụng lao động có phân biệt giới. Nếu trong
tuyển dụng có ưu tiên giới nào, tiêu chuẩn nào thì phải giải thích.
31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Nghiên cứu qui định tuổi hưu, bình đẳng về độ tuổi đối với những ngành
nghề, lĩnh vực phù hợp.
Nhìn ra các nước khu vực và thế giới, đặc biệt trong hội nhập Quốc tế để thực
hiện Công ước Quốc tế về “xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”
(CEDAW) mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện, thì nhiều vấn đề liên quan
đến cán bộ nữ, lao động nữ cần được nhận thức lại để trong quá trình xây dựng pháp
luật bình đẳng giới ở nước ta cần có sự đổi mới theo hướng phát triển, thực hiện bình
đẳng nam, nữ trên mọi phương diện. Tất nhiên, không nôn nóng, không vội vã và cần
được xem xét, nghiên cứu thoả đáng nhưng không nên quá chậm, quá thua kém các
nước trong khu vực, từng bước xem xét điều chỉnh những bất bình đẳng nam, nữ trên
mọi phương diện ở nước ta. Trước hết các cơ quan chức năng từ trung ương và địa
phương cơ sở cần tiến hành rà soát, xem xét những bất bình đẳng nam, nữ trên tất cả
các lĩnh vực, hoạt động đời sống xã hội để có chương trình, kế hoạch điều cho chỉnh
phù hợp [17].
Tiểu kết chương 1
Nhận thức và thực tiễn, vấn đề về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, còn là đề tài
có nhiều quan điểm tranh luận, chưa thực sự thống nhất. Thời gian qua, cùng với khái
niệm quyền phụ nữ, bình đẳng giới là vấn đề khá nhạy cảm, được nhiều nhà nghiên cứu,
quan tâm, tìm hiểu. Điều này dẫn đến những cách nhìn khác nhau về vị trí, vai trò của
phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Chính vì vậy, dưới góc
độ luật học, việc nghiên cứu về bình đẳng giới, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ xã hội và hội nhập quốc tế, là
việc làm cần thiết.
Trong phạm vi của luận văn này, nội dung chương 1 chỉ đề cập đến những vấn
đề cơ bản nhất của bình đẳng giới, trong mối quan hệ tương quan với với các quan
hệ xã hội khác, theo phương pháp nghiên cứu so sánh thực tiễn Việt Nam với quan
niệm của thế giới. Từ đó, bước đầu phát hiện rằng, bình đẳng giới là một vấn đề hiện
32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nay có tính toàn cầu. Pháp luật luôn gắn với quyền lực và đấu tranh giai cấp. Hai yếu
tố đó kết hợp và hoà quyện nhau, không tách rời nhau tạo thành phạm trù quyền con
người- quyền công dân, phản ảnh quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, cũng như
nhu cầu tự nhiên của con người. Quyền bình đẳng thuộc hệ thống các quyền con
người là một trong những yếu tố quan trọng nhất để quyền bình đẳng giới được công
nhận.
Tóm lại, chương 1 của luận văn đã làm rõ được những vấn đề lý luận về bình
đẳng giới, pháp luật bình đẳng giới làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng pháp luật
về bình đẳng giới và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt
Nam trong những chương tiếp theo.