SlideShare a Scribd company logo
1 of 98
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH HẢI
QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2016
ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH HẢI
QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
Hà Nội - 2016
[
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thanh Hải
iv
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự năm 2005 : BLDS
Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 : BLTTDS
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : CHXHCN
Hội đồng xét xử : HĐXX
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao : HĐTPTANDTC
Tòa án nhân dân : TAND
Tòa án nhân dân Tối cao : TANDTC
Tố tụng dân sự : TTDS
Luật Hôn nhân và Gia đình : Luật HN và GĐ
Vụ án dân sự : VADS
Viện kiểm sát : VKS
v
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1.......................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT.. 8
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ..................... 8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự .......................................................................................... 8
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp
luật tố tụng dân sự.........................................................................................14
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..............................................................................29
Chƣơng 2........................................................................................................30
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN30
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ....................................................................................................................30
2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự
.........................................................................................................................31
2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập....................39
2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải và tự
thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự .............................................................47
2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu kháng cáo.....................................................................54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..............................................................................63
Chƣơng 3........................................................................................................64
vi
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT ...........................64
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........64
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay....................................................64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và triển khai thực hiện
có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở nƣớc ta hiện nay........................................................73
KẾT LUẬN....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................89
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự được xem là một
quyền tố tụng đặc biệt quan trọng, chi phối quá trình tố tụng dân sự và tạo nên
đặc trưng cơ bản của tố tụng dân sự so với các loại hình tố tụng khác như tố
tụng hình sự, tố tụng hành chính. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống
dân sự không phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải là tội
phạm được pháp luật hình sự điều chỉnh, vì vậy pháp luật quy định và bảo
đảm cho đương sự có quyền định đoạt trong việc giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp đó. Quyền tự định đoạt của đương sự chính là quyền tự do ý chí
của đương sự, trong đó đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải
quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự là bảo đảm cho đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ trước Tòa án theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những hoạt
động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng
quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Đặc
biệt, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội như hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội ngày càng được quan tâm,
điều chỉnh bởi pháp luật.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã
hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
2
2004 (BLTTDS) được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 29/3/2011 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố
tụng dân sự là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp
thời, công bằng, đúng pháp luật.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong đó quy định Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều
nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa
đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa
một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định
của Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng
nói chung và Bộluâ ̣t tố tụng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, bên cạnh sự phát triển ngày càng sâu rộng
về mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 25/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa
đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự
(sửa đổi) năm 2015 được ban hành đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp
năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật tổ chức
3
Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành
án dân sự và các luật khác có liên quan; góp phần khắc phục các tồn tại, bất cập
sau thực tiễn mười (10) năm thi hành Bô ̣luâ ̣t tố tụng dân sự năm2004; bảo đảm
việc giải quyết các vụ việc dân sự một cách dân chủ, bình đẳng, công khai, công
bằng, minh bạch; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa
án; từ đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện
nay, thông qua việc nước ta trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn
và tham gia vào các điều ước quốc tế khi chúng ta là thành viên.
Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và những quy định của
pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án ở Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và ổn định
trật tự xã hội. Gắn lý luận với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực tế, qua
đó rút ra được những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và
đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như tổ
chức thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề
tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp
lý đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Có thể
kể đến một số công trình khoa học như: Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Tiến Trung, năm 1997 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Cung, năm 1997 với đề tài
“Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của
4
Nguyễn Văn Tuyết, năm 2011 với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS” của Đỗ Văn Đại năm 1997; Khóa luận
tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Ngần, năm 2012 với đề tài “Quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Bên cạnh đó, còn có một số sách chuyên khảo như: “Pháp luật TTDS
và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Phương Hạnh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm
2012.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 5/2005; “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại
phiên tòa sơ thẩm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2007; “Sự
thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của tác giả Bùi
Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 4/2009; “Một số vướng mắc trong
quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số 02,
tháng 01/2010; “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng
6/2010; “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ
luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà,
Tạp chí TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/2011…
5
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã có đề cập đến quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS nói chung, một số công trình đã chỉ ra
được những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự được
quy định trong pháp luật TTDS hiện hành hoặc đi sâu tìm hiểu về một nội
dung nào đó của quyền tự định đoạt; một số công trình lại đề cập đến nội
dung quyền tự định đoạt của đương sự như là một phần của công trình nghiên
cứu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình… Tuy nhiên, các
nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ quyền tự định của đương sự dưới góc độ
là một nguyên tắc của TTDS, hoặc tìm hiểu quyền tự định đoạt của đương sự
thông qua một số quyền tố tụng cụ thể và phần lớn còn nghiên cứu trong giai
đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chưa được sửa đổi, bổ sung…
Với mong muốn tiếp cận, đi sâu tìm hiểu một cách tổng quát quyền tự
định đoạt của đương sự dưới dạng các quyền cụ thể trong phạm vi giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ
sung năm 2011 và tiếp cận một số sửa đổi cơ bản về vấn đề này của BLTTDS
năm 2015, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài của tác giả không trùng lặp với
các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; các quy định
của Bộ luật TTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự; thực tiễn thực hiện các
quy định này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề
lớn với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này, việc
nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
6
cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu
về quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục việc dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,
để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích
hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê…
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung
các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các
quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn đã hoàn thành một số nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS;
- Nghiên cứu các quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam có liên quan
tới quyền tự định đoạt của đương sự, tìm hiểu thực tiễn xét xử đảm bảo thực
hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Từ đó chỉ ra
những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS;
- Đề xuất một giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
7
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và
chuyên sâu về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành nên có những điểm mới khoa học sau:
- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự;
- Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và
những điểm mới trong Bộ luật TTDS sửa đổi năm 2015;
- Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại các Tòa án
trong giai đoạn hiện nay.
- Chỉ ra được những điểm còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị về
việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự và kiến nghị.
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong
giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích
của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ
xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng
các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng
các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu
người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu Tòa
án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Căn cứ Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, khi có
chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp
có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động do Tòa
án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối
9
với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được
gọi là việc dân sự (Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên
tham gia quan hệ dân sự, đó là sự không thống nhất về việc thực hiện hay
không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các
quan hệ dân sự trong đời sống (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện
một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động.
Đương sự trong tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ
việc dân sự cần giải quyết. Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, cơ
quan hay tổ chức, bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến giải quyết vụ án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) nói
chung và trong giải quyết vụ án dân sự nói riêng là một trong những quyền tố
tụng quan trọng của đương sự để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, quyền này cũng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Quyền tự định đoạt của đương sự
được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ dân sự được xác
lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết và thỏa thuận. Trên cơ sở
đó, các bên hoàn toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ dân sự và khi có tranh
chấp phát sinh từ các quan hệ này thì các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết
định phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả khi
quyết định phương thức yêu cầu Tòa án bảo vệ thì trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án, các chủ thể này hay còn được gọi là đương sự vẫn có
quyền tự định đoạt để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình.
10
Ở góc độ thuật ngữ thì “Quyền” là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ
chức để theo đó mà cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai
được ngăn cản, hạn chế. Mặt khác, “Quyền” còn được hiểu là quyền năng mà
pháp luật thực định quy định cho mỗi chủ thể pháp luật, cho phép các chủ thể
đó làm một việc gì đó, yêu cầu hoặc ngăn cản người khác làm một việc gì đó
vì lợi ích của chính mình hoặc vì lợi ích người khác. Như vậy, có thể nhận
thấy, dấu hiệu đặc trưng của quyền là được ghi nhận về mặt pháp lý và được
bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật, đồng thời phải có sự thừa
nhận về mặt xã hội, gắn liền với các chủ thể và được thể hiện cụ thể trong
thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội nhất định. Đối với cá nhân, các
quyền cơ bản phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn
nhất định, tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất
định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “định đoạt” được hiểu là “quyết định dứt
khoát, dựa vào quyền hành tuyệt đối của mình” [47]. Theo Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì quyền tự định đoạt
của đương sự là “Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đương
sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hòa
giải với đương sự phía bên kia” [48, tr.224]. Khi nói đến khái niệm “quyền”
thì nội hàm của nó đã bao hàm cả tính “tự định đoạt” của chủ thể có quyền,
nhưng không phải trong mọi trường hợp thuộc tính “tự định đoạt” cũng được
phản ánh đầy đủ trong phạm vi quyền. Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thì quyền “tự định đoạt”
của chủ thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc.
11
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương
sự. Trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của các chủ thể được coi là yếu
tố quan trọng hàng đầu, được biểu hiện ở việc các bên tự quyết định về quyền
lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền
của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các
quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Trong
suốt quá trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác
thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền
quyết định cuối cùng vẫn thuộc về chính bản thân các đương sự. Khi có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, việc khởi kiện hay không khởi kiện là
do đương sự tự quyết định. Sau khi khởi kiện có thay đổi nội dung khởi kiện
hay không, có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc
vào ý chí của các đương sự. Điều đó có nghĩa, các đương sự hoàn toàn có
quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các
vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án chỉ thụ lý
để giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự là quyền tự quyết định về phương tiện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Các đương sự có quyền
lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của mình
thông qua những hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính bản
thân đương sự. Quyền này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải
quyết vụ án nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít
nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án -
cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
12
chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự và đảm
bảo cho các quyền này được thực thi trên thực tế.
Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tự do ý chí của đương sự
trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự không được thể hiện ý chí
định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ nhất định do
pháp luật quy định, sao cho không xâm phạm tới các quyền tố tụng và quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là
BLTTDS) quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo
đó:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và
chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau
một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải
được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể
khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của
đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách
nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự như sau:
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương
sự thể hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các
13
hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
trong những quyền cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính
xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều
kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
vệ và tôn trọng. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật
TTDS thì quyền tự định đoạt còn mang ý nghĩa riêng:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các
quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thể thương
lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay
không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật TTDS đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng
hành vi của mình quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo đúng bản chất của quan hệ dân sự.
Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “Toà án
chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
Như vậy, Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự
14
và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu, tức là phụ thuộc vào ý chí
của đương sự, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.
Thứ ba, việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương
sự trong giải quyết vụ án dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định
việc giải quyết tranh chấp. Thể hiện ở việc các chủ thể tham gia tố tụng có
quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không
yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với
nhau về việc giải quyết tranh chấp. Qua đó, góp phần làm giảm bớt áp lực giải
quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự.
Quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết
vụ việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Những tác dụng này có
ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội và giúp nhân dân chủ
động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự
trong Pháp luật tố tụng dân sự
Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự, trước hết cần nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp
luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự.
1.2.1. Cơ sở lý luận
Trước khi tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự cụ thể thì các
đương sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này, các chủ
thể có các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của
chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa
án bảo vệ. Như vậy, các quyền dân sự của chủ thể là cơ sở của quyền tố tụng
15
dân sự. Các quyền tố tụng của đương sự phải được thể hiện trong pháp luật
theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự có thể bảo vệ được
quyền dân sự của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có quan hệ mật
thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
theo nghĩa rộng, là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong
quan hệ dân sự, có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Quyền
tự định đoạt của đương sự trong dân sự khởi nguồn từ các nguyên tắc:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Điều 4 BLDS); nguyên tắc
tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9 BLDS); nguyên tắc hòa giải (Điều 12
BLDS). Trong TTDS, quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố
tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố
tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể
thấy rằng quyền tự định đoạt trong TTDS là các quyền được quy định trong
các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc
giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền
bảo vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Đương sự có
quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy
định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có
trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. Như
vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và tạo lập hành lang pháp lý giúp đương sự thực hiện tốt điều này.
Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi
quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này
hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ
của đương sự, pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
16
các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu cầu… Nếu không có
quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên tắc
bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy, quy định về quyền tự định đoạt
của đương sự tại Điều 5 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời
sống xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu Tòa án
muốn giải quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng
cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS là việc làm cần thiết. Chính vì lẽ đó pháp
luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để
họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm
phạm. Cụ thể, đương sự (cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực
hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ
việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ
vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi
kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh
chóng, đúng đắn, khách quan hơn.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến phát sinh ngày càng nhiều quan hệ
dân sự và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp
là một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại Tòa án là một trong các phương thức
giải quyết tranh chấp chủ yếu. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ pháp
luật dân sự là các bên có quyền tự định đoạt và căn cứ nhu cầu giải quyết kịp
thời, nhanh chóng các tranh chấp, pháp luật quy định đương sự có quyền tự
định đoạt trong tố tụng dân sự.
Về bản chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm
như vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chưa đến mức bị coi là tội phạm.
17
Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi
các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của
mình, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bằng cách yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự của mình. Việc khởi kiện hoặc yêu cầu nêu trên hoàn
toàn dựa vào sự tự do ý chí của đương sự. Tòa án chỉ được giải quyết khi có
yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì Tòa án cần
phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng kịp thời
để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, do hiểu biết pháp luật của người dân còn
hạn chế, không nhận biết được đầy đủ về quyền và lợi ích của mình khi có
tranh chấp phát sinh nên không có yêu cầu Tòa án bảo vệ, hoặc có biết nhưng
không đầy đủ dẫn đến việc yêu cầu không có cơ sở, không đầy đủ về mặt nội
dung… Mặt khác, từ phía Tòa án cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót
trong quá trình thụ lý, giải quyết yêu cầu của đương sự như kéo dài thời gian
tố tụng, đưa ra quyết định giải quyết yêu cầu không đúng, vượt quá phạm vi
yêu cầu của đương sự… Vì vậy, việc quy định đương sự có quyền khởi kiện,
thay đổi, bổ sung, thậm chí là rút yêu cầu, đồng thời ghi nhận trách nhiệm của
Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự là rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn khách quan, bảo đảm được
tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự
định đoạt của đương sự cần hiểu về quyền tự định đoạt đã được cụ thể hóa
trong nguyên tắc của pháp luật tố tụng dụng dân sự, đồng thời nguyên tắc này
xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
18
Để có cái nhìn một cách hệ thống, tổng quát về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là điều cần thiết. Có thể
chia thành các giai đoạn cụ thể như sau:
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, để kịp thời ổn định tình hình trật tự xã hội trong nước, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới trong đó có những văn bản
chứa đựng các quy phạm pháp luật TTDS như Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, cho phép áp dụng luật lệ
cũ để xét xử trong phạm vi cả nước, nếu những quy định trong luật lệ cũ
“không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ
Cộng hòa”. Tiếp đó, tại Điều 3, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về Tổ
chức Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định: “Ban tư pháp xã có quyền hòa
giải tất cả các việc dân sự và thương sự và nếu hòa giải thành sẽ lập biên bản
hòa giải, có các ủy viên và những người đương sự ký”. Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các
nhân viên trong Tòa án, Điều 9 của Sắc lệnh quy định: “Khi nhận được đơn
kiện về dân sự hay thương sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để
thử hòa giải. Biện pháp hòa giải có hiệu lực từ chứng thư”. Sắc lệnh số
16/SL ngày 10/10/1945 quy định về tổ chức đoàn thể luật sư có nêu: “Các
luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và
trước các Tòa án quân sự”. Đến năm 1950 nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định:
“Tòa án nhân dân huyện họp thành hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả
các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà
19
theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình” (Điều 9). Đồng thời Điều
10 Sắc lệnh số 85/SL cũng quy định:
Biên bản hòa giải là một công chứng chứng thư, có thể đem chấp
hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp
hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì
có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ
những điều mà hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày
tròn kể từ ngày phòng biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Như vậy, trong thời kỳ này, ngoài những Sắc lệnh nói trên, hầu như
không có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thể về các thủ tục tố tụng
dân sự, cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự. Pháp luật TTDS giai đoạn này tuy còn mang tính tản mạn, nhưng trước
bối cảnh lịch sử của đất nước lúc bấy giờ khi vừa giành được độc lập, lại phải
chống thù trong, giặc ngoài, việc quy định như vậy đã là một sự cố gắng lớn,
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các vấn đề quan trọng của xã hội,
trong đó có những quy định của pháp luật liên quan đến quyền của đương sự
trong giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Đồng thời, đặt nền
móng cho việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật TTDS, trong đó có
cả quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở các giai
đoạn sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã ban hành
một loạt những văn bản pháp luật mới nhằm chấm dứt việc áp dụng các văn
bản cũ từ trước năm 1945 đồng thời củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của
Tòa án nhân dân (tách Tòa án ra khỏi Bộ Tư pháp) cho phù hợp với tình hình
mới. Các văn bản đó là: Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960,
Luật Tổ chức VKSND năm 1960, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
20
TANDTC cùng với Bộ Tư pháp ban hành một loạt các văn bản pháp luật về
TTDS.
Xét về hình thức văn bản thì đây cũng là điểm khác biệt so với hệ thống
văn bản được ban hành ở giai đoạn trước đây. Ở giai đoạn trước, hoạt động tố
tụng giải quyết án dân sự của hệ thống Tòa án dựa trên các Sắc lệnh do Chủ
tịch nước ban hành là chủ yếu. Từ năm 1960, sau khi TANDTC được thành
lập, các văn bản tố tụng trở thành cơ sở hoạt động giải quyết vụ án bao gồm
các công văn, chỉ thị và đặc biệt là các Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1958
của Bộ Tư pháp về sửa đổi thẩm quyền của TAND về thủ tục về ly hôn trong
đó quy định “Tòa án nhân dân tỉnh tùy theo khả năng cán bộ có thể giao từng
vụ cho Tòa án nhân dân huyện xử sơ thẩm những vụ ly hôn không phức tạp.
Nếu có chống án thì Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm” (Mục A phần II);
Thông tư số 39/NCPL ngày 21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý,
xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân
sự quy định: “… Nguyên đơn có đủ tư cách để đi kiện phải là người có năng
lực hành vi và có quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho
một người có năng lực hành vi thay mặt cho mình trong việc kiện. Giấy ủy
quyền phải có chứng nhận của ủy ban hành chính xã, khu phố hoặc của cơ
quan nơi người đi kiện công tác…”; Thông tư số 614/DS ngày 24/4/1963 của
TANDTC hướng dẫn một số thủ tục cho Tòa án địa phương có hướng dẫn:
“Đương sự cũng có quyền thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án quyết định”;
Thông tư số 06-TATC ngày 25/2/1974 của TANDTC hướng dẫn việc điều tra
trong TTDS có hướng dẫn: “… các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người
dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng
cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp
của mình”…
21
Đặc biệt với sự ra đời của Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của
TANDTC hướng dẫn việc hòa giải trong TTDS đã đánh dấu sự phát triển
không ngừng của luật TTDS trong việc ghi nhận quyền tự định đoạt của
đương sự, trong đó quy định:
Việc hòa giải của TAND nhằm giúp đỡ các đương sự tự thỏa thuận
với nhau giải quyết việc kiện trên tinh thần đoàn kết và chấp hành
nghiên chỉnh pháp luật, chính sách, do đó, phải bảo đảm những yêu
cầu sau đây: Phải có sự tự nguyện của các đương sự, nội dung thỏa
thuận của các đương sự phải đúng pháp luật, chính sách…
Theo các văn bản trên, có thể nhận thấy, điều kiện để nguyên đơn có đủ
tư cách đi kiện phải là người có năng lực hành vi và có quyền lợi bị xâm
phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho người khác có năng lực hành vi thay
mặt mình trong việc kiện. Đương sự cũng có quyền thay đổi yêu cầu trước khi
Tòa án quyết định. Với những quy định trên, Pháp luật TTDS Việt Nam dần
dần được hoàn thiện trên cơ sở xác định rõ thẩm quyền xét xử về dân sự, thủ
tục điều tra, hòa giải cũng như đã có những quy định thể hiện quyền tự định
đoạt của đương sự trong TTDS khi giải quyết các vụ án dân sự.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, hệ thống pháp luật TTDS nói
chung, quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng từng bước được hoàn thiện.
Theo đó, ngày 8/2/1977 TANDTC ban hành Thông tư số 96/NCPL hướng
dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự, trong đó có nêu: “… các đương sự
có quyền tự định đoạt. Do đó, nói chung TAND chỉ thụ lý khi nguyên đơn khởi
tố, trừ trường hợp luật pháp có quy định quyền khởi tố của VKSND, của công
dân, hợp tác xã hoặc đoàn thể nhân dân để bảo vệ lợi ích chung…”. Ngày
24/7/1981, TANDTC ban hành Thông tư số 81/TATC hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp thừa kế, trong đó có quy định quyền tự định đoạt của người lập
di chúc, để trên cơ sở đó người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
22
cho họ được hưởng thừa kế đối với phần di sản mà người chết để lại theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng đã
bắt đầu được đề cập đến, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự tại các
quy định của Hiến pháp năm 1980 (Điều 73), Luật tổ chức TAND năm 1981
(Điều 9). Các văn bản này là cơ sở pháp lý để Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS cũng như
là cơ sở để TAND và VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Nhưng nhìn chung các văn bản pháp luật tố tụng giai đoạn này chủ yếu được
quy định tại các Thông tư do TANDTC ban hành nên hiệu lực pháp lý chưa
cao.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Đây là giai đoạn hệ thống pháp luật TTDS Việt Nam có sự phát triển
vượt bậc và lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật TTDS Việt Nam, Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 được ban hành, có hiệu
lực pháp luật từ ngày 01/01/1990. Đồng thời cũng trong năm 1989, Pháp lệnh
Thi hành án được ban hành. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa
những nội dung căn bản của thủ tục giải quyết vụ án dân sự dưới hình thức
Pháp lệnh, đánh dấu sự phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam sang một
giai đoạn mới.
PLTTGQCVADS đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền tự định
đoạt của đương sự. Theo Pháp lệnh, đương sự có quyền định đoạt trong việc
khởi kiện, cụ thể tại Điều 1 có quy định: “Công dân, pháp nhân, theo thủ tục
do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện VADS để yêu cầu TAND bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình”. Cũng theo Pháp lệnh, bên cạnh quyền khởi
kiện của đương sự, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt
trận Tổ quốc trong phạm vi chức năng của mình cũng có quyền khởi kiện
23
hoặc đề nghị VKS xem xét việc khởi tố vụ án đối với những vi phạm pháp
luật gây thiệt hại cho tài sản XHCN hoặc quyền lợi của người lao động trong
quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa
thành niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa
thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu
không có ai khởi kiện (Điều 8 và Điều 28 PLTTGQCVADS). Song có thể
thấy, việc khởi kiện vì lợi ích chung của các tổ chức xã hội và khởi tố của
VKS ở góc độ nào đó phần nào cũng đã ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt
của các đương sự.
Điều 2 của PLTTGQCVADS còn quy định: “Người khởi kiện vụ án
dân sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự
có quyền tự hòa giải với nhau”. Cũng theo quy định của Pháp lệnh, trong quá
trình tham gia tố tụng, các đương sự còn có quyền hòa giải với nhau – Điều 5
PLTTGQCVADS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến
hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án,
trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không
được hòa giải”. Trường hợp đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật, đương sự cũng có quyền kháng cáo “Đương sự, người
đại diện của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền
kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án
của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án trên một cấp phúc thẩm…” (Điều
58 PLTTGQCVADS).
Sau khi có PLTTGQCVADS, TANDTC đã ban hành Nghị quyết số
03/HĐTP ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp
lệnh này trong đó có nêu:
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải
quyết trong vụ án, thì Thẩm phán lập Biên bản hòa giải thành,
24
trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những điều mà
các đương sự đã thỏa thuận. Bản sao biên bản này được gửi ngay
cho VKS cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung.
Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành
mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc VKS, tổ chức xã hội đã khởi
kiện vì lợi ích chung phản đối sự thỏa thuận đó thì Tòa án đưa ra
xét xử, nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản
đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự… (Mục II điểm 2)
Ngoài ra, còn có một số các văn bản pháp luật khác như Công văn số
309/NCPL, Công văn số 310/NCPL ngày 22/12/1990 giải thích một số vấn đề
về TTDS… Hiến pháp năm 1992 (Điều 50 và 74), Luật Tổ chức TAND năm
2002 (Điều 9) cũng có những quy định nhằm tạo điều kiện cho công dân thực
hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền tự định đoạt của
đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án.
Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn này quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự cơ bản được đảm bảo.
PLTTGQCVADS quy định tương đối rõ ràng cụ thể các quyền tự định đoạt
của các đương sự trong toàn bộ quá trình tham gia tố tụng như quyền khởi
kiện, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu, quyền tham gia hòa giải, tự hòa giải,
quyền kháng cáo…
Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của đương sự khi tham gia tố tụng trong
giai đoạn này mới chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định nào đó, sự
tham gia và can thiệp của cơ quan có thẩm quyền vẫn còn nhiều. Hơn nữa,
các quy định về tố tụng thiếu tập trung, nhiều chỗ còn chồng chéo… Đó là
ngoài PLTTGQCVADS còn có các Pháp lệnh khác như Pháp lệnh thủ tục giải
25
quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động ngày 11/4/1996. Điều đó đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa quyền
tự định đoạt của đương sự và các quy định về TTDS cần phải được pháp điển
hóa ở các văn bản pháp lý có tính hiệu lực cao hơn.
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Sự ra đời của BLTTDS 2004 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
lịch sử của Pháp luật TTDS Việt Nam trong giai đoạn này. Đây là văn bản
pháp lý có hiệu lực cao nhất kể từ trước đến nay điều chỉnh các quan hệ về
TTDS. Trước khi BLTTDS 2004 được ban hành, việc giải quyết những loại
việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTDS được quy định tại các
PLTTGQCVADS, PLTTGQCVA kinh tế và PLTTGQ các tranh chấp lao
động. Tuy nhiên, các Pháp lệnh này mới chỉ quy định các thủ tục mang tính
nguyên tắc, còn thiếu những quy định mang tính cụ thể phát sinh trong việc
giải quyết vụ việc. Mặt khác, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong
thời kì hội nhập nên nhiều quy định của các Pháp lệnh này không còn phù
hợp và thiếu đồng bộ so với các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Lao
động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002; Bộ luật Dân sự năm 1995 dẫn
đến khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vào đời sống
thực tiễn và hiệu quả, chất lượng xét xử của Tòa án không cao – đây chính là
các cơ sở xã hội và cơ sở pháp lý cho sự ra đời của BLTTDS 2004. BLTTDS
2004 được ban hành đã đánh dấu bước phát triển của hệ thống Pháp luật
TTDS Việt Nam ở một tầm cao mới, khắc phục được tình trạng tản mạn, mẫu
thuẫn, khiếm khuyết của các quy định TTDS trước đây, tạo điều kiện thuận
lợi và cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc
dân sự, bảo đảm cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án nhằm thực hiện đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp. BLTTDS 2004 được ban
26
hành đã làm thay đổi quy trình tố tụng tại Tòa án theo hướng công khai, minh
bạch, các đương sự có vai trò chủ động, quyết định trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đã góp phần vào việc thực hiện
một cách cụ thể và đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự. Quyền tự định
đoạt của đương sự được bảo đảm và mở rộng hơn trước và được ghi nhận cụ
thể thành một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS (Điều 5 BLTTDS
2004). Điều đó chứng tỏ, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự ngày càng được chú trọng, các đương sự ngày càng có điều kiện
thực hiện tốt nhất các quyền và nghĩa vụ tố tụng, kịp thời bảo vệ các quyền và
lợi ích của mình khi bị xâm phạm.
Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã quy định tương đối
đầy đủ các thủ tục, trình tự giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng sau một thời
gian triển khai áp dụng trên thực tiễn đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục
để đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và bảo đảm hơn nữa quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân. Vì vậy, ngày 29/3/2011, kì họp thứ 9 Quốc hội khóa
XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS để khắc
phục những hạn chế đó.
Sau mười năm thi hành, có thể nói Bô ̣luâ ̣t tố tụng dân sự năm 2004,
sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho đến
nay, nhiều quy định của Bộluâ ̣t tố tụng dân sự vẫn còn phù hợp và đang phát
huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên qua tổng kết thực tiễn cho thấy cũng có
nhiều quy định của Bộluâ ̣t tố tụng dân sự đã b ộc lộ những hạn chế, bất cập;
không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các tranh
chấp nảy sinh trong đời sống dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự
trong tố tụng dân sự cần tiếp tục được bổ sung, sửa đổi, trong đó có các quy
27
định về đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án dân sự nhằm
phát huy tính công khai, dân chủ, công bằng, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa, tăng cường quyền và trách nhiệm của Thẩm phán để họ chủ
động trong thực thi nhiệm vụ, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử;
đổi mới trình tự, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ việc dân
sự nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án; bảo đảm
các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân; góp phần vào sự
phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều
nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa
đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa
một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định
của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các
luật tố tụng nói chung và Bộluâ ̣t tố tụng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý
cho việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tại phiên họp ngày 25/11/2015, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII,
Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm
28
2015 có nhiều quy định mới nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền của công dân
theo Hiến pháp năm 2013, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự trong
giải quyết vụ án dân sự.
Nghiên cứu sự phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS qua các giai đoạn cho thấy các quy định liên quan đến
quyền tự định đoạt của đương sự được quy định khá sớm trong Pháp luật
TTDS Việt Nam và ngày càng được quy định cụ thể, mở rộng và hoàn thiện
hơn. Qua đó chúng ta cũng thấy được sự phát triển và hoàn thiện không
ngừng của Pháp luật TTDS Việt Nam nói chung, thể hiện sự quan tâm, và tầm
quan trọng của pháp luật TTDS cũng như quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự nhằm hướng tới một mục tiêu chung là góp
phần bảo đảm cho các đương sự bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước Tòa án.
29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là hình thức tồn tại của các
quyền được quy định trong pháp luật nội dung, là phương thức bảo đảm cho
các quyền dân sự trong luật nội dung được thực hiện. Không có các hành vi
giao kết dân sự được xác lập thì các quyền tố tụng sẽ không có môi trường
pháp lý phát sinh trên thực tế. Trong quan hệ tố tụng, quyền tự định đoạt của
đương sự là một nguyên tắc pháp lý được biểu hiện như một quyền tố tụng
đặc thù, phản ánh tính chất của một lĩnh vực quan hệ cơ bản trong đời sống xã
hội, đó là quan hệ dân sự mà trong đó tính tự do ý chí, tự do cam kết, thỏa
thuận, định đoạt là đặc trưng cơ bản của loại quan hệ này. Như vậy, có thể
nói, quyền tự định đoạt là quyền tố tụng cơ bản và phổ biến của đương sự,
được đương sự thực hiện trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, từ
khi khởi kiện đến khi kết thúc vụ án dân sự.
Đời sống xã hội luôn vận động và phát triển, các mối quan hệ xã hội
cũng theo đó mà diễn biến ngày một đa dạng, phức tạp hơn, đồng thời nảy
sinh thêm nhiều loại quan hệ mới. Việc ghi nhận rộng rãi quyền tự định đoạt
của đương sự trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng
là một trong những biện pháp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm. Pháp luật
TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự qua các thời kỳ đã thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến quyền lợi của nhân dân, sự
công bằng, bình đẳng trong xã hội; kịp thời bổ sung, hoàn thiện chế định về
quyền tự định đoạt của đương sự trước xu hướng phát triển của xã hội, nhằm
đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc
tế sâu rộng.
30
Chƣơng 2
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong những
quyền năng cơ bản, quan trọng của quyền con người, là cơ sở bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Quyền tự định đoạt có nguồn gốc từ quyền tự
do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của chủ thể trong các quan hệ dân sự.
Trong quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể có toàn quyền quyết định
trong việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ, nội dung của quan hệ,
cũng như các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua việc
giao kết hợp đồng dân sự. Khi có tranh chấp phát sinh, họ có quyền quyết
định tham gia hay không tham gia tố tụng yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi
cho mình, hay tự mình thỏa thuận với bên kia để giải quyết vụ việc. Họ cũng
có quyền quyết định các quyền và lợi ích của mình như yêu cầu phía bên kia
giải quyết quyền lợi gì, phạm vi giải quyết đến đâu. Quyền này được thể hiện
trong việc khởi kiện vụ án dân sự; trong việc thay đổi bổ sung và rút yêu cầu;
trong việc hòa giải và tự hòa giải; trong việc kháng cáo, thay đổi bổ sung và
rút yêu cầu kháng cáo.
Mặc dù có nguồn gốc từ tính chất của các quan hệ pháp luật nội dung
nhưng quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS (pháp luật hình thức)
cũng có sự khác biệt. Quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thể hiện sự tự
do ý chí, cam kết thỏa thuận giữa các chủ thể còn sự tự định đoạt của đương
sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự được thực hiện thông qua Tòa án.
Chính vì vậy, Pháp luật TTDS một mặt ghi nhận quyền tự định đoạt của các
đương sự nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động của họ trong việc giải
31
quyết tranh chấp, nhưng mặt khác cũng đặt ra trách nhiệm của Tòa án trong
việc bảo đảm cho các đương sự thực sự thực hiện được quyền tự định đoạt
của mình.
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án
dân sự
2.1.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc khởi kiện
Việc khởi kiện là yếu tố đầu tiên thể hiện rõ nhất quyền tự định đoạt
của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự và cũng là cơ sở để thực hiện các
quyền tự định đoạt khác của đương sự trong quá trình tiến hành tố tụng.
Trong các biện pháp bảo vệ các quyền dân sự của các chủ thể thì khởi
kiện vụ án dân sự là một trong các biện pháp bảo vệ hữu hiệu, có tính khả thi
cao. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền
con người, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế. Tại Điều 8 Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948 có nêu “Mọi người đều có quyền được bảo vệ
bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực
chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và
pháp luật công nhận”. Đây cũng là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền
này trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói
riêng.
Điều 161 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 (BLTTDS), quy định:
“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án
có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Như
vậy, đương sự là nguyên đơn có toàn quyền trong việc có quyết định khởi
kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến mức độ nào. Nguyên đơn cũng có
32
quyền khởi kiện một hoặc nhiều bị đơn ra Tòa án, về một quan hệ pháp luật
hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau để giải quyết trong một vụ
án. Nhìn chung chỉ có nguyên đơn mới có quyền khởi kiện và Tòa án chỉ thụ
lý giải quyết khi có đơn khởi kiện và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện của đương sự.
Trong trường hợp đương sự có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì
đương sự có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của mình
hoặc ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc khởi kiện nếu xét thấy cần
thiết. Trường hợp không đủ năng lực hành vi TTDS thì người đại diện theo
pháp luật của đương sự sẽ thay họ khởi kiện. Đối với các chủ thể là pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì việc khởi kiện sẽ do người đại diện theo pháp
luật của họ thực hiện.
Theo Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) Hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS, thì thông thường, đương sự hoặc người đại
diện hợp pháp của đương sự sẽ trực tiếp làm đơn khởi kiện. Tuy nhiên, để tạo
điều kiện thuận lợi cho đương sự trong những trường hợp như đương sự
không biết chữ, có khuyết tật, mức độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế…
pháp luật đã cho phép việc đương sự “nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện
vụ án”, qua đó có thể phản ánh được một cách đầy đủ những nội dung mà
đương sự muốn đề nghị Tòa án giải quyết, mặt khác cũng giúp Tòa án xác
định được rõ ràng phạm vi và vấn đề mà đương sự khởi kiện, làm căn cứ cho
việc thực hiện các bước tiếp theo của quá trình tố tụng cũng như giải quyết
chính đáng các nội dung mà đương sự đề nghị. Trong trường hợp nhờ người
khác làm hộ đơn khởi kiện cho mình thì tại mục tên, địa chỉ của người khởi
33
kiện trong đơn vẫn phải ghi họ tên, địa chỉ của đương sự hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự, đồng thời phần cuối đơn phải có chữ kí hoặc điểm
chỉ của những người này. Như vậy, có thể thấy, dù đương sự hay người đại
diện hợp pháp của đương sự trực tiếp hay nhờ người khác làm hộ đơn khởi
kiện thì ý chí của họ cũng vẫn phải được thể hiện trong đơn, qua đó nhấn
mạnh quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự.
Bên cạnh quyền khởi kiện của đương sự, một số cơ quan, tổ chức khác
trong xã hội cũng có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Theo đó, Điều 162
BLTTDS quy định:
1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ
án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật Hôn nhân và
gia đình quy định.
2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện
vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
BLTTDS sửa đổi năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015
và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, đã quy định theo hướng mở rộng
đối tượng dù không phải là đương sự nhưng vẫn có quyền khởi kiện ra Tòa án
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi
ích của Nhà nước, theo đó:
1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà
nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm
34
vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và
gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
2. Tổ chức đại diện tập thể người lao động cơ sở, tổ chức đại
diện tập thể người lao động cấp trên trực tiếp nơi chưa thành lập tổ
chức đại diện tập thể người lao động cơ sở có quyền khởi kiện vụ án
lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể người lao động, có quyền khởi kiện vụ án lao động khi
được người lao động ủy quyền theo quy định của Luật Công đoàn.
3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo
quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách
hoặc theo quy định của pháp luật.
5. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của
Luật hôn nhân và gia đình. [7, Điều 187]
Quy định này xuất phát từ tính đặc thù của một số đối tượng trong xã
hội như: phụ nữ, trẻ em, người lao động… là những đối tượng dễ bị xâm hại
về quyền lợi nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà họ đã không biết hoặc không
dám khởi kiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Vì vậy, cần phải có các
cơ quan, tổ chức đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Bên cạnh đó, đối với các
lợi ích chung, lợi ích công cộng mang tính chất xã hội cũng cần phải có một
cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cộng
đồng, nhà nước. Các cơ quan, tổ chức này khi khởi kiện để bảo vệ quyền và
35
lợi ích của người khác hoặc vì lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước mà không
phải vì lợi ích của mình vẫn được coi là không vi phạm quyền tự định đoạt
của đương sự. Qua đây cũng có thể nhận thấy sự phát triển của pháp luật
TTDS nhắm hướng tới bảo vệ ngày càng tốt hơn và đầy đủ hơn các đối tượng
cần được bảo vệ trong xã hội, tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện các quy định
của pháp luật có liên quan.
Điều 163 BLTTDS quy định về phạm vi khởi kiện, theo đó cá nhân, cơ
quan, tổ chức cùng một khoảng thời gian nhất định có thể tham gia một hoặc
nhiều quan hệ dân sự khác nhau, khi các tranh chấp đồng thời phát sinh từ các
quan hệ dân sự đó thì đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết:
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều
quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng
một vụ án;
2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá
nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong
cùng một vụ án.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy
định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật
có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
Bản chất quy định này nhằm mở rộng quyền khởi kiện cho đương sự.
Do đó đương sự có thể khởi kiện một hoặc nhiều vấn đề về một hoặc nhiều
quan hệ pháp luật nhưng phải có liên quan đến nhau để giải quyết trong cùng
một vụ án dân sự. Để thực hiện được điều này, đương sự phải đảm bảo được
các điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật. Cụ thể, tại Điều 4 Nghị quyết số
36
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC Hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, hướng dẫn như sau:
Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để
giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết
đồng thời quan hệ pháp luật khác;
b) Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về
cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại
một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS.
Như vậy, các yêu cầu liên quan đến nhau là những yêu cầu phát sinh từ
một quan hệ pháp luật hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau và
được giải quyết trong cùng một vụ án dân sự. Trong trường hợp đương sự
khởi kiện về những yêu cầu không liên quan đến nhau thì Tòa án phải thụ lý
giải quyết các yêu cầu của họ trong những vụ án riêng.
2.1.2. Quyền tự định đoạt của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu phản tố
Trước những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu
phản tố (Khoản 4 Điều 60 BLTTDS).
Có thể hiểu, yêu cầu phản tố là việc bị đơn kiện ngược lại nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập về một quan hệ
pháp luật khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã yêu cầu Tòa án giải quyết (đối tượng
khác nhau), nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi
kiện. Nói cách khác, chỉ được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn nếu yêu cầu
37
đó đảm bảo tiêu chí độc lập và không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn mới, không liên quan đến yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành vụ án riêng.
Yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ được chấp nhận khi thỏa mãn một trong các
trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 176 BLTTDS:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu
được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh hơn.
2.1.3. Quyền tự định đoạt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan trong việc đưa ra yêu cầu độc lập
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người
tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu
của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự không khởi kiện như nguyên đơn, không bị kiện
như bị đơn mà là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa nguyên
đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Việc tham gia tố
tụng của họ trong vụ án dân sự là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án dân sự. Điểm b Khoản 1 Điều 61 BLTTDS quy định người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền: “Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố
38
tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn” và khi “người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên
đơn…”. Về nguyên tắc, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện
một vụ án dân sự độc lập nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên
đơn, bị đơn nên việc tham gia luôn vào vụ kiện giữa nguyên đơn và bị đơn sẽ
có nhiều thuận lợi hơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giúp
rút ngắn được các thủ tục tố tụng khi tiến hành khởi kiện một vụ án mới và có
thể bảo vệ lợi ích của mình một cách kịp thời và hiệu quả nhất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tham gia tố tụng một
cách độc lập hoặc với vai trò phụ thuộc (đứng về phía nguyên đơn hoặc bị
đơn). Khi tham gia tố tụng với tư cách phụ thuộc thì lợi ích hợp pháp của họ
luôn gắn liền với lợi ích pháp lý của nguyên đơn hoặc bị đơn, vì vậy họ không
thể đưa ra yêu cầu độc lập, do đó cũng không có quyền tự định đoạt trong
trường hợp này. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
không độc lập cũng không thể có quyền tự mình thỏa thuận với bên đương sự
kia, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
bên đương sự kia nếu không có sự đồng ý của nguyên đơn hoặc bị đơn mà họ
phụ thuộc.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng một cách độc lập với
nguyên đơn và bị đơn, hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa
những người khác để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối
tượng tranh chấp mà Tòa án đang xem xét, giải quyết. Việc quyết định có
tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không tùy
thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
39
quan tham gia tố tụng độc lập. Trong vụ án dân sự có sự tham gia tố tụng độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải có trách nhiệm
xem xét, giải quyết luôn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập. Bên cạnh đó, cũng giống như yêu cầu phản tố
của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chỉ
được đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử sơ thẩm.
Điều 177 BLTTDS quy định về quyền yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo đó trong trường hợp người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên
bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm
cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Trong vụ án dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan độc lập với lợi ích của nguyên đơn và bị đơn nên họ có thể
đưa ra yêu cầu độc lập chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Việc pháp luật cho
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền được tự định đoạt trong việc
đưa ra yêu cầu độc lập khi đáp ứng được điều kiện nhất định cũng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này, đồng thời để tránh việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến cùng một vụ việc bằng nhiều phiên tòa
khác nhau.
2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập
Trong xã hội, mọi thứ luôn vận động, biến đổi từng ngày, từng giờ và
các quan hệ xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan hệ dân sự được
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT

More Related Content

What's hot

Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...Khóa  luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
Khóa luận Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 

Similar to Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT

vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nônghieu anh
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT (20)

Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
 
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOTLuan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAYLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sựLuận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAMLUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 

Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HẢI QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2016
  • 2. ii ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HẢI QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng Hà Nội - 2016 [
  • 3. iii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thanh Hải
  • 4. iv DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT Bộ luật Dân sự năm 2005 : BLDS Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 : BLTTDS Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : CHXHCN Hội đồng xét xử : HĐXX Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao : HĐTPTANDTC Tòa án nhân dân : TAND Tòa án nhân dân Tối cao : TANDTC Tố tụng dân sự : TTDS Luật Hôn nhân và Gia đình : Luật HN và GĐ Vụ án dân sự : VADS Viện kiểm sát : VKS
  • 5. v MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1.......................................................................................................... 8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT.. 8 CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ..................... 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự .......................................................................................... 8 1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự.........................................................................................14 1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.17 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..............................................................................29 Chƣơng 2........................................................................................................30 PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN30 TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ....................................................................................................................30 2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự .........................................................................................................................31 2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập....................39 2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải và tự thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự .............................................................47 2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo.....................................................................54 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..............................................................................63 Chƣơng 3........................................................................................................64
  • 6. vi THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT ...........................64 CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........64 3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay....................................................64 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự ở nƣớc ta hiện nay........................................................73 KẾT LUẬN....................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................89
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự được xem là một quyền tố tụng đặc biệt quan trọng, chi phối quá trình tố tụng dân sự và tạo nên đặc trưng cơ bản của tố tụng dân sự so với các loại hình tố tụng khác như tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống dân sự không phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải là tội phạm được pháp luật hình sự điều chỉnh, vì vậy pháp luật quy định và bảo đảm cho đương sự có quyền định đoạt trong việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó. Quyền tự định đoạt của đương sự chính là quyền tự do ý chí của đương sự, trong đó đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là bảo đảm cho đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những hoạt động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội như hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội ngày càng được quan tâm, điều chỉnh bởi pháp luật. Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
  • 8. 2 2004 (BLTTDS) được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 29/3/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp thời, công bằng, đúng pháp luật. Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói chung và Bộluâ ̣t tố tụng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để đáp ứng các yêu cầu trên, bên cạnh sự phát triển ngày càng sâu rộng về mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 25/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm 2015 được ban hành đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật tổ chức
  • 9. 3 Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự và các luật khác có liên quan; góp phần khắc phục các tồn tại, bất cập sau thực tiễn mười (10) năm thi hành Bô ̣luâ ̣t tố tụng dân sự năm2004; bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự một cách dân chủ, bình đẳng, công khai, công bằng, minh bạch; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án; từ đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay, thông qua việc nước ta trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn và tham gia vào các điều ước quốc tế khi chúng ta là thành viên. Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và những quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án ở Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và ổn định trật tự xã hội. Gắn lý luận với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực tế, qua đó rút ra được những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình khoa học như: Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tiến Trung, năm 1997 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Cung, năm 1997 với đề tài “Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của
  • 10. 4 Nguyễn Văn Tuyết, năm 2011 với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS” của Đỗ Văn Đại năm 1997; Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Ngần, năm 2012 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Bên cạnh đó, còn có một số sách chuyên khảo như: “Pháp luật TTDS và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Hạnh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2005; “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2007; “Sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 4/2009; “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số 02, tháng 01/2010; “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng 6/2010; “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà, Tạp chí TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/2011…
  • 11. 5 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã có đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nói chung, một số công trình đã chỉ ra được những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự được quy định trong pháp luật TTDS hiện hành hoặc đi sâu tìm hiểu về một nội dung nào đó của quyền tự định đoạt; một số công trình lại đề cập đến nội dung quyền tự định đoạt của đương sự như là một phần của công trình nghiên cứu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình… Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ quyền tự định của đương sự dưới góc độ là một nguyên tắc của TTDS, hoặc tìm hiểu quyền tự định đoạt của đương sự thông qua một số quyền tố tụng cụ thể và phần lớn còn nghiên cứu trong giai đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chưa được sửa đổi, bổ sung… Với mong muốn tiếp cận, đi sâu tìm hiểu một cách tổng quát quyền tự định đoạt của đương sự dưới dạng các quyền cụ thể trong phạm vi giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 và tiếp cận một số sửa đổi cơ bản về vấn đề này của BLTTDS năm 2015, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài của tác giả không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; các quy định của Bộ luật TTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự; thực tiễn thực hiện các quy định này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề lớn với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này, việc nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án
  • 12. 6 cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu về quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục việc dân sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế. Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn đã hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS; - Nghiên cứu các quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam có liên quan tới quyền tự định đoạt của đương sự, tìm hiểu thực tiễn xét xử đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS; - Đề xuất một giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
  • 13. 7 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và chuyên sâu về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành nên có những điểm mới khoa học sau: - Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; - Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và những điểm mới trong Bộ luật TTDS sửa đổi năm 2015; - Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại các Tòa án trong giai đoạn hiện nay. - Chỉ ra được những điểm còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị về việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
  • 14. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp. Các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Căn cứ Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối
  • 15. 9 với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là việc dân sự (Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011). Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ dân sự, đó là sự không thống nhất về việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong đời sống (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Đương sự trong tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ việc dân sự cần giải quyết. Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức, bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến giải quyết vụ án. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) nói chung và trong giải quyết vụ án dân sự nói riêng là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền này cũng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Quyền tự định đoạt của đương sự được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ dân sự được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết và thỏa thuận. Trên cơ sở đó, các bên hoàn toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ dân sự và khi có tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này thì các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả khi quyết định phương thức yêu cầu Tòa án bảo vệ thì trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, các chủ thể này hay còn được gọi là đương sự vẫn có quyền tự định đoạt để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình.
  • 16. 10 Ở góc độ thuật ngữ thì “Quyền” là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó mà cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Mặt khác, “Quyền” còn được hiểu là quyền năng mà pháp luật thực định quy định cho mỗi chủ thể pháp luật, cho phép các chủ thể đó làm một việc gì đó, yêu cầu hoặc ngăn cản người khác làm một việc gì đó vì lợi ích của chính mình hoặc vì lợi ích người khác. Như vậy, có thể nhận thấy, dấu hiệu đặc trưng của quyền là được ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật, đồng thời phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với các chủ thể và được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội nhất định. Đối với cá nhân, các quyền cơ bản phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất định, tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt, “định đoạt” được hiểu là “quyết định dứt khoát, dựa vào quyền hành tuyệt đối của mình” [47]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì quyền tự định đoạt của đương sự là “Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hòa giải với đương sự phía bên kia” [48, tr.224]. Khi nói đến khái niệm “quyền” thì nội hàm của nó đã bao hàm cả tính “tự định đoạt” của chủ thể có quyền, nhưng không phải trong mọi trường hợp thuộc tính “tự định đoạt” cũng được phản ánh đầy đủ trong phạm vi quyền. Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thì quyền “tự định đoạt” của chủ thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc.
  • 17. 11 Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự. Trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của các chủ thể được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, được biểu hiện ở việc các bên tự quyết định về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Trong suốt quá trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về chính bản thân các đương sự. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự quyết định. Sau khi khởi kiện có thay đổi nội dung khởi kiện hay không, có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các đương sự. Điều đó có nghĩa, các đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án chỉ thụ lý để giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là quyền tự quyết định về phương tiện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Các đương sự có quyền lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của mình thông qua những hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính bản thân đương sự. Quyền này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án - cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
  • 18. 12 chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự và đảm bảo cho các quyền này được thực thi trên thực tế. Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tự do ý chí của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự không được thể hiện ý chí định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ nhất định do pháp luật quy định, sao cho không xâm phạm tới các quyền tố tụng và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội. Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo đó: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội. Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự như sau: Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự thể hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các
  • 19. 13 hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. 1.1.2. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ và tôn trọng. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS thì quyền tự định đoạt còn mang ý nghĩa riêng: Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thể thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật TTDS đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo đúng bản chất của quan hệ dân sự. Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Như vậy, Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự
  • 20. 14 và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu, tức là phụ thuộc vào ý chí của đương sự, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự. Thứ ba, việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định việc giải quyết tranh chấp. Thể hiện ở việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Qua đó, góp phần làm giảm bớt áp lực giải quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự. Quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết vụ việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Những tác dụng này có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội và giúp nhân dân chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. 1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự, trước hết cần nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự. 1.2.1. Cơ sở lý luận Trước khi tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự cụ thể thì các đương sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này, các chủ thể có các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ. Như vậy, các quyền dân sự của chủ thể là cơ sở của quyền tố tụng
  • 21. 15 dân sự. Các quyền tố tụng của đương sự phải được thể hiện trong pháp luật theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự có thể bảo vệ được quyền dân sự của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có quan hệ mật thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng, là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ dân sự, có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự trong dân sự khởi nguồn từ các nguyên tắc: Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Điều 4 BLDS); nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9 BLDS); nguyên tắc hòa giải (Điều 12 BLDS). Trong TTDS, quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể thấy rằng quyền tự định đoạt trong TTDS là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung. Mặt khác, quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. Như vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tạo lập hành lang pháp lý giúp đương sự thực hiện tốt điều này. Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự, pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
  • 22. 16 các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu cầu… Nếu không có quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự tại Điều 5 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 là rất cần thiết. Bên cạnh đó, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu Tòa án muốn giải quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là việc làm cần thiết. Chính vì lẽ đó pháp luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm phạm. Cụ thể, đương sự (cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, khách quan hơn. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến phát sinh ngày càng nhiều quan hệ dân sự và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp là một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại Tòa án là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự là các bên có quyền tự định đoạt và căn cứ nhu cầu giải quyết kịp thời, nhanh chóng các tranh chấp, pháp luật quy định đương sự có quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự. Về bản chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm như vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chưa đến mức bị coi là tội phạm.
  • 23. 17 Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bằng cách yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự của mình. Việc khởi kiện hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn dựa vào sự tự do ý chí của đương sự. Tòa án chỉ được giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì Tòa án cần phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, do hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, không nhận biết được đầy đủ về quyền và lợi ích của mình khi có tranh chấp phát sinh nên không có yêu cầu Tòa án bảo vệ, hoặc có biết nhưng không đầy đủ dẫn đến việc yêu cầu không có cơ sở, không đầy đủ về mặt nội dung… Mặt khác, từ phía Tòa án cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót trong quá trình thụ lý, giải quyết yêu cầu của đương sự như kéo dài thời gian tố tụng, đưa ra quyết định giải quyết yêu cầu không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự… Vì vậy, việc quy định đương sự có quyền khởi kiện, thay đổi, bổ sung, thậm chí là rút yêu cầu, đồng thời ghi nhận trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn khách quan, bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự định đoạt của đương sự cần hiểu về quyền tự định đoạt đã được cụ thể hóa trong nguyên tắc của pháp luật tố tụng dụng dân sự, đồng thời nguyên tắc này xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định. 1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
  • 24. 18 Để có cái nhìn một cách hệ thống, tổng quát về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là điều cần thiết. Có thể chia thành các giai đoạn cụ thể như sau: 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, để kịp thời ổn định tình hình trật tự xã hội trong nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới trong đó có những văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật TTDS như Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, cho phép áp dụng luật lệ cũ để xét xử trong phạm vi cả nước, nếu những quy định trong luật lệ cũ “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ Cộng hòa”. Tiếp đó, tại Điều 3, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định: “Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các việc dân sự và thương sự và nếu hòa giải thành sẽ lập biên bản hòa giải, có các ủy viên và những người đương sự ký”. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án, Điều 9 của Sắc lệnh quy định: “Khi nhận được đơn kiện về dân sự hay thương sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hòa giải. Biện pháp hòa giải có hiệu lực từ chứng thư”. Sắc lệnh số 16/SL ngày 10/10/1945 quy định về tổ chức đoàn thể luật sư có nêu: “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự”. Đến năm 1950 nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định: “Tòa án nhân dân huyện họp thành hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà
  • 25. 19 theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình” (Điều 9). Đồng thời Điều 10 Sắc lệnh số 85/SL cũng quy định: Biên bản hòa giải là một công chứng chứng thư, có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày phòng biện lý nhận được biên bản hòa giải thành. Như vậy, trong thời kỳ này, ngoài những Sắc lệnh nói trên, hầu như không có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thể về các thủ tục tố tụng dân sự, cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Pháp luật TTDS giai đoạn này tuy còn mang tính tản mạn, nhưng trước bối cảnh lịch sử của đất nước lúc bấy giờ khi vừa giành được độc lập, lại phải chống thù trong, giặc ngoài, việc quy định như vậy đã là một sự cố gắng lớn, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các vấn đề quan trọng của xã hội, trong đó có những quy định của pháp luật liên quan đến quyền của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Đồng thời, đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật TTDS, trong đó có cả quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở các giai đoạn sau này. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989 Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã ban hành một loạt những văn bản pháp luật mới nhằm chấm dứt việc áp dụng các văn bản cũ từ trước năm 1945 đồng thời củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của Tòa án nhân dân (tách Tòa án ra khỏi Bộ Tư pháp) cho phù hợp với tình hình mới. Các văn bản đó là: Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960, Luật Tổ chức VKSND năm 1960, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
  • 26. 20 TANDTC cùng với Bộ Tư pháp ban hành một loạt các văn bản pháp luật về TTDS. Xét về hình thức văn bản thì đây cũng là điểm khác biệt so với hệ thống văn bản được ban hành ở giai đoạn trước đây. Ở giai đoạn trước, hoạt động tố tụng giải quyết án dân sự của hệ thống Tòa án dựa trên các Sắc lệnh do Chủ tịch nước ban hành là chủ yếu. Từ năm 1960, sau khi TANDTC được thành lập, các văn bản tố tụng trở thành cơ sở hoạt động giải quyết vụ án bao gồm các công văn, chỉ thị và đặc biệt là các Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1958 của Bộ Tư pháp về sửa đổi thẩm quyền của TAND về thủ tục về ly hôn trong đó quy định “Tòa án nhân dân tỉnh tùy theo khả năng cán bộ có thể giao từng vụ cho Tòa án nhân dân huyện xử sơ thẩm những vụ ly hôn không phức tạp. Nếu có chống án thì Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm” (Mục A phần II); Thông tư số 39/NCPL ngày 21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự quy định: “… Nguyên đơn có đủ tư cách để đi kiện phải là người có năng lực hành vi và có quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho một người có năng lực hành vi thay mặt cho mình trong việc kiện. Giấy ủy quyền phải có chứng nhận của ủy ban hành chính xã, khu phố hoặc của cơ quan nơi người đi kiện công tác…”; Thông tư số 614/DS ngày 24/4/1963 của TANDTC hướng dẫn một số thủ tục cho Tòa án địa phương có hướng dẫn: “Đương sự cũng có quyền thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án quyết định”; Thông tư số 06-TATC ngày 25/2/1974 của TANDTC hướng dẫn việc điều tra trong TTDS có hướng dẫn: “… các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình”…
  • 27. 21 Đặc biệt với sự ra đời của Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC hướng dẫn việc hòa giải trong TTDS đã đánh dấu sự phát triển không ngừng của luật TTDS trong việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định: Việc hòa giải của TAND nhằm giúp đỡ các đương sự tự thỏa thuận với nhau giải quyết việc kiện trên tinh thần đoàn kết và chấp hành nghiên chỉnh pháp luật, chính sách, do đó, phải bảo đảm những yêu cầu sau đây: Phải có sự tự nguyện của các đương sự, nội dung thỏa thuận của các đương sự phải đúng pháp luật, chính sách… Theo các văn bản trên, có thể nhận thấy, điều kiện để nguyên đơn có đủ tư cách đi kiện phải là người có năng lực hành vi và có quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho người khác có năng lực hành vi thay mặt mình trong việc kiện. Đương sự cũng có quyền thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án quyết định. Với những quy định trên, Pháp luật TTDS Việt Nam dần dần được hoàn thiện trên cơ sở xác định rõ thẩm quyền xét xử về dân sự, thủ tục điều tra, hòa giải cũng như đã có những quy định thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS khi giải quyết các vụ án dân sự. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, hệ thống pháp luật TTDS nói chung, quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng từng bước được hoàn thiện. Theo đó, ngày 8/2/1977 TANDTC ban hành Thông tư số 96/NCPL hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự, trong đó có nêu: “… các đương sự có quyền tự định đoạt. Do đó, nói chung TAND chỉ thụ lý khi nguyên đơn khởi tố, trừ trường hợp luật pháp có quy định quyền khởi tố của VKSND, của công dân, hợp tác xã hoặc đoàn thể nhân dân để bảo vệ lợi ích chung…”. Ngày 24/7/1981, TANDTC ban hành Thông tư số 81/TATC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp thừa kế, trong đó có quy định quyền tự định đoạt của người lập di chúc, để trên cơ sở đó người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
  • 28. 22 cho họ được hưởng thừa kế đối với phần di sản mà người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng đã bắt đầu được đề cập đến, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự tại các quy định của Hiến pháp năm 1980 (Điều 73), Luật tổ chức TAND năm 1981 (Điều 9). Các văn bản này là cơ sở pháp lý để Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS cũng như là cơ sở để TAND và VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nhưng nhìn chung các văn bản pháp luật tố tụng giai đoạn này chủ yếu được quy định tại các Thông tư do TANDTC ban hành nên hiệu lực pháp lý chưa cao. 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 Đây là giai đoạn hệ thống pháp luật TTDS Việt Nam có sự phát triển vượt bậc và lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật TTDS Việt Nam, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 được ban hành, có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/1990. Đồng thời cũng trong năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án được ban hành. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa những nội dung căn bản của thủ tục giải quyết vụ án dân sự dưới hình thức Pháp lệnh, đánh dấu sự phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam sang một giai đoạn mới. PLTTGQCVADS đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự. Theo Pháp lệnh, đương sự có quyền định đoạt trong việc khởi kiện, cụ thể tại Điều 1 có quy định: “Công dân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện VADS để yêu cầu TAND bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình”. Cũng theo Pháp lệnh, bên cạnh quyền khởi kiện của đương sự, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc trong phạm vi chức năng của mình cũng có quyền khởi kiện
  • 29. 23 hoặc đề nghị VKS xem xét việc khởi tố vụ án đối với những vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản XHCN hoặc quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai khởi kiện (Điều 8 và Điều 28 PLTTGQCVADS). Song có thể thấy, việc khởi kiện vì lợi ích chung của các tổ chức xã hội và khởi tố của VKS ở góc độ nào đó phần nào cũng đã ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của các đương sự. Điều 2 của PLTTGQCVADS còn quy định: “Người khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự hòa giải với nhau”. Cũng theo quy định của Pháp lệnh, trong quá trình tham gia tố tụng, các đương sự còn có quyền hòa giải với nhau – Điều 5 PLTTGQCVADS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải”. Trường hợp đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, đương sự cũng có quyền kháng cáo “Đương sự, người đại diện của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án trên một cấp phúc thẩm…” (Điều 58 PLTTGQCVADS). Sau khi có PLTTGQCVADS, TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh này trong đó có nêu: Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán lập Biên bản hòa giải thành,
  • 30. 24 trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những điều mà các đương sự đã thỏa thuận. Bản sao biên bản này được gửi ngay cho VKS cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung. Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc VKS, tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung phản đối sự thỏa thuận đó thì Tòa án đưa ra xét xử, nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự… (Mục II điểm 2) Ngoài ra, còn có một số các văn bản pháp luật khác như Công văn số 309/NCPL, Công văn số 310/NCPL ngày 22/12/1990 giải thích một số vấn đề về TTDS… Hiến pháp năm 1992 (Điều 50 và 74), Luật Tổ chức TAND năm 2002 (Điều 9) cũng có những quy định nhằm tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn này quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự cơ bản được đảm bảo. PLTTGQCVADS quy định tương đối rõ ràng cụ thể các quyền tự định đoạt của các đương sự trong toàn bộ quá trình tham gia tố tụng như quyền khởi kiện, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu, quyền tham gia hòa giải, tự hòa giải, quyền kháng cáo… Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của đương sự khi tham gia tố tụng trong giai đoạn này mới chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định nào đó, sự tham gia và can thiệp của cơ quan có thẩm quyền vẫn còn nhiều. Hơn nữa, các quy định về tố tụng thiếu tập trung, nhiều chỗ còn chồng chéo… Đó là ngoài PLTTGQCVADS còn có các Pháp lệnh khác như Pháp lệnh thủ tục giải
  • 31. 25 quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996. Điều đó đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của đương sự và các quy định về TTDS cần phải được pháp điển hóa ở các văn bản pháp lý có tính hiệu lực cao hơn. 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay Sự ra đời của BLTTDS 2004 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của Pháp luật TTDS Việt Nam trong giai đoạn này. Đây là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất kể từ trước đến nay điều chỉnh các quan hệ về TTDS. Trước khi BLTTDS 2004 được ban hành, việc giải quyết những loại việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTDS được quy định tại các PLTTGQCVADS, PLTTGQCVA kinh tế và PLTTGQ các tranh chấp lao động. Tuy nhiên, các Pháp lệnh này mới chỉ quy định các thủ tục mang tính nguyên tắc, còn thiếu những quy định mang tính cụ thể phát sinh trong việc giải quyết vụ việc. Mặt khác, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong thời kì hội nhập nên nhiều quy định của các Pháp lệnh này không còn phù hợp và thiếu đồng bộ so với các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002; Bộ luật Dân sự năm 1995 dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vào đời sống thực tiễn và hiệu quả, chất lượng xét xử của Tòa án không cao – đây chính là các cơ sở xã hội và cơ sở pháp lý cho sự ra đời của BLTTDS 2004. BLTTDS 2004 được ban hành đã đánh dấu bước phát triển của hệ thống Pháp luật TTDS Việt Nam ở một tầm cao mới, khắc phục được tình trạng tản mạn, mẫu thuẫn, khiếm khuyết của các quy định TTDS trước đây, tạo điều kiện thuận lợi và cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo đảm cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án nhằm thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp. BLTTDS 2004 được ban
  • 32. 26 hành đã làm thay đổi quy trình tố tụng tại Tòa án theo hướng công khai, minh bạch, các đương sự có vai trò chủ động, quyết định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đã góp phần vào việc thực hiện một cách cụ thể và đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự. Quyền tự định đoạt của đương sự được bảo đảm và mở rộng hơn trước và được ghi nhận cụ thể thành một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS (Điều 5 BLTTDS 2004). Điều đó chứng tỏ, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ngày càng được chú trọng, các đương sự ngày càng có điều kiện thực hiện tốt nhất các quyền và nghĩa vụ tố tụng, kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã quy định tương đối đầy đủ các thủ tục, trình tự giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng sau một thời gian triển khai áp dụng trên thực tiễn đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục để đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và bảo đảm hơn nữa quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, ngày 29/3/2011, kì họp thứ 9 Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS để khắc phục những hạn chế đó. Sau mười năm thi hành, có thể nói Bô ̣luâ ̣t tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho đến nay, nhiều quy định của Bộluâ ̣t tố tụng dân sự vẫn còn phù hợp và đang phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên qua tổng kết thực tiễn cho thấy cũng có nhiều quy định của Bộluâ ̣t tố tụng dân sự đã b ộc lộ những hạn chế, bất cập; không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong đời sống dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng dân sự cần tiếp tục được bổ sung, sửa đổi, trong đó có các quy
  • 33. 27 định về đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án dân sự nhằm phát huy tính công khai, dân chủ, công bằng, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường quyền và trách nhiệm của Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử; đổi mới trình tự, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ việc dân sự nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án; bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân; góp phần vào sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói chung và Bộluâ ̣t tố tụng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tại phiên họp ngày 25/11/2015, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm
  • 34. 28 2015 có nhiều quy định mới nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền của công dân theo Hiến pháp năm 2013, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Nghiên cứu sự phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS qua các giai đoạn cho thấy các quy định liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự được quy định khá sớm trong Pháp luật TTDS Việt Nam và ngày càng được quy định cụ thể, mở rộng và hoàn thiện hơn. Qua đó chúng ta cũng thấy được sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của Pháp luật TTDS Việt Nam nói chung, thể hiện sự quan tâm, và tầm quan trọng của pháp luật TTDS cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự nhằm hướng tới một mục tiêu chung là góp phần bảo đảm cho các đương sự bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
  • 35. 29 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là hình thức tồn tại của các quyền được quy định trong pháp luật nội dung, là phương thức bảo đảm cho các quyền dân sự trong luật nội dung được thực hiện. Không có các hành vi giao kết dân sự được xác lập thì các quyền tố tụng sẽ không có môi trường pháp lý phát sinh trên thực tế. Trong quan hệ tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên tắc pháp lý được biểu hiện như một quyền tố tụng đặc thù, phản ánh tính chất của một lĩnh vực quan hệ cơ bản trong đời sống xã hội, đó là quan hệ dân sự mà trong đó tính tự do ý chí, tự do cam kết, thỏa thuận, định đoạt là đặc trưng cơ bản của loại quan hệ này. Như vậy, có thể nói, quyền tự định đoạt là quyền tố tụng cơ bản và phổ biến của đương sự, được đương sự thực hiện trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, từ khi khởi kiện đến khi kết thúc vụ án dân sự. Đời sống xã hội luôn vận động và phát triển, các mối quan hệ xã hội cũng theo đó mà diễn biến ngày một đa dạng, phức tạp hơn, đồng thời nảy sinh thêm nhiều loại quan hệ mới. Việc ghi nhận rộng rãi quyền tự định đoạt của đương sự trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng là một trong những biện pháp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm. Pháp luật TTDS Việt Nam về quyền tự định đoạt của đương sự qua các thời kỳ đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến quyền lợi của nhân dân, sự công bằng, bình đẳng trong xã hội; kịp thời bổ sung, hoàn thiện chế định về quyền tự định đoạt của đương sự trước xu hướng phát triển của xã hội, nhằm đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
  • 36. 30 Chƣơng 2 PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là một trong những quyền năng cơ bản, quan trọng của quyền con người, là cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quyền tự định đoạt có nguồn gốc từ quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của chủ thể trong các quan hệ dân sự. Trong quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể có toàn quyền quyết định trong việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ, nội dung của quan hệ, cũng như các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua việc giao kết hợp đồng dân sự. Khi có tranh chấp phát sinh, họ có quyền quyết định tham gia hay không tham gia tố tụng yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình, hay tự mình thỏa thuận với bên kia để giải quyết vụ việc. Họ cũng có quyền quyết định các quyền và lợi ích của mình như yêu cầu phía bên kia giải quyết quyền lợi gì, phạm vi giải quyết đến đâu. Quyền này được thể hiện trong việc khởi kiện vụ án dân sự; trong việc thay đổi bổ sung và rút yêu cầu; trong việc hòa giải và tự hòa giải; trong việc kháng cáo, thay đổi bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo. Mặc dù có nguồn gốc từ tính chất của các quan hệ pháp luật nội dung nhưng quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS (pháp luật hình thức) cũng có sự khác biệt. Quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thể hiện sự tự do ý chí, cam kết thỏa thuận giữa các chủ thể còn sự tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự được thực hiện thông qua Tòa án. Chính vì vậy, Pháp luật TTDS một mặt ghi nhận quyền tự định đoạt của các đương sự nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động của họ trong việc giải
  • 37. 31 quyết tranh chấp, nhưng mặt khác cũng đặt ra trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho các đương sự thực sự thực hiện được quyền tự định đoạt của mình. Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: 2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự 2.1.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc khởi kiện Việc khởi kiện là yếu tố đầu tiên thể hiện rõ nhất quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự và cũng là cơ sở để thực hiện các quyền tự định đoạt khác của đương sự trong quá trình tiến hành tố tụng. Trong các biện pháp bảo vệ các quyền dân sự của các chủ thể thì khởi kiện vụ án dân sự là một trong các biện pháp bảo vệ hữu hiệu, có tính khả thi cao. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con người, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế. Tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 có nêu “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Đây cũng là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Điều 161 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 (BLTTDS), quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Như vậy, đương sự là nguyên đơn có toàn quyền trong việc có quyết định khởi kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến mức độ nào. Nguyên đơn cũng có
  • 38. 32 quyền khởi kiện một hoặc nhiều bị đơn ra Tòa án, về một quan hệ pháp luật hay nhiều quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau để giải quyết trong một vụ án. Nhìn chung chỉ có nguyên đơn mới có quyền khởi kiện và Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi có đơn khởi kiện và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện của đương sự. Trong trường hợp đương sự có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì đương sự có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của mình hoặc ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc khởi kiện nếu xét thấy cần thiết. Trường hợp không đủ năng lực hành vi TTDS thì người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ thay họ khởi kiện. Đối với các chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì việc khởi kiện sẽ do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện. Theo Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, thì thông thường, đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự sẽ trực tiếp làm đơn khởi kiện. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự trong những trường hợp như đương sự không biết chữ, có khuyết tật, mức độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế… pháp luật đã cho phép việc đương sự “nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án”, qua đó có thể phản ánh được một cách đầy đủ những nội dung mà đương sự muốn đề nghị Tòa án giải quyết, mặt khác cũng giúp Tòa án xác định được rõ ràng phạm vi và vấn đề mà đương sự khởi kiện, làm căn cứ cho việc thực hiện các bước tiếp theo của quá trình tố tụng cũng như giải quyết chính đáng các nội dung mà đương sự đề nghị. Trong trường hợp nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện cho mình thì tại mục tên, địa chỉ của người khởi
  • 39. 33 kiện trong đơn vẫn phải ghi họ tên, địa chỉ của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, đồng thời phần cuối đơn phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của những người này. Như vậy, có thể thấy, dù đương sự hay người đại diện hợp pháp của đương sự trực tiếp hay nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện thì ý chí của họ cũng vẫn phải được thể hiện trong đơn, qua đó nhấn mạnh quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự. Bên cạnh quyền khởi kiện của đương sự, một số cơ quan, tổ chức khác trong xã hội cũng có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Theo đó, Điều 162 BLTTDS quy định: 1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật Hôn nhân và gia đình quy định. 2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. 3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. BLTTDS sửa đổi năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, đã quy định theo hướng mở rộng đối tượng dù không phải là đương sự nhưng vẫn có quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, theo đó: 1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm
  • 40. 34 vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. 2. Tổ chức đại diện tập thể người lao động cơ sở, tổ chức đại diện tập thể người lao động cấp trên trực tiếp nơi chưa thành lập tổ chức đại diện tập thể người lao động cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động, có quyền khởi kiện vụ án lao động khi được người lao động ủy quyền theo quy định của Luật Công đoàn. 3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật. 5. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. [7, Điều 187] Quy định này xuất phát từ tính đặc thù của một số đối tượng trong xã hội như: phụ nữ, trẻ em, người lao động… là những đối tượng dễ bị xâm hại về quyền lợi nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà họ đã không biết hoặc không dám khởi kiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Vì vậy, cần phải có các cơ quan, tổ chức đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Bên cạnh đó, đối với các lợi ích chung, lợi ích công cộng mang tính chất xã hội cũng cần phải có một cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cộng đồng, nhà nước. Các cơ quan, tổ chức này khi khởi kiện để bảo vệ quyền và
  • 41. 35 lợi ích của người khác hoặc vì lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước mà không phải vì lợi ích của mình vẫn được coi là không vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Qua đây cũng có thể nhận thấy sự phát triển của pháp luật TTDS nhắm hướng tới bảo vệ ngày càng tốt hơn và đầy đủ hơn các đối tượng cần được bảo vệ trong xã hội, tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan. Điều 163 BLTTDS quy định về phạm vi khởi kiện, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức cùng một khoảng thời gian nhất định có thể tham gia một hoặc nhiều quan hệ dân sự khác nhau, khi các tranh chấp đồng thời phát sinh từ các quan hệ dân sự đó thì đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết: 1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; 2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. 3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Bản chất quy định này nhằm mở rộng quyền khởi kiện cho đương sự. Do đó đương sự có thể khởi kiện một hoặc nhiều vấn đề về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật nhưng phải có liên quan đến nhau để giải quyết trong cùng một vụ án dân sự. Để thực hiện được điều này, đương sự phải đảm bảo được các điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật. Cụ thể, tại Điều 4 Nghị quyết số
  • 42. 36 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, hướng dẫn như sau: Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác; b) Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS. Như vậy, các yêu cầu liên quan đến nhau là những yêu cầu phát sinh từ một quan hệ pháp luật hoặc các quan hệ pháp luật có liên quan đến nhau và được giải quyết trong cùng một vụ án dân sự. Trong trường hợp đương sự khởi kiện về những yêu cầu không liên quan đến nhau thì Tòa án phải thụ lý giải quyết các yêu cầu của họ trong những vụ án riêng. 2.1.2. Quyền tự định đoạt của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu phản tố Trước những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố (Khoản 4 Điều 60 BLTTDS). Có thể hiểu, yêu cầu phản tố là việc bị đơn kiện ngược lại nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã yêu cầu Tòa án giải quyết (đối tượng khác nhau), nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện. Nói cách khác, chỉ được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn nếu yêu cầu
  • 43. 37 đó đảm bảo tiêu chí độc lập và không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn mới, không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành vụ án riêng. Yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ được chấp nhận khi thỏa mãn một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 176 BLTTDS: a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. 2.1.3. Quyền tự định đoạt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc đưa ra yêu cầu độc lập Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự không khởi kiện như nguyên đơn, không bị kiện như bị đơn mà là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Việc tham gia tố tụng của họ trong vụ án dân sự là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự. Điểm b Khoản 1 Điều 61 BLTTDS quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền: “Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố
  • 44. 38 tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn” và khi “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn…”. Về nguyên tắc, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện một vụ án dân sự độc lập nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn, bị đơn nên việc tham gia luôn vào vụ kiện giữa nguyên đơn và bị đơn sẽ có nhiều thuận lợi hơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giúp rút ngắn được các thủ tục tố tụng khi tiến hành khởi kiện một vụ án mới và có thể bảo vệ lợi ích của mình một cách kịp thời và hiệu quả nhất. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tham gia tố tụng một cách độc lập hoặc với vai trò phụ thuộc (đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn). Khi tham gia tố tụng với tư cách phụ thuộc thì lợi ích hợp pháp của họ luôn gắn liền với lợi ích pháp lý của nguyên đơn hoặc bị đơn, vì vậy họ không thể đưa ra yêu cầu độc lập, do đó cũng không có quyền tự định đoạt trong trường hợp này. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng không thể có quyền tự mình thỏa thuận với bên đương sự kia, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia nếu không có sự đồng ý của nguyên đơn hoặc bị đơn mà họ phụ thuộc. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng một cách độc lập với nguyên đơn và bị đơn, hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa những người khác để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà Tòa án đang xem xét, giải quyết. Việc quyết định có tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không tùy thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
  • 45. 39 quan tham gia tố tụng độc lập. Trong vụ án dân sự có sự tham gia tố tụng độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết luôn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Bên cạnh đó, cũng giống như yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chỉ được đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Điều 177 BLTTDS quy định về quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo đó trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết; c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Trong vụ án dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan độc lập với lợi ích của nguyên đơn và bị đơn nên họ có thể đưa ra yêu cầu độc lập chống lại cả nguyên đơn, bị đơn. Việc pháp luật cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền được tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu độc lập khi đáp ứng được điều kiện nhất định cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này, đồng thời để tránh việc giải quyết các vấn đề liên quan đến cùng một vụ việc bằng nhiều phiên tòa khác nhau. 2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập Trong xã hội, mọi thứ luôn vận động, biến đổi từng ngày, từng giờ và các quan hệ xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan hệ dân sự được