SlideShare a Scribd company logo
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI BÍCH HẠNH
CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
TP. Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI BÍCH HẠNH
CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ
TP. Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của
tác giả luận án. Kết quả nghiên cứu không sao chép từ bất kì
một công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam
đoan danh dự này.
Tác giả
Bùi Bích Hạnh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 5
MỤC LỤC ........................................................................................ 6
MỞ ĐẦU........................................................................................... 8
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................8
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................9
4. Lịch sử vấn đề..............................................................................................9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................17
6. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................17
7. Những đóng góp mới.................................................................................18
8. Cấu trúc luận án........................................................................................18
CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 - 1975- MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT................... 19
1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình................................................................19
1.1.1. Cái tôi .........................................................................................................19
1.1.2. Cái tôi trữ tình............................................................................................24
1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình................................................................30
1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại....................................................30
1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ..............................................31
1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của
cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.........................................36
1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại...........................36
1.3.2. Diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận
động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.................................40
CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN ...... 59
2.1. Cái tôi sử thi............................................................................................59
2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân .............................................60
2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung...............................70
2.2. Cái tôi sử thi biến thể.............................................................................84
2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm về thơ.....................................................85
2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ................................................................90
2.3. Cái tôi phi sử thi .....................................................................................98
2.3.1. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh.......................................................99
2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư.............................................................113
Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -
1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN..................... 132
3.1. Trường ca và thơ tự do........................................................................132
3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư.......................133
3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần
.............................................................................................................................144
3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi......................................................160
3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực..........161
3.2.2. Yếu tố văn xuôi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường................................165
3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp ..........................................................169
3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích........................................170
3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén...............................................176
3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu..................................................................182
3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng..........................................................................183
3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin ...........................................................................185
3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn....................................................................189
3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm.................................................................................193
KẾT LUẬN .................................................................................. 198
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 201
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoàn cảnh đất nước Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ với hiện
thực chiến tranh khốc liệt đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Nếu như tiếng
rít gầm hãi hùng của chiến tranh làm tổn thương đời sống nội cảm con người thì
tiếng thơ 1965 - 1975 là đất cựa mình sầm sịch trong khuya (Nguyễn Duy), là cuộc
đời như sắp sửa đi xa (Lưu Quang Vũ), là những vành môi khát sữa, những bước
nhớ lang thang (Trần Quang Long), là những bát cơm không đủ níu lòng (Trần Phá
Nhạc)… Thơ trẻ 1965 - 1975 là hiện tượng văn học mang lại cho thơ Việt Nam
1945 - 1975 những khuôn diện mới, trước hết nhìn từ khía cạnh cái tôi trữ tình. Nếu
quan niệm “văn chương là một tiếng gọi” [173, tr.63] thì thơ trẻ 1965 - 1975 sẽ còn
vẫy gọi tầm đón đợi của người tiếp nhận.
Với nguyện ước làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh), một lớp nhà thơ -
thế hệ thơ trẻ - đối mặt với chiến tranh, nếm trải bi kịch chiến tranh. Họ đến với thơ
bằng trái tim tự nguyện của lớp tuổi hai mươi, ba mươi. Sống trong nỗi đau giằng
xé, mất mát, các nhà thơ khát khao tự họa chân dung thế hệ từ âm bản hiện thực tàn
khốc của chiến tranh. Hơn nữa, với cái nhìn “cuộc sống đã mong manh tái nhạt
trong từng cá thể con người”, một bộ phận sáng tác thậm chí bóc trần những thân
phận bi kịch thời chiến. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 có thể được xem là bản tự
thuật đa giọng điệu, góp phần làm sinh động diện mạo thơ Việt Nam 1945 - 1975.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là con đường tiếp
cận khơi sâu vào bản sắc của thơ trẻ. Việc xác định những dạng thức của cái tôi trữ
tình là nhằm khái quát hệ thống quan điểm thẩm mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh
hiện thực của nhà thơ; trên cơ sở đó, khẳng định bản sắc của thơ trẻ giai đoạn này.
Đồng thời, luận án đi sâu khám phá những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình
trong xu hướng vận động để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, bối
cảnh đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ..., cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975 mang diện mạo riêng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nếu thơ trẻ miền Bắc khẳng định được vị thế trong nền thơ cách mạng và thơ
trẻ vùng giải phóng đã tạo được nhiều phong cách riêng thì ở thơ trẻ vùng tạm
chiếm miền Nam, phải kể đến sự góp mặt của những cây bút “viết trên đường tranh
đấu” cùng một lớp nhà thơ không đứng trong dòng chủ lưu của văn học cách mạng,
thậm chí chỉ được xem là bộ phận “bên kia chiến tuyến”. Luận án xác định đối
tượng thơ trẻ ở miền Bắc, ở vùng giải phóng và ở vùng tạm chiếm miền Nam, tạo
nên cái nhìn toàn cảnh về thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này. Qua đó, luận án khẳng
định sự đa dạng của cái tôi trữ tình, vốn là yếu tố căn cốt hình thành nên bản sắc thơ
trẻ giai đoạn này; đồng thời góp phần khôi phục khuôn mặt đa diện của thơ Việt
Nam 1945 - 1975.
4. Lịch sử vấn đề
4.1. Thơ 1965 - 1975 tạo nên một vị trí xứng đáng trong dòng chảy của thơ
Việt Nam 1945 - 1975, thu hút nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình. “Tập trung vào
chủ đề đánh Mỹ, thơ chống Mỹ rất chính trị, nhưng lại là một thứ chính trị tự nhiên,
nằm ngay trong đời sống, không lên gân, không giả tạo” [208, tr.137]. Và đây cũng
chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của thơ giai đoạn này, đặc biệt là sáng tác của
thế hệ cầm bút trẻ. Không ít công trình nghiên cứu, phê bình nhận định, đánh giá sự
xuất hiện của thơ trẻ thời chống Mỹ như là một bước chuyển mình đáng kể của văn
học cách mạng vốn đã tạo được hương sắc riêng từ thế hệ các nhà thơ lớp trước.
Biểu hiện của cái tôi trữ tình, một trong những đóng góp đáng kể của thơ trẻ Việt
Nam 1965 - 1975, trở thành vấn đề nghiên cứu được quan tâm, trong đó hầu hết nêu
nhận định về đặc điểm cơ bản của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ.
Trong bài viết “Đội ngũ nhà văn trong chiến tranh chống Mỹ”, Ngô Thảo nhận
định về tâm thế mới của cái tôi thơ trẻ chống Mỹ: “Lớp trẻ vào thơ chống Mỹ
không còn phân vân đo đếm tỷ lệ “riêng - chung”, “tôi và chúng ta” trong tác
phẩm… Họ không khoác cho tác phẩm tấm áo đồng phục hay mảnh dù ngụy trang”
[199, tr.257]. Cũng nhận định về cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Nguyễn Bá
Thành cho rằng: “Vị trí số một của nhân vật trữ tình trong thơ thời chống Mỹ là một
cái Ta. Cái ta lấn át cái tôi”. [197, tr.189]. Từ đó, tác giả khẳng định “Đến giai đoạn
chống Mỹ, cái tôi trữ tình thật sự trở thành cái tôi phương tiện, cái tôi chứng kiến sự
vận động của lịch sử. Thời kỳ chống Mỹ, cái tôi trữ tình có mờ nhạt đi” [197,
tr.191]. Theo Nguyễn Bá Thành, “Xu hướng ẩn khuất của cái tôi trữ tình ngày càng
thể hiện rõ trong thơ chống Mỹ ở giai đoạn sau. Nhất là trong loại thơ suy tưởng,
chính luận, thơ đánh giặc” [197, tr.193]. Một mặt nhà nghiên cứu này nêu lên đặc
trưng của cái tôi trữ tình thơ chống Mỹ, mặt khác chỉ ra sự nhòe mờ, ẩn khuất của
cái tôi trữ tình giai đoạn này. Trong bài viết “Về một đặc điểm của thơ 1955 -
1975”, Trần Đăng Xuyền khẳng định “cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước không
cho phép con người nghĩ đến cái tôi cá nhân riêng tư, nhất là cái cá nhân ấy lại đối
lập, cản trở cái chung của cộng đồng, của toàn dân tộc (...) Nỗi đau của cái tôi riêng
tư hòa vào nỗi đau chung của toàn dân tộc” [33, tr.259].
Tiếp nối hướng khai thác của các nhà nghiên cứu trước về diện mạo cái tôi trữ
tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975, trong “Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995
(Nhìn từ phương diện vận động của cái tôi trữ tình), Vũ Tuấn Anh đã khái quát sự
vận động, phát triển cũng như rút ra được những dạng thức biểu hiện chính của cái
tôi trữ tình trong thơ cách mạng, từ cái tôi trữ tình yêu nước - kháng chiến (1945 -
1954), cái tôi ngợi ca cuộc sống mới (1954 - 1964) đến sự phát triển đỉnh cao của
cái tôi trữ tình công dân (1964 -1975). Vũ Tuấn Anh nhận định thơ chống Mỹ là
“giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của cái tôi trữ tình công dân để trở thành cái tôi
khái quát, cái tôi tập hợp, cái tôi nhân danh cái Ta dân tộc và Thời đại” [4, tr.124].
Xuất phát từ nhận định đó, tác giả xác định hai dạng thức biểu hiện cơ bản của cái
tôi thơ chống Mỹ là “cái tôi sử thi” và “cái tôi thế hệ”. Với tâm thế cái tôi sử thi,
tiếng nói của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ trẻ chống Mỹ “có sức âm vang của hàng
ngàn giọng nói, có sức thuyết phục của chân lý phổ quát” [4, tr.126]. Vũ Tuấn Anh
nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cái tôi - cái ta như là một sự thể hiện nhất
quán của cái tôi sử thi, đồng thời cũng nhận dạng một kiểu cái tôi trữ tình chủ yếu
thuộc vào lớp nhà thơ trẻ, “thể hiện cách nhìn, cách cảm riêng của một lứa tuổi trẻ
gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến tranh, với những gian lao,
hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [4, tr.137]. Chính sự xuất hiện của
“cái tôi thế hệ” đã tạo nên tư thế trữ tình mới của thơ 1945 - 1975: là độc thoại, đối
thoại với thế hệ mình - “Cái tôi thế hệ, bằng cách chiếm lĩnh hiện thực riêng, là sự
tăng cường và bổ sung quý báu phẩm chất hiện thực cho nền thơ chống Mỹ” [4,
tr.140]. Lê Lưu Oanh, trong “Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)”, đề cập đến đặc
điểm của cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, nhằm so sánh với biểu hiện của cái tôi
trữ tình trong thơ sau 1975. Chuyên luận đặt những dạng thức của cái tôi sử thi
tương ứng với kiểu nhà thơ hiện thực cách mạng, từ đó cho rằng “vị trí chủ yếu của
con người trữ tình là vị trí của cái tôi xã hội, cái tôi công dân mang một sinh khí
mới mẻ, mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ tuyên bố rời bỏ cái tôi
cá nhân, để cái riêng tư hòa lẫn trong cái chung” [152, tr.74]. Trường Lưu lại so
sánh: “Cái tôi mà phần lớn lớp nhà văn trước Cách Mạng Tháng Tám đã đấu tranh
vất vả khi thể hiện những con người và xóm làng trong kháng chiến chống Pháp, thì
giờ đây đã nhuần nhuyễn hòa vào cái ta, cái chúng ta chung của cảm nghĩ dân tộc”
[97, tr.98]. Trong khi đó, Vũ Văn Sỹ lại cho rằng: “Một trong các hình thức tồn tại
ước lệ của cái tôi nhân chứng, khiến ta nhận diện một cách dễ dàng, đó là hình thức
nhân vật xưng tôi đứng ra trần thuật. Cái hình thức trần thuật như vậy không chỉ là
kinh nghiệm thơ ca, mà còn là nội dung nghệ thuật, một hình thức biểu hiện của con
người mang dấu ấn thẩm mĩ lịch sử” [183, tr.134]. Từ đó, Vũ Văn Sỹ khẳng định:
“Trong quá trình vận động của lịch sử thơ ca, chữ “tôi” nhân xưng trần thuật ngày
càng biến hóa đa dạng ở lớp nhà thơ chống Mỹ, gắn với những cá tính thơ khác
nhau như Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần
Phương, Thanh Thảo (…) tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về chữ “Tôi” của thơ
trữ tình Cách mạng” [183, tr.135]. Đây là vấn đề được luận án tiếp tục làm sáng rõ
khi khám phá bản chất cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Hữu
Thỉnh khẳng định “nhập cuộc và hành động là vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến” và
cho rằng đấy là tâm thế hình thành nên một lớp thi sĩ kiểu mới trong thơ kháng
chiến, “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng tạo và
khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8]. Cùng hướng khai thác với Vũ Tuấn Anh, trong
“Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nguyễn Văn Long cũng cho rằng cái “tôi”
sử thi và cái “tôi” thế hệ là hai dạng thức tiêu biểu của cái tôi trữ tình trong sáng tác
của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, trong đó cái tôi thế hệ “thống nhất với
cái “tôi” sử thi và có thể coi là một biến thể, một dạng độc đáo và cụ thể của cái
“tôi” sử thi” [92, tr.112]. Theo Nguyễn Văn Long, “cái “tôi” sử thi trong thơ thời kì
chống Mỹ tuy rất thống nhất nhưng không đơn điệu, không hoàn toàn thủ tiêu cái
“tôi” của tác giả, vì thế bản sắc, cá tính của mỗi nhà thơ vẫn có chỗ để bộc lộ, phát
huy” [92, tr.112]. Nguyễn Văn Long cảm nhận: “từ cái náo nức, say sưa với cảm
hứng của buổi đầu, đến sự trải nghiệm với nhiều suy tư, trầm tĩnh trong giai đoạn
cuối của cuộc chiến tranh, cái “tôi” của thơ trẻ muốn tìm cho mình một tiếng nói
trầm tĩnh, trực tiếp, thậm chí đến trần trụi, chối bỏ những gì hoa mĩ và sáo mòn
trong thơ” [92, tr.114]. Bài viết “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ
trong chiến tranh giải phóng” của Lê Thị Bích Hồng cũng góp phần khái quát một
số biểu hiện của cái tôi trữ tình, trong đó có những nhận định khá xác đáng trên tinh
thần phát triển thành quả nghiên cứu của người đi trước: “Chữ tôi trong thơ mang
một tâm thế hoàn toàn mới mẻ. Đó là cái tôi chung, cái tôi cộng đồng, cái tôi giai
cấp, cái tôi thế hệ. Có lúc thơ phải bằng lòng một sự phiến diện để yên lòng người
đánh giặc” [66, tr.15]. Tuy nhiên, biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt
Nam 1965 - 1975 được các nhà nghiên cứu đặt trong quá trình vận động của cái tôi
trữ tình trong tiến trình văn học cách mạng, vì thế vẫn chưa phải là một cách nhìn
nhận toàn diện về diện mạo cái tôi trữ tình.
Xem cái tôi trữ tình như một biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con
người trong thơ chống Mỹ, Trần Đình Sử đánh giá: “Con người của văn học mười
năm cả nước đánh Mỹ vẫn là con người chính trị và dân tộc, con người của sự
nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, vì tập thể” [130, tr.68] và theo Trần Đình
Sử, “chiến tranh dầu ở đâu cũng là một hoàn cảnh bất thường, và gương mặt con
người trong chiến tranh thường là gương mặt đau thương, nghị lực và ý chí” [130,
tr.73] nhưng các nhà thơ “tránh nói những gì đau thương mất mát” [130, tr.73]. Đây
cũng là một gợi ý để tác giả luận án có cơ hội tìm tòi, suy ngẫm thêm về những biểu
hiện khác nữa của cái tôi trữ tình trong thơ 1965 - 1975, ở đó người nghệ sĩ không
hề lảng tránh bi kịch chiến tranh. Đứng từ góc nhìn cái tôi trữ tình gắn với ý thức
khẳng định bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ, theo Vũ Văn Sỹ, “Những nhà thơ
xuất sắc của thế hệ chống Mỹ như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Xuân Quỳnh,
Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… đều là những cây bút đã
chạm khắc được rõ nét chân dung tinh thần của mình, đồng thời cũng là của thế hệ
mình vào những mảng sự kiện và biến cố lịch sử” [183, tr.115].
Nhìn một cách tổng thể, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã được đề
cập đến ở một vài góc độ trong các công trình nghiên cứu về thơ chống Mỹ, tuy
nhiên, phần lớn chỉ tập trung khái quát nên một số dạng thức cơ bản và có tính chất
phổ quát của cái tôi trữ tình, đó là cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ. Ở công trình luận văn
Thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ”, tác giả luận án cũng đã nhận thấy
trong thế giới nghệ thuật thơ ấy, có biểu hiện của cái tôi thế sự, đời tư - cái tôi dằn
vặt, nhìn thấu vào chiều đau xót bi thương của chiến tranh hay cũng có cái tôi cô
đơn đến tuyệt vọng, chông chênh trong chuỗi bi kịch vụn vỡ của tình yêu. Lưu
Quang Vũ một mình lặng lẽ trở về góc riêng dành cho những điều bình thường mà
cả dân tộc đang bận rộn với nhiều điều lớn lao, thiết thực hơn dường như đã bỏ
quên và dừng lại ở thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ, hẳn chúng ta sẽ ngẫm ngợi
được nhiều điều trăn trở của cái tôi giữa cõi riêng tư thăm thẳm. Như vậy, dù không
phải là một dạng thức phổ biến nhưng trong thơ trẻ thời chống Mỹ, không thể
khuyết sự thể hiện sâu sắc của cái tôi trữ tình đời tư, vốn là một đặc trưng nổi bật
của thơ trữ tình sau 1975. Việc khảo sát dạng thức này cũng là một trong những
mục đích nghiên cứu của luận án. Đến gần đây, với chuyên luận “Thơ với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Lê Thị Bích Hồng nhận diện bên cạnh cái tôi sử
thi và cái tôi thế hệ, còn có cái tôi phi sử thi - vốn là một dạng thức hiện hữu trong
thơ chống Mỹ những năm cuối chiến tranh: “Con người một mặt vừa chịu áp lực sử
thi, một mặt lại trở về với cái tôi nhân bản. Thơ chống Mỹ đã góp một thành tựu
trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi” [68,
tr.118]. Đây là một dạng thức cái tôi mà hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình trước
đây gần như không bàn đến, hoặc chỉ khẳng định đó là diện mạo cái tôi trữ tình của
thơ sau 1975, khi cuộc sống dần trở lại những quy luật bình thường, con người phải
đối mặt với bao nhiêu biến động của xã hội. Lúc đó, cái tôi cá nhân mới thực sự
bừng tỉnh, “trở về những giá trị truyền thống nhân bản” [4, tr.174]. Lê Thị Bích
Hồng khẳng định: “Thật ra, cái tôi nhìn theo số phận cá nhân đã có mặt ngay trong
thời điểm chiến tranh” [68, tr.108]. Tác giả chuyên luận này cũng đã tập trung vào
chủ yếu hiện tượng thơ Lưu Quang Vũ; bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến một số
cây bút “bên kia chiến tuyến” ở các đô thị miền Nam khi đề cập đến xu hướng chiến
tranh nhìn từ sự mất mát, hi sinh.
Bên cạnh những công trình mang tính chất nhận định về diện mạo cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, còn một số bài viết đi vào khảo sát phong
cách nghệ thuật của thơ trẻ, ít nhiều cũng đề cập đến một vài nét biểu hiện của cái
tôi trữ tình. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu mới dừng lại phác thảo một số dạng
thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ một cách khái quát hoặc chỉ dừng lại khảo sát chân
dung cái tôi trữ tình trong một số ít hiện tượng tiêu biểu.
4.2. Một số bài viết như: “Thơ miền Nam, tiếng hát của quê hương” (Tế Hanh
- Khái Vinh), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ ở miền Nam” (Bùi Công
Hùng), “Thơ ca chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam 1954 - 1970” (Phạm Văn Sĩ)…
đã đề cập đến tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác của thơ trẻ miền
Nam. Song hầu hết chỉ mới dừng ở mức độ giới thiệu, khái lược, chưa đi sâu nhận
diện bản chất của cái tôi trữ tình.
Đối với các nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, giới nghiên cứu phê bình
dành không ít sự quan tâm. Bàn về tư duy nghệ thuật của một số cây bút học sinh
sinh viên, Thạch Phương đã nhận định tiếng nói chủ đạo của lực lượng sáng tác thơ
trẻ miền Nam giai đoạn này là “tiếng nói phủ định cái trật tự xã hội khốn nạn “đầy
rẫy những dây kẽm gai, mộ địa và lưỡi lê” [158, tr.46]; cho rằng đây là “một sự chối
bỏ toàn diện” nhằm “lật tung cái bộ mặt thật của thuộc địa trá hình” [158, tr.47].
Khi đề cập đến sức bật của lực lượng cầm bút trẻ thành thị miền Nam 1965 - 1975,
Thạch Phương cảm nhận: “Đọc thơ họ, ta cũng bắt gặp không ít những nỗi quằn
quại, ngột ngạt giữa một cuộc sống tù đọng” [208, tr.421]. Song Thạch Phương
cũng khẳng định cảm hứng chủ đạo của thơ trẻ thành thị miền Nam là “những thao
thức, trăn trở của con người, hay nói rộng hơn của cả một thế hệ mang tinh thần
thức tỉnh trước một thực tế cần phải đổi thay” [208, tr.422]; đồng thời, bước đầu
nhận diện được một số biểu hiện của cái tôi trữ tình ở một vài cây bút tiêu biểu: “Có
chất anh hùng ca của Trần Quang Long, Đam San, cũng có cái trữ tình da diết của
Võ Quê, Thái Ngọc San. Có cách suy tư lắng đọng kiểu Đông Trình…” [158, tr.52].
Trong bài viết “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về thơ, nghĩ…”, Trần Hữu Tá khái quát một
số đặc sắc trong cá tính sáng tạo của các cây bút học sinh sinh viên: “Ta dễ nhận ra
giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần Quang Long, cách thể hiện cô
đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng thơ hồn nhiên chân thật của
Hữu Đạo, Võ Quê và lối viết mực thước, tinh tế của Đông Trình… Quan trọng hơn,
xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một sinh khí dồi dào và một diện
mạo mới mẻ” [64, tr.20-21]. Người nghiên cứu rút ra nhận định cảm hứng sáng tạo
của thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam “thể hiện thật nhức nhối nỗi buồn, niềm đau
của những người sống trên nơi chôn rau cắt rốn” [64, tr.21]; qua đó, đi đến khẳng
định biểu hiện cơ bản của cái tôi trữ tình ở vùng thơ này là “ý thức nhân danh cộng
đồng để suy nghĩ, phát biểu và hành động” [64, tr.23].
Tôn Thất Bút, trong bài viết “Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm
nay”, lại nhận diện chân dung tinh thần của bộ phận thơ trong vùng tạm chiếm miền
Nam đánh mất niềm tin vào cuộc đời: “Sự lạc lõng đã trở thành như một ám ảnh
thường trực” [10, tr.44] và “Cuộc sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con
người” [10, tr.45]. Đối với những cây bút vùng tạm chiếm miền Nam không thuộc
dòng thơ “viết trên đường tranh đấu” như Nhã Ca, Lệ Khánh, Nguyên Sa, Du Tử
Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ…, nhìn chung
rải rác đã có một số công trình bàn đến, chủ yếu dừng lại giới thiệu và thẩm bình
một số nét cá tính sáng tạo, cốt phác họa diện mạo thơ trẻ ở bộ phận này như một
yếu tố mới của văn học vùng tạm chiếm miền Nam. Tuy nhiên, các cây bút phê bình
phần nào đã điểm chân dung của cái tôi trữ tình trong một số hiện tượng thơ. Chiếm
lĩnh thế giới nghệ thuật thơ Du Tử Lê, Nguyễn Vy Khanh nhận thấy: “Trong cuộc
tìm kiếm chính mình, chính bản chân diện mục, cái Tôi sâu thẳm và thực, có khi
nhận ra cái Tôi bị động, tan nát, vì tâm động” [254] hay đến với thơ tình Du Tử Lê,
tác giả bài viết này lại khám phá: “Du Tử Lê còn có những bài đầy một nỗi buồn
tuyệt vọng và chân thành, nhiều giãi bày và tiên tri của một người tin ở sứ mệnh đến
với đời” [254]. Trong “Thơ Tô Thùy Yên - quán trọ hồn Đông phương”, Nguyễn Vy Khanh
nhận diện cái tôi “hãnh tiến trong hoang vu cũng như trong bức rối của thời đại”
[255]. Còn đứng từ góc nhìn về tâm thức của các nhà thơ vùng tạm chiếm miền
Nam đầu thập niên 70 của thế kỉ XX nói chung và Nguyễn Tất Nhiên nói riêng,
Nguyễn Bảo Hưng đã nhìn nhận: “Thảm kịch của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam ở
những năm đầu của thập niên 70 là thế đó. Và Nguyễn Tất Nhiên đã sống đằm mình
trong thảm kịch này. Anh đã sống đày đủ. Sống nhiệt tình. Sống trọn vẹn. Như mọi
thanh niên cùng lứa tuổi” [251]...
Tuy hầu hết các bài viết, công trình chưa đi sâu khám phá cái tôi trữ tình, song
qua đó tác giả luận án cũng nhận diện một số đặc trưng cơ bản trong tư tưởng nghệ
thuật của thơ trẻ đô thị miền Nam, có cơ sở khoa học trong việc nhìn nhận những
nhân tố tác động đến đặc điểm thơ của thế hệ trẻ đồng thời cũng có cái nhìn khái
quát về một số phong cách thơ tiêu biểu như Ngô Kha, Trần Quang Long, Thái
Ngọc San, Ngụy Ngữ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên,
Trần Dạ Từ, Nguyễn Bắc Sơn… Từ đó, tác giả luận án mở rộng diện nghiên cứu và
đi sâu tìm hiểu sắc diện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam.
Nhìn chung, các cây bút nghiên cứu phê bình đã khám phá được một số dạng
thức cơ bản cũng như khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ
Việt Nam 1965 - 1975. Qua đó, thấy được diện mạo mới của cái tôi trữ tình trong
một giai đoạn lịch sử văn học đầy biến động thông qua cái nhìn đối chiếu với cái tôi
trữ tình của những thế hệ nhà thơ lớp trước. Một số công trình khá dày dặn song
cũng nhiều bài viết chỉ mới dừng ở dạng định hướng nhận diện về những biểu hiện
của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này.
Với lịch sử vấn đề nghiên cứu trên, luận án có cơ sở đi sâu tìm hiểu cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 dưới một góc nhìn toàn diện hơn; tiếp tục đưa ra
những nhận định mà các công trình trước giải quyết chưa triệt để hoặc mới dừng ở
mức độ gợi mở. Xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm thơ trẻ, tác giả luận
án cụ thể hóa những dạng thức nổi trội của cái tôi trữ tình ở cả ba vùng sáng tác:
miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Qua đó nhận diện các
dạng thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975; khẳng định thành tựu của thơ trẻ
giai đoạn này trong dòng chảy thơ Việt Nam 1945 - 1975.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, tập trung vào
những tác phẩm của ba vùng thơ: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm
miền Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
với những dạng thức biểu hiện và một số phương thức thể hiện nổi bật.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp hệ thống: Khảo sát cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975
trong sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.
6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phân tích những nét biểu hiện của cái
tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ tiêu biểu; qua đó, tổng hợp, khái quát
thành những dạng thức cái tôi trữ tình của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.
6.3. Phương pháp loại hình: Nhận diện đặc trưng từng kiểu dạng cái tôi trong
quy luật vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 -
1975; qua đó, phân loại, đánh giá hiệu quả thẩm mĩ các dạng thức cái tôi trữ tình
giai đoạn này.
6.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu: So sánh những biểu hiện của cái tôi trữ
tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 với các giai đoạn văn học khác, đồng thời kiến giải
những nét tương đồng, khác biệt của cái tôi trữ tình giữa các vùng thơ.
6.5. Phương pháp thống kê: Thống kê tần số xuất hiện của thể thơ tự do - một
phương tiện nghệ thuật quan trọng biểu đạt cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.
7. Những đóng góp mới
Khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam ở cả miền Bắc, vùng
giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam, luận án góp phần mở rộng nội hàm thơ
trẻ Việt Nam 1965 - 1975, hướng tới khái quát một cách toàn diện hơn chân dung
cái tôi trữ tình và nhận diện một cách thỏa đáng hơn tư tưởng nghệ thuật, cũng như
đặc điểm nổi bật của thơ Việt Nam 1965 - 1975. Đồng thời, mong muốn khôi phục
khuôn mặt vốn đa diện của thơ 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 - 1975. Từ
đó, luận án mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá không còn “trượt
theo quán tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 - 1975 chỉ là sự hợp thành
của văn học miền Bắc và vùng giải phóng.
Luận án nhận định trong thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi sử thi là diện mạo cơ bản
của cái tôi trữ tình song cái tôi sử thi biến thể, cái tôi phi sử thi mới là những dạng
thức biểu hiện nổi trội, in đậm bản sắc thơ trẻ giai đoạn này.
8. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được cấu trúc thành 3 chương
Chương 1. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
- một cái nhìn khái quát
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
- nhìn từ dạng thức biểu hiện
Chương 3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam1965 - 1975
- nhìn từ phương thức thể hiện
CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 - 1975- MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT
Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam 1945 - 1975, cái tôi trữ tình
không ngừng vận động, góp phần làm nên diện mạo của từng giai đoạn thơ. “Tiếng
thơ phải được nói lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của một trái tim
đang xúc động. Những thương mến, căm giận và những nỗi niềm khác nhau bộc lộ
trong hình tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một tình
cảm không nén lại được” [45, tr.117]. Đây có thể xem là sứ mệnh thơ trẻ 1965 -
1975, trước hết nhìn từ ý nghĩa tồn tại của cái tôi trữ tình. Với những dạng thức biểu
hiện phong phú, cái tôi trữ tình tạo cho thơ trẻ một chân dung tinh thần, một phong
cách thời đại.
1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình
1.1.1. Cái tôi
Cái tôi thuộc về bản chất, là chiều sâu tinh thần con người. “Cái tôi tự khẳng
định chính nó và tìm được tiếng vang của nó trong cái ta, đồng thời cái ta cũng tự
khẳng định khi bao bọc cái tôi và tìm được tiếng vang bên trong của nó trong cái
tôi” [201, tr.82]. Cái tôi là sự thức tỉnh đầu tiên của con người, để xác lập vị trí của
cá thể này so với cá thể khác.
Trong lịch sử triết học phương Đông, cái tôi mang diện mạo riêng. Với Lão
giáo, con người cá nhân không thể là trung tâm vũ trụ; chừng nào con người quên
“tôi” thì mới có thể sống trong cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời
gian. Theo Nho giáo, con người được đặt trong mối quan hệ với thiên mệnh: “Con
người kính sợ trời, tin thiên mệnh, tin huyền tưởng, ngưỡng vọng siêu nhân” [150,
tr.74]. Bên cạnh đó, Nho giáo lại quan tâm đến cá nhân trong mối quan hệ luân lí,
cương thường giữa người với người; đưa con người vào cái đại ngã của gia tộc,
quốc gia nhưng cũng hướng con người vào tự do nội tâm. Cái tôi trong tư tưởng
Nho giáo không tồn tại với ý nghĩa tự thân mà chỉ tồn tại với ý nghĩa con người là
“cái đức của trời đất, là sự kết giao của âm dương…”. Còn với Phật giáo, con người
được thiết lập trong quan hệ với chính mình và được lí giải trên học thuyết “vô
ngã”. Đạo Phật đưa con người đến nhu cầu hướng nội. Như vậy không có nghĩa là
Phật giáo phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của cái tôi. “Con đường đắc đạo của đạo
Phật là một con đường cá nhân, chứ không thể cộng đồng” [150, tr.75]. Tuy tam
giáo đều quan niệm về cái tôi cá nhân dựa trên khuynh hướng “vô ngã” song hoàn
toàn không phải là sự triệt tiêu cái “ngã”. Lão giáo dùng “ngã” để khước từ, tiêu
diệt danh lợi chính là khẳng định vai trò của yếu tố cá nhân trên con đường thực
hiện lí tưởng đó. Nho giáo một mặt đặt con người vào mối quan hệ khăng khít với
thiên mệnh, khuôn con người vào cương thường, luân lí; mặt khác lại đưa con người
quay vào thế giới nội tại. Điều này có nghĩa là “cá nhân hòa tan vào một bản chất
chung của con người - tự nhiên, con người - chức năng, con người - cương thường,
và không còn ý nghĩa như một cái tôi tồn tại độc lập” [4, tr.22]. Như vậy, dù xuất
phát từ quan niệm về cái tôi cá nhân của mỗi triết thuyết có những đặc trưng khác
nhau song đều thừa nhận ý nghĩa của con người trong việc thực hiện tư tưởng. Ở
mỗi triết thuyết, con người cá nhân dù không tồn tại độc lập nhưng vẫn được bộc lộ
ở một hình thức nhất định. Và “tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân để giải phóng
cho cái “ngã” nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới khác, không gò
bó, tạm bợ” [150, tr.75].
Đến với một số triết thuyết phương Tây, có thể cũng tìm thấy những quan
niệm về con người. Với Descartes, con người đặt mình trong tư thế đối diện với vũ
trụ, là một “bản thể suy tư”; bản chất con người là bản chất cá thể. Theo quan niệm
của Descartes, con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ giữa thể xác và linh
hồn mà người là Người vì người biết đau khổ, đam mê trong sự so sánh với tộc loại;
con người dù nhỏ bé cũng không bị cô lập trong vũ trụ mà luôn tự nhận thức mình
là một phần của trật tự toàn vẹn và có vị thế nhất định trong trật tự toàn vẹn đó. Như
Héraclite quan niệm “giữa vũ trụ và con người luôn luôn có một liên hệ” [114,
tr.182]. Dừng lại ở Kant, một đại diện tiêu biểu của triết học duy tâm, cũng thấy rất
rõ ý nghĩa của cái tôi trong đời sống con người. Cái tôi tồn tại vừa là chủ thể vừa là
khách thể của quá trình nhận thức, đồng thời Kant còn tuyệt đối hóa khả năng nhận
thức của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của
nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi” [147, tr.113]. Như
vậy, cái tôi cá nhân được thừa nhận như là một đối tượng khám phá phức tạp của
con người. Hay đối với Hegel, cái tôi tồn tại như một cá thể độc lập. Cái tôi có khả
năng tự biểu hiện mình, thể hiện khát vọng của con người. Xét đến sự ảnh hưởng
trực tiếp hoặc có mối liên hệ với quan niệm cái tôi trữ tình, dừng lại ở triết học hiện
tượng luận của Husserl, thấy rằng cái tôi được chú trọng với tư cách “chủ tri”, là
suy tư về chính chủ thể; khách thể chỉ là cái cớ để chủ thể suy tư. Chính tư tưởng
này đã đẩy triết thuyết của Husserl đến một quan niệm về con người tự do. Ở đó con
người tự thân đã là một chủ thể sáng tạo không có một mối dây ràng buộc nào với
thực tại khách quan. Gặp gỡ Husserl, J.P.Sartre cũng đưa ra một quan niệm hiện
sinh về ý thức của cái tôi, trong đó cái tôi không chỉ thiết lập sự khác biệt của nó với
ngoại vật, với tha nhân mà còn với chính mình. Theo quan niệm của triết học hiện
sinh, “Con người cũng là một toàn thể không phân chia; do đó mỗi cử chỉ, hành
động của nó, dù bé nhỏ, tầm thường cũng bày tỏ một ý nghĩa, một thái độ của con
người hiểu như một toàn thể trước cuộc đời” [232, tr.252]. Con người được đặt
trong sự tự do hóa tuyệt đối, là hữu thể trong mối quan hệ với chính nó, không có
tha tính, là sự “tự ý thức”. Như một sự kế thừa hiện tượng học của Husserl, J.P.
Sartre cho rằng chính cá nhân ra luật cho toàn thế giới, cá nhân phải xác định ý
nghĩa của thực thể trong mình và bên ngoài mình. Từ đó, Sartre quan niệm: “không
có vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ con người” [172, tr.31] và khẳng định “con người
không phải là đóng kín trong bản thân mình mà luôn luôn có mặt trong một vũ trụ
con người” [172, tr.32]. Đối lập với những triết thuyết tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân,
đến triết học Marx, giá trị con người cá nhân được xác lập với tư cách vừa là chủ
thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội. Cá nhân luôn tự thiết lập quan hệ
với môi trường xã hội, là “bộ mặt xã hội”. Đến đây, cái tôi tồn tại như là trung tâm
của cá tính con người không tách rời khỏi hiện thực: “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [102, tr.11].
Theo lí giải của triết học, cái tôi là một yếu tố của chủ thể, là quan niệm của
chủ thể về chính mình. Hay nói cách khác, cái tôi chính là khả năng tự nhận thức
của chủ thể. Sự khu biệt cơ bản nhất của hai phạm trù này là nếu chức năng của chủ
thể là nhận thức và cải tạo thế giới thì chức năng của cái tôi là xác lập vị thế của
mình trong thế giới. Chủ thể, theo quan niệm của triết học, không hẳn là một cá
nhân đơn lẻ, mà đó có thể là một tập thể, một cộng đồng. Như vậy, tương ứng với
chủ thể của mỗi thời đại là sự biểu hiện một loại hình cái tôi phù hợp.
“Sẽ giản đơn, siêu hình nếu xem cái tôi cá nhân là một cái gì nhỏ hẹp, hạn chế,
khép kín” [181, tr.136]. Mang những đặc tính riêng, cái tôi không đơn thuần là cái
tôi cá nhân riêng lẻ, nhỏ hẹp, bất biến mà đó là một phạm trù mang tính “động”,
“không chỉ là chức năng tự ý thức của chủ thể, mà còn là chức năng tự ý thức về
bản chất xã hội của chủ thể” [181, tr.136]. Cái tôi tự thân có sức dung chứa vô cùng
bởi cái tôi có chức năng thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính nội cảm. Sự
thâu nhận này đã tạo nên một thế giới chủ quan của cái tôi, ở đó sức nội cảm của cái
tôi tỉ lệ thuận với sự phong phú đa dạng của cuộc đời. Đây chính là thế giới của
những giá trị qua cách nhìn của cái tôi, là thế giới khó tách bạch đâu là chủ quan
đâu là khách quan: Khúc thu/ Khúc thu/ Bần bật lá vàng/ Đôi giày nhỏ xinh xinh
nàng công chúa (Dương Kiều Minh); Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi
uốn mình trong chiếc áo the xanh (Đoàn Văn Cừ). Chính đặc tính này tạo nên sự đa
dạng trong những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình: cái tôi hướng nội, cái tôi
hướng ngoại… Cái tôi luôn tự thiết lập một cách ứng xử “thống nhất bền vững” đối
với cuộc sống. Điều đó không có nghĩa cái tôi là một phạm trù bất biến. Sự bền
vững ở đây có thể hiểu là sự nhất quán trong bản chất tinh thần con người, nghĩa là
ý thức khẳng định bản chất tinh thần qua nhiều biến cố của đời sống: Biển vẫn cậy
mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút/ đã cô đơn (Hữu Thỉnh); Ký hiệu đời
tôi là một chấm xanh xanh ngắt/ Ký hiệu thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến/
khôn cùng (Phùng Khắc Bắc). Như đã khẳng định, cái tôi là một phạm trù có tính
“động”. Đây có thể là sự xung đột trong nội tại cái tôi, hay cũng có thể hiểu là sự
xung đột với thế giới để đi đến một sự thống nhất của chủ quan. Nghĩa là đích đến
cuối cùng của cái tôi là xác lập giá trị của mình trong thế giới khách quan. Hay nói
khác hơn, cái tôi là một cách “lựa chọn”. Cái tôi luôn nhận ra mình trong cái nhìn
thể nghiệm: Nghĩa lớn ai mua bán chợ chiều/ Dập vùi hoa lá biết bao nhiêu (Trần
Huyền Trân); Suốt đời thương không thương hết được đời/ Điều ấy làm tôi day dứt
mãi/ Tôi từng trải và tôi vụng dại (Trần Nhuận Minh). Từ cách lí giải này, khi đi
vào làm rõ bản chất của cái tôi trữ tình, hẳn sẽ có cái nhìn thỏa đáng hơn; không thể
quy cái tôi trữ tình vào trong cái tôi cá nhân thuần túy, cũng như không thể đồng
nhất cái tôi trữ tình với cái tôi cá nhân.
Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc của
tư tưởng triết học. Cái tôi gắn với những bước tiến hóa của nhân loại trong quan
niệm về con người của triết học đã ảnh hưởng đến ý thức nghệ thuật văn chương
trong việc thiết lập quan niệm về cái tôi trữ tình. Suy cho cùng, cái tôi trong thế giới
trữ tình khởi đi từ ý thức về cái tôi trong nguồn gốc triết học song đi vào thế giới
thơ ca, cái tôi lại mang một diện mạo riêng. Đó là nhu cầu được biểu hiện và nhìn
nhận về hiện thực khách quan. Và những dạng thức khác nhau của cái tôi trải qua
các nền văn học đều ít nhiều thể hiện sự ảnh hưởng của quan niệm cái tôi triết học,
tạo thành biểu hiện phong phú của cái tôi trữ tình trong thơ. Nếu như thơ Thiền gắn
với “cái tôi vô ngã” của phạm trù thi pháp văn học trung đại thì thơ ca lãng mạn lại
gắn mình với “cái tôi cá nhân” là một, là riêng, là thứ nhất. Và khi đi ra khỏi thời
của cái tôi co mình trong thế giới cô đơn, rợn ngợp của Thơ mới, thơ 1945 - 1975
lại là môi trường nảy nở những dạng thức mới của cái tôi.
Trong ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ, cái tôi được quan niệm dưới nhiều
khía cạnh phong phú. Đó là ý thức về cá tính sáng tạo của con người, là cách nhìn
nhận về con người như là một đối tượng thẩm mĩ của quá trình sáng tác, là số phận
con người không lặp lại ở mỗi giai đoạn sáng tác và mang dấu ấn thời đại. Xuất
phát từ căn nguyên của cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật, có thể hình dung
ban đầu về cái tôi trữ tình là “sự tự ý thức của cái tôi được biểu hiện trong nghệ
thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được
thể hiện thông qua phương tiện trữ tình” [4, tr.26-27].
1.1.2. Cái tôi trữ tình
Theo Hegel, nguồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình là “ở chủ thể, và chủ thể
là người duy nhất và độc nhất mang nội dung” [60, tr.995]. Thơ ca là tiếng nói xuất
phát từ nhu cầu nội tại của con người, có khi đó là nhu cầu độc bạch của thế giới
tâm hồn. Nhiều định nghĩa về thơ trữ tình đều hướng đến giải mã sự thôi thúc của
nhu cầu sáng tạo xuất phát từ góc độ đó. Thơ là sự bắt nhịp của những tâm hồn
đồng điệu, là tiếng nói tri âm… Quá trình sáng tạo thơ ca trước hết là nhu cầu rung
cảm tự thân của người nghệ sĩ, là con đường tìm sự đồng vọng. Thơ trữ tình với tư
cách là sự biểu hiện của cái tôi, là phương tiện để con người cảm thấy sự tồn tại của
mình” [181, tr.140]. Bản chất của thơ chính là sự hiện diện của cái tôi trữ tình. Vì
thế có thể xem cái tôi là nhân tố xuyên suốt hành trình sáng tạo thơ trữ tình.
“Thơ trữ tình là phương tiện để con người tự khẳng định bản chất tinh thần
của mình so với tồn tại vật chất, là phương tiện để tự đồng nhất mình, xây dựng
hình tượng về mình…” [181, tr.140]. Cái tôi có vai trò quan trọng trong thơ với tư
cách là trung tâm để bộc lộ tất cả suy nghĩ, tình cảm, thái độ bằng giọng điệu riêng;
nhờ vậy làm nên cái độc đáo không lẫn giữa thế giới nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ.
Sáng tạo thơ ca là kết quả tất yếu của quá trình dồn tụ cảm xúc, là khoảnh khắc
thăng hoa của cái tôi thi sĩ khao khát tự bộc bạch, giãi bày. Không có sự thúc bách
bên trong đời sống nội cảm, không có cái tôi chênh chao giữa thế giới hiện hữu,
không có niềm vọng tưởng về một quá khứ mờ xa thì không thể có Điêu tàn đi về
trong những miền hư tưởng. Sẽ không có Di cảo thơ như một cuộc chạy đua dốc
sức cuối cùng về với bến bờ của đời người nếu không có một tâm hồn luôn trên
hành trình suy tưởng về số phận, về cái chênh vênh giữa cõi sống và cõi lò thiêu.
Cũng như nếu không có cái tôi cảm nghiệm thân phận buồn trống trải thì không thể
có thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, không thể có lời tự thú xót cay: Nhiều khi muốn mình
như chiếc bóng/ Tan trong màn đêm/ Để không ai nhận ra/ Mình có mặt trong đời
(Tặng nỗi buồn riêng). Hegel đã khẳng định: “điều làm thành trung tâm và nội dung
thực sự của thơ trữ tình, đó chính là cái chủ thể” [60, tr.1007]. Tác phẩm thơ trữ
tình chỉ tồn tại khi đó là nhu cầu tự ý thức, nhu cầu xúc cảm của chủ thể sáng tạo.
Điều đó có nghĩa sẽ không có tác phẩm trữ tình nếu không có nhu cầu tự khẳng
định, không có nhu cầu tìm kiếm tri âm của chủ thể. Hoặc có thể tác phẩm trữ tình
vẫn ra đời nhưng không thể nhận được sự đón đợi của công chúng. Vậy để có một
tác phẩm trữ tình đích thực, trước hết phải khởi đi từ sự rung động của chính chủ
thể. Sự xuất hiện của cái tôi trữ tình là điều kiện cốt yếu của thơ trữ tình.
Từ những cơ sở lí luận nền tảng trên, tác giả luận án quan niệm cái tôi trữ tình
là biểu hiện của cách nhận thức và suy tư của chủ thể trước thế giới hiện thực; qua
những điểm nhìn nghệ thuật, thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Ở đây, cái tôi trữ tình được hiểu theo nghĩa rộng, là “bản chất chủ quan của thể loại
trữ tình” [152, tr.22]. Và bản chất của thơ trữ tình là sự hiện diện của cái tôi.
Cái tôi trữ tình và cái tôi tác giả có mối quan hệ thống nhất nhưng hoàn toàn
không đồng nhất. “Cái tôi trữ tình chỉ là sự hiện diện bộ mặt tinh thần của nhà thơ
trong những tác phẩm thơ ca” [46, tr.167]. Việc quy cái tôi trữ tình vào khuôn nghĩa
hẹp tương ứng với cái tôi tác giả hoặc gán ghép cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử sẽ
đưa đến một cách nhìn phiến diện về bản chất của cái tôi trữ tình trong thơ. Trong
thực tế sáng tác, tác phẩm và người sáng tạo quan hệ mật thiết. Có khi thơ chính là
âm bản, là hồn phách của người nghệ sĩ. Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ “dưới dạng
trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn
với cuộc đời riêng của người viết” [45, tr.73]. Nguyễn Trãi với nỗi lòng chồng chất
ở non nước Côn Sơn; Hồ Xuân Hương với kiếp lấy chồng chung; Xuân Diệu cùng
nhịp sống nôn nao, cuống quýt, vội vàng; Hàn Mặc Tử tủi phận trước tình đời hờ
hững hay một Lưu Quang Vũ lận đận với nỗi niềm bài hát ấy vẫn còn dang dở…
Nhà thơ mang thế giới riêng tư in vào trang viết. “Nhà thơ là nhân vật, là cái tôi, là
hình tượng trung tâm. Đọc thơ, chúng ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một, là
thống nhất” [86, tr.19]. Cái tôi trữ tình ở đây dường như chính là cái tôi nhà thơ.
Não nề đến rên xiết, cô độc đến trống rỗng, khát thèm đến đê mê… là cõi
riêng tây của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Trong đó, Đau thương là duyên phận lỡ làng
của đời thơ ông. Lỡ làng yêu đương, lỡ làng thân phận và cuộc phiêu diêu vào
mộng tưởng cũng lỡ làng. Ở đó, người thơ dấn thân vào tận cùng bi kịch bằng một
cái tôi mê dại. Xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là người tình tri kỉ, Hàn
Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái tôi trao phận vào cõi hư vô ắp đầy
ám gợi. Để tự giải thoát sượng sần thân xác. Để thỏa ẩn ức đời tư và bức bách hơn
là để chạm tới cạn sâu những ước vọng mà chủ thể không tìm thấy trong thực tại:
Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/ Cho ngây người mê dại đến tâm can (Rướm
máu). Không nén nổi cơn khát yêu mà trong ngắn ngủi cuộc đời, nhà thơ vắt kiệt
mình nếm trải. Vườn yêu trong cõi Hàn Mặc Tử dậy men tình mà cũng chật ních
rạn vỡ tái tê. Dự cảm đổ vỡ đón đợi người thơ ngay trong khoảnh khắc say sưa nhất
của ái tình, sẽ chán chường và sẽ chán chê (Tối tân hôn). Trải nghiệm đau thương là
đối mặt với định mệnh. Song tận sâu tâm thức Hàn Mặc Tử là sự cưỡng lại thân
phận. Say trăng, rượt trăng, chơi trên trăng hay ngủ với trăng âu cũng là sự phân
thân của cái tôi mê dại. Cái tôi đắm mình trong trăng đến hoang tưởng. Rượt đuổi
trăng mà viễn tưởng đến ái tình không xác thịt. Ngủ với trăng lại tưởng vọng đến
thổn thức, phập phồng niềm yêu đương… Không phải là sự quy chụp cuộc đời bệnh
tật của Hàn Mặc Tử vào thế giới nghệ thuật thơ của chủ thể, giữa cái tôi nhà thơ và
thế giới hình tượng thơ vẫn có một độ “vênh” nhất định. Sáng tạo thơ ca trước hết là
cái nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dẫu là cuộc đời thi sĩ đấy nhưng
chưa hẳn là đời, là tôi nhưng cũng không hoàn toàn là tôi. Song nếu không có một
Hàn Mặc Tử cô đơn giữa cõi người rộng rinh trong mặc cảm bệnh tật giày vò,
không có một Hàn Mặc Tử cồn cào khát sống thì sẽ không có Đau thương. Quả
thật, khi người thơ đóng dấu ấn đời tư vào tác phẩm, cái tôi trữ tình ít nhiều đều
mang bóng dáng của cái tôi tác giả như là sự phơi trải chính mình.
Cái tôi trữ tình có thể bộc lộ gián tiếp qua cảnh ngộ không phải của riêng mình
mà tác giả chỉ nói lên cảm nghĩ của mình về những cảnh ngộ, những sự kiện đó.
Lúc này, “cái tôi trữ tình là nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác” [45, tr.74]. Tây
Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu… là những trường hợp như thế. Hay cũng không ít tác phẩm viết về một
nhân vật trữ tình được xác định nào đó: Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Trần Thị Lý, Nguyễn
Văn Trỗi…, khi đó “nhân vật trữ tình của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình
của nhà thơ” [45, tr.74]. Đối với những trường hợp này, dù cái tôi nhà thơ không
bộc lộ trực tiếp song qua nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình vẫn tiềm ẩn. “Từ cảm
hứng chủ đạo đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn cần phải hiện diện. Chính cái khác
nhau của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca
khác nhau” [45, tr.74-75]. Như trong địa hạt thơ tình, người đọc luôn nhận ra sự
khác nhau, đa dạng của những lời “tự hát”: một Xuân Quỳnh giăng mắc dự cảm;
một Ý Nhi duyên thầm, trầm lắng; một Dương Hương Ly ngọt ngào, thao thức; một
Lê Anh Xuân mãnh liệt, chân thành…
Thơ là độc bạch mà cũng là đối thoại. Chừng nào có sự phân thân của tác giả
để nhập vai vào từng số phận - nhà thơ đồng nhất cảm xúc với khách thể được phản
ánh thì chừng đó xuất hiện cái tôi trữ tình. Ở không ít trường hợp, cái tôi trữ tình
không đơn thuần là cái tôi hóa thân vào đối tượng miêu tả, cũng không chỉ là cái tôi
nói hộ tiếng lòng người khác, tiếng lòng chung. Trước khi hóa thành cái tôi trữ tình,
người đọc nhận ra cái tôi của chính chủ thể đang bộc lộ cảm xúc, suy tư. Và dẫu là
trực tiếp hay gián tiếp thì sự xuất hiện của cái tôi trữ tình không thể đi ra ngoài cái
tôi chủ thể. Rõ ràng ở đây, “cái tôi trữ tình là cái tôi được nghệ thuật hóa” [45,
tr.74] nhưng không tách rời khỏi cái tôi nhà thơ mà thống nhất trong biểu hiện
phong phú của cái tôi chủ thể sáng tạo. Như chốn dừng chân cuối cùng của kiếp
người trở thành nỗi trở trăn không dứt trong hồn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có
phải nhà thơ mang nặng quá những dự cảm chia xa hay đó là nỗi lo sợ cõi đời vội
vàng đóng khép? Thế giới tâm linh, thế giới cõi âm rờn rợn... đều thành gần gụi như
thể tự đó con người tái sinh: Mai kia về ngủ trên đồi/ Nắng rải hoa vàng quanh chỗ
tôi/ Con chim sơn ca ngày thơ bé/ Nó bay về khóc mãi không thôi (Sinh nhật). Thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần chạm vào cái chết. Con người hiện sinh trong
ông dằn vặt quá nhiều với sự cô đơn đến trống rỗng. Đến nỗi thi sĩ ban cho mình
quyền được buồn như là một quan niệm nghệ thuật: Nỗi buồn là căn - nhà - ở - đời
của thơ. Nhà thơ nguyện gánh trên vai sức nặng của thiên chức nghệ sĩ, không trốn
chạy buồn sầu. Thậm chí, ngôi nhà ở đời cũng thành địa chỉ buồn, hoang lạnh như
nấm mồ vô chủ: Nhà tôi ở phố Đạm Tiên. Nhu cầu đối thoại, dù là đối thoại với
người cõi âm, vẫn giải tỏa được những khắc khoải, giằng xé trong đời sống nội tâm
chất chồng mâu thuẫn. Cũng như nhiều nhà thơ sau 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường
muốn dùng tiếng nói tâm linh để đến thẳm sâu bí ẩn tâm hồn con người. Không
chìm trong nỗi ám ảnh cái chết mà thi sĩ của cõi âm này chạm đến cái chết như là
đối tượng thẩm mĩ để tâm niệm về triết lí nhân văn từ sau thế giới tha ma nghĩa địa.
Chút tình nhân gian ủ ấm con người khi họ trở về nằm trong cát bụi, đó là cái còn
lại của kết cuộc một đời người. Còn niềm an ủi nào hơn thế: Món quà tặng sau cùng
đời dành cho anh/ Là nắm đất ủ nơi bàn tay bè bạn (Nói với bóng mình in trên
vách). Hay trước sự tạ từ, người thơ cũng cảm thấy chống chếnh và cô độc: Rồi em
vội vã ra đi/ Hân hoan, nồng thắm, xuân thì/ Và hoa tàn trong phút chốc/ Không
còn ai người để khóc/ Anh chết một mình đêm qua (Không đề). Thơ Hoàng Phủ
Ngọc Tường đau đáu trăn trở giữa sống - chết, nhất thời - vĩnh cửu... Chiêm nghiệm
cái chết, để được sống đầy với đoạn đời còn lại. Cái tôi thử đi đến cõi âm để quay
về chăm chút hơn nữa cho cuộc sống hiện tại. Song trong hồn thơ ấy, dường như
mọi thứ đều vô thường. Ở đó, không còn sân si, không còn thói đời phàm tục, chỉ có
tôi ngồi với bóng tôi. Trong một tác phẩm, người đọc thường tiếp xúc với tiếng nói
trữ tình hòa quyện của hai cái tôi như thế, có khi không thể phân biệt rạch ròi.
“Trong thế giới trữ tình, cái tôi nhà thơ tự biểu hiện và tự biến cải theo quy luật
sáng tạo thẩm mĩ để trở thành cái tôi trữ tình với một chất lượng khác, một tầm vóc
khác, mang tính khái quát hóa” [4, tr.40]. Sự gắn kết này chính là đặc trưng của cái
tôi trữ tình, góp phần thể hiện bản sắc thơ trữ tình.
Cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình cũng là một mối quan hệ thống nhất nhưng
không đồng nhất. Cái tôi là bản sắc trữ tình của chủ thể, là khả năng tự ý thức, tự
phân tích của chủ thể. Hay nói khác hơn, cái tôi trữ tình có chức năng thiết kế quan
niệm của chủ thể về chính mình, xây dựng hình tượng của chủ thể trữ tình. Cái tôi
trữ tình luôn ý thức thiết lập vị thế của mình trong thế giới nghệ thuật để chủ thể trữ
tình góp phần nhận thức thế giới. Như vậy, cái tôi trữ tình có thể xem là nguyên cớ
để chủ thể trữ tình tồn tại. Ứng với mỗi chủ thể là một dạng thức cái tôi trữ tình phù
hợp. Thơ mới 1932 - 1945, là thế giới riêng tư “càng đi sâu càng lạnh” của chủ thể
cá nhân, vì thế cái tôi trữ tình là cái tôi cá nhân với những nỗi niềm thân phận cô
độc, rợn ngợp, vội vàng… Trong khi đó, ở thơ 1945 - 1975, chủ thể trung tâm lại là
cộng đồng, dân tộc; vì vậy, cái tôi trữ tình mang cảm quan chủ đạo của giai cấp,
thời đại là cái tôi sử thi, cái tôi đặt trong cái ta: Ví phải mắc vào vành xiềng xích/
Đành cắn răng một chết không khai/ Chết là chết cái hình hài/ Sắt son một tấm
gương đời treo cao (Khương Hữu Dụng). Đến thơ sau 1975, với bản chất của thế
giới khách quan là bộn bề cuộc sống, là tầng lớp bi kịch riêng tư thì chủ thể trữ tình
lại là chủ thể cá thể; vì thế cái tôi trữ tình chủ yếu là cái tôi “phi sử thi” - cái tôi thế
sự, đời tư với khuynh hướng nhìn lại, nghiệm lại những nấc thang giá trị và nhìn lại
chính mình hay đó là cái tôi tự thú: Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt
sương/ Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Như vậy, cái tôi trữ tình là biểu
hiện cho yếu tính “động” của chủ thể. Ứng với mỗi chủ thể của từng thời đại, từng
giai đoạn văn học, cái tôi trữ tình mang diện mạo riêng, theo quy luật vận động và
phát triển. Cái tôi trữ tình thể hiện bản chất xã hội của chủ thể trữ tình. Việc phác
họa diện mạo chung của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận
động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 vì lẽ đó tạo cơ sở lí giải về
những dạng thức đặc trưng và những biểu hiện mới của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ
giai đoạn này; ngược lại đây cũng là minh chứng cho tính tất yếu của sự vận động
và phát triển của cái tôi trữ tình trong tiến trình thơ ca 1945 - 1975, qua đó thấy
được sự vận động, chiều hướng phát triển của đời sống thơ ca nói riêng và đời sống
văn học hiện đại nói chung.
1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình
1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại
Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thơ ca, bộc lộ tầm nhìn, cách
nghĩ về thế giới và con người; thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của nhà thơ; đồng
thời là một điểm nhìn nghệ thuật. Sự thể hiện cái tôi trữ tình xuất phát từ nhu cầu tự
khẳng định thế giới tư tưởng, tình cảm của chủ thể. Đây là một đặc trưng cơ bản của
cái tôi trữ tình. Như nhận định của Hegel, thơ trữ tình chân chính “phải mang dấu
ấn những tình cảm, những trực giác những biểu tượng hay những suy nghĩ của chủ
thể” [60, tr.1002]. Nếu không có quá trình nhận đường, không có hành trình đến với
mặt trời chân lí thì sẽ không có cái háo hức, ngỡ ngàng, bừng ngộ của hồn thơ Từ
ấy. Sẽ không có Thêm một (Trần Hòa Bình) nếu không có một chủ thể luôn thao
thức về những điều được - mất song hành trong đời… Chủ thể càng tự thức về mình
sâu sắc thì tác phẩm thơ trữ tình càng có chiều sâu.
Sự tự ý thức, tự biểu lộ của cái tôi trữ tình là cơ sở hình thành nên bản sắc
sáng tạo của người nghệ sĩ. Đây có thể xem là sự bộc lộ của cái tôi cá tính. Chính
biểu hiện này phân biệt phong cách nhà thơ. Thời đại Thơ mới, cái tôi cá nhân kiêu
hãnh bước vào vườn thơ lãng mạn. Nhưng mỗi hồn thơ là một cá tính sáng tạo, một
phong cách riêng biệt. Một Xuân Diệu đắm đuối, một Chế Lan Viên kì dị trong cõi
hư vô, một Huy Cận đơn côi trong cảm thức thời gian… làm xôn xao cung đàn thơ
1932 - 1945. Nền văn học kháng chiến gắn với cái tôi hòa trong cái ta thời đại, song
không thể lẫn một Phạm Tiến Duật ngông ngạo, đùa duyên với một Hữu Thỉnh đằm
sâu, da diết; một Ý Nhi thanh khiết, dịu dàng với một Lâm Thị Mỹ Dạ nồng nàn,
day dứt… Những bức chân dung đó được vẽ nên từ ý thức của cái tôi trong việc tự
nhìn nhận, đánh giá và cũng chính từ nhu cầu tạo dựng phong cách ở từng nhà thơ.
Người nghệ sĩ tìm đến thơ trước hết để được thỏa mãn đời sống nội cảm. Thế
giới quan của người sáng tạo không thể tách rời cái tôi trữ tình. Song đó không phải
là cái tôi đứng riêng lẻ, cái tôi cá nhân hẹp hòi. Cái tôi trữ tình cũng không bao giờ
chỉ nhằm biểu hiện mình. Ngay trong lời độc bạch là cả một xu hướng đối thoại. Dù
thế giới trữ tình là những điều riêng tây, cái tôi vẫn không hẳn chỉ viết ra cho mình.
Và cho dù cốt sáng tác chỉ để cho riêng mình thì tiếng thơ đó cũng động đến tâm
khảm nhiều người. Người đọc tìm thấy bóng dáng mình và được soi ngắm mình ở
đó. Điều này một phần lí giải vì sao có những tác phẩm thời chiến không được đón
nhận do đấy là những tiếng thơ tưởng rất riêng tư và xa lạ với mối bận tâm của hoàn
cảnh đất nước chiến tranh, sau một quá trình sàng lọc của thời gian lại tìm thấy chỗ
đứng của mình, lại hồi sinh trong lòng độc giả. Đây là đặc trưng xã hội, là nhu cầu
đối thoại của cái tôi trữ tình.
Cái tôi tất yếu phải chịu chi phối bởi môi trường xã hội. Sự tự thức của con
người suy cho cùng cũng vì muốn khẳng định mình trong mối quan hệ đó. Cái tôi
trữ tình là sự tự thức của chủ thể với người khác, với cộng đồng, với xã hội và với
chính mình. Tiếng Tự tình của Hồ Xuân Hương đâu chỉ là của riêng nữ sĩ. Đó là lời
đồng vọng của những thân phận phụ nữ không tìm thấy tri âm, đối mặt với tuổi
thanh xuân cô độc đến rợn người. Đây còn là lời đối thoại, thách thức của bao nhiêu
số phận đắng cay với cuộc đời, với xã hội u ám bấy giờ. Tiếng thở dài ai oán của
Phạm Thái cuối thế kỉ XVIII vừa là sự luyến tiếc xuân xanh, vừa là lời nguyền rủa
chế độ phong kiến thối rữa và đây cũng không chỉ là lời tự thán của mỗi cái tôi nhà
thơ: Ba mươi tuổi lẻ là bao tá/ Năm sáu đời vua thật chán ghê. Hay lúc tình yêu lên
tiếng, dẫu đó là tiếng lòng sâu kín nhất của con người, thì khi đi vào thơ cũng trở
thành cuộc hạnh ngộ của nhiều thân phận tình yêu. Tôi bật thốt với người và mọi
người tìm thấy mình trong tôi. Cái tôi trữ tình tự phát hiện mình, tự phân tích nhưng
ẩn trong bức chân dung tự họa đó là niềm mong tạo được kênh giao tiếp với thế giới
bên ngoài. Nghĩa là cái tôi không thể tách mình ra khỏi sự ràng rịt với chung quanh.
Chỉ khoanh cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử, đi tìm bản sao của đời thực ở tác
phẩm nghệ thuật sẽ đem lại cách nhìn phiến diện về đặc trưng của cái tôi trữ tình.
1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ
Cái tôi trữ tình tồn tại trong một thế giới nghệ thuật, thế giới của những giá trị
thẩm mĩ. Khi bước vào lãnh địa nghệ thuật, hiện thực đời sống được nâng lên một ý
nghĩa mới. Đất nước là ngôi nhà chung của con người nhưng mỗi nhà thơ lại có một
đất nước của riêng mình. Hình tượng đất nước ở mỗi cách nhìn mang một khuôn
mặt không lặp lại. Dưới cái nhìn tin yêu, hi vọng, đất nước gắn với những tầm cao,
những cửa gương hi vọng, là nơi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm; qua lăng
kính đổ vỡ, hẫng hụt, đất nước lại trở mình khó nhọc trong cõi lòng quặn đau của
cái tôi. Hay ở địa hạt thơ tình cũng thế, vẫn là một câu chuyện của muôn đời song
mỗi nhà thơ lại phát hiện trong thế giới riêng tư ấy những giá trị thẩm mĩ không
giống nhau. Khó ai biểu lộ tình yêu si dại, mê đắm, quấn quýt như Xuân Diệu
nhưng đó lại là một tình yêu diệu vợi, là thèm khát không thành, là ham muốn tột
độ, là nỗi buồn đeo đẳng. Còn với Xuân Quỳnh, tình yêu là máu thịt, là lời ru, là
tiếng thầm thỉ dỗ dành, là mái ấm, là bàn tay; là niềm khát yêu không thỏa; là quan
niệm hạnh phúc mong manh; là chênh vênh trong dự cảm. Giá trị thẩm mĩ ấy không
chỉ là “ý nghĩa tinh thần” của riêng đời sống nội tâm chủ thể mà đó còn là sự kết
tinh những giá trị văn hóa, lịch sử, thời đại. Tình yêu của Xuân Diệu đâu chỉ là niềm
hướng vọng không bao giờ đến đích mà đó còn là nỗi cô đơn, trống trải của cái tôi
một thời; là khát vọng thành thực của con người dẫu cuối cùng một thời đại của cái
tôi đã khép lại trong khoảng trống không thể lấp đầy. Ở Xuân Quỳnh cũng thế, đâu
chỉ là thổn thức trong nhiều cung bậc yêu thương, đâu chỉ là xốn xang rung động
của những trái tim yêu mà đó còn là quan niệm về hạnh phúc, về những khát khao
bình dị; là chiêm nghiệm... Cái tôi trữ tình ngoài nhu cầu tự bạch, đối thoại, còn là
một thực thể mang nhiều ý nghĩa tinh thần khái quát.
Cái tôi chỉ trở thành cái tôi trữ tình khi chủ thể có nhu cầu tạo kênh giao tiếp
với đối tượng tiếp nhận, nghĩa là phải có văn bản nghệ thuật. Cái tôi trữ tình được
biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, thông qua thế giới nghệ thuật ngôn từ.
Có thể xem cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật, ở đó những phương thức thể
hiện đều mang quy luật riêng. Hình ảnh thơ, chất liệu tạo nên thế giới hình tượng
nghệ thuật là thế giới giàu tính biểu trưng. Không - thời gian nghệ thuật là “hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Khi đi vào thế giới nghệ thuật văn chương,
chúng không còn nguyên chiều kích khách quan nữa mà đã được tạo dựng bằng sự
phong phú của các phương tiện nghệ thuật ngôn từ thông qua trạng thái cảm xúc
của chủ thể thẩm mĩ. Hay nói khác hơn, không gian và thời gian nghệ thuật được
tạo nên từ lăng kính của cái tôi trữ tình. Với điểm nhìn dịch chuyển trên nhiều chiều
không gian và thời gian, người nghệ sĩ có thể khám phá nhiều góc cạnh về con
người, về cuộc đời.
Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím ngát… (Đoàn Phú Tứ). Đây là
mảng màu từng làm xôn xao cung đàn thơ một thời quá vãng. Thi sĩ đã tạo nên một
gam màu đặc biệt của cảm xúc. Thời gian như nhuộm cái buồn thân phận. Và phải
chăng là định mệnh, vườn thơ mấy mươi năm sau lại hiện hữu một sắc trắng thời
gian đến não nề: Em ở đây không sớm không chiều/ Thời gian trắng, không gian
toàn màu trắng (Thời gian trắng - Xuân Quỳnh). Chủ thể trữ tình đã mất ý niệm
thời gian? Dòng đời vẫn trôi chảy, vậy mà em rơi vào cõi không sớm không chiều.
Hóa ra cái tôi trữ tình đang trải mình trong màu thời gian. Không phải màu thời
gian tím ngát thê thiết trong hồn thơ Đoàn Phú Tứ mà ở Xuân Quỳnh, thời gian não
nề sắc trắng. Cái tôi ngập chìm trong màu trắng tang tóc, lạnh lẽo - màu trắng của
cõi chết im lìm. Hay những hình tượng thời gian dự cảm, thời gian hồi sinh, thời
gian khát vọng… trong thế giới nghệ thuật thơ đều là sự thể hiện đa dạng của thời
gian tâm tưởng. Thời gian không còn thuần túy là thời gian hiện thực nữa mà có
khi trong thơ trữ tình đã xuất hiện kiểu thời gian đồng hiện. Trong thơ Lưu Quang
Vũ, con người thường được phát hiện ở chiều thứ tư của thời gian - đó là chiều của
đời sống tâm linh. Có thể thấy, hình tượng thời gian trong sự kết hợp đồng hiện quá
khứ - hiện tại - tương lai là nghệ thuật xây dựng thời gian đời tư, thời gian tâm
tưởng trong thế giới thơ Lưu Quang Vũ. Chính dòng thời gian đồng hiện này làm
cho con người đời tư bộc lộ tâm trạng trên nhiều chiều kích. Tưởng nhớ thì tưởng
nhớ đến quắt quay, âu lo thì âu lo đến ám ảnh, còn khao khát thì khao khát đến tận
cùng. Sự giao thoa của ba chiều thời gian như thế đã tạo trong thơ Lưu Quang Vũ
hình tượng thời gian mang chiều kích mới: quá khứ trở nên xưa hơn, hôm nay đã
đan cài đường vân của cái đang còn phía trước và nhất là tương lai lại ôm chứa cả
chiều xưa quá khứ và chiều sâu thực tại: Nắng đầu hạ chưa về/ mưa cuối xuân sắp
tạnh/ một cái gì mong manh, thấp thoáng/ đang bồn chồn chuyển động giữa không
gian (Em có nghe...).
Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật thể hiện trong thế giới
trữ tình với nhiều chiều kích mới. Ngay trong thời gian lịch sử xã hội đã mang cái
nhìn đa chiều của chủ thể trữ tình. Con đường là không gian nghệ thuật tiêu biểu
trong thơ Tố Hữu. Đó là con đường ra trận, con đường lớn, con đường của ánh sáng
và khát vọng… Cái tôi trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu được bộc lộ ấn tượng
trong những không gian như thế. Chính góc nhìn không gian đó góp phần khắc sâu
hơn bản sắc thơ Tố Hữu, ở đó cái tôi trữ tình chính trị là cái tôi chủ đạo. Hay cái tôi
đời tư của thơ hiện đại trải mình trong nhiều không gian, thể hiện được chiều sâu
nội cảm của chủ thể trữ tình. Đó là không gian hồi tưởng, không gian tái sinh,
không gian tiên cảm… Mỗi vùng không gian như thế phản ánh sâu sắc thế giới tinh
thần con người. Khi đối mặt với những vênh lệch đời tư, cái tôi đắm mình trong
không gian hồi tưởng. Khi hạnh phúc trở về, con người sống trong cảm thức không
gian tái sinh. Và khi niềm đau của quá khứ chưa thể nào lành hẳn, khi quá nâng niu
hạnh phúc có lại sau mất mát, cái tôi lại không yên với những khoảng trống hẫng
hụt đang đón đợi. Như vậy, đó là không gian tâm tưởng gắn với sự tự nghiệm về
bản thân hay đó là sự thức nhận của cái tôi về thế giới khách quan.
Thể thơ cũng là một sự lựa chọn có dụng ý của chủ thể sáng tạo, góp phần đắc
lực trong việc biểu hiện cái tôi trữ tình. Nguyễn Duy tìm đến lục bát như là một
cách làm mới bút pháp nghệ thuật từ chất liệu truyền thống. Hơi hướm dân gian phả
vào tác phẩm của nhà thơ thương mến đến tận cùng chân thật. Phạm Tiến Duật lại
xáo mình trong những vần thơ tự do. Đây là môi trường phù hợp nhất với một hồn
thơ dí dỏm, không chịu bó mình vào ràng buộc. Và thơ tự do cũng là sự lựa chọn
hiệu quả của rất nhiều cây bút thơ trẻ. Ở đó, cái tôi trữ tình thỏa sức trong những đề
tài giàu chất chính luận, đề tài thế sự đời tư. Thơ tự do cũng là mảnh đất đủ sức ôm
chứa hiện thực ngồn ngộn của thời đại thơ 1965 - 1975 và đặc biệt là thơ sau 1975
với muôn điệu đời thường. Mỗi thể thơ là hình thức nghệ thuật để cái tôi trữ tình thể
hiện mình.
Cái tôi trữ tình còn được biểu hiện thông qua chất liệu ngôn từ, yếu tố quan
trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà thơ nhọc
nhằn trong việc lựa chọn một nhãn tự hay trăn trở để tìm ra những lời thơ giàu sức
gợi. Ngôn từ nghệ thuật là một thế giới có quy luật riêng, thậm chí có những lí lẽ
riêng mà nếu đi tìm cái hữu lí của nó sẽ là việc làm vô lí. Bởi đó là quy luật của sự
sáng tạo, là cái lí của tâm hồn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác trong thơ là một
dẫn chứng. Huy Cận có một thời gian xa cách được đo bằng thời gian cảm giác:
Thuở chờ đợi thời gian ôi rét lắm. Trần Đăng Khoa như chạm vào được tiếng rơi
của chiếc lá, bằng cả sự rung động khẽ khàng trong tâm hồn: Tiếng rơi rất mỏng
như là rơi nghiêng. Hay nhiều cách dùng từ rất mới trong thơ cũng là sự thể hiện
cách cảm, cách nhìn độc đáo của cái tôi trữ tình đối với hiện thực. Ngay khi ngôn
ngữ của cuộc sống đời thường ồ ạt vào thơ thì đó cũng là thứ ngôn ngữ mang giá trị
thẩm mĩ, là khuynh hướng tăng cường chất tự sự trong thơ trữ tình. Và chính thế
giới nghệ thuật trần trụi của ngôn ngữ đời thường ấy lại là cái tạng của nhà thơ, làm
nên phong cách nghệ thuật tác giả. Tính chất này tạo nên những diện mạo mới cho
cái tôi trữ tình trong thơ hiện đại.
Cái tôi trữ tình còn biểu hiện mình ở sắc giọng khác nhau. Thăng - trầm, được
- mất trong tôi tạo nên những sắc giọng chồng chất. Cùng nếm trải tình yêu, song
mỗi cái tôi là một cung bậc. Hay ngay trong cái tôi, cũng là sự đan xen nhiều chất
giọng. Thơ tình đâu chỉ là tiếng nói dịu dàng đằm thắm, đâu chỉ là chất nồng nàn sôi
nổi, cũng đâu chỉ có đắm đuối mê say mà còn là phấp phỏng âu lo, là ngóng đợi, là
thổn thức, giằng xé, đớn đau… Mỗi cái tôi trữ tình lại là một cung âm không lẫn,
góp phần chủ yếu tạo nên sự đa dạng của cái tôi trữ tình, tạo nên nhiều phong cách
nghệ thuật thơ. Trong đó giọng điệu chủ đạo là sự thể hiện đậm nét nhất cá tính
sáng tạo của người nghệ sĩ.
Tồn tại trong thế giới nghệ thuật, đặc trưng thẩm mĩ của cái tôi trữ tình còn
được thể hiện ở những phương thức nghệ thuật khác. Một chỉnh thể nghệ thuật với
hình thức biểu đạt càng phong phú càng góp phần khắc họa sinh động dạng thức cái
tôi trữ tình. Đây là hệ quả tất yếu của sự kết hợp hài hòa giữa nội dung trữ tình và
hình thức trữ tình của thơ ca.
1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của
cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975
1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại
Đời sống thơ Việt Nam 1965 - 1975 đã có những chuyển mới với một lực
lượng sáng tác trẻ ở những vùng thơ khác nhau (Các cây bút miền Bắc và vùng giải
phóng: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lưu Quang Vũ, Phạm
Ngọc Cảnh, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Ý Nhi,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Dương
Hương Ly, Thu Bồn; các cây bút vùng tạm chiếm miền Nam gồm cả đội ngũ “viết
trên đường tranh đấu” - phần lớn là lực lượng học sinh sinh viên sáng tác trên “trận
địa đường phố”: Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Đông
Trình, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Văn Phụng, Tần Hoài Dạ Vũ, Bùi
Chí Vinh… và cả một bộ phận nhà thơ nằm ngoài dòng chủ lưu của văn học cách
mạng, với ngòi bút khơi sâu vào bi kịch thân phận con người: Thanh Tâm Tuyền,
Nguyên Sa, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ, Trần Dzạ Lữ, Đynh Hoàng Sa, Lê Ký
Thương, Đynh Trầm Ca, Lê Nhược Châu, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Nguyễn Phan
Thịnh, Trần Thúc Vũ, Nguyễn Tất Nhiên…). Chính những diễn đàn báo chí của
miền Nam bấy giờ như Đối diện, Đứng dậy, Khởi hành, Sáng tạo, Tin văn, Văn, Ý
thức... là môi trường sáng tác chủ yếu để các cây bút vùng tạm chiếm miền Nam thể
nghiệm và bộc lộ được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ; bước đầu tập hợp cho thơ
1965 - 1975 một lực lượng cầm bút có những nét riêng trong quan niệm nghệ thuật,
khuynh hướng sáng tạo, tư duy nghệ thuật.
Bước vào đời sống văn học từ những vùng đất khác nhau của Tổ quốc, lực
lượng sáng tác mới này đã dốc hết mình trong cuộc chạy tiếp sức của lịch sử thơ ca,
mang sắc diện riêng của một thời đại. Đó là lớp nhà thơ trẻ - một sự hợp thành có
vẻ ngẫu nhiên song lại rất biện chứng của ba mảnh ghép: miền Bắc, vùng giải
phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. “Không thể nào nói tới sự tiến bộ, sự phát
triển của một nền văn học nếu như một thế hệ nhà văn trẻ đã không đủ tư cách, tài
năng để thay thế được những bậc cha anh họ và đã không mang trong mình những
nhân tố mới” [243, tr.105]. Chính sự xuất hiện của một thế hệ thơ trẻ đã dẫn đến sự
ra đời của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Như vậy, có thể quan niệm thơ trẻ là sáng
tác của lớp nhà thơ trẻ - được xem như là một thế hệ thứ ba, tiếp nối thế hệ nhà thơ
tiền chiến và thế hệ nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp. Cần nói thêm rằng, thơ
trẻ ở đây không còn được hiểu với tư cách một khái niệm cũ thường được dùng để
chỉ sáng tác của đội ngũ nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong thời chống Mỹ,
thấm nhuần lí tưởng cách mạng theo phần lớn quan điểm đánh giá hiện tượng văn
học này. Thơ trẻ ở đây đã được tiếp cận với nội hàm được mở rộng, trước hết, nhìn
từ phương diện vùng sáng tác. Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 bao gồm sáng tác của
các bộ phận nhà thơ thuộc cả ba vùng: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm
chiếm miền Nam. Việc nhận diện phạm vi của đối tượng khảo sát được mở rộng
như thế cũng là một cách vượt qua áp lực của những quan điểm trước đây khi nhìn
nhận về hiện tượng thơ trẻ này; vì thế sự cố gắng làm mới một khái niệm cũ chắc
hẳn không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc lí giải thật thấu đáo thuật
ngữ. Từ thực tế này, khi chọn đối tượng nghiên cứu của đề tài là thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975 với tính chất tương đối của khái niệm thơ trẻ, tác giả luận án rất mong
nhận được sự đồng tình, sẻ chia từ phía người tiếp nhận.
Thế hệ thơ trẻ được hiểu là thế hệ nhà thơ với chất trẻ của lứa tuổi hai mươi,
ba mươi bước vào sáng tác. Đây là một lực lượng sáng tác phần lớn xuất hiện và
trưởng thành trong cùng một hoàn cảnh của thời đại - những năm chiến tranh
chống Mỹ. Thơ trẻ vừa có chất trẻ của lứa tuổi, vừa có chất trẻ trong suy nghĩ,
trong cảm xúc, trong tư duy nghệ thuật và cụ thể là trong cách chiếm lĩnh và phản
ánh hiện thực. Mười năm chiến tranh ngột ngạt mùi lửa đạn đã tạo nên chất liệu
nghệ thuật mới cũng như tác động đến khuynh hướng sáng tác thơ 1965 - 1975. Đó
là sự xuất hiện của một lớp nhà thơ với lí tưởng thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật, quan
niệm nghệ thuật phong phú. Họ cùng tìm đến thế giới nghệ thuật như một sự tự
nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình hài của đất nước, của nhân
dân, thời đại hay tự nghiệm về thế giới đời tư phức tạp của con người. Phải nói, thế
hệ thơ trẻ đã khẳng định “tiếng nói đặc sắc của riêng lứa tuổi trẻ mà những thế hệ
nhà thơ trước không thể nói thay được” [74, tr.93]. Thật vậy, điều đáng ghi nhận
của thế hệ thơ trẻ là khả năng khám phá tinh tế, từ những điều bình thường của cuộc
sống và nâng những điều tưởng rất đỗi bình thường ấy lên thành vấn đề mang ý
nghĩa khái quát “được đúc kết thông qua tâm trạng sinh động của một lớp người với
mọi suy nghĩ, cảm xúc vui buồn, mọi yêu thương, kỉ niệm, mơ ước, mọi gian khổ,
mất mát, mọi tình huống, hoàn cảnh sống” [74, tr.95]. Với tư thế người trong cuộc,
họ mang vào sáng tác những mảng hiện thực “tươi nguyên sự sống”. Có thể khẳng
định, chất liệu cơ bản nhất của thơ trẻ là hiện thực tươi rói.
Cũng như những nhà thơ lớp trước, thế hệ thơ trẻ dám đối mặt với hiện thực
chiến tranh, như lời bộc bạch của Hữu Thỉnh: “Như là sự sắp đặt của lịch sử, về sau
này, hành trình thơ của chúng tôi cũng giống các anh. Bối cảnh thì khác, quy mô và
tính chất ác liệt cũng khác, nhưng tinh thần dấn thân và hành động vẫn là một”
[209, tr.7]. Tuy nhiên so với thế hệ trước, thế hệ thơ trẻ không thiên về “bình luận”
chiến tranh mà họ “trình bày” cuộc chiến tranh, khốc liệt và trần trụi như nó vốn có.
Đối với một số cây bút, chiến tranh còn được nhìn ở mặt khuất lấp, mặt trái và thậm
chí bi kịch chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong tư duy nghệ thuật
của các cây bút trẻ, nhiều nhất tập trung ở lớp nhà thơ trong vùng tạm chiếm miền
Nam mà với họ, số phận cá nhân mới là mối bận tâm lớn nhất. Các nhà thơ lớp
trước cũng viết về cái riêng - chung, về Tổ quốc trong sự gắn kết với lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc. Họ đã phản ánh tầm vóc thời đại và ý nghĩa nhân loại của
cuộc chiến tranh, tuy nhiên cách cảm, cách nghĩ ấy dường như vẫn để lại một
khoảng trống trong nhu cầu nhận thức và tình cảm của độc giả. Thấp thoáng trong
những phong cách thơ ấy là sự lặp lại những thực tế, thậm chí những nếp nghĩ đã
thành quen thuộc, cũ mòn. Người đọc vẫn khao khát, đón đợi sự xuất hiện của lớp
nhà thơ “trực tiếp cầm súng, thật sự xông vào nơi mưa bom bão đạn, từng giờ từng
phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói về mình và đồng đội của
mình...” [107, tr.347]. Với tâm thế làm thơ ghi lấy cuộc đời mình, lớp nhà thơ trẻ
thực sự lấy nét thật của cuộc sống làm vẻ đẹp tự thân của thế hệ mình, chối từ
những trang sức vốn làm cho cuộc sống đẹp lên, đẹp mà gượng gạo. Họ “góp tiếng
nói của lứa trẻ, tâm hồn trẻ, con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn cái cụ thể của đời…” [14,
tr.65] từ ý thức vượt mình trong sáng tạo nghệ thuật: muốn tươi mát hãy tự là dòng
suối/ hát về mình đừng bắt chước tiếng chim (Hữu Thỉnh). Thế giới nghệ thuật thơ
trẻ là sự tự nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình hài đất nước,
nhân dân. Khuynh hướng này đã tạo nên một âm hưởng mới của thời đại. Bên cạnh
đó, thơ trẻ 1965 - 1975 còn có lối rẽ bên cạnh dòng chủ lưu của thơ ca cách mạng,
mang cảm thức phi sử thi trải nghiệm nỗi đau chiến tranh và tự nghiệm về thế giới
đời tư phức tạp của con người.
Những tráng ca thuở trước/ còn hát trong sách thôi (Thanh Thảo). Tuyên
ngôn nghệ thuật này cũng là hiện thân chất trẻ của thơ 1965 - 1975, từ ý thức tìm
kiếm những thể thức biểu hiện phù hợp và ôm chứa được bản chất của hiện thực
cuộc sống bấy giờ. Với cuộc sống ắp đầy không khí chiến tranh, các nhà thơ trẻ
luôn cảm thấy không thể chỉ khuôn mình vào những hình thức nghệ thuật truyền
thống như là một sự mô phỏng. Họ luôn đặt trách nhiệm của người nghệ sĩ trong sự
sáng tạo ngôn từ, dẫu đó có khi chỉ là sự làm mới những hình thức nghệ thuật quen
thuộc. Chẳng hạn từ phương diện thể loại, không chỉ đến thời này, trường ca và thơ
tự do mới được lựa chọn. Song đến lượt mình, lớp nhà thơ trẻ đã có những sáng tạo
nhất định: mở rộng điểm nhìn của chủ thể trữ tình trong trường ca từ triết luận cao
cả đến suy tư, day dứt đời thường. Sáng tạo ngôn từ nghệ thuật còn thể hiện ở
khuynh hướng tăng cường yếu tố khẩu ngữ và văn xuôi cho thơ tự do vốn đã là
“cuộc xâm lăng” từ Thơ mới, nay càng thực sự “tự do” để vừa vặn với dung lượng
hiện thực ngồn ngộn, vừa vặn với sự phóng túng của một số cây bút trẻ trong việc
tái dựng những mặt gồ ghề của cuộc sống. Đây còn là sự hòa phối nhiều cung bậc
giọng điệu, cốt để diễn tả đến sâu cùng thanh âm, ngữ điệu phức tạp của cuộc sống
thời chiến. Tất cả tạo nên chất trẻ của một thế hệ, một giai đoạn thơ ca.
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ

More Related Content

What's hot

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
nataliej4
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
nataliej4
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
nataliej4
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdfTho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Man_Ebook
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
nataliej4
 

What's hot (20)

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdfTho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
 

Similar to Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ

Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.docHình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
KhoTi1
 
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
nataliej4
 
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đLuận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
nataliej4
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
jackjohn45
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
jackjohn45
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtĐề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Maloda
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
nataliej4
 
minh chau.pdf
minh chau.pdfminh chau.pdf
minh chau.pdf
QucTrngTrn2
 
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quêLuận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ (20)

Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.docHình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
Hình Tƣợng Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Việt Nam Giai Đoạn 1955 - 1965.doc
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
 
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
 
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đLuận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
Luận văn: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay, HAY, 9đ
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận văn: Thơ Bùi Chí Vinh trong bối cảnh thơ Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
 
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtĐề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
 
minh chau.pdf
minh chau.pdfminh chau.pdf
minh chau.pdf
 
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
 
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quêLuận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
 
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
Luận văn: Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh Luận án TS. N...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CNGTRC3
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
LngHu10
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
thanhluan21
 

Recently uploaded (11)

Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 

Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI BÍCH HẠNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP. Hồ Chí Minh - 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI BÍCH HẠNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ TP. Hồ Chí Minh - 2012
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả luận án. Kết quả nghiên cứu không sao chép từ bất kì một công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự này. Tác giả Bùi Bích Hạnh
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 5 MỤC LỤC ........................................................................................ 6 MỞ ĐẦU........................................................................................... 8 1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................8 2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................8 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................9 4. Lịch sử vấn đề..............................................................................................9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................17 6. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................17 7. Những đóng góp mới.................................................................................18 8. Cấu trúc luận án........................................................................................18 CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975- MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT................... 19 1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình................................................................19 1.1.1. Cái tôi .........................................................................................................19 1.1.2. Cái tôi trữ tình............................................................................................24 1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình................................................................30 1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại....................................................30 1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ..............................................31 1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.........................................36 1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại...........................36 1.3.2. Diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.................................40 CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN ...... 59 2.1. Cái tôi sử thi............................................................................................59 2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân .............................................60 2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung...............................70
  • 5. 2.2. Cái tôi sử thi biến thể.............................................................................84 2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm về thơ.....................................................85 2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ................................................................90 2.3. Cái tôi phi sử thi .....................................................................................98 2.3.1. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh.......................................................99 2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư.............................................................113 Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 - 1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN..................... 132 3.1. Trường ca và thơ tự do........................................................................132 3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư.......................133 3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần .............................................................................................................................144 3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi......................................................160 3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực..........161 3.2.2. Yếu tố văn xuôi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường................................165 3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp ..........................................................169 3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích........................................170 3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén...............................................176 3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu..................................................................182 3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng..........................................................................183 3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin ...........................................................................185 3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn....................................................................189 3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm.................................................................................193 KẾT LUẬN .................................................................................. 198 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 201
  • 6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hoàn cảnh đất nước Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ với hiện thực chiến tranh khốc liệt đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Nếu như tiếng rít gầm hãi hùng của chiến tranh làm tổn thương đời sống nội cảm con người thì tiếng thơ 1965 - 1975 là đất cựa mình sầm sịch trong khuya (Nguyễn Duy), là cuộc đời như sắp sửa đi xa (Lưu Quang Vũ), là những vành môi khát sữa, những bước nhớ lang thang (Trần Quang Long), là những bát cơm không đủ níu lòng (Trần Phá Nhạc)… Thơ trẻ 1965 - 1975 là hiện tượng văn học mang lại cho thơ Việt Nam 1945 - 1975 những khuôn diện mới, trước hết nhìn từ khía cạnh cái tôi trữ tình. Nếu quan niệm “văn chương là một tiếng gọi” [173, tr.63] thì thơ trẻ 1965 - 1975 sẽ còn vẫy gọi tầm đón đợi của người tiếp nhận. Với nguyện ước làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh), một lớp nhà thơ - thế hệ thơ trẻ - đối mặt với chiến tranh, nếm trải bi kịch chiến tranh. Họ đến với thơ bằng trái tim tự nguyện của lớp tuổi hai mươi, ba mươi. Sống trong nỗi đau giằng xé, mất mát, các nhà thơ khát khao tự họa chân dung thế hệ từ âm bản hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Hơn nữa, với cái nhìn “cuộc sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người”, một bộ phận sáng tác thậm chí bóc trần những thân phận bi kịch thời chiến. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 có thể được xem là bản tự thuật đa giọng điệu, góp phần làm sinh động diện mạo thơ Việt Nam 1945 - 1975. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là con đường tiếp cận khơi sâu vào bản sắc của thơ trẻ. Việc xác định những dạng thức của cái tôi trữ tình là nhằm khái quát hệ thống quan điểm thẩm mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh hiện thực của nhà thơ; trên cơ sở đó, khẳng định bản sắc của thơ trẻ giai đoạn này. Đồng thời, luận án đi sâu khám phá những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong xu hướng vận động để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, bối
  • 7. cảnh đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ..., cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 mang diện mạo riêng. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nếu thơ trẻ miền Bắc khẳng định được vị thế trong nền thơ cách mạng và thơ trẻ vùng giải phóng đã tạo được nhiều phong cách riêng thì ở thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, phải kể đến sự góp mặt của những cây bút “viết trên đường tranh đấu” cùng một lớp nhà thơ không đứng trong dòng chủ lưu của văn học cách mạng, thậm chí chỉ được xem là bộ phận “bên kia chiến tuyến”. Luận án xác định đối tượng thơ trẻ ở miền Bắc, ở vùng giải phóng và ở vùng tạm chiếm miền Nam, tạo nên cái nhìn toàn cảnh về thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này. Qua đó, luận án khẳng định sự đa dạng của cái tôi trữ tình, vốn là yếu tố căn cốt hình thành nên bản sắc thơ trẻ giai đoạn này; đồng thời góp phần khôi phục khuôn mặt đa diện của thơ Việt Nam 1945 - 1975. 4. Lịch sử vấn đề 4.1. Thơ 1965 - 1975 tạo nên một vị trí xứng đáng trong dòng chảy của thơ Việt Nam 1945 - 1975, thu hút nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình. “Tập trung vào chủ đề đánh Mỹ, thơ chống Mỹ rất chính trị, nhưng lại là một thứ chính trị tự nhiên, nằm ngay trong đời sống, không lên gân, không giả tạo” [208, tr.137]. Và đây cũng chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của thơ giai đoạn này, đặc biệt là sáng tác của thế hệ cầm bút trẻ. Không ít công trình nghiên cứu, phê bình nhận định, đánh giá sự xuất hiện của thơ trẻ thời chống Mỹ như là một bước chuyển mình đáng kể của văn học cách mạng vốn đã tạo được hương sắc riêng từ thế hệ các nhà thơ lớp trước. Biểu hiện của cái tôi trữ tình, một trong những đóng góp đáng kể của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, trở thành vấn đề nghiên cứu được quan tâm, trong đó hầu hết nêu nhận định về đặc điểm cơ bản của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ. Trong bài viết “Đội ngũ nhà văn trong chiến tranh chống Mỹ”, Ngô Thảo nhận định về tâm thế mới của cái tôi thơ trẻ chống Mỹ: “Lớp trẻ vào thơ chống Mỹ không còn phân vân đo đếm tỷ lệ “riêng - chung”, “tôi và chúng ta” trong tác
  • 8. phẩm… Họ không khoác cho tác phẩm tấm áo đồng phục hay mảnh dù ngụy trang” [199, tr.257]. Cũng nhận định về cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Vị trí số một của nhân vật trữ tình trong thơ thời chống Mỹ là một cái Ta. Cái ta lấn át cái tôi”. [197, tr.189]. Từ đó, tác giả khẳng định “Đến giai đoạn chống Mỹ, cái tôi trữ tình thật sự trở thành cái tôi phương tiện, cái tôi chứng kiến sự vận động của lịch sử. Thời kỳ chống Mỹ, cái tôi trữ tình có mờ nhạt đi” [197, tr.191]. Theo Nguyễn Bá Thành, “Xu hướng ẩn khuất của cái tôi trữ tình ngày càng thể hiện rõ trong thơ chống Mỹ ở giai đoạn sau. Nhất là trong loại thơ suy tưởng, chính luận, thơ đánh giặc” [197, tr.193]. Một mặt nhà nghiên cứu này nêu lên đặc trưng của cái tôi trữ tình thơ chống Mỹ, mặt khác chỉ ra sự nhòe mờ, ẩn khuất của cái tôi trữ tình giai đoạn này. Trong bài viết “Về một đặc điểm của thơ 1955 - 1975”, Trần Đăng Xuyền khẳng định “cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước không cho phép con người nghĩ đến cái tôi cá nhân riêng tư, nhất là cái cá nhân ấy lại đối lập, cản trở cái chung của cộng đồng, của toàn dân tộc (...) Nỗi đau của cái tôi riêng tư hòa vào nỗi đau chung của toàn dân tộc” [33, tr.259]. Tiếp nối hướng khai thác của các nhà nghiên cứu trước về diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975, trong “Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương diện vận động của cái tôi trữ tình), Vũ Tuấn Anh đã khái quát sự vận động, phát triển cũng như rút ra được những dạng thức biểu hiện chính của cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng, từ cái tôi trữ tình yêu nước - kháng chiến (1945 - 1954), cái tôi ngợi ca cuộc sống mới (1954 - 1964) đến sự phát triển đỉnh cao của cái tôi trữ tình công dân (1964 -1975). Vũ Tuấn Anh nhận định thơ chống Mỹ là “giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của cái tôi trữ tình công dân để trở thành cái tôi khái quát, cái tôi tập hợp, cái tôi nhân danh cái Ta dân tộc và Thời đại” [4, tr.124]. Xuất phát từ nhận định đó, tác giả xác định hai dạng thức biểu hiện cơ bản của cái tôi thơ chống Mỹ là “cái tôi sử thi” và “cái tôi thế hệ”. Với tâm thế cái tôi sử thi, tiếng nói của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ trẻ chống Mỹ “có sức âm vang của hàng ngàn giọng nói, có sức thuyết phục của chân lý phổ quát” [4, tr.126]. Vũ Tuấn Anh nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cái tôi - cái ta như là một sự thể hiện nhất
  • 9. quán của cái tôi sử thi, đồng thời cũng nhận dạng một kiểu cái tôi trữ tình chủ yếu thuộc vào lớp nhà thơ trẻ, “thể hiện cách nhìn, cách cảm riêng của một lứa tuổi trẻ gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến tranh, với những gian lao, hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [4, tr.137]. Chính sự xuất hiện của “cái tôi thế hệ” đã tạo nên tư thế trữ tình mới của thơ 1945 - 1975: là độc thoại, đối thoại với thế hệ mình - “Cái tôi thế hệ, bằng cách chiếm lĩnh hiện thực riêng, là sự tăng cường và bổ sung quý báu phẩm chất hiện thực cho nền thơ chống Mỹ” [4, tr.140]. Lê Lưu Oanh, trong “Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)”, đề cập đến đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, nhằm so sánh với biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975. Chuyên luận đặt những dạng thức của cái tôi sử thi tương ứng với kiểu nhà thơ hiện thực cách mạng, từ đó cho rằng “vị trí chủ yếu của con người trữ tình là vị trí của cái tôi xã hội, cái tôi công dân mang một sinh khí mới mẻ, mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ tuyên bố rời bỏ cái tôi cá nhân, để cái riêng tư hòa lẫn trong cái chung” [152, tr.74]. Trường Lưu lại so sánh: “Cái tôi mà phần lớn lớp nhà văn trước Cách Mạng Tháng Tám đã đấu tranh vất vả khi thể hiện những con người và xóm làng trong kháng chiến chống Pháp, thì giờ đây đã nhuần nhuyễn hòa vào cái ta, cái chúng ta chung của cảm nghĩ dân tộc” [97, tr.98]. Trong khi đó, Vũ Văn Sỹ lại cho rằng: “Một trong các hình thức tồn tại ước lệ của cái tôi nhân chứng, khiến ta nhận diện một cách dễ dàng, đó là hình thức nhân vật xưng tôi đứng ra trần thuật. Cái hình thức trần thuật như vậy không chỉ là kinh nghiệm thơ ca, mà còn là nội dung nghệ thuật, một hình thức biểu hiện của con người mang dấu ấn thẩm mĩ lịch sử” [183, tr.134]. Từ đó, Vũ Văn Sỹ khẳng định: “Trong quá trình vận động của lịch sử thơ ca, chữ “tôi” nhân xưng trần thuật ngày càng biến hóa đa dạng ở lớp nhà thơ chống Mỹ, gắn với những cá tính thơ khác nhau như Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo (…) tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về chữ “Tôi” của thơ trữ tình Cách mạng” [183, tr.135]. Đây là vấn đề được luận án tiếp tục làm sáng rõ khi khám phá bản chất cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Hữu Thỉnh khẳng định “nhập cuộc và hành động là vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến” và
  • 10. cho rằng đấy là tâm thế hình thành nên một lớp thi sĩ kiểu mới trong thơ kháng chiến, “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8]. Cùng hướng khai thác với Vũ Tuấn Anh, trong “Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nguyễn Văn Long cũng cho rằng cái “tôi” sử thi và cái “tôi” thế hệ là hai dạng thức tiêu biểu của cái tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, trong đó cái tôi thế hệ “thống nhất với cái “tôi” sử thi và có thể coi là một biến thể, một dạng độc đáo và cụ thể của cái “tôi” sử thi” [92, tr.112]. Theo Nguyễn Văn Long, “cái “tôi” sử thi trong thơ thời kì chống Mỹ tuy rất thống nhất nhưng không đơn điệu, không hoàn toàn thủ tiêu cái “tôi” của tác giả, vì thế bản sắc, cá tính của mỗi nhà thơ vẫn có chỗ để bộc lộ, phát huy” [92, tr.112]. Nguyễn Văn Long cảm nhận: “từ cái náo nức, say sưa với cảm hứng của buổi đầu, đến sự trải nghiệm với nhiều suy tư, trầm tĩnh trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, cái “tôi” của thơ trẻ muốn tìm cho mình một tiếng nói trầm tĩnh, trực tiếp, thậm chí đến trần trụi, chối bỏ những gì hoa mĩ và sáo mòn trong thơ” [92, tr.114]. Bài viết “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ trong chiến tranh giải phóng” của Lê Thị Bích Hồng cũng góp phần khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình, trong đó có những nhận định khá xác đáng trên tinh thần phát triển thành quả nghiên cứu của người đi trước: “Chữ tôi trong thơ mang một tâm thế hoàn toàn mới mẻ. Đó là cái tôi chung, cái tôi cộng đồng, cái tôi giai cấp, cái tôi thế hệ. Có lúc thơ phải bằng lòng một sự phiến diện để yên lòng người đánh giặc” [66, tr.15]. Tuy nhiên, biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 được các nhà nghiên cứu đặt trong quá trình vận động của cái tôi trữ tình trong tiến trình văn học cách mạng, vì thế vẫn chưa phải là một cách nhìn nhận toàn diện về diện mạo cái tôi trữ tình. Xem cái tôi trữ tình như một biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chống Mỹ, Trần Đình Sử đánh giá: “Con người của văn học mười năm cả nước đánh Mỹ vẫn là con người chính trị và dân tộc, con người của sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, vì tập thể” [130, tr.68] và theo Trần Đình Sử, “chiến tranh dầu ở đâu cũng là một hoàn cảnh bất thường, và gương mặt con
  • 11. người trong chiến tranh thường là gương mặt đau thương, nghị lực và ý chí” [130, tr.73] nhưng các nhà thơ “tránh nói những gì đau thương mất mát” [130, tr.73]. Đây cũng là một gợi ý để tác giả luận án có cơ hội tìm tòi, suy ngẫm thêm về những biểu hiện khác nữa của cái tôi trữ tình trong thơ 1965 - 1975, ở đó người nghệ sĩ không hề lảng tránh bi kịch chiến tranh. Đứng từ góc nhìn cái tôi trữ tình gắn với ý thức khẳng định bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ, theo Vũ Văn Sỹ, “Những nhà thơ xuất sắc của thế hệ chống Mỹ như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… đều là những cây bút đã chạm khắc được rõ nét chân dung tinh thần của mình, đồng thời cũng là của thế hệ mình vào những mảng sự kiện và biến cố lịch sử” [183, tr.115]. Nhìn một cách tổng thể, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã được đề cập đến ở một vài góc độ trong các công trình nghiên cứu về thơ chống Mỹ, tuy nhiên, phần lớn chỉ tập trung khái quát nên một số dạng thức cơ bản và có tính chất phổ quát của cái tôi trữ tình, đó là cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ. Ở công trình luận văn Thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ”, tác giả luận án cũng đã nhận thấy trong thế giới nghệ thuật thơ ấy, có biểu hiện của cái tôi thế sự, đời tư - cái tôi dằn vặt, nhìn thấu vào chiều đau xót bi thương của chiến tranh hay cũng có cái tôi cô đơn đến tuyệt vọng, chông chênh trong chuỗi bi kịch vụn vỡ của tình yêu. Lưu Quang Vũ một mình lặng lẽ trở về góc riêng dành cho những điều bình thường mà cả dân tộc đang bận rộn với nhiều điều lớn lao, thiết thực hơn dường như đã bỏ quên và dừng lại ở thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ, hẳn chúng ta sẽ ngẫm ngợi được nhiều điều trăn trở của cái tôi giữa cõi riêng tư thăm thẳm. Như vậy, dù không phải là một dạng thức phổ biến nhưng trong thơ trẻ thời chống Mỹ, không thể khuyết sự thể hiện sâu sắc của cái tôi trữ tình đời tư, vốn là một đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình sau 1975. Việc khảo sát dạng thức này cũng là một trong những mục đích nghiên cứu của luận án. Đến gần đây, với chuyên luận “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Lê Thị Bích Hồng nhận diện bên cạnh cái tôi sử thi và cái tôi thế hệ, còn có cái tôi phi sử thi - vốn là một dạng thức hiện hữu trong thơ chống Mỹ những năm cuối chiến tranh: “Con người một mặt vừa chịu áp lực sử
  • 12. thi, một mặt lại trở về với cái tôi nhân bản. Thơ chống Mỹ đã góp một thành tựu trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi” [68, tr.118]. Đây là một dạng thức cái tôi mà hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình trước đây gần như không bàn đến, hoặc chỉ khẳng định đó là diện mạo cái tôi trữ tình của thơ sau 1975, khi cuộc sống dần trở lại những quy luật bình thường, con người phải đối mặt với bao nhiêu biến động của xã hội. Lúc đó, cái tôi cá nhân mới thực sự bừng tỉnh, “trở về những giá trị truyền thống nhân bản” [4, tr.174]. Lê Thị Bích Hồng khẳng định: “Thật ra, cái tôi nhìn theo số phận cá nhân đã có mặt ngay trong thời điểm chiến tranh” [68, tr.108]. Tác giả chuyên luận này cũng đã tập trung vào chủ yếu hiện tượng thơ Lưu Quang Vũ; bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến một số cây bút “bên kia chiến tuyến” ở các đô thị miền Nam khi đề cập đến xu hướng chiến tranh nhìn từ sự mất mát, hi sinh. Bên cạnh những công trình mang tính chất nhận định về diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, còn một số bài viết đi vào khảo sát phong cách nghệ thuật của thơ trẻ, ít nhiều cũng đề cập đến một vài nét biểu hiện của cái tôi trữ tình. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu mới dừng lại phác thảo một số dạng thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ một cách khái quát hoặc chỉ dừng lại khảo sát chân dung cái tôi trữ tình trong một số ít hiện tượng tiêu biểu. 4.2. Một số bài viết như: “Thơ miền Nam, tiếng hát của quê hương” (Tế Hanh - Khái Vinh), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ ở miền Nam” (Bùi Công Hùng), “Thơ ca chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam 1954 - 1970” (Phạm Văn Sĩ)… đã đề cập đến tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác của thơ trẻ miền Nam. Song hầu hết chỉ mới dừng ở mức độ giới thiệu, khái lược, chưa đi sâu nhận diện bản chất của cái tôi trữ tình. Đối với các nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, giới nghiên cứu phê bình dành không ít sự quan tâm. Bàn về tư duy nghệ thuật của một số cây bút học sinh sinh viên, Thạch Phương đã nhận định tiếng nói chủ đạo của lực lượng sáng tác thơ trẻ miền Nam giai đoạn này là “tiếng nói phủ định cái trật tự xã hội khốn nạn “đầy rẫy những dây kẽm gai, mộ địa và lưỡi lê” [158, tr.46]; cho rằng đây là “một sự chối
  • 13. bỏ toàn diện” nhằm “lật tung cái bộ mặt thật của thuộc địa trá hình” [158, tr.47]. Khi đề cập đến sức bật của lực lượng cầm bút trẻ thành thị miền Nam 1965 - 1975, Thạch Phương cảm nhận: “Đọc thơ họ, ta cũng bắt gặp không ít những nỗi quằn quại, ngột ngạt giữa một cuộc sống tù đọng” [208, tr.421]. Song Thạch Phương cũng khẳng định cảm hứng chủ đạo của thơ trẻ thành thị miền Nam là “những thao thức, trăn trở của con người, hay nói rộng hơn của cả một thế hệ mang tinh thần thức tỉnh trước một thực tế cần phải đổi thay” [208, tr.422]; đồng thời, bước đầu nhận diện được một số biểu hiện của cái tôi trữ tình ở một vài cây bút tiêu biểu: “Có chất anh hùng ca của Trần Quang Long, Đam San, cũng có cái trữ tình da diết của Võ Quê, Thái Ngọc San. Có cách suy tư lắng đọng kiểu Đông Trình…” [158, tr.52]. Trong bài viết “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về thơ, nghĩ…”, Trần Hữu Tá khái quát một số đặc sắc trong cá tính sáng tạo của các cây bút học sinh sinh viên: “Ta dễ nhận ra giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần Quang Long, cách thể hiện cô đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng thơ hồn nhiên chân thật của Hữu Đạo, Võ Quê và lối viết mực thước, tinh tế của Đông Trình… Quan trọng hơn, xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một sinh khí dồi dào và một diện mạo mới mẻ” [64, tr.20-21]. Người nghiên cứu rút ra nhận định cảm hứng sáng tạo của thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam “thể hiện thật nhức nhối nỗi buồn, niềm đau của những người sống trên nơi chôn rau cắt rốn” [64, tr.21]; qua đó, đi đến khẳng định biểu hiện cơ bản của cái tôi trữ tình ở vùng thơ này là “ý thức nhân danh cộng đồng để suy nghĩ, phát biểu và hành động” [64, tr.23]. Tôn Thất Bút, trong bài viết “Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm nay”, lại nhận diện chân dung tinh thần của bộ phận thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam đánh mất niềm tin vào cuộc đời: “Sự lạc lõng đã trở thành như một ám ảnh thường trực” [10, tr.44] và “Cuộc sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người” [10, tr.45]. Đối với những cây bút vùng tạm chiếm miền Nam không thuộc dòng thơ “viết trên đường tranh đấu” như Nhã Ca, Lệ Khánh, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ…, nhìn chung rải rác đã có một số công trình bàn đến, chủ yếu dừng lại giới thiệu và thẩm bình
  • 14. một số nét cá tính sáng tạo, cốt phác họa diện mạo thơ trẻ ở bộ phận này như một yếu tố mới của văn học vùng tạm chiếm miền Nam. Tuy nhiên, các cây bút phê bình phần nào đã điểm chân dung của cái tôi trữ tình trong một số hiện tượng thơ. Chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật thơ Du Tử Lê, Nguyễn Vy Khanh nhận thấy: “Trong cuộc tìm kiếm chính mình, chính bản chân diện mục, cái Tôi sâu thẳm và thực, có khi nhận ra cái Tôi bị động, tan nát, vì tâm động” [254] hay đến với thơ tình Du Tử Lê, tác giả bài viết này lại khám phá: “Du Tử Lê còn có những bài đầy một nỗi buồn tuyệt vọng và chân thành, nhiều giãi bày và tiên tri của một người tin ở sứ mệnh đến với đời” [254]. Trong “Thơ Tô Thùy Yên - quán trọ hồn Đông phương”, Nguyễn Vy Khanh nhận diện cái tôi “hãnh tiến trong hoang vu cũng như trong bức rối của thời đại” [255]. Còn đứng từ góc nhìn về tâm thức của các nhà thơ vùng tạm chiếm miền Nam đầu thập niên 70 của thế kỉ XX nói chung và Nguyễn Tất Nhiên nói riêng, Nguyễn Bảo Hưng đã nhìn nhận: “Thảm kịch của tuổi trẻ miền Nam Việt Nam ở những năm đầu của thập niên 70 là thế đó. Và Nguyễn Tất Nhiên đã sống đằm mình trong thảm kịch này. Anh đã sống đày đủ. Sống nhiệt tình. Sống trọn vẹn. Như mọi thanh niên cùng lứa tuổi” [251]... Tuy hầu hết các bài viết, công trình chưa đi sâu khám phá cái tôi trữ tình, song qua đó tác giả luận án cũng nhận diện một số đặc trưng cơ bản trong tư tưởng nghệ thuật của thơ trẻ đô thị miền Nam, có cơ sở khoa học trong việc nhìn nhận những nhân tố tác động đến đặc điểm thơ của thế hệ trẻ đồng thời cũng có cái nhìn khái quát về một số phong cách thơ tiêu biểu như Ngô Kha, Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Ngụy Ngữ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Nguyễn Bắc Sơn… Từ đó, tác giả luận án mở rộng diện nghiên cứu và đi sâu tìm hiểu sắc diện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam. Nhìn chung, các cây bút nghiên cứu phê bình đã khám phá được một số dạng thức cơ bản cũng như khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Qua đó, thấy được diện mạo mới của cái tôi trữ tình trong một giai đoạn lịch sử văn học đầy biến động thông qua cái nhìn đối chiếu với cái tôi trữ tình của những thế hệ nhà thơ lớp trước. Một số công trình khá dày dặn song
  • 15. cũng nhiều bài viết chỉ mới dừng ở dạng định hướng nhận diện về những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này. Với lịch sử vấn đề nghiên cứu trên, luận án có cơ sở đi sâu tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 dưới một góc nhìn toàn diện hơn; tiếp tục đưa ra những nhận định mà các công trình trước giải quyết chưa triệt để hoặc mới dừng ở mức độ gợi mở. Xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm thơ trẻ, tác giả luận án cụ thể hóa những dạng thức nổi trội của cái tôi trữ tình ở cả ba vùng sáng tác: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Qua đó nhận diện các dạng thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975; khẳng định thành tựu của thơ trẻ giai đoạn này trong dòng chảy thơ Việt Nam 1945 - 1975. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, tập trung vào những tác phẩm của ba vùng thơ: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. 5.2. Phạm vi nghiên cứu: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với những dạng thức biểu hiện và một số phương thức thể hiện nổi bật. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp hệ thống: Khảo sát cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 trong sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975. 6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phân tích những nét biểu hiện của cái tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ tiêu biểu; qua đó, tổng hợp, khái quát thành những dạng thức cái tôi trữ tình của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. 6.3. Phương pháp loại hình: Nhận diện đặc trưng từng kiểu dạng cái tôi trong quy luật vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975; qua đó, phân loại, đánh giá hiệu quả thẩm mĩ các dạng thức cái tôi trữ tình giai đoạn này.
  • 16. 6.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu: So sánh những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 với các giai đoạn văn học khác, đồng thời kiến giải những nét tương đồng, khác biệt của cái tôi trữ tình giữa các vùng thơ. 6.5. Phương pháp thống kê: Thống kê tần số xuất hiện của thể thơ tự do - một phương tiện nghệ thuật quan trọng biểu đạt cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975. 7. Những đóng góp mới Khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam ở cả miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam, luận án góp phần mở rộng nội hàm thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, hướng tới khái quát một cách toàn diện hơn chân dung cái tôi trữ tình và nhận diện một cách thỏa đáng hơn tư tưởng nghệ thuật, cũng như đặc điểm nổi bật của thơ Việt Nam 1965 - 1975. Đồng thời, mong muốn khôi phục khuôn mặt vốn đa diện của thơ 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 - 1975. Từ đó, luận án mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá không còn “trượt theo quán tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 - 1975 chỉ là sự hợp thành của văn học miền Bắc và vùng giải phóng. Luận án nhận định trong thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi sử thi là diện mạo cơ bản của cái tôi trữ tình song cái tôi sử thi biến thể, cái tôi phi sử thi mới là những dạng thức biểu hiện nổi trội, in đậm bản sắc thơ trẻ giai đoạn này. 8. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được cấu trúc thành 3 chương Chương 1. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 - một cái nhìn khái quát Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 - nhìn từ dạng thức biểu hiện Chương 3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam1965 - 1975 - nhìn từ phương thức thể hiện
  • 17. CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975- MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam 1945 - 1975, cái tôi trữ tình không ngừng vận động, góp phần làm nên diện mạo của từng giai đoạn thơ. “Tiếng thơ phải được nói lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của một trái tim đang xúc động. Những thương mến, căm giận và những nỗi niềm khác nhau bộc lộ trong hình tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một tình cảm không nén lại được” [45, tr.117]. Đây có thể xem là sứ mệnh thơ trẻ 1965 - 1975, trước hết nhìn từ ý nghĩa tồn tại của cái tôi trữ tình. Với những dạng thức biểu hiện phong phú, cái tôi trữ tình tạo cho thơ trẻ một chân dung tinh thần, một phong cách thời đại. 1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình 1.1.1. Cái tôi Cái tôi thuộc về bản chất, là chiều sâu tinh thần con người. “Cái tôi tự khẳng định chính nó và tìm được tiếng vang của nó trong cái ta, đồng thời cái ta cũng tự khẳng định khi bao bọc cái tôi và tìm được tiếng vang bên trong của nó trong cái tôi” [201, tr.82]. Cái tôi là sự thức tỉnh đầu tiên của con người, để xác lập vị trí của cá thể này so với cá thể khác. Trong lịch sử triết học phương Đông, cái tôi mang diện mạo riêng. Với Lão giáo, con người cá nhân không thể là trung tâm vũ trụ; chừng nào con người quên “tôi” thì mới có thể sống trong cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời gian. Theo Nho giáo, con người được đặt trong mối quan hệ với thiên mệnh: “Con người kính sợ trời, tin thiên mệnh, tin huyền tưởng, ngưỡng vọng siêu nhân” [150, tr.74]. Bên cạnh đó, Nho giáo lại quan tâm đến cá nhân trong mối quan hệ luân lí, cương thường giữa người với người; đưa con người vào cái đại ngã của gia tộc, quốc gia nhưng cũng hướng con người vào tự do nội tâm. Cái tôi trong tư tưởng Nho giáo không tồn tại với ý nghĩa tự thân mà chỉ tồn tại với ý nghĩa con người là
  • 18. “cái đức của trời đất, là sự kết giao của âm dương…”. Còn với Phật giáo, con người được thiết lập trong quan hệ với chính mình và được lí giải trên học thuyết “vô ngã”. Đạo Phật đưa con người đến nhu cầu hướng nội. Như vậy không có nghĩa là Phật giáo phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của cái tôi. “Con đường đắc đạo của đạo Phật là một con đường cá nhân, chứ không thể cộng đồng” [150, tr.75]. Tuy tam giáo đều quan niệm về cái tôi cá nhân dựa trên khuynh hướng “vô ngã” song hoàn toàn không phải là sự triệt tiêu cái “ngã”. Lão giáo dùng “ngã” để khước từ, tiêu diệt danh lợi chính là khẳng định vai trò của yếu tố cá nhân trên con đường thực hiện lí tưởng đó. Nho giáo một mặt đặt con người vào mối quan hệ khăng khít với thiên mệnh, khuôn con người vào cương thường, luân lí; mặt khác lại đưa con người quay vào thế giới nội tại. Điều này có nghĩa là “cá nhân hòa tan vào một bản chất chung của con người - tự nhiên, con người - chức năng, con người - cương thường, và không còn ý nghĩa như một cái tôi tồn tại độc lập” [4, tr.22]. Như vậy, dù xuất phát từ quan niệm về cái tôi cá nhân của mỗi triết thuyết có những đặc trưng khác nhau song đều thừa nhận ý nghĩa của con người trong việc thực hiện tư tưởng. Ở mỗi triết thuyết, con người cá nhân dù không tồn tại độc lập nhưng vẫn được bộc lộ ở một hình thức nhất định. Và “tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân để giải phóng cho cái “ngã” nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới khác, không gò bó, tạm bợ” [150, tr.75]. Đến với một số triết thuyết phương Tây, có thể cũng tìm thấy những quan niệm về con người. Với Descartes, con người đặt mình trong tư thế đối diện với vũ trụ, là một “bản thể suy tư”; bản chất con người là bản chất cá thể. Theo quan niệm của Descartes, con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ giữa thể xác và linh hồn mà người là Người vì người biết đau khổ, đam mê trong sự so sánh với tộc loại; con người dù nhỏ bé cũng không bị cô lập trong vũ trụ mà luôn tự nhận thức mình là một phần của trật tự toàn vẹn và có vị thế nhất định trong trật tự toàn vẹn đó. Như Héraclite quan niệm “giữa vũ trụ và con người luôn luôn có một liên hệ” [114, tr.182]. Dừng lại ở Kant, một đại diện tiêu biểu của triết học duy tâm, cũng thấy rất rõ ý nghĩa của cái tôi trong đời sống con người. Cái tôi tồn tại vừa là chủ thể vừa là
  • 19. khách thể của quá trình nhận thức, đồng thời Kant còn tuyệt đối hóa khả năng nhận thức của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi” [147, tr.113]. Như vậy, cái tôi cá nhân được thừa nhận như là một đối tượng khám phá phức tạp của con người. Hay đối với Hegel, cái tôi tồn tại như một cá thể độc lập. Cái tôi có khả năng tự biểu hiện mình, thể hiện khát vọng của con người. Xét đến sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc có mối liên hệ với quan niệm cái tôi trữ tình, dừng lại ở triết học hiện tượng luận của Husserl, thấy rằng cái tôi được chú trọng với tư cách “chủ tri”, là suy tư về chính chủ thể; khách thể chỉ là cái cớ để chủ thể suy tư. Chính tư tưởng này đã đẩy triết thuyết của Husserl đến một quan niệm về con người tự do. Ở đó con người tự thân đã là một chủ thể sáng tạo không có một mối dây ràng buộc nào với thực tại khách quan. Gặp gỡ Husserl, J.P.Sartre cũng đưa ra một quan niệm hiện sinh về ý thức của cái tôi, trong đó cái tôi không chỉ thiết lập sự khác biệt của nó với ngoại vật, với tha nhân mà còn với chính mình. Theo quan niệm của triết học hiện sinh, “Con người cũng là một toàn thể không phân chia; do đó mỗi cử chỉ, hành động của nó, dù bé nhỏ, tầm thường cũng bày tỏ một ý nghĩa, một thái độ của con người hiểu như một toàn thể trước cuộc đời” [232, tr.252]. Con người được đặt trong sự tự do hóa tuyệt đối, là hữu thể trong mối quan hệ với chính nó, không có tha tính, là sự “tự ý thức”. Như một sự kế thừa hiện tượng học của Husserl, J.P. Sartre cho rằng chính cá nhân ra luật cho toàn thế giới, cá nhân phải xác định ý nghĩa của thực thể trong mình và bên ngoài mình. Từ đó, Sartre quan niệm: “không có vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ con người” [172, tr.31] và khẳng định “con người không phải là đóng kín trong bản thân mình mà luôn luôn có mặt trong một vũ trụ con người” [172, tr.32]. Đối lập với những triết thuyết tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân, đến triết học Marx, giá trị con người cá nhân được xác lập với tư cách vừa là chủ thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội. Cá nhân luôn tự thiết lập quan hệ với môi trường xã hội, là “bộ mặt xã hội”. Đến đây, cái tôi tồn tại như là trung tâm của cá tính con người không tách rời khỏi hiện thực: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [102, tr.11].
  • 20. Theo lí giải của triết học, cái tôi là một yếu tố của chủ thể, là quan niệm của chủ thể về chính mình. Hay nói cách khác, cái tôi chính là khả năng tự nhận thức của chủ thể. Sự khu biệt cơ bản nhất của hai phạm trù này là nếu chức năng của chủ thể là nhận thức và cải tạo thế giới thì chức năng của cái tôi là xác lập vị thế của mình trong thế giới. Chủ thể, theo quan niệm của triết học, không hẳn là một cá nhân đơn lẻ, mà đó có thể là một tập thể, một cộng đồng. Như vậy, tương ứng với chủ thể của mỗi thời đại là sự biểu hiện một loại hình cái tôi phù hợp. “Sẽ giản đơn, siêu hình nếu xem cái tôi cá nhân là một cái gì nhỏ hẹp, hạn chế, khép kín” [181, tr.136]. Mang những đặc tính riêng, cái tôi không đơn thuần là cái tôi cá nhân riêng lẻ, nhỏ hẹp, bất biến mà đó là một phạm trù mang tính “động”, “không chỉ là chức năng tự ý thức của chủ thể, mà còn là chức năng tự ý thức về bản chất xã hội của chủ thể” [181, tr.136]. Cái tôi tự thân có sức dung chứa vô cùng bởi cái tôi có chức năng thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính nội cảm. Sự thâu nhận này đã tạo nên một thế giới chủ quan của cái tôi, ở đó sức nội cảm của cái tôi tỉ lệ thuận với sự phong phú đa dạng của cuộc đời. Đây chính là thế giới của những giá trị qua cách nhìn của cái tôi, là thế giới khó tách bạch đâu là chủ quan đâu là khách quan: Khúc thu/ Khúc thu/ Bần bật lá vàng/ Đôi giày nhỏ xinh xinh nàng công chúa (Dương Kiều Minh); Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/ Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh (Đoàn Văn Cừ). Chính đặc tính này tạo nên sự đa dạng trong những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình: cái tôi hướng nội, cái tôi hướng ngoại… Cái tôi luôn tự thiết lập một cách ứng xử “thống nhất bền vững” đối với cuộc sống. Điều đó không có nghĩa cái tôi là một phạm trù bất biến. Sự bền vững ở đây có thể hiểu là sự nhất quán trong bản chất tinh thần con người, nghĩa là ý thức khẳng định bản chất tinh thần qua nhiều biến cố của đời sống: Biển vẫn cậy mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút/ đã cô đơn (Hữu Thỉnh); Ký hiệu đời tôi là một chấm xanh xanh ngắt/ Ký hiệu thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến/ khôn cùng (Phùng Khắc Bắc). Như đã khẳng định, cái tôi là một phạm trù có tính “động”. Đây có thể là sự xung đột trong nội tại cái tôi, hay cũng có thể hiểu là sự
  • 21. xung đột với thế giới để đi đến một sự thống nhất của chủ quan. Nghĩa là đích đến cuối cùng của cái tôi là xác lập giá trị của mình trong thế giới khách quan. Hay nói khác hơn, cái tôi là một cách “lựa chọn”. Cái tôi luôn nhận ra mình trong cái nhìn thể nghiệm: Nghĩa lớn ai mua bán chợ chiều/ Dập vùi hoa lá biết bao nhiêu (Trần Huyền Trân); Suốt đời thương không thương hết được đời/ Điều ấy làm tôi day dứt mãi/ Tôi từng trải và tôi vụng dại (Trần Nhuận Minh). Từ cách lí giải này, khi đi vào làm rõ bản chất của cái tôi trữ tình, hẳn sẽ có cái nhìn thỏa đáng hơn; không thể quy cái tôi trữ tình vào trong cái tôi cá nhân thuần túy, cũng như không thể đồng nhất cái tôi trữ tình với cái tôi cá nhân. Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng triết học. Cái tôi gắn với những bước tiến hóa của nhân loại trong quan niệm về con người của triết học đã ảnh hưởng đến ý thức nghệ thuật văn chương trong việc thiết lập quan niệm về cái tôi trữ tình. Suy cho cùng, cái tôi trong thế giới trữ tình khởi đi từ ý thức về cái tôi trong nguồn gốc triết học song đi vào thế giới thơ ca, cái tôi lại mang một diện mạo riêng. Đó là nhu cầu được biểu hiện và nhìn nhận về hiện thực khách quan. Và những dạng thức khác nhau của cái tôi trải qua các nền văn học đều ít nhiều thể hiện sự ảnh hưởng của quan niệm cái tôi triết học, tạo thành biểu hiện phong phú của cái tôi trữ tình trong thơ. Nếu như thơ Thiền gắn với “cái tôi vô ngã” của phạm trù thi pháp văn học trung đại thì thơ ca lãng mạn lại gắn mình với “cái tôi cá nhân” là một, là riêng, là thứ nhất. Và khi đi ra khỏi thời của cái tôi co mình trong thế giới cô đơn, rợn ngợp của Thơ mới, thơ 1945 - 1975 lại là môi trường nảy nở những dạng thức mới của cái tôi. Trong ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ, cái tôi được quan niệm dưới nhiều khía cạnh phong phú. Đó là ý thức về cá tính sáng tạo của con người, là cách nhìn nhận về con người như là một đối tượng thẩm mĩ của quá trình sáng tác, là số phận con người không lặp lại ở mỗi giai đoạn sáng tác và mang dấu ấn thời đại. Xuất phát từ căn nguyên của cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật, có thể hình dung ban đầu về cái tôi trữ tình là “sự tự ý thức của cái tôi được biểu hiện trong nghệ
  • 22. thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thể hiện thông qua phương tiện trữ tình” [4, tr.26-27]. 1.1.2. Cái tôi trữ tình Theo Hegel, nguồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình là “ở chủ thể, và chủ thể là người duy nhất và độc nhất mang nội dung” [60, tr.995]. Thơ ca là tiếng nói xuất phát từ nhu cầu nội tại của con người, có khi đó là nhu cầu độc bạch của thế giới tâm hồn. Nhiều định nghĩa về thơ trữ tình đều hướng đến giải mã sự thôi thúc của nhu cầu sáng tạo xuất phát từ góc độ đó. Thơ là sự bắt nhịp của những tâm hồn đồng điệu, là tiếng nói tri âm… Quá trình sáng tạo thơ ca trước hết là nhu cầu rung cảm tự thân của người nghệ sĩ, là con đường tìm sự đồng vọng. Thơ trữ tình với tư cách là sự biểu hiện của cái tôi, là phương tiện để con người cảm thấy sự tồn tại của mình” [181, tr.140]. Bản chất của thơ chính là sự hiện diện của cái tôi trữ tình. Vì thế có thể xem cái tôi là nhân tố xuyên suốt hành trình sáng tạo thơ trữ tình. “Thơ trữ tình là phương tiện để con người tự khẳng định bản chất tinh thần của mình so với tồn tại vật chất, là phương tiện để tự đồng nhất mình, xây dựng hình tượng về mình…” [181, tr.140]. Cái tôi có vai trò quan trọng trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ tất cả suy nghĩ, tình cảm, thái độ bằng giọng điệu riêng; nhờ vậy làm nên cái độc đáo không lẫn giữa thế giới nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ. Sáng tạo thơ ca là kết quả tất yếu của quá trình dồn tụ cảm xúc, là khoảnh khắc thăng hoa của cái tôi thi sĩ khao khát tự bộc bạch, giãi bày. Không có sự thúc bách bên trong đời sống nội cảm, không có cái tôi chênh chao giữa thế giới hiện hữu, không có niềm vọng tưởng về một quá khứ mờ xa thì không thể có Điêu tàn đi về trong những miền hư tưởng. Sẽ không có Di cảo thơ như một cuộc chạy đua dốc sức cuối cùng về với bến bờ của đời người nếu không có một tâm hồn luôn trên hành trình suy tưởng về số phận, về cái chênh vênh giữa cõi sống và cõi lò thiêu. Cũng như nếu không có cái tôi cảm nghiệm thân phận buồn trống trải thì không thể có thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, không thể có lời tự thú xót cay: Nhiều khi muốn mình như chiếc bóng/ Tan trong màn đêm/ Để không ai nhận ra/ Mình có mặt trong đời
  • 23. (Tặng nỗi buồn riêng). Hegel đã khẳng định: “điều làm thành trung tâm và nội dung thực sự của thơ trữ tình, đó chính là cái chủ thể” [60, tr.1007]. Tác phẩm thơ trữ tình chỉ tồn tại khi đó là nhu cầu tự ý thức, nhu cầu xúc cảm của chủ thể sáng tạo. Điều đó có nghĩa sẽ không có tác phẩm trữ tình nếu không có nhu cầu tự khẳng định, không có nhu cầu tìm kiếm tri âm của chủ thể. Hoặc có thể tác phẩm trữ tình vẫn ra đời nhưng không thể nhận được sự đón đợi của công chúng. Vậy để có một tác phẩm trữ tình đích thực, trước hết phải khởi đi từ sự rung động của chính chủ thể. Sự xuất hiện của cái tôi trữ tình là điều kiện cốt yếu của thơ trữ tình. Từ những cơ sở lí luận nền tảng trên, tác giả luận án quan niệm cái tôi trữ tình là biểu hiện của cách nhận thức và suy tư của chủ thể trước thế giới hiện thực; qua những điểm nhìn nghệ thuật, thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Ở đây, cái tôi trữ tình được hiểu theo nghĩa rộng, là “bản chất chủ quan của thể loại trữ tình” [152, tr.22]. Và bản chất của thơ trữ tình là sự hiện diện của cái tôi. Cái tôi trữ tình và cái tôi tác giả có mối quan hệ thống nhất nhưng hoàn toàn không đồng nhất. “Cái tôi trữ tình chỉ là sự hiện diện bộ mặt tinh thần của nhà thơ trong những tác phẩm thơ ca” [46, tr.167]. Việc quy cái tôi trữ tình vào khuôn nghĩa hẹp tương ứng với cái tôi tác giả hoặc gán ghép cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử sẽ đưa đến một cách nhìn phiến diện về bản chất của cái tôi trữ tình trong thơ. Trong thực tế sáng tác, tác phẩm và người sáng tạo quan hệ mật thiết. Có khi thơ chính là âm bản, là hồn phách của người nghệ sĩ. Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ “dưới dạng trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn với cuộc đời riêng của người viết” [45, tr.73]. Nguyễn Trãi với nỗi lòng chồng chất ở non nước Côn Sơn; Hồ Xuân Hương với kiếp lấy chồng chung; Xuân Diệu cùng nhịp sống nôn nao, cuống quýt, vội vàng; Hàn Mặc Tử tủi phận trước tình đời hờ hững hay một Lưu Quang Vũ lận đận với nỗi niềm bài hát ấy vẫn còn dang dở… Nhà thơ mang thế giới riêng tư in vào trang viết. “Nhà thơ là nhân vật, là cái tôi, là hình tượng trung tâm. Đọc thơ, chúng ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một, là thống nhất” [86, tr.19]. Cái tôi trữ tình ở đây dường như chính là cái tôi nhà thơ.
  • 24. Não nề đến rên xiết, cô độc đến trống rỗng, khát thèm đến đê mê… là cõi riêng tây của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Trong đó, Đau thương là duyên phận lỡ làng của đời thơ ông. Lỡ làng yêu đương, lỡ làng thân phận và cuộc phiêu diêu vào mộng tưởng cũng lỡ làng. Ở đó, người thơ dấn thân vào tận cùng bi kịch bằng một cái tôi mê dại. Xa đời, xa người và xem thế giới ảo mộng là người tình tri kỉ, Hàn Mặc Tử mê tơi trong những ảnh hình kì dị. Cái tôi trao phận vào cõi hư vô ắp đầy ám gợi. Để tự giải thoát sượng sần thân xác. Để thỏa ẩn ức đời tư và bức bách hơn là để chạm tới cạn sâu những ước vọng mà chủ thể không tìm thấy trong thực tại: Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng/ Cho ngây người mê dại đến tâm can (Rướm máu). Không nén nổi cơn khát yêu mà trong ngắn ngủi cuộc đời, nhà thơ vắt kiệt mình nếm trải. Vườn yêu trong cõi Hàn Mặc Tử dậy men tình mà cũng chật ních rạn vỡ tái tê. Dự cảm đổ vỡ đón đợi người thơ ngay trong khoảnh khắc say sưa nhất của ái tình, sẽ chán chường và sẽ chán chê (Tối tân hôn). Trải nghiệm đau thương là đối mặt với định mệnh. Song tận sâu tâm thức Hàn Mặc Tử là sự cưỡng lại thân phận. Say trăng, rượt trăng, chơi trên trăng hay ngủ với trăng âu cũng là sự phân thân của cái tôi mê dại. Cái tôi đắm mình trong trăng đến hoang tưởng. Rượt đuổi trăng mà viễn tưởng đến ái tình không xác thịt. Ngủ với trăng lại tưởng vọng đến thổn thức, phập phồng niềm yêu đương… Không phải là sự quy chụp cuộc đời bệnh tật của Hàn Mặc Tử vào thế giới nghệ thuật thơ của chủ thể, giữa cái tôi nhà thơ và thế giới hình tượng thơ vẫn có một độ “vênh” nhất định. Sáng tạo thơ ca trước hết là cái nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dẫu là cuộc đời thi sĩ đấy nhưng chưa hẳn là đời, là tôi nhưng cũng không hoàn toàn là tôi. Song nếu không có một Hàn Mặc Tử cô đơn giữa cõi người rộng rinh trong mặc cảm bệnh tật giày vò, không có một Hàn Mặc Tử cồn cào khát sống thì sẽ không có Đau thương. Quả thật, khi người thơ đóng dấu ấn đời tư vào tác phẩm, cái tôi trữ tình ít nhiều đều mang bóng dáng của cái tôi tác giả như là sự phơi trải chính mình. Cái tôi trữ tình có thể bộc lộ gián tiếp qua cảnh ngộ không phải của riêng mình mà tác giả chỉ nói lên cảm nghĩ của mình về những cảnh ngộ, những sự kiện đó. Lúc này, “cái tôi trữ tình là nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác” [45, tr.74]. Tây
  • 25. Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu… là những trường hợp như thế. Hay cũng không ít tác phẩm viết về một nhân vật trữ tình được xác định nào đó: Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Trần Thị Lý, Nguyễn Văn Trỗi…, khi đó “nhân vật trữ tình của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà thơ” [45, tr.74]. Đối với những trường hợp này, dù cái tôi nhà thơ không bộc lộ trực tiếp song qua nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình vẫn tiềm ẩn. “Từ cảm hứng chủ đạo đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn cần phải hiện diện. Chính cái khác nhau của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca khác nhau” [45, tr.74-75]. Như trong địa hạt thơ tình, người đọc luôn nhận ra sự khác nhau, đa dạng của những lời “tự hát”: một Xuân Quỳnh giăng mắc dự cảm; một Ý Nhi duyên thầm, trầm lắng; một Dương Hương Ly ngọt ngào, thao thức; một Lê Anh Xuân mãnh liệt, chân thành… Thơ là độc bạch mà cũng là đối thoại. Chừng nào có sự phân thân của tác giả để nhập vai vào từng số phận - nhà thơ đồng nhất cảm xúc với khách thể được phản ánh thì chừng đó xuất hiện cái tôi trữ tình. Ở không ít trường hợp, cái tôi trữ tình không đơn thuần là cái tôi hóa thân vào đối tượng miêu tả, cũng không chỉ là cái tôi nói hộ tiếng lòng người khác, tiếng lòng chung. Trước khi hóa thành cái tôi trữ tình, người đọc nhận ra cái tôi của chính chủ thể đang bộc lộ cảm xúc, suy tư. Và dẫu là trực tiếp hay gián tiếp thì sự xuất hiện của cái tôi trữ tình không thể đi ra ngoài cái tôi chủ thể. Rõ ràng ở đây, “cái tôi trữ tình là cái tôi được nghệ thuật hóa” [45, tr.74] nhưng không tách rời khỏi cái tôi nhà thơ mà thống nhất trong biểu hiện phong phú của cái tôi chủ thể sáng tạo. Như chốn dừng chân cuối cùng của kiếp người trở thành nỗi trở trăn không dứt trong hồn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có phải nhà thơ mang nặng quá những dự cảm chia xa hay đó là nỗi lo sợ cõi đời vội vàng đóng khép? Thế giới tâm linh, thế giới cõi âm rờn rợn... đều thành gần gụi như thể tự đó con người tái sinh: Mai kia về ngủ trên đồi/ Nắng rải hoa vàng quanh chỗ tôi/ Con chim sơn ca ngày thơ bé/ Nó bay về khóc mãi không thôi (Sinh nhật). Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần chạm vào cái chết. Con người hiện sinh trong ông dằn vặt quá nhiều với sự cô đơn đến trống rỗng. Đến nỗi thi sĩ ban cho mình
  • 26. quyền được buồn như là một quan niệm nghệ thuật: Nỗi buồn là căn - nhà - ở - đời của thơ. Nhà thơ nguyện gánh trên vai sức nặng của thiên chức nghệ sĩ, không trốn chạy buồn sầu. Thậm chí, ngôi nhà ở đời cũng thành địa chỉ buồn, hoang lạnh như nấm mồ vô chủ: Nhà tôi ở phố Đạm Tiên. Nhu cầu đối thoại, dù là đối thoại với người cõi âm, vẫn giải tỏa được những khắc khoải, giằng xé trong đời sống nội tâm chất chồng mâu thuẫn. Cũng như nhiều nhà thơ sau 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn dùng tiếng nói tâm linh để đến thẳm sâu bí ẩn tâm hồn con người. Không chìm trong nỗi ám ảnh cái chết mà thi sĩ của cõi âm này chạm đến cái chết như là đối tượng thẩm mĩ để tâm niệm về triết lí nhân văn từ sau thế giới tha ma nghĩa địa. Chút tình nhân gian ủ ấm con người khi họ trở về nằm trong cát bụi, đó là cái còn lại của kết cuộc một đời người. Còn niềm an ủi nào hơn thế: Món quà tặng sau cùng đời dành cho anh/ Là nắm đất ủ nơi bàn tay bè bạn (Nói với bóng mình in trên vách). Hay trước sự tạ từ, người thơ cũng cảm thấy chống chếnh và cô độc: Rồi em vội vã ra đi/ Hân hoan, nồng thắm, xuân thì/ Và hoa tàn trong phút chốc/ Không còn ai người để khóc/ Anh chết một mình đêm qua (Không đề). Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đau đáu trăn trở giữa sống - chết, nhất thời - vĩnh cửu... Chiêm nghiệm cái chết, để được sống đầy với đoạn đời còn lại. Cái tôi thử đi đến cõi âm để quay về chăm chút hơn nữa cho cuộc sống hiện tại. Song trong hồn thơ ấy, dường như mọi thứ đều vô thường. Ở đó, không còn sân si, không còn thói đời phàm tục, chỉ có tôi ngồi với bóng tôi. Trong một tác phẩm, người đọc thường tiếp xúc với tiếng nói trữ tình hòa quyện của hai cái tôi như thế, có khi không thể phân biệt rạch ròi. “Trong thế giới trữ tình, cái tôi nhà thơ tự biểu hiện và tự biến cải theo quy luật sáng tạo thẩm mĩ để trở thành cái tôi trữ tình với một chất lượng khác, một tầm vóc khác, mang tính khái quát hóa” [4, tr.40]. Sự gắn kết này chính là đặc trưng của cái tôi trữ tình, góp phần thể hiện bản sắc thơ trữ tình. Cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình cũng là một mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Cái tôi là bản sắc trữ tình của chủ thể, là khả năng tự ý thức, tự phân tích của chủ thể. Hay nói khác hơn, cái tôi trữ tình có chức năng thiết kế quan niệm của chủ thể về chính mình, xây dựng hình tượng của chủ thể trữ tình. Cái tôi
  • 27. trữ tình luôn ý thức thiết lập vị thế của mình trong thế giới nghệ thuật để chủ thể trữ tình góp phần nhận thức thế giới. Như vậy, cái tôi trữ tình có thể xem là nguyên cớ để chủ thể trữ tình tồn tại. Ứng với mỗi chủ thể là một dạng thức cái tôi trữ tình phù hợp. Thơ mới 1932 - 1945, là thế giới riêng tư “càng đi sâu càng lạnh” của chủ thể cá nhân, vì thế cái tôi trữ tình là cái tôi cá nhân với những nỗi niềm thân phận cô độc, rợn ngợp, vội vàng… Trong khi đó, ở thơ 1945 - 1975, chủ thể trung tâm lại là cộng đồng, dân tộc; vì vậy, cái tôi trữ tình mang cảm quan chủ đạo của giai cấp, thời đại là cái tôi sử thi, cái tôi đặt trong cái ta: Ví phải mắc vào vành xiềng xích/ Đành cắn răng một chết không khai/ Chết là chết cái hình hài/ Sắt son một tấm gương đời treo cao (Khương Hữu Dụng). Đến thơ sau 1975, với bản chất của thế giới khách quan là bộn bề cuộc sống, là tầng lớp bi kịch riêng tư thì chủ thể trữ tình lại là chủ thể cá thể; vì thế cái tôi trữ tình chủ yếu là cái tôi “phi sử thi” - cái tôi thế sự, đời tư với khuynh hướng nhìn lại, nghiệm lại những nấc thang giá trị và nhìn lại chính mình hay đó là cái tôi tự thú: Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Như vậy, cái tôi trữ tình là biểu hiện cho yếu tính “động” của chủ thể. Ứng với mỗi chủ thể của từng thời đại, từng giai đoạn văn học, cái tôi trữ tình mang diện mạo riêng, theo quy luật vận động và phát triển. Cái tôi trữ tình thể hiện bản chất xã hội của chủ thể trữ tình. Việc phác họa diện mạo chung của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 vì lẽ đó tạo cơ sở lí giải về những dạng thức đặc trưng và những biểu hiện mới của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này; ngược lại đây cũng là minh chứng cho tính tất yếu của sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong tiến trình thơ ca 1945 - 1975, qua đó thấy được sự vận động, chiều hướng phát triển của đời sống thơ ca nói riêng và đời sống văn học hiện đại nói chung.
  • 28. 1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình 1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại Cái tôi trữ tình là chủ thể của hành trình sáng tạo thơ ca, bộc lộ tầm nhìn, cách nghĩ về thế giới và con người; thể hiện tư tưởng, cá tính sáng tạo của nhà thơ; đồng thời là một điểm nhìn nghệ thuật. Sự thể hiện cái tôi trữ tình xuất phát từ nhu cầu tự khẳng định thế giới tư tưởng, tình cảm của chủ thể. Đây là một đặc trưng cơ bản của cái tôi trữ tình. Như nhận định của Hegel, thơ trữ tình chân chính “phải mang dấu ấn những tình cảm, những trực giác những biểu tượng hay những suy nghĩ của chủ thể” [60, tr.1002]. Nếu không có quá trình nhận đường, không có hành trình đến với mặt trời chân lí thì sẽ không có cái háo hức, ngỡ ngàng, bừng ngộ của hồn thơ Từ ấy. Sẽ không có Thêm một (Trần Hòa Bình) nếu không có một chủ thể luôn thao thức về những điều được - mất song hành trong đời… Chủ thể càng tự thức về mình sâu sắc thì tác phẩm thơ trữ tình càng có chiều sâu. Sự tự ý thức, tự biểu lộ của cái tôi trữ tình là cơ sở hình thành nên bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ. Đây có thể xem là sự bộc lộ của cái tôi cá tính. Chính biểu hiện này phân biệt phong cách nhà thơ. Thời đại Thơ mới, cái tôi cá nhân kiêu hãnh bước vào vườn thơ lãng mạn. Nhưng mỗi hồn thơ là một cá tính sáng tạo, một phong cách riêng biệt. Một Xuân Diệu đắm đuối, một Chế Lan Viên kì dị trong cõi hư vô, một Huy Cận đơn côi trong cảm thức thời gian… làm xôn xao cung đàn thơ 1932 - 1945. Nền văn học kháng chiến gắn với cái tôi hòa trong cái ta thời đại, song không thể lẫn một Phạm Tiến Duật ngông ngạo, đùa duyên với một Hữu Thỉnh đằm sâu, da diết; một Ý Nhi thanh khiết, dịu dàng với một Lâm Thị Mỹ Dạ nồng nàn, day dứt… Những bức chân dung đó được vẽ nên từ ý thức của cái tôi trong việc tự nhìn nhận, đánh giá và cũng chính từ nhu cầu tạo dựng phong cách ở từng nhà thơ. Người nghệ sĩ tìm đến thơ trước hết để được thỏa mãn đời sống nội cảm. Thế giới quan của người sáng tạo không thể tách rời cái tôi trữ tình. Song đó không phải là cái tôi đứng riêng lẻ, cái tôi cá nhân hẹp hòi. Cái tôi trữ tình cũng không bao giờ chỉ nhằm biểu hiện mình. Ngay trong lời độc bạch là cả một xu hướng đối thoại. Dù thế giới trữ tình là những điều riêng tây, cái tôi vẫn không hẳn chỉ viết ra cho mình.
  • 29. Và cho dù cốt sáng tác chỉ để cho riêng mình thì tiếng thơ đó cũng động đến tâm khảm nhiều người. Người đọc tìm thấy bóng dáng mình và được soi ngắm mình ở đó. Điều này một phần lí giải vì sao có những tác phẩm thời chiến không được đón nhận do đấy là những tiếng thơ tưởng rất riêng tư và xa lạ với mối bận tâm của hoàn cảnh đất nước chiến tranh, sau một quá trình sàng lọc của thời gian lại tìm thấy chỗ đứng của mình, lại hồi sinh trong lòng độc giả. Đây là đặc trưng xã hội, là nhu cầu đối thoại của cái tôi trữ tình. Cái tôi tất yếu phải chịu chi phối bởi môi trường xã hội. Sự tự thức của con người suy cho cùng cũng vì muốn khẳng định mình trong mối quan hệ đó. Cái tôi trữ tình là sự tự thức của chủ thể với người khác, với cộng đồng, với xã hội và với chính mình. Tiếng Tự tình của Hồ Xuân Hương đâu chỉ là của riêng nữ sĩ. Đó là lời đồng vọng của những thân phận phụ nữ không tìm thấy tri âm, đối mặt với tuổi thanh xuân cô độc đến rợn người. Đây còn là lời đối thoại, thách thức của bao nhiêu số phận đắng cay với cuộc đời, với xã hội u ám bấy giờ. Tiếng thở dài ai oán của Phạm Thái cuối thế kỉ XVIII vừa là sự luyến tiếc xuân xanh, vừa là lời nguyền rủa chế độ phong kiến thối rữa và đây cũng không chỉ là lời tự thán của mỗi cái tôi nhà thơ: Ba mươi tuổi lẻ là bao tá/ Năm sáu đời vua thật chán ghê. Hay lúc tình yêu lên tiếng, dẫu đó là tiếng lòng sâu kín nhất của con người, thì khi đi vào thơ cũng trở thành cuộc hạnh ngộ của nhiều thân phận tình yêu. Tôi bật thốt với người và mọi người tìm thấy mình trong tôi. Cái tôi trữ tình tự phát hiện mình, tự phân tích nhưng ẩn trong bức chân dung tự họa đó là niềm mong tạo được kênh giao tiếp với thế giới bên ngoài. Nghĩa là cái tôi không thể tách mình ra khỏi sự ràng rịt với chung quanh. Chỉ khoanh cái tôi trữ tình vào cái tôi tiểu sử, đi tìm bản sao của đời thực ở tác phẩm nghệ thuật sẽ đem lại cách nhìn phiến diện về đặc trưng của cái tôi trữ tình. 1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ Cái tôi trữ tình tồn tại trong một thế giới nghệ thuật, thế giới của những giá trị thẩm mĩ. Khi bước vào lãnh địa nghệ thuật, hiện thực đời sống được nâng lên một ý nghĩa mới. Đất nước là ngôi nhà chung của con người nhưng mỗi nhà thơ lại có một
  • 30. đất nước của riêng mình. Hình tượng đất nước ở mỗi cách nhìn mang một khuôn mặt không lặp lại. Dưới cái nhìn tin yêu, hi vọng, đất nước gắn với những tầm cao, những cửa gương hi vọng, là nơi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm; qua lăng kính đổ vỡ, hẫng hụt, đất nước lại trở mình khó nhọc trong cõi lòng quặn đau của cái tôi. Hay ở địa hạt thơ tình cũng thế, vẫn là một câu chuyện của muôn đời song mỗi nhà thơ lại phát hiện trong thế giới riêng tư ấy những giá trị thẩm mĩ không giống nhau. Khó ai biểu lộ tình yêu si dại, mê đắm, quấn quýt như Xuân Diệu nhưng đó lại là một tình yêu diệu vợi, là thèm khát không thành, là ham muốn tột độ, là nỗi buồn đeo đẳng. Còn với Xuân Quỳnh, tình yêu là máu thịt, là lời ru, là tiếng thầm thỉ dỗ dành, là mái ấm, là bàn tay; là niềm khát yêu không thỏa; là quan niệm hạnh phúc mong manh; là chênh vênh trong dự cảm. Giá trị thẩm mĩ ấy không chỉ là “ý nghĩa tinh thần” của riêng đời sống nội tâm chủ thể mà đó còn là sự kết tinh những giá trị văn hóa, lịch sử, thời đại. Tình yêu của Xuân Diệu đâu chỉ là niềm hướng vọng không bao giờ đến đích mà đó còn là nỗi cô đơn, trống trải của cái tôi một thời; là khát vọng thành thực của con người dẫu cuối cùng một thời đại của cái tôi đã khép lại trong khoảng trống không thể lấp đầy. Ở Xuân Quỳnh cũng thế, đâu chỉ là thổn thức trong nhiều cung bậc yêu thương, đâu chỉ là xốn xang rung động của những trái tim yêu mà đó còn là quan niệm về hạnh phúc, về những khát khao bình dị; là chiêm nghiệm... Cái tôi trữ tình ngoài nhu cầu tự bạch, đối thoại, còn là một thực thể mang nhiều ý nghĩa tinh thần khái quát. Cái tôi chỉ trở thành cái tôi trữ tình khi chủ thể có nhu cầu tạo kênh giao tiếp với đối tượng tiếp nhận, nghĩa là phải có văn bản nghệ thuật. Cái tôi trữ tình được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, thông qua thế giới nghệ thuật ngôn từ. Có thể xem cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật, ở đó những phương thức thể hiện đều mang quy luật riêng. Hình ảnh thơ, chất liệu tạo nên thế giới hình tượng nghệ thuật là thế giới giàu tính biểu trưng. Không - thời gian nghệ thuật là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Khi đi vào thế giới nghệ thuật văn chương, chúng không còn nguyên chiều kích khách quan nữa mà đã được tạo dựng bằng sự phong phú của các phương tiện nghệ thuật ngôn từ thông qua trạng thái cảm xúc
  • 31. của chủ thể thẩm mĩ. Hay nói khác hơn, không gian và thời gian nghệ thuật được tạo nên từ lăng kính của cái tôi trữ tình. Với điểm nhìn dịch chuyển trên nhiều chiều không gian và thời gian, người nghệ sĩ có thể khám phá nhiều góc cạnh về con người, về cuộc đời. Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím ngát… (Đoàn Phú Tứ). Đây là mảng màu từng làm xôn xao cung đàn thơ một thời quá vãng. Thi sĩ đã tạo nên một gam màu đặc biệt của cảm xúc. Thời gian như nhuộm cái buồn thân phận. Và phải chăng là định mệnh, vườn thơ mấy mươi năm sau lại hiện hữu một sắc trắng thời gian đến não nề: Em ở đây không sớm không chiều/ Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng (Thời gian trắng - Xuân Quỳnh). Chủ thể trữ tình đã mất ý niệm thời gian? Dòng đời vẫn trôi chảy, vậy mà em rơi vào cõi không sớm không chiều. Hóa ra cái tôi trữ tình đang trải mình trong màu thời gian. Không phải màu thời gian tím ngát thê thiết trong hồn thơ Đoàn Phú Tứ mà ở Xuân Quỳnh, thời gian não nề sắc trắng. Cái tôi ngập chìm trong màu trắng tang tóc, lạnh lẽo - màu trắng của cõi chết im lìm. Hay những hình tượng thời gian dự cảm, thời gian hồi sinh, thời gian khát vọng… trong thế giới nghệ thuật thơ đều là sự thể hiện đa dạng của thời gian tâm tưởng. Thời gian không còn thuần túy là thời gian hiện thực nữa mà có khi trong thơ trữ tình đã xuất hiện kiểu thời gian đồng hiện. Trong thơ Lưu Quang Vũ, con người thường được phát hiện ở chiều thứ tư của thời gian - đó là chiều của đời sống tâm linh. Có thể thấy, hình tượng thời gian trong sự kết hợp đồng hiện quá khứ - hiện tại - tương lai là nghệ thuật xây dựng thời gian đời tư, thời gian tâm tưởng trong thế giới thơ Lưu Quang Vũ. Chính dòng thời gian đồng hiện này làm cho con người đời tư bộc lộ tâm trạng trên nhiều chiều kích. Tưởng nhớ thì tưởng nhớ đến quắt quay, âu lo thì âu lo đến ám ảnh, còn khao khát thì khao khát đến tận cùng. Sự giao thoa của ba chiều thời gian như thế đã tạo trong thơ Lưu Quang Vũ hình tượng thời gian mang chiều kích mới: quá khứ trở nên xưa hơn, hôm nay đã đan cài đường vân của cái đang còn phía trước và nhất là tương lai lại ôm chứa cả chiều xưa quá khứ và chiều sâu thực tại: Nắng đầu hạ chưa về/ mưa cuối xuân sắp
  • 32. tạnh/ một cái gì mong manh, thấp thoáng/ đang bồn chồn chuyển động giữa không gian (Em có nghe...). Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật thể hiện trong thế giới trữ tình với nhiều chiều kích mới. Ngay trong thời gian lịch sử xã hội đã mang cái nhìn đa chiều của chủ thể trữ tình. Con đường là không gian nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Tố Hữu. Đó là con đường ra trận, con đường lớn, con đường của ánh sáng và khát vọng… Cái tôi trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu được bộc lộ ấn tượng trong những không gian như thế. Chính góc nhìn không gian đó góp phần khắc sâu hơn bản sắc thơ Tố Hữu, ở đó cái tôi trữ tình chính trị là cái tôi chủ đạo. Hay cái tôi đời tư của thơ hiện đại trải mình trong nhiều không gian, thể hiện được chiều sâu nội cảm của chủ thể trữ tình. Đó là không gian hồi tưởng, không gian tái sinh, không gian tiên cảm… Mỗi vùng không gian như thế phản ánh sâu sắc thế giới tinh thần con người. Khi đối mặt với những vênh lệch đời tư, cái tôi đắm mình trong không gian hồi tưởng. Khi hạnh phúc trở về, con người sống trong cảm thức không gian tái sinh. Và khi niềm đau của quá khứ chưa thể nào lành hẳn, khi quá nâng niu hạnh phúc có lại sau mất mát, cái tôi lại không yên với những khoảng trống hẫng hụt đang đón đợi. Như vậy, đó là không gian tâm tưởng gắn với sự tự nghiệm về bản thân hay đó là sự thức nhận của cái tôi về thế giới khách quan. Thể thơ cũng là một sự lựa chọn có dụng ý của chủ thể sáng tạo, góp phần đắc lực trong việc biểu hiện cái tôi trữ tình. Nguyễn Duy tìm đến lục bát như là một cách làm mới bút pháp nghệ thuật từ chất liệu truyền thống. Hơi hướm dân gian phả vào tác phẩm của nhà thơ thương mến đến tận cùng chân thật. Phạm Tiến Duật lại xáo mình trong những vần thơ tự do. Đây là môi trường phù hợp nhất với một hồn thơ dí dỏm, không chịu bó mình vào ràng buộc. Và thơ tự do cũng là sự lựa chọn hiệu quả của rất nhiều cây bút thơ trẻ. Ở đó, cái tôi trữ tình thỏa sức trong những đề tài giàu chất chính luận, đề tài thế sự đời tư. Thơ tự do cũng là mảnh đất đủ sức ôm chứa hiện thực ngồn ngộn của thời đại thơ 1965 - 1975 và đặc biệt là thơ sau 1975 với muôn điệu đời thường. Mỗi thể thơ là hình thức nghệ thuật để cái tôi trữ tình thể hiện mình.
  • 33. Cái tôi trữ tình còn được biểu hiện thông qua chất liệu ngôn từ, yếu tố quan trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà thơ nhọc nhằn trong việc lựa chọn một nhãn tự hay trăn trở để tìm ra những lời thơ giàu sức gợi. Ngôn từ nghệ thuật là một thế giới có quy luật riêng, thậm chí có những lí lẽ riêng mà nếu đi tìm cái hữu lí của nó sẽ là việc làm vô lí. Bởi đó là quy luật của sự sáng tạo, là cái lí của tâm hồn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác trong thơ là một dẫn chứng. Huy Cận có một thời gian xa cách được đo bằng thời gian cảm giác: Thuở chờ đợi thời gian ôi rét lắm. Trần Đăng Khoa như chạm vào được tiếng rơi của chiếc lá, bằng cả sự rung động khẽ khàng trong tâm hồn: Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Hay nhiều cách dùng từ rất mới trong thơ cũng là sự thể hiện cách cảm, cách nhìn độc đáo của cái tôi trữ tình đối với hiện thực. Ngay khi ngôn ngữ của cuộc sống đời thường ồ ạt vào thơ thì đó cũng là thứ ngôn ngữ mang giá trị thẩm mĩ, là khuynh hướng tăng cường chất tự sự trong thơ trữ tình. Và chính thế giới nghệ thuật trần trụi của ngôn ngữ đời thường ấy lại là cái tạng của nhà thơ, làm nên phong cách nghệ thuật tác giả. Tính chất này tạo nên những diện mạo mới cho cái tôi trữ tình trong thơ hiện đại. Cái tôi trữ tình còn biểu hiện mình ở sắc giọng khác nhau. Thăng - trầm, được - mất trong tôi tạo nên những sắc giọng chồng chất. Cùng nếm trải tình yêu, song mỗi cái tôi là một cung bậc. Hay ngay trong cái tôi, cũng là sự đan xen nhiều chất giọng. Thơ tình đâu chỉ là tiếng nói dịu dàng đằm thắm, đâu chỉ là chất nồng nàn sôi nổi, cũng đâu chỉ có đắm đuối mê say mà còn là phấp phỏng âu lo, là ngóng đợi, là thổn thức, giằng xé, đớn đau… Mỗi cái tôi trữ tình lại là một cung âm không lẫn, góp phần chủ yếu tạo nên sự đa dạng của cái tôi trữ tình, tạo nên nhiều phong cách nghệ thuật thơ. Trong đó giọng điệu chủ đạo là sự thể hiện đậm nét nhất cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Tồn tại trong thế giới nghệ thuật, đặc trưng thẩm mĩ của cái tôi trữ tình còn được thể hiện ở những phương thức nghệ thuật khác. Một chỉnh thể nghệ thuật với hình thức biểu đạt càng phong phú càng góp phần khắc họa sinh động dạng thức cái
  • 34. tôi trữ tình. Đây là hệ quả tất yếu của sự kết hợp hài hòa giữa nội dung trữ tình và hình thức trữ tình của thơ ca. 1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại Đời sống thơ Việt Nam 1965 - 1975 đã có những chuyển mới với một lực lượng sáng tác trẻ ở những vùng thơ khác nhau (Các cây bút miền Bắc và vùng giải phóng: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lưu Quang Vũ, Phạm Ngọc Cảnh, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Thu Bồn; các cây bút vùng tạm chiếm miền Nam gồm cả đội ngũ “viết trên đường tranh đấu” - phần lớn là lực lượng học sinh sinh viên sáng tác trên “trận địa đường phố”: Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Đông Trình, Thái Ngọc San, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Văn Phụng, Tần Hoài Dạ Vũ, Bùi Chí Vinh… và cả một bộ phận nhà thơ nằm ngoài dòng chủ lưu của văn học cách mạng, với ngòi bút khơi sâu vào bi kịch thân phận con người: Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ, Trần Dzạ Lữ, Đynh Hoàng Sa, Lê Ký Thương, Đynh Trầm Ca, Lê Nhược Châu, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Nguyễn Phan Thịnh, Trần Thúc Vũ, Nguyễn Tất Nhiên…). Chính những diễn đàn báo chí của miền Nam bấy giờ như Đối diện, Đứng dậy, Khởi hành, Sáng tạo, Tin văn, Văn, Ý thức... là môi trường sáng tác chủ yếu để các cây bút vùng tạm chiếm miền Nam thể nghiệm và bộc lộ được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ; bước đầu tập hợp cho thơ 1965 - 1975 một lực lượng cầm bút có những nét riêng trong quan niệm nghệ thuật, khuynh hướng sáng tạo, tư duy nghệ thuật. Bước vào đời sống văn học từ những vùng đất khác nhau của Tổ quốc, lực lượng sáng tác mới này đã dốc hết mình trong cuộc chạy tiếp sức của lịch sử thơ ca, mang sắc diện riêng của một thời đại. Đó là lớp nhà thơ trẻ - một sự hợp thành có vẻ ngẫu nhiên song lại rất biện chứng của ba mảnh ghép: miền Bắc, vùng giải
  • 35. phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. “Không thể nào nói tới sự tiến bộ, sự phát triển của một nền văn học nếu như một thế hệ nhà văn trẻ đã không đủ tư cách, tài năng để thay thế được những bậc cha anh họ và đã không mang trong mình những nhân tố mới” [243, tr.105]. Chính sự xuất hiện của một thế hệ thơ trẻ đã dẫn đến sự ra đời của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Như vậy, có thể quan niệm thơ trẻ là sáng tác của lớp nhà thơ trẻ - được xem như là một thế hệ thứ ba, tiếp nối thế hệ nhà thơ tiền chiến và thế hệ nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp. Cần nói thêm rằng, thơ trẻ ở đây không còn được hiểu với tư cách một khái niệm cũ thường được dùng để chỉ sáng tác của đội ngũ nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong thời chống Mỹ, thấm nhuần lí tưởng cách mạng theo phần lớn quan điểm đánh giá hiện tượng văn học này. Thơ trẻ ở đây đã được tiếp cận với nội hàm được mở rộng, trước hết, nhìn từ phương diện vùng sáng tác. Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 bao gồm sáng tác của các bộ phận nhà thơ thuộc cả ba vùng: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Việc nhận diện phạm vi của đối tượng khảo sát được mở rộng như thế cũng là một cách vượt qua áp lực của những quan điểm trước đây khi nhìn nhận về hiện tượng thơ trẻ này; vì thế sự cố gắng làm mới một khái niệm cũ chắc hẳn không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong việc lí giải thật thấu đáo thuật ngữ. Từ thực tế này, khi chọn đối tượng nghiên cứu của đề tài là thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với tính chất tương đối của khái niệm thơ trẻ, tác giả luận án rất mong nhận được sự đồng tình, sẻ chia từ phía người tiếp nhận. Thế hệ thơ trẻ được hiểu là thế hệ nhà thơ với chất trẻ của lứa tuổi hai mươi, ba mươi bước vào sáng tác. Đây là một lực lượng sáng tác phần lớn xuất hiện và trưởng thành trong cùng một hoàn cảnh của thời đại - những năm chiến tranh chống Mỹ. Thơ trẻ vừa có chất trẻ của lứa tuổi, vừa có chất trẻ trong suy nghĩ, trong cảm xúc, trong tư duy nghệ thuật và cụ thể là trong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực. Mười năm chiến tranh ngột ngạt mùi lửa đạn đã tạo nên chất liệu nghệ thuật mới cũng như tác động đến khuynh hướng sáng tác thơ 1965 - 1975. Đó là sự xuất hiện của một lớp nhà thơ với lí tưởng thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật phong phú. Họ cùng tìm đến thế giới nghệ thuật như một sự tự
  • 36. nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình hài của đất nước, của nhân dân, thời đại hay tự nghiệm về thế giới đời tư phức tạp của con người. Phải nói, thế hệ thơ trẻ đã khẳng định “tiếng nói đặc sắc của riêng lứa tuổi trẻ mà những thế hệ nhà thơ trước không thể nói thay được” [74, tr.93]. Thật vậy, điều đáng ghi nhận của thế hệ thơ trẻ là khả năng khám phá tinh tế, từ những điều bình thường của cuộc sống và nâng những điều tưởng rất đỗi bình thường ấy lên thành vấn đề mang ý nghĩa khái quát “được đúc kết thông qua tâm trạng sinh động của một lớp người với mọi suy nghĩ, cảm xúc vui buồn, mọi yêu thương, kỉ niệm, mơ ước, mọi gian khổ, mất mát, mọi tình huống, hoàn cảnh sống” [74, tr.95]. Với tư thế người trong cuộc, họ mang vào sáng tác những mảng hiện thực “tươi nguyên sự sống”. Có thể khẳng định, chất liệu cơ bản nhất của thơ trẻ là hiện thực tươi rói. Cũng như những nhà thơ lớp trước, thế hệ thơ trẻ dám đối mặt với hiện thực chiến tranh, như lời bộc bạch của Hữu Thỉnh: “Như là sự sắp đặt của lịch sử, về sau này, hành trình thơ của chúng tôi cũng giống các anh. Bối cảnh thì khác, quy mô và tính chất ác liệt cũng khác, nhưng tinh thần dấn thân và hành động vẫn là một” [209, tr.7]. Tuy nhiên so với thế hệ trước, thế hệ thơ trẻ không thiên về “bình luận” chiến tranh mà họ “trình bày” cuộc chiến tranh, khốc liệt và trần trụi như nó vốn có. Đối với một số cây bút, chiến tranh còn được nhìn ở mặt khuất lấp, mặt trái và thậm chí bi kịch chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong tư duy nghệ thuật của các cây bút trẻ, nhiều nhất tập trung ở lớp nhà thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam mà với họ, số phận cá nhân mới là mối bận tâm lớn nhất. Các nhà thơ lớp trước cũng viết về cái riêng - chung, về Tổ quốc trong sự gắn kết với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc. Họ đã phản ánh tầm vóc thời đại và ý nghĩa nhân loại của cuộc chiến tranh, tuy nhiên cách cảm, cách nghĩ ấy dường như vẫn để lại một khoảng trống trong nhu cầu nhận thức và tình cảm của độc giả. Thấp thoáng trong những phong cách thơ ấy là sự lặp lại những thực tế, thậm chí những nếp nghĩ đã thành quen thuộc, cũ mòn. Người đọc vẫn khao khát, đón đợi sự xuất hiện của lớp nhà thơ “trực tiếp cầm súng, thật sự xông vào nơi mưa bom bão đạn, từng giờ từng phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói về mình và đồng đội của
  • 37. mình...” [107, tr.347]. Với tâm thế làm thơ ghi lấy cuộc đời mình, lớp nhà thơ trẻ thực sự lấy nét thật của cuộc sống làm vẻ đẹp tự thân của thế hệ mình, chối từ những trang sức vốn làm cho cuộc sống đẹp lên, đẹp mà gượng gạo. Họ “góp tiếng nói của lứa trẻ, tâm hồn trẻ, con mắt trẻ để nhìn đời, nhìn cái cụ thể của đời…” [14, tr.65] từ ý thức vượt mình trong sáng tạo nghệ thuật: muốn tươi mát hãy tự là dòng suối/ hát về mình đừng bắt chước tiếng chim (Hữu Thỉnh). Thế giới nghệ thuật thơ trẻ là sự tự nhận thức, tự ngẫm - tự họa về thế hệ mình trong hình hài đất nước, nhân dân. Khuynh hướng này đã tạo nên một âm hưởng mới của thời đại. Bên cạnh đó, thơ trẻ 1965 - 1975 còn có lối rẽ bên cạnh dòng chủ lưu của thơ ca cách mạng, mang cảm thức phi sử thi trải nghiệm nỗi đau chiến tranh và tự nghiệm về thế giới đời tư phức tạp của con người. Những tráng ca thuở trước/ còn hát trong sách thôi (Thanh Thảo). Tuyên ngôn nghệ thuật này cũng là hiện thân chất trẻ của thơ 1965 - 1975, từ ý thức tìm kiếm những thể thức biểu hiện phù hợp và ôm chứa được bản chất của hiện thực cuộc sống bấy giờ. Với cuộc sống ắp đầy không khí chiến tranh, các nhà thơ trẻ luôn cảm thấy không thể chỉ khuôn mình vào những hình thức nghệ thuật truyền thống như là một sự mô phỏng. Họ luôn đặt trách nhiệm của người nghệ sĩ trong sự sáng tạo ngôn từ, dẫu đó có khi chỉ là sự làm mới những hình thức nghệ thuật quen thuộc. Chẳng hạn từ phương diện thể loại, không chỉ đến thời này, trường ca và thơ tự do mới được lựa chọn. Song đến lượt mình, lớp nhà thơ trẻ đã có những sáng tạo nhất định: mở rộng điểm nhìn của chủ thể trữ tình trong trường ca từ triết luận cao cả đến suy tư, day dứt đời thường. Sáng tạo ngôn từ nghệ thuật còn thể hiện ở khuynh hướng tăng cường yếu tố khẩu ngữ và văn xuôi cho thơ tự do vốn đã là “cuộc xâm lăng” từ Thơ mới, nay càng thực sự “tự do” để vừa vặn với dung lượng hiện thực ngồn ngộn, vừa vặn với sự phóng túng của một số cây bút trẻ trong việc tái dựng những mặt gồ ghề của cuộc sống. Đây còn là sự hòa phối nhiều cung bậc giọng điệu, cốt để diễn tả đến sâu cùng thanh âm, ngữ điệu phức tạp của cuộc sống thời chiến. Tất cả tạo nên chất trẻ của một thế hệ, một giai đoạn thơ ca.