SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
(QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
(QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG)
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đặng Thi Lan Phƣơng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ.............................8
1.1.Hòagiảiởcơsởtronghệthốngcácphƣơngthứcgiảiquyếttranhchấpvàsựcần
thiếtgiảiquyếtcáctranhchấp,xíchmíchtrongcộngđồngbằnghòagiải......................8
1.2. Kháiniệmvàđặcđiểmcơbảncủahòagiảiởcơsở:...................................................13
1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở ..................................................................13
1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở...................................................................20
1.3.Vaitròcủahòagiảiởcơsởvàsựcầnthiếtđiềuchỉnhbằngphápluậtđốivớihòa
giảiởcơsở...........................................................................................................................................22
1.3.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở.................................................................22
1.3.2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở ......24
1.4.Nguyêntắc,phạmvihòagiảiởcơsở.................................................................................25
1.4.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.............................25
1.4.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở......................................................................31
1.5.QuátrìnhhìnhthànhvàpháttriểncủathểchếhòagiảiởcơsởtạiViệtNam....37
1.5.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945.....................................37
1.5.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1998 ...............40
1.5.3. Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2013................................................45
1.5.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay ..........................................................48
1.6. Thể chế hòa giải một số nƣớc trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam51
1.6.1. Mô hình Hòa giải nhân dân. ...............................................................52
1.6.2. Mô hình trung tâm hòa giải cộng đồng ..............................................53
1.6.3. Mô hình hòa giải của Trưởng thôn ở Philippin.................................54
1.6.4. Những kinh nghiệm cho Việt Nam .....................................................54
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ...........................................56
2.1. Những điều kiện lịch sử, văn hóa chi phối và ảnh hƣởng đến hoạt động hòa giải
củatỉnhHảiDƣơng..........................................................................................................................56
2.2. Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.....60
2.2.1. Những quy định chung về hòa giải ở cơ sở........................................60
2.2.2. Những quy định của tỉnh Hải Dương về hòa giải ở cơ sở................65
2.3.ThựctrạngtổchứcvàhoạtđộnghòagiảiởcơsởtrênđịabàntỉnhHảiDƣơng67
2.3.1. Tổ chức thực hiện hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương ....67
2.3.2. Hoạt động của Tổ hòa giải ..................................................................69
2.3.3. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương
.........................................................................................................................74
2.3.4. Đánh giá chung....................................................................................79
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG,
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HÒA GIẢI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI
DƢƠNG...........................................................................................................83
3.1. Quan điểmvề nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác hòa giải trên địa bàn tỉnh
HảiDƣơng...........................................................................................................................................83
3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về hòa
giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở......................................................................................................83
3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ cán bộ
Tư pháp – Hộ tịch các xã, phường, thị trấn đối với công tác hòa giải ở cơ sở
.........................................................................................................................83
3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; Tiếp tục
đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở................84
3.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, tổ chức
chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở ....................................................85
3.1.5. Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội...........86
3.1.6. Tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân...........................................86
3.2.Giảipháp.....................................................................................................................................86
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật..............................................86
3.2.2. Xây dựng và kiện toàn các tổ chức hòa giải.......................................87
3.2.3. Bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.....88
3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, sự
phối hợp thực hiện của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với
hoạt động hòa giải ở cơ sở.............................................................................89
3.2.5. Nâng cao việc truyên truyền pháp luật về vai trò của hòa giải trong
đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở ...................................................91
3.2.6. Giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng hòa giải, kiến thức pháp
luật và vận dụng pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên .................................92
KẾT LUẬN.....................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây
dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách toàn diện và sâu sắc
theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo nên bộ
mặt mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường thì các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột cũng ngày càng ra tăng với
diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng một phương thức thích hợp.
Hòa giải ở cơ sở là một hình thức giải quyết hữu hiện được lựa chọn để giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp.
Điều này được lý giải là do Việt Nam cùng một số nước Châu Á khác
chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng Tử và Đạo phật, ở đó hòa giải đã trở thành
một truyền thống tốt đẹp trong việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp
và là biện pháp giải quyết tranh chấp được ưa chuộng hơn cả. Nếu như tranh
chấp bị xem như những biểu hiện tiêu cực là sự phá vỡ sự hòa thuận và bình
yên của cộng đồng thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ,
củng cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như một số nước trên thế
giới có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở bởi
nó là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm và đã tồn tài lâu đời
trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Hòa giải giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người và trên cơ sở tình
người. Mục đích chính của công tác hòa giải ở cơ sở nhằm giữ gìn tình làng,
nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng để hàn gắn,
vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Hòa giải mang lại niềm
vui cho mọi người, mọi nhà, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
2
xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, giảm bớt các vụ việc phải
giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiết kiệm thời
gian và chi phí cho nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hoà giải ở
cơ sở, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến công tác này. Để tiếp tục phát
huy vai trò quan trọng của hoà giải ở cơ sở, Điều 127 Hiến pháp 1992 đã quy
định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết
những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy
định của pháp luật” [39]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm
2005 của Bộ chính trị về Chiến lựơc cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã
đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua
thương lượng, hoà giải, trọng tài…” [29]. Cụ thể hoá quy định của Hiến
pháp, ngày 25/12/1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Ngày
18/10/1999, Chính phủ ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định chi
tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Đây
là những văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý đầu tiên, quan trọng
cho hoạt động hoà giải ở cơ sở.
Nhằm nâng cao vi trí vai trò của hoạt động hoà giải ở cơ sở đối với xã
hội, ngày 20 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật hoà giải ở cơ sở, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Là cơ sở pháp lý quan trọng cho
tổ chức và hoạt động của hoà giải ở cơ sở.
Trong đìều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của hoạt động
hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa đối với đất nước nói chung với tỉnh
3
Hải Dương nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở, nhưng thực tiễn công tác hoà giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của
nó, thậm chí còn có nhiều đơn vị không chú trọng đến hoạt động này. Thực
tiễn Hải Dương cho thấy ở những đơn vị làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì
tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác
hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất
trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc
sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời
cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất
hiện những điểm nóng về khiếu kiện.
Do đó, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương là yêu
cầu cấp thiết. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài : Hòa giải ở cơ sở (qua thực
tiễn tỉnh Hải Dương) làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở có nhiều
tài liệu và công trình nghiên cứu, như: Cuốn sách “Một số tham luận và kinh
nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996” của Sở Tư pháp thành phố Hồ
Chí Minh; Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); “Vì hạnh phúc của mọi nhà” do
Phó Tiến sĩ Nguyễn Vi Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, đề cập những vấn đề về
tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải chứ không đi sâu nghiên cứu về mặt lý
luận công tác hòa giải ở cơ sở.
4
Một số cuốn sách như: “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ
sở”(tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn) - Viện nghiên cứu Khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp, năm 2000 do Tiễn sĩ Dương Thanh Mai chủ biên; “Công tác
hòa giải ở cơ sở” - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ
sở dành cho cán bộ tư pháp và hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong
khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống
pháp luật Vệt Nam đến năm 2010” do Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc (UNDP), cơ quan hợp tác phát triển của quốc tế của Chính phủ Thụy
Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch
(DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ; “Sổ tay pháp luật
về Hòa giải ở cơ sở” - Vụ phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp, năm
2014. Những cuốn sách này chỉ cập đến các quy định của pháp luật về công
tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào phân
tích, đánh giá, nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về công tác
hòa giải ở cơ sở.
Một số cuốn sách khác chỉ đề cập đến khía cạnh con người của công tác
hòa giải ở cơ sở như: “Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý,
hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở”, trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015
“Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Vệt Nam đến năm
2010”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005. Cuốn sách “Hướng dẫn nghiệp
vụ phổ biến giáo dục pháp luật” do nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành
năm 2006 cũng có một số chương riêng về hòa giải ở cơ sở và phổ biến giáo
dục pháp luật.
Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên
cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết “Đồng
thuận xã hội ” trên tạp chí Tia Sáng, năm 2005; bài viết “Đồng thuận xã hội
và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị
5
Lan đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; Các bài viết của Phó
giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về “Giải quyết xích mích trong nhóm gia
đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Giải quyết xích
mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định
tính”, “Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc
nghiên cứu)” đăng trên tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001 và số 3 năm 2002.
Một số bài viết trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề
“Pháp luật về Hòa giải” năm 2012 và “Thể chế hòa giải ở Việt Nam” - số
chuyên đề tháng 9 năm 2014 mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải
như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong
phạm vi một địa bàn nhất định.
Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài, đã có sự nghiên cứu,
khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam với tư cách là
một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp, xích
mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía
cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là
các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về “Đánh giá xã hội dân sự ở Việt
Nam”; Dự án điều tra của Viện Xã hội học - Viện khoa học xã hội Việt Nam;
hoặc là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ
bản, có hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Hải Dương. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật
về tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên địa bàn tỉnh
Hải Dương và đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích: Làm rõ vai trò, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở đánh
giá thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải
Dương và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
6
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
Những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của hoạt động hòa giải
đó đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công
tác hòa giải ở cơ sở.
Nêu và phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu khóa luận được thực hiện trên quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp
nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu như:
phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội, thống kê.
5. Những điểm mới của Luận văn.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, vị trí, vai trò của hòa
giải ở cơ sở cũng như những nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác
hòa giải ở cơ sở nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về hòa
giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Hải Dương, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất quan
điểm, phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hòa giải
ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
được khai thác, sử dụng trong nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của các
cơ quan tư pháp.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, hòa
giải viên trên địa bàn tỉnh Hải Dương có thể khai thác, vận dụng những kết
7
quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những giải pháp với cơ
quan có chức năng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ
sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về hòa giải ở cơ sở như:
quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các chương trình phối hợp...
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về hoà giải ở cơ sở.
Chƣơng 2. Trực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
Chƣơng 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Hòa giải ở cơ sở trong hệ thống các phƣơng thức giải quyết tranh
chấp và sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng
bằng hòa giải
Trong xã hội, mỗi con người là một cá thể độc lập. Tuy nhiên, C. Mác
cho rằng, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong
đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng,
phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...),
quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò;
quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ
bạn bè, quan hệ đồng hương... Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều
góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ
gia đình), các quan quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các
quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau.
Thực tiễn cho thấy, qua các giai đoạn, qua các thời kỳ lịch sử, trong xã
hội, tồn tại và phổ biến là những quan hệ xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Chính
những quan hệ tốt đẹp, lành mạnh đó là nền tảng, là cơ sở, là động lực cho
việc xây dựng lối sống văn hóa, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy
nhiên, bên cạnh những quan hệ tốt đẹp kể trên, còn tồn tại những mối quan hệ
không lành mạnh, tiêu cực, lệch chuẩn, những quan hệ bị biến dạng theo
chiều hướng xấu, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, của
xã hội. Những quan hệ đó có thể là những nguyên nhân trực tiếp nảy sinh
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như những tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật thậm chí là hành vi phạm tội.
9
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước hòa mình vào trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động xây dựng kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu, kết
quả trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà nền kinh tế
thị trường mang lại, sự phát triển của đời sống xã hội trên các lĩnh vực cũng
kéo theo những hạn chế, tiêu cực và những mặt trái của nó: sự xung đột về lợi
ích, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng...
Chính những yếu tố đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng, biến
dạng những quan hệ truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Trong một
chừng mực nào đó, ở những hoàn cảnh cụ thể, quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, dòng tộc, thầy trò, bạn bè... cũng có những xáo trộn nhất định,
bị chi phối bởi những yếu tố về lợi ích, quan điểm khác nhau, hay có thể gọi
chung là những xung đột xã hội nhỏ.
Như vậy, xung đột xã hội là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội
khách quan hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa những người đại diện của
chúng. Các xung đột xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có các tranh chấp, xích mích ở cộng đồng dân cư. Những va chạm,
xích mích giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là điều không
thể tránh khỏi, có điều kiện nảy sinh tồn tại thậm chí phát triển. Có thể là mâu
thuẫn ngay giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai hay nhiều hộ gia đình,
có khi là mâu thuẫn giữa một dòng họ, một dòng tộc, xóm này với xóm kia,
mâu thuẫn giữa làng với làng... Mâu thuẫn đó xảy ra khá đa dạng, phong phú
trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hôn nhân và gia đình.
Những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp này dù là nhỏ nhưng nếu không
có biện pháp giải quyết sẽ gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự phát
triển của xã hội. Khi xung đột xã hội xảy ra có rất nhiều phương thức để giải
quyết. Để giữ gìn trật tự xã hội, việc giải quyết xung đột có thể được tiến
10
hành theo năm phương pháp: giải quyết bằng sự tác động của dư luận xã hội,
thông qua hòa giải, giải quyết bằng các phán quyết của trọng tài, bằng quyết
định của cơ quan hành chính và thông qua cách giải quyết của tòa án.
Hòa giải là một trong những phương thức có hiệu quả để giải quyết các
xung đột đó. Thực tế cho thấy, không thể tránh được xung đột xã hội, nhưng
cần thiết phải hạn chế và tránh được những thiệt hại mà xung đột xã hội mang
lại do không được kiểm soát. Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải
với phạm vi, đối tượng, phương pháp, trình tự thủ tục...tiến hành hòa giải
khác nhau như hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự,
hôn nhân và gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài
kinh tế, hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân các
xã, phường, thị trấn theo Luật Đất đai, kể cả thỏa thuận trong tố tụng hành
chính và tố tụng dân sự cũng được coi là một biểu hiện của hòa giải.
Hòa giải trong tố tụng dân sự của Tòa án là thủ tục bắt buộc trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động. Trong
quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự
thỏa thuận với nhau trừ những trường hợp pháp luật quy định không được hòa
gải. Khi không hòa giải được hoặc hòa giải không thành Tòa án mới đưa vụ
án ra xét xử. Trường hợp các bên đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau về
vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Hết
thời hạn bẩy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương
sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì về nguyên tắc chung Tòa án sẽ
ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có
hiệu lực pháp luật ngay tại thời điểm ký.
Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh tế,
lao động, hôn nhân và gia đình, đất đai...hòa giải đều được coi là một nguyên
tắc, một thủ tục bắt buộc khi giải quyết tranh chấp. Theo Điều 12 Bộ luật Dân
11
sự quy định về nguyên tắc hòa giải như sau: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa
giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.
Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ
dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự” [42].
Dưới góc độ của Luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện
thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một nguyên tắc
được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội khóa XI,
kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): “Tòa án có trách nhiệm
tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” [41].
Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân sự.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải là thủ
tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải quyết
vụ án dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án Dân sự tòa án đều phải
tiến hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân
sự, Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa
giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ việc được quy
định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch
trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Trong Tố tụng hình sự cũng có những quy định gần với hòa giải. Khoản
1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật
Hình sự được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [40].
12
Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong điều
luật nói trên đều bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Theo quy định, chỉ
được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong trường hợp
hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều nói trên. Điều đó có
nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại chỉ áp dụng trong
trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức độ nguy hiểm thấp nhất cho xã hội,
tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Và khi người bị hại không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân hoặc
Tòa án nhân dân không tiếp tục tiến hành tố tụng và không bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật thì
có thể tự dàn xếp với nhau.
Hòa giải trong tố trụng trọng tài, trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
trọng tài, các bên tranh chấp có thể thương lượng, tự hòa giải hoặc đề nghị
trọng tài giúp các bên hòa giải. Trọng tài cũng có thể chủ động tự mình tiến
hành hòa giải các bên. Nếu các bên thông qua hòa giải mà giải quyết tranh
chấp thì có thể yêu cầu trọng tài viên xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản,
lập biên bản hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận của các bên. Văn bản này
có giá trị như quyết định trọng tài, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo.
Hòa giải tranh chấp lao động được Hội đồng trọng tài lao động hoặc Hòa
giải viên lao động của cơ quan lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh tiến hành khi có tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm,
tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng
lao động, thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề giữa người
lao động và người sử dụng lao động.
Hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có đất tranh chấp. Việc hòa giải này được thực hiện khi nhận được
13
đơn của một hoặc hai bên tranh chấp và thời hạn giải quyết không quá 45
ngày kể từ ngày nhận được đơn, việc hòa giải phải được lập thành văn bản có
xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hòa
giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là thủ tục bắt buộc được quy định trong Luật
Đất đai năm 2013, trước khi các bên tranh chấp khỏi kiện ra Tòa án hoặc giải
quyết bởi cơ quan có thẩm quyền
Khác với các loại hình hòa giải nêu trên, hòa giải ở cơ sở không có yếu
tố “tư pháp”, tức là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện
thông qua hoạt động của Tổ hòa giải. Pháp luật về hòa giải hiện nay không
quy định về thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp do các Tổ hòa giải tiến
hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải chỉ kết thúc khi các
bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Khác với
các loại hình hòa giải ở trên, hòa giải ở cơ sở không bắt buộc phải lập thành
văn bản. Theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở hiện nay, việc có lập
thành văn bản hay không do các bên tự nguyên, không có giá trị bắt buộc phải
thực hiện như bản án của tòa án, phán quyết trọng tài, biên bản hòa giải tranh
chấp đất đai hay quyết định giải quyết của cơ quan hành chính mà chỉ như
một sự ghi nhận thỏa thuận mang tính đạo lý giữa người với người. Đây là
một hình thức giải quyết rất hiệu quả và đang ngày càng khẳng định được vai
trò của nó trong đời sống xã hội. Góp phần vào việc củng cố khối đại đoàn kết
trong cộng đồng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà nước và của nhân dân.
1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của hòa giải ở cơ sở:
1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của hòa giải. Vì vậy, để tìm hiểu về
hòa giải ở cơ sở trước hết cần tìm hiểu khái niệm về hòa giải nói chung. Tùy
theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải mà có nhiều quan niệm
khác nhau về hòa giải.
14
Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau
về hòa giải tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải. Một số
luật gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải, coi hòa giải như
một nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh tế, lao động của Tòa án. Còn các nhà thực tiễn coi hòa giải là
những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những tranh chấp, mâu
thuẫn, bất đồng.
Trên thế giới có nhiều quan niệm về hòa giải. Theo từ điển thuật ngữ
của ILO/EASMAT về quan hệ lao động và các vấn đề liên quan coi “Hòa giải
là sự tiếp nối của quá trình thương lượng trong đó các bên cố gắng làm điều
hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò người trung gian hoàn
toàn độc lập với hai bên...không có quyền ắp đặt..., hành động như một người
môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp
tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được” [33].
Theo hiệp hội hòa giải Hoa Kỳ thì: “Hòa giải là một quá trình, trong đó
bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn
đề của họ”[33]. Theo quan niệm này, người hòa giải không tham gia vào quá
trình hoặc việc thỏa thuận các giải pháp. Vai trò chủ yếu của người hòa giải là
người trung gian giúp cho hai bên tranh chấp tự nguyện ngồi lại với nhau, tạo điều
kiện cho họ duy trì đối thoại và thương lượng giải quyết mâu thuẫn, bất đồng.
Điều 3 Chỉ thị số 2008/52/UC của Liên minh Châu Âu ngày 21 tháng 5
năm 2008 về một số khía cạnh của hòa giải vụ việc dân sự, thương mại định
nghĩa: “Hòa giải là một quy trình có tổ chức, bất kể dưới tên gọi là gì, trong
đó hai hay nhiều bên tranh chấp cố gắng đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh
chấp một cách tự nguyện với sự giúp đỡ của Hòa giải viên” [52].
Theo từ điển Luật học của Pháp định nghĩa: “Hòa giải là phương thức
giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung gian thứ ba (Hòa giải
15
viên) để giúp đỡ các bên đề nghị giải quyết một cách thân thiện” [33].
Trong Luật Hòa giải nhân dân Trung Hoa, thuận ngữ “Hòa giải nhân
dân” là quá trình một hòa giải nhân dân thuyết phục các bên liên quan đến
một mâu thuẫn đạt được một sự thỏa thuận hòa giải trên cơ sở thương lượng
bình đẳng và tự do ý chí và mang lại một kết quả là giải quyết mâu thuẫn giữa
các bên.
Mặc dù các định nghĩa trên đây có một số điểm khác nhau, nhưng đều có
điểm chung thể hiện bản chất, đặc trưng của hòa giải, đó là một phương thức
giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một bên thứ ba trung gian với vai trò
thúc đẩy, giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận mang tính tự
nguyện về giải quyết tranh chấp mà không ra quyết định buộc các bên tranh
chấp phải thi hành.
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1995 thì
“Hòa giải được hiểu là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung
đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [54]. Quan niệm này nêu lên phương
thức và mục đích của hòa giải nhưng chưa khái quát được bản chất, nội dung
và các yếu tố cấu thành các loại hình hòa giải.
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Từ điển
Bách Khoa và Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm
2006 thì “Hòa giải là thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh
chấp của mình một cách ổn thỏa” [53].
Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước, về phương diện lý luận cũng
như trong thực tiễn có rất nhiều quan niệm về hòa giải. Dựa trên những quan
niệm vê hòa giải ở trên cũng như qua thực tiễn hoạt động hòa giải, có thể khái
quát được đặc trưng hòa giải cụ thể như sau: hòa giải là hình thức giải quyết
tranh chấp giữa các bên, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba làm trung
gian. Bên thứ ba này đóng vai trò giúp đỡ, khuyến khích, thúc đẩy các bên
16
tranh chấp đạt được sự thỏa thuận, không áp đặt ý chí của mình lên sự thỏa
thuận của hai bên tranh chấp mà chỉ giải thích, thuyết phục, giúp hai bên đạt
được sự thỏa thuận, chấm dứt bất đồng, mâu thuẫn. Sự thỏa thuận đó của hai
bên - Chủ thể của tranh chấp, mâu thuẫn là kết quả được hình thành trên cơ sở
nguyên tắc tự nguyện của mỗi bên, phù hợp với quy định của pháp luật và đạo
đức xã hội.
Trên thực tế cả trong lý luận cũng như trong thực tiến, các luật gia cho rằng
khó có thể đưa ra một khái niệm hòa giải chung cho tất cả các loại hình hòa giải
trong đời sống xã hội vì mỗi loại hình hòa giải đều có đối tượng là các tranh chấp
có tính chất, đặc trưng riêng của mình; trình tự, thủ tục tiến hành hòa gải, chủ thể
tham gia quan hệ hòa giải của mỗi loại hình hòa giải cũng khác nhau, mặc dù các
loại hình hòa giải cũng có một số đặc trưng chung giống nhau.
Tuy nhiên, từ đặc trưng được rút ra ở trên, có thể đưa ra khái niệm về
hòa giải như sau: Hòa giải là một quá trình giải quyết những bất đồng, tranh
chấp giữa các bên, quá trình đó có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò
trung lập, giúp các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định của
pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải khác nhau như: Hòa giải
tại Tòa án, Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, hòa giải
lao động, hòa giải trọng tài, hòa giải ở cơ sở. Để giữ gìn quan hệ lâu bền,
trong mọi trường hợp hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu để giải
quyết xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân....Hòa giải ở cơ
sở là một hình thức của hòa giải đã tồn tại và trở thành truyền thống đạo lý
của dân tộc Việt Nam.
Xã hội cổ truyền Việt Nam được mở rộng theo công thức Nhà - Làng -
Nước: nhiều gia đình gắn kết lại thành làng, rồi các làng liên kết lại thành
nước. Làng là đơn vị cơ sở cấu thành nên quốc gia, nó mang tính khép kín, tự
17
quản rất cao do đặc thù của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. “Trong
các làng xã cổ truyền, cả cuộc đời người nông dân quen sống với các mối
quan hệ xóm giềng, huyết thống ràng buôc nhau một cách bền chặt” [22]. Vì
vậy, người Việt rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Tình cảm này gắn kết họ từ
khi sinh ra đến khi từ giã cõi đời. Chính tình làng, nghĩa xóm đã nuôi dưỡng,
đùm bọc, chở che cho họ trước những khó khăn, hoạn nạn, thiên tai, địch họa.
Thêm vào đó, nền kinh tế nông nghiệp lúa nước với nhu cầu làm thủy
lợi, đắp đê, chống lụt cùng với nguy cơ chống giặc ngoại xâm luôn đe dọa đã
hình thành lối sống cộng đồng, cố kết, truyền thống đoàn kết, tương thân
tương ái trong ý thức của người Việt cổ. Họ nhận thức được rằng, chỉ có sức
mạnh đoàn kết cộng đồng mới có thể đánh bại được thiên tai, địch họa để tồn
tại và phát triển.
Chính từ nhu cầu đoàn kết vì sự tồn tại, phát triển của cá nhân và cộng
đồng, một đạo lý sống, một phương châm sống đã hình thành và tồn tại trong
quan hệ giữa người với người, đó là “ một điều nhịn là chín điều lành”, “chín
bỏ làm mười”, “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “một điều nhịn, chín điều
lành”, “chín bỏ làm mười”... Đạo lý, phương châm sống ấy đã hình thành
cách ứng xử đẩy bao dung, nhường nhịn, thân ái, nhân văn khi có mâu thuẫn,
xích mích, tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các thành viên trong gia đình,
dòng họ, hàng xóm láng giềng. Trong gia đình, đó là “ đóng cửa bảo nhau”,
giữa hoàng xóm thì “tối lửa tắt đèn có nhau”...
Lịch sử cho thấy, trong một cộng đồng làng xã khép kín, người Việt có
thói quen ứng xử theo đạo đức, phong tục tập quán hơn là theo pháp luật, rất
ngại kiện tụng. Họ không sợ đao to búa lơn mà lại e dè sức mạnh của dư luận
xã hội.
Hành vi của cá nhân con người cũng như các mối quan hệ xã
hội của họ luôn chịu sự kiểm soát từ hai phía: dư luận xã hội và
18
lương tâm cá nhân. Người Việt vốn trọng danh dự. Lối sống trong
danh dự đó đã dẫn đến “cơ chế tin đồn”, tạo nên dự luận xã hội như
một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định,
đặc biệt là ở buôn làng. Nhà văn Lê Lựu cũng đã viết trong cuốn
tiểu thuyết “Thời xa vắng” của mình rằng: Người ta chỉ dám dựa
theo dư luận mà sống chứ ai dám giẫm lên dư luận mà đi theo ý
mình...[49, tr. 12].
Để giữ gìn quan hệ trong cộng đồng, trong mọi trường hợp, hòa giải vẫn
được xem là phương án tối ưu khi mà trong ý thức, tâm lý của người phương
Đông nói chung, của người Việt Nam nói riêng việc giải quyết tranh chấp, xích
mích và việc việc đến chốn công đường là việc làm bất đắc dĩ. Vì vậy, nhiều
trường hợp, người ta thường dĩ hòa vi quý, hòa giải được xem là phương án tối
ưu. Đây là tiền đề rất quan trọng của việc tồn tại ý thức hòa giải trong tâm lý của
người Việt.
Dưới một góc độ tiếp cận khác, từ những văn bản pháp luật cũng có những
quy định về hòa giải ở cơ sở.
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở thành lập các tổ chức
thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”[39]. Trên cơ sở quy định
này của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp
lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở và tại Điều 1 quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các
bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc
vi phạm pháp luật và các tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [62].
Và Điều 2 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng
19
10 năm 1999 quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các
bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư,
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội trong cộng đồng dân cư [15].
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
01 năm 2014) tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm hòa giải ở cơ sở. Tại
Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: “Hòa giải ở cơ sở là việc
hòa giải viên hưỡng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải
quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định
của Luât này” [30].
Từ những quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở có thể nói rằng, hòa
giải ở cơ sở là việc hòa giải viên bằng việc vận dụng những quy định của
pháp luật cũng như quy phạm đạo đức để giải thích, giúp đỡ, thuyết phục các
bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc
vi phạm pháp luật và tranh chấp trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức
xã hội góp phần gìn giữ đoàn kết trong nội bộ nhân dân, hàn gắn tình nghĩa
trong gia đình, hạn chế vi phạm pháp luật ở cơ sở, giảm bớt nguyên nhân gia
tăng tội phạm, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng đời
sống văn hóa ở thôn, khu dân cư, tổ dân phố tạo điều kiện để phát triển kinh
tế, xã hội, góp phần mở rộng dân chủ ở cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
20
1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các vi pham pháp luật và tranh chấp, mâu thuẫn
nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và phát huy tình cảm,
đạo lý, truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa
và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong công đồng
dân cư, Hòa giải ở cơ sở có một số đặc trưng sau:
- Hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ các bên
tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa bỏ tranh
chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ gìn ổn
định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
- Hòa giải ở cơ sở được tiến hành bởi hòa giải viên của tổ hòa giải. Đây
là những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm cao đối với
cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không lương, phụ cấp của
Nhà nước khi tham gia hòa giải.
- Phạm vi hòa giải là những tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật
được giới hạn theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
- Hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết hợp vận
dụng quy định của pháp luật với phong tục tập quán truyền thống, kinh
nghiệm của dân gian, hiệu quả là có tính thuyết phục cao, mang lại kết quả ổn
thỏa, lâu bền.
- Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật đã và đang ngày càng phát huy vai trò quan trọng của nó trong việc
đưa pháp luật vào cuộc sống.
- Hòa giải ở cơ sở là một phương thức thực hiện dân chủ ở làng xã, thể
hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc” với phương châm “dễ trăm lần không dân
cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
21
Trong lịch sử nước ta hòa giải được xem như một phương
thức giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã
hội. Nó là một hiện tượng xã hội – pháp luật – văn hóa đã thấm
vào đời sống nhân dân ta hàng thế kỷ nay, chi phối và tác động đến
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội và nhà nước, trở thành một nét
văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng người Việt [52].
Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là cần thay đổi cách thức quản lý
xã hội. Nhà nước cần hạn chế sự can thiệp vào các quan hệ mang tính chất
“tư”, tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của cá nhân, tổ chức. Đây là
một trong những tiền đề quan trọng để cho hòa giải nói chung và hòa giải ở
cơ sở nói riêng phát huy vai trò của nó trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, các yếu tố lịch sử - văn hóa, truyền thống, tâm lý dân tộc là
những tiền đề rất quan trọng, là cội nguồn, là mảnh đất cho hòa giải ở cơ sở
hình thành, phát triển và vượt qua được những thay đổi của các thể chế chính
trị và ngày càng khẳng định được vai trò, ý nghĩa to lớn của mình trong đời
sống xã hội. Hay nói cách khác, hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói
riêng được người dân Việt Nam chấp nhận. Bản chất và ý nghĩa nhân đạo sâu
sắc vì con người chính là cội nguồn, mảnh đất cho hòa giải thành và phát triển
trường tồn, vượt qua thử thách của thời gian, những biến cố thăng trầm của
lịch sử. Đây cũng là một trong những đặc điểm của hòa giải ở cơ sở.
Như vậy, có thể thấy, yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc có ảnh
hưởng không nhỏ đến cách hành xử của người Việt khi xảy ra tranh chấp,
mâu thuẫn.
22
1.3. Vai trò của hòa giải ở cơ sở và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật
đối với hòa giải ở cơ sở
1.3.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở
Ở Việt Nam, từ lâu, hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong
văn hóa, trong đạo lý của dân tộc. Ưu thế của hòa giải là khi giải quyết bất
đồng, xung đột, tranh chấp và xích mích sẽ không có kẻ thắng, người thua, mà
sẽ được giải quyết ổn thỏa, tình lý vẹn toàn, trật tự xã hội được củng cố, đạo
lý truyền thống được giữ gìn. Vì vậy, có thể nói hòa giải ở cơ sở có vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi
phạm, xích mích, tranh chấp trong nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí, công
sức của nhân dân cũng như của Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, thông qua hòa giải ở cơ sở, một số lượng lớn các
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật nhỏ đã được giải quyết kịp thời,
nhanh chóng, giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của người dân. Mỗi năm,
ở cơ sở hòa giải thành bao nhiêu vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu vụ việc
mà các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết. Ngay cả khi hòa giải không
thành,Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền cũng có điều kiện nắm vững nội
dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường lối
giải quyết đúng đắn, ra phán quyết thấu tình đạt lý.
Thứ hai, hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bởi lẽ, hòa giải là một
biện pháp giải quyết tranh chấp mà mỗi bên đều chấp nhận nhượng bộ một
phần quyền lợi của mình để đạt được sự thỏa thuận. Mặt khác, hòa giải thành
là dựa trên sự tự nguyện của các bên, không do ai áp đặt, cưỡng ép nên các
bên sẽ tự giác thực hiện cam kết của mình. Tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh
nếu được giải quyết bằng con đường hòa giải thì kết quả hòa giải thường
23
mang tính bền vững. Một khi đã xây dựng, củng cố được khối đoàn kết trong
nội bộ nhân dân, ổn định trật tự xã hội thì việc triển khai thực hiện các nhiệm
vụ khác ở địa phương sẽ có nhiều thuận lợi.
Thứ ba, hòa giải góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân. Khi hòa giải, các hòa giải viên đều phải vận dụng các quy
định pháp luật để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên tranh chấp, giúp
họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp phát sinh do các bên
không hiểu pháp luật, nên lầm tưởng rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm hoặc cho rằng hành vi của mình là đúng pháp luật. Nếu các bên được
giải thích pháp luật một cách cặn kẽ, tranh chấp có thể sẽ được giải quyết dứt
điểm và nhanh chóng. Thông qua hòa giải, ý thức chấp hành pháp luật của
người dân sẽ nâng cao. Là một hình thức tuyên truyền pháp luật mang lại hiệu quả
cao để đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân
một cách tự nhiên, trực tiếp, có sức thẩm thấu sâu sắc, sức lan tỏa rộng.
Thứ tư, hòa giải góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
quản lý xã hội. Đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt
của các bên trong giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Chính vì vậy, hòa giải là một
phương thức để thực hiện dân chủ. Thông qua hòa giải ở cơ sở, vai trò tự quản
của người dân được tăng cường. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ năm, hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt
đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Khi tiến hành hòa giải, hòa giải
viên không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật, mà còn phải dựa vào
những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, truyền thống để tác động tới các
bên tranh chấp. Và như vậy, hòa giải ở cơ sở đã làm cho các giá trị truyền
24
thống được bảo tồn và phát huy.
Thứ sáu, hòa giải nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng
của các cá nhân tại cộng đồng. Khi mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra xâm phạm
đến quyền, lợi ích của cá nhân và hòa giải là hình thức để các bên tự nhận
thấy sự phải, trái, đúng, sai trong hành vi của cá nhân, từ đó có xử sự phù hợp
với pháp luật và đạo đức.
1.3.2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở
Xuất phát từ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của hòa giải trong đời sống
xã hội, việc thể chế hóa hoạt động hòa giải đặc biệt là hòa giải ở cơ sở là một
nhu cầu khách quan.
Giáo sư, tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc khẳng định:
Nếu khi nhu cầu khách quan của xã hội về kinh tế, chính trị, xã
hội... đã chín muồi thì sự chín muồi đó chính là chân lý, chính là
khuôn mẫu, mô hình cần phải được pháp luật quy phạm hóa...Ta có
thể hình dung pháp luật như hai bờ của dòng sông. Bờ có nhiệm vụ
đi theo dòng chảy, chứ bờ sông không thể thay thế được dòng chảy.
Và nếu không có bờ, nước có thể cứ chảy, nhưng không theo dòng.
Bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát triển đúng quy luật. Phù hợp
với lợi ích tiến bộ là thiên chức của pháp luật [60].
Thể chế hóa nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hòa giải,
thể hiện sự thừa nhận của nhà nước đối với tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ
sở. Xây dựng thể chế chính là khâu đầu tiên rất quan trọng trong quản lý nhà
nước về công tác hòa giải. Tuy nhiên, khi thể chế hóa hoạt động hòa giải, cần
lưu ý rằng hòa giải ở cơ sở là hoạt động mang tính tự quản của nhân dân,
quản lý nhà nước không phải nhằm hành chính hóa hoạt động này, biến Tổ
hòa giải ở cơ sở thành tổ chức của chính quyền mà chủ yếu là chỉ đạo, hướng
dẫn, về chuyên môn nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm,
bồi dưỡng kiến thức, cung cấp tài liệu cho hòa giải viên, hỗ trợ kinh phí nhằm
25
khuyến khích, thúc đẩy hoạt động hòa giải phát triển rộng khắp, có hiệu quả
trong cộng đồng dân cư. Hòa giải với tư cách là một khía cạnh, một yếu tố
của đời sống xã hội dân sự chính là ở chỗ đó.
Với ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội của công tác hòa giải
ở cơ sở, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(1997), Chỉ thị số 30/CT-TƯ ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 05 tháng 4 năm 2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn (thay thế Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính
phủ) đã xác định việc củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ
hòa giải là một trong những yếu tố quan trọng góp phần phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và quản lý
nhà nước nói riêng
Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản của nhân dân, công
nhân, cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ
của pháp luật những công việc mang tính chất xã hội hóa, có sự hỗ
trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị như việc xây dựng Quy ước,
Hương ước, Làng văn hóa, xây dựng Tổ hòa giải [26].
Luật Hòa giải ở cơ sở ra đời đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng để công
tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục phát triển và phát huy vai trò của mình trong đời
sống xã hội, một mặt tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thống nhất cho tổ chức và
hoạt động của Tổ hòa giải, mặt khác, tăng cường sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau trong cộng đồng dân cư, góp phần giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1.4. Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở
1.4.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
1.4.1.1. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên
trong hòa giải ở cơ sở:
Hòa giải ở cơ sở là quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên trong đó
26
có sự tham gia của bên thứ ba - hòa giải viên giữ vai trò làm trung gian, trung
lập. Với vai trò trung gian ấy, hòa giải viên có nhiệm vụ thuyết phục, giúp các
bên tranh chấp tìm được tiếng nói chung để tự dàn xếp mâu thuẫn một cách
ổn thỏa. Vì lẽ đó, trước hết hòa giải viên phải tôn trọng sự tự nguyện của các
bên, tôn trọng ý chí của họ. Hòa giải viên chỉ đóng vai trò là người trung gian
hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên giải quyết tranh chấp bằng con
đường hòa giải chứ không áp đặt, bắt buộc các bên phải tiến hành hòa giải.
Nếu các bên không chấp nhận việc hòa giải thì hòa giải viên không thể dùng ý
chí chủ quan của mình mà bắt buộc họ phải tiến hành hòa giải. Kể cả trường
hợp hòa giải thành, nếu việc thực hiện thỏa thuận giữa các bên có khó khăn
thì hòa giải viên động viên, thuyết phục các bên thực hiện thỏa thuận; kịp thời
thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác mặt trận
những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện. Trưởng
ban công tác mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố,
gia đình, dòng họ, người có uy tín vận động, thuyết phục mà không áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành những thỏa thuận của họ. Vì vậy, mọi tác động
đến tự do ý chí của các bên như cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa
dối hay nhầm lẫn đều không thể hiện đầy đủ ý chí tự nguyện của các bên.
1.4.1.2. Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của nhà nước, đạo đức,
phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng
đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật và người cao tuổi.
Chính sách pháp luật của nhà nước là những định hướng cho các hoạt
động xã hội. Pháp luật của Nhà nước là những quy định chung thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng, điều chỉnh những mối quan hệ xã hội có tính
phổ biến nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức và công dân. Các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp là
27
các quy tắc xử sự có tính truyền thống trong quan hệ xã hội phù hợp với chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Chính sách pháp
luật của Nhà nước cùng với đạo đức xã hội và phong tục tập quán có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình hòa giải viên thực hiện nhiệm vụ
của mình. Người hòa giải viên nếu biết kết hợp chính sách, pháp luật của Nhà
nước với các chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta sẽ
là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của hòa giải.
Để đạt được sự thành công đó, người hòa giải viên phải hiểu, nắm vững
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trước hết, cần nắm
vững các văn bản pháp luật có liên quan mật thiết với công tác hòa giải ở cơ
sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ
dân sự, thừa kế...); pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng, quan hệ cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn...); pháp luật đất đai; pháp
luật hành chính, pháp luật hình sự...
Bên cạnh việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, hòa giải viên cần nắm vững các phong tục, tập quán tốt đẹp của địa
phương để động viên, khuyên nhủ các bên dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp
nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên
việc vận dụng các phong tục tập quán, câu ca dao, tục ngữ phải có sự chọn lọc
cho phù hợp, tránh giáo lý, hủ tục lạc hậu. Ví dụ, ở Tây Nguyên, hòa giải viên
có thể kết hợp một số quy định tiến bộ trong luật tục Êđê để hòa gải. Cụ thể
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, luật tục Êđê coi trọng việc “vợ chồng kết
hôn ăn ở bền vững, không bỏ nhau” hoặc luật tục nhấn mạnh trách nhiệm của
con cái với cha mẹ, không có cử chỉ bất kính, vâng lời cha mẹ không bỏ nhà
đi lang thang, có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ, ông bà. Nếu vi phạm quy
định của luật tục thì có thể bị mất quyền thừa kế tài sản.... đây là một số quy
định tiến bộ của luật tục mà hòa giải viên có thể khai thác và vận dụng hợp lý
28
vào từng vụ việc cụ thể để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhằm củng cố
giữ gìn hạnh phúc trong mỗi gia đình, dòng họ.
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã bổ sung điểm mới quan trọng vào
nguyên tắc này. Đó là “phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan
tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và
người cao tuổi”. Bởi vì, người Việt Nam vốn sống trong tình, quan tâm, đùm
bọc, kính trên, nhường dưới, tình cảm gia đình, dòng họ, xóm giềng luôn là
thiêng liêng và gần gũi, nếu hòa giải viên biết phát huy, khơi gợi những tình
cảm này sẽ giúp cho việc hòa giải đạt kết quả mong muốn.
1.4.1.3. Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin
đời tư của các bên.
Khi mâu thuân, tranh chấp xảy ra, mỗi bên đều có lý riêng, tự cho mình
là đúng, không thấy điều sai trái của mình gây ra cho người khác hoặc cố tình
bảo vệ quyền lợi của mình một cách bất hợp pháp. Vì vậy, khi thực hiện hòa
giải, hòa giải viên phải bảo đảm nguyên tắc khách quan, công minh để giải
quyết tranh chấp một cách công bằng, bình đẳng, quan tâm đến lợi ích của các
bên tranh chấp. Là người trung, hòa giải viên không được thiên vị, không định
kiến hay nể nang bên này mà cần phải lắng nghe các bên tranh chấp, đồng
thời tôn trọng sự thật khách quan, công bằng, đề cao lẽ phải, tìm ra cách giải
thích, phân tích cho mỗi bên hiểu rõ đúng, sai, không xuê xoa “dĩ hòa vi quý”
cho xong việc. Hơn nữa, có khách quan, công bằng thì hòa giải viên mới tạo
được lòng tin của các bên, để họ lắng nghe, tiếp thu ý kiến phân tích, giải
thích của mình, từ đó có nhận thức và tự nguyện điều chỉnh hành vi cho phù
hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán.
Thông thường, khi có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật xảy ra
nếu không được giải quyết kịp thời dễ dẫn đến việc bé xé ra to, việc đơn giản
29
thành việc phức tạp, phạm vi ảnh hưởng cũng như hậu quả của các vi phạm pháp
luật và tranh chấp ngày càng lớn. Do đó, đòi hỏi hòa giải viên phải chủ động, kịp
thời tiến hành hòa giải để phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật.
Hoạt động hòa giải ở cơ sở đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc có lý, có
tình, nghĩa là hòa giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội. Trước
hết cần đề cao yếu tố tình cảm, dựa vào đạo đức xã hội để phân tích, khuyên
nhủ các bên ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức: như con cái phải có hiếu
với cha mẹ; anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau “như thể tay
chân”, “chị ngã em nâng”, “máu chảy ruột mềm”, “môi hở răng lạnh”; vợ
chồng sống với nhau phải có tình, có nghĩa : “đạo vợ, nghĩa chồng”, “ gái có
công chồng chẳng phụ”, tất cả vì con cái; xóm giềng thì “ tối lửa tắt đèn có
nhau”, “ vắng anh em xa mua láng giềng gần” và “thương người như thể
thương thân”...Cùng với việc giải thích, thuyết phục các bên ứng xử phù hợp
với các quy tắc đạo đức xã hội, hòa giải viên phải dựa vào pháp luật để phân
tích, tư vấn pháp luật, đưa ra những lời khuyên và hướng dẫn các bên thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật nhằm giữ
gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và pháp huy những tình cảm, đạo
lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng, phòng ngừa và hạn chế
vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Để thực hiện hòa giải thành, hòa giải viên phải tìm hiểu rõ ngọn ngành
của vụ việc: nguyên nhân phát sinh, diễn biến của vụ việc, thái độ của các
bên...Trong số các thông tin cần thiết đó, đôi khi có những thông tin liên quan
đến bí mật đời tư của các bên tranh chấp. Khi được các bên tranh chấp tin
tưởng, thổ lộ thông tin thầm kín về đời tư của mình cho hòa giải viên thì hòa
giải viên cần tôn trọng và không được phép tiết lộ những thông tin này. Ở
đây, cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư cá nhân và những thông
tin mà các bên tranh chấp che dấu về hành vi vi phạm pháp luật của mình.
30
1.4.1.4. Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng
Việc hòa giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công
cộng, nghĩa là việc hòa giải không chỉ nhằm giải quyết tranh chấp, bảo vệ,
khôi phục quyền và lợi ích của các bên mà còn phải bảo đảm lợi ích chung
của xã hội, của nhà nước và của người khác. Trong mọi trường hợp, hòa giải
viên không chỉ giúp các bên giải quyết tranh chấp mà còn góp phần giáo dục
ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Khi hướng dẫn các bên thỏa thuận
giải quyết tranh chấp không được trái với quy định của pháp luật và không lợi
dụng hòa giải để làm thiệt hại đến lợi ích của người thứ ba, của nhà nước và
lợi ích công cộng.
Đối với hòa giải ở cơ sở, các xung đột thường là các tranh chấp, xích
mích liên quan đến đời sống hàng ngày trong các lĩnh vực như sử dụng lối đi
chung, sử dụng điện nước sinh hoạt, đổ rác thải làm mất vệ sinh môi trường
xung quanh...trong cộng đồng dân cư thường liên quan đến nhiều người khác
ngoài các bên tranh chấp, hòa giải viên không thể vì mục đích đạt được hòa
giải thành của các bên tranh chấp mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của bất kỳ người nào khác.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình hòa giải, bên cạnh việc giúp
các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp, hòa giải viên đã góp phần nâng cao
ý thức tôn trọng pháp luật của người dân. Hay nói cách khác, hoạt động hòa
giải ở cơ sở chính là một hình thức phổ biến giáo dục pháp luật hiệu quả
nhằm từng bước nâng cao nhận thức pháp luật và giáo dục ý thức tôn trọng
pháp luật trong cộng đồng.
31
1.4.1.5. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
Đây là điểm mới của Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 so với Pháp lệnh
về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998. Thực tiễn ở nơi này, nơi
khác còn xảy ra tình trạng bất bình đẳng giới, còn ảnh hưởng bởi tư tưởng phong
kiến “trọng nam khinh nữ” gây nhiều khó khăn cho công tác hòa giải ở cơ
sở...Xác định vị trí và tầm quan trọng của việc bảo đảm lồng ghép bình đẳng giới
trong xây dựng và thực thi pháp luật, nhất là đạo luật có nhiều mối liên quan trực
tiếp đến người dân như Luật Hòa giải ở cơ sở, điều này thể hiện như sau:
Đó là bình đẳng giới trong quy định đối với hòa giải viên, tổ trưởng tổ
hòa giải. Về tiêu chuẩn, phương thức bầu hòa giải viên, quyền và nghĩa vụ
của hòa giải viên, tổ hòa giải, tổ trưởng tổ hòa giải đều không phân biệt nam,
nữ. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức của tổ hòa giải “Mỗi tổ hòa giải có
từ 03 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ”[46].
Bình đẳng giới còn được thể hiện trong các quy định về yêu cầu hòa
giải, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình hòa giải, biên bản hòa
giải, thực hiện các thỏa thuận hòa giải, theo dõi, đôn đốc thực hiện kết quả
hòa giải thành đối với các bên là như nhau không phân biệt nam, nữ.
1.4.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở với vai trò là phương thức giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật giữa các bên, giúp các bên thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân,
củng cố phát huy tình cảm, đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng
đồng dân cư góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phạm
vi hòa giải ở cơ sở gồm:
1.4.2.1. Các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật được tiến hành hòa giải
Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi
phạm pháp luật sau đây:
- Mâu thuẫn giữa các bên do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính
32
tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi
chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, giờ giấc sinh hoạt gây mất vệ sinh chung
hoặc các lý do khác...
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở
hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất.
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp
phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ
giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh chị em và giữa các thành viên
khác trong gia đình; cấp dưỡng, xác định cha, mẹ, con, nuôi con nuôi, ly hôn.
Khi hòa giải những vụ việc trên, hòa giải viên chỉ có quyền thuyết phục,
giải thích để các bên tranh chấp tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình, tổ viên tổ hòa giải không được xem xét giải quyết những vụ việc
mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước như: chấm
dứt nuôi con nuôi, truy nhận cha, mẹ cho con ngoài giá thú, phân xử việc ly
hôn (cho hoặc không cho ly hôn), ép buộc các bên thực hiện các việc mà Luật
Hôn nhân và gia đình cấm.
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm
đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.
Hòa giải viên thực hiện hòa giải những tranh chấp phát sinh từ vi phạm
pháp luật mà theo quy định những vi phạm đó chưa đến mức bị xử lý bằng
biện pháp hành chính như trộm cắp vặt (rau, quả trong vườn, một số đồ dùng
sinh hoạt có giá trị không lớn), đánh, chửi nhau gây mất trật tự công cộng gây
thương tích nhẹ, lừa đảo, đánh bạc, va quệt xe cộ gây thương tích nhẹ.
- Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây thì hòa giải
viên có thể tiến hành hòa giải:
+ Trường hợp không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ
luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Như vậy, hòa giải viên được
tiến hành hòa giải đối với vi phạm pháp luật hình sự mà không bị khởi tố vụ
33
án do có một trong các căn cứ như hành vi không cấu thành tội phạm, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình
sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội
phạm đã được đại xá và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại, nhưng người bị hại đã không yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự
và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật hình sự gồm: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104), Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), Tôi vô
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108),
Tôi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109), Tội hiếp dâm
(Điều 111), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội làm nhục người khác (Điều 121),
Tội vu khống (Điều 122), Tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) và Tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).
+ Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyêt định của cơ quan tiến
hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 2 Điều 164 Bộ luật
Tố tụng hình sự hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 196 Bộ
luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
34
trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30
tháng 9 năm 2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo
dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay
thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II phần thứ năm của
Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
1.4.2.2. Những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật không hòa giải.
Trong quá trình hòa giải, tổ hòa giải không hòa giải đối với các vụ việc
sau đây:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng. Đó là các mâu thuẫn, tranh chấp làm tổn hại đến lợi ích chung của nhà
nước, của cộng đồng.
- Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo
quy định của pháp luật Tố tụng dân sự không được hòa giải.
Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp
luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết như kết hôn trái
pháp luật. Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký
kết hôn nhưng vi phạm các điều kiện kết hôn, cụ thể: nam nữ chưa đủ tuổi kết
hôn (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi); việc kết hôn do một hoặc bên
bị ép buộc, không tự nguyện; việc kết hôn thuộc một trong những trường hợp
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm kết hôn như: kết hôn giả
tạo, bị lừa dối kết hôn; người đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người
khác hoặc người chưa có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người đang có vợ
hoặc có chồng; kết hôn giữa những người người cùng dòng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
35
của chồng.
Đối với những trường hợp kết hôn trái pháp luật nêu trên, thì hòa giải
viên không được hòa giải để các bên tự giải quyết, duy trì quan hệ hôn nhân
và gia đình trái pháp luật đó. Tòa án sẽ xem xét, quyết định việc hủy kết hôn
trái pháp luật.
Vi phạm pháp luật về giao dịch dân sự không được hòa giải là những vụ
việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội. Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định. Như vậy, các giao dịch dân sự vi phạm
điều cấm của pháp luật như các giao dịch mua bán chất ma túy, mại dâm...thì
không được hòa giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch
đó. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
trừ trường hợp mà người bị hại không yêu cầu xử lý về hình sự và không bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hành vi vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý hành chính
36
bao gồm bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính như giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dưỡng; đưa
vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
- Mâu thuân, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ ở bao gồm: Hòa
giải tranh chấp về thương mại và hòa giải tranh chấp về lao động.
Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của
Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Điều
317 Luật Thương mại năm 2005, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
bao gồm: “Thương lượng giữa các bên; hòa giải giữa các bên do một hoặc
một cơ quan, tổ chức, cá nhân được các bên chọn làm trung gian hòa giải;
giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại hoặc tòa án” [43].
Hòa giải tranh chấp lao động thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao
động 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Điều 3 Bộ
luật Lao động: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao
động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử
dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người
sử dụng lao động” [44].
Với mỗi loại tranh chấp lao động lại có các cơ quan giải quyết khác
nhau. Theo đó, Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân gồm: hòa giải viên lao động và Tòa án nhân dân (Điều 200).
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao đông
tập thể. Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyển do Hòa giải viên lao
động, Tòa án nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh giải quyết (Khoản 1 Điều 203). Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích gồm Hòa giải
viên và Hội đồng trọng tài lao động (Điều 169).
37
Như vậy, các tranh chấp về lao động và thương mại không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tổ hòa giải ở thôn, xóm, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm
dân cư.
1.5. Quá trình hình thành và phát triển của thể chế hòa giải ở cơ sở tại
Việt Nam
1.5.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
Với bản chất nhân văn sâu sắc, hòa giải ở cơ sở có lịch sử tồn tại và phát
triển lâu đời. Hoạt động hòa giải hình thành và phát triển trường tồn gắn liền
với truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được kế thừa và phát
huy thể hiện truyền thống tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc ta.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, các vị vua rất chú trọng đến
việc đem lại cho người dân cuộc sống bình yên, ổn định bằng con đường hòa
giải ở cơ sở, tránh việc kiện tụng gây mất trật tự, an ninh chính trị. Đời vua Lê
Dụ Tông, trong thể lệ cử kiện có ghi rằng: “Tri huyện là viên quan gần gũi
với dân, khi thấy hai bên nguyên bị mới bắt đầu kiện nhau, thì nên xem xét tất
cả, rồi đem lý lẽ sự việc hiểu khuyên dụ cho họ nghe ra, khuyên đi bảo lại để
cảm hóa họ, hòa giải hai bên” [35].
Trong chỉ dụ của vua Lê Huyền Tông đã ghi:
Riêng các xã trưởng, nếu trong làng có sự tranh tụng phải vô
tư phân xét và hòa giải. Không được xui nguyên giục bị rồi lại tự
nắm lấy việc xử. Cũng không được tự đặt ra những luật lệ riêng rồi
dựa vào những luật lệ ấy mà chiếm đoạt tài sản khiến cho các nạn
nhân phải bán nhà đất cho khánh kiệt, cô lập họ, không cho tham dự
các buổi tập họp, hội hè mà trái phép nước [1].
Thông sức của Ngự Sử Đài năm Vĩnh Thịnh thứ 15(1719) đã quy định:
Các huyện lệnh được trao cho trách nhiệm gần dân, lời kêu
của hai bên lúc đầu đều đã quang minh xét đoán; bấy giờ lòng
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
 
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOTĐề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
 
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOTĐề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
 
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOTLuận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOTLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà NẵngLuận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mạiLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
 
Luận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT

[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...
[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...
[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...huynhminhquan
 

Similar to Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT (20)

Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng NgãiĐề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
 
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAYĐề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng NinhLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
 
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOTLuận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
 
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đìnhĐề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Pháp luật về bình đẳng giới trong dân sự, hôn nhân gia đình, HOT
Pháp luật về bình đẳng giới trong dân sự, hôn nhân gia đình, HOTPháp luật về bình đẳng giới trong dân sự, hôn nhân gia đình, HOT
Pháp luật về bình đẳng giới trong dân sự, hôn nhân gia đình, HOT
 
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOTPháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
 
Luận văn thạc sĩ Luật học Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương).doc
Luận văn thạc sĩ Luật học Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương).docLuận văn thạc sĩ Luật học Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương).doc
Luận văn thạc sĩ Luật học Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương).doc
 
[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...
[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...
[123doc] - luan-van-thac-si-quan-ly-cong-quan-ly-nha-nuoc-doi-voi-nguoi-co-co...
 
Luận văn: Kỹ năng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, HOT, HAY
Luận văn: Kỹ năng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, HOT, HAYLuận văn: Kỹ năng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, HOT, HAY
Luận văn: Kỹ năng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, HOT, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đaiLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đaiLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
 
Luận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOT
Luận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOTLuận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOT
Luận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOT
 
Luận văn: Án lệ và mối liên hệ với pháp luật kinh tế ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Án lệ và mối liên hệ với pháp luật kinh tế ở Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Án lệ và mối liên hệ với pháp luật kinh tế ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Án lệ và mối liên hệ với pháp luật kinh tế ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa, Phú Yên, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa, Phú Yên, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa, Phú Yên, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật tại huyện Tây Hòa, Phú Yên, HOT
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú YênLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
 
Luận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đ
Luận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đLuận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đ
Luận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ (QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ LAN PHƢƠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ (QUA THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG) Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ Hà Nội – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đặng Thi Lan Phƣơng
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ.............................8 1.1.Hòagiảiởcơsởtronghệthốngcácphƣơngthứcgiảiquyếttranhchấpvàsựcần thiếtgiảiquyếtcáctranhchấp,xíchmíchtrongcộngđồngbằnghòagiải......................8 1.2. Kháiniệmvàđặcđiểmcơbảncủahòagiảiởcơsở:...................................................13 1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở ..................................................................13 1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở...................................................................20 1.3.Vaitròcủahòagiảiởcơsởvàsựcầnthiếtđiềuchỉnhbằngphápluậtđốivớihòa giảiởcơsở...........................................................................................................................................22 1.3.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở.................................................................22 1.3.2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở ......24 1.4.Nguyêntắc,phạmvihòagiảiởcơsở.................................................................................25 1.4.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.............................25 1.4.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở......................................................................31 1.5.QuátrìnhhìnhthànhvàpháttriểncủathểchếhòagiảiởcơsởtạiViệtNam....37 1.5.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945.....................................37 1.5.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1998 ...............40 1.5.3. Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2013................................................45 1.5.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay ..........................................................48 1.6. Thể chế hòa giải một số nƣớc trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam51 1.6.1. Mô hình Hòa giải nhân dân. ...............................................................52 1.6.2. Mô hình trung tâm hòa giải cộng đồng ..............................................53 1.6.3. Mô hình hòa giải của Trưởng thôn ở Philippin.................................54
  • 5. 1.6.4. Những kinh nghiệm cho Việt Nam .....................................................54 Chƣơng 2:THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ...........................................56 2.1. Những điều kiện lịch sử, văn hóa chi phối và ảnh hƣởng đến hoạt động hòa giải củatỉnhHảiDƣơng..........................................................................................................................56 2.2. Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.....60 2.2.1. Những quy định chung về hòa giải ở cơ sở........................................60 2.2.2. Những quy định của tỉnh Hải Dương về hòa giải ở cơ sở................65 2.3.ThựctrạngtổchứcvàhoạtđộnghòagiảiởcơsởtrênđịabàntỉnhHảiDƣơng67 2.3.1. Tổ chức thực hiện hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương ....67 2.3.2. Hoạt động của Tổ hòa giải ..................................................................69 2.3.3. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương .........................................................................................................................74 2.3.4. Đánh giá chung....................................................................................79 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HÒA GIẢI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG...........................................................................................................83 3.1. Quan điểmvề nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác hòa giải trên địa bàn tỉnh HảiDƣơng...........................................................................................................................................83 3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về hòa giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở......................................................................................................83 3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp – Hộ tịch các xã, phường, thị trấn đối với công tác hòa giải ở cơ sở .........................................................................................................................83 3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; Tiếp tục đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở................84
  • 6. 3.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở ....................................................85 3.1.5. Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội...........86 3.1.6. Tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân...........................................86 3.2.Giảipháp.....................................................................................................................................86 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật..............................................86 3.2.2. Xây dựng và kiện toàn các tổ chức hòa giải.......................................87 3.2.3. Bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.....88 3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp thực hiện của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở.............................................................................89 3.2.5. Nâng cao việc truyên truyền pháp luật về vai trò của hòa giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở ...................................................91 3.2.6. Giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng hòa giải, kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên .................................92 KẾT LUẬN.....................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................97
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo nên bộ mặt mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường thì các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột cũng ngày càng ra tăng với diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng một phương thức thích hợp. Hòa giải ở cơ sở là một hình thức giải quyết hữu hiện được lựa chọn để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp. Điều này được lý giải là do Việt Nam cùng một số nước Châu Á khác chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng Tử và Đạo phật, ở đó hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp và là biện pháp giải quyết tranh chấp được ưa chuộng hơn cả. Nếu như tranh chấp bị xem như những biểu hiện tiêu cực là sự phá vỡ sự hòa thuận và bình yên của cộng đồng thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như một số nước trên thế giới có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở bởi nó là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm và đã tồn tài lâu đời trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hòa giải giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người và trên cơ sở tình người. Mục đích chính của công tác hòa giải ở cơ sở nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng để hàn gắn, vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Hòa giải mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
  • 8. 2 xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, giảm bớt các vụ việc phải giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hoà giải ở cơ sở, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến công tác này. Để tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của hoà giải ở cơ sở, Điều 127 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” [39]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lựơc cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài…” [29]. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Ngày 18/10/1999, Chính phủ ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý đầu tiên, quan trọng cho hoạt động hoà giải ở cơ sở. Nhằm nâng cao vi trí vai trò của hoạt động hoà giải ở cơ sở đối với xã hội, ngày 20 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật hoà giải ở cơ sở, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của hoà giải ở cơ sở. Trong đìều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa đối với đất nước nói chung với tỉnh
  • 9. 3 Hải Dương nói riêng. Mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở, nhưng thực tiễn công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của nó, thậm chí còn có nhiều đơn vị không chú trọng đến hoạt động này. Thực tiễn Hải Dương cho thấy ở những đơn vị làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm nóng về khiếu kiện. Do đó, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương là yêu cầu cấp thiết. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài : Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương) làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu, như: Cuốn sách “Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996” của Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh; Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); “Vì hạnh phúc của mọi nhà” do Phó Tiến sĩ Nguyễn Vi Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, đề cập những vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải chứ không đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận công tác hòa giải ở cơ sở.
  • 10. 4 Một số cuốn sách như: “Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở”(tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn) - Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 2000 do Tiễn sĩ Dương Thanh Mai chủ biên; “Công tác hòa giải ở cơ sở” - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ tư pháp và hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Vệt Nam đến năm 2010” do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), cơ quan hợp tác phát triển của quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ; “Sổ tay pháp luật về Hòa giải ở cơ sở” - Vụ phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp, năm 2014. Những cuốn sách này chỉ cập đến các quy định của pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào phân tích, đánh giá, nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở. Một số cuốn sách khác chỉ đề cập đến khía cạnh con người của công tác hòa giải ở cơ sở như: “Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở”, trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 “Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Vệt Nam đến năm 2010”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005. Cuốn sách “Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật” do nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006 cũng có một số chương riêng về hòa giải ở cơ sở và phổ biến giáo dục pháp luật. Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết “Đồng thuận xã hội ” trên tạp chí Tia Sáng, năm 2005; bài viết “Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị
  • 11. 5 Lan đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; Các bài viết của Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về “Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)” đăng trên tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001 và số 3 năm 2002. Một số bài viết trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề “Pháp luật về Hòa giải” năm 2012 và “Thể chế hòa giải ở Việt Nam” - số chuyên đề tháng 9 năm 2014 mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định. Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài, đã có sự nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về “Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam”; Dự án điều tra của Viện Xã hội học - Viện khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên địa bàn tỉnh Hải Dương và đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn - Mục đích: Làm rõ vai trò, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
  • 12. 6 - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: Những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của hoạt động hòa giải đó đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Nêu và phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu khóa luận được thực hiện trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội, thống kê. 5. Những điểm mới của Luận văn. - Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, vị trí, vai trò của hòa giải ở cơ sở cũng như những nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở. - Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất quan điểm, phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được khai thác, sử dụng trong nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của các cơ quan tư pháp. - Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, hòa giải viên trên địa bàn tỉnh Hải Dương có thể khai thác, vận dụng những kết
  • 13. 7 quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những giải pháp với cơ quan có chức năng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về hòa giải ở cơ sở như: quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các chương trình phối hợp... 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về hoà giải ở cơ sở. Chƣơng 2. Trực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chƣơng 3. Quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
  • 14. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1. Hòa giải ở cơ sở trong hệ thống các phƣơng thức giải quyết tranh chấp và sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng bằng hòa giải Trong xã hội, mỗi con người là một cá thể độc lập. Tuy nhiên, C. Mác cho rằng, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương... Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ gia đình), các quan quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau. Thực tiễn cho thấy, qua các giai đoạn, qua các thời kỳ lịch sử, trong xã hội, tồn tại và phổ biến là những quan hệ xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Chính những quan hệ tốt đẹp, lành mạnh đó là nền tảng, là cơ sở, là động lực cho việc xây dựng lối sống văn hóa, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những quan hệ tốt đẹp kể trên, còn tồn tại những mối quan hệ không lành mạnh, tiêu cực, lệch chuẩn, những quan hệ bị biến dạng theo chiều hướng xấu, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Những quan hệ đó có thể là những nguyên nhân trực tiếp nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như những tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật thậm chí là hành vi phạm tội.
  • 15. 9 Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước hòa mình vào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu, kết quả trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà nền kinh tế thị trường mang lại, sự phát triển của đời sống xã hội trên các lĩnh vực cũng kéo theo những hạn chế, tiêu cực và những mặt trái của nó: sự xung đột về lợi ích, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng... Chính những yếu tố đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng, biến dạng những quan hệ truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Trong một chừng mực nào đó, ở những hoàn cảnh cụ thể, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc, thầy trò, bạn bè... cũng có những xáo trộn nhất định, bị chi phối bởi những yếu tố về lợi ích, quan điểm khác nhau, hay có thể gọi chung là những xung đột xã hội nhỏ. Như vậy, xung đột xã hội là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội khách quan hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa những người đại diện của chúng. Các xung đột xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các tranh chấp, xích mích ở cộng đồng dân cư. Những va chạm, xích mích giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là điều không thể tránh khỏi, có điều kiện nảy sinh tồn tại thậm chí phát triển. Có thể là mâu thuẫn ngay giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai hay nhiều hộ gia đình, có khi là mâu thuẫn giữa một dòng họ, một dòng tộc, xóm này với xóm kia, mâu thuẫn giữa làng với làng... Mâu thuẫn đó xảy ra khá đa dạng, phong phú trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hôn nhân và gia đình. Những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp này dù là nhỏ nhưng nếu không có biện pháp giải quyết sẽ gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Khi xung đột xã hội xảy ra có rất nhiều phương thức để giải quyết. Để giữ gìn trật tự xã hội, việc giải quyết xung đột có thể được tiến
  • 16. 10 hành theo năm phương pháp: giải quyết bằng sự tác động của dư luận xã hội, thông qua hòa giải, giải quyết bằng các phán quyết của trọng tài, bằng quyết định của cơ quan hành chính và thông qua cách giải quyết của tòa án. Hòa giải là một trong những phương thức có hiệu quả để giải quyết các xung đột đó. Thực tế cho thấy, không thể tránh được xung đột xã hội, nhưng cần thiết phải hạn chế và tránh được những thiệt hại mà xung đột xã hội mang lại do không được kiểm soát. Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với phạm vi, đối tượng, phương pháp, trình tự thủ tục...tiến hành hòa giải khác nhau như hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài kinh tế, hòa giải ở cơ sở, hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn theo Luật Đất đai, kể cả thỏa thuận trong tố tụng hành chính và tố tụng dân sự cũng được coi là một biểu hiện của hòa giải. Hòa giải trong tố tụng dân sự của Tòa án là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau trừ những trường hợp pháp luật quy định không được hòa gải. Khi không hòa giải được hoặc hòa giải không thành Tòa án mới đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp các bên đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn bẩy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì về nguyên tắc chung Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay tại thời điểm ký. Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, đất đai...hòa giải đều được coi là một nguyên tắc, một thủ tục bắt buộc khi giải quyết tranh chấp. Theo Điều 12 Bộ luật Dân
  • 17. 11 sự quy định về nguyên tắc hòa giải như sau: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự” [42]. Dưới góc độ của Luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” [41]. Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải là thủ tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án Dân sự tòa án đều phải tiến hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ việc được quy định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong Tố tụng hình sự cũng có những quy định gần với hòa giải. Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [40].
  • 18. 12 Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong điều luật nói trên đều bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Theo quy định, chỉ được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong trường hợp hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều nói trên. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại chỉ áp dụng trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức độ nguy hiểm thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và khi người bị hại không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân không tiếp tục tiến hành tố tụng và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật thì có thể tự dàn xếp với nhau. Hòa giải trong tố trụng trọng tài, trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, các bên tranh chấp có thể thương lượng, tự hòa giải hoặc đề nghị trọng tài giúp các bên hòa giải. Trọng tài cũng có thể chủ động tự mình tiến hành hòa giải các bên. Nếu các bên thông qua hòa giải mà giải quyết tranh chấp thì có thể yêu cầu trọng tài viên xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản, lập biên bản hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận của các bên. Văn bản này có giá trị như quyết định trọng tài, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo. Hòa giải tranh chấp lao động được Hội đồng trọng tài lao động hoặc Hòa giải viên lao động của cơ quan lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tiến hành khi có tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp. Việc hòa giải này được thực hiện khi nhận được
  • 19. 13 đơn của một hoặc hai bên tranh chấp và thời hạn giải quyết không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn, việc hòa giải phải được lập thành văn bản có xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là thủ tục bắt buộc được quy định trong Luật Đất đai năm 2013, trước khi các bên tranh chấp khỏi kiện ra Tòa án hoặc giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền Khác với các loại hình hòa giải nêu trên, hòa giải ở cơ sở không có yếu tố “tư pháp”, tức là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện thông qua hoạt động của Tổ hòa giải. Pháp luật về hòa giải hiện nay không quy định về thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp do các Tổ hòa giải tiến hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải chỉ kết thúc khi các bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Khác với các loại hình hòa giải ở trên, hòa giải ở cơ sở không bắt buộc phải lập thành văn bản. Theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở hiện nay, việc có lập thành văn bản hay không do các bên tự nguyên, không có giá trị bắt buộc phải thực hiện như bản án của tòa án, phán quyết trọng tài, biên bản hòa giải tranh chấp đất đai hay quyết định giải quyết của cơ quan hành chính mà chỉ như một sự ghi nhận thỏa thuận mang tính đạo lý giữa người với người. Đây là một hình thức giải quyết rất hiệu quả và đang ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong đời sống xã hội. Góp phần vào việc củng cố khối đại đoàn kết trong cộng đồng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nhà nước và của nhân dân. 1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của hòa giải ở cơ sở: 1.2.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của hòa giải. Vì vậy, để tìm hiểu về hòa giải ở cơ sở trước hết cần tìm hiểu khái niệm về hòa giải nói chung. Tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải mà có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải.
  • 20. 14 Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình hòa giải. Một số luật gia cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải, coi hòa giải như một nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động của Tòa án. Còn các nhà thực tiễn coi hòa giải là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng. Trên thế giới có nhiều quan niệm về hòa giải. Theo từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan hệ lao động và các vấn đề liên quan coi “Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng trong đó các bên cố gắng làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên...không có quyền ắp đặt..., hành động như một người môi giới, giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được” [33]. Theo hiệp hội hòa giải Hoa Kỳ thì: “Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ”[33]. Theo quan niệm này, người hòa giải không tham gia vào quá trình hoặc việc thỏa thuận các giải pháp. Vai trò chủ yếu của người hòa giải là người trung gian giúp cho hai bên tranh chấp tự nguyện ngồi lại với nhau, tạo điều kiện cho họ duy trì đối thoại và thương lượng giải quyết mâu thuẫn, bất đồng. Điều 3 Chỉ thị số 2008/52/UC của Liên minh Châu Âu ngày 21 tháng 5 năm 2008 về một số khía cạnh của hòa giải vụ việc dân sự, thương mại định nghĩa: “Hòa giải là một quy trình có tổ chức, bất kể dưới tên gọi là gì, trong đó hai hay nhiều bên tranh chấp cố gắng đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp một cách tự nguyện với sự giúp đỡ của Hòa giải viên” [52]. Theo từ điển Luật học của Pháp định nghĩa: “Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung gian thứ ba (Hòa giải
  • 21. 15 viên) để giúp đỡ các bên đề nghị giải quyết một cách thân thiện” [33]. Trong Luật Hòa giải nhân dân Trung Hoa, thuận ngữ “Hòa giải nhân dân” là quá trình một hòa giải nhân dân thuyết phục các bên liên quan đến một mâu thuẫn đạt được một sự thỏa thuận hòa giải trên cơ sở thương lượng bình đẳng và tự do ý chí và mang lại một kết quả là giải quyết mâu thuẫn giữa các bên. Mặc dù các định nghĩa trên đây có một số điểm khác nhau, nhưng đều có điểm chung thể hiện bản chất, đặc trưng của hòa giải, đó là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một bên thứ ba trung gian với vai trò thúc đẩy, giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận mang tính tự nguyện về giải quyết tranh chấp mà không ra quyết định buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1995 thì “Hòa giải được hiểu là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [54]. Quan niệm này nêu lên phương thức và mục đích của hòa giải nhưng chưa khái quát được bản chất, nội dung và các yếu tố cấu thành các loại hình hòa giải. Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa và Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006 thì “Hòa giải là thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa” [53]. Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước, về phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn có rất nhiều quan niệm về hòa giải. Dựa trên những quan niệm vê hòa giải ở trên cũng như qua thực tiễn hoạt động hòa giải, có thể khái quát được đặc trưng hòa giải cụ thể như sau: hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba này đóng vai trò giúp đỡ, khuyến khích, thúc đẩy các bên
  • 22. 16 tranh chấp đạt được sự thỏa thuận, không áp đặt ý chí của mình lên sự thỏa thuận của hai bên tranh chấp mà chỉ giải thích, thuyết phục, giúp hai bên đạt được sự thỏa thuận, chấm dứt bất đồng, mâu thuẫn. Sự thỏa thuận đó của hai bên - Chủ thể của tranh chấp, mâu thuẫn là kết quả được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của mỗi bên, phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trên thực tế cả trong lý luận cũng như trong thực tiến, các luật gia cho rằng khó có thể đưa ra một khái niệm hòa giải chung cho tất cả các loại hình hòa giải trong đời sống xã hội vì mỗi loại hình hòa giải đều có đối tượng là các tranh chấp có tính chất, đặc trưng riêng của mình; trình tự, thủ tục tiến hành hòa gải, chủ thể tham gia quan hệ hòa giải của mỗi loại hình hòa giải cũng khác nhau, mặc dù các loại hình hòa giải cũng có một số đặc trưng chung giống nhau. Tuy nhiên, từ đặc trưng được rút ra ở trên, có thể đưa ra khái niệm về hòa giải như sau: Hòa giải là một quá trình giải quyết những bất đồng, tranh chấp giữa các bên, quá trình đó có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò trung lập, giúp các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó. Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải khác nhau như: Hòa giải tại Tòa án, Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, hòa giải lao động, hòa giải trọng tài, hòa giải ở cơ sở. Để giữ gìn quan hệ lâu bền, trong mọi trường hợp hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu để giải quyết xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân....Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của hòa giải đã tồn tại và trở thành truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Xã hội cổ truyền Việt Nam được mở rộng theo công thức Nhà - Làng - Nước: nhiều gia đình gắn kết lại thành làng, rồi các làng liên kết lại thành nước. Làng là đơn vị cơ sở cấu thành nên quốc gia, nó mang tính khép kín, tự
  • 23. 17 quản rất cao do đặc thù của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. “Trong các làng xã cổ truyền, cả cuộc đời người nông dân quen sống với các mối quan hệ xóm giềng, huyết thống ràng buôc nhau một cách bền chặt” [22]. Vì vậy, người Việt rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Tình cảm này gắn kết họ từ khi sinh ra đến khi từ giã cõi đời. Chính tình làng, nghĩa xóm đã nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che cho họ trước những khó khăn, hoạn nạn, thiên tai, địch họa. Thêm vào đó, nền kinh tế nông nghiệp lúa nước với nhu cầu làm thủy lợi, đắp đê, chống lụt cùng với nguy cơ chống giặc ngoại xâm luôn đe dọa đã hình thành lối sống cộng đồng, cố kết, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái trong ý thức của người Việt cổ. Họ nhận thức được rằng, chỉ có sức mạnh đoàn kết cộng đồng mới có thể đánh bại được thiên tai, địch họa để tồn tại và phát triển. Chính từ nhu cầu đoàn kết vì sự tồn tại, phát triển của cá nhân và cộng đồng, một đạo lý sống, một phương châm sống đã hình thành và tồn tại trong quan hệ giữa người với người, đó là “ một điều nhịn là chín điều lành”, “chín bỏ làm mười”, “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “một điều nhịn, chín điều lành”, “chín bỏ làm mười”... Đạo lý, phương châm sống ấy đã hình thành cách ứng xử đẩy bao dung, nhường nhịn, thân ái, nhân văn khi có mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, hàng xóm láng giềng. Trong gia đình, đó là “ đóng cửa bảo nhau”, giữa hoàng xóm thì “tối lửa tắt đèn có nhau”... Lịch sử cho thấy, trong một cộng đồng làng xã khép kín, người Việt có thói quen ứng xử theo đạo đức, phong tục tập quán hơn là theo pháp luật, rất ngại kiện tụng. Họ không sợ đao to búa lơn mà lại e dè sức mạnh của dư luận xã hội. Hành vi của cá nhân con người cũng như các mối quan hệ xã hội của họ luôn chịu sự kiểm soát từ hai phía: dư luận xã hội và
  • 24. 18 lương tâm cá nhân. Người Việt vốn trọng danh dự. Lối sống trong danh dự đó đã dẫn đến “cơ chế tin đồn”, tạo nên dự luận xã hội như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định, đặc biệt là ở buôn làng. Nhà văn Lê Lựu cũng đã viết trong cuốn tiểu thuyết “Thời xa vắng” của mình rằng: Người ta chỉ dám dựa theo dư luận mà sống chứ ai dám giẫm lên dư luận mà đi theo ý mình...[49, tr. 12]. Để giữ gìn quan hệ trong cộng đồng, trong mọi trường hợp, hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu khi mà trong ý thức, tâm lý của người phương Đông nói chung, của người Việt Nam nói riêng việc giải quyết tranh chấp, xích mích và việc việc đến chốn công đường là việc làm bất đắc dĩ. Vì vậy, nhiều trường hợp, người ta thường dĩ hòa vi quý, hòa giải được xem là phương án tối ưu. Đây là tiền đề rất quan trọng của việc tồn tại ý thức hòa giải trong tâm lý của người Việt. Dưới một góc độ tiếp cận khác, từ những văn bản pháp luật cũng có những quy định về hòa giải ở cơ sở. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”[39]. Trên cơ sở quy định này của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở và tại Điều 1 quy định: Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và các tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [62]. Và Điều 2 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng
  • 25. 19 10 năm 1999 quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở quy định: Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [15]. Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014) tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm hòa giải ở cơ sở. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hưỡng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luât này” [30]. Từ những quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở có thể nói rằng, hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên bằng việc vận dụng những quy định của pháp luật cũng như quy phạm đạo đức để giải thích, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội góp phần gìn giữ đoàn kết trong nội bộ nhân dân, hàn gắn tình nghĩa trong gia đình, hạn chế vi phạm pháp luật ở cơ sở, giảm bớt nguyên nhân gia tăng tội phạm, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở thôn, khu dân cư, tổ dân phố tạo điều kiện để phát triển kinh tế, xã hội, góp phần mở rộng dân chủ ở cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
  • 26. 20 1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở Hòa giải ở cơ sở với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các vi pham pháp luật và tranh chấp, mâu thuẫn nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và phát huy tình cảm, đạo lý, truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong công đồng dân cư, Hòa giải ở cơ sở có một số đặc trưng sau: - Hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở. - Hòa giải ở cơ sở được tiến hành bởi hòa giải viên của tổ hòa giải. Đây là những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham gia hòa giải. - Phạm vi hòa giải là những tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật được giới hạn theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. - Hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết hợp vận dụng quy định của pháp luật với phong tục tập quán truyền thống, kinh nghiệm của dân gian, hiệu quả là có tính thuyết phục cao, mang lại kết quả ổn thỏa, lâu bền. - Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đã và đang ngày càng phát huy vai trò quan trọng của nó trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống. - Hòa giải ở cơ sở là một phương thức thực hiện dân chủ ở làng xã, thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc” với phương châm “dễ trăm lần không dân cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
  • 27. 21 Trong lịch sử nước ta hòa giải được xem như một phương thức giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội. Nó là một hiện tượng xã hội – pháp luật – văn hóa đã thấm vào đời sống nhân dân ta hàng thế kỷ nay, chi phối và tác động đến nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội và nhà nước, trở thành một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng người Việt [52]. Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là cần thay đổi cách thức quản lý xã hội. Nhà nước cần hạn chế sự can thiệp vào các quan hệ mang tính chất “tư”, tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của cá nhân, tổ chức. Đây là một trong những tiền đề quan trọng để cho hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng phát huy vai trò của nó trong tình hình mới. Bên cạnh đó, các yếu tố lịch sử - văn hóa, truyền thống, tâm lý dân tộc là những tiền đề rất quan trọng, là cội nguồn, là mảnh đất cho hòa giải ở cơ sở hình thành, phát triển và vượt qua được những thay đổi của các thể chế chính trị và ngày càng khẳng định được vai trò, ý nghĩa to lớn của mình trong đời sống xã hội. Hay nói cách khác, hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng được người dân Việt Nam chấp nhận. Bản chất và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc vì con người chính là cội nguồn, mảnh đất cho hòa giải thành và phát triển trường tồn, vượt qua thử thách của thời gian, những biến cố thăng trầm của lịch sử. Đây cũng là một trong những đặc điểm của hòa giải ở cơ sở. Như vậy, có thể thấy, yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc có ảnh hưởng không nhỏ đến cách hành xử của người Việt khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn.
  • 28. 22 1.3. Vai trò của hòa giải ở cơ sở và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở 1.3.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở Ở Việt Nam, từ lâu, hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong văn hóa, trong đạo lý của dân tộc. Ưu thế của hòa giải là khi giải quyết bất đồng, xung đột, tranh chấp và xích mích sẽ không có kẻ thắng, người thua, mà sẽ được giải quyết ổn thỏa, tình lý vẹn toàn, trật tự xã hội được củng cố, đạo lý truyền thống được giữ gìn. Vì vậy, có thể nói hòa giải ở cơ sở có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Thứ nhất, hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi phạm, xích mích, tranh chấp trong nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, thông qua hòa giải ở cơ sở, một số lượng lớn các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật nhỏ đã được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của người dân. Mỗi năm, ở cơ sở hòa giải thành bao nhiêu vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết. Ngay cả khi hòa giải không thành,Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền cũng có điều kiện nắm vững nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường lối giải quyết đúng đắn, ra phán quyết thấu tình đạt lý. Thứ hai, hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bởi lẽ, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp mà mỗi bên đều chấp nhận nhượng bộ một phần quyền lợi của mình để đạt được sự thỏa thuận. Mặt khác, hòa giải thành là dựa trên sự tự nguyện của các bên, không do ai áp đặt, cưỡng ép nên các bên sẽ tự giác thực hiện cam kết của mình. Tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh nếu được giải quyết bằng con đường hòa giải thì kết quả hòa giải thường
  • 29. 23 mang tính bền vững. Một khi đã xây dựng, củng cố được khối đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn định trật tự xã hội thì việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ khác ở địa phương sẽ có nhiều thuận lợi. Thứ ba, hòa giải góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Khi hòa giải, các hòa giải viên đều phải vận dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên tranh chấp, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp phát sinh do các bên không hiểu pháp luật, nên lầm tưởng rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc cho rằng hành vi của mình là đúng pháp luật. Nếu các bên được giải thích pháp luật một cách cặn kẽ, tranh chấp có thể sẽ được giải quyết dứt điểm và nhanh chóng. Thông qua hòa giải, ý thức chấp hành pháp luật của người dân sẽ nâng cao. Là một hình thức tuyên truyền pháp luật mang lại hiệu quả cao để đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân một cách tự nhiên, trực tiếp, có sức thẩm thấu sâu sắc, sức lan tỏa rộng. Thứ tư, hòa giải góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý xã hội. Đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Chính vì vậy, hòa giải là một phương thức để thực hiện dân chủ. Thông qua hòa giải ở cơ sở, vai trò tự quản của người dân được tăng cường. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thứ năm, hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật, mà còn phải dựa vào những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, truyền thống để tác động tới các bên tranh chấp. Và như vậy, hòa giải ở cơ sở đã làm cho các giá trị truyền
  • 30. 24 thống được bảo tồn và phát huy. Thứ sáu, hòa giải nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân tại cộng đồng. Khi mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra xâm phạm đến quyền, lợi ích của cá nhân và hòa giải là hình thức để các bên tự nhận thấy sự phải, trái, đúng, sai trong hành vi của cá nhân, từ đó có xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức. 1.3.2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở Xuất phát từ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của hòa giải trong đời sống xã hội, việc thể chế hóa hoạt động hòa giải đặc biệt là hòa giải ở cơ sở là một nhu cầu khách quan. Giáo sư, tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc khẳng định: Nếu khi nhu cầu khách quan của xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội... đã chín muồi thì sự chín muồi đó chính là chân lý, chính là khuôn mẫu, mô hình cần phải được pháp luật quy phạm hóa...Ta có thể hình dung pháp luật như hai bờ của dòng sông. Bờ có nhiệm vụ đi theo dòng chảy, chứ bờ sông không thể thay thế được dòng chảy. Và nếu không có bờ, nước có thể cứ chảy, nhưng không theo dòng. Bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát triển đúng quy luật. Phù hợp với lợi ích tiến bộ là thiên chức của pháp luật [60]. Thể chế hóa nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hòa giải, thể hiện sự thừa nhận của nhà nước đối với tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Xây dựng thể chế chính là khâu đầu tiên rất quan trọng trong quản lý nhà nước về công tác hòa giải. Tuy nhiên, khi thể chế hóa hoạt động hòa giải, cần lưu ý rằng hòa giải ở cơ sở là hoạt động mang tính tự quản của nhân dân, quản lý nhà nước không phải nhằm hành chính hóa hoạt động này, biến Tổ hòa giải ở cơ sở thành tổ chức của chính quyền mà chủ yếu là chỉ đạo, hướng dẫn, về chuyên môn nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, bồi dưỡng kiến thức, cung cấp tài liệu cho hòa giải viên, hỗ trợ kinh phí nhằm
  • 31. 25 khuyến khích, thúc đẩy hoạt động hòa giải phát triển rộng khắp, có hiệu quả trong cộng đồng dân cư. Hòa giải với tư cách là một khía cạnh, một yếu tố của đời sống xã hội dân sự chính là ở chỗ đó. Với ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội của công tác hòa giải ở cơ sở, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Chỉ thị số 30/CT-TƯ ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 ngày 05 tháng 4 năm 2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (thay thế Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ) đã xác định việc củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ hòa giải là một trong những yếu tố quan trọng góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và quản lý nhà nước nói riêng Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản của nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật những công việc mang tính chất xã hội hóa, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị như việc xây dựng Quy ước, Hương ước, Làng văn hóa, xây dựng Tổ hòa giải [26]. Luật Hòa giải ở cơ sở ra đời đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng để công tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục phát triển và phát huy vai trò của mình trong đời sống xã hội, một mặt tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thống nhất cho tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, mặt khác, tăng cường sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, góp phần giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. 1.4. Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở 1.4.1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở 1.4.1.1. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở: Hòa giải ở cơ sở là quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên trong đó
  • 32. 26 có sự tham gia của bên thứ ba - hòa giải viên giữ vai trò làm trung gian, trung lập. Với vai trò trung gian ấy, hòa giải viên có nhiệm vụ thuyết phục, giúp các bên tranh chấp tìm được tiếng nói chung để tự dàn xếp mâu thuẫn một cách ổn thỏa. Vì lẽ đó, trước hết hòa giải viên phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên, tôn trọng ý chí của họ. Hòa giải viên chỉ đóng vai trò là người trung gian hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải chứ không áp đặt, bắt buộc các bên phải tiến hành hòa giải. Nếu các bên không chấp nhận việc hòa giải thì hòa giải viên không thể dùng ý chí chủ quan của mình mà bắt buộc họ phải tiến hành hòa giải. Kể cả trường hợp hòa giải thành, nếu việc thực hiện thỏa thuận giữa các bên có khó khăn thì hòa giải viên động viên, thuyết phục các bên thực hiện thỏa thuận; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện. Trưởng ban công tác mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, gia đình, dòng họ, người có uy tín vận động, thuyết phục mà không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành những thỏa thuận của họ. Vì vậy, mọi tác động đến tự do ý chí của các bên như cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa dối hay nhầm lẫn đều không thể hiện đầy đủ ý chí tự nguyện của các bên. 1.4.1.2. Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của nhà nước, đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. Chính sách pháp luật của nhà nước là những định hướng cho các hoạt động xã hội. Pháp luật của Nhà nước là những quy định chung thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, điều chỉnh những mối quan hệ xã hội có tính phổ biến nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp là
  • 33. 27 các quy tắc xử sự có tính truyền thống trong quan hệ xã hội phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Chính sách pháp luật của Nhà nước cùng với đạo đức xã hội và phong tục tập quán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình hòa giải viên thực hiện nhiệm vụ của mình. Người hòa giải viên nếu biết kết hợp chính sách, pháp luật của Nhà nước với các chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta sẽ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của hòa giải. Để đạt được sự thành công đó, người hòa giải viên phải hiểu, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trước hết, cần nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan mật thiết với công tác hòa giải ở cơ sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế...); pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, quan hệ cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn...); pháp luật đất đai; pháp luật hành chính, pháp luật hình sự... Bên cạnh việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hòa giải viên cần nắm vững các phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương để động viên, khuyên nhủ các bên dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên việc vận dụng các phong tục tập quán, câu ca dao, tục ngữ phải có sự chọn lọc cho phù hợp, tránh giáo lý, hủ tục lạc hậu. Ví dụ, ở Tây Nguyên, hòa giải viên có thể kết hợp một số quy định tiến bộ trong luật tục Êđê để hòa gải. Cụ thể trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, luật tục Êđê coi trọng việc “vợ chồng kết hôn ăn ở bền vững, không bỏ nhau” hoặc luật tục nhấn mạnh trách nhiệm của con cái với cha mẹ, không có cử chỉ bất kính, vâng lời cha mẹ không bỏ nhà đi lang thang, có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ, ông bà. Nếu vi phạm quy định của luật tục thì có thể bị mất quyền thừa kế tài sản.... đây là một số quy định tiến bộ của luật tục mà hòa giải viên có thể khai thác và vận dụng hợp lý
  • 34. 28 vào từng vụ việc cụ thể để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhằm củng cố giữ gìn hạnh phúc trong mỗi gia đình, dòng họ. Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã bổ sung điểm mới quan trọng vào nguyên tắc này. Đó là “phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi”. Bởi vì, người Việt Nam vốn sống trong tình, quan tâm, đùm bọc, kính trên, nhường dưới, tình cảm gia đình, dòng họ, xóm giềng luôn là thiêng liêng và gần gũi, nếu hòa giải viên biết phát huy, khơi gợi những tình cảm này sẽ giúp cho việc hòa giải đạt kết quả mong muốn. 1.4.1.3. Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên. Khi mâu thuân, tranh chấp xảy ra, mỗi bên đều có lý riêng, tự cho mình là đúng, không thấy điều sai trái của mình gây ra cho người khác hoặc cố tình bảo vệ quyền lợi của mình một cách bất hợp pháp. Vì vậy, khi thực hiện hòa giải, hòa giải viên phải bảo đảm nguyên tắc khách quan, công minh để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, bình đẳng, quan tâm đến lợi ích của các bên tranh chấp. Là người trung, hòa giải viên không được thiên vị, không định kiến hay nể nang bên này mà cần phải lắng nghe các bên tranh chấp, đồng thời tôn trọng sự thật khách quan, công bằng, đề cao lẽ phải, tìm ra cách giải thích, phân tích cho mỗi bên hiểu rõ đúng, sai, không xuê xoa “dĩ hòa vi quý” cho xong việc. Hơn nữa, có khách quan, công bằng thì hòa giải viên mới tạo được lòng tin của các bên, để họ lắng nghe, tiếp thu ý kiến phân tích, giải thích của mình, từ đó có nhận thức và tự nguyện điều chỉnh hành vi cho phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán. Thông thường, khi có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật xảy ra nếu không được giải quyết kịp thời dễ dẫn đến việc bé xé ra to, việc đơn giản
  • 35. 29 thành việc phức tạp, phạm vi ảnh hưởng cũng như hậu quả của các vi phạm pháp luật và tranh chấp ngày càng lớn. Do đó, đòi hỏi hòa giải viên phải chủ động, kịp thời tiến hành hòa giải để phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật. Hoạt động hòa giải ở cơ sở đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc có lý, có tình, nghĩa là hòa giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội. Trước hết cần đề cao yếu tố tình cảm, dựa vào đạo đức xã hội để phân tích, khuyên nhủ các bên ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức: như con cái phải có hiếu với cha mẹ; anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau “như thể tay chân”, “chị ngã em nâng”, “máu chảy ruột mềm”, “môi hở răng lạnh”; vợ chồng sống với nhau phải có tình, có nghĩa : “đạo vợ, nghĩa chồng”, “ gái có công chồng chẳng phụ”, tất cả vì con cái; xóm giềng thì “ tối lửa tắt đèn có nhau”, “ vắng anh em xa mua láng giềng gần” và “thương người như thể thương thân”...Cùng với việc giải thích, thuyết phục các bên ứng xử phù hợp với các quy tắc đạo đức xã hội, hòa giải viên phải dựa vào pháp luật để phân tích, tư vấn pháp luật, đưa ra những lời khuyên và hướng dẫn các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và pháp huy những tình cảm, đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Để thực hiện hòa giải thành, hòa giải viên phải tìm hiểu rõ ngọn ngành của vụ việc: nguyên nhân phát sinh, diễn biến của vụ việc, thái độ của các bên...Trong số các thông tin cần thiết đó, đôi khi có những thông tin liên quan đến bí mật đời tư của các bên tranh chấp. Khi được các bên tranh chấp tin tưởng, thổ lộ thông tin thầm kín về đời tư của mình cho hòa giải viên thì hòa giải viên cần tôn trọng và không được phép tiết lộ những thông tin này. Ở đây, cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư cá nhân và những thông tin mà các bên tranh chấp che dấu về hành vi vi phạm pháp luật của mình.
  • 36. 30 1.4.1.4. Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng Việc hòa giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng, nghĩa là việc hòa giải không chỉ nhằm giải quyết tranh chấp, bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích của các bên mà còn phải bảo đảm lợi ích chung của xã hội, của nhà nước và của người khác. Trong mọi trường hợp, hòa giải viên không chỉ giúp các bên giải quyết tranh chấp mà còn góp phần giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Khi hướng dẫn các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp không được trái với quy định của pháp luật và không lợi dụng hòa giải để làm thiệt hại đến lợi ích của người thứ ba, của nhà nước và lợi ích công cộng. Đối với hòa giải ở cơ sở, các xung đột thường là các tranh chấp, xích mích liên quan đến đời sống hàng ngày trong các lĩnh vực như sử dụng lối đi chung, sử dụng điện nước sinh hoạt, đổ rác thải làm mất vệ sinh môi trường xung quanh...trong cộng đồng dân cư thường liên quan đến nhiều người khác ngoài các bên tranh chấp, hòa giải viên không thể vì mục đích đạt được hòa giải thành của các bên tranh chấp mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bất kỳ người nào khác. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình hòa giải, bên cạnh việc giúp các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp, hòa giải viên đã góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân. Hay nói cách khác, hoạt động hòa giải ở cơ sở chính là một hình thức phổ biến giáo dục pháp luật hiệu quả nhằm từng bước nâng cao nhận thức pháp luật và giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng đồng.
  • 37. 31 1.4.1.5. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở Đây là điểm mới của Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 so với Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998. Thực tiễn ở nơi này, nơi khác còn xảy ra tình trạng bất bình đẳng giới, còn ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ” gây nhiều khó khăn cho công tác hòa giải ở cơ sở...Xác định vị trí và tầm quan trọng của việc bảo đảm lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, nhất là đạo luật có nhiều mối liên quan trực tiếp đến người dân như Luật Hòa giải ở cơ sở, điều này thể hiện như sau: Đó là bình đẳng giới trong quy định đối với hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải. Về tiêu chuẩn, phương thức bầu hòa giải viên, quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, tổ hòa giải, tổ trưởng tổ hòa giải đều không phân biệt nam, nữ. Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức của tổ hòa giải “Mỗi tổ hòa giải có từ 03 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ”[46]. Bình đẳng giới còn được thể hiện trong các quy định về yêu cầu hòa giải, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình hòa giải, biên bản hòa giải, thực hiện các thỏa thuận hòa giải, theo dõi, đôn đốc thực hiện kết quả hòa giải thành đối với các bên là như nhau không phân biệt nam, nữ. 1.4.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở Hòa giải ở cơ sở với vai trò là phương thức giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật giữa các bên, giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố phát huy tình cảm, đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phạm vi hòa giải ở cơ sở gồm: 1.4.2.1. Các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật được tiến hành hòa giải Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: - Mâu thuẫn giữa các bên do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính
  • 38. 32 tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, giờ giấc sinh hoạt gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác... - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất. - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh chị em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng, xác định cha, mẹ, con, nuôi con nuôi, ly hôn. Khi hòa giải những vụ việc trên, hòa giải viên chỉ có quyền thuyết phục, giải thích để các bên tranh chấp tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, tổ viên tổ hòa giải không được xem xét giải quyết những vụ việc mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước như: chấm dứt nuôi con nuôi, truy nhận cha, mẹ cho con ngoài giá thú, phân xử việc ly hôn (cho hoặc không cho ly hôn), ép buộc các bên thực hiện các việc mà Luật Hôn nhân và gia đình cấm. - Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính. Hòa giải viên thực hiện hòa giải những tranh chấp phát sinh từ vi phạm pháp luật mà theo quy định những vi phạm đó chưa đến mức bị xử lý bằng biện pháp hành chính như trộm cắp vặt (rau, quả trong vườn, một số đồ dùng sinh hoạt có giá trị không lớn), đánh, chửi nhau gây mất trật tự công cộng gây thương tích nhẹ, lừa đảo, đánh bạc, va quệt xe cộ gây thương tích nhẹ. - Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây thì hòa giải viên có thể tiến hành hòa giải: + Trường hợp không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Như vậy, hòa giải viên được tiến hành hòa giải đối với vi phạm pháp luật hình sự mà không bị khởi tố vụ
  • 39. 33 án do có một trong các căn cứ như hành vi không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. + Trường hợp pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại đã không yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật hình sự gồm: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), Tôi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108), Tôi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội làm nhục người khác (Điều 121), Tội vu khống (Điều 122), Tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171). + Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyêt định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. - Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
  • 40. 34 trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II phần thứ năm của Luật Xử lý vi phạm hành chính. - Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm. 1.4.2.2. Những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật không hòa giải. Trong quá trình hòa giải, tổ hòa giải không hòa giải đối với các vụ việc sau đây: - Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Đó là các mâu thuẫn, tranh chấp làm tổn hại đến lợi ích chung của nhà nước, của cộng đồng. - Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự không được hòa giải. Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết như kết hôn trái pháp luật. Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm các điều kiện kết hôn, cụ thể: nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi); việc kết hôn do một hoặc bên bị ép buộc, không tự nguyện; việc kết hôn thuộc một trong những trường hợp Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm kết hôn như: kết hôn giả tạo, bị lừa dối kết hôn; người đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng; kết hôn giữa những người người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
  • 41. 35 của chồng. Đối với những trường hợp kết hôn trái pháp luật nêu trên, thì hòa giải viên không được hòa giải để các bên tự giải quyết, duy trì quan hệ hôn nhân và gia đình trái pháp luật đó. Tòa án sẽ xem xét, quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật. Vi phạm pháp luật về giao dịch dân sự không được hòa giải là những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Như vậy, các giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật như các giao dịch mua bán chất ma túy, mại dâm...thì không được hòa giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch đó. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. - Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp mà người bị hại không yêu cầu xử lý về hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định của pháp luật. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hành vi vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý hành chính
  • 42. 36 bao gồm bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính như giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào cơ sở giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. - Mâu thuân, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ ở bao gồm: Hòa giải tranh chấp về thương mại và hòa giải tranh chấp về lao động. Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm: “Thương lượng giữa các bên; hòa giải giữa các bên do một hoặc một cơ quan, tổ chức, cá nhân được các bên chọn làm trung gian hòa giải; giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại hoặc tòa án” [43]. Hòa giải tranh chấp lao động thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật Lao động: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động” [44]. Với mỗi loại tranh chấp lao động lại có các cơ quan giải quyết khác nhau. Theo đó, Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân gồm: hòa giải viên lao động và Tòa án nhân dân (Điều 200). Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao đông tập thể. Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyển do Hòa giải viên lao động, Tòa án nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết (Khoản 1 Điều 203). Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích gồm Hòa giải viên và Hội đồng trọng tài lao động (Điều 169).
  • 43. 37 Như vậy, các tranh chấp về lao động và thương mại không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tổ hòa giải ở thôn, xóm, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư. 1.5. Quá trình hình thành và phát triển của thể chế hòa giải ở cơ sở tại Việt Nam 1.5.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945 Với bản chất nhân văn sâu sắc, hòa giải ở cơ sở có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời. Hoạt động hòa giải hình thành và phát triển trường tồn gắn liền với truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được kế thừa và phát huy thể hiện truyền thống tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc ta. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, các vị vua rất chú trọng đến việc đem lại cho người dân cuộc sống bình yên, ổn định bằng con đường hòa giải ở cơ sở, tránh việc kiện tụng gây mất trật tự, an ninh chính trị. Đời vua Lê Dụ Tông, trong thể lệ cử kiện có ghi rằng: “Tri huyện là viên quan gần gũi với dân, khi thấy hai bên nguyên bị mới bắt đầu kiện nhau, thì nên xem xét tất cả, rồi đem lý lẽ sự việc hiểu khuyên dụ cho họ nghe ra, khuyên đi bảo lại để cảm hóa họ, hòa giải hai bên” [35]. Trong chỉ dụ của vua Lê Huyền Tông đã ghi: Riêng các xã trưởng, nếu trong làng có sự tranh tụng phải vô tư phân xét và hòa giải. Không được xui nguyên giục bị rồi lại tự nắm lấy việc xử. Cũng không được tự đặt ra những luật lệ riêng rồi dựa vào những luật lệ ấy mà chiếm đoạt tài sản khiến cho các nạn nhân phải bán nhà đất cho khánh kiệt, cô lập họ, không cho tham dự các buổi tập họp, hội hè mà trái phép nước [1]. Thông sức của Ngự Sử Đài năm Vĩnh Thịnh thứ 15(1719) đã quy định: Các huyện lệnh được trao cho trách nhiệm gần dân, lời kêu của hai bên lúc đầu đều đã quang minh xét đoán; bấy giờ lòng