SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong giai đoạn 1930 - 1945, văn học Việt Nam phát triển với tốc
độ nhảy vọt. Vũ Ngọc Phan nhận định: "một năm ở nước ta bằng ba mươi
năm ở nước người". Gia tốc phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn này
thể hiện trên nhiều phương diện: sự xuất hiện một đội ngũ sáng tác hùng hậu,
sống bằng nghề văn; hàng loạt tác phẩm ra đời nhờ tiếp thu công nghệ in sách
của phương Tây; một công chúng văn học đông đảo ỏ thành thị với nhu cầu
mới mẻ, đa dạng, có tác dụng kích thích sự sáng tạo của nhà văn. Và nói đến
sự phát triển ngoạn mục ấy, không thể không nói đến sự phong phú của thể
loại văn học. Quả thật, khác với văn học trung đại trước đó, văn học Việt
Nam lúc này đã nằm trong quĩ đạo của hiện đại hoá. Mọi thể loại văn học đều
bừng rộ, đạt thành quả rực rỡ. Tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, thơ trữ tình,
kịch,…đều đồng loạt có mặt. Trong bức tranh thể loại đa sắc đó, không thể
không nói tới sự góp mặt của phê bình văn học.
1.2. Phê bình văn học đã có bước "chạy đà" trước đó với Nam Phong
tạp chí, Đông Dương tạp chí, và được tiếp nối với Tri Tân, Thanh Nghị, Ngày
nay… Giai đoạn này xuất hiện nhiều cây bút phê bình chuyên nghiệp, tiếp thu
phương pháp phê bình văn học của phương Tây và gặt hái được những thành
tựu đáng ghi nhận: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai,
Trương Tửu, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan… Trong số những cây bút phê
bình vừa kể trên, Vũ Ngọc Phan tuy không phải là gương mặt thật xuất sắc,
nhưng, nói đến lịch sử phê bình văn học hiện đại Việt Nam, không thể không
nhắc đến ông. Nổi bật hơn cả trong sự nghiệp trước tác của ông là bộ Nhà văn
hiện đại. Đúng như lời đầu sách của Nhà xuất bản Văn học trong lần tái bản
thứ VI: "Bộ sách Nhà văn hiện đại chưa phải đã thật hoàn hảo, như nhiều nhà
2
nghiên cứu, nhiều bạn đọc sau này đã chỉ ra; song vẫn là bộ sách có giá trị,
bởi cho đến nay, nó vẫn là một công trình bao quát nhất của một giai đoạn
văn học từ cuối thế kì XIX đến những năm 40 của thế kỉ XX - giai đoạn có
một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam". Như vậy,
không thể hình dung đầy đủ nền phê bình văn học thời bấy giờ nếu không nói
đến bộ Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan.
1.3. Nói đến đóng góp của Nhà văn hiện đại dĩ nhiên trước hết phải nói
đến mặt học thuật, gắn với phương pháp phê bình, tầm bao quát tư liệu, các
nhận định về tác giả và tác phẩm, ảnh hưởng của nó đối với tình hình sáng tác
lúc bấy giờ và cả sau này. Những mặt đó đã được đề cập với những mức độ
đậm nhạt khác nhau trong các bài viết, các công trình nghiên cứu về bộ sách.
Song nếu đặt Nhà văn hiện đại (cũng như một số công trình phê bình khảo
cứu văn học thời bấy giờ) vào không khí văn học Việt Nam những năm 30 -
40 của thế kỉ XX ở Việt Nam, cần nhìn thêm một khía cạnh: sự đóng góp của
tác giả đối với việc hiện đại hoá ngôn ngữ văn học. Thông thường, nói đến
hiện đại hoá ngôn ngữ văn học, người ta chú trọng đặc biệt đến công lao của
Thơ mới, của văn xuôi Tự lực văn đoàn và tác phẩm của nhiều nhà văn thời
đó. Điều ấy hiển nhiên là đúng. Nhưng vẫn còn thiếu sót nếu không chú ý đến
sự góp công của các cây bút phê bình văn học, bởi, chính thể loại vừa có tính
khoa học vừa có tính nghệ thuật này cũng để lại những dấu tích rõ ràng trong
việc du nhập các khái niệm ngữ văn từ phương Tây, làm giàu thêm vốn từ
vựng ngôn ngữ dân tộc, hoặc trong việc hiện đại hoá câu văn quốc ngữ vốn
được khởi sự từ những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…
Để ngôn ngữ phê bình văn học có được diện mạo và phẩm chất như hiện nay,
rõ ràng có sự đóng góp âm thầm, bền bỉ của nhiều thế hệ các nhà phê bình,
mà một trong số đó chính là Vũ Ngọc Phan với công trình Nhà văn hiện đại.
3
Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu Ngôn
ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan với
khuôn khổ một luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, chuyên luận về Vũ
Ngọc Phan, về Nhà văn hiện đại của ông, nhưng dường như phần lớn chỉ xét
về mặt văn chương.
Trong Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng Tháng Tám của
chính Vũ Ngọc Phan (Tạp chí Văn học, số 9/ 1965), ông tự nhận xét về cuốn
Nhà văn hiện đại của mình là “nói có sách, mách có chứng, không khen chê
vu vơ…”. Đồng thời, ông cũng nêu một số vấn đề về chế độ xã hội lúc bấy
giờ để lí giải tại sao tác phẩm Nhà văn hiện đại không đề cập đến chính trị.
Nhà phê bình Lê Thanh trong Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về một
phương pháp phê bình văn học (Tri Tân, số 8/1943 – Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội, 1998) cho rằng Vũ Ngọc Phan tự nhận viết cuốn Nhà văn hiện đại theo
“phương pháp khoa học và thuyết tiến hoá”.
Nhà văn Thạch Lam cùng thời với Vũ Ngọc Phan nhận định: “lối phê
bình của Vũ Ngọc Phan là rất nhạt, chung chung, không theo một chính kiến
rõ ràng”.
Trong bài báo Nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại và phong
cách (Tạp chí Văn học, số 1/1993) và trong công trình Về phương pháp phê
bình và nghiên cứu văn học (đăng trong chuyên luận Lí luận, phê bình văn
học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX), Nguyễn Ngọc Thiện có một phần viết riêng
về Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Tác giả cho rằng, phê bình văn học
của Vũ Ngọc Phan là “rất thú vị, xét đoán theo tiêu chí đặc trưng chung của
nhóm, loài, nhưng mỗi cá thể vẫn giữ được cái riêng biệt, đơn nhất của mình”.
4
Tuy thế, ông cũng khẳng định: một số nhận xét của Vũ Ngọc Phan còn rất
khiên cưỡng.
Trong một chuyên luận do Nhà xuất bản Văn học ấn hành của nhóm tác
giả Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Tôn Thảo Miên, Hà
Công Tài, Trịnh Bá Đĩnh, Cao Kim Lan, Đinh Thị Minh Hằng nghiên cứu về
lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, có một số bài
viết liên quan đến Vũ Ngọc Phan.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp ở bài viết Vũ Ngọc Phan (1902-1987) cho
rằng: “Với Vũ Ngọc Phan, phê bình không phải là hoạt động tuỳ hứng có tính
chủ quan. Ông muốn tiếp cận các giá trị của văn chương bằng cái nhìn của
nhà khoa học…dựa theo những tiêu chí cụ thể và nhất quán”, “Những nhận
xét của Vũ Ngọc Phan về Nguyên Hồng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài…
cũng có nhiều chỗ chính xác. Khi phân tích sáng tác của các nhà văn, Vũ
Ngọc Phan hay dùng thủ pháp so sánh. Thủ pháp này góp phần nhận chân nét
riêng của các cây bút này thêm rõ nét”, “Với thái độ phê bình cẩn trọng, nhiều
nhận đinh của Vũ Ngọc Phan chừng mực và chính xác. Ông còn có những
phát hiện tinh tế mà cho đến nay ta vẫn thấy tính thuyết phục trong các nhận
định ấy”. Nhược điểm rõ nhất của Nhà văn hiện đại là chưa thể hiện được sự
phong phú của văn học; việc sắp xếp các nhà văn vẫn chưa hợp lí trong
trường hợp có nhiều nhà văn viết nhiều thể loại khác nhau; phân tích các tác
phẩm chưa thật kĩ lưỡng, thậm chí chỉ đưa ra những nhận xét một cách khái
quát chứ không chứng minh. Tuy thế, Vũ Ngọc Phan với Nhà văn hiện đại
vẫn là “người công phu và tinh tế…Ông là người nhìn văn học bằng sự điềm
tĩnh của nhà nghiên cứu”.
Trịnh Bá Đĩnh trong Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỉ XX đã
nhận thấy Vũ Ngọc Phan coi “phê bình thuộc sáng tạo của nghệ thuật” và ông
đã “đồng đẳng” các thể loại văn học với thơ, kịch, truyện và kí.
5
Tác giả Trần Bích San trong Phê bình văn học nhận ra rằng Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại là một người “phê bình tác phẩm theo quy tắc
ngữ văn hơn là một người đi tìm cái đẹp, khám phá các công trình sáng tạo.
Tuy vậy, ông là nhà phê bình có ý thức vững chắc và trung thành với nhiệm
vụ cùng phương pháp phê bình. Ông đã phê bình các sáng tác văn học đúng
theo tiêu chuẩn của ông”.
Ngược lại, Đỗ Lai Thuý trong Phê bình văn học Việt Nam trên đường
hiện đại hoá thì cho rằng: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là sự tranh
chấp giữa phê bình khoa học và phê bình ấn tượng, giảng giải, nhận xét vụn
vặt.”
Như vậy có thể thấy rõ rằng sức sống của tác giả Vũ Ngọc Phan cùng
với tác phẩm Nhà văn hiện đại đã vượt qua giới hạn về mặt thời gian trong
gần thế kỉ qua, từ khi ra đời – năm 1939 đến nay. Chúng tôi đã thu thập được
hơn 15 tác phẩm viết về nhà văn Vũ Ngọc Phan cùng với tác phẩm Nhà văn
hiện đại. Tuy thế cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dưới góc độ ngôn ngữ một cách có hệ thống.
Đó là một trong những lí do để chúng tôi triển khai công trình nghiên cứu
này.
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
3. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bộ sách Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan gồm hai tập, tập 1 có 3 quyển, tập 2 có 3 quyển.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học;
- Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ phê bình văn học của Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại trên hai cấp độ cơ bản: từ ngữ và cú pháp.
6
- Tìm dấu ấn thời đại và những đóng góp của Vũ Ngọc Phan đối với
việc hiện đại hoá ngôn ngữ phê bình văn học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau
đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp miêu tả, giải thích.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp loại hình - lịch sử.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm ba chương
như sau:
Chương 1: Phê bình văn học, vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học và
công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
Chương 2: Từ ngữ trong Nhà văn hiện đại
Chương 3: Câu văn trong Nhà văn hiện đại
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.
7
Chương 1
PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGÔN NGỮ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
VÀ CÔNG TRÌNH NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI CỦA VŨ NGỌC PHAN
1.1. Phê bình văn học và vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học
1.1.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của phê bình văn học
Nhận thức về bản chất của phê bình văn học là một quá trình, và quan
niệm về phê bình văn học cũng đã từng có những chỗ rất khác nhau. Nhưng
dù chưa phải đã có sự nhất quán trong các quan niệm, thì cũng không thể phủ
nhận rằng, phê bình văn học là một hoạt động tất yếu của mọi nền văn học.
Sản phẩm nghệ thuật ra đời, đồng thời cũng phải chịu sự phán xét của công
chúng tiếp nhận: hoặc khen hoặc chê. Thái độ đó không chỉ của bạn đọc nói
chung, mà quan trọng hơn, ở một lớp "độc giả đặc biệt", có sự am hiểu sâu
sắc về văn học, có quan điểm lí thuyết, có vốn văn hóa sâu rộng, đó là các nhà
phê bình văn học.
Đỗ Lai Thúy cho rằng, phê bình có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa
thông tục của ngôn ngữ thường nhật, hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của
khoa học văn học. Theo nghĩa rộng, phê bình chỉ bất cứ sự khen chê, đánh giá
nào về một tác phẩm, một sự kiện văn học, từ một câu thơ câu văn cho đến
một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học. Nhưng phê bình văn học theo
nghĩa là một hoạt động chuyên môn thì chỉ xuất hiện khi nhân loại bước vào
thời đại mới, trước hết là ở châu Âu (đầu thế kỉ XIX) [39, tr.18-19]. Và cũng
chỉ phê bình hiểu theo nghĩa hẹp như vậy mới là một hoạt động vừa mang tính
khoa học, vừa mang tính nghệ thuật.
Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở chỗ, nó có đối tượng
riêng, có phương pháp riêng. Đối tượng của phê bình văn học là trước hết là
tác phẩm - yếu tố trung tâm của hệ thống văn học. "Người ta có thể phê bình
8
một một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học,
nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm" [39, tr.25].
Từ lâu, tác phẩm văn học đã là đối tượng nghiên cứu của một số khoa
học xã hội và nhân văn. Tùy theo mục đích của mình, mỗi khoa học có hướng
tiếp cận riêng đối với tác phẩm văn học.
Cũng xem tác phẩm là đối tượng, nhưng phê bình văn học của thế giới
trước thế kỉ XX coi tác phẩm như là sự mô phỏng cuộc sống, như là bản sao
của thiên nhiên. Chỉ từ thế kỉ XX, tác phẩm mới thực sự là một tồn tại tự thân,
và do vậy, mới là đối tượng nghiên cứu thực sự của khoa học văn học, trong
đó có phê bình văn học. Và cũng từ đây, phê bình văn học phải có quan niệm
đầy đủ về tác phẩm văn học, trên cơ sở đó mới có thể xác định các phương
pháp phù hợp.
Tác phẩm văn học trước hết là một sáng tạo ngôn từ. Từ chất liệu có
sẵn là ngôn ngữ tự nhiên, nhà văn tạo nên tác phẩm. Một tác phẩm văn học
chỉ thực sự có sức sống tự thân khi nó là sản phẩm độc đáo, mang tính đơn
nhất, không lặp lại.
Tác phẩm văn học phải là một nghệ thuật. Nghĩa là nó có những thuộc
tính chung với những loại hình nghệ thuật mà con người đã tạo ra như âm
nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh. Đặc trưng chung
của nghệ thuật là tính thẩm mĩ, tính gợi cảm. Không tạo ra cái đẹp, không
được xem là nghệ thuật. Mặt khác, không có khả năng đánh thức cảm xúc của
con người cũng chưa phải là nghệ thuật.
Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở các phương pháp mà nó
vận dụng. Trên tiến trình phát triển của mình, phê bình văn học đã từng được
biết đến với các phương pháp: phê bình ấn tượng chủ nghĩa, phê bình tiểu sử
học, phê bình văn hóa - lịch sử, phê bình xã hội học mác xít, phê bình phong
cách học, phê bình thi pháp học, phê bình phân tâm học, phê bình văn học từ
9
hệ thống văn hóa. Mỗi phương pháp phê bình ra đời đều gắn với hệ tư tưởng,
với những quan niệm triết mĩ, với lí thuyết. Thiếu lí thuyết, nhà phê bình - nói
theo cách Nguyễn Hưng Quốc - không khác gì người mù. Trong tiểu luận Ba
chức năng chính của phê bình, Nguyễn Hưng Quốc viết: "Các lý thuyết văn
học vừa tồn tại như một sự phê bình đối với bản thân ý niệm văn học vừa tồn
tại như một cương lĩnh để các nhà phê bình cũng như người đọc nói chung
theo đó tiến hành công tác phê bình các tác phẩm văn học. Trong cách nhìn
này, phê bình văn học và lý thuyết văn học có quan hệ mật thiết với nhau:
không có một lý thuyết văn học nào không được hình thành trước hết như một
cách phê bình đối với một lý thuyết, hoặc ít nhất, đối với một cách nhìn nào
đó về văn học; và không có một hành động phê bình nghiêm chỉnh nào lại
không dựa trên một cơ sở lý thuyết nhất định. Khi tính chất đa nguyên về văn
hoá và thẩm mỹ càng phát triển, các nhà phê bình càng đối diện với nhu cầu
tự chứng minh và bênh vực cho các luận điểm của mình, do đó, càng phải lún
sâu vào lý thuyết: ngay cả khi họ thực lòng không thích lý thuyết thì họ cũng
bị buộc phải lý thuyết hoá thái độ phản - lý thuyết của họ" [31].
Hiện nay, người ta chia phê bình thành phê bình báo chí và phê bình
học thuật. Dĩ nhiên, phê bình học thuật có tính khoa học cao hơn, có đóng góp
nhiều hơn cho sự phát triển của bản thân nền phê bình cũng như sự tác động
tích cực đến hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.
Không chỉ có tính khoa học, phê bình văn học còn mang tinh nghệ
thuật. Điều này bị qui định trước hết ở đối tượng của phê bình: tác phẩm văn
học là một hiện tượng thẩm mĩ. Hành trình "thám mã", khám phá những giá
trị của tác phẩm văn học của nhà phê bình không chỉ trông cậy ở sự "thông
minh", sự sắc sảo của lí trí, ở hiệu năng của lí thuyết được vận dụng, mà còn ở
sự rung động của tâm hồn. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy quan niệm: "Nhà văn
và nhà phê bình đều đi trên một lộ trình, nhưng ngược chiều nhau: sáng tác đi
10
từ ý tưởng đến ngôn ngữ bằng con đường trực giác nghệ thuật, còn phê bình
đi ngược lại từ ngôn ngữ đến ý tưởng bằng con đường ý thức khoa học" [39,
tr.55]. Ông cũng "định lượng hóa" thao tác của nhà văn và của nhà phê bình:
"Nói một cách định lượng thô thiển thì, khi sáng tác, nhà văn sử dụng 70%
trực giác, xuất thần, cảm hứng và 30% ý thức, còn khi phê bình tác phẩm, nhà
phê bình lại sử dụng 70% ý thức và 30% trực giác" [39, tr.55]. Một "liều
lượng trực giác" mà nhà phê bình cần đến trong hoạt động của mình như vậy
là điều có ý nghĩa quyết định để anh ta có thể chỉ ra chỗ ẩn giấu của cái đẹp
cũng như giải thích về cái đẹp được khám phá.
Nhà phê bình có vị thế độc lập với người sáng tạo. Bởi thế, văn bản phê
bình tồn tại song song với văn bản nghệ thuật mà nó tìm hiểu, đánh giá. Ở chỗ
này, nhà phê bình cũng được xem là người sáng tạo. Nếu sáng tạo của nhà
văn dựa trên chất liệu đời sống, thì nhà phê bình sáng tạo trên vật liệu đặc thù:
tác phẩm của nhà văn. Nhà phê bình là một nhà văn. Tác phẩm phê bình là
một tác phẩm văn chương. Người ta gọi đây là phê bình nghệ sĩ. Phê bình là
một tác phẩm nghệ thuật, là sự tái kiến tạo một phong cách từ một phong cách
khác, là sự biến đổi ngôn ngữ thành một ngôn ngữ khác. Trong lịch sử phê
bình của chúng ta, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân là ví dụ
điển hình của phê bình nghệ sĩ, và chính tác phẩm này đã đem đến cho độc
giả nhã hứng đặc biệt như đọc những vần Thơ mới vậy.
1.1.2. Ngôn ngữ phê bình văn học
1.1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ phê bình văn học
Ngôn ngữ phê bình văn học là một bộ phận, một biểu hiện của ngôn
ngữ văn học (còn gọi là ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ văn
chương [13, tr.311-312].
Theo Lại Nguyên Ân, ngôn ngữ văn học là dạng thức đã được chỉnh lí
của ngôn ngữ toàn dân, được những người dùng ngôn ngữ này coi là chuấn
11
mực. Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ được dùng trong các
phương tiên thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản
phẩm), nhà trường, sân khấu, khoa học, văn học (nghệ thuật ngôn từ, giấy tờ
quan phương, sự vụ... [1, tr.232].
Như vậy, ngôn ngữ văn học đối lập với ngôn ngữ thông tục, các
phương ngữ khu vực (của từng lãnh thổ), các phương ngữ xã hội (của từng
giới hẹp). Các chuẩn mực của ngôn ngữ văn học là chuẩn mực toàn dân,
nhằm mục đích chính là để toàn dân hiều được.
Ngôn ngữ văn học là là kết quả sự sáng tạo tập thể, là một trong những
thành tựu văn hóa chung của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Phạm vi ứng dụng
quan trọng của nó chính là văn học (nghệ thuật ngôn từ). Tuy nhiên, không
nên nhầm lẫn giữa các khái niệm "ngôn ngữ văn học" (với nội hàm đã lí giải
trên đây) với "ngôn ngữ của văn học" (tức là ngôn từ nghệ thuật").
Ngôn ngữ văn học dưới dạng viết không chỉ được dùng trong văn học,
mà còn được dùng trong tác phẩm khoa học, báo chí, giấy tờ sự vụ; nó còn
được dùng dưới dạng nói, tức là lời hội thoại, nhất là ở các giao tiếp công
cộng và chính thống (quan phương). Ngôn ngữ được dùng ở các sáng tác văn
học không chỉ đóng khung trong phạm vi các chuẩn mực ngôn ngữ văn học;
các nhà văn còn sử dụng các thành phần ngôn ngữ thông tục, phương ngữ,
biệt ngữ (tiếng lóng) - từ là các thành phần không được coi là "ngôn ngữ văn
học".
Mỗi ngôn ngữ văn học phát triển phục vụ những phạm vi hoạt động
chính của tập thể nói bằng ngôn ngữ ấy. Tùy thuộc phạm vi hoạt động mà nó
có những dạng thức sau: Thứ nhất, ngôn từ hội thoại - dùng trong giao tiếp
bình thường, không gắn liền với đề tài chuyên biệt. Thứ hai, ngôn từ chuyên
môn - dùng trong khuôn khổ các đề tài có ranh giới chặt chẽ. Thứ ba, ngôn từ
nghệ thuật - dùng trong các sáng tác văn học; việc sử dụng ngôn ngữ ở đây
12
chủ yếu hướng tới chức năng thẩm mĩ. Ở các dạng thức hoạt động chức năng
cụ thể nêu trên, việc tổ chức văn bản được thực hiện theo những nguyên tắc
khác nhau.
Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ văn học gắn bó ở mức đáng
kể với sự phát triển của văn tự (chữ viết). Chính việc được ghi lại bằng văn tự
đã làm định hình các chuẩn mực chung của ngôn ngữ văn học, làm hình thành
tính bắt buộc và tính cố định tương đối của các chuẩn mực ấy. Tuy nhiên,
phần lớn các ngôn ngữ văn học hiện đại đều gồm cả dạng nói và dạng viết;
hơn thế, những đặc điểm khác biệt căn bản bên trong một ngôn ngữ lại gắn
không phải với dạng nói hay dạng viết mà là với dạng sách vở và dạng hội
thoại của ngôn ngữ văn học (ví dụ, các phát biểu trước công chúng thường
hướng tới ngôn từ sách vở, dù được bộc lộ ở dạng nói; trong khi đó, ở các văn
bản nghệ thuật lại có sự mô phỏng nhiều đặc điểm của ngôn ngữ hội thoại, dù
được ghi bằng văn tự. Người ta gọi đây ngôn ngữ sinh hoạt được tái hiện.
Ngôn ngữ văn học luôn luôn được phát triển và làm giàu, với điều kiện
thiết yếu cho hoạt động chức năng của ngôn ngữ là các chuẩn mực của nó
phải ổn định. Là thành tựu và sự phản ánh của văn hóa dân tộc, ngôn ngữ văn
học phải là nơi gìn giữ tất cả những gì có giá trị được biểu hiện bằng ngôn từ
đã được tạo ra bởi các thế hệ từng sử dụng ngôn ngữ ấy [1, tr.233].
Như vậy, ngôn ngữ văn học là khái niệm có sự bao hàm khá rộng các
loại diễn ngôn, mà phê bình văn học cũng chỉ là một dạng diễn ngôn trong đó.
Nói cách khác, ngôn ngữ phê bình văn học là một dạng thức của ngôn ngữ
văn học. Trong ngôn ngữ của nền quốc văn mới, lần đầu tiên, tiếng Việt có
một dạng thức ngôn ngữ mới, trước đó chưa từng biết đến. Với các ngôn ngữ
châu Âu, lối viết khảo luận phê bình đã có từ sớm, mà nguồn gốc là từ các tác
phẩm triết học, luận lí học, và sau đó là báo chí. Ở Việt Nam, báo chí chính là
cái nôi đầu tiên của ngôn ngữ phê bình. Từ báo chí, chúng mới dần dần thành
13
những chuyên khảo ở thập kỉ 30 của thế kỉ XX. "Sự có mặt của ngôn ngữ lí
luận phê bình đã có tác dụng rất tích cực trong việc làm thay đổi diện mạo
ngôn ngữ văn học ở nước ta. Nó cũng là một cái nền để ngôn ngữ văn học
mới có thêm nguồn lực mà phát triển" [35, tr.823-824].
1.1.2.2. Một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học
Do đặc thù của thể loại và đối tượng tiếp cận, văn bản phê bình văn học
có sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ thuật. Chính điều này
góp phần qui định những đặc điểm riêng của ngôn ngữ phê bình văn học.
a) Ngôn ngữ phê bình văn học trước hết phải có tính chính xác. Là một
bộ phận của khoa học xã hội và nhân văn, tính chính xác của phê bình văn
học dĩ nhiên có những sự khác biệt so với ngôn ngữ của khoa học tự nhiên,
nói cách khác, sự chính xác ở đây là có tính tương đối. Tính chính xác của
ngôn ngữ phê bình thể hiện ở các tri thức lí thuyết được trình bày hoặc vận
dụng; ở hệ thống thuật ngữ mà nó sử dụng để diễn đạt các nội dung khoa học;
ở sự trung thực trong trích dẫn ý kiến của người khác hoặc các dẫn từ các tác
phẩm... Chẳng hạn:
- "Trong một áng văn rất cổ xưa của Platon các nhà phê bình văn học
thời nay tìm thấy một định thức chuẩn xác về thực chất của cái công việc mà
họ đương làm. Đề cập đến những tiêu chuẩn của một công dân Hy Lạp có
học, Platon nhấn mạnh tầm quan trọng của việc am hiểu thơ ca, tức là “hiểu
được những gì mà các nhà thơ nói, phán định được cái gì hay và cái gì không
hay trong những trước tác của họ, biết phân tích những cái đó và giải thích,
nếu có ai hỏi" [9].
- "Ðối với nhà bình giải văn học thì văn chương là lĩnh vực độc lập, có
ý nghĩa và mục đích tự thân, "văn chương (chính) là văn chương". Nó có chức
năng sáng tạo ra cái đẹp, đem lại mĩ cảm cho độc giả, khiến họ "quên những
sự nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa" (Hoài Thanh).
14
Như vậy, chức năng thanh lọc tâm hồn và giải trí được đề cao, các nhiệm vụ
giáo dục luân lí, đạo đức, nhận thức thế giới... bị coi nhẹ. Một tác phẩm văn
học vì thế - theo cách nói hình ảnh của Hoài Thanh - có thể chỉ cần làm một
bông hoa mà không nhất thiết phải thành quả" [9].
b) Ngôn ngữ phê bình văn học phải có tính chặt chẽ. Nếu sáng tác văn
học là sản phẩm của kiểu tư duy hình tượng, thì phê bình văn học lại là sản
phẩm của tư duy thiên về lô gic. Sức thuyết phục của văn bản phê bình phụ
thuộc vào "hàm lượng khoa học", ở những luận thuyết, ở các dẫn chứng minh
họa... Điều này được phản ánh rõ nét trong hình thức ngôn ngữ của văn bản
phê bình, ở đó, tính chặt chẽ thể hiện ở các kiểu lập luận, ở các thao tác phân
tích, giải thích, chứng minh... Ví dụ:
- "Hiện nay, phê bình lý thuyết rất được coi trọng. Hợp tuyển các công
trình phê bình nổi tiếng thế giới đều không thể vắng mặt những tên tuổi như
R. Jakobson[13]
, M. Bakhtin, R.Barthes, J. Derrida, M.Foucault, T. Adorno,
H.R. Jauss, W. Iser... Người ta yêu thích những tác giả có đóng góp về lý
thuyết, hoặc những công trình giàu sáng tạo lý thuyết. Có điều đáng lưu ý là
loại phê bình này không nhất thiết phải viết về những tác giả đương đại, mà
chủ yếu là những tác giả đã được khẳng định, kể cả những nhà văn tưởng như
đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, như Bakhtin về Dostoievski và Rabelais,
Barthes về Sarrasine của Balzac, không phải để “ăn mày dĩ vãng” mà cốt để
làm rõ hiệu quả của phương pháp mới trên một tác phẩm cũ tưởng đã cạn kiệt
thông tin. Như vậy, ở đây tính thời sự mà người ta vẫn coi như một thuộc tính
của phê bình cần phải được hiểu khác, rộng hơn: không chỉ phê bình các tác
phẩm đương đại, mà cả dùng lý thuyết và phương pháp hiện đại để phê bình
những tác phẩm quá khứ. Bởi, xét cho cùng, làm chết một tác phẩm sống và
làm sống một tác phẩm chết thì cũng như nhau" [39, tr.19].
15
- "Trong cái thứ lý tưởng văn học mà độc giả đại chúng giữ địa vị của
một ông chủ vô hình khổng lồ có quyền đòi hỏi được phục vụ và quyền thẩm
định giá trị, câu hỏi "viết cho ai?", từ ý nghĩa của một lời tự hỏi, càng lúc
càng hàm ý một sự đòi hỏi. Khi sự đòi hỏi không được đáp ứng, câu hỏi "viết
cho ai?" lại biến thành một lời ta thán. Là một lời ta thán, nó hàm chứa một
loạt những điều rất thú vị. Điều thú vị đầu tiên là dường như nó chỉ được nêu
lên vào những lúc có sự xuất hiện của những tác phẩm mới lạ"[43].
c) Tính biểu cảm là một đặc điểm khá nổi bật của ngôn ngữ phê bình.
Do đối tượng của phê bình văn học là tác phẩm văn học - biểu hiện của cái
đẹp, có sức lây lan cảm xúc, tạo mối đồng cảm ở người đọc, cho nên, nhà phê
bình hoàn toàn có thể bộc lộ những rung cảm của mình ở từng trang viết.
Người ta đã nói đến kiểu phê bình nghệ sĩ (nhà phê bình đồng thời là nhà văn,
tác phẩm phê bình đồng thời là tác phẩm văn chương, nghĩa là nó tác động
đến người đọc bằng tính biểu cảm). Ngay cả những nhà phê bình thuần túy,
chưa hề sáng tác văn thơ, cũng có thể viết nên những trang phê bình khiến
người đọc phải rung động. Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam là một trong
những trường hợp tiêu biểu. Lối viết phê bình kiểu ấn tượng của Hoài Thanh
đã tạo nên những trang viết giàu chất văn, đưa đến cho độc giả những khoái
thú, không khác gì được đọc những áng thơ văn giàu cảm xúc. Ví dụ:
- "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn
nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống
vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui
cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết" [37, tr.106].
- "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu
16
không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn trở buồn trở
về hồn ta cùng Huy Cận" [37, tr.46-47].
Lúc mới bắt đầu viết phê bình, Nguyễn Hưng Quốc cũng rất mê lối văn
giàu cảm xúc này, và từng làm say mê nhiều độc giả bởi thứ văn phê bình rất
"điệu", chẳng hạn:
- "Làm thơ là một cách tỏ tình. Nói lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, bổng
hay trầm, nào có quan trọng gì. Quan trọng là ở chỗ người mình yêu có chớp
mắt xúc động hay không. Nhà thơ lớn nào cũng đều là những tâm hồn lớn có
khả năng thu nhận và rung cảm trước những làn sóng vỗ từ xa, rất xa, ngoài
bản thân họ. Nhà thơ lớn là những hạt muối. Hạt muối nhỏ nhưng chất chứa
dồn nén trong mình tất cả những vị mặn chát của đại dương. Nhà thơ lớn là
những chiếc lá ngô đồng. Chiếc lá nhỏ hanh hao, bay bay trong gió thoi thóp
biết mấy nhưng lại mang trong mình tất cả tín hiệu của một mùa trời đất đang
đi" [33].
- "Nhà thơ là người sáng tạo ư? Không, tôi ngờ lắm. Từ xưa đến nay,
nhà thơ có mang lại điều gì mới mẻ đâu. Hắn là người, bằng sự nhạy bén
riêng của mình, phát hiện sâu sắc hơn ai hết những chất thơ đã vốn có, đã
bàng bạc, ẩn tàng, giấu khuất đâu đó trong vũ trụ, ở thiên nhiên, ở cuộc đời, ở
lòng người. Gió vẫn có đấy chứ, quen thuộc lắm mà, từ bao nhiêu đời rồi,
nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ ra đời, nghiêng mình làm lá, gió mới cất thành
tiếng reo. Trăng vẫn có đấy chứ, từ xưa, trên cao, nhưng phải đợi đến lúc nhà
thơ xuất hiện, lặng mình làm một mặt nước hồ im, trăng mới lại hiện về, long
lanh hơn, huyền ảo hơn, ngay trên mặt đất, rất vừa tầm nhìn. Nhà thơ có sáng
tạo được gì đâu? Hắn chỉ là lá reo để đón gió, là hồ im để đón trăng, là cỏ
ngửa mặt để chờ sương. Hắn nắm bắt và giữ lại cho đời những chất thơ kín
đáo nhất, mong manh nhất, thoáng qua nhất" [33].
17
Thị hiểu người đọc ngày nay rất đa dạng. Không phải ai cũng thích lối
văn phê bình du dương, trầm bổng, ít tiết chế cảm xúc. Tuy nhiên, không phải
vì thế mà ngôn ngữ phê bình có thể khước từ tính biểu cảm. Vấn đề là ở "liều
lượng", ở cách sử dụng của người viết. Sự lạm dụng bao giờ cũng gây phản
cảm. Nhưng, nếu thể hiện cảm xúc đúng chỗ, bài phê bình dễ dàng chinh phục
người đọc không chỉ bởi "thấu lí" mà còn "đạt tình".
d) Ngôn ngữ phê bình văn học cũng biểu hiện tính cá thể của người
viết. Văn phê bình chưa bao giờ là "trung tính". Ngược lại, nó có thể giúp
người viết bộc lộ quan điểm, tư tưởng, vốn văn hóa, sở trường, tâm hồn của
mình - những yếu tố hình thành "khuôn mặt tinh thần của chủ thể". Ở văn bản
phê bình văn học, người ta không để cập đến "phong cách nghệ thuật" - vấn
đề thuộc địa hạt của văn sáng tác -, nhưng hoàn toàn có thể nói đến phong
cách phê bình, phong cách ngôn ngữ, chẳng hạn, kiểu phê bình "lấy hồn ta để
hiểu hồn người của Hoài Thanh, phê bình mà như viết tùy bút của Nguyễn
Tuân, phê bình bắt bẻ chữ nghĩa kiểu Vũ Ngọc Phan, giọng phê bình hăng
hái, hùng biện của Hải Triều... Như vậy, một khi đã gắn đời mình với nghiệp
cầm bút, không chỉ người sáng tác mà cả nhà phê bình cũng không thể giấu
mình. Dù đậm nhạt khác nhau, nhưng những nhân tố cá nhân sẽ lộ diện trên
từng trạng viết.
1.2. Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan trong bối cảnh phê bình
văn học giai đoạn 1930 - 1945
1.2.1. Diện mạo nền phê bình văn học trong văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945
Giai đoạn 1930 - 1945, nền văn học Việt Nam có bước phát triển vượt
bậc. Bên cạnh thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự,... phê bình văn học
cũng khởi sắc và gặt hái những thành tựu quan trọng.
18
Sự ra đời của phê bình ở Việt Nam phải kể đến những bài đầu tiên có
tính chất đặt nền móng như Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa
thục. Sau đó, trong vòng một thập kỉ, đã xuất hiện một loại bài, hoặc các cuốn
sách mang tính chất phê bình, khảo cứu rõ rệt hơn như Nghề hát bội của ta và
nghề diễn kịch của người châu Âu của Nguyễn Văn Vĩnh; Việt Nam phong
tục của Phan Kế Bính; Tâm lí Thúy Kiều, Thế nào gọi là kịch, Văn học Pháp,
bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh; Lời khuyên học trò của Nguyễn Bá Học;
Văn tiêu khiển và văn biện thuyết của Hoàng Tích Chu; Nam thi hợp tuyển và
Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, các bài bàn về quốc văn của Ngô
Đức Kế... [42, tr.650].
Từ đầu những năm 1930, khi văn học Việt Nam bắt đầu đi vào quĩ đạo
của nền văn học thề giới hiện đại, phê bình văn học với tư cách là một loại
riêng, đã bắt đầu được ý thức và được xác lập với những bài phê bình của
Thiếu Sơn trên báo Phụ Nữ Tân Văn, năm 1931 - 1932.
Đến năm 1933, khi tập hợp những bài phê bình đã đăng báo cùng với
những bài viết mới để in thành cuốn sách Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn lại
có một đề nghị: “Vậy là nước ta còn thiếu những nhà chuyên môn phê bình,
và sự thiếu đó tưởng cũng thiệt thòi cho văn học ít nhiều”. Như vậy, chỉ đến
giai đoạn này, phê bình văn học đã thực sự có chỗ đứng và công khai sự có
mặt của mình trên văn đàn, dù rằng trước kia chỉ xuất hiện dưới dạng nhỏ, lẻ,
đơn độc.
Giai đoạn 1930 - 1939 là khoảng thời gian bước đầu xác lập ý thức về
thể loại và nghề nghiệp phê bình, vì thế vấn đề nội tại mà phê bình văn học
giải quyết lại thiên về quan điểm văn học nói chung và quan điểm phê bình
văn học nói riêng, chứ chưa phải là vấn đề phương pháp kĩ thuật như giai
đoạn sau.
19
Bức tranh phê bình văn học giai đoạn này chủ yếu dựa vào phân mảng
báo chí. Có thể nói sự cộng sinh giữa báo chí và phê bình văn học giai đoạn
này là điều không thể chối cãi. Phê bình văn học sống được là nhờ in trên báo
chí và ngược lại, chính báo chí cũng thu hút được số lượng lớn độc giả từ nội
dung thông tin các bài phê bình văn học. Chính điều đó cũng tạo nên bức
tranh nhiều màu sắc sinh động cho nền văn học lúc bấy giờ.
Thông qua các cuộc tranh luận trên các tạp chí, các bài phê bình tác
phẩm, tác giả và bài tiểu luận, có thể thấy phê bình văn học giai đoạn này
được triển khai dưới tính chất bút chiến, đối thoại và tranh luận. Qua đó, phê
bình văn học đã hình thành được tính nhạy bén, tích cực trong việc xây dựng
một nền văn học hiện đại, bước theo sơ đồ của văn học phương Tây.
Giai đoạn này cũng xuất hiện hàng loạt các tác phẩm phê bình văn học
có giá trị
Như tác giả Phan Khôi với Phép làm văn, Luận về quốc học, Lối văn
học bình dân đã chỉ ra mối tương quan giữa văn học và xã hội. Năm 1933,
trong sinh hoạt văn học xuất hiện một loạt bài mang tính chất luận chiến với
những quan điểm mới lạ: quan điểm mác xít do Hải Triều khởi xướng: vấn đề
dân sinh, sự tiến hoá của văn học và sự tiến hoá của nhân sinh, ông Phan
Khôi không phải là học giả duy vật, ông Phan Khôi là một học giả duy tâm…
với sự kết hợp của Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu theo phép biện chứng trên
các báo miền Nam. Nhưng cũng từ đó, bắt đầu xuất hiện những cuộc tranh
luận công khai: “Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh”, “Cuộc
tranh luận về Truyện Kiều”, “Cuộc tranh luận thơ cũ và thơ mới”, “Cuộc tranh
luận về tiểu thuyết của Cô giáo Minh và Đoạn tuyệt”, “Cuộc tranh luận về
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng”,…
Chính trong thời điểm này, do tình hình xuất hiện nhiều sáng tác mới
trên nhiều phương diện thể loại, phương pháp và cả nội dung đã làm cho nền
20
phê bình văn học nước nhà phát triển cả về chất và lượng. Người ta đã chứng
kiến sự nhanh nhạy của báo chí và các cây bút phê bình cùng với sự tham gia
hào hứng của các công chúng văn học trước những thành tựu mang tính chất
mới mẻ độc đáo.
Bắt nguồn từ quan niệm sáng tác, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã tạo
ra những cuộc tranh luận, thu hút dư luận mạnh mẽ một thời. Đó là ý kiến phủ
định của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai khi đề cập đến tác phẩm Giông tố trên
khía cạnh đạo đức trong bài Văn chương dâm uế. Tuy thế, đây vẫn chỉ là sự
chỉ ra theo một hướng, chưa dựa vào những chứng cứ phân tích tác phẩm cụ
thể. Vũ Trọng Phụng trả lời bài báo bằng thái độ sắc sảo rõ ràng khi chỉ rõ lập
trường quan điểm sáng tác của chính bản thân và vạch ra khoảng cách giữa
các quan điểm sáng tác văn học, “rất muốn tìm những cái tốt đẹp, tử tế của
cuộc đời và đã ngây thơ đợi những cái tốt đẹp và tử tế ấy cho đến chết” (Lan
Khai). Rõ ràng, nghệ thuật và quan điểm sáng tác của Vũ Trọng Phụng đều
xuất phát từ lòng tin con người và đời sống. Trương Tửu nêu được những đặc
điểm tinh thần của nhà văn “Ông là đứa con trực tiếp của cuộc đời. Tài nghệ
của ông không bằng sự bắt chước. Nó làm bằng kinh nghiệm và nỗ lực cá
nhân,… được vậy là nhờ ở cái tính khí riêng, não trạng riêng, cái tài năng
riêng, cái xu thế sáng tạo riêng của ông, tất cả cái này bắt rễ ở cái vị trí của
ông, nó cắt đứt trong tâm hồn ông các tình cảm có họ hàng với chủ nghĩa lãng
mạn…”.
Như thế, đối với Vũ Trọng Phụng, phê bình giai đoạn này nói chung đã
chạm đến những nét cơ bản và đánh giá chính xác tài năng của nhà văn. Về
cuộc tranh luận, ý kiến của Nguyễn Hoành Khung là xác đáng. Ông cho rằng,
“đây là bài bút chiến sắc bén rất đáng chú ý, thực tế là bản tuyên ngôn nghệ
thuật bằng chính luận đầu tiên và cũng là duy nhất của trào lưu “tả thực” “vị
nhân sinh” tiến bộ khi đó. Cuộc bút chiến vượt khỏi tính chất một cuộc tranh
21
cãi bình thường trong phê bình văn học để mang ý nghĩa một cuộc đụng độ tất
yếu giữa hai khuynh hướng văn học đang nổi lên mạnh mẽ đương thời:
khuynh hướng “lãng mạn tư sản” của Tự lực văn đoàn và khuynh hướng “tả
chân xã hội” của Vũ Trọng Phụng và các nhà văn cùng chí hướng với ông”.
Năm 1935, Hải Triều cho in Duy tâm và Duy vật và công trình nghiên
cứu phê bình văn học đầu tiên của Trần Thanh Mại ra đời: Trông dòng sông
Vị. Cuốn sách của Trần Thanh Mại thiên về phác hoạ chân dung và sự nghiệp
nhà thơ Trần Tế Xương qua tiểu sử giai thoại và văn thơ, nhưng cảm hứng
sáng tác lại lấn át cảm hứng khoa học, nên giá trị tư liệu là phần đóng góp
chính lẽ ra phải có của tập sách, lại không vững chắc lắm.
Một cây bút phê bình mới xuất hiện trong làng văn, đó là Trương Tửu
với đề mục trang trọng “Văn học Việt Nam hiện đại” và những lời giới thuyết
lớn lao trên các tuần báo: “Phê bình, từ nay theo tôi muốn, không thể, không
nên chỉ là một sự thưởng thức của từng người. Nó phải là một nghệ thuật, hơn
nữa một khoa học”. Ý kiến này cho đến nay vẫn hoàn toàn mang tính chất
đúng đắn đối với nền phê bình văn học nói riêng, nền văn học nước nhà nói
chung ở thế kỉ XXI này.
Năm 1936, trong dòng suy nghĩ được gợi ra từ cuộc tranh luận "Nghệ
thuật vị nghệ thuật"… Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều viết chung cuốn Văn
chương và hành động. Công trình này đã bộc lộ tinh thần dân tộc từ khá sớm,
vì lẽ đó nó đã bị chính quyền tịch thu từ khi mới ra đời. Từ lúc đó, Lê Tràng
Kiều xuất hiện nhiều nhất trên báo chí. Ông tham gia cả hai cuộc tranh luận
"Thơ mới" và "Nghệ thuật vị nghệ thuật"… Đó là những bài phê bình mang
đầy tính tâm huyết, với ngòi bút thật sắc sảo.
Một sự kiện đáng chú ý là cuộc tranh luận nhỏ về tiểu thuyết Cô giáo
Minh và Đoạn tuyệt. Cuộc tranh luận này đã nảy ra do những quan niệm khác
nhau về lí luận thể loại và quan điểm xã hội. Theo đó, tính chất tranh luận của
22
giai đoạn không chỉ nằm trong những cuộc bút chiến mà trong chính những
tác phẩm văn chương luận đề.
Năm 1938, xuất hiện tư tưởng phê bình theo tư tưởng mác xít đáng chú
ý như Phan Văn Hùm qua sách Nỗi lòng Đồ Chiểu được viết bằng chữ quốc
ngữ, K.T: Tố Hữu nhà thơ của tương lai. Nguyễn Tiến Lãng với Nửa đời thi
sĩ trên báo Tràng An, Trương Tửu với cuốn Những thí nghiệm của bút tôi đã
xác lập phương pháp phê bình theo quan điểm xã hội học. Cũng trong thời
điểm này, Lan Khai có một loạt bài tiểu luận có giá trị khi tham gia vào cuộc
tranh luận "Nghệ thuật vị nghệ thuật"…
Theo Trần Đình Sử, trong những năm 1932 - 1945, hoạt động phê bình
đã xuất hiện với việc ra đời số lượng lớn các “bài phê bình” khen chỗ này, chê
chỗ kia. Có kẻ do thù hằn nhau mà sinh ra mạt sát nhau, có người do cùng hội
cùng cánh mà bênh bè và cũng có cả những kẻ do ăn tiền của nhà xuất bản mà
viết phê bình để quảng cáo. Đáng chú ý nhất trong các thể loại phê bình là bút
chiến. Các cuộc tranh luận văn học trở thành nơi gieo mầm cho thể loại này.
Tính chất chính luận và nghị luận kết hợp với giọng điệu riêng đã làm cho đời
sống văn học bấy giờ trở nên hết sức sôi động [35].
Thể loại phê bình thứ hai là phê bình tác giả văn học, trong đó, Thiếu
Sơn được xem là người mở đầu với tác phẩm Phê bình và cảo luận (1933).
Đây là “lối phê bình nhân vật”, nhằm phát hiện cái bản ngã của nhà văn, đi
vào tính cách làm văn chương của mỗi người mà khen chê hoặc đưa ra những
lời khuyên. Đây cũng chính là công trình mở đầu cho thể loại văn chân dung
của nước ta.
Danh nhân truyện ký là thể loại thứ ba, xuất hiện khá rầm rộ. Với thể
loại này, các tác giả đã trình bày tiểu sử, các sự kiện đời sống riêng tư, các
đặc điểm cá tính của nhà văn mà từ đó giải thích đặc điểm thơ văn của họ.
23
Công chúng khi tiếp xúc với những tác phẩm này vừa hiểu được cuộc đời của
tác giả vừa hiều được tác phẩm do họ viết ra.
Thể loại thứ tư là Phê bình khoa học hay nghiên cứu chuyên đề. Đây là
thể loại nghiên cứu tập trung vận dụng một phương pháp, khảo sát một vấn đề
của một tác giả hay tác phẩm. Điều này đã chứng tỏ phê bình nghiên cứu đã
được nâng lên tầm khoa học với nhiều công trình có giá trị học thuật cao, chứ
không đơn thuần là những cảm nhận mang cảm tính tuỳ hứng.
Bình chú, bình văn là thể loại xuất hiện thứ năm có nhiệm vụ tập hợp
tác phẩm, chú thích, nêu lời bình. Một thể loại mới xuất hiện trong giai đoạn
này và phát triển về sau là thể loại văn học sử, mà trong đó, các tác giả cố
gắng phân kì, chia đoạn, xếp các tác giả vào vị trí của họ, trình bày quá trình
diễn tiến, giới thiệu các thể văn Trung Hoa và văn Việt Nam, văn học chữ
Hán, văn học chữ Nôm, và văn học chữ quốc ngữ.
Thời kì này đã xuất hiện các chuyên luận trình bày có hệ thống các
nguyên lí văn học hay đặc trưng nghệ thuật. Đây được xem là những công
trình nghiên cứu có tính chất lí luận văn học đầu tiên của nền văn học Việt
Nam.
Qua đó, có thể thấy hoạt động phê bình diễn ra và phát triển với tốc độ
rất nhanh chóng và phong phú về nhiều mặt, đặc biệt là ở phương pháp. Mỗi
người một vẻ, và đó đã tạo ra bầu không khí sôi nổi chưa từng có trong đời
sống văn chương, học thuật nhất là trong nghiên cứu văn học, phê bình những
năm đầu thế kỉ XX.
Có thể nói từ năm 1930 đến 1939 là thời kì hoạt động phê bình diễn ra
sôi động trên báo chí với các cuộc tranh luận, thì đến năm 1940 - 1945 hoạt
động phê bình lại được nổ ra trên lĩnh vực xuất bản với những công trình
mang tính khái quát và ổn định hơn.
24
Có thể thấy rằng toàn bộ các sáng tác phê bình văn học giai đoạn bắt
đấu đi sâu vào các vấn đề thuộc chuyên môn, học thuật. Theo đó, tác phẩm
phê bình đã được tăng cường tính khoa học. Các nhà phê bình đã vận dụng
khá thuần thục các phương pháp để thâm nhập và xử lí những vấn đề văn học
nước nhà. Những cuộc tranh luận không còn quá gay gắt mà chỉ mang tính
chất đối thoại là chủ yếu. Đây chính là lúc thể hiện sự nổ rộ của nhiều kiểu
phê bình khác nhau và sự trưởng thanh của nhiều nhà phê bình. Đây cũng là
giai đoạn kết tinh đơm hoa ra trái của nhiều thành quả tác phẩm lớn: Thi nhân
Việt Nam, Việt Nam văn học sử yếu, Nhà văn hiện đại, Văn học khái
luận,…Phân tích yếu tố thành công của nền văn học phê bình giai đoạn này
có thế đề cập đến hai nguyên nhân chính yếu sau:
Khách quan là nhờ sự phát triển mạnh và rầm rộ của các nhà xuất bản,
đến nỗi Lê Ta (Thế Lữ) đã phải thốt lên: “Các nhà xuất bản ra đời nhiều quá.
Bất cứ bác lái buôn nào cũng bỗng dưng thành người nhận những tác phẩm để
đọc và để rồi đem in”. Đây là thứ yếu.
Nhưng nguyên nhân chủ quan lại chiếm chủ yếu, đó là do sự vận động
nội tại và sự phát triển bền vững của hoạt động phê bình, đã đi đến giai đoạn
trưởng thành sau 10 năm xây dựng. Thời gian ấy đủ để cho các nhà phê bình
luyện bút, đồng thời cũng kịp cho các hoạt động sáng tác tạo ra được những
thành tựu mới – đủ để các nhà phê bình có thể rút ra được những nhận xét
khái quát mang tính tổng kết lâu dài.
Tóm lại, nền văn học phê bình giai đoạn 1930 - 1945 được đánh dấu
bằng sự kiện mới, nảy sinh từ nền tư tưởng mới. Ở giai đoạn này, phê bình
văn học được đánh dấu bằng một loạt những sự kiện lớn hình thành trên nền
tư tưởng hiện đại. Đặc điểm chủ yếu của phê bình văn học giai đoạn này là
hình thành tư tưởng mới, phủ nhận tư tưởng cũ, nổ ra nhiều cuộc tranh luận
quan trọng mà hàng loạt vấn đề lí luận trong đó cho đến thế kỉ XX, bước sang
25
thế kỉ XXI vẫn còn tranh cãi và chưa giải quyết triệt để. Đây cũng là giai đoạn
hình thành một nền lí luận phê bình văn học mới với tư cách là một “thể loại
mới” mà xưa nay chưa từng có. Đồng thời cũng xuất hiện những nhà phê bình
văn học chuyên nghiệp như: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai,
Trương Tửu, Hải Triều, Thiếu Sơn… với những công trình mang ý nghĩa tổng
kết một giai đoạn văn học, tiêu biểu là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan,
Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn…
Về không khí học thuật và những thành tựu của phê bình văn học giai
đoạn 1930 - 1945, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ rút ra mấy điểm cơ bản sau
đây:
- Thứ nhất, đây là một phong trào rộng lớn từ Bắc chí Nam, thu hút
hoạt động của một đội ngũ đông đảo. Trước kia, trên tờ Nam Phong đơn
chiếc, Phạm Quỳnh phải chèo chống mọi mặt, lúc viết về triết học, lúc viết về
khoa học, lúc khảo cứu về văn chương, lúc viết sử kí. Bây giờ người trí thức
có khả năng và thiện chí làm việc biên khảo nhiều hơn và chia nhau mỗi
người một địa hạt. Nhất là có những phần tử thanh niên tân học, hăng hái tìm
tòi, suy nghĩ, có khi bước sang cả mảnh đất cổ học, Hán học mà trước đây học
vẫn thường thờ ơ, lạnh nhạt.
- Thứ hai, trong việc làm, hiển nhiên ta thấy sự du nhập gia tăng của
tinh thần khoa học cũng như của kiến thức học thuật Tây phương. Phương
pháp khoa học, óc lí luận tỏ rõ từ trong việc tìm kiếm và sử dụng tài liệu đến
cách trình bày lí luận và lối viết. Ngay ở địa hạt văn học và phê bình, người ta
không dừng lại ở lối bình tán chủ quan, thay vào đó, người ta kê cứu hoàn
cảnh, tìm ra các yếu tố cắt nghĩa thiên tài, phân tích "chất thơ", bình giải chi lí
từng vần, từng chữ [27, tr.675].
Tuy nhiên, bên cạnh đó, Phạm Thế Ngũ cũng chỉ ra những bất cập, non
yếu của nền phê bình trên bước đường hiện đại hóa. Đó là biên khảo những
26
công trình Hán học chủ yếu dựa vào những nhà nho "cuối mùa", cho nên
không tránh khỏi sơ sót, sai lầm (các bài phê bình đương thời đã kịp thời chỉ
ra). Đó là về Tân học, Tây học, sự đóng góp của lớp trẻ thoạt xem có vẻ dồi
dào, mới mẻ, song xét kĩ, chỉ mới có bề mặt, chưa có bề sâu. Mặt khác, vì cần
dựng lấy một lí thuyết để hướng dẫn sự hành động, nên người ta vội vàng để
có chủ kiến, dễ rơi vào những thiên kiến, mắc những sai lệch (chẳng hạn sự
vận dụng phân tâm học của Freud vào nghiên cứu Truyện Kiều theo cách làm
của Nguyễn Bách Khoa) [27, tr.678]. Ý kiến trên đây của Phạm Thế Ngũ có
sự gặp gỡ với nhận định của Dương Quảng Hàm: "Thể phê bình mới nhập
tịch vào làng văn học của nước ta, nên các tác phẩm hãy còn thưa thớt và
nhiều khi chưa xác đáng hoặc vì sự tây vị về cá nhân hay về đảng phái, hoặc
vì thiếu trí phê bình và phương pháp khoa học" [15, tr.557]. Tình trạng này
trong phê bình văn học Việt Nam thời tiền chiến, Nguyễn Hưng Quốc gọi đó
là sản phẩm của thế hệ "tiền lí thuyết" [32].
1.2.2. Vài nét về sự nghiệp của Vũ Ngọc Phan
Vũ Ngọc Phan (1902 - 1987) là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện
đại và văn học dân gian Việt Nam, nguyên Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Bắc Bộ
(trước 1945), nguyên ủy viên Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa, nguyên Tổng thư
ký và Phó chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan sinh năm 1902 tại xã Đông Lão, huyện Gia Lương, tỉnh
Bắc Ninh. Thuở nhỏ, ông theo cha đến Hưng Yên và theo học chữ Hán. Từ
năm 1920 đến năm 1929, Vũ Ngọc Phan chuyển sang học tiếng Pháp tại Hà
Nội. Đỗ tú tài Tây ở tuổi 27, Vũ Ngọc Phan có thể được bổ nhiệm trong bộ
máy chính quyền lúc đó hoặc dạy học ở các trường trung học quốc lập, nhưng
với năng khiếu văn chương và tư tưởng tự do không thích gò mình vào cuộc
sống công chức, ông đã chọn nghề dạy học tư, viết báo, viết văn và dịch sách.
27
Từ năm 1929 đến nửa đầu những năm 1940, Vũ Ngọc Phan cộng tác
với nhiều tờ báo, tạp chí đương thời như tờ Pháp - Việt, Văn học, Nhật Tân,
Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hương, là chủ bút tờ
tuần báo Hà Nội tân văn và chủ trương lập Nhà xuất bản Hà Nội.
Bên cạnh hàng trăm bài báo, ông đã dịch và viết dạng phóng tác nhiều
truyện ngắn, tiểu thuyết từ tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngoài ra, ông đã biên
soạn các cuốn sách Nhìn sang láng giềng (1941, tập bút ký), Thi sĩ Trung
Nam (1942, viết về một số nhà thơ thời kỳ cận đại ở Trung Bộ và Nam Bộ),
Con đường mới của thanh niên (1944, sách nghiên cứu xã hội, giáo dục),
Chuyện Hà Nội (1944, tập bút ký). Đặc biệt, từ năm 1938 đến năm 1942, Vũ
Ngọc Phan đã viết xong bản thảo bộ sách Nhà văn hiện đại. Từ cuối năm
1942 cho đến tháng 10 - 1945, bộ sách này đã được ra mắt độc giả. Nhà văn
hiện đại gồm bốn tập năm quyển (tập 4 chia làm hai quyển), dày 1.500 trang,
viết về 79 tác gia văn học Việt Nam, bao quát một thời kỳ văn học sôi động,
phong phú, phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1942.
Trong những năm trước và sau khi giành chính quyền (1945), Vũ Ngọc
Phan đảm nhiệm các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban văn hóa Bắc Bộ, Ủy viên
thường trực Ủy ban vận động Hội nghị văn hóa toàn quốc, Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến Khu Đống Đa, Ủy viên thường trực Đoàn văn hóa kháng chiến
Liên khu IV.
Từ cuối năm 1953, Vũ Ngọc Phan được mời ra Việt Bắc tham gia công
tác nghiên cứu trong Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa Trung ương, tiền thân của
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam sau này.
Từ năm 1957, Vũ Ngọc Phan trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt
Nam.
Năm 1959, khi Tổ văn học của Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa tách ra
thành lập Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan về công tác tại Viện, trở thành tổ
28
trưởng tổ Văn học dân gian (nay là phòng Văn học dân gian và phòng Văn
học các dân tộc ít người) của Viện Văn học. Sau đó, Vũ Ngọc Phan được bầu
làm Tổng thư ký, phụ trách cơ quan Hội Văn nghệ dân gian tại Đại hội Văn
nghệ dân gian lần thứ nhất năm 1966. Với cương vị mới tại Hội văn nghệ dân
gian và Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan đã có công trong việc sưu tầm, nghiên
cứu, chỉnh lý, biên soạn truyện cổ và thơ ca dân gian Việt Nam. Từ năm 1963
đến năm 1967, bốn tập sách được in, hai tập đầu tên là Truyện cổ dân gian
Việt Nam, hai tập sau tên là Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt Nam.
Đây là sưu tập truyện cổ không chỉ riêng của người Việt (Kinh) mà còn của
các dân tộc thiểu số khác.
Vũ Ngọc Phan mất tại Hà Nội năm 1987 ở tuổi 85.
Người bạn đời của Vũ Ngọc Phan là nhà thơ Hằng Phương. Ông bà
cũng là thân sinh của nhà khoa học nông nghiệp, giáo sư viện sĩ Vũ Tuyên
Hoàng, hoạ sĩ Vũ Giáng Hương, GS.TS Vũ Triệu Mân.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
In riêng:
- Trên đường nghệ thuật (1940)
- Nhà văn hiện đại, 4 tập, từ 1942 đến 1945
- Qua những trang văn (1976)
- Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam (1956) tái bản 13 lần
- Những năm tháng ấy (hồi ký, 1987)
- Châu đảo (dịch, 1932)
- Aivanhô (dịch, 1932 - 1933)
- Người Xô viết chúng tôi (dịch, 1954)
- Vũ Ngọc Phan - tác phẩm (5 tập, 2001)
29
In chung:
- Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam (2 quyển, viết chung, 1957 - 1960).
- Truyện cổ tích Việt Nam (sưu tầm, tuyển chọn, 1955).
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh
đợt 1 năm 1996 cho những cụm công trình về văn nghệ dân gian, cùng đợt
với giáo sư Nguyễn Đổng Chi và Cao Huy Đỉnh.
1.2.2. Công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
Nhà văn hiện đại, bộ phê bình văn học 5 tập do Nxb Tân Dân ấn hành
lần đầu tiên từ năm 1942 - 1945.
Nhà văn hiện đại là một công trình với qui mô đồ sộ, gồm 1650 trang,
trở thành một công trình quí giá về nhiều mặt và có thể nói rằng, cho đến nay,
khó có một tác phẩm nào có thể thay thế được trong nền phê bình văn học
Việt Nam.
Cho đến nay, đã có rất nhiều lời khen ngợi về sự thành công cũng như
những đóng góp của tác phẩm. Xét một cách toàn diện, trong tất cả các cuốn
sách phê bình theo phương pháp khoa học trước năm 1945, công trình Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một cuốn sách nổi trội hơn cả, đây là công
trình có sức khái quát rộng lớn, có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc, chuẩn xác
và khách quan hơn cả về các tác gia văn học trong khoảng thời gian 30 năm ở
Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX đến 1945.
Tờ Dân báo, số ra ngày 5/10/1945 cho rằng: “Nhà văn hiện đại là một
công trình khảo cứu và phê bình sự nghiệp văn chương của các nhà văn hiện
thời rất công phu, lời văn sáng suốt mà ý kiến phần nhiều lại rất xác đáng, thật
bổ ích cho những ai muốn nghiên cứu về văn chương nước nhà hiện nay”. Tờ
Tin mới, số ra ngày 9/10/1942 cũng đánh giá: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc
Phan là một cuốn sách phê bình có phương pháp, có hành văn, lại sáng suốt,
30
giản dị. Cứ xem đó người ta cũng hiểu được cái lịch trình tiến hoá của nền
văn học xứ này trong mấy chục năm gần đây”.
Có thể nói, Vũ Ngọc Phan là một trong số rất ít nhà phê bình hiện đại
có trình độ chuyên môn cao ở nước ta thời kì trước năm 1945. Ông là người
có ý thức hết sức rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của một nhà phê bình văn
học, đồng thời là một người có trình độ lí thuyết vững vàng và có phương
pháp phê bình bài bản nhất. Công trình phê bình Nhà văn hiện đại của ông
thực sự là một công trình khoa học có giá trị. Trước hết, bởi đó là kết quả của
một quá trình làm việc công phu, nghiêm túc, đầy tâm huyết của một nhà phê
bình có cái nhìn tổng thể, khái quát cao. Sau đó, Nhà văn hiện đại là sản phẩm
của một bộ óc sắc sảo, phân tích một cách tỉ mỉ, cảm nhận một cách tinh tế
những cái hay, cái đẹp, cái mới của nền văn học nước nhà, thông qua từng tác
giả cụ thể. Ông là người khám phá ra tốc độ phát triển cực kì nhanh chóng của
văn học Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.
Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan không trình bày lịch sử phát
triển của văn học ở cấp độ khái quát về nền, về các giai đoạn, về các thế hệ,
về các thể loại. Trọng tâm chú ý của ông là sự tách biệt, giúp nhận diện ở cấp
độ chỉnh thể cơ bản nhỏ nhất: đơn vị tác phẩm, cá thể sáng tạo. Mối quan hệ
giữa cái chung/cái riêng, cái thông lệ ổn định/cái đột xuất, bất ngờ, cái bình
thường/cái nổi trội, độc đáo… đã được làm rõ khi đặt tác phẩm trong tương
quan với cấp độ liền trên của nó là loại, trong sự so sánh theo thời gian với
các tác phẩm của nhà văn khác cùng thời hoặc của chính nhà văn đó qua các
thời kì hoạt động sáng tạo. Đối với mỗi nhà văn cũng vậy, Vũ Ngọc Phan đặt
họ trong tương quan với đồng nghiệp cùng thế hệ (lớp trước, lớp sau), cùng
khuynh hướng tư tưởng - nghệ thuật (nhóm Đông Dương tạp chí, nhóm Nam
Phong tạp chí), hoặc cùng một thể loại (phê bình, biên khảo, thơ, tiểu thuyết,
kịch, kí).
31
Phương pháp phê bình nghiên cứu như vậy, vào thời điểm xuất hiện
của nó, Nhà văn hiện đại (1942 - 1943) quả là thu hút chú ý của nhà văn, của
người đọc và thực sự có tác dụng thúc đẩy sáng tác và giúp cho sự bình giá
tác phẩm, nhận định về nhà văn có được những căn cứ khoa học, khách quan.
Vì ở đây, cái hay, dở của tác phẩm, bản sắc phong cách riêng không trộn lẫn
của từng nhà văn được thẩm định rành mạch. Tài năng, ngón nghề của người
làm văn chương cùng chất lượng của sản phẩm văn chương, trở thành một đòi
hỏi chính đáng gắt gao xét từ phía công chúng tiếp nhận.
Khi giới thiệu về các nhà phê bình, biên khảo là đồng nghiệp mình, Vũ
Ngọc Phan có đề cập đến Thiếu Sơn. Ở đây, Vũ Ngọc Phan chỉ ra những lầm
lẫn, nhàm chán, không có gì mới, mềm mỏng, nước đôi với một giọng văn
đẽo gọt và cổ lỗ của Thiếu Sơn cả trong phê bình và sáng tác… cũng tức là
lưu ý những bất cập cần tránh nói chung cho giới nghiên cứu cũng như với
từng nhà văn. Theo ông, Thiếu Sơn khi so sánh văn thể của Phan Khôi với
Voltaire (nhà văn Pháp thế kỉ XVIII) có cùng một tính cách, thì tưởng là
khen, nhưng tác dụng thì ngược lại. Bởi so sánh đó thật khiên cưỡng. Vả lại,
nếu người sau lại giống người đi trước mình thì cũng chẳng lấy gì làm vinh
dự. Thực ra cái người ta cần ở Phan Khôi là những đóng góp mang bản sắc
riêng của nhà văn này, nếu nhà văn đó được như thế và nhà nghiên cứu phát
hiện và chỉ ra được, tức là đã giúp vào việc khẳng định giá trị và địa vị của
nhà văn rồi. Vũ Ngọc Phan cũng lấy làm tiếc khi Thiếu Sơn phê bình tiểu
thuyết Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật đã thiếu tinh tường khi xếp nó
vào loại phiêu lưu tiếu thuyết, trong khi thực chất là lịch sử tiểu thuyết. Chính
vì Thiếu Sơn không chú ý đến thể loại và cái riêng trong cá tính sáng tạo của
nhà văn và tác phẩm mà ông phê bình, cho nên, khi sáng tác tiểu thuyết đã
không tránh được sự trùng lặp và nhàm chán. Và Vũ Ngọc Phan đi đến một
kết luận: “Đọc hai chục bài của ông cũng như đọc một bài… đọc một trăm
32
trang (tiểu thuyết của ông) cũng gần như đọc hai trang”. Đó là một nhận định
có phần nghiêm khắc và nghiệt ngã, nhưng chứa đựng sự cảnh tỉnh sâu sắc.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng tỏ rõ sự am hiểu sâu sắc
đặc trưng về thể loại văn xuôi hơn cả, đặc biệt là đối với thể loại tiểu thuyết.
Bộ sách đã dành số lượng lớn để nói đến 27 tác gia tiểu thuyết trên 78 tác giả
được nói đến trong bộ sách (chiếm 35%). Nó phác ra bộ mặt phong phú về
chủng loại tiểu thuyết ta trong thời buổi phát triển và trưởng thành, cả về số
lượng và chất lượng. Song điều đáng nói ở đây là Vũ Ngọc Phan đã nhận biết
tinh tế đặc trưng thể loại của tiểu thuyết trên các phương diện: thứ nhất là
cách tiếp cận cuộc sống và tái tạo cuộc sống theo cái nhìn nghệ thuật và bút
pháp tự sự với những bản lĩnh nghệ thuật khác nhau của từng người viết. Thứ
hai là dựa trên những tiếng nói nghệ thuật và giọng điệu đa dạng. Thứ ba là
năng lực hư cấu, khám phá và tác động vào cuộc sống hiện tại và người
đương thời. Thứ tư là kĩ thuật bố cục và nghệ thuật không gian - thời gian
trong sự gắn bó chặt chẽ với tính cách. Vũ Ngọc Phan nhận ra một cách sâu
sắc cái mà tiếu thuyết thu hút mạnh mẽ người đọc đông đảo là ở chỗ: nó sống
động, bề bộn, nhiều nghịch lí và bất ngờ như cuộc sống thật đang diễn tiến, nó
lôi cuốn người ta cùng can dự và suy nghĩ về nhân tình, thế thái hiện thời và
tự nhận biết, hoàn thiện mình hơn nữa, trong sự liên tưởng và ám ảnh gợi ra
từ những câu chuyện được kể lại.
Như vậy, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình phê
bình có vị trí rất quan trọng trong phê bình văn học Việt Nam hiện đại giai
đoạn 1932-1945. Đúng với lời nhận xét của giáo sư Phong Lê, đây “là tài liệu
không thể vắng bóng trong các thư mục nghiên cứu và những ý kiến, nhận
xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan về một tác giả, tác phẩm nào đấy luôn là cơ
sở, là điểm tựa cho sự phát triển hoặc điều chỉnh các luận điểm của công trình
33
và luận án. Ở hiện tượng này, giá trị khoa học trong công trình của bác Phan
đang không ngừng được mở rộng”.
Chỉ với bộ Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã thừa nhận và được độc
giả cùng giới văn nghệ biết đến với tư cách là một nhà phê bình văn học
chuyên nghiệp có tên tuổi. Điều đó đồng nghĩa một bộ Nhà văn hiện đại đã
làm nên một tác giả phê bình, một phong cách phê bình chuyên nghiệp, tiêu
biểu và sắc sảo.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, luận văn đã nêu một cách khái quát thể loại loại phê
bình văn học với sự nhấn mạnh hai tính chất: tính khoa học và tính nghệ thuật
của nó. Một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học đã được luận giải, đó
là tính khoa học, tính chặt chẽ, tính biểu cảm và tính cá thể hóa. Những tính
chất đó của ngôn ngữ phê bình văn học được tìm hiểu trong tư cách là một
kiểu văn bản thuộc phong cách chức năng nhất định. Cũng trong chương này,
luận văn đã phác thảo về diện mạo của nền phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945, để trên bối cảnh ấy, nhìn nhận rõ hơn vị trí của bộ Nhà văn
hiện đại cũng như sự nghiệp trước tác của Vũ Ngọc Phan.
34
Chương 2
TỪ NGỮ VÀ CÂU VĂN TRONG NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI
2.1. Từ ngữ trong Nhà văn hiện đại
2.1.1. Yêu cầu về từ ngữ trong văn bản phê bình văn học
Mỗi loại văn bản thuộc các phong cách chức năng cụ thể sẽ có những
yêu cầu cụ thể về sử dụng từ ngữ. Nếu như văn bản hành chính đòi hỏi phải
sử dụng với mật độ cao lớp từ ngữ hành chính công vụ, văn bản báo chí thiên
về lớp từ ngữ mang tính thông tấn, văn bản chính luận ưa dùng từ ngữ có nội
dung chính trị - xã hội,... thì văn bản khoa học lại đề cao tính chính xác, khoa
học của các lớp từ ngữ. Tuy nhiên, về mặt này, giữa khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội vẫn có những khoảng cách đáng kể do sự khác nhau về đối
tượng nghiên cứu của chúng.
Như đã trình bày ở chương 1, phê bình văn học là một ngành vừa mang
tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật. Điều này chi phối cách sử dụng
ngôn từ ở mọi cấp độ, trong đó có từ ngữ.
Là văn bản thuộc phong cách khoa học, các bài phê bình nghệ thuật
trước hết phải sử dụng thuật ngữ khoa học chuyên ngành. Trong kho từ vựng
của bất cứ ngôn ngữ nào, thuật ngữ là bộ phận từ ngữ quan trọng. Nó đánh
dấu trình độ phát triển khoa học của một quốc gia. Muốn diễn đạt các tư
tưởng khoa học, không có lớp từ ngữ nào đắc dụng hơn thuật ngữ khoa học.
Trong nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay, hệ thống thuật ngữ đã tương
đối phong phú, đủ để các nhà nghiên cứu có thể trình bày các kết quả nghiên
cứu của mình mà không phải vay mượn từ bất cứ ngôn ngữ nào khác như
trước đây (chẳng hạn như ở thời Pháp thuộc). Nhìn qua một số cuốn từ điển,
chẳng hạn Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân), Từ
35
điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên), Từ điển Tu
từ - Phong cách - Thi pháp học (Nguyễn Thái Hòa), Từ điển thuật ngữ ngôn
ngữ học (Diệp Quang Ban)... cũng đủ thấy thuật ngữ khoa học ngành Ngữ văn
trong tiếng Việt đã khá hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển của các
chuyên ngành. Các thuật ngữ của nghiên cứu phê bình văn học cũng nằm
trong bối cảnh ấy.
Bên cạnh thuật ngữ khoa học, các bài phê bình văn học cũng sử dụng
khá rộng rãi một lớp từ ngữ vẫn thường sử dụng phổ biến trong các loại văn
bản khác. Thực tế, trong vốn từ của một ngôn ngữ, ngoài lớp từ chuyên biệt,
còn tồn tại các lớp từ đa chức năng, nghĩa là chúng được sử dụng trong văn
bản thuộc mọi phong cách khác nhau. Nhìn từ góc độ nguồn gốc, đó có thể là
từ vay mượn (chủ yếu là từ Hán Việt); nhìn từ góc độ phong cách, đó có thể là
từ nghề nghiệp, từ thi ca, từ thông dụng; nhìn từ góc độ cấu tạo, đó có thể là
từ đơn hoặc từ phức... Tùy yêu cầu biểu đạt đối tượng, các lớp từ nêu trên
được sử dụng với những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, ở các bài viết của
Nguyễn Tuân, lớp từ Hán Việt xuất hiện với mật độ cao hơn hẳn so với nhiều
nhà phê bình cùng thời kì. Điều này chỉ có thể cắt nghĩa bằng phong cách
ngôn ngữ. Đúng vậy, phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Tuân có tính xuyên
thể loại, nghĩa là một yếu tố nổi bật nào đó trong phong cách ngôn ngữ của
ông không biểu hiện một cách đơn lẻ ở một thể loại nào, ngược lại, có mặt
khá đồng đều ở mọi thể loại. Nét đặc sắc này chỉ thấy ở Nguyễn Tuân, không
thấy biểu hiện ở các nhà văn khác. Trong nền văn học hiện đại, không hiếm
tác giả sáng tác nhiều thể loại, và bản thân họ cũng để lại phong cách ngôn
ngữ riêng, nhưng dường như điều đó chỉ biểu hiện ở "thể loại chủ công" trong
sự nghiệp sáng tác của họ mà thôi.
Ngôn từ được sử dụng trong văn bản phê bình văn học giống như một
khối ru-bíc nhiều màu sắc. Nhà phê bình phải tận dụng hết mọi tầng ý nghĩa,
36
mọi khả năng sử dụng nó, xoay nó, nhìn nó ở mọi góc độ để tìm ra những vẻ
đẹp riêng. Từ những năng lực về ngữ âm, về từ ngữ cho đến những thế mạnh
về ngữ pháp, đều được nhà phê bình tận dụng triệt để, tối đa. Đó chính là “bí
quyết” của nhà phê bình.
2.1.2. Những đặc điểm nổi bật về từ ngữ trong Nhà văn hiện đại
2.1.2.1. Việc dùng thuật khoa học xã hội và nhân văn trong Nhà văn hiện đại
a) Khái niệm thuật ngữ khoa học
Thuật ngữ khoa học là một bộ phận từ ngữ quan trọng của hầu hết các
ngôn ngữ trên thế giới. Ở nước ta, có nhiều cách giải thích khác nhau về khái
niệm này. Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học do Nguyễn
Như Ý chủ biên, ở mục Thuật ngữ, nhóm soạn giả đã dẫn ra 15 cách luận giải
của các nhà nghiên cứu. Xin dẫn một số trường hợp:
- "Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ vựng được dùng để
biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm... trong những ngành
kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự nhiên hay xã hội.
Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với
sự vật, hiện tượng... có thực trong thực tế, đối tượng của ngành kĩ thuật và
ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là những khái
niệm về các sự vật, hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy. Về
mặt nội dung, ở các thuật ngữ không xảy ra sự chia cắt thực tế khách quan
theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ như là một "cái nhãn" dán vào
đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên nội dung của nó" [46,
tr.278].
- Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa học, kĩ thuật,
chính trị, ngoại giao, nghệ thuật v.v... và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị
chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [46, tr.277].
37
- “Thuật ngữ là bộ phận ngôn ngữ (từ vựng) biểu đạt các khái niệm
khoa học, là thuộc tính của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực
của xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ” [46, tr.278].
- Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ
thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống
thuật ngữ của các ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ"
[46, tr.280].
Tuy tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm thuật ngữ khoa
học như vậy, nhưng ta vẫn có thể rút ra từ đó những điểm chung. Thứ nhất,
thuật ngữ khoa học là một bộ phận tất yếu trong từ vựng của một ngôn ngữ.
Mức độ phong phú có thể khác nhau, nhưng mỗi thứ tiếng đều có vốn thuật
ngữ của mình. Thứ hai, mỗi ngành khoa học có một hệ thống thuật ngữ riêng,
phù hợp với đối tượng, phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù. Do thuật ngữ
gắn với từng ngành khoa học, nên ở một đất nước, ngành khoa học nào phát
triển, tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển vốn thuật ngữ của chuyên ngành đó.
b) Thuật ngữ khoa học trong Nhà văn hiện đại
Hiện nay, hệ thống thuật ngữ tiếng Việt được dùng trong khoa học xã
hội nói chung và ngành Ngữ văn nói riêng đã khá phong phú, đủ để các nhà
khoa học có thể trình bày các kết quả nghiên cứu của mình mà không phải
mượn thuật ngữ từ bất cứ ngôn ngữ nào khác. Đây là kết quả của một quá
trình phát triển tiếng Việt có tính chiến lược, là công sức của nhiều thế hệ các
nhà khoa học. Chỉ nhìn vào số lượng từ điển giải thích thuật ngữ bằng tiếng
Việt của các ngành khoa học cũng có thể hình dung phần nào sự phát triển
của bộ phận từ ngữ này.
Trở lại những năm 1930 - 1945 ở nước ta, văn học có sự phát triển vượt
bậc theo hướng hiện đại hóa. Trong bức tranh sáng sủa ấy của văn học, ngành
phê bình đã thực sự khởi sắc, gặt hái được những thành tựu quan trọng.
38
Những gương mặt nổi bật như Trần Thanh Mại, Thiếu Sơn, Trương Chính,
Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... là những người
đã có công đầu trong việc đưa nền phê bình nước nhà tiến kịp với những bước
thần kì trong sáng tác văn xuôi và thơ. Và cũng chính những con người ấy,
với ý thức sâu sắc về tinh thần dân tộc, với vốn học vấn và các phương pháp
nghiên cứu tiếp thu của Tây phương, đã ra sức phát triển hệ thống thuật ngữ
khoa học, để trước hết, làm nên những công trình của chính mình, sau đó,
thúc đẩy khoa học xã hội phát triển.
Ra đời trong bối cảnh ấy, cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan đã
cho thấy phần nào những đặc điểm của việc sử dụng thuật ngữ khoa học trong
một công trình phê bình văn học ở một thời kì.
Về mặt lượng, để nhận thấy sự tương đồng hoặc khác biệt giữa Vũ
Ngọc Phan với các cây bút phê bình văn học cùng thời, chúng tôi đã khảo sát,
thống kê, so sánh số liệu thuật ngữ khoa học trong các công trình của họ, từ
đó có thể rút ra những nhận xét bước đầu.
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợt và tỉ lệ thuật ngữ khoa học
trong một số công trình phê bình văn học
TÁC GIẢ, TÁC PHẨM SỐ CÂU VĂN
KHẢO SÁT
SỐ LƢỢT
THUẬT NGỮ
SỬ DỤNG
TỈ LỆ
Hoài Thanh
Văn chương và hành động
1779 656 36,8%
Thiếu Sơn
Câu chuyện văn học
1783 598 33,5%
Trương Chính
Tuyển tập Trương Chính
1767 584 33,%
Vũ Ngọc Phan
Nhà văn hiện đại
1793 682 38,%
39
Kết quả thống kê so sánh ở bảng trên cho ta thấy rằng, tần số xuất hiện
của thuật ngữ khoa học trong các công trình của bốn tác giả không chênh lệch
nhau bao nhiêu. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được. Những công trình
được khảo sát đều thuộc về một lĩnh vực, chúng lại ra đời trong cùng một bối
cảnh, đối tượng nghiên cứu có nhiều nét tương đồng (tác giả, tác phẩm thuộc
các thể loại, những vấn đề thời sự văn học thời đó...), nên sự huy động vốn từ,
trong đó có thuật ngữ khoa học có nhiều điểm giống nhau. Mặt khác, thuật
ngữ khoa học vốn là lớp từ chuyên biệt, chúng phải mang tính đơn nghĩa,
chính xác, sự xuất hiện của chúng chỉ nhằm biểu đạt các nội dung khoa học,
do đó, không có chức năng biểu thị tình thái, không có chỗ cho sự biểu hiện
phong cách cá nhân. Người viết phê bình, muốn thể hiện những nét riêng
trong cá tính của mình, phải viện đến các biện pháp tu từ hoặc phải có một
giọng điệu - những điều hoàn toàn được chấp nhận trong loại văn bản vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật là văn bản phê bình văn học.
Trong Nhà văn hiện đại, do đối tượng quan tâm của nhà phê bình tương
đối rộng, thuật ngữ khoa học cũng khá phong phú về chủng loại. Ta gặp ở đây
các thuật ngữ triết học, sử học, văn hóa học, chẳng hạn: luân lí, triết lí, lễ
giáo, phong tục, tập quán, đạo đức, tư tưởng, chủ nghĩa yếm thế, chủ nghĩa
phản động, luận thuyết, dân tộc, giao thiệp, cai trị, tiến hóa, niên đại, thời
đại, cổ kim thời đại, sử gia, sử thần, quốc sử, sử kí, quan chế, binh chế, khoa
cử, phương pháp viết sử, mĩ thuật, học thuyết, trào lưu, ngoại lai... [Khảo sát
bài Phạm Quỳnh, tập 1, tr.77-113; Trần Trọng Kim, NVHĐ, tập 1, tr.185-
214]. Dễ nhận thấy, số lượng các thuật ngữ thuộc mảng này có tần số xuất
hiện không cao. Chỉ ở những bài viết về những nhà văn - học giả liên quan
đến hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh...,
tác giả mới phải dùng các thuật ngữ như trên đây để nói về sự nghiệp của họ.
40
Là một bộ sách phê bình văn học, dĩ nhiên, bộ phận thuật ngữ thuộc
ngành Ngữ văn phải được sử dụng rộng rãi. Trong hệ thống thuật ngữ ấy, ta
có thể phân biệt từng lĩnh vực được tác giả đề cập. Khảo sát những bài viết về
Phạm Quỳnh, tập 1, tr.77-113; Tương Phố, tập 1, tr.161-177; Trần Trọng
Kim, tập 1, tr.185-214); Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà), tập 1, tr.355-382; Thiếu
Sơn, tập 2, tr.10-21; Hoài Thanh, tập 2, tr.29-36; Nhất Linh (Nguyễn Tường
Tam), tập 2, tr.264-276, chúng tôi nhận thấy sự phân biệt ấy được biểu hiện
cụ thể như sau:
Nói về người cầm bút và người thưởng thức văn học: tác giả, nhà văn,
văn nhân, văn gia, văn hào, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà thơ, thi nhân,
thi sĩ, thi gia, nhà phê bình, biên giả, soạn giả, độc giả, người đọc, bạn đọc...
Nói về hoạt động văn học: chú giải, biên khảo, khảo cứu, khảo luận,
biên tập, sáng tác, trước thuật, dịch thuật, xuất bản, tái bản, giải nghĩa, giảng
giải, diễn giải, chú thích, nghị luận, bình luận, phê bình,...
Nói về thể loại văn học: văn phẩm, thi phẩm, truyện ngắn, truyện dài,
tiểu thuyết, tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lí tưởng, tiểu
thuyết tình cảm, tiểu thuyết tâm lí, tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết luân lí, tiểu
thuyết phong tục, tiểu thuyết xã hội, xã hội tiểu thuyết, tiểu thuyết hoạt kê, tiểu
thuyết tả chân, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết cổ, đoản thiên tiểu thuyết, kí
sự, thơ, phú, nghị luận, phê bình, ca dao, văn xuôi, văn vần, văn du kí, văn
đạo đức, văn tư tưởng, văn biên tập, văn dịch thuật, văn giáo khoa, văn bài
đàm, tựa, kinh, kịch...
Nói về hình thức văn học: đầu đề, lối văn, thể văn, câu văn, đoạn văn,
đoạn, đoạn kết, cốt truyện, nghệ thuật, nhân vật, cử chỉ, tính cách, tâm lí, tâm
tình, câu thơ, đoạn thơ, khổ thơ, bài thơ, lối thơ, điệu thơ, âm điệu, thanh âm
hưởng ứng, giọng, tỉ, phú, hứng, lục bát, song thất lục bát, thơ Đường luật,
thơ cấu đối, hồi kịch, xen, kết cấu, văn từ...
41
Ngoài ra, trong bộ sách, tác giả còn sử dụng thuật ngữ đề cập đến vấn
đề khuynh hướng văn học, ngôn ngữ văn học, lối sáng tác...
Qua tìm hiểu cách sử dụng thuật ngữ trong Nhà văn hiện đại, bước đầu
chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau đây:
Thứ nhất, phần lớn thuật ngữ ngành ngữ văn được Vũ Ngọc Phan sử
dụng trong các bài phê bình đều khá quen thuộc với độc giả ngày nay. Điều
đó chứng tỏ rằng, vào những năm 1930 - 1945, ngôn ngữ văn học dân tộc đã
có bước hiện đại hóa. Cùng với sự phổ biến các thuật ngữ khoa học tự nhiên
(mà cuốn Danh từ khoa học do Hoàng Xuân Hãn biên soạn là một mốc quan
trọng), các thuật ngữ khoa học xã hội, trong đó có ngành Ngữ văn cũng đã
khá phong phú. Tuy nhiên, cũng có khi người viết phải tự dịch một thuật ngữ
từ tiếng nước ngoài để sử dụng lập tức trong một công trình, cũng như có lúc
phải chua thêm thuật ngữ tiếng nước ngoài bên cạnh một thuật ngữ tiếng Việt.
Thứ hai, trong Nhà văn hiện đại, có một số thuật ngữ khá lạ đối với
người đọc ngày nay. Muốn hiểu nội hàm của các thuật ngữ như vậy, nhất thiết
phải đặt chúng trong văn cảnh. Chẳng hạn khái niệm biên giả trong câu sau:
"Bài dịch sách Phương pháp luận của ông Descartes (N.P từ số 3 - tháng Chín
1917) là một bài có ba tính cách: biên tập, dịch thuật và bình luận; trong đó
biên giả tóm tắt từng chương một, rồi mới dịch nguyên văn và sau mỗi
chương có phụ lời bàn" [NVHĐ, tập 1, tr.105]. Một ví dụ khác, thuật ngữ học
phong được dùng trong trường hợp "Giá phải một nước văn học phồn thịnh,
một văn phẩm hay một thi phẩm được nhiều người chú ý như thế, đã gây nên
một phong trào mới cho thơ văn rồi. Nhưng cái học phong nước ta xưa nay
vốn lặng lẽ, nhưng điệu thơ réo rắt của Tương Phố chỉ được ngâm ngợi trong
một thời gian ngắn ngủi, rồi cũng tàn tạ theo với lòng sốt sắng của người Việt
Nam, không được tốt số như tập Werther của Goethe, tập truyện đã gây nên
phong trào lãng mạn ở Âu Châu" [tr.162]. Tương tự như vậy, những thuật ngữ
42
như phong dao, tiếng rắp đôi, tiếng hình dung từ, vần chữ chính, chứng dẫn...
ngày nay đã trở nên xa lạ với người đọc.
Thứ ba, tác giả Nhà văn hiện đại sử dụng một số thuật ngữ theo kiểu
cấu tạo ngữ pháp Hán, trong khi ở một số trường hợp, những thuật ngữ ấy vẫn
được sử dụng theo kiểu ngữ pháp tiếng Việt. Thi văn hợp tuyển được dùng
thay cho hợp tuyển thơ văn, nhân quả thuyết thay cho thuyết nhân quả, cận
kim thời đại thay cho thời đại cận kim, xã hội tiểu thuyết thay cho tiểu thuyết
xã hội... Những cách dùng như vậy mang đậm dấu ấn của thời đại, bởi vì,
không riêng gì Vũ Ngọc Phan, nhiều cây bút phê bình giai đoạn 1930 - 1945
sử dụng khá thường xuyên những thuật ngữ có cấu tạo theo kiểu phụ - chính
như vậy.
Thứ tư, vốn thuật ngữ của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại dù
không đến nỗi nghèo nàn, song nếu so với công trình của các tác giả hiện nay,
rõ ràng đã có một khoảng cách rất xa. Chỉ cần xem vài cuốn từ điển, chẳng
hạn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên, 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên
soạn, hoặc Từ điển Tu từ - Phong cách - Thi pháp học của Nguyễn Thái
Hòa... cũng đủ thấy rất nhiều thuật ngữ được dùng phổ biến trong khoa học
Ngữ văn hiện nay chưa hề có mặt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
cũng như công trình của các nhà phê bình thời đó. Về vấn đề này, GS Lê
Quang Thiêm cho rằng: "do tinh đặc thù của văn chương mà phần hệ thống lí
luận duy lí lại muộn hơn các khoa học xã hội khác (triết học, tôn giáo). Cho
nên, hệ thuật ngữ định hình bằng quốc ngữ đến giai đọan này mới hình thành,
và nó là một bộ phận có sớm trong việc góp phần xây dựng nền quốc học mới
của nước nhà là như vậy" [38, tr.172]. Theo cái nhìn lịch đại, ta mới thấy bộ
phận thuật ngữ trong tiếng Việt đã có sự phát triển vượt bậc, phản ánh sự phát
triển tất yếu của khoa học.
43
2.1.2.2. Từ ngữ Hán-Việt trong Nhà văn hiện đại
Nghiên cứu từ ngữ trong văn bản nghệ thuật, văn bản báo chí hay
nghiên cứu phê bình văn học, không thể không chú ý đến lớp từ Hán-Việt, bởi
lớp từ vay mượn này có mặt với tỉ lệ rất cao trong vốn từ tiếng Việt, mặt khác,
đây cũng là lớp từ thể thiện sắc thái phong cách rõ nét nhất.
Do quá trình tiếp xúc lâu dài, với những cách thức khác nhau giữa tiếng
Việt và tiếng Hán, trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện nay, thành tố Hán-Việt
và các từ Hán-Việt chiếm tỉ lệ rất cao. Xét về bình diện sử dụng, lớp từ này đã
làm nảy sinh lắm vấn đề. Từng có lúc người ta xem nó như là một trong
những nhân tố chủ yếu làm cho tiếng Việt thiếu trong sáng, trong khi thực tế
không phải hoàn toàn như vậy. Trong ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ hành
chính,... từ Hán-Việt chẳng những chiếm tỉ lệ không nhỏ, mà còn thường là
những từ không thể thay thế. Nó đáp ứng yêu cầu về diễn đạt của phong cách
chức năng.
Việc sử dụng từ Hán-Việt ở văn bản phê bình văn học có khác với văn
bản nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật thực chất là đa phong cách, nghĩa là văn
bản nghệ thuật có thể ôm trùm, dung chứa mọi phong cách chức năng. Vì thế,
người cầm bút rất rộng đường trong việc lựa chọn ngôn từ cho phù hợp với ý
đồ nghệ thuật của mình. Trước mặt nghệ sĩ, mọi lớp từ ngữ đều bình đẳng
nhau. Phan Ngọc đã có lí khi cho rằng: “Không có chữ hay, dở mà chỉ có
nghệ sĩ tồi chỉ thấy chữ với chữ và nghệ sĩ lớn dùng chữ làm phương tiện để
tạo nên các quan hệ kín đáo, thâm trầm nhưng có thật ở con người”. Thế
nhưng, trong văn bản phê bình văn học, tỉ lệ từ Hán-Việt sẽ chịu sự qui định
không chỉ của cá nhân người viết, mà cả yếu tố thời đại.
Nghiên cứu cách sử dụng từ Hán Việt trong Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan cũng không thể tách khỏi bối cảnh văn học thời đại.
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam nataliej4
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019hanhha12
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ nataliej4
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy KhuêTác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy KhuêNguyễn Hương Thảo
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
 
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOTLuận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạnLuận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
 
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy KhuêTác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 

Similar to Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfNuioKila
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 

Similar to Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
 
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
 
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đạiLuận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
 
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HOT
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HOTLuận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HOT
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HOT
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơiNghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
Nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Mắt bão, Ngựa thép, Luật chơi
 
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
 
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.docĐặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
 
minh chau.pdf
minh chau.pdfminh chau.pdf
minh chau.pdf
 
Tiểu Thuyết Vũ Đình Giang Từ Góc Nhìn Hậu Hiện Đại.doc
Tiểu Thuyết Vũ Đình Giang Từ Góc Nhìn Hậu Hiện Đại.docTiểu Thuyết Vũ Đình Giang Từ Góc Nhìn Hậu Hiện Đại.doc
Tiểu Thuyết Vũ Đình Giang Từ Góc Nhìn Hậu Hiện Đại.doc
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong giai đoạn 1930 - 1945, văn học Việt Nam phát triển với tốc độ nhảy vọt. Vũ Ngọc Phan nhận định: "một năm ở nước ta bằng ba mươi năm ở nước người". Gia tốc phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn này thể hiện trên nhiều phương diện: sự xuất hiện một đội ngũ sáng tác hùng hậu, sống bằng nghề văn; hàng loạt tác phẩm ra đời nhờ tiếp thu công nghệ in sách của phương Tây; một công chúng văn học đông đảo ỏ thành thị với nhu cầu mới mẻ, đa dạng, có tác dụng kích thích sự sáng tạo của nhà văn. Và nói đến sự phát triển ngoạn mục ấy, không thể không nói đến sự phong phú của thể loại văn học. Quả thật, khác với văn học trung đại trước đó, văn học Việt Nam lúc này đã nằm trong quĩ đạo của hiện đại hoá. Mọi thể loại văn học đều bừng rộ, đạt thành quả rực rỡ. Tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, thơ trữ tình, kịch,…đều đồng loạt có mặt. Trong bức tranh thể loại đa sắc đó, không thể không nói tới sự góp mặt của phê bình văn học. 1.2. Phê bình văn học đã có bước "chạy đà" trước đó với Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí, và được tiếp nối với Tri Tân, Thanh Nghị, Ngày nay… Giai đoạn này xuất hiện nhiều cây bút phê bình chuyên nghiệp, tiếp thu phương pháp phê bình văn học của phương Tây và gặt hái được những thành tựu đáng ghi nhận: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan… Trong số những cây bút phê bình vừa kể trên, Vũ Ngọc Phan tuy không phải là gương mặt thật xuất sắc, nhưng, nói đến lịch sử phê bình văn học hiện đại Việt Nam, không thể không nhắc đến ông. Nổi bật hơn cả trong sự nghiệp trước tác của ông là bộ Nhà văn hiện đại. Đúng như lời đầu sách của Nhà xuất bản Văn học trong lần tái bản thứ VI: "Bộ sách Nhà văn hiện đại chưa phải đã thật hoàn hảo, như nhiều nhà
  • 2. 2 nghiên cứu, nhiều bạn đọc sau này đã chỉ ra; song vẫn là bộ sách có giá trị, bởi cho đến nay, nó vẫn là một công trình bao quát nhất của một giai đoạn văn học từ cuối thế kì XIX đến những năm 40 của thế kỉ XX - giai đoạn có một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam". Như vậy, không thể hình dung đầy đủ nền phê bình văn học thời bấy giờ nếu không nói đến bộ Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. 1.3. Nói đến đóng góp của Nhà văn hiện đại dĩ nhiên trước hết phải nói đến mặt học thuật, gắn với phương pháp phê bình, tầm bao quát tư liệu, các nhận định về tác giả và tác phẩm, ảnh hưởng của nó đối với tình hình sáng tác lúc bấy giờ và cả sau này. Những mặt đó đã được đề cập với những mức độ đậm nhạt khác nhau trong các bài viết, các công trình nghiên cứu về bộ sách. Song nếu đặt Nhà văn hiện đại (cũng như một số công trình phê bình khảo cứu văn học thời bấy giờ) vào không khí văn học Việt Nam những năm 30 - 40 của thế kỉ XX ở Việt Nam, cần nhìn thêm một khía cạnh: sự đóng góp của tác giả đối với việc hiện đại hoá ngôn ngữ văn học. Thông thường, nói đến hiện đại hoá ngôn ngữ văn học, người ta chú trọng đặc biệt đến công lao của Thơ mới, của văn xuôi Tự lực văn đoàn và tác phẩm của nhiều nhà văn thời đó. Điều ấy hiển nhiên là đúng. Nhưng vẫn còn thiếu sót nếu không chú ý đến sự góp công của các cây bút phê bình văn học, bởi, chính thể loại vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật này cũng để lại những dấu tích rõ ràng trong việc du nhập các khái niệm ngữ văn từ phương Tây, làm giàu thêm vốn từ vựng ngôn ngữ dân tộc, hoặc trong việc hiện đại hoá câu văn quốc ngữ vốn được khởi sự từ những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Để ngôn ngữ phê bình văn học có được diện mạo và phẩm chất như hiện nay, rõ ràng có sự đóng góp âm thầm, bền bỉ của nhiều thế hệ các nhà phê bình, mà một trong số đó chính là Vũ Ngọc Phan với công trình Nhà văn hiện đại.
  • 3. 3 Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan với khuôn khổ một luận văn thạc sĩ. 2. Lịch sử vấn đề Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, chuyên luận về Vũ Ngọc Phan, về Nhà văn hiện đại của ông, nhưng dường như phần lớn chỉ xét về mặt văn chương. Trong Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng Tháng Tám của chính Vũ Ngọc Phan (Tạp chí Văn học, số 9/ 1965), ông tự nhận xét về cuốn Nhà văn hiện đại của mình là “nói có sách, mách có chứng, không khen chê vu vơ…”. Đồng thời, ông cũng nêu một số vấn đề về chế độ xã hội lúc bấy giờ để lí giải tại sao tác phẩm Nhà văn hiện đại không đề cập đến chính trị. Nhà phê bình Lê Thanh trong Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về một phương pháp phê bình văn học (Tri Tân, số 8/1943 – Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998) cho rằng Vũ Ngọc Phan tự nhận viết cuốn Nhà văn hiện đại theo “phương pháp khoa học và thuyết tiến hoá”. Nhà văn Thạch Lam cùng thời với Vũ Ngọc Phan nhận định: “lối phê bình của Vũ Ngọc Phan là rất nhạt, chung chung, không theo một chính kiến rõ ràng”. Trong bài báo Nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại và phong cách (Tạp chí Văn học, số 1/1993) và trong công trình Về phương pháp phê bình và nghiên cứu văn học (đăng trong chuyên luận Lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX), Nguyễn Ngọc Thiện có một phần viết riêng về Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Tác giả cho rằng, phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan là “rất thú vị, xét đoán theo tiêu chí đặc trưng chung của nhóm, loài, nhưng mỗi cá thể vẫn giữ được cái riêng biệt, đơn nhất của mình”.
  • 4. 4 Tuy thế, ông cũng khẳng định: một số nhận xét của Vũ Ngọc Phan còn rất khiên cưỡng. Trong một chuyên luận do Nhà xuất bản Văn học ấn hành của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Tôn Thảo Miên, Hà Công Tài, Trịnh Bá Đĩnh, Cao Kim Lan, Đinh Thị Minh Hằng nghiên cứu về lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, có một số bài viết liên quan đến Vũ Ngọc Phan. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp ở bài viết Vũ Ngọc Phan (1902-1987) cho rằng: “Với Vũ Ngọc Phan, phê bình không phải là hoạt động tuỳ hứng có tính chủ quan. Ông muốn tiếp cận các giá trị của văn chương bằng cái nhìn của nhà khoa học…dựa theo những tiêu chí cụ thể và nhất quán”, “Những nhận xét của Vũ Ngọc Phan về Nguyên Hồng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài… cũng có nhiều chỗ chính xác. Khi phân tích sáng tác của các nhà văn, Vũ Ngọc Phan hay dùng thủ pháp so sánh. Thủ pháp này góp phần nhận chân nét riêng của các cây bút này thêm rõ nét”, “Với thái độ phê bình cẩn trọng, nhiều nhận đinh của Vũ Ngọc Phan chừng mực và chính xác. Ông còn có những phát hiện tinh tế mà cho đến nay ta vẫn thấy tính thuyết phục trong các nhận định ấy”. Nhược điểm rõ nhất của Nhà văn hiện đại là chưa thể hiện được sự phong phú của văn học; việc sắp xếp các nhà văn vẫn chưa hợp lí trong trường hợp có nhiều nhà văn viết nhiều thể loại khác nhau; phân tích các tác phẩm chưa thật kĩ lưỡng, thậm chí chỉ đưa ra những nhận xét một cách khái quát chứ không chứng minh. Tuy thế, Vũ Ngọc Phan với Nhà văn hiện đại vẫn là “người công phu và tinh tế…Ông là người nhìn văn học bằng sự điềm tĩnh của nhà nghiên cứu”. Trịnh Bá Đĩnh trong Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỉ XX đã nhận thấy Vũ Ngọc Phan coi “phê bình thuộc sáng tạo của nghệ thuật” và ông đã “đồng đẳng” các thể loại văn học với thơ, kịch, truyện và kí.
  • 5. 5 Tác giả Trần Bích San trong Phê bình văn học nhận ra rằng Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại là một người “phê bình tác phẩm theo quy tắc ngữ văn hơn là một người đi tìm cái đẹp, khám phá các công trình sáng tạo. Tuy vậy, ông là nhà phê bình có ý thức vững chắc và trung thành với nhiệm vụ cùng phương pháp phê bình. Ông đã phê bình các sáng tác văn học đúng theo tiêu chuẩn của ông”. Ngược lại, Đỗ Lai Thuý trong Phê bình văn học Việt Nam trên đường hiện đại hoá thì cho rằng: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là sự tranh chấp giữa phê bình khoa học và phê bình ấn tượng, giảng giải, nhận xét vụn vặt.” Như vậy có thể thấy rõ rằng sức sống của tác giả Vũ Ngọc Phan cùng với tác phẩm Nhà văn hiện đại đã vượt qua giới hạn về mặt thời gian trong gần thế kỉ qua, từ khi ra đời – năm 1939 đến nay. Chúng tôi đã thu thập được hơn 15 tác phẩm viết về nhà văn Vũ Ngọc Phan cùng với tác phẩm Nhà văn hiện đại. Tuy thế cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dưới góc độ ngôn ngữ một cách có hệ thống. Đó là một trong những lí do để chúng tôi triển khai công trình nghiên cứu này. 3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu 3. 1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bộ sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan gồm hai tập, tập 1 có 3 quyển, tập 2 có 3 quyển. 3.2. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học; - Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại trên hai cấp độ cơ bản: từ ngữ và cú pháp.
  • 6. 6 - Tìm dấu ấn thời đại và những đóng góp của Vũ Ngọc Phan đối với việc hiện đại hoá ngôn ngữ phê bình văn học. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau đây: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp miêu tả, giải thích. - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp loại hình - lịch sử. - Phương pháp tiếp cận hệ thống. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1: Phê bình văn học, vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học và công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan Chương 2: Từ ngữ trong Nhà văn hiện đại Chương 3: Câu văn trong Nhà văn hiện đại Sau cùng là Tài liệu tham khảo.
  • 7. 7 Chương 1 PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGÔN NGỮ PHÊ BÌNH VĂN HỌC VÀ CÔNG TRÌNH NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI CỦA VŨ NGỌC PHAN 1.1. Phê bình văn học và vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học 1.1.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của phê bình văn học Nhận thức về bản chất của phê bình văn học là một quá trình, và quan niệm về phê bình văn học cũng đã từng có những chỗ rất khác nhau. Nhưng dù chưa phải đã có sự nhất quán trong các quan niệm, thì cũng không thể phủ nhận rằng, phê bình văn học là một hoạt động tất yếu của mọi nền văn học. Sản phẩm nghệ thuật ra đời, đồng thời cũng phải chịu sự phán xét của công chúng tiếp nhận: hoặc khen hoặc chê. Thái độ đó không chỉ của bạn đọc nói chung, mà quan trọng hơn, ở một lớp "độc giả đặc biệt", có sự am hiểu sâu sắc về văn học, có quan điểm lí thuyết, có vốn văn hóa sâu rộng, đó là các nhà phê bình văn học. Đỗ Lai Thúy cho rằng, phê bình có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông tục của ngôn ngữ thường nhật, hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của khoa học văn học. Theo nghĩa rộng, phê bình chỉ bất cứ sự khen chê, đánh giá nào về một tác phẩm, một sự kiện văn học, từ một câu thơ câu văn cho đến một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học. Nhưng phê bình văn học theo nghĩa là một hoạt động chuyên môn thì chỉ xuất hiện khi nhân loại bước vào thời đại mới, trước hết là ở châu Âu (đầu thế kỉ XIX) [39, tr.18-19]. Và cũng chỉ phê bình hiểu theo nghĩa hẹp như vậy mới là một hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở chỗ, nó có đối tượng riêng, có phương pháp riêng. Đối tượng của phê bình văn học là trước hết là tác phẩm - yếu tố trung tâm của hệ thống văn học. "Người ta có thể phê bình
  • 8. 8 một một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học, nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm" [39, tr.25]. Từ lâu, tác phẩm văn học đã là đối tượng nghiên cứu của một số khoa học xã hội và nhân văn. Tùy theo mục đích của mình, mỗi khoa học có hướng tiếp cận riêng đối với tác phẩm văn học. Cũng xem tác phẩm là đối tượng, nhưng phê bình văn học của thế giới trước thế kỉ XX coi tác phẩm như là sự mô phỏng cuộc sống, như là bản sao của thiên nhiên. Chỉ từ thế kỉ XX, tác phẩm mới thực sự là một tồn tại tự thân, và do vậy, mới là đối tượng nghiên cứu thực sự của khoa học văn học, trong đó có phê bình văn học. Và cũng từ đây, phê bình văn học phải có quan niệm đầy đủ về tác phẩm văn học, trên cơ sở đó mới có thể xác định các phương pháp phù hợp. Tác phẩm văn học trước hết là một sáng tạo ngôn từ. Từ chất liệu có sẵn là ngôn ngữ tự nhiên, nhà văn tạo nên tác phẩm. Một tác phẩm văn học chỉ thực sự có sức sống tự thân khi nó là sản phẩm độc đáo, mang tính đơn nhất, không lặp lại. Tác phẩm văn học phải là một nghệ thuật. Nghĩa là nó có những thuộc tính chung với những loại hình nghệ thuật mà con người đã tạo ra như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh. Đặc trưng chung của nghệ thuật là tính thẩm mĩ, tính gợi cảm. Không tạo ra cái đẹp, không được xem là nghệ thuật. Mặt khác, không có khả năng đánh thức cảm xúc của con người cũng chưa phải là nghệ thuật. Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở các phương pháp mà nó vận dụng. Trên tiến trình phát triển của mình, phê bình văn học đã từng được biết đến với các phương pháp: phê bình ấn tượng chủ nghĩa, phê bình tiểu sử học, phê bình văn hóa - lịch sử, phê bình xã hội học mác xít, phê bình phong cách học, phê bình thi pháp học, phê bình phân tâm học, phê bình văn học từ
  • 9. 9 hệ thống văn hóa. Mỗi phương pháp phê bình ra đời đều gắn với hệ tư tưởng, với những quan niệm triết mĩ, với lí thuyết. Thiếu lí thuyết, nhà phê bình - nói theo cách Nguyễn Hưng Quốc - không khác gì người mù. Trong tiểu luận Ba chức năng chính của phê bình, Nguyễn Hưng Quốc viết: "Các lý thuyết văn học vừa tồn tại như một sự phê bình đối với bản thân ý niệm văn học vừa tồn tại như một cương lĩnh để các nhà phê bình cũng như người đọc nói chung theo đó tiến hành công tác phê bình các tác phẩm văn học. Trong cách nhìn này, phê bình văn học và lý thuyết văn học có quan hệ mật thiết với nhau: không có một lý thuyết văn học nào không được hình thành trước hết như một cách phê bình đối với một lý thuyết, hoặc ít nhất, đối với một cách nhìn nào đó về văn học; và không có một hành động phê bình nghiêm chỉnh nào lại không dựa trên một cơ sở lý thuyết nhất định. Khi tính chất đa nguyên về văn hoá và thẩm mỹ càng phát triển, các nhà phê bình càng đối diện với nhu cầu tự chứng minh và bênh vực cho các luận điểm của mình, do đó, càng phải lún sâu vào lý thuyết: ngay cả khi họ thực lòng không thích lý thuyết thì họ cũng bị buộc phải lý thuyết hoá thái độ phản - lý thuyết của họ" [31]. Hiện nay, người ta chia phê bình thành phê bình báo chí và phê bình học thuật. Dĩ nhiên, phê bình học thuật có tính khoa học cao hơn, có đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của bản thân nền phê bình cũng như sự tác động tích cực đến hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ. Không chỉ có tính khoa học, phê bình văn học còn mang tinh nghệ thuật. Điều này bị qui định trước hết ở đối tượng của phê bình: tác phẩm văn học là một hiện tượng thẩm mĩ. Hành trình "thám mã", khám phá những giá trị của tác phẩm văn học của nhà phê bình không chỉ trông cậy ở sự "thông minh", sự sắc sảo của lí trí, ở hiệu năng của lí thuyết được vận dụng, mà còn ở sự rung động của tâm hồn. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy quan niệm: "Nhà văn và nhà phê bình đều đi trên một lộ trình, nhưng ngược chiều nhau: sáng tác đi
  • 10. 10 từ ý tưởng đến ngôn ngữ bằng con đường trực giác nghệ thuật, còn phê bình đi ngược lại từ ngôn ngữ đến ý tưởng bằng con đường ý thức khoa học" [39, tr.55]. Ông cũng "định lượng hóa" thao tác của nhà văn và của nhà phê bình: "Nói một cách định lượng thô thiển thì, khi sáng tác, nhà văn sử dụng 70% trực giác, xuất thần, cảm hứng và 30% ý thức, còn khi phê bình tác phẩm, nhà phê bình lại sử dụng 70% ý thức và 30% trực giác" [39, tr.55]. Một "liều lượng trực giác" mà nhà phê bình cần đến trong hoạt động của mình như vậy là điều có ý nghĩa quyết định để anh ta có thể chỉ ra chỗ ẩn giấu của cái đẹp cũng như giải thích về cái đẹp được khám phá. Nhà phê bình có vị thế độc lập với người sáng tạo. Bởi thế, văn bản phê bình tồn tại song song với văn bản nghệ thuật mà nó tìm hiểu, đánh giá. Ở chỗ này, nhà phê bình cũng được xem là người sáng tạo. Nếu sáng tạo của nhà văn dựa trên chất liệu đời sống, thì nhà phê bình sáng tạo trên vật liệu đặc thù: tác phẩm của nhà văn. Nhà phê bình là một nhà văn. Tác phẩm phê bình là một tác phẩm văn chương. Người ta gọi đây là phê bình nghệ sĩ. Phê bình là một tác phẩm nghệ thuật, là sự tái kiến tạo một phong cách từ một phong cách khác, là sự biến đổi ngôn ngữ thành một ngôn ngữ khác. Trong lịch sử phê bình của chúng ta, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân là ví dụ điển hình của phê bình nghệ sĩ, và chính tác phẩm này đã đem đến cho độc giả nhã hứng đặc biệt như đọc những vần Thơ mới vậy. 1.1.2. Ngôn ngữ phê bình văn học 1.1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ phê bình văn học Ngôn ngữ phê bình văn học là một bộ phận, một biểu hiện của ngôn ngữ văn học (còn gọi là ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ văn chương [13, tr.311-312]. Theo Lại Nguyên Ân, ngôn ngữ văn học là dạng thức đã được chỉnh lí của ngôn ngữ toàn dân, được những người dùng ngôn ngữ này coi là chuấn
  • 11. 11 mực. Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ được dùng trong các phương tiên thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản phẩm), nhà trường, sân khấu, khoa học, văn học (nghệ thuật ngôn từ, giấy tờ quan phương, sự vụ... [1, tr.232]. Như vậy, ngôn ngữ văn học đối lập với ngôn ngữ thông tục, các phương ngữ khu vực (của từng lãnh thổ), các phương ngữ xã hội (của từng giới hẹp). Các chuẩn mực của ngôn ngữ văn học là chuẩn mực toàn dân, nhằm mục đích chính là để toàn dân hiều được. Ngôn ngữ văn học là là kết quả sự sáng tạo tập thể, là một trong những thành tựu văn hóa chung của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Phạm vi ứng dụng quan trọng của nó chính là văn học (nghệ thuật ngôn từ). Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn giữa các khái niệm "ngôn ngữ văn học" (với nội hàm đã lí giải trên đây) với "ngôn ngữ của văn học" (tức là ngôn từ nghệ thuật"). Ngôn ngữ văn học dưới dạng viết không chỉ được dùng trong văn học, mà còn được dùng trong tác phẩm khoa học, báo chí, giấy tờ sự vụ; nó còn được dùng dưới dạng nói, tức là lời hội thoại, nhất là ở các giao tiếp công cộng và chính thống (quan phương). Ngôn ngữ được dùng ở các sáng tác văn học không chỉ đóng khung trong phạm vi các chuẩn mực ngôn ngữ văn học; các nhà văn còn sử dụng các thành phần ngôn ngữ thông tục, phương ngữ, biệt ngữ (tiếng lóng) - từ là các thành phần không được coi là "ngôn ngữ văn học". Mỗi ngôn ngữ văn học phát triển phục vụ những phạm vi hoạt động chính của tập thể nói bằng ngôn ngữ ấy. Tùy thuộc phạm vi hoạt động mà nó có những dạng thức sau: Thứ nhất, ngôn từ hội thoại - dùng trong giao tiếp bình thường, không gắn liền với đề tài chuyên biệt. Thứ hai, ngôn từ chuyên môn - dùng trong khuôn khổ các đề tài có ranh giới chặt chẽ. Thứ ba, ngôn từ nghệ thuật - dùng trong các sáng tác văn học; việc sử dụng ngôn ngữ ở đây
  • 12. 12 chủ yếu hướng tới chức năng thẩm mĩ. Ở các dạng thức hoạt động chức năng cụ thể nêu trên, việc tổ chức văn bản được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau. Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ văn học gắn bó ở mức đáng kể với sự phát triển của văn tự (chữ viết). Chính việc được ghi lại bằng văn tự đã làm định hình các chuẩn mực chung của ngôn ngữ văn học, làm hình thành tính bắt buộc và tính cố định tương đối của các chuẩn mực ấy. Tuy nhiên, phần lớn các ngôn ngữ văn học hiện đại đều gồm cả dạng nói và dạng viết; hơn thế, những đặc điểm khác biệt căn bản bên trong một ngôn ngữ lại gắn không phải với dạng nói hay dạng viết mà là với dạng sách vở và dạng hội thoại của ngôn ngữ văn học (ví dụ, các phát biểu trước công chúng thường hướng tới ngôn từ sách vở, dù được bộc lộ ở dạng nói; trong khi đó, ở các văn bản nghệ thuật lại có sự mô phỏng nhiều đặc điểm của ngôn ngữ hội thoại, dù được ghi bằng văn tự. Người ta gọi đây ngôn ngữ sinh hoạt được tái hiện. Ngôn ngữ văn học luôn luôn được phát triển và làm giàu, với điều kiện thiết yếu cho hoạt động chức năng của ngôn ngữ là các chuẩn mực của nó phải ổn định. Là thành tựu và sự phản ánh của văn hóa dân tộc, ngôn ngữ văn học phải là nơi gìn giữ tất cả những gì có giá trị được biểu hiện bằng ngôn từ đã được tạo ra bởi các thế hệ từng sử dụng ngôn ngữ ấy [1, tr.233]. Như vậy, ngôn ngữ văn học là khái niệm có sự bao hàm khá rộng các loại diễn ngôn, mà phê bình văn học cũng chỉ là một dạng diễn ngôn trong đó. Nói cách khác, ngôn ngữ phê bình văn học là một dạng thức của ngôn ngữ văn học. Trong ngôn ngữ của nền quốc văn mới, lần đầu tiên, tiếng Việt có một dạng thức ngôn ngữ mới, trước đó chưa từng biết đến. Với các ngôn ngữ châu Âu, lối viết khảo luận phê bình đã có từ sớm, mà nguồn gốc là từ các tác phẩm triết học, luận lí học, và sau đó là báo chí. Ở Việt Nam, báo chí chính là cái nôi đầu tiên của ngôn ngữ phê bình. Từ báo chí, chúng mới dần dần thành
  • 13. 13 những chuyên khảo ở thập kỉ 30 của thế kỉ XX. "Sự có mặt của ngôn ngữ lí luận phê bình đã có tác dụng rất tích cực trong việc làm thay đổi diện mạo ngôn ngữ văn học ở nước ta. Nó cũng là một cái nền để ngôn ngữ văn học mới có thêm nguồn lực mà phát triển" [35, tr.823-824]. 1.1.2.2. Một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học Do đặc thù của thể loại và đối tượng tiếp cận, văn bản phê bình văn học có sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ thuật. Chính điều này góp phần qui định những đặc điểm riêng của ngôn ngữ phê bình văn học. a) Ngôn ngữ phê bình văn học trước hết phải có tính chính xác. Là một bộ phận của khoa học xã hội và nhân văn, tính chính xác của phê bình văn học dĩ nhiên có những sự khác biệt so với ngôn ngữ của khoa học tự nhiên, nói cách khác, sự chính xác ở đây là có tính tương đối. Tính chính xác của ngôn ngữ phê bình thể hiện ở các tri thức lí thuyết được trình bày hoặc vận dụng; ở hệ thống thuật ngữ mà nó sử dụng để diễn đạt các nội dung khoa học; ở sự trung thực trong trích dẫn ý kiến của người khác hoặc các dẫn từ các tác phẩm... Chẳng hạn: - "Trong một áng văn rất cổ xưa của Platon các nhà phê bình văn học thời nay tìm thấy một định thức chuẩn xác về thực chất của cái công việc mà họ đương làm. Đề cập đến những tiêu chuẩn của một công dân Hy Lạp có học, Platon nhấn mạnh tầm quan trọng của việc am hiểu thơ ca, tức là “hiểu được những gì mà các nhà thơ nói, phán định được cái gì hay và cái gì không hay trong những trước tác của họ, biết phân tích những cái đó và giải thích, nếu có ai hỏi" [9]. - "Ðối với nhà bình giải văn học thì văn chương là lĩnh vực độc lập, có ý nghĩa và mục đích tự thân, "văn chương (chính) là văn chương". Nó có chức năng sáng tạo ra cái đẹp, đem lại mĩ cảm cho độc giả, khiến họ "quên những sự nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa" (Hoài Thanh).
  • 14. 14 Như vậy, chức năng thanh lọc tâm hồn và giải trí được đề cao, các nhiệm vụ giáo dục luân lí, đạo đức, nhận thức thế giới... bị coi nhẹ. Một tác phẩm văn học vì thế - theo cách nói hình ảnh của Hoài Thanh - có thể chỉ cần làm một bông hoa mà không nhất thiết phải thành quả" [9]. b) Ngôn ngữ phê bình văn học phải có tính chặt chẽ. Nếu sáng tác văn học là sản phẩm của kiểu tư duy hình tượng, thì phê bình văn học lại là sản phẩm của tư duy thiên về lô gic. Sức thuyết phục của văn bản phê bình phụ thuộc vào "hàm lượng khoa học", ở những luận thuyết, ở các dẫn chứng minh họa... Điều này được phản ánh rõ nét trong hình thức ngôn ngữ của văn bản phê bình, ở đó, tính chặt chẽ thể hiện ở các kiểu lập luận, ở các thao tác phân tích, giải thích, chứng minh... Ví dụ: - "Hiện nay, phê bình lý thuyết rất được coi trọng. Hợp tuyển các công trình phê bình nổi tiếng thế giới đều không thể vắng mặt những tên tuổi như R. Jakobson[13] , M. Bakhtin, R.Barthes, J. Derrida, M.Foucault, T. Adorno, H.R. Jauss, W. Iser... Người ta yêu thích những tác giả có đóng góp về lý thuyết, hoặc những công trình giàu sáng tạo lý thuyết. Có điều đáng lưu ý là loại phê bình này không nhất thiết phải viết về những tác giả đương đại, mà chủ yếu là những tác giả đã được khẳng định, kể cả những nhà văn tưởng như đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, như Bakhtin về Dostoievski và Rabelais, Barthes về Sarrasine của Balzac, không phải để “ăn mày dĩ vãng” mà cốt để làm rõ hiệu quả của phương pháp mới trên một tác phẩm cũ tưởng đã cạn kiệt thông tin. Như vậy, ở đây tính thời sự mà người ta vẫn coi như một thuộc tính của phê bình cần phải được hiểu khác, rộng hơn: không chỉ phê bình các tác phẩm đương đại, mà cả dùng lý thuyết và phương pháp hiện đại để phê bình những tác phẩm quá khứ. Bởi, xét cho cùng, làm chết một tác phẩm sống và làm sống một tác phẩm chết thì cũng như nhau" [39, tr.19].
  • 15. 15 - "Trong cái thứ lý tưởng văn học mà độc giả đại chúng giữ địa vị của một ông chủ vô hình khổng lồ có quyền đòi hỏi được phục vụ và quyền thẩm định giá trị, câu hỏi "viết cho ai?", từ ý nghĩa của một lời tự hỏi, càng lúc càng hàm ý một sự đòi hỏi. Khi sự đòi hỏi không được đáp ứng, câu hỏi "viết cho ai?" lại biến thành một lời ta thán. Là một lời ta thán, nó hàm chứa một loạt những điều rất thú vị. Điều thú vị đầu tiên là dường như nó chỉ được nêu lên vào những lúc có sự xuất hiện của những tác phẩm mới lạ"[43]. c) Tính biểu cảm là một đặc điểm khá nổi bật của ngôn ngữ phê bình. Do đối tượng của phê bình văn học là tác phẩm văn học - biểu hiện của cái đẹp, có sức lây lan cảm xúc, tạo mối đồng cảm ở người đọc, cho nên, nhà phê bình hoàn toàn có thể bộc lộ những rung cảm của mình ở từng trang viết. Người ta đã nói đến kiểu phê bình nghệ sĩ (nhà phê bình đồng thời là nhà văn, tác phẩm phê bình đồng thời là tác phẩm văn chương, nghĩa là nó tác động đến người đọc bằng tính biểu cảm). Ngay cả những nhà phê bình thuần túy, chưa hề sáng tác văn thơ, cũng có thể viết nên những trang phê bình khiến người đọc phải rung động. Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam là một trong những trường hợp tiêu biểu. Lối viết phê bình kiểu ấn tượng của Hoài Thanh đã tạo nên những trang viết giàu chất văn, đưa đến cho độc giả những khoái thú, không khác gì được đọc những áng thơ văn giàu cảm xúc. Ví dụ: - "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết" [37, tr.106]. - "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu
  • 16. 16 không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn trở buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận" [37, tr.46-47]. Lúc mới bắt đầu viết phê bình, Nguyễn Hưng Quốc cũng rất mê lối văn giàu cảm xúc này, và từng làm say mê nhiều độc giả bởi thứ văn phê bình rất "điệu", chẳng hạn: - "Làm thơ là một cách tỏ tình. Nói lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, bổng hay trầm, nào có quan trọng gì. Quan trọng là ở chỗ người mình yêu có chớp mắt xúc động hay không. Nhà thơ lớn nào cũng đều là những tâm hồn lớn có khả năng thu nhận và rung cảm trước những làn sóng vỗ từ xa, rất xa, ngoài bản thân họ. Nhà thơ lớn là những hạt muối. Hạt muối nhỏ nhưng chất chứa dồn nén trong mình tất cả những vị mặn chát của đại dương. Nhà thơ lớn là những chiếc lá ngô đồng. Chiếc lá nhỏ hanh hao, bay bay trong gió thoi thóp biết mấy nhưng lại mang trong mình tất cả tín hiệu của một mùa trời đất đang đi" [33]. - "Nhà thơ là người sáng tạo ư? Không, tôi ngờ lắm. Từ xưa đến nay, nhà thơ có mang lại điều gì mới mẻ đâu. Hắn là người, bằng sự nhạy bén riêng của mình, phát hiện sâu sắc hơn ai hết những chất thơ đã vốn có, đã bàng bạc, ẩn tàng, giấu khuất đâu đó trong vũ trụ, ở thiên nhiên, ở cuộc đời, ở lòng người. Gió vẫn có đấy chứ, quen thuộc lắm mà, từ bao nhiêu đời rồi, nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ ra đời, nghiêng mình làm lá, gió mới cất thành tiếng reo. Trăng vẫn có đấy chứ, từ xưa, trên cao, nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ xuất hiện, lặng mình làm một mặt nước hồ im, trăng mới lại hiện về, long lanh hơn, huyền ảo hơn, ngay trên mặt đất, rất vừa tầm nhìn. Nhà thơ có sáng tạo được gì đâu? Hắn chỉ là lá reo để đón gió, là hồ im để đón trăng, là cỏ ngửa mặt để chờ sương. Hắn nắm bắt và giữ lại cho đời những chất thơ kín đáo nhất, mong manh nhất, thoáng qua nhất" [33].
  • 17. 17 Thị hiểu người đọc ngày nay rất đa dạng. Không phải ai cũng thích lối văn phê bình du dương, trầm bổng, ít tiết chế cảm xúc. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ngôn ngữ phê bình có thể khước từ tính biểu cảm. Vấn đề là ở "liều lượng", ở cách sử dụng của người viết. Sự lạm dụng bao giờ cũng gây phản cảm. Nhưng, nếu thể hiện cảm xúc đúng chỗ, bài phê bình dễ dàng chinh phục người đọc không chỉ bởi "thấu lí" mà còn "đạt tình". d) Ngôn ngữ phê bình văn học cũng biểu hiện tính cá thể của người viết. Văn phê bình chưa bao giờ là "trung tính". Ngược lại, nó có thể giúp người viết bộc lộ quan điểm, tư tưởng, vốn văn hóa, sở trường, tâm hồn của mình - những yếu tố hình thành "khuôn mặt tinh thần của chủ thể". Ở văn bản phê bình văn học, người ta không để cập đến "phong cách nghệ thuật" - vấn đề thuộc địa hạt của văn sáng tác -, nhưng hoàn toàn có thể nói đến phong cách phê bình, phong cách ngôn ngữ, chẳng hạn, kiểu phê bình "lấy hồn ta để hiểu hồn người của Hoài Thanh, phê bình mà như viết tùy bút của Nguyễn Tuân, phê bình bắt bẻ chữ nghĩa kiểu Vũ Ngọc Phan, giọng phê bình hăng hái, hùng biện của Hải Triều... Như vậy, một khi đã gắn đời mình với nghiệp cầm bút, không chỉ người sáng tác mà cả nhà phê bình cũng không thể giấu mình. Dù đậm nhạt khác nhau, nhưng những nhân tố cá nhân sẽ lộ diện trên từng trạng viết. 1.2. Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan trong bối cảnh phê bình văn học giai đoạn 1930 - 1945 1.2.1. Diện mạo nền phê bình văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 Giai đoạn 1930 - 1945, nền văn học Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Bên cạnh thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự,... phê bình văn học cũng khởi sắc và gặt hái những thành tựu quan trọng.
  • 18. 18 Sự ra đời của phê bình ở Việt Nam phải kể đến những bài đầu tiên có tính chất đặt nền móng như Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục. Sau đó, trong vòng một thập kỉ, đã xuất hiện một loại bài, hoặc các cuốn sách mang tính chất phê bình, khảo cứu rõ rệt hơn như Nghề hát bội của ta và nghề diễn kịch của người châu Âu của Nguyễn Văn Vĩnh; Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính; Tâm lí Thúy Kiều, Thế nào gọi là kịch, Văn học Pháp, bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh; Lời khuyên học trò của Nguyễn Bá Học; Văn tiêu khiển và văn biện thuyết của Hoàng Tích Chu; Nam thi hợp tuyển và Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, các bài bàn về quốc văn của Ngô Đức Kế... [42, tr.650]. Từ đầu những năm 1930, khi văn học Việt Nam bắt đầu đi vào quĩ đạo của nền văn học thề giới hiện đại, phê bình văn học với tư cách là một loại riêng, đã bắt đầu được ý thức và được xác lập với những bài phê bình của Thiếu Sơn trên báo Phụ Nữ Tân Văn, năm 1931 - 1932. Đến năm 1933, khi tập hợp những bài phê bình đã đăng báo cùng với những bài viết mới để in thành cuốn sách Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn lại có một đề nghị: “Vậy là nước ta còn thiếu những nhà chuyên môn phê bình, và sự thiếu đó tưởng cũng thiệt thòi cho văn học ít nhiều”. Như vậy, chỉ đến giai đoạn này, phê bình văn học đã thực sự có chỗ đứng và công khai sự có mặt của mình trên văn đàn, dù rằng trước kia chỉ xuất hiện dưới dạng nhỏ, lẻ, đơn độc. Giai đoạn 1930 - 1939 là khoảng thời gian bước đầu xác lập ý thức về thể loại và nghề nghiệp phê bình, vì thế vấn đề nội tại mà phê bình văn học giải quyết lại thiên về quan điểm văn học nói chung và quan điểm phê bình văn học nói riêng, chứ chưa phải là vấn đề phương pháp kĩ thuật như giai đoạn sau.
  • 19. 19 Bức tranh phê bình văn học giai đoạn này chủ yếu dựa vào phân mảng báo chí. Có thể nói sự cộng sinh giữa báo chí và phê bình văn học giai đoạn này là điều không thể chối cãi. Phê bình văn học sống được là nhờ in trên báo chí và ngược lại, chính báo chí cũng thu hút được số lượng lớn độc giả từ nội dung thông tin các bài phê bình văn học. Chính điều đó cũng tạo nên bức tranh nhiều màu sắc sinh động cho nền văn học lúc bấy giờ. Thông qua các cuộc tranh luận trên các tạp chí, các bài phê bình tác phẩm, tác giả và bài tiểu luận, có thể thấy phê bình văn học giai đoạn này được triển khai dưới tính chất bút chiến, đối thoại và tranh luận. Qua đó, phê bình văn học đã hình thành được tính nhạy bén, tích cực trong việc xây dựng một nền văn học hiện đại, bước theo sơ đồ của văn học phương Tây. Giai đoạn này cũng xuất hiện hàng loạt các tác phẩm phê bình văn học có giá trị Như tác giả Phan Khôi với Phép làm văn, Luận về quốc học, Lối văn học bình dân đã chỉ ra mối tương quan giữa văn học và xã hội. Năm 1933, trong sinh hoạt văn học xuất hiện một loạt bài mang tính chất luận chiến với những quan điểm mới lạ: quan điểm mác xít do Hải Triều khởi xướng: vấn đề dân sinh, sự tiến hoá của văn học và sự tiến hoá của nhân sinh, ông Phan Khôi không phải là học giả duy vật, ông Phan Khôi là một học giả duy tâm… với sự kết hợp của Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu theo phép biện chứng trên các báo miền Nam. Nhưng cũng từ đó, bắt đầu xuất hiện những cuộc tranh luận công khai: “Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh”, “Cuộc tranh luận về Truyện Kiều”, “Cuộc tranh luận thơ cũ và thơ mới”, “Cuộc tranh luận về tiểu thuyết của Cô giáo Minh và Đoạn tuyệt”, “Cuộc tranh luận về tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng”,… Chính trong thời điểm này, do tình hình xuất hiện nhiều sáng tác mới trên nhiều phương diện thể loại, phương pháp và cả nội dung đã làm cho nền
  • 20. 20 phê bình văn học nước nhà phát triển cả về chất và lượng. Người ta đã chứng kiến sự nhanh nhạy của báo chí và các cây bút phê bình cùng với sự tham gia hào hứng của các công chúng văn học trước những thành tựu mang tính chất mới mẻ độc đáo. Bắt nguồn từ quan niệm sáng tác, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã tạo ra những cuộc tranh luận, thu hút dư luận mạnh mẽ một thời. Đó là ý kiến phủ định của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai khi đề cập đến tác phẩm Giông tố trên khía cạnh đạo đức trong bài Văn chương dâm uế. Tuy thế, đây vẫn chỉ là sự chỉ ra theo một hướng, chưa dựa vào những chứng cứ phân tích tác phẩm cụ thể. Vũ Trọng Phụng trả lời bài báo bằng thái độ sắc sảo rõ ràng khi chỉ rõ lập trường quan điểm sáng tác của chính bản thân và vạch ra khoảng cách giữa các quan điểm sáng tác văn học, “rất muốn tìm những cái tốt đẹp, tử tế của cuộc đời và đã ngây thơ đợi những cái tốt đẹp và tử tế ấy cho đến chết” (Lan Khai). Rõ ràng, nghệ thuật và quan điểm sáng tác của Vũ Trọng Phụng đều xuất phát từ lòng tin con người và đời sống. Trương Tửu nêu được những đặc điểm tinh thần của nhà văn “Ông là đứa con trực tiếp của cuộc đời. Tài nghệ của ông không bằng sự bắt chước. Nó làm bằng kinh nghiệm và nỗ lực cá nhân,… được vậy là nhờ ở cái tính khí riêng, não trạng riêng, cái tài năng riêng, cái xu thế sáng tạo riêng của ông, tất cả cái này bắt rễ ở cái vị trí của ông, nó cắt đứt trong tâm hồn ông các tình cảm có họ hàng với chủ nghĩa lãng mạn…”. Như thế, đối với Vũ Trọng Phụng, phê bình giai đoạn này nói chung đã chạm đến những nét cơ bản và đánh giá chính xác tài năng của nhà văn. Về cuộc tranh luận, ý kiến của Nguyễn Hoành Khung là xác đáng. Ông cho rằng, “đây là bài bút chiến sắc bén rất đáng chú ý, thực tế là bản tuyên ngôn nghệ thuật bằng chính luận đầu tiên và cũng là duy nhất của trào lưu “tả thực” “vị nhân sinh” tiến bộ khi đó. Cuộc bút chiến vượt khỏi tính chất một cuộc tranh
  • 21. 21 cãi bình thường trong phê bình văn học để mang ý nghĩa một cuộc đụng độ tất yếu giữa hai khuynh hướng văn học đang nổi lên mạnh mẽ đương thời: khuynh hướng “lãng mạn tư sản” của Tự lực văn đoàn và khuynh hướng “tả chân xã hội” của Vũ Trọng Phụng và các nhà văn cùng chí hướng với ông”. Năm 1935, Hải Triều cho in Duy tâm và Duy vật và công trình nghiên cứu phê bình văn học đầu tiên của Trần Thanh Mại ra đời: Trông dòng sông Vị. Cuốn sách của Trần Thanh Mại thiên về phác hoạ chân dung và sự nghiệp nhà thơ Trần Tế Xương qua tiểu sử giai thoại và văn thơ, nhưng cảm hứng sáng tác lại lấn át cảm hứng khoa học, nên giá trị tư liệu là phần đóng góp chính lẽ ra phải có của tập sách, lại không vững chắc lắm. Một cây bút phê bình mới xuất hiện trong làng văn, đó là Trương Tửu với đề mục trang trọng “Văn học Việt Nam hiện đại” và những lời giới thuyết lớn lao trên các tuần báo: “Phê bình, từ nay theo tôi muốn, không thể, không nên chỉ là một sự thưởng thức của từng người. Nó phải là một nghệ thuật, hơn nữa một khoa học”. Ý kiến này cho đến nay vẫn hoàn toàn mang tính chất đúng đắn đối với nền phê bình văn học nói riêng, nền văn học nước nhà nói chung ở thế kỉ XXI này. Năm 1936, trong dòng suy nghĩ được gợi ra từ cuộc tranh luận "Nghệ thuật vị nghệ thuật"… Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều viết chung cuốn Văn chương và hành động. Công trình này đã bộc lộ tinh thần dân tộc từ khá sớm, vì lẽ đó nó đã bị chính quyền tịch thu từ khi mới ra đời. Từ lúc đó, Lê Tràng Kiều xuất hiện nhiều nhất trên báo chí. Ông tham gia cả hai cuộc tranh luận "Thơ mới" và "Nghệ thuật vị nghệ thuật"… Đó là những bài phê bình mang đầy tính tâm huyết, với ngòi bút thật sắc sảo. Một sự kiện đáng chú ý là cuộc tranh luận nhỏ về tiểu thuyết Cô giáo Minh và Đoạn tuyệt. Cuộc tranh luận này đã nảy ra do những quan niệm khác nhau về lí luận thể loại và quan điểm xã hội. Theo đó, tính chất tranh luận của
  • 22. 22 giai đoạn không chỉ nằm trong những cuộc bút chiến mà trong chính những tác phẩm văn chương luận đề. Năm 1938, xuất hiện tư tưởng phê bình theo tư tưởng mác xít đáng chú ý như Phan Văn Hùm qua sách Nỗi lòng Đồ Chiểu được viết bằng chữ quốc ngữ, K.T: Tố Hữu nhà thơ của tương lai. Nguyễn Tiến Lãng với Nửa đời thi sĩ trên báo Tràng An, Trương Tửu với cuốn Những thí nghiệm của bút tôi đã xác lập phương pháp phê bình theo quan điểm xã hội học. Cũng trong thời điểm này, Lan Khai có một loạt bài tiểu luận có giá trị khi tham gia vào cuộc tranh luận "Nghệ thuật vị nghệ thuật"… Theo Trần Đình Sử, trong những năm 1932 - 1945, hoạt động phê bình đã xuất hiện với việc ra đời số lượng lớn các “bài phê bình” khen chỗ này, chê chỗ kia. Có kẻ do thù hằn nhau mà sinh ra mạt sát nhau, có người do cùng hội cùng cánh mà bênh bè và cũng có cả những kẻ do ăn tiền của nhà xuất bản mà viết phê bình để quảng cáo. Đáng chú ý nhất trong các thể loại phê bình là bút chiến. Các cuộc tranh luận văn học trở thành nơi gieo mầm cho thể loại này. Tính chất chính luận và nghị luận kết hợp với giọng điệu riêng đã làm cho đời sống văn học bấy giờ trở nên hết sức sôi động [35]. Thể loại phê bình thứ hai là phê bình tác giả văn học, trong đó, Thiếu Sơn được xem là người mở đầu với tác phẩm Phê bình và cảo luận (1933). Đây là “lối phê bình nhân vật”, nhằm phát hiện cái bản ngã của nhà văn, đi vào tính cách làm văn chương của mỗi người mà khen chê hoặc đưa ra những lời khuyên. Đây cũng chính là công trình mở đầu cho thể loại văn chân dung của nước ta. Danh nhân truyện ký là thể loại thứ ba, xuất hiện khá rầm rộ. Với thể loại này, các tác giả đã trình bày tiểu sử, các sự kiện đời sống riêng tư, các đặc điểm cá tính của nhà văn mà từ đó giải thích đặc điểm thơ văn của họ.
  • 23. 23 Công chúng khi tiếp xúc với những tác phẩm này vừa hiểu được cuộc đời của tác giả vừa hiều được tác phẩm do họ viết ra. Thể loại thứ tư là Phê bình khoa học hay nghiên cứu chuyên đề. Đây là thể loại nghiên cứu tập trung vận dụng một phương pháp, khảo sát một vấn đề của một tác giả hay tác phẩm. Điều này đã chứng tỏ phê bình nghiên cứu đã được nâng lên tầm khoa học với nhiều công trình có giá trị học thuật cao, chứ không đơn thuần là những cảm nhận mang cảm tính tuỳ hứng. Bình chú, bình văn là thể loại xuất hiện thứ năm có nhiệm vụ tập hợp tác phẩm, chú thích, nêu lời bình. Một thể loại mới xuất hiện trong giai đoạn này và phát triển về sau là thể loại văn học sử, mà trong đó, các tác giả cố gắng phân kì, chia đoạn, xếp các tác giả vào vị trí của họ, trình bày quá trình diễn tiến, giới thiệu các thể văn Trung Hoa và văn Việt Nam, văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm, và văn học chữ quốc ngữ. Thời kì này đã xuất hiện các chuyên luận trình bày có hệ thống các nguyên lí văn học hay đặc trưng nghệ thuật. Đây được xem là những công trình nghiên cứu có tính chất lí luận văn học đầu tiên của nền văn học Việt Nam. Qua đó, có thể thấy hoạt động phê bình diễn ra và phát triển với tốc độ rất nhanh chóng và phong phú về nhiều mặt, đặc biệt là ở phương pháp. Mỗi người một vẻ, và đó đã tạo ra bầu không khí sôi nổi chưa từng có trong đời sống văn chương, học thuật nhất là trong nghiên cứu văn học, phê bình những năm đầu thế kỉ XX. Có thể nói từ năm 1930 đến 1939 là thời kì hoạt động phê bình diễn ra sôi động trên báo chí với các cuộc tranh luận, thì đến năm 1940 - 1945 hoạt động phê bình lại được nổ ra trên lĩnh vực xuất bản với những công trình mang tính khái quát và ổn định hơn.
  • 24. 24 Có thể thấy rằng toàn bộ các sáng tác phê bình văn học giai đoạn bắt đấu đi sâu vào các vấn đề thuộc chuyên môn, học thuật. Theo đó, tác phẩm phê bình đã được tăng cường tính khoa học. Các nhà phê bình đã vận dụng khá thuần thục các phương pháp để thâm nhập và xử lí những vấn đề văn học nước nhà. Những cuộc tranh luận không còn quá gay gắt mà chỉ mang tính chất đối thoại là chủ yếu. Đây chính là lúc thể hiện sự nổ rộ của nhiều kiểu phê bình khác nhau và sự trưởng thanh của nhiều nhà phê bình. Đây cũng là giai đoạn kết tinh đơm hoa ra trái của nhiều thành quả tác phẩm lớn: Thi nhân Việt Nam, Việt Nam văn học sử yếu, Nhà văn hiện đại, Văn học khái luận,…Phân tích yếu tố thành công của nền văn học phê bình giai đoạn này có thế đề cập đến hai nguyên nhân chính yếu sau: Khách quan là nhờ sự phát triển mạnh và rầm rộ của các nhà xuất bản, đến nỗi Lê Ta (Thế Lữ) đã phải thốt lên: “Các nhà xuất bản ra đời nhiều quá. Bất cứ bác lái buôn nào cũng bỗng dưng thành người nhận những tác phẩm để đọc và để rồi đem in”. Đây là thứ yếu. Nhưng nguyên nhân chủ quan lại chiếm chủ yếu, đó là do sự vận động nội tại và sự phát triển bền vững của hoạt động phê bình, đã đi đến giai đoạn trưởng thành sau 10 năm xây dựng. Thời gian ấy đủ để cho các nhà phê bình luyện bút, đồng thời cũng kịp cho các hoạt động sáng tác tạo ra được những thành tựu mới – đủ để các nhà phê bình có thể rút ra được những nhận xét khái quát mang tính tổng kết lâu dài. Tóm lại, nền văn học phê bình giai đoạn 1930 - 1945 được đánh dấu bằng sự kiện mới, nảy sinh từ nền tư tưởng mới. Ở giai đoạn này, phê bình văn học được đánh dấu bằng một loạt những sự kiện lớn hình thành trên nền tư tưởng hiện đại. Đặc điểm chủ yếu của phê bình văn học giai đoạn này là hình thành tư tưởng mới, phủ nhận tư tưởng cũ, nổ ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng mà hàng loạt vấn đề lí luận trong đó cho đến thế kỉ XX, bước sang
  • 25. 25 thế kỉ XXI vẫn còn tranh cãi và chưa giải quyết triệt để. Đây cũng là giai đoạn hình thành một nền lí luận phê bình văn học mới với tư cách là một “thể loại mới” mà xưa nay chưa từng có. Đồng thời cũng xuất hiện những nhà phê bình văn học chuyên nghiệp như: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Hải Triều, Thiếu Sơn… với những công trình mang ý nghĩa tổng kết một giai đoạn văn học, tiêu biểu là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn… Về không khí học thuật và những thành tựu của phê bình văn học giai đoạn 1930 - 1945, nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ rút ra mấy điểm cơ bản sau đây: - Thứ nhất, đây là một phong trào rộng lớn từ Bắc chí Nam, thu hút hoạt động của một đội ngũ đông đảo. Trước kia, trên tờ Nam Phong đơn chiếc, Phạm Quỳnh phải chèo chống mọi mặt, lúc viết về triết học, lúc viết về khoa học, lúc khảo cứu về văn chương, lúc viết sử kí. Bây giờ người trí thức có khả năng và thiện chí làm việc biên khảo nhiều hơn và chia nhau mỗi người một địa hạt. Nhất là có những phần tử thanh niên tân học, hăng hái tìm tòi, suy nghĩ, có khi bước sang cả mảnh đất cổ học, Hán học mà trước đây học vẫn thường thờ ơ, lạnh nhạt. - Thứ hai, trong việc làm, hiển nhiên ta thấy sự du nhập gia tăng của tinh thần khoa học cũng như của kiến thức học thuật Tây phương. Phương pháp khoa học, óc lí luận tỏ rõ từ trong việc tìm kiếm và sử dụng tài liệu đến cách trình bày lí luận và lối viết. Ngay ở địa hạt văn học và phê bình, người ta không dừng lại ở lối bình tán chủ quan, thay vào đó, người ta kê cứu hoàn cảnh, tìm ra các yếu tố cắt nghĩa thiên tài, phân tích "chất thơ", bình giải chi lí từng vần, từng chữ [27, tr.675]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Phạm Thế Ngũ cũng chỉ ra những bất cập, non yếu của nền phê bình trên bước đường hiện đại hóa. Đó là biên khảo những
  • 26. 26 công trình Hán học chủ yếu dựa vào những nhà nho "cuối mùa", cho nên không tránh khỏi sơ sót, sai lầm (các bài phê bình đương thời đã kịp thời chỉ ra). Đó là về Tân học, Tây học, sự đóng góp của lớp trẻ thoạt xem có vẻ dồi dào, mới mẻ, song xét kĩ, chỉ mới có bề mặt, chưa có bề sâu. Mặt khác, vì cần dựng lấy một lí thuyết để hướng dẫn sự hành động, nên người ta vội vàng để có chủ kiến, dễ rơi vào những thiên kiến, mắc những sai lệch (chẳng hạn sự vận dụng phân tâm học của Freud vào nghiên cứu Truyện Kiều theo cách làm của Nguyễn Bách Khoa) [27, tr.678]. Ý kiến trên đây của Phạm Thế Ngũ có sự gặp gỡ với nhận định của Dương Quảng Hàm: "Thể phê bình mới nhập tịch vào làng văn học của nước ta, nên các tác phẩm hãy còn thưa thớt và nhiều khi chưa xác đáng hoặc vì sự tây vị về cá nhân hay về đảng phái, hoặc vì thiếu trí phê bình và phương pháp khoa học" [15, tr.557]. Tình trạng này trong phê bình văn học Việt Nam thời tiền chiến, Nguyễn Hưng Quốc gọi đó là sản phẩm của thế hệ "tiền lí thuyết" [32]. 1.2.2. Vài nét về sự nghiệp của Vũ Ngọc Phan Vũ Ngọc Phan (1902 - 1987) là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn học dân gian Việt Nam, nguyên Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Bắc Bộ (trước 1945), nguyên ủy viên Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa, nguyên Tổng thư ký và Phó chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Vũ Ngọc Phan sinh năm 1902 tại xã Đông Lão, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Thuở nhỏ, ông theo cha đến Hưng Yên và theo học chữ Hán. Từ năm 1920 đến năm 1929, Vũ Ngọc Phan chuyển sang học tiếng Pháp tại Hà Nội. Đỗ tú tài Tây ở tuổi 27, Vũ Ngọc Phan có thể được bổ nhiệm trong bộ máy chính quyền lúc đó hoặc dạy học ở các trường trung học quốc lập, nhưng với năng khiếu văn chương và tư tưởng tự do không thích gò mình vào cuộc sống công chức, ông đã chọn nghề dạy học tư, viết báo, viết văn và dịch sách.
  • 27. 27 Từ năm 1929 đến nửa đầu những năm 1940, Vũ Ngọc Phan cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí đương thời như tờ Pháp - Việt, Văn học, Nhật Tân, Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hương, là chủ bút tờ tuần báo Hà Nội tân văn và chủ trương lập Nhà xuất bản Hà Nội. Bên cạnh hàng trăm bài báo, ông đã dịch và viết dạng phóng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết từ tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngoài ra, ông đã biên soạn các cuốn sách Nhìn sang láng giềng (1941, tập bút ký), Thi sĩ Trung Nam (1942, viết về một số nhà thơ thời kỳ cận đại ở Trung Bộ và Nam Bộ), Con đường mới của thanh niên (1944, sách nghiên cứu xã hội, giáo dục), Chuyện Hà Nội (1944, tập bút ký). Đặc biệt, từ năm 1938 đến năm 1942, Vũ Ngọc Phan đã viết xong bản thảo bộ sách Nhà văn hiện đại. Từ cuối năm 1942 cho đến tháng 10 - 1945, bộ sách này đã được ra mắt độc giả. Nhà văn hiện đại gồm bốn tập năm quyển (tập 4 chia làm hai quyển), dày 1.500 trang, viết về 79 tác gia văn học Việt Nam, bao quát một thời kỳ văn học sôi động, phong phú, phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1942. Trong những năm trước và sau khi giành chính quyền (1945), Vũ Ngọc Phan đảm nhiệm các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban văn hóa Bắc Bộ, Ủy viên thường trực Ủy ban vận động Hội nghị văn hóa toàn quốc, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu Đống Đa, Ủy viên thường trực Đoàn văn hóa kháng chiến Liên khu IV. Từ cuối năm 1953, Vũ Ngọc Phan được mời ra Việt Bắc tham gia công tác nghiên cứu trong Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa Trung ương, tiền thân của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam sau này. Từ năm 1957, Vũ Ngọc Phan trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1959, khi Tổ văn học của Ban nghiên cứu Văn, Sử, Địa tách ra thành lập Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan về công tác tại Viện, trở thành tổ
  • 28. 28 trưởng tổ Văn học dân gian (nay là phòng Văn học dân gian và phòng Văn học các dân tộc ít người) của Viện Văn học. Sau đó, Vũ Ngọc Phan được bầu làm Tổng thư ký, phụ trách cơ quan Hội Văn nghệ dân gian tại Đại hội Văn nghệ dân gian lần thứ nhất năm 1966. Với cương vị mới tại Hội văn nghệ dân gian và Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan đã có công trong việc sưu tầm, nghiên cứu, chỉnh lý, biên soạn truyện cổ và thơ ca dân gian Việt Nam. Từ năm 1963 đến năm 1967, bốn tập sách được in, hai tập đầu tên là Truyện cổ dân gian Việt Nam, hai tập sau tên là Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt Nam. Đây là sưu tập truyện cổ không chỉ riêng của người Việt (Kinh) mà còn của các dân tộc thiểu số khác. Vũ Ngọc Phan mất tại Hà Nội năm 1987 ở tuổi 85. Người bạn đời của Vũ Ngọc Phan là nhà thơ Hằng Phương. Ông bà cũng là thân sinh của nhà khoa học nông nghiệp, giáo sư viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, hoạ sĩ Vũ Giáng Hương, GS.TS Vũ Triệu Mân. Tác phẩm chính đã xuất bản: In riêng: - Trên đường nghệ thuật (1940) - Nhà văn hiện đại, 4 tập, từ 1942 đến 1945 - Qua những trang văn (1976) - Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam (1956) tái bản 13 lần - Những năm tháng ấy (hồi ký, 1987) - Châu đảo (dịch, 1932) - Aivanhô (dịch, 1932 - 1933) - Người Xô viết chúng tôi (dịch, 1954) - Vũ Ngọc Phan - tác phẩm (5 tập, 2001)
  • 29. 29 In chung: - Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam (2 quyển, viết chung, 1957 - 1960). - Truyện cổ tích Việt Nam (sưu tầm, tuyển chọn, 1955). Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 cho những cụm công trình về văn nghệ dân gian, cùng đợt với giáo sư Nguyễn Đổng Chi và Cao Huy Đỉnh. 1.2.2. Công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan Nhà văn hiện đại, bộ phê bình văn học 5 tập do Nxb Tân Dân ấn hành lần đầu tiên từ năm 1942 - 1945. Nhà văn hiện đại là một công trình với qui mô đồ sộ, gồm 1650 trang, trở thành một công trình quí giá về nhiều mặt và có thể nói rằng, cho đến nay, khó có một tác phẩm nào có thể thay thế được trong nền phê bình văn học Việt Nam. Cho đến nay, đã có rất nhiều lời khen ngợi về sự thành công cũng như những đóng góp của tác phẩm. Xét một cách toàn diện, trong tất cả các cuốn sách phê bình theo phương pháp khoa học trước năm 1945, công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một cuốn sách nổi trội hơn cả, đây là công trình có sức khái quát rộng lớn, có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc, chuẩn xác và khách quan hơn cả về các tác gia văn học trong khoảng thời gian 30 năm ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX đến 1945. Tờ Dân báo, số ra ngày 5/10/1945 cho rằng: “Nhà văn hiện đại là một công trình khảo cứu và phê bình sự nghiệp văn chương của các nhà văn hiện thời rất công phu, lời văn sáng suốt mà ý kiến phần nhiều lại rất xác đáng, thật bổ ích cho những ai muốn nghiên cứu về văn chương nước nhà hiện nay”. Tờ Tin mới, số ra ngày 9/10/1942 cũng đánh giá: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một cuốn sách phê bình có phương pháp, có hành văn, lại sáng suốt,
  • 30. 30 giản dị. Cứ xem đó người ta cũng hiểu được cái lịch trình tiến hoá của nền văn học xứ này trong mấy chục năm gần đây”. Có thể nói, Vũ Ngọc Phan là một trong số rất ít nhà phê bình hiện đại có trình độ chuyên môn cao ở nước ta thời kì trước năm 1945. Ông là người có ý thức hết sức rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của một nhà phê bình văn học, đồng thời là một người có trình độ lí thuyết vững vàng và có phương pháp phê bình bài bản nhất. Công trình phê bình Nhà văn hiện đại của ông thực sự là một công trình khoa học có giá trị. Trước hết, bởi đó là kết quả của một quá trình làm việc công phu, nghiêm túc, đầy tâm huyết của một nhà phê bình có cái nhìn tổng thể, khái quát cao. Sau đó, Nhà văn hiện đại là sản phẩm của một bộ óc sắc sảo, phân tích một cách tỉ mỉ, cảm nhận một cách tinh tế những cái hay, cái đẹp, cái mới của nền văn học nước nhà, thông qua từng tác giả cụ thể. Ông là người khám phá ra tốc độ phát triển cực kì nhanh chóng của văn học Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan không trình bày lịch sử phát triển của văn học ở cấp độ khái quát về nền, về các giai đoạn, về các thế hệ, về các thể loại. Trọng tâm chú ý của ông là sự tách biệt, giúp nhận diện ở cấp độ chỉnh thể cơ bản nhỏ nhất: đơn vị tác phẩm, cá thể sáng tạo. Mối quan hệ giữa cái chung/cái riêng, cái thông lệ ổn định/cái đột xuất, bất ngờ, cái bình thường/cái nổi trội, độc đáo… đã được làm rõ khi đặt tác phẩm trong tương quan với cấp độ liền trên của nó là loại, trong sự so sánh theo thời gian với các tác phẩm của nhà văn khác cùng thời hoặc của chính nhà văn đó qua các thời kì hoạt động sáng tạo. Đối với mỗi nhà văn cũng vậy, Vũ Ngọc Phan đặt họ trong tương quan với đồng nghiệp cùng thế hệ (lớp trước, lớp sau), cùng khuynh hướng tư tưởng - nghệ thuật (nhóm Đông Dương tạp chí, nhóm Nam Phong tạp chí), hoặc cùng một thể loại (phê bình, biên khảo, thơ, tiểu thuyết, kịch, kí).
  • 31. 31 Phương pháp phê bình nghiên cứu như vậy, vào thời điểm xuất hiện của nó, Nhà văn hiện đại (1942 - 1943) quả là thu hút chú ý của nhà văn, của người đọc và thực sự có tác dụng thúc đẩy sáng tác và giúp cho sự bình giá tác phẩm, nhận định về nhà văn có được những căn cứ khoa học, khách quan. Vì ở đây, cái hay, dở của tác phẩm, bản sắc phong cách riêng không trộn lẫn của từng nhà văn được thẩm định rành mạch. Tài năng, ngón nghề của người làm văn chương cùng chất lượng của sản phẩm văn chương, trở thành một đòi hỏi chính đáng gắt gao xét từ phía công chúng tiếp nhận. Khi giới thiệu về các nhà phê bình, biên khảo là đồng nghiệp mình, Vũ Ngọc Phan có đề cập đến Thiếu Sơn. Ở đây, Vũ Ngọc Phan chỉ ra những lầm lẫn, nhàm chán, không có gì mới, mềm mỏng, nước đôi với một giọng văn đẽo gọt và cổ lỗ của Thiếu Sơn cả trong phê bình và sáng tác… cũng tức là lưu ý những bất cập cần tránh nói chung cho giới nghiên cứu cũng như với từng nhà văn. Theo ông, Thiếu Sơn khi so sánh văn thể của Phan Khôi với Voltaire (nhà văn Pháp thế kỉ XVIII) có cùng một tính cách, thì tưởng là khen, nhưng tác dụng thì ngược lại. Bởi so sánh đó thật khiên cưỡng. Vả lại, nếu người sau lại giống người đi trước mình thì cũng chẳng lấy gì làm vinh dự. Thực ra cái người ta cần ở Phan Khôi là những đóng góp mang bản sắc riêng của nhà văn này, nếu nhà văn đó được như thế và nhà nghiên cứu phát hiện và chỉ ra được, tức là đã giúp vào việc khẳng định giá trị và địa vị của nhà văn rồi. Vũ Ngọc Phan cũng lấy làm tiếc khi Thiếu Sơn phê bình tiểu thuyết Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật đã thiếu tinh tường khi xếp nó vào loại phiêu lưu tiếu thuyết, trong khi thực chất là lịch sử tiểu thuyết. Chính vì Thiếu Sơn không chú ý đến thể loại và cái riêng trong cá tính sáng tạo của nhà văn và tác phẩm mà ông phê bình, cho nên, khi sáng tác tiểu thuyết đã không tránh được sự trùng lặp và nhàm chán. Và Vũ Ngọc Phan đi đến một kết luận: “Đọc hai chục bài của ông cũng như đọc một bài… đọc một trăm
  • 32. 32 trang (tiểu thuyết của ông) cũng gần như đọc hai trang”. Đó là một nhận định có phần nghiêm khắc và nghiệt ngã, nhưng chứa đựng sự cảnh tỉnh sâu sắc. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng tỏ rõ sự am hiểu sâu sắc đặc trưng về thể loại văn xuôi hơn cả, đặc biệt là đối với thể loại tiểu thuyết. Bộ sách đã dành số lượng lớn để nói đến 27 tác gia tiểu thuyết trên 78 tác giả được nói đến trong bộ sách (chiếm 35%). Nó phác ra bộ mặt phong phú về chủng loại tiểu thuyết ta trong thời buổi phát triển và trưởng thành, cả về số lượng và chất lượng. Song điều đáng nói ở đây là Vũ Ngọc Phan đã nhận biết tinh tế đặc trưng thể loại của tiểu thuyết trên các phương diện: thứ nhất là cách tiếp cận cuộc sống và tái tạo cuộc sống theo cái nhìn nghệ thuật và bút pháp tự sự với những bản lĩnh nghệ thuật khác nhau của từng người viết. Thứ hai là dựa trên những tiếng nói nghệ thuật và giọng điệu đa dạng. Thứ ba là năng lực hư cấu, khám phá và tác động vào cuộc sống hiện tại và người đương thời. Thứ tư là kĩ thuật bố cục và nghệ thuật không gian - thời gian trong sự gắn bó chặt chẽ với tính cách. Vũ Ngọc Phan nhận ra một cách sâu sắc cái mà tiếu thuyết thu hút mạnh mẽ người đọc đông đảo là ở chỗ: nó sống động, bề bộn, nhiều nghịch lí và bất ngờ như cuộc sống thật đang diễn tiến, nó lôi cuốn người ta cùng can dự và suy nghĩ về nhân tình, thế thái hiện thời và tự nhận biết, hoàn thiện mình hơn nữa, trong sự liên tưởng và ám ảnh gợi ra từ những câu chuyện được kể lại. Như vậy, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình phê bình có vị trí rất quan trọng trong phê bình văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1932-1945. Đúng với lời nhận xét của giáo sư Phong Lê, đây “là tài liệu không thể vắng bóng trong các thư mục nghiên cứu và những ý kiến, nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan về một tác giả, tác phẩm nào đấy luôn là cơ sở, là điểm tựa cho sự phát triển hoặc điều chỉnh các luận điểm của công trình
  • 33. 33 và luận án. Ở hiện tượng này, giá trị khoa học trong công trình của bác Phan đang không ngừng được mở rộng”. Chỉ với bộ Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã thừa nhận và được độc giả cùng giới văn nghệ biết đến với tư cách là một nhà phê bình văn học chuyên nghiệp có tên tuổi. Điều đó đồng nghĩa một bộ Nhà văn hiện đại đã làm nên một tác giả phê bình, một phong cách phê bình chuyên nghiệp, tiêu biểu và sắc sảo. Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1, luận văn đã nêu một cách khái quát thể loại loại phê bình văn học với sự nhấn mạnh hai tính chất: tính khoa học và tính nghệ thuật của nó. Một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học đã được luận giải, đó là tính khoa học, tính chặt chẽ, tính biểu cảm và tính cá thể hóa. Những tính chất đó của ngôn ngữ phê bình văn học được tìm hiểu trong tư cách là một kiểu văn bản thuộc phong cách chức năng nhất định. Cũng trong chương này, luận văn đã phác thảo về diện mạo của nền phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, để trên bối cảnh ấy, nhìn nhận rõ hơn vị trí của bộ Nhà văn hiện đại cũng như sự nghiệp trước tác của Vũ Ngọc Phan.
  • 34. 34 Chương 2 TỪ NGỮ VÀ CÂU VĂN TRONG NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI 2.1. Từ ngữ trong Nhà văn hiện đại 2.1.1. Yêu cầu về từ ngữ trong văn bản phê bình văn học Mỗi loại văn bản thuộc các phong cách chức năng cụ thể sẽ có những yêu cầu cụ thể về sử dụng từ ngữ. Nếu như văn bản hành chính đòi hỏi phải sử dụng với mật độ cao lớp từ ngữ hành chính công vụ, văn bản báo chí thiên về lớp từ ngữ mang tính thông tấn, văn bản chính luận ưa dùng từ ngữ có nội dung chính trị - xã hội,... thì văn bản khoa học lại đề cao tính chính xác, khoa học của các lớp từ ngữ. Tuy nhiên, về mặt này, giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội vẫn có những khoảng cách đáng kể do sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu của chúng. Như đã trình bày ở chương 1, phê bình văn học là một ngành vừa mang tính khoa học lại vừa mang tính nghệ thuật. Điều này chi phối cách sử dụng ngôn từ ở mọi cấp độ, trong đó có từ ngữ. Là văn bản thuộc phong cách khoa học, các bài phê bình nghệ thuật trước hết phải sử dụng thuật ngữ khoa học chuyên ngành. Trong kho từ vựng của bất cứ ngôn ngữ nào, thuật ngữ là bộ phận từ ngữ quan trọng. Nó đánh dấu trình độ phát triển khoa học của một quốc gia. Muốn diễn đạt các tư tưởng khoa học, không có lớp từ ngữ nào đắc dụng hơn thuật ngữ khoa học. Trong nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay, hệ thống thuật ngữ đã tương đối phong phú, đủ để các nhà nghiên cứu có thể trình bày các kết quả nghiên cứu của mình mà không phải vay mượn từ bất cứ ngôn ngữ nào khác như trước đây (chẳng hạn như ở thời Pháp thuộc). Nhìn qua một số cuốn từ điển, chẳng hạn Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), 150 thuật ngữ văn học (Lại Nguyên Ân), Từ
  • 35. 35 điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên), Từ điển Tu từ - Phong cách - Thi pháp học (Nguyễn Thái Hòa), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (Diệp Quang Ban)... cũng đủ thấy thuật ngữ khoa học ngành Ngữ văn trong tiếng Việt đã khá hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển của các chuyên ngành. Các thuật ngữ của nghiên cứu phê bình văn học cũng nằm trong bối cảnh ấy. Bên cạnh thuật ngữ khoa học, các bài phê bình văn học cũng sử dụng khá rộng rãi một lớp từ ngữ vẫn thường sử dụng phổ biến trong các loại văn bản khác. Thực tế, trong vốn từ của một ngôn ngữ, ngoài lớp từ chuyên biệt, còn tồn tại các lớp từ đa chức năng, nghĩa là chúng được sử dụng trong văn bản thuộc mọi phong cách khác nhau. Nhìn từ góc độ nguồn gốc, đó có thể là từ vay mượn (chủ yếu là từ Hán Việt); nhìn từ góc độ phong cách, đó có thể là từ nghề nghiệp, từ thi ca, từ thông dụng; nhìn từ góc độ cấu tạo, đó có thể là từ đơn hoặc từ phức... Tùy yêu cầu biểu đạt đối tượng, các lớp từ nêu trên được sử dụng với những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, ở các bài viết của Nguyễn Tuân, lớp từ Hán Việt xuất hiện với mật độ cao hơn hẳn so với nhiều nhà phê bình cùng thời kì. Điều này chỉ có thể cắt nghĩa bằng phong cách ngôn ngữ. Đúng vậy, phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Tuân có tính xuyên thể loại, nghĩa là một yếu tố nổi bật nào đó trong phong cách ngôn ngữ của ông không biểu hiện một cách đơn lẻ ở một thể loại nào, ngược lại, có mặt khá đồng đều ở mọi thể loại. Nét đặc sắc này chỉ thấy ở Nguyễn Tuân, không thấy biểu hiện ở các nhà văn khác. Trong nền văn học hiện đại, không hiếm tác giả sáng tác nhiều thể loại, và bản thân họ cũng để lại phong cách ngôn ngữ riêng, nhưng dường như điều đó chỉ biểu hiện ở "thể loại chủ công" trong sự nghiệp sáng tác của họ mà thôi. Ngôn từ được sử dụng trong văn bản phê bình văn học giống như một khối ru-bíc nhiều màu sắc. Nhà phê bình phải tận dụng hết mọi tầng ý nghĩa,
  • 36. 36 mọi khả năng sử dụng nó, xoay nó, nhìn nó ở mọi góc độ để tìm ra những vẻ đẹp riêng. Từ những năng lực về ngữ âm, về từ ngữ cho đến những thế mạnh về ngữ pháp, đều được nhà phê bình tận dụng triệt để, tối đa. Đó chính là “bí quyết” của nhà phê bình. 2.1.2. Những đặc điểm nổi bật về từ ngữ trong Nhà văn hiện đại 2.1.2.1. Việc dùng thuật khoa học xã hội và nhân văn trong Nhà văn hiện đại a) Khái niệm thuật ngữ khoa học Thuật ngữ khoa học là một bộ phận từ ngữ quan trọng của hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ở nước ta, có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này. Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý chủ biên, ở mục Thuật ngữ, nhóm soạn giả đã dẫn ra 15 cách luận giải của các nhà nghiên cứu. Xin dẫn một số trường hợp: - "Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm... trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự nhiên hay xã hội. Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng... có thực trong thực tế, đối tượng của ngành kĩ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự vật, hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy. Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không xảy ra sự chia cắt thực tế khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ như là một "cái nhãn" dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên nội dung của nó" [46, tr.278]. - Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa học, kĩ thuật, chính trị, ngoại giao, nghệ thuật v.v... và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [46, tr.277].
  • 37. 37 - “Thuật ngữ là bộ phận ngôn ngữ (từ vựng) biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kỹ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ” [46, tr.278]. - Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ" [46, tr.280]. Tuy tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm thuật ngữ khoa học như vậy, nhưng ta vẫn có thể rút ra từ đó những điểm chung. Thứ nhất, thuật ngữ khoa học là một bộ phận tất yếu trong từ vựng của một ngôn ngữ. Mức độ phong phú có thể khác nhau, nhưng mỗi thứ tiếng đều có vốn thuật ngữ của mình. Thứ hai, mỗi ngành khoa học có một hệ thống thuật ngữ riêng, phù hợp với đối tượng, phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù. Do thuật ngữ gắn với từng ngành khoa học, nên ở một đất nước, ngành khoa học nào phát triển, tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển vốn thuật ngữ của chuyên ngành đó. b) Thuật ngữ khoa học trong Nhà văn hiện đại Hiện nay, hệ thống thuật ngữ tiếng Việt được dùng trong khoa học xã hội nói chung và ngành Ngữ văn nói riêng đã khá phong phú, đủ để các nhà khoa học có thể trình bày các kết quả nghiên cứu của mình mà không phải mượn thuật ngữ từ bất cứ ngôn ngữ nào khác. Đây là kết quả của một quá trình phát triển tiếng Việt có tính chiến lược, là công sức của nhiều thế hệ các nhà khoa học. Chỉ nhìn vào số lượng từ điển giải thích thuật ngữ bằng tiếng Việt của các ngành khoa học cũng có thể hình dung phần nào sự phát triển của bộ phận từ ngữ này. Trở lại những năm 1930 - 1945 ở nước ta, văn học có sự phát triển vượt bậc theo hướng hiện đại hóa. Trong bức tranh sáng sủa ấy của văn học, ngành phê bình đã thực sự khởi sắc, gặt hái được những thành tựu quan trọng.
  • 38. 38 Những gương mặt nổi bật như Trần Thanh Mại, Thiếu Sơn, Trương Chính, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... là những người đã có công đầu trong việc đưa nền phê bình nước nhà tiến kịp với những bước thần kì trong sáng tác văn xuôi và thơ. Và cũng chính những con người ấy, với ý thức sâu sắc về tinh thần dân tộc, với vốn học vấn và các phương pháp nghiên cứu tiếp thu của Tây phương, đã ra sức phát triển hệ thống thuật ngữ khoa học, để trước hết, làm nên những công trình của chính mình, sau đó, thúc đẩy khoa học xã hội phát triển. Ra đời trong bối cảnh ấy, cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan đã cho thấy phần nào những đặc điểm của việc sử dụng thuật ngữ khoa học trong một công trình phê bình văn học ở một thời kì. Về mặt lượng, để nhận thấy sự tương đồng hoặc khác biệt giữa Vũ Ngọc Phan với các cây bút phê bình văn học cùng thời, chúng tôi đã khảo sát, thống kê, so sánh số liệu thuật ngữ khoa học trong các công trình của họ, từ đó có thể rút ra những nhận xét bước đầu. Bảng 2.1. Thống kê số lƣợt và tỉ lệ thuật ngữ khoa học trong một số công trình phê bình văn học TÁC GIẢ, TÁC PHẨM SỐ CÂU VĂN KHẢO SÁT SỐ LƢỢT THUẬT NGỮ SỬ DỤNG TỈ LỆ Hoài Thanh Văn chương và hành động 1779 656 36,8% Thiếu Sơn Câu chuyện văn học 1783 598 33,5% Trương Chính Tuyển tập Trương Chính 1767 584 33,% Vũ Ngọc Phan Nhà văn hiện đại 1793 682 38,%
  • 39. 39 Kết quả thống kê so sánh ở bảng trên cho ta thấy rằng, tần số xuất hiện của thuật ngữ khoa học trong các công trình của bốn tác giả không chênh lệch nhau bao nhiêu. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được. Những công trình được khảo sát đều thuộc về một lĩnh vực, chúng lại ra đời trong cùng một bối cảnh, đối tượng nghiên cứu có nhiều nét tương đồng (tác giả, tác phẩm thuộc các thể loại, những vấn đề thời sự văn học thời đó...), nên sự huy động vốn từ, trong đó có thuật ngữ khoa học có nhiều điểm giống nhau. Mặt khác, thuật ngữ khoa học vốn là lớp từ chuyên biệt, chúng phải mang tính đơn nghĩa, chính xác, sự xuất hiện của chúng chỉ nhằm biểu đạt các nội dung khoa học, do đó, không có chức năng biểu thị tình thái, không có chỗ cho sự biểu hiện phong cách cá nhân. Người viết phê bình, muốn thể hiện những nét riêng trong cá tính của mình, phải viện đến các biện pháp tu từ hoặc phải có một giọng điệu - những điều hoàn toàn được chấp nhận trong loại văn bản vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật là văn bản phê bình văn học. Trong Nhà văn hiện đại, do đối tượng quan tâm của nhà phê bình tương đối rộng, thuật ngữ khoa học cũng khá phong phú về chủng loại. Ta gặp ở đây các thuật ngữ triết học, sử học, văn hóa học, chẳng hạn: luân lí, triết lí, lễ giáo, phong tục, tập quán, đạo đức, tư tưởng, chủ nghĩa yếm thế, chủ nghĩa phản động, luận thuyết, dân tộc, giao thiệp, cai trị, tiến hóa, niên đại, thời đại, cổ kim thời đại, sử gia, sử thần, quốc sử, sử kí, quan chế, binh chế, khoa cử, phương pháp viết sử, mĩ thuật, học thuyết, trào lưu, ngoại lai... [Khảo sát bài Phạm Quỳnh, tập 1, tr.77-113; Trần Trọng Kim, NVHĐ, tập 1, tr.185- 214]. Dễ nhận thấy, số lượng các thuật ngữ thuộc mảng này có tần số xuất hiện không cao. Chỉ ở những bài viết về những nhà văn - học giả liên quan đến hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh..., tác giả mới phải dùng các thuật ngữ như trên đây để nói về sự nghiệp của họ.
  • 40. 40 Là một bộ sách phê bình văn học, dĩ nhiên, bộ phận thuật ngữ thuộc ngành Ngữ văn phải được sử dụng rộng rãi. Trong hệ thống thuật ngữ ấy, ta có thể phân biệt từng lĩnh vực được tác giả đề cập. Khảo sát những bài viết về Phạm Quỳnh, tập 1, tr.77-113; Tương Phố, tập 1, tr.161-177; Trần Trọng Kim, tập 1, tr.185-214); Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà), tập 1, tr.355-382; Thiếu Sơn, tập 2, tr.10-21; Hoài Thanh, tập 2, tr.29-36; Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), tập 2, tr.264-276, chúng tôi nhận thấy sự phân biệt ấy được biểu hiện cụ thể như sau: Nói về người cầm bút và người thưởng thức văn học: tác giả, nhà văn, văn nhân, văn gia, văn hào, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà thơ, thi nhân, thi sĩ, thi gia, nhà phê bình, biên giả, soạn giả, độc giả, người đọc, bạn đọc... Nói về hoạt động văn học: chú giải, biên khảo, khảo cứu, khảo luận, biên tập, sáng tác, trước thuật, dịch thuật, xuất bản, tái bản, giải nghĩa, giảng giải, diễn giải, chú thích, nghị luận, bình luận, phê bình,... Nói về thể loại văn học: văn phẩm, thi phẩm, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lí tưởng, tiểu thuyết tình cảm, tiểu thuyết tâm lí, tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết luân lí, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết xã hội, xã hội tiểu thuyết, tiểu thuyết hoạt kê, tiểu thuyết tả chân, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết cổ, đoản thiên tiểu thuyết, kí sự, thơ, phú, nghị luận, phê bình, ca dao, văn xuôi, văn vần, văn du kí, văn đạo đức, văn tư tưởng, văn biên tập, văn dịch thuật, văn giáo khoa, văn bài đàm, tựa, kinh, kịch... Nói về hình thức văn học: đầu đề, lối văn, thể văn, câu văn, đoạn văn, đoạn, đoạn kết, cốt truyện, nghệ thuật, nhân vật, cử chỉ, tính cách, tâm lí, tâm tình, câu thơ, đoạn thơ, khổ thơ, bài thơ, lối thơ, điệu thơ, âm điệu, thanh âm hưởng ứng, giọng, tỉ, phú, hứng, lục bát, song thất lục bát, thơ Đường luật, thơ cấu đối, hồi kịch, xen, kết cấu, văn từ...
  • 41. 41 Ngoài ra, trong bộ sách, tác giả còn sử dụng thuật ngữ đề cập đến vấn đề khuynh hướng văn học, ngôn ngữ văn học, lối sáng tác... Qua tìm hiểu cách sử dụng thuật ngữ trong Nhà văn hiện đại, bước đầu chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau đây: Thứ nhất, phần lớn thuật ngữ ngành ngữ văn được Vũ Ngọc Phan sử dụng trong các bài phê bình đều khá quen thuộc với độc giả ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng, vào những năm 1930 - 1945, ngôn ngữ văn học dân tộc đã có bước hiện đại hóa. Cùng với sự phổ biến các thuật ngữ khoa học tự nhiên (mà cuốn Danh từ khoa học do Hoàng Xuân Hãn biên soạn là một mốc quan trọng), các thuật ngữ khoa học xã hội, trong đó có ngành Ngữ văn cũng đã khá phong phú. Tuy nhiên, cũng có khi người viết phải tự dịch một thuật ngữ từ tiếng nước ngoài để sử dụng lập tức trong một công trình, cũng như có lúc phải chua thêm thuật ngữ tiếng nước ngoài bên cạnh một thuật ngữ tiếng Việt. Thứ hai, trong Nhà văn hiện đại, có một số thuật ngữ khá lạ đối với người đọc ngày nay. Muốn hiểu nội hàm của các thuật ngữ như vậy, nhất thiết phải đặt chúng trong văn cảnh. Chẳng hạn khái niệm biên giả trong câu sau: "Bài dịch sách Phương pháp luận của ông Descartes (N.P từ số 3 - tháng Chín 1917) là một bài có ba tính cách: biên tập, dịch thuật và bình luận; trong đó biên giả tóm tắt từng chương một, rồi mới dịch nguyên văn và sau mỗi chương có phụ lời bàn" [NVHĐ, tập 1, tr.105]. Một ví dụ khác, thuật ngữ học phong được dùng trong trường hợp "Giá phải một nước văn học phồn thịnh, một văn phẩm hay một thi phẩm được nhiều người chú ý như thế, đã gây nên một phong trào mới cho thơ văn rồi. Nhưng cái học phong nước ta xưa nay vốn lặng lẽ, nhưng điệu thơ réo rắt của Tương Phố chỉ được ngâm ngợi trong một thời gian ngắn ngủi, rồi cũng tàn tạ theo với lòng sốt sắng của người Việt Nam, không được tốt số như tập Werther của Goethe, tập truyện đã gây nên phong trào lãng mạn ở Âu Châu" [tr.162]. Tương tự như vậy, những thuật ngữ
  • 42. 42 như phong dao, tiếng rắp đôi, tiếng hình dung từ, vần chữ chính, chứng dẫn... ngày nay đã trở nên xa lạ với người đọc. Thứ ba, tác giả Nhà văn hiện đại sử dụng một số thuật ngữ theo kiểu cấu tạo ngữ pháp Hán, trong khi ở một số trường hợp, những thuật ngữ ấy vẫn được sử dụng theo kiểu ngữ pháp tiếng Việt. Thi văn hợp tuyển được dùng thay cho hợp tuyển thơ văn, nhân quả thuyết thay cho thuyết nhân quả, cận kim thời đại thay cho thời đại cận kim, xã hội tiểu thuyết thay cho tiểu thuyết xã hội... Những cách dùng như vậy mang đậm dấu ấn của thời đại, bởi vì, không riêng gì Vũ Ngọc Phan, nhiều cây bút phê bình giai đoạn 1930 - 1945 sử dụng khá thường xuyên những thuật ngữ có cấu tạo theo kiểu phụ - chính như vậy. Thứ tư, vốn thuật ngữ của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại dù không đến nỗi nghèo nàn, song nếu so với công trình của các tác giả hiện nay, rõ ràng đã có một khoảng cách rất xa. Chỉ cần xem vài cuốn từ điển, chẳng hạn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, hoặc Từ điển Tu từ - Phong cách - Thi pháp học của Nguyễn Thái Hòa... cũng đủ thấy rất nhiều thuật ngữ được dùng phổ biến trong khoa học Ngữ văn hiện nay chưa hề có mặt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng như công trình của các nhà phê bình thời đó. Về vấn đề này, GS Lê Quang Thiêm cho rằng: "do tinh đặc thù của văn chương mà phần hệ thống lí luận duy lí lại muộn hơn các khoa học xã hội khác (triết học, tôn giáo). Cho nên, hệ thuật ngữ định hình bằng quốc ngữ đến giai đọan này mới hình thành, và nó là một bộ phận có sớm trong việc góp phần xây dựng nền quốc học mới của nước nhà là như vậy" [38, tr.172]. Theo cái nhìn lịch đại, ta mới thấy bộ phận thuật ngữ trong tiếng Việt đã có sự phát triển vượt bậc, phản ánh sự phát triển tất yếu của khoa học.
  • 43. 43 2.1.2.2. Từ ngữ Hán-Việt trong Nhà văn hiện đại Nghiên cứu từ ngữ trong văn bản nghệ thuật, văn bản báo chí hay nghiên cứu phê bình văn học, không thể không chú ý đến lớp từ Hán-Việt, bởi lớp từ vay mượn này có mặt với tỉ lệ rất cao trong vốn từ tiếng Việt, mặt khác, đây cũng là lớp từ thể thiện sắc thái phong cách rõ nét nhất. Do quá trình tiếp xúc lâu dài, với những cách thức khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hán, trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện nay, thành tố Hán-Việt và các từ Hán-Việt chiếm tỉ lệ rất cao. Xét về bình diện sử dụng, lớp từ này đã làm nảy sinh lắm vấn đề. Từng có lúc người ta xem nó như là một trong những nhân tố chủ yếu làm cho tiếng Việt thiếu trong sáng, trong khi thực tế không phải hoàn toàn như vậy. Trong ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ hành chính,... từ Hán-Việt chẳng những chiếm tỉ lệ không nhỏ, mà còn thường là những từ không thể thay thế. Nó đáp ứng yêu cầu về diễn đạt của phong cách chức năng. Việc sử dụng từ Hán-Việt ở văn bản phê bình văn học có khác với văn bản nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật thực chất là đa phong cách, nghĩa là văn bản nghệ thuật có thể ôm trùm, dung chứa mọi phong cách chức năng. Vì thế, người cầm bút rất rộng đường trong việc lựa chọn ngôn từ cho phù hợp với ý đồ nghệ thuật của mình. Trước mặt nghệ sĩ, mọi lớp từ ngữ đều bình đẳng nhau. Phan Ngọc đã có lí khi cho rằng: “Không có chữ hay, dở mà chỉ có nghệ sĩ tồi chỉ thấy chữ với chữ và nghệ sĩ lớn dùng chữ làm phương tiện để tạo nên các quan hệ kín đáo, thâm trầm nhưng có thật ở con người”. Thế nhưng, trong văn bản phê bình văn học, tỉ lệ từ Hán-Việt sẽ chịu sự qui định không chỉ của cá nhân người viết, mà cả yếu tố thời đại. Nghiên cứu cách sử dụng từ Hán Việt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng không thể tách khỏi bối cảnh văn học thời đại.