Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Tác giả: PGS. TS. Bùi Ngọc Oánh
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lí học giới tính và Giáo dục giới tính là những ngành khoa học mới,
đang được tập trung nghiên cứu ở nước ta trong khoảng vài chục năm gần
đây. Mắc dù là một lĩnh vực mới nhưng do tầm quan trọng của nó, Tâm lí học
giới tính và Giáo dục giới tính đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Hiện
nay, các vấn đề giới tính đã được nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều trường
học, nhiều địa phương. Tuy nhiên, quan niệm về vấn đề này còn nhiều khác
biệt giữa các nhà khoa học, các nhà giáo dục. Đặc biệt, một số khái niệm như
giới, giới tính, tính dục, tình dục, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh
sản… cũng chưa phải đã có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu.
Tập sách này bước đầu mạnh dạn xác định cụ thể hơn một số khái
niệm, một số vấn đề trong lĩnh vực giới tính. Những vấn đề lí luận, thực tiễn
được trình bày theo hướng hệ thống hoá lí luận cơ bản của khoa học giới
tính, và mối tương quan giữa chúng với những chuyên ngành khoa học có
liên quan.
Do đặc điểm xã hội, các vấn đề giới tính ở Việt Nam chịu sự chi phối
bởi phong tục tập quán, đạo đức truyền thống của dân tộc. Có một số vấn đề
(tình yêu, tình dục, hôn nhân…) được hiểu, đánh giá không thống nhất với
quan điểm ở một số nước khác. Những vấn đề đó được chúng tôi trình bày
chủ yếu dựa trên những quan điểm đạo đức truyền thống của Việt Nam. Tuy
nhiên, về cơ bản, các khái niệm và lí luận vẫn đảm bảo tính khoa học, tuân
theo những quy định của Liên Hợp quốc và những hội nghị quốc tế liên quan
đã xác định.
2. Do tính phức tạp của các vấn đề, chắc chắn rằng, tập sách này còn
nhiều hạn chế. Chúng tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của bạn đọc và
các nhà chuyên môn để sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ
Phần 1: TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI TÍNH VÀ TÂM LÍ HỌC GIỚI
TÍNH
I. ĐỜI SỐNG GIỚI TÍNH Ở CON NGƯỜI
1. Một số hiện tượng của đời sống giới tính
Trong đời sống tâm sinh lí của con người, ngoài những hiện tượng
thuộc về nhận thức, tình cảm, ý chí… còn có nhiều hiện tượng khác như sự
hình thành và phát triển sinh lí cơ thể, hiện tượng thụ thai, kinh nguyệt, sự
dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của chúng, tình yêu, hôn nhân, đời sống
gia đình… Những hiện tượng này vừa liên quan mật thiết với tâm lí, lại vừa
mang những sắc thái riêng của người nam và của người nữ. Nhiều hiện
tượng chỉ có ở nam hoặc ở nữ, nhưng lại tạo nên sự liên hệ giữa nữ nam và
người nữ.
– Chúng ta có thể thấy một số hiện tướng điển hình như:
+ Sự sinh trưởng và phát triển về sinh lí cơ thể ở người nam và người
nữ.
+ Sự dậy thì và những biểu hiện đặc trưng của nó ở nam và ở nữ (sự
phát triển khác nhau về hình thể, kinh nguyệt, sự mộng tinh và hiện tượng thủ
dâm…).
+ Đời sống tình dục.
3. + Những hiện tượng bệnh lí liên quan đến đời sống tình dục, trong đổ
có những bệnh như: bạo dâm, thị dâm, loạn trang, ái nhi…
+ Một số hiện tượng đặc biệt: ái nam ái nữ, pê đê hay đồng tính luyến
ái…
+ Các phẩm chất tâm lí giới tính, đạo đức giới tính, thấm mĩ giới tính.
+ Sự giao tiếp, cư xử giữa nam và nữ.
+ Những hiện tượng trong tình bạn khác giới; tình yêu nam nữ.
+ Những hiện tượng trong đời sống hôn nhân và gia đình.
– Những hiện tượng trên được gọi là những hiện tượng của đời sống
giới tính của con người.
2. Bản chất tâm lí của các hiện tượng giới tính
Các hiện tượng của đời sống giới tính có mối quan hệ với đời sống tâm
lí con người ở những mức độ khác nhau:
– Có mối quan hệ mật thiết hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lí con
người, hay ngược lại, chịu sự chi phối, tác động của tâm lí con người.
– Có sự tham gia của tâm lí con người như là một thành phần, một bộ
phận.
− Biểu hiện đời sống tâm lí con người.
Như vậy các hiện tượng của đời sống giới tính gắn bó mật thiết với đời
sống tâm lí con người. Nhiều khi chúng là một bộ phận, hoặc chính là các
hiện tượng tâm lí con người. Khi nghiên cứu về các hiện tượng của đời sống
giới tính cần phải nghiên cứu dưới góc độ của tâm lí con người. Việc tách
chúng với tâm lí con người sẽ là sự phiến diện, không đầy đủ, hoặc là đơn
giản hoá... sẽ không phản ánh được đúng bản chất của hiện tượng đổ.
Những hiện tượng của đời sống giới tính có bản chất là tâm lí con người hoặc
quan hệ mật thiết với tâm lí con người và đo đó chúng mang tính xã hội, lịch
sử như tâm lí con người.
4. 3. Giới tính và nhân cách con người
Các hiện tượng của.đời sống giới tính có quan hệ mật thiết với nhân
cách con người.
– Các hiện tượng của đời sống giới tính có thể ảnh hưởng mạnh mẽ
đến những đặc điểm nhân cách, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính, đồng thời cũng là những đặc
điểm nhân cách, đặc điểm cá tính, đặc điểm khí chất.
– Nhiều đặc điểm giới tính hoà nhập vào nhân cách con người, làm cho
nhân cách con người mang những sắc thái riêng.
– Khi nghiên cứu về giới tính cần phải xem xét chúng trong mối quan
hệ với nhân cách con người, ngược lại khi tiến hiểu và đánh giá nhân cách,
luôn luôn phải chú ý tới những hiện tượng về đời sống giới tính.
– Nhiều hiện tượng của đời sống giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
hình thành, phát triển, suy đồi, sa ngã… của nhân cách.
Như vậy giới tính có mối quan hệ mật thiết với nhân cách, là một thành
phân của nhân cách, hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát
triển của nhân cách.
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
Ngay từ thời Cổ đại, giới tính đã được quan tâm tìm hiểu, tuy rằng rất
thô sơ và mang màu sắc cảm tính, mê tín. Từ thời kì xa xưa của văn minh
loài người, giới tính đã được đề cập đến bằng một hệ thống thần thoại cổ đại
và các khảo luận về tình yêu nhu kinh “Kama Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật
yêu” của Ovidius, “Chuỗi ngọc của người yêu” của Hazma, “Phaedr” và “Bữa
tiệc” của Platon… Trong đó các tác giả “không những đặt cơ sở các chuẩn
mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu, mà còn cố gắng cung cấp những
kiến thức về sinh học và tâm lý học tình dục”.
5. Các thầy thuốc thời cổ đại như Hipocrates cũng hết sức chú ý tới
những vấn đề có liên quan đến chức năng tái tạo giống nòi và những rối loạn
của chức năng đó, đặc biệt là đời sống tình dục của con người.
Khi nhân loại bước vào thời kì “đêm trường trung cổ”, tôn giáo và nhà
nước phong kiến đã lợi dụng sự ngu tối thất học của nhân dân, khẳng định sự
không bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội và trong gia đình, cũng như
trong lĩnh vực quan hệ tình dục. Họ đã gieo rắc những quan niệm cho rằng
quan hệ nam nữ có tính chất tội lỗi nhằm tuyên truyền chủ nghĩa cấm dục, và
khép sự ham muốn tính dục vào loại đê tiện, tượng trưng cho một diều xấu xa
mà quỷ xa-tăng đã áp đặt cho loài người. Nhưng thực ra, việc tìm hiểu các
vấn đề về tính dục vẫn được quan tâm, được tiến hành, chỉ để phục vụ cho
sự ăn chơi sa đoạ của các tầng lớp vua quan phong kiến.
Công tác nghiên cứu khách quan các vấn đề về giới tính, tính dục chỉ
thật sự được tiến hành ở thời kì Phục hưng, khi bộ môn Giải phẫu và Sinh
học bắt đầu phát triển. Trong thời kì này, những khía cạnh của tính dục, nhất
là xét về phương diện đạo đức và giáo dục, được người ta nghiên cứu tới.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, các đề tài nghiên cứu về giới tính
được mở rộng hơn… Cho đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các nhà khoa
học J. Bachocen (Thuy sĩ), J. Mặc Len nan (Anh), E. Westennach (Phần Lan),
Ch. Letoumeau và A. Espinas (Pháp), Lewis Herưy Morgan (M), X.M.
Kovalevxki (Nga)… không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính đục với
các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với yếu tố khác của chế độ xã
hội và văn hoá.
Đặc biệt, F. Enggels đã đưa ra một quan điểm mới về phương pháp
phân tích các dạng liên kết những mối quan hệ tính dục với quan hệ kinh tế
và quan hệ xã hội. Trong cuốn “Nguồn gốc của gia đình, của quyền tư hữu là
của Nhà nước”, F. Enggels đã phân tích một cách có phê phán “các công
trình nghiên cứu về giới tính và đời sống gia đình theo những nguồn thư tịch
về thời cổ đại, qua những huyền thoại lịch sử và tôn giáo, qua những hiểu biết
về tập tục và truyền thống của các bộ lạc, dân tộc. Ông đã bổ sung thêm
6. nhiều dẫn liệu mới và đã ra những kiến thức rất xác thực và khác quát hoá
thành một hệ thống nhất quán”.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà khoa học: R. Kraft Ebing (Ao), M. Hirschfeld
và A.. Môn (Đức), H. Ellis (Anh), A. Forel (Thuy Sĩ… đã bắt đầu tiến hành
công tác nghiên cứu khách quan về tính đục của con người. Họ đã miêu tả
hàng loạt dạng bất thường trong tâm lí tính dục và tán thành việc xúc tiến
công tác giáo dục tính dục một cách khoa học.
Đầu thế kỉ XX, xuất hiện một số quan điểm sinh học về vấn đề giới tính,
và trong chừng mực nào đó, lại có sự tham gia thêm của các quan điểm tâm lí
học. Giai đoạn này chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Sigmund Freud. S.
Freud đã tập trung chú ý vào mối quan hệ giữa các vấn đề tâm lí nhân cách
với các dạng tình dục khác nhau. Ông cho rằng, bất kì dạng tình dục bất
thuờng nào cũng đều là sự định hình những giai đoạn phát triển nhất định của
tâm lí tính dục của con người. Tuy nhiên ông quá đề cao yếu tố sinh học; yếu
tố tính dục trong đời sống con người.
Trong những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu tính dục phát
triển mạnh và gắn với phong trào gọi là “Phấn đấu vì những cải cách tính
dục”, đòi hỏi bình đẳng nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ,
tự do li hôn và sử dụng các biện pháp phòng tránh thai, giáo dục tính dục trên
cơ sở khoa học… Tuy nhiên, những lí luận trong thời kì này còn nặng tính tư
biện, tách rời khỏi cơ sở xã hội và thực tiễn.
Năm 1926, T.Van de Velde (Hà Lan), đã cho ra đời cuốn “Hôn nhân
hiện đại”, cuốn sách khoa học hiện đại đầu tiên về sinh lí học và kĩ thuật trong
hôn nhân, trong đó người phụ nữ được coi là người bạn đời có vai trò và
chức năng tính đục tương đương với người chồng.
Các công trình nghiên cứu tiến hành tại những nước khác nhau đế
chứng minh rằng, việc định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người
phụ thuộc vào những đặc điểm về văn hoá và vai trò, địa vị xã hội của họ.
7. Năm 1921, tại Mĩ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu
các vấn đề tình dục. Uỷ ban này đã hỗ trợ cho H. Kingsey cùng các cộng sự
của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mông về
các định hướng tâm lí tính dục và hành vi của con người. “Bản phúc trình của
Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những liệu phong phú của trên 10 ngàn
cuộc điều tra khoa học khoá nhau, đã được nhiều người biết đến.
Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công tính của W. Masters và V
Johnson, vào năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các
chuẩn mực trong tính dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau
11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lí dáng tin cậy về đời
sống tính dục của con người.
Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N.
Zabanov và V.I. Iakovenko mang tên “Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến
hành trong sự cấm đoán của Nga Hoàng. Trên 6000 bản điều tra được phát
ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu
được công bố năm 1922.
Nhiều nhà bác học lớn đã nghiên cứu các khía cạnh của đời sống tính
dục, góp phần xây dựng tính dục học thành một bộ phận khoa học độc lập
theo một quan điểm chủ đạo có hệ thống, trong đó liên kết nhiều phương
pháp và thủ pháp sinh lí, lâm sàng và tâm lí xã hội. Các vấn đề về giới tính đã
thu hút sự nghiên cứu của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
như: sinh học, y học, xã hội học, tâm lí học…
Nhiều nhà lãnh đạo hoạt động xã hội, hoạt động chính trị nổi tiếng của
Liên Xô (V.I. Lê nin, Marxim Gorki, Maiacovxki, Secnưsevxki; đặc biệt là A.X.
Makarenko và V.A. Sukhomlinxki) đưa ra nhiều quan điểm khoa học về đời
sống giới tính, tình yêu hôn nhân gia đình… đã quan tâm đến việc giáo dục
giới tính cho con người và coi đó là một nội dung quan trọng cần phải giáo
dục cho học sinh.
8. Ngay từ những năm 20 của thế là XX, V.I. Lê nin đã nói: “Cùng với việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình
cũng được coi là cấp bách”.
Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học về y học giáo dục học,
tâm lí học, sinh lí học đã cố gắng xây dựng nền móng vững chắc cho nền
khoa học giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm Mác–xít. Họ đã đưa ra
nhiều phương hướng quan trọng trong việc giáo dục giới tính của Liên Xô.
A.X. Makarenko viết: “Đạo đức xã hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới
tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật
thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ gia
nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người và việc
giáo dục con cái. Khi giáo dục một con người không thể quên giáo dục loại
tình cảm đặc biệt đó về giới tính”. Ông đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội
dung phương pháp giáo dục giới tính. Ông nói: “Các nhà giáo dục học Xô viết
coi giáo dục giới tính và giáo dục về đời sống gia đình là một nội dung của
giáo dục đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào đời sống gia đình”.
I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc
sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục
giới tính” và “dù xác định mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo
dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa, thì cả hai thứ đều phải tuân theo
các mục đích chung của giáo dục”.
A.X. Makarenko cho rằng, thanh niên cần “phải học tập cách yêu
đương, phải học tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc,
và như thế có nghĩa là học tập để biết tự trọng, học tập để biết các vinh hạnh
được làm người”. Trong các bài giảng về giới tính, ông cho rằng: “Chúng ta
phải giáo dục con em chúng ta làm sao để các em có thái độ đối với tình yêu
như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em sẽ được hưởng
khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ
gia đình”.
9. Sukhomlinxki đã khuyên nhủ thanh niên: “Hãy sáng suốt và yêu cầu
cao trong tình yêu. Tình yêu là một loại tình cảm mãnh liệt, nhưng lí trí phải
điều khiển trái tim”. “Nữ tính chân chính là sự kết hợp tính dịu dàng và tính
nghiêm khắc, sự âu yếm với tính cứng rắn. Tình yêu và sự nhẹ dạ không đi
cùng nhau. Tình yêu có thể chính đáng về mặt đạo đức, khi những người yêu
nhau được kết hôn trong tình bạn vững bền”.
Ông cũng nhấn mạnh rằng: '“Yêu là thời kì khởi đầu của việc làm cha
làm mẹ. Yêu có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người
khác, với người mình yêu và với người mình sẽ tạo ra”. “Trong cuộc đời có
một hạnh phúc lớn và một công việc lớn, đó là tình yêu. Tình yêu trai gái, vợ
chồng là một lĩnh vực thuộc chủ quyền đặc biệt về đạo đức”.
Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ
chức việc hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về
giới tính, nhất là đời sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và
điều trị những bệnh về tính dục đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc
“cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung phương pháp giáo dục giới tính
phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kì họp liên tịch giữa Viện hàn lâm
khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971, và tại cuộc
“Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hoá gia đình,
giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia định tại Varsava” năm 1977.
Gần đây nhiều công trình lớn có tính khoa học về giới tính đã được
nghiên cứu hoặc đưa từ nước ngoài vết góp phần quan trọng vào việc giáo
dục giới tính thọ thanh niên, như các công lênh nghiên cứu của A.V.
Petrovxki, I.X. Kim, G.I. Gheraximovic, D.V. Kolexev, ru.I. Kusnứuk, V.A.
Serbakov… với nhiều tác phẩm rất có giá trị: Bách khoa toàn thư Y học phổ
thông; Trò chuyện về giáo dục giới tính của Tiến sĩ y học D.V. Kolexev; Vệ
sinh tinh thần trong sinh hoạt tình dục của Tiến sĩ y học. I. Mielinxki… Ngay từ
những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề xuất, giảng
dạy ở một số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra chỉ thị cho tất
cả các trường học trong cả nước thực hiện chương trình giáo dục vệ sinh và
10. giáo dục giới tính cho học sinh các trường phổ thông. Một chương trình giáo
dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ thể cho học sinh từ cấp 1 đến cấp
3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình giáo dục từ năm học
1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp 10 (tương
đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí học đời sống
gia đình” với 34 tiết chính khoá.
Ở Đức hiện nay, có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng với những
công trình nghiên cứu về giới tính và giáo dục giới tính như: R. Neubert,
Aresin, Smolka, Hopman và Klemm, Linser, Polte, Dierl, Grassel… Một cuốn
bách khoa toàn thư về giới tính được biên soạn để giảng dạy và giáo dục giới
tính cho học sinh.
Ngay từ năm 1959 nhiều tài liệu về giáo dục giới tính đã được biên
soạn công phu, như công trình của R. Neubert: Sách nói về quan hệ vợ
chồng, của Z. Snabl: Điều khó nói trong tình yêu… Vấn đề giáo dục giới tính
được tiến hành rộng rãi từ những năm 60, đặc biệt từ những năm 70 của thế
kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học Đức quan niệm rằng: “Những hiểu biết khoa
học về vấn đề giáo dục giới tính cần được trang bị ngay cho cả các cô mẫu
giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải nói dền sự giáo dục về môn quan hệ đúng
đắn gì những người khác giới”. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới
tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8,
với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sinh tham khảo được quy định.
Nhiều nước như: Tiệp Khắc, Hungary. Ba Lan… đều đã tiến hành giáo
dục giới tính cho học sinh phổ thông bằng những thương trình bắt buộc. Các
nước phương Tây như: Anh. Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mi… đã tiến hành giáo
dục cho học sinh khá sớm (1966). Ở Pháp, thương tình giáo dục nội dung này
được thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt là một số nước châu Á, châu Phi, Mĩ
Latin cũng đưa giáo dục giới tính vào trường phổ thông và đã đạt kết quả tốt.
Trung Quốc đã tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh từ năm 1974 và hiện
nay là một trong những nước có nhiều công trình nghiên cứu, có sự phát triển
cao trong nghiên cứu khoa học về giới tính.
11. Ngay các nước Đông Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia,
Singapore, Phihppines… cũng đã thực hiện nội dung giáo dục này. Ở
Philippines, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình nội khoá của
trường phổ thông cơ sở và trường trung học phổ thông, và là một bộ phận
của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nội dung giáo dục giới tính đã
được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ môn văn hoá khác, chủ yếu là
môn kế hoạch hoá gia đình qua các giờ chính khoá và qua các hoạt động
ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước này,
việc nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và
những phương tiện dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học
sinh, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này
cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà trường, đến các tầng lớp nhân dân khác
nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong phú, qua các trung tâm tư vấn
và đã được xã hội ủng hộ.
Ở Việt Nam ta, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo
dục giới tính đã bắt dầu được quan tâm rộng rãi.
Trong Chỉ thị số 176A ngày 24/12/1974 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên giùm xây dựng
chương trình chính khoá và ngoại khoá nhằm bồi dương cho học sinh những
kiến thúc về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. Bộ
Giáo dục đã đưa ra Chỉ thị về việc giáo dục dân số và giáo dục giới tính trong
toàn bộ hệ thống trường học các cấp và các ngành học của cả nước.
Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính,
về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng
Xuân Hoài, Tràn Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn
Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu
nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính.
Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính, tình yêu, hôn nhân gia đình, nhiều
cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến hành từ
12. năm 1985 đến nay, bước dầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh
niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong
phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.
Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo
dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống
gia đình) có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội đồng Chính
phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và
cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư
Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên
cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niêm về tình bạn, tình yêu, hôn
nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ
huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính
cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.
Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam dã có nhiều dự án Quốc gia,
nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính
và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về
tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới
tính cho học sinh… Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự
quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà
khoa học và các bậc phụ huynh.
III. TÂM LÍ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC HỌC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm về Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính
Tâm lí học giới tính là một chuyên ngành của Tâm lí học, nghiên cứu về
đời sống giới tính, mối liên hệ giữa giới tính với các hoạt động xã hội của con
người và cuộc sống của con người trong xã hội.
Giáo dục học giới tính là chuyên ngành của Giáo dục học, nghiên cứu
về vấn đề giáo dục giới tính cho con người, chủ yếu là giáo dục cho thế hệ
trẻ.
13. Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính là hai ngành khoa học tuy
khác nhau nhưng quan hệ rất mật thiết với nhau.
Trong thực tế nghiên cứu về giới tính hiện nay, người ta thường kết
hợp tâm lí học giới tính với giáo dục học giới tính như một lĩnh vực khoa học
thống nhất. Khi tìm hiểu về tâm lí học giới tính, người ta phải kết hợp với vấn
đề giáo dục giới tính cho học sinh. Việc nghiên cứu những vấn đế của tâm lí
giới tính phải phục vụ cho giáo dục giới tính, phải đi tới nội dung, phương
hướng giáo dục những vấn đề giới tính đó… cho con người. Ngược lại, khi
nghiên cứu về giáo dục học giới tính, các nhà giáo dục phải dựa trên cơ sở tri
thức của Tâm lí học giới tính để xác định chương rình, nội dung, phương
pháp, hình thức, kế hoạch… giáo dục giới tính phù hợp.
Vì vậy trong nhiều công trình nghiên cứu về khoa học giới tính hiện nay
ở nước ta, thường có sự kết hợp chặt chẽ của cả hai ngành khoa học trên.
2. Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới
tính
– Đối tượng nghiên cứu:
+ Các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa các hiện tượng của đời sống giới tính.
+ Mối liên hệ giữa nam và nữ dưới ảnh hưởng của đời sống giới tính.
+ Lịch sử nghiên cứu các vấn đề giới tính và sự hình thành phát triển
của các khoa học về giới tính.
+ Những vấn đề tâm lí trong giáo dục giới tính.
+ Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục giới tính.
– Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mô tả và giải thích các hiện tương của đời sống giới tính.
+ Phát hiện các quy luật của các hiện tượng giới tính.
14. + Nghiên cứu các hiện tượng tâm lí, các quy luật tâm lí về việc giáo dục
giới tính cho thanh niên, học sinh.
+ Đề xuất những phương hướng giáo dục, vững nội dung, cách thức,
biện pháp thích hợp để giáo dục con người về mặt giới tính, tạo điều kiện để
phát triển toàn diện dân cách cho thanh thiếu niên học sinh và cho mọi người.
3. Mối quan hệ giữa Tâm lí học giới tính, Giáo dục học giới tính với các
ngành khoa học khác
Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính có mối quan hệ mật thiết
với nhiều ngành khoa học, phải dựa trên cơ sở của Sinh lí học, Giải phẫu sinh
lí, Tâm lí học, Tâm lí học xã hội, Tâm lí học giao tiếp, Xã hội học…
Khi nghiên cứu Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính, chúng ta
còn phải dựa trên cơ sở của Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học
giới tính… Đây là những ngành khoa học còn non trẻ ở nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu tâm lí giới tính còn phải gắn với nhiều ngành
khoa học khác như: Y học, Sinh học, Xã hội học, Giáo dục học, Dân số học
và Giáo dục dân số…
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các vấn đề giới tính đang được sự
quan tâm đặc biệt của Y học, Xã hội học, Giáo dục học và Tâm lí học.
4. Tình hình nghiên cứu các khoa học về giới tính ở Việt Nam hiện nay
− Việc nghiên cứu về giới tính, đặc biệt là tâm lí học giới tính và giáo
dục học giới tính ở nước ta hiện nay đang được quan tâm và phát triển mạnh
mẽ.
– Có nhiều quan điểm khác nhau về đời sống giới tính, về những thuật
ngữ cơ bản được sử dụng trong các ngành khoa học về giới tính (giới, giới
tính, tính dục, tình dục, tình yêu…).
– Có nhiều biểu hiện phức tạp trong việc nghiên cứu về giới tính:
+ Sự lẫn lộn giữa các khái niệm, các thuật ngữ về giới và giới tính.
15. Có người cho rằng, giới chỉ là những đặc điểm xã hội, do xã hội tạo ra.
Ngược lại, giới tính lại chỉ được hiểu là những đặc điểm về sinh lí và không
biến đổi. Nhiều thuật ngữ như: tính dục và tình dục, giới và giới tính, tình dục
và giới tính… thường bị sứ dụng lẫn lộn hoặc phiến diện, lệch lạc.
+ Nội hàm của một số khái niệm chưa được thống nhất như giới tính,
tính dục, sức khoẻ sinh sản.
+ Sự pha trộn các quan điểm phương Tây với những quan điểm truyền
thống Việt Nam. Trong xã hội, nhiều người cho rằng không cần thiết phải giáo
dục giới tính trong nhà trường, trong thanh niên, nhiều người có quan niệm
tình dục tự do, tình yêu tự do, tình yêu không cần hôn nhân…
+ Những tồn tại của các quan điểm phong kiến lạc hậu về các hiện
tượng của đời sống giới tính.
+ Sự xuất hiện nhiều tài liệu, sách báo thiếu khoa học về vấn đề giới
tính, nhằm mục đích chạy theo thị hiếu, thay theo kinh doanh; thậm chí có sự
nhầm lẫn giữa các sách báo, tài liệu khoa học về giới tính với các sách báo
mê tín dị đoan hoặc mang tính kích dục, tính khiêu dâm, dồi trụy… Những
sách này thiếu tính giáo dục, tính khoa học, nhiều khi chỉ kích thần tính tò mò,
gây tác hại cho thanh thiếu niên.
+ Các văn hoá phẩm đồi trụy hoặc văn hoá phẩm theo những quan
điểm nước ngoài nhiều khi gây tác dụng tiêu cực trong giáo dục thanh thiếu
niên, không phù hợp với phong tục truyền thống Việt Nam. Ngược lại, những
tư tưởng, quan điểm phong kiến khắt khe, lạc hậu vẫn song song tồn tại trong
đời sống xã hội, trong nghiên cứu và đánh giá các vấn đề của đời sống giới
tính.
+ Nhận thức của nhiều tầng lớp xã hội như: phụ nữ, thanh thiếu niên,
người lớn, thậm chí, có cả một bộ phận không nhỏ của nhà giáo, giới trí thức
về nhiều vấn đề của đời sống giới tính còn thấp hoặc phiến diện, hoặc sai
lầm.
16. + Những phương tiện thiết bị nghiên cứu về vấn đế giới tính còn rất hạn
thế. Do điều kiện xã hội phong kiến, những phương pháp nghiên cứu chưa
thật sự đa dạng và toàn diện, kể cả phương pháp điều tra xã hội học cũng
khó có thể phát huy hết tác dụng, không thể hỏi nhiều vấn đề tế nhị.
+ Việc nghiên cứu về giới tính đang được quan tâm nhưng kết quả
thưa thật sự cao, thậm chì còn có lệch lạc trong một số công trình nghiên
cứu.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân:
+ Đời sống giới tính rất phức tạp nhưng chưa được quan tâm nghiên
cứu một cách đầy đủ và hệ thống bởi các nhà khoa học. Nhiều người còn e
ngại hoặc thành kiến, có quan niệm không đúng về vấn đề nghiên cứu và giáo
dục giới tính.
+ Những vấn đề của đời sống giới tính thường kích thích tính tò mò của
con người, nhất là đối với thanh niên. Họ thường rất quan tâm đến những vấn
đề của giới tính, thường xuyên trải nghiệm, thể nghiệm những biểu hiện của
giới tính trong đời sống hàng ngày nhưng không tự giải thích được. Chính vì
vậy, nhu cầu tìm hiểu về giới tính rất cao. Họ thường tự tìm hiểu chúng trong
mọi điều kiện có thể có trong mọi tài liệu sách báo có đề cập đến những vấn
đề giới tính mà không có khả năng phân biệt những tài liệu khoa học hay
phản khoa học.
+ Những tri thức về đời sống giới tính có thể được tích luỹ qua kinh
nghiệm sống của con người. Nhiều trường hợp có những người không học
tập trong nhà trường nhưng vẫn có những hiểu biết nhất định thông qua sự
từng trải trong cuộc sống của họ. Những kinh nghiệm và sự hiểu biết này có
thể không có tính hệ thống khoa học nhưng cũng có thể giúp cho họ vận dụng
ở mức độ nhất định trong cuộc sống. Có khi còn làm cho họ nghĩ rằng hình đã
biết rất nhiều.
+ Có những vấn đề của đời sống giới tính là những vấn đề tế nhị ít khi
được trình bày một cách công khai và chính thức trong xã hội. Nhiều người
17. còn cho rằng đó là những vấn đế thiếu đứng đắn, thiếu lịch sự, do đó tuy rất
quan tâm nhưng họ không dám nói ra. Việc nghiên cứu và tìm hiểu chúng
thường chỉ là vụng trộm, truyền miệng, rỉ tai nhau hoặc bàn tán trong nhóm
bạn bè… Vì vậy những hiểu biết thường chỉ là vụn vặt, phiến diện và đôi khi
không chính xác.
+ Còn nhiều những quan điểm khác nhau về các khái niệm, các thuật
ngữ, thậm chí về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu các vấn đề giới
tính ở Việt Nam. Các tài liệu sách báo lưu hành trên thị trường rất phong phú
đa dạng, có nhiều tài liệu khoa học nhưng cũng có những tài liệu chỉ tập trung
khai thác những vấn đề giới tính thu hút sự quan tâm chú ý của người đọc,
phục vụ cho việc kinh doanh, vì vậy có nhiều tài liệu rất phiến diện, lệch lạc,
thậm chí có những tài liệu mang tính mê tín dị đoan, hoặc phản khoa học.
+ Việc dịch thuật các tài liệu nước ngoài sang tiếng Việt cũng chưa
được chuẩn hoá, hiệu đính một cách nhất quán bởi các nhà chuyên môn.
Chẳng hạn, từ “sex” trong tiếng Anh có thể dịch thành nhiều nghĩa như: giới
tính”, “tình dục, tính dục, “khoả thân”… Vì thế nhiều tài liệu dịch từ tiếng nước
ngoài, dù là của các tác giả có uy tín khoa học, cũng không được chính xác
và toàn diện.
Trong khi đó, ở nước ta, thưa có những công trình nghiên cứu cần thiết
để thống nhất các khái niệm, các thuật ngữ, cách sử dụng từ trong nghiên
cứu các vấn đề giới tính, chưa có những hội nghị khoa học cần thiết để thống
nhất và phát triển các khoa học về giới tính.
+ Nhiều tệ nạn xã hội liên quan đến đời sống giới tính có chiều hướng
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ăn chơi trác táng, nhậu nhẹt bia ôm, biến
tướng của vũ trường, hoạt động của các “động lắc”, mại dâm…
+ Vấn đề giáo dục giới tính còn nhiều quan niệm phức tạp, mâu thuẫn.
Nhiều ý kiến không thống nhất về nội dung, chương trình, về phương thức
giáo dục giới tính trong nhà trường. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, không nên
tiến hành giáo dục giới tính trong chương trình nội khoá, hoặc ngay cả trong
ngoại khoá vì cần phải dành thời gian cho các môn khoa học cơ bản hoặc các
18. môn học quan trọng hơn. Ngay cả khi đã có quyết định đưa một số nội dung
của đời sống giới tính vào chương trình giáo dục trong nhà trường của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, nhiều địa phương, nhiều trường học vẫn không nghiêm
tức thực hiện, hoặc chỉ thực hiện một cách cầm chừng, một cách hình thức
để đối phó với những đợt kiểm tra của Bộ.
+ Lực lượng các nhà nghiên cấm các giáo viên làm công tác giáo dục
giới tính, giảng dạy kiến thức giới tính cho học sinh còn rất thiếu. Trong nhiều
trường phổ thông không có giáo viên được đào tạo chuyên môn để giảng dạy
những kiến thức này. Trong trường sư phạm, việc trang bị những kiến thức
giới tính cho sinh viên, giáo sinh cũng chưa được quan tâm.
+ Việc đào tạo cán bộ chuyên khoa về ngành này chưa được thực hiện
một cách tập trung, hoàn chỉnh, thưa có chương trình đào tạo chuyên ngành,
nội dung giảng dạy còn đơn giản, sơ lược.
5. Những phương hướng nghiên cứu và phát triển của Tâm lí học giới
tính
Hiện nay, việc nghiên cứu các khoa học về giới tính đang được quan
tâm ở nhiều ngành, nhiều cơ quan khoa học. Đây là một lĩnh vực khoa học
còn khá mới mẻ ở nước ta. Còn nhiều vấn đề cần phải tập trung nghiên cứu
như:
– Nghiên cứu chuyên sâu để phát triển các ngành khoa học về các lĩnh
vực của đời sống giới tính như: Giới tính học, Xã hội học giới tính, Sinh lí học
giới tính, những vấn đề y học về đời sống giới tính, Giáo dục học và Tâm lí
học giới tính…
– Nghiên cứu sâu hơn bản chất của các hiện tượng trong đời sống giới
tính như: sự phát triển sinh lí cơ thể ở nam và ở nữ trong các giai đoạn lứa
tuổi, đặc biệt là các lứa tuổi ở người lớn như: giai đoạn từ khoảng 48 – 50
đến 54 − 55; từ 56 đến 65; từ trên 65 đến 70 – 75 ở nữ; từ trên 75 đến 85 ở
nam, hiện tượng kinh nguyệt và sinh nở; các hiện tượng bệnh lí giới tính, đời
19. sống tình dục, sự già lão của cơ thể, vấn đề sức khoẻ sinh sản, đời sống tình
yêu và hôn nhân…
– Vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục cho học sinh, sinh viên và
các lứa tuổi lớn hơn…
– Các vấn đề tâm lí, diễn biến tâm lí về việc giáo dục giới tính trong nhà
trường và xã hội.
– Tăng cường việc nghiên cứu, giảng dạy các kiến thức giới tính cho
học sinh, sinh viên, đặc biệt là sinh viên các trường sư phạm, để khi ra
trường, họ sẽ là các giáo viên có khả năng, trình độ làm công tác giảng dạy
và giáo dục giới tính.
Thống nhất và chính xác hoá các khái niệm quan trọng (như giới, giới
tính, tính dục, tình dục, sức khoẻ sinh sản…) các nội dung trình bày của
những ngành khoa học có liên quan đến đời sống giới tính mới được quan
tâm nghiên cứu (như giáo dục dân số và sức khoẻ sinh sản, giáo dục gia
đình, tâm lí và giáo dục giới tính…).
– Xây dựng, bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới trong khoa
học giới tính như “độ trẻ trung”, “sự già lão”, “chỉ số sinh sản” ở nam, ở nữ,
“vẻ đẹp cơ thể”, “động cơ yêu đương”, “hôn nhân hạnh phúc”…
Chương 2: GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
I. KHÁI NIỆM GIỚI VÀ GIỚI TÍNH
1. Khái niệm giới
a) Tìm hiểu khái niệm giới
Giới là một khái niệm rất phức tạp, được nghiên cứu theo nhiều góc độ
khác nhau, và theo nhiều quan điểm khác nhau.
– Giới có thể được hiểu theo mặt sinh học, là một tập hợp những đặc
điểm sinh lí cơ thể đặc trưng ở con người (ở động vật, giới ở đây có nghĩa là
giống. Trong động vật có giống đực và giông cái). Những đặc điểm sinh lí cơ
20. thể thường bao gồm những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ
thể, điển hình và quan trọng nhất là hệ cơ quan sinh dục. Ở con người có hai
loại hệ cơ quan sinh dục chính là hệ cơ quan sinh dục nam và hệ cơ quan
sinh dục nữ, vì vậy loài người có hai giới là giới nam và giới nữ. Giới theo
nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền.
– Giới còn được hiểu theo góc độ xã hội, là những đặc điểm mà xã hội
đã tạo nên ở người nam và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và
người nữ, là những đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã
hội thường bao gồm nhiều vấn đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và
nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội… Những vấn đế này thường do xã hội quy
định và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền
thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…
– Tổng quát hơn có thể định nghĩa giới như sau:
Giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh
học cơ bản giống nhau.
Định nghĩa này cho thấy:
+ Giới là một tập hợp người mang những đặc điểm sinh học cơ bản
giống nhau. Những đặc điểm sinh học cơ bản này bao gồm nhiều đặc điểm
sinh lí cơ thể, như hình dáng, cấu tạo các hệ cơ quan sinh lí, nhưng điển hình
là hệ cơ quan sinh dục. Ở loài người chủ yếu có hai loại hệ cơ quan sinh dục:
hệ cơ quan sinh đục nam và hệ cơ quan sinh dục nữ. Do đó, loài người có hai
giới (hai tập hợp người) cơ bản: giới nam và giới nữ… Khi một em bé lọt lòng
mẹ sinh ra, người ta dựa vào hệ cơ quan sinh dục để xác định em bé thuộc
về giới nam hay nữ. Như vậy, giới được hình thành bởi những đặc điểm sinh
lí cơ thể. Cũng có thể nói một cách khác, những đặc điểm sinh lí cơ thể là căn
cứ để xác định giới, là cơ sở hình thành giới.
Tuy ở loài người chủ yếu có hai giới là giới nam và giới nữ, nhưng
trong thực tế vẫn có một số ít người không thuộc về hai giới trên, người ta
thường gọi là giới thứ ba. Giới này xuất hiện do nguyên nhân chủ yếu là hệ
21. cơ quan sinh dục không được bình thường về mặt cấu tạo hoặc chức năng,
dẫn tới việc phát triển tâm lí sinh lí cơ thể không bình thường. Nhiều người
cho rằng đây là những người có sự lệch lạc trong sự hình thành và phát triển
của hệ cơ quan sinh dục.
Định nghĩa giới như trên dựa trên cơ sở những đặc điểm sinh hệ cơ
thể, chủ yếu là hệ cơ quan sinh dục. Trong trường hợp này, giới được quy
định bởi những đặc điểm sinh lí cơ thể.
Đó là giới sinh thể.
+ Giới là một tập hợp người trong xã hội, vì vậy, giới mang những đặc
điểm về nhóm người, về xã hội loài người. Với ý nghĩa này, khái niệm giới có
thể được dùng để chỉ các tập hợp người như giới trí thức, giới sinh viên, giới
bình dân…
Tuy nhiên, theo góc độ của Tâm lí học giới tính, Giới được hiểu như là
một tập hợp người có chung những đặc điểm sinh lí điển hình. Mỗi một tập
hợp người đó bị thi phối và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội một cách khác
nhau, tạo nên những giá trị xã hội khác nhau. Từ đó hình thành những đặc
tính riêng của từng giới và dần dần hình thành những đặc điểm xã hội đặc
trưng cho mỗi giới (về chức năng, vai trò xã hội, nghĩa vụ, quyền hạn…).
Trong trường hợp này, giới được quy định bởi những đặc điểm xã hội. Nói
một cách khác giới mang tính xã hội.
Đó là giới xã hội.
Như vậy giới bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lí cơ thể và
thuộc tính xã hội.
Xét về mặt sinh lí cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di
truyền. Yếu tố quan trọng và điển hình của giới ở đây là hệ cơ quan sinh dục.
Và dưới ảnh hưởng chủ yếu của hoạt động của hệ cơ quan sinh dục, cơ thể
con người còn có nhiều những biến đổi khác tạo nên những đặc trưng của
giới về hệ xương và hệ cơ, chiều cao và cân nặng, tỉ lệ giữa cơ và mỡ, hình
dáng đặc trưng của cơ thể nam và cơ thể nữ, sức lực của từng giới (trương
22. lực của cơ bắp, của gân, khớp…) và về nhiều đặc điểm sinh lí cơ thể khác.
Do cấu tạo sinh lí cơ thể khác nhau, ở mỗi giới có những chức năng sinh lí
khác nhau, như giới nữ có khả năng thụ thai, sinh nở, có hiện tượng kinh
nguyệt… giới nam không có những chức năng trên, nhưng thường cao lớn
khoẻ mạnh hơn, có khả năng sản xuất ra tinh trùng…
Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những
quy định, luật lệ, đòi hỏi… của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban
đầu, dưới ảnh hưởng của những đặc tính về sinh lí cơ thể như chiều cao, tầm
vóc to lớn của cơ thể, sức mạnh… người nam và người nữ được phân công
những công việc, những vai trò khác nhau trong đời sống xã hội. Dần dần mỗi
người, mỗi giới tạo nên những đặc tính về mặt xã hội như vai trò trong gia
đình, địa vị trong xã hội hoặc những yếu tố về mặt tâm lí như nhu cầu về sự
thành dạt, nhu cầu về đời sống tình cảm… Những yếu tố trên chịu sự tác
động của xã hội, của lịch sử, tạo nên những đặc điểm, chức năng, vai trò xã
hội khác nhau. Giới được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Giới
là tập hợp người có những vai trò chức năng xã hội nhất định.
Như vậy giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Khi nói đến giới sinh học, người ta thường chú ý nhiều đến hệ cơ quan
sinh dục của con người. Khi em bé lọt lòng mẹ sinh ra, người ta chỉ dựa vào
hệ cơ quan sinh dục để xếp em bé đó thuộc về giới nam hay giới nữ (em tra
hay em gái). Khi em bé lớn lên, đặc biệt là khi bước vào thời kì dậy thì, người
ta có thể xếp một người vào giới thứ ba nếu hoạt động của hệ cơ quan sinh
dục của người đó là không bình thường.
Khi nói đến giới xã hội, có nhiều vấn đề được quan tâm như:
– Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội.
– Sự phân công lao động trong xã hội cho người nam và người nữ.
– Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới).
− Những quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người
nữ trong xã hội.
23. – Sự phát triển, sự tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội.
– Mối quan hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới.
b) Một số vấn đề tâm lí xã hội và giới
Ngày nay, trong xã hội ta, còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về giới xã
hội như: vấn đề bình đẳng giới, vấn đế quan hệ giữa hai giới, vấn đề giới tính
ở mỗi giới…
– Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lí xã hội, do những đặc điểm về
mặt sinh lí cơ thể, giới nữ (còn gọi là nữ giới thường có nhiều khó khăn và
thiệt thòi hơn giới nam (gọi là nam giới) trong đời sống xã hội như:
+ So với nam giới, nữ giới có tầm vóc bé nhỏ hơn, sức lực yếu đuối
hơn nhưng lại mang nhiều thiên chức nặng nề hơn: có hiện tượng kinh
nguyệt, có sự thụ thai và sinh nở… Việc sinh nở là một thiên chức cao cả của
người phụ nữ đồng thời cũng là một gánh nặng đối với họ. Để cho ra đời một
con người, người phụ nữ phải mang nặng đẻ đau, hao tổn rất nhiều về mặt
sức lực, về mặt cơ thể và thường phải mất từ 3 đến 5 năm lo lắng cho việc
chăm sóc và nuôi dạy một đứa con, khiến cho họ gặp nhiều khó khăn hơn
nam giới trong việc vươn lên, học tập, rèn luyện để phát triển nhân cách. Đó
là chưa kể việc sinh nở một đứa con có thể làm cho người phụ nữ xấu đi, già
đi, ốm yếu đi nhanh hơn bình thường (trong thực tế sự “xấu đi”, “già đi”, “ốm
yếu đi” dễ xảy ra trong những trường hợp sinh đẻ không đúng khoa học, sinh
đẻ quá sớm, quá mau, quá nhiều…).
+ So với nam giới, ở Việt Nam, nữ giới thường chịu nhiều sự đánh giá
khắt khe, nặng nề hơn, chịu nhiều những quy định bất công trong xã hội như:
nữ giới bị coi như phải gánh chịu toàn bộ việc lao động nội trợ trong gia đình,
phải “đảm đang”, “chịu khó” lo lắng mọi công việc nhà, chăm sóc con cái, cơm
nước… phải lo việc nhà cho nam giới đi giao tiếp ngoài xã hội, nữ giới phải
thụ động trong tình yêu, bị đánh giá nặng nề, bị kiểm soát chặt chẽ trong đời
sống tình cảm yêu đương, trong sự chung thuỷ và thậm chí ngay cả trong
trách nhiệm đối với con cái.
24. + So với nam giới, nữ giới ít được tạo điều kiện để hoạt động xã hội, để
học tập vươn lên. Ngày nay vẫn còn nhiều người có quan niệm lạc hậu, bất
công về phụ nữ, như “trọng nam khinh nữ', “thuyền theo lái, gái theo chồng”,
“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”… Thực tế người phụ nữ vẫn chưa thực
sự bình đẳng với nam giới trong xã hội. Những quan niệm này thậm chí còn
tồn tại ngay trong bản thân người phụ nữ khiến cho họ thường thiếu tự tin,
thiếu bản lĩnh và thiếu điều kiện thuận lợi để vươn lên ngang tầm với nam giới
trong xã hội.
+ Người phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi khác trong đời sống sinh lí,
tâm lí, xã hội, trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, trong việc tham gia quản lí
và hoạt động xã hội… Thậm chí ở nhiều vùng, người phụ nữ còn bị đánh đập,
hành hạ và bị sử dụng như một công cụ lao động biết nói.
Vì vậy vấn đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, vấn đề xây dựng
bình đẳng giới thực sự là một vấn đề rất cần thiết, rất quan trọng, nhưng cũng
là một vấn đề rất phức tạp, khó khăn và còn nhiều quan điểm chưa thống
nhất.
– Quan niệm về sự bình đẳng giới:
+ Trong việc đấu tranh cho bình đẳng giới, còn nhiều quan niệm chưa
đầy đủ và đúng đắn như: Có người cho rằng bình đẳng giới chỉ là việc người
nữ có thể làm mọi việc giống như người nam, có quyền ăn mặc và sinh hoạt
giống như nam giới. Có người cho rằng, đấu tranh cho sự bình đẳng giới là
chỉ cần thực hiện sự đãi ngộ ngang bằng giữa hai giới. Có người còn hiểu sai
lệch về khái niệm “đảm đang” ở người phụ nữ…
+ Sự bình đẳng giới cần phải được hiểu một cách đúng đắn toàn diện
theo nhiều khía cạnh sau đây:
• Người nữ cần phải được tôn trọng như người nam giới, cần phải tin
tưởng ở người phụ nữ trong việc đảm nhiệm những chức năng,
những vai trò xã hội của họ.
25. • Người nữ phải được hưởng mọi tiêu chuẩn và quyền lợi giống như
nam giới trong lao động, trong hoạt động xã hội, trong học tập, và
hưởng thụ các giá trị xã hội.
• Người nữ phải được phân công lao động và làm việc phù hợp với
đặc điểm sinh lí cơ thể của mình để bảo vệ sức khoẻ và có điều kiện
tiến bộ, phát triển. Sự bình đẳng giới trong trường hợp này là sự
bình đắng xuất phát từ những đặc điểm sinh lí cơ thể.
• Người nữ phải được chăm sóc và quan tâm về mọi mặt, đặc biệt là
được học tập để nâng cao trình độ, được tham gia quản lí xã hội,
được hưởng đầy đủ mọi cơ hội để vươn lên trong xã hội như nam
giới.
• Do chịu nhiều thiên chức nặng nề, người nữ phải được ưu đãi hơn,
phải được tạo điều kiện và được tham lo nhiều hơn, giúp cho họ
được học tập, có điều kiện thuận lợi tham gia các hoạt động của xã
hội, có điều kiện để phát triển nhân cách toàn diện.
+ Cần cụ thể hoá hơn việc đấu tranh cho quyền bình đẳng giới, tạo điều
kiện cho người phụ nữ vươn lên trong cuộc sống xã hội, phát triển tài năng và
nhân cách toàn diện bằng nhiều biện pháp:
• Tăng cường các thiết bị hiện đại trong gia đình (máy giặt, tủ lạnh,
máy hút bụi bếp gas…) để người phụ nữ khỏi vất vả với công việc
nội trợ.
• Dành thời gian cho người phụ nữ được giao tiếp xã hội, tham gia
các hoạt động xã hội.
• Dành thời gian cho người phụ nữ được học tập theo nhu cầu vươn
lên của mỗi người.
• Giúp cho người phụ nữ có điều kiện được tham gia các hoạt động
văn hoá văn nghệ, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí, làm đẹp và trang
điểm, đọc sách báo và tập luyện thể dục thể thao…
26. 2. Khái niệm giới tính
a) Tìm hiểu khái niệm giới tính
– Giới tính có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và thường bị
sử dụng lẫn lộn với nhiều thuật ngữ khác như: giới, tình dục, tình dục, sinh
dục… Nhiều người thường quan niệm giới tính đồng nghĩa với tình dục hoặc
với tính dục. Đó là quan niệm chưa thực sự đầy đủ chỉ hiểu một cách đơn
giản hoặc hiểu về một mặt nào đó của giới tính.
– Giới tính cần được hiểu một cách toàn diện hơn:
+ Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm
của giới. Những đặc điểm này có thể rất phong phú và đa dạng. Vì giới vừa
bao gồm những thuộc tính về sinh học và những thuộc tính về tâm lí xã hội,
nên giới tính cũng bao gồm những đặc điểm về sinh lí cơ thể và tâm lí xã hội.
+ Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên những
đặc trưng của giới, giúp cho chúng ta phân biệt giới này với giới kia.
• Những đặc điểm giới tính cổ thể là những đặc điểm sinh lí cơ thể
như: cấu trúc và chức năng của các bộ phận cơ thể đặc biệt là hệ
cơ quan sinh dục con người, sự phát triển (biến đổi về kích thước,
hoàn thiện dần về chức năng…) của chúng, những chức năng đặc
biệt của hệ cơ quan sinh dục như: kinh nguyệt, sinh nở, sự vỡ
giọng, mọc râu… những trạng thái bệnh lí của các bồ phận sinh lí cơ
thể ở nam và ở nữ và do mối quan hệ nam nữ tạo ra…
• Những đặc điểm giới tính cũng có thể là những đặc điểm về tâm lí,
tính cách như sự dịu dàng, hiền hậu, sự kín đáo, tính cương trực
thẳng thắn, tính dũng mãnh…
Những đặc điểm trên thường mang đặc trưng của từng giới và tạo nên
sự khác biệt giữa hai giới. Giới tính là những yếu tố xác định sự khác biệt
giữa giới này và giới kia.
27. Có thể định nghĩa, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo
nên sự khác biệt giữa nam và nữ.
– Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn
luôn tác động đến nhau, có mối quan hệ qua lại mật thiết vôi nhau. Sự quan
hệ qua lại này bị thi phối bởi nhiều đặc điểm về sinh lí, về tâm lí ở mỗi người,
bởi những đặc điểm về văn hoá, chính trị, phong tục tập quán của xã hội,
trong đó có các đặc điểm đặc trưng của mỗi giới. Từ đó lại hình thành nên
nhiều yếu tố mới, hiện tượng mới trong đời sống giới tính như: Sự giao tiếp
giữa hai giới, quan hệ bạn khác giới, quan hệ tình yêu, hôn nhân…
Đời sống giới tính của con người rất phong phú và đa dạng. Đó là
những hiện tượng tâm lí và sinh lí nảy sinh trong đời sống của mỗi người,
trong mối quan hệ giữa người này với người kia, trong cuộc sống chung của
mỗi người, trong sự tồn tại của xã hội. Đời sống giới tính là một tổng hợp
phức tạp các hiện tượng tâm lí và sinh lí có liên quan đến mỗi giới, là mọi yếu
tố, mọi mặt hoạt động, mọi mối quan hệ… trong đời sống của con người,
trong đời sống xã hội loài người:
Đời sống giới tính là toàn bộ những hiện tưởng về mặt sinh lí cơ thể
xuất hiện trong con người có liên quan đến hệ cơ quan sinh dục (đời sống
tính dục), những hiện tượng tâm lí đặc trưng ở mỗi giới, những hiện tượng
tâm lí người trong mối quan hệ với người khác giới (tình bạn khác giới, tình
yêu…), những hiện tượng trong đời sống xã hội như hôn nhân, gia đình…
Gần đây, còn xuất hiện những biểu hiện phức tạp hơn của đời sống giới tính
như: các quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình dục ngoài hôn nhân, tình
bạn và sự giao tiếp giữa những người khác giới…
Như vậy khái niệm về giới tính cần được hiểu một cách đầy đủ toàn
diện về nhiều mặt sinh lí và tâm lí, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình,
tình yêu và tình bạn, sự giao tiếp nam nữ…
b) Ngồn gốc của giới tính
Những đặc điểm giới tính do hai nguồn gốc chủ yếu tạo ra:
28. − Nguồn gốc sinh học
Theo Giáo sư Nguyễn Quang Vinh, giới tính cua con người do các tế
bào sinh sản quyết định. Tế bào sinh sản nam (tinh trùng) có 2 loại: loại chứa
nhiễm sắc thể X quy định giới tính nữ; loại chứa nhiệm sắc thể Y quy định
giới tính nam. Tế bào sinh sản nữ (trứng) chỉ chứa một loại nhiễm sắc thể X.
Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X thụ tinh với trứng, em bé sinh ra sẽ là
nữ (X+X). Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y thụ tinh với trứng, em bé sinh
ra sẽ là nam (X+Y). “Giới tính của động vật (trong đó có con người được
quyết định ngay từ lúc thụ tinh, tuỳ theo trứng X được kết hợp với tinh trùng X
hay tinh trùng Y”. Theo Iu.I. Kusniruk và A.P. Serbakov đó là giới tính di
truyền. Có thể nói, giới tính di truyền là giới tính được xác định bởi sự thụ tinh
giữa trứng và tinh trùng. Sự thụ tinh như vậy (X+Y hay X+X) trong những điều
kiện thông thường, sẽ làm cho thai nhi có cấu tạo đặc trưng của cơ thể nam
hoặc nữ trong quá trình phát triển của nó. Do cấu tạo khác nhau nên hoạt
động sinh lí mỗi giới có những đặc điểm khác nhau. Các tuyến sinh dục và
các hoóc môn (nội tiết tố) tiết ra từ các tuyến này sẽ quy định những đặc điểm
sinh lí cơ thể riêng biệt và các thành phần tạo nên những nét tính cách đặc
trưng cho mỗi giới.
Trong quá trình phát triển cơ thể, sự trưởng thành về sinh lí cơ thể
cũng góp phần quan trọng tạo nên những đặc điểm giới tính nhất định. Đến
một độ tuổi nhất định, tuyến sinh dục sẽ hoạt động, và ngày càng hoạt động
mạnh hơn, sự hoạt động của tuyến sinh dục, nhất là khi tuyến này bước vào
thời kỳ trưởng thành (thời kỳ chín muồi tình dục), sẽ tạo nên những chức
năng sinh lí đặc biệt của cơ thể người: sự dậy thì, hoạt động tình dục, sinh
sản… Tuyến sinh dục ở người hình thành từ tuần thứ 8 trong đời sống ờ tử
cung, nhưng mãi đến tuổi dậy thì mới hoạt động. Đây là “tuổi thành thục về
sinh dục”, hay “tuổi chín muồi sinh dục”, nó đánh dấu thời kì bắt đầu có khả
năng sinh sản, ở nữ từ 13, 14 tuổi; ở nam từ 15 đến 16 tuổi. Vai trò của tuyến
sinh dục rất lớn đối với việc tạo nên giới tính. Các tác giả Iu.I. Kusniruk và
A.P. Serbakov cho rằng chính các tuyến sinh dục (buồng trứng hoặc tinh
29. hoàn) tạo nên “giới tính đích thực” của con người. “Gọi là giới tính đích thực
và nó phản ánh đặc trưng khả năng của tuyến sinh dục sản sinh ra tinh trùng
hay trứng, đồng thời cũng tạo ra những hoóc môn giới tính nam hoặc nữ đặc
thù. Các hoóc môn này ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển
của các cơ quan sinh dục bên trong và bên ngoài cùng những đặc điểm giới
tính phụ khác. Qua đó, nó giúp cho con người có đầy đủ những chức năng
thực sự của người nam hay người nữ. Như vậy giới tính đích thực là giới tính
được xác định do sự hoạt động thực tế của hệ cơ quan sinh dục. Ở những
người có hệ cơ quan sinh dục nam, những hoạt động của hệ cơ quan này
không bình thường, chẳng hạn, không tiết ra được nội tiết tố nam đủ tỉ lệ cần
thiết sẽ không thể trở thành một người nam giới bình thường. Họ sẽ không có
giới tính bình thường.
Giới tính đích thực có thể được tình thành trong quá trình phát triển của
con người theo lứa tuổi, và có thể được thể hiện rõ từ khoảng 13, 14 tuổi trở
đi, đặc biệt là từ độ tuổi 18 – 20, khi đến độ chín muồi giới tính.
− Nguồn gốc xã hội:
Những đặc điểm sinh học chưa đủ để xác định giới tính. Theo Giáo sư
Trần Trọng Thuỷ “Tình cảm và ý thức về giới tính của một người chỉ được
hình thành qua sự giao tiếp với những ngời khác qua sự ảnh hưởng của giáo
dục và các điều kiện xã hội. Những đặc điểm về giải phẫu và sinh lí của cơ
thể mới chỉ là tiền đề, là cơ sở vật chất tạo nên sự khác biệt giới tính mà thôi”.
Do đó có thể nói, giới tính của con người còn do các mối quan hệ xã hội chi
phối.
Xã hội ảnh hưởng đến giới tính con người ở nhiều mặt:
+ Xã hội quy định, đánh giá con người theo những phẩm chất, đặc
điểm, tư thế, tác phong riêng, phù hợp giới tính. Điều này thể hiện ở phong
tục, tập quán, đạo đức xã hội. Như phong tục tập quán Việt Nam thường đòi
hỏi người con gái phải dịu dàng, hiền hậu ý tứ, người con trai phải cao
thượng, dũng cảm, cương quyết… Xã hội cũng đòi hỏi mối quan hệ và cư xử
30. nam nữ phải tuân theo những chuẩn mực nhất định: phải có “khoảng cách”
(giới hạn) nhất định, phải có tư thế, tác phong lịch sự, phải tuân theo những
quy định nào đó trong giao tiếp…
+ Xã hội quy định sự phân công lao động giữa nam và nữ khác nhau:
người nam thường được đòi hỏi nhiều hơn ở những công việc khó khăn,
nguy hiểm, nặng nhọc… ở người nữ lại là những công việc cần sự khéo léo,
nhẹ nhàng hơn…
+ Xã hội ảnh hưởng đến yếu tố có nguồn gốc sinh học: người nam
thường được đòi hỏi phải cao lớn, khoẻ mạnh, người nữ cơ thể nhỏ bé, “xinh
xắn” hơn: Ngay cả bản năng tình dục cũng được xã hội nhìn nhận, đánh giá
theo những tiêu chuẩn, đạo đức văn hoá nhất định: “Tình dục ở con người
chịu sự chi phối của các quy luật tâm lí, quy luật tình cảm, của ý thức đạo
đức, văn hoá, xã hội. Ở Việt Nam ta, vấn đề tình dục thường được coi là một
vấn đề gắn với đạo đức xã hội”.
+ Sự giáo dục của xã hội, của người lớn ảnh hưởng nhiều đến đặc
điểm giới tính của con người. Nếu một em gái được nuôi dưỡng, giáo dục
theo những điều kiện và môi trường của con trai, em đó dễ có hành vi cư xử
của con trai, dễ có nhiều nam tính hơn và ngược lại đối với một em trai cũng
vậy.
Giới tính còn được xác định bởi tâm lí, ý thức của chính bản thân mỗi
người. Đến một độ tuổi nhất định, đến một sự phát triển nhất định về mặt ý
thức, mỗi một người có thể ý thức được giới của mình, mình thuộc về giới
nào và cần phải có những phẩm chất nào để thể hiện giới… Sự ý thức về giới
này bị chi phối bởi nhiều yếu tố như:
+ Sự nhận thức về những quy định của xã hội về giới của mỗi người.
Chẳng hạn, nếu là con trai, cần phải có những phẩm chất nào cần phải ăn
mặc như thế nào, cần phải hành động, làm việc như thế nào. Nếu là con gái,
cần phải rèn luyện những khả năng gì, cần phải trang điểm, ăn mặc, làm việc,
có tác phong tư thế dáng điệu như thế nào…
31. + Sự nhận thức những đánh giá của mọi người về giới của bản thân
hình làm cho mỗi người chú ý rèn luyện về những phẩm chất đặc điểm mà
mình cần có theo ý thức về giới của họ.
+ Sự nhận thức bản thân hoặc tự cảm nhận mình thuộc về giới nào và
có những nhu cầu đặc trưng cho giới đó. Có những người tuy cơ thể là nam
giới nhưng luôn luôn nghĩ mình cần phải là nữ và hướng hoạt động, sinh hoạt
của mình theo nữ giới (hiện tượng “xu hướng giới”, “bản sắc giới”).
+ Sự tác động của những người xung quanh, chủ yếu là sự giáo dục
của gia đình và nhà trường.
3. Mối quan hệ giữa giới và giới tính
Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở
để tạo nên giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về
mặt sinh học đồng thời cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học.
Ở góc độ này, giới là một bộ phận của giới tính, đồng thời giới chi phối và
quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của giới cũng góp phần hình
thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối và quyết định
sự hình thành giới tính.
Ngược lại, giới tính lại phải phù hợp với giới và bị xã hội đánh giá theo
giới, giới tính cũng góp phần khắc hoạ rõ nét thêm về giới. Ở một mức độ nào
đó giới tính cũng chính là giới hoặc giới tính lại là một thành phần của giới
Khi nói đến giới người ta hiểu giới tính là những đặc điểm của giới, giới
tính là một bộ phận của giới, là những yếu tố tạo nên khái niệm giới, là cơ sở
để phân định rõ hơn vai trò, chức năng, vị trí của giới.
Khi nói đến giới tính, giới lại được hiểu như là những đặc điểm của giới
tính. Chẳng hạn, giới là những đặc điểm giới tính về mặt cấu trúc sinh lí cơ
thể.
Trong thực tế đời sống xã hội, khái niệm giới và giới tính thường bị
dùng lẫn lộn nhưng mọi người vẫn có thể chấp nhận.
32. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA GIỚI TÍNH
1. Sự phức tạp của đời sống giới tính
Do giới tính có nguồn gốc sinh vật và nguồn gốc xã hội, nên đặc điểm
của giới rất đa dạng.
Theo nhà xã hội học nổi tiếng Eveline Sullezot, chuyên gia của Liên
Hợp Quốc, việc nghiên cứu những đặc điểm giới tính con người phải xem xét
trên ba bình diện: cơ thể (sinh học), cá nhân (tâm lí học) và xã hội (xã hội
học).
Khi phân tích sự khác biệt giũa nam và nữ, Giáo sư Trần Trọng Thuỷ
đã nhấn mạnh những đặc trưng sinh lí và những đặc trưng tâm lí xã hội.
Xét riêng về mặt sinh lí, E. Sullezot cũng đưa ra 7 dấu hiệu có sự khác
biệt rõ ràng giữa nam và nữ như sau: Những ngóc môn tính dục, sự hình
thành những tế bào sinh sản, cơ quan sinh sản và chức năng của nó, hình
thái cơ thể, sự già lão của cơ thể, bệnh lí cơ thể tuổi thọ. Về mặt tâm lí và xã
hội, E. Sullezot cũng tán thành với quan niệm của E. Maccoby: “Sự khác biệt
giới tính biểu hiện từ khi trẻ em còn rất nhỏ (2, 3 tuổi) và biểu hiện ở nhiều
mặt hoạt động khác nhau: vui chơi, chơi đồ chơi, quan hệ với người lớn, hoạt
động trí tuệ…” và quan niệm của Streven Golđberg: “Mỗi giới có một số đặc
trưng về tính khí, dù môi trường xã hội là như thế nào và những khác biệt ấy
quy định vai trò xã hội của đàn ông và đàn bà một cách khác nhau. Vì đàn
ông có tính gây hấn hơn và có xu hướng thiết lập những quan hệ đẳng cấp
thống trị hơn đàn bà, nên họ nhất định vượt qua mọi các để đi tới vị trí lãnh
đạo và quyền lực mà một xã hội có thể xem lại”.
Quan niệm của Rene Zazzo đề cập đến hai xu hướng khác nhau: ở con
gái có ưu thế trong ngôn ngữ (nói năng), ở con trai lại có ưu thế về hoạt động
trí tuệ, trong lĩnh vực logic và nhìn nhận không gian.
Sự khác biệt giới tính còn thể hiện ở nhiều mặt khác. Kể cả quá trình
trưởng thành của cơ thể. “Nhiều khác biệt về các thuộc tính sinh học của đàn
ông và đàn bà cũng còn bí ẩn, đặc biệt là những đặc điểm không có liên quan
33. trực tiếp với con người mới đẻ ra. Chẳng hạn, đồng hồ sinh học của mỗi giới
hoạt động một cách khác nhau. Theo mức độ trưởng thành (trạng thái của
xương trong các giai đoạn phát triển khác nhau của cơ thể) khi đẻ ra, con gái
phát triển trước con trai một tháng. Con gái biết đi, biết nói sớm hơn. Dần
dần, khoảng cách ấy càng tăng lên cho đến lúc bước vào lứa tuổi quá độ (dậy
thì) thì cách nhau tới 2 năm, và đến khi kết thúc sự tăng trưởng thể chất thì
cách nhau tới 3 năm”.
Nhiều tác giả khác đều đã khẳng định các đặc điểm giới tính về sinh lí,
tâm lí, xã hội trong các công trình nghiên cứu của mình.
Trong đời sống xã hội, con người luôn có quan hệ mật thiết với nhau,
do đó, trong quan hệ giữa những người khác giới, có nhiều vấn đề phức tạp
về giới tính nảy sinh, như: tình bạn khác giới, khoảng cách giữa người nam
và người nữ, những rung cảm xuất hiện trước người khác giới, tình yêu, hôn
nhân…
– Có thể kết luận về những đặc điểm giới tính như sau:
+ Những đặc điểm giới tính ở con người rất phức tạp. Nó bao gồm
những đặc điểm về sinh lí, về tâm lí, về xã hội.
+ Giới tính biểu hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong
đời sống.
+ Giới tính biểu hiện trong quá trình trưởng thành của cơ thể, ngay từ
lúc thụ tinh, trong quá trình phát triển cơ thể từ khi mới sinh ra đến lúc trưởng
thành và trong suốt cuộc dời. Sự biểu hiện ấy bị chi phối bởi nhiều yếu tố,
sinh lí, tâm lí, điều kiện xã hội, hoạt động cá nhân, những thuộc tính di truyền,
những tác động xã hội.
+ Giới tính biểu hiện trong các hoạt động tâm lí con người, trong toàn
bộ các phẩm chất nhân cách. Nó gắn liền với đời sống tâm lí và toàn bộ nhân
cách con người.
+ Giới tính của con người có thể bị biến đổi do những tác nhân về tâm
lí, sinh lí, xã hội. Những ảnh hưởng của sự hoạt động của sự rèn luyện,
34. những can thiệp của con người về mặt xã hội, về mặt y tế đều có thể làm cho
giới tính thay đổi. Những chức năng của các bộ phận sinh lí cơ thể, đặc biệt
là chức năng của hệ cơ quan sinh dục tạo nên nhiều đặc điểm về giới tính,
nhiều vấn đề của giới tính như tình dục, các bệnh lây lan qua đường tình
dục…
+ Sự quan hệ giữa hai giới trong đời sống xã hội lại làm nảy sinh nhiều
đặc điểm giới tính mới và làm phức tạp thêm những đặc điểm giới tính đã có
ở con người.
+ Các phong tục tập quán, các quy định của xã hội, cũng chi phối nhiều
đặc điểm giới tính, làm cho đặc điểm giới tính ở từng vùng, từng miền, từng
giai đoạn lịch sử có những đặc trưng riêng làm phong phú và phức tạp thêm
đời sống giới tính của con người.
2. Mối quan hệ giữa hai giới
Những đặc điểm tạo nên sự khác biệt về giới (giới tính) không làm cho
hai giới đối lập nhau, mà ngược lại, làm cho hai giới có quan hệ mật thiết với
nhau hơn, tạo nên những mối quan hệ đặc biệt giữa hai giới.
Những mối quan hệ này rất phức tạp, đa dạng, chủ yếu bao gồm: sự
cư xử giao tiếp trong xã hội, tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ, hôn nhân
gia đình…
a) Mối quan hệ cư xử, giao tiếp giữa hai giới
Khác với mối quan hệ giữa hai người đồng giới, quan hệ giữa hai
người khác giới thường đặc biệt hơn: Khi giao tiếp cư xử với người khác giới,
ở con người thường xuất hiện những rung cảm, những ý nghĩ “không bình
thường”, không tự nhiên. Những cảm xúc này được tạo bởi những đặc điểm
sinh học (nhất là do chức năng của hệ cơ quan sính dục tạo ra) hoặc những
đặc điểm tâm lí xã hội (tính e thẹn, mắc cỡ, mọi người gán ghép, nhận xét
đánh giá…): Đặc biệt từ tuổi dậy thì trở đi, khi con người bước vào thời kì
chín muồi sinh dục.
35. Ở thời kì này, do sự trưởng thành về sinh dục, do sự quan tâm đánh
giá một cách chặt chẽ của xã hội, do sự phát triển tâm lí… mỗi khi giao tiếp
cư xử với người khác giới, con người thường có những cảm xúc giới tính rõ
rệt, mạnh mẽ. Họ có thể thận trọng, ý tứ tế nhị, e ngại, mắc cỡ hoặc cũng có
thể xuất hiện những rung động, ham muốn, đòi hỏi về tình cảm hoặc tình dục.
Những cảm xúc này bị chi phối bởi những quy định của xã hội bởi những
chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán. Nó cũng có quan hệ mật thiết với
đạo đức phong tục, tập quán. Chẳng hạn, xã hội quy định giữa nam và nữ khi
giao tiếp với nhau phải có giới hạn nhất định, không được quá thân mật,
suồng sã, người nam, người nữ phải có những tư thế tác phong phù hợp, lời
ăn tiếng nói, và hành vi cử chỉ ý nhị, lịch sự… Có những dân tộc, địa phương,
người nam không được bước vào buồng riêng của người nữ, không được
cầm tay người nữ…
Do những đặc điểm giới tính, con người phải tuân theo những chuẩn
mực đạo đức nhất định khi cử xử giao tiếp với nhau. Nói cách khác, giới tính
tạo nên những mối quan hệ đặc biệt giữa nam và nữ, chi phối những hành vi
giao tiếp, cư xử giữa người nam và người nữ. Trong mỗi mối quan hệ, có
những hành vi cư xử tương ứng: Nếu hai người xa lạ, hành vi cư xử phải tế
nhị, lịch sự, phải giữ khoảng cách… Nếu đó là hai vợ chồng, họ có thể rất
thân mật, có thể có hành vi âu yếm, yêu thương…
Như vậy, vấn đề giới tính gắn liền với đạo đức, phong tục tập quán.
Chính vì thế khi nghiên cứu, tác động vào giới tính con người, ta phải chú ý
đến những yếu tố đạo đức, phong tục, tập quán và những yếu tố xã hội khác.
b) Mối quan hệ bạn khác giới
Do những đặc điểm giới tính, mối quan hệ bạn khác giới có những đặc
điểm khác hẳn mối quan hệ bạn đồng giới và trở thành nhu cầu trong đời
sống tình cảm con người. Nhưng cũng do đó, tình bạn khác giới có nhiều
điểm khác với tình bạn đồng giới như: trong cư xử giữa hai người bạn, không
thể có những hành động quá thân mật, không thể suốt ngày bên nhau, đi đâu
36. cũng có nhau… Tình bạn khác giới có thể rất đẹp, rất tốt, tồn tay lâu dài,
nhưng nó cũng có thể chuyển hoá dần thành tình yêu.
Ở tuổi thanh niên, tình bạn khác giới rất khác với tình bạn đồng giới, và
nhiều khi “tình bạn khác giới chứa đựng một tình yêu đang nảy sinh được
chất chứa ở bên trong”.
Tình bạn khác giới ở các em nữ biểu hiện khác biệt so với các em nam.
Nhu cầu về tình cảm này ở các em nữ thường cao hơn, sớm hơn và sâu sắc
hơn ở các em nam. Theo Giáo sư I.X. Kon, các em gái thường chọn bạn trai
làm người bạn lí tưởng, trong nhóm giao lưu của các em có đông bạn trai
hơn, mà phần nhiều là bạn trai cao tuổi hơn. Về nhu cầu tình bạn thân khác
giới, ở các em gái thường sớm hơn các em trai từ 1,5 năm đến 2 năm. Tình
bạn khác giới của các em gái cũng phức tạp, mang màu sắc cảm xúc nhiều
hơn. “Tình bạn khác giới của các em nữ có tiêu chuẩn tinh tế hơn, mang
nhiều động cơ tâm lí hơn ở các em nam”.
Ở cùng một lứa tuổi, nhu cầu bạn khác giới ở các em nữ thường cao
hơn. Trong công trình nghiên cứu của mình, I.X. Kon đã kết luận, từ lớp 5 đến
lớp 10 (tương đương từ lớp 9 đến lớp 12 ở Việt Nam) trong tất cả các lứa
tuổi, số lượng các em gái kết bạn khác giới bao giờ cũng nhiều hơn các em
trai, và tuổi càng lớn thì sự khác biệt càng rõ hơn. Các công trình nghiên cứu
của V.G. Cacpion và B. Zazzo ở Pháp cũng cho kết quả tương tự. Những kết
quá điều tra của nhóm cán bộ nghiên cứu của Khoa Tâm lí Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 cũng hoàn toàn thống nhất với
nhận định trên.
Như thế, mối quan hệ khác giới nảy sinh ở tuổi thanh thiếu niên từ tuổi
dậy thì trở đi có tính tất yếu và tình bạn khác giới ở các em nam cũng khác
biệt so với các em nữ. Theo I.X. Kon, đó là sự khác biệt rất cơ bản, nhưng
“không phải đơn thuần chỉ là do khác biệt giới tính, mà là những khác biệt lứa
tuổi giới tính. Vấn đề không chỉ là ở chỗ phụ nữ nói chung giàu cảm xúc hơn
nam giới, mà là ở chỗ các em gái chín muồi sinh dục sớm hơn, sớm có hình
thức tự ý thức hơn các em nam”. Tình bạn khác giới của các em nảy sinh do
37. sự khác biệt giới tính, và bị chi phối bởi sự phát triển giới tính, trước hết là
những đặc điểm phát triển tính dục và đời sống tình cảm của các em.
c) Mối quan hệ tình yêu và quan hệ tình dục
Những đặc điểm giới tính, kể cả những đặc điểm tính dục, tình dục và
đặc điểm tâm lí thường thúc đẩy hai người bạn khác giới đi đến tình yêu trong
những điều kiện phù hợp. Sự khác biệt giới tính thường có tác dụng hỗ trợ
tình yêu thêm hấp dẫn, đằm thắm và sâu sắc. Trong những trường hợp này,
sự khác biệt giới tính có tác dụng làm cho hai người bổ sung cho nhau, phối
hợp với nhau, đan xen nhau, có khi đến mức hoà nhập vào nhau, “Hai người
trở thành một”… Nói cách khác sự khác biệt giới tính có thể dẫn tới quan hệ
tình yêu và quan hệ tình dục.
Quan hệ tình yêu là một dạng quan hệ tình cảm đặc biệt giữa hai người
khác giới. Đó là một tình cảm cao cấp được nảy sinh trên cơ sở sự gắn bó
mật thiết, sự cảm thông sâu sắc, sự yêu thương đằm thắm và sự rung cảm
mạnh mẽ giữa hai người. Quan hệ tình yêu thường nảy sinh khi hai người
khác giới có sự nhận thức dầy đủ và tốt đẹp về nhau, thông cảm với nhau,
hoà hợp với nhau cả về đời sống tâm hồn và thể xác. Chính vì vậy, quan hệ
tình yêu là một trong những dạng quan hệ mật thiết nhất giữa hai người khác
giới.
Quan hệ tình dục là quan hệ đặc biệt về mặt sinh lí cơ thể, là sự rung
cảm giới tính mãnh liệt, là những nhu cầu hoà nhập đặc biệt về mặt sinh lí cơ
thể (thường được gọi là nhu cầu về thể xác) giữa hai con người. Quan hệ tình
dục thường được nảy sinh ở con người trong một số điều kiện như: sự phát
triển bình thường và trưởng thành của đời sống tính dục bắt đầu từ giai đoạn
dậy thì của cơ thể, sự phát triển những cảm xúc giới tính, sự ham muốn được
thoả mãn những cảm xúc giới tính mãnh hệt, tình yêu nồng thắm… của con
người. Quan hệ tình dục thường được biểu hiện ở những hành vi cử chỉ vuốt
ve, âu yếm, ôm ấp, bởi những nụ hôn… Quan hệ tình dục có thể xuất phát từ
những bản năng đơn thuần nhưng cũng có thể xuất phát từ tình yêu và bị chi
38. phối mạnh mẽ bởi tình yêu. Ngược lại, tình yêu cũng có thể nảy sinh và phát
triển từ sự hoà hợp về quan hệ tình dục.
Một vài quan niệm sai lầm cho rằng tình yêu chỉ là vấn đề tình dục,
hoặc trong tình yêu chủ yếu là tình dục. Trong thực tế, khi yêu nhau, ngoài
tình dục còn nhiều yếu tố tâm lí có tác dụng rất mạnh mẽ đến tình yêu như sự
thương mến, sự gần gũi, sự đồng cảm, sự giúp đỡ và quan tâm đến nhau
thậm chí có thể hi sinh vì nhau. Tuy nhiên, trong tình yêu, yếu tố tình dục
cũng có vai trò rất quan trọng. Tình dục có thể làm nảy sinh tình yêu, là thành
phần và cũng là sự biểu hiện của tình yêu, có thể làm cho tình yêu thêm say
đắm, mãnh liệt hơn, làm cho tình yêu phát triển mạnh thêm, sâu nặng thêm.
Ngược lại, tình dục không phù hợp có thể làm cho tình yêu phai nhạt hoặc tan
vỡ.
S. Freud cho rằng: “Hạt nhân của cái mà ta gọi là tình yêu, đó là tình
yêu tình dục”, “là sự đam mê tình dục, “có mục đích là hai giới được gần
nhau”.
Như vậy giữa hai người khác giới có thể nảy sinh mối quan hệ tình yêu
và mối quan hệ về tình dục. Những mối quan hệ này có ý nghĩa rất lớn đến
cuộc sống, sự phát triển, sự tồn tại của con người.
d) Mối quan hệ hôn nhân
Hôn nhân trước hết là một hiện tượng xã hội, trong đó, xã hội thừa
nhận hai người khác giới được chung sống với nhau, bị ràng buộc với lulđu
bởi luật pháp. Xã hội quy định hai người phải có trách nhiệm đối với nhau và
cùng có trách nhiệm trước xã hội. Bình thường, xã hội quy định chỉ hai người
khác giới mới được kết hôn với nhau.
Chính do giới tính tác động, hai người khác giới mới có nhu cầu kết hôn
với nhau. Chính giới tính có vai trò đặc biệt quan trọng tạo nên hôn nhân. Nhờ
những đặc điểm tính dục và tâm lí tính dục, mới có những quan hệ yêu
đương, quan hệ vợ chồng, có sự sinh con, có quan hệ cha con, mẹ con, có
đời sống gia đình…
39. Hôn nhân và đời sống gia đình còn bị chi phối bởi những quy luật tâm
lí, xã hội. Nó cũng là những hiện tượng tâm lí xã hội phức tạp gắn liền với đời
sống sinh lí, tâm lí, đời sống tính dục của con người. Trong hôn nhân, quan
hệ tình dục giữa hai vợ chồng được coi như là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền
lợi. Trong hôn nhân, những vấn đề giới tính khác, nhất là tâm lí tính dục có
vai trò rất quan trọng. Có thể nói, quan hệ hôn nhân là hệ quả, là sản phẩm
của đời sống giới tính.
e) Một vài kết luận về quan hệ giữa hai giới
– Giữa hai giới có mối quan hệ rất mật thiết và phức tạp.
Những mối quan hệ đó được tạo nên bởi giới tính, bởi sự khác biệt
giữa nam và nữ, đồng thời bị chi phối bởi chính sự khác biệt đó. Chúng gắn
bó mật thiết với giới tính và trở thành những vấn đề điển tình, quan trọng của
giới tính.
Như thế, nghiên cứu về giới tính, hoặc nói đến giới tính không thể chỉ
đơn thuần chú ý đến những đặc điểm giới tính (đã nêu ở mục c), mà còn phải
nghiên cứu đến những mối quan hệ giữa hai giới. Những mối quan hệ đó,
cùng với những đặc điểm giới tính, đều là những vấn đề của giới tính, đều có
ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người. Giới tính là một lĩnh vực
rất phức tạp, đa dạng, phong phú trong đời sống con người. Cần phải hiểu
giới tính một cách toàn diện và sinh động. Cũng cần phải tránh một số quan
điểm sai lầm trong nhiều người hiện nay cho giới tính chỉ là tình yêu, tình dục.
– Những vấn đề cần chú ý của giới tính.
Giới tính và mối quan hệ giữa hai giới có nội dung rất phong phú và đa
dạng, bao gồm các đặc điểm, các vấn đề sinh lí, tâm lí xã hội. Trong đó, có
những đặc điểm, những vấn đề điển hình hoặc có ý nghĩa quan trọng nổi bật
trong đời sống con người.
Khi xét đến giới tính hoặc tiến hành giáo dục giới tính cho con người,
cần chú ý đến những vấn đề quan trọng, điển hình sau đây: Những vấn đề
sinh lí cơ thể, cấu tạo và chức năng của nhiều bộ phận, sức khoẻ, vẻ đẹp cơ
40. thể… Đặc biệt là đời sống tính dục của con người. Trong đó có những chức
năng đặc biệt như sự dậy thì, sự sinh sản, hiện tượng kinh nguyệt, đời sống
tình dục…
– Những vấn đề tâm lí xã hội như mối quan hệ và sự cư xử giữa nam
và nữ, tình bạn khác giới, tình yêu nam nữ, đời sống vợ chồng, cuộc sống gia
đình. Đây là những vấn đề liên quan rất mật thiết với giới tính.
– Những vấn đề giới tính liên quan mật thiết với đạo đức, phong tục tập
quán như đạo đức giới tính, thẩm mĩ giới tính, phong tục tập quán về giới
tính, vấn đề đời sống, sinh hoạt dưới góc độ của giới tính như: ăn mặc, sửa
soạn trang điểm, hành vi cử chỉ, tư thế tác phong…
Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về những vấn đề quan trọng
và điển tính của giới tính.
3. Những vấn đề quan trọng và điển hình của giới tính
Các đặc điểm giới tính rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
các đặc điểm giới tính, cần chú ý đến các loại đặc điểm giới tính điển hình
chủ yếu sau đây:
a) Những đặc điểm giới tính về mặt sinh lí
+ Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục. Đây là sự khác biệt
dễ thấy và quan trọng nhất về mặt sinh học.
+ Hình thái, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan khác trong cơ
thể (hệ xương, cơ, tỷ lệ mỡ, da…).
+ Tốc độ sinh trưởng và phát triển sinh lí cơ thể. Độ lớn của cơ thể
(chiều cao, cân nặng…).
+ Sự già lão và độ trẻ trung.
+ Hiện tượng dậy thì, kinh nguyệt.
+ Sự sinh nở và nuôi con.
+ Thể lực, hình dáng và sự phát triển cơ thể.
41. + Tỉ lệ mắc bệnh và các bệnh thường mắc.
+ Tuổi thọ.
+ Hoạt động tình dục, và các bệnh thuộc về lĩnh vực này.
b) Những đặc điểm giới tính về mặt tâm lí, xã hội
Đó là những đặc điểm khác biệt của người nam so với người nữ về mặt
tâm lí xã hội như:
+ Nhu cầu, thái độ, hoạt động của người nam, người nữ trong đời sống
xã hội.
+ Hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí, tính cách, năng lực, tính khí, xu
hướng…
+ Vai trò, chức năng xã hội.
+ Các mối quan hệ xã hội và hoạt động xã hội.
+ Hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, cách ăn mặc, trang điểm…
+ Các vấn đề thẩm mỹ giới tính và đạo đức giới tính.
Như vậy giữa nam và nữ có nhiều đặc điểm rất khác biệt. Sự khác biệt
đó thể hiện trong toàn bộ đời sống tâm lí, sinh lí, hoạt động cuộc sống của
con người. Sự khác biệt này dần dần được xã hội thừa nhận, và cũng dần
dần trở thành những điểm đặc trưng cho mỗi giới, tạo nên sự khác biệt giữa
hai giới. Đó là những đặc điểm giới tính của con người. Xã hội căn cứ vào
những đặc điểm này để sử dụng, đánh giá con người theo giới của họ. Một
người không có những đặc điểm phù hợp với những đặc điểm mà xã hội quy
định giới của họ phải có họ có thể sẽ bị coi là không bình thường, hoặc bị
đánh giá thấp hơn về mặt phẩm chất nhân cách. Nói một cách khác, nếu con
người không có những đặc điểm giới tính phù hợp với giới của họ, sẽ bị coi là
người không bình thường”.
c) Những vấn đề giới tính nảy sinh do mối quan hệ giữa hai giới