SlideShare a Scribd company logo
1 of 130
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH BÌNH
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
Hµ Néi – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các ví dụ sử dụng trong luận văn đảm báo tính trung
thực, chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc
Gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Thanh Bình
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT ................................6
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật .................................6
1.1.1. Khái niệm giải thích pháp luật .........................................................................6
1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật.........................................................................7
1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật.....................................................................8
1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật ...........................................................................11
1.1.5. Phạm vi giải thích pháp luật...........................................................................14
1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật.................................19
1.2.1. Vị trí của Tòa án trong Bộ máy Nhà nước.....................................................19
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. Mục đích, ý nghĩa GTPL
do Tòa án thực hiện........................................................................................28
1.3. Giải thích pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới.................................32
1.3.1. Giải thích pháp luật ở Trung Quốc ................................................................32
1.3.2. Giải thích pháp luật ở Hàn Quốc....................................................................36
1.3.3. Giải thích pháp luật ở Hoa Kỳ .......................................................................39
Kết luận Chương 1...................................................................................................44
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ QUAN ĐIỂM,
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI
THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM..........................................................45
2.1. Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam .............................................45
2.1.1. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp ....................................45
2.1.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp .................................52
2.1.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án Việt Nam....................................57
2.2. Quan điểm về đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật ở Việt Nam hiện nay.............................................................................90
2.2.1. Thực hiện giải thích pháp luật của Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam.............90
2.2.2. Giải thích pháp luật của Tòa án nhằm thực hiện vai trò của tòa án trong
việc bảo vệ công lý, quyền, lợi ích của con người.........................................97
2.2.3. Giải thích pháp luật của Tòa án phải gắn với đặc điểm chính trị, xã hội
của đất nước và phải có lộ trình hợp lý, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm
GTPL trên thế giới .......................................................................................100
2.3. Một số giải pháp đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật ở Việt Nam hiện nay...........................................................................102
2.3.1. Cần trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án...........................................102
2.3.2. Phát triển án lệ, đăng tải công khai các bản án, quyết định của Tòa án.............108
2.3.3. Nâng cao trình độ, năng lực và đạo đức của Thẩm phán.............................110
2.3.4. Xây dựng, ban hành Luật về giải thích pháp luật.............................................112
2.3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giải thích pháp luật.....................................114
2.3.6. Nâng cao chất lượng lập pháp......................................................................115
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ
BHVBQPPL: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng Dân sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
ĐƯQT: Điều ước quốc tế
GTPL: Giải thích pháp luật
HĐLĐ: Hợp đồng lao động
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
QH: Quốc Hội
TANDTC: Tòa án Nhân dân Tối cao
UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
VKSNDTC: Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1. Lý luận về giải thích pháp luật là một bộ phận quan trọng của khoa học pháp
lý, được tổng kết từ thực tiễn giải thích pháp luật ở nhiều nước, có tính phổ biến, có giá
trị hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động giải thích pháp luật ở mỗi quốc gia. Việc giải thích
pháp luật có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể giải thích pháp luật.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ thể về giải thích pháp luật chưa được quan tâm đúng mức,
chưa có điều kiện chính thức để nhận quyền giải thích pháp luật.
2. Hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
thực hiện theo quyền hạn, thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu. Pháp luật Việt Nam
không trao quyền giải thích pháp cho Tòa án nhưng để thực hiện chức năng xét xử
của mình, Tòa án nhân dân Tối cao đã tham gia vào hoạt động giải thích pháp luật
một cách có hiệu quả. Trong những năm qua, Tòa án có vị trí, vai trò nhất định
trong hoạt động giải thích pháp luật.
3. Nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền và Cải
cách tư pháp theo những yêu cầu và mục tiêu chiến lược đã được hoạch định. Trao
quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là một trong những biện pháp bảo đảm cho sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
4. Hiện nay, việc trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án đang có nhiều
tranh cãi cả về mặt thực tiễn và lý luận
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật” ở Việt Nam hiện nay là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số đề tài, công trình nghiên cứu giải thích
pháp luật, giải thích hiến pháp với mục đích, góc độ phạm vi tiếp cận khác nhau
trong đó ít nhiều đề cập đến vấn đề học viên đang nghiên cứu.
Tìm hiểu lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy, hoạt động giải thích pháp luật
đã được ghi nhận từ rất sớm, từ năm 1959. Tòa án thường xuyên giải thích pháp luật
thông qua hoạt động của mình song không được thừa nhận chính thức. Nhưng cho
đến nay, với nhiều lý do, tình hình triển khai hoạt động này của chủ thể được trao
quyền trên thực tế là còn rất hạn chế. Mới một lần duy nhất UBTVQH (sau đây viết
2
tắt là UBTVQH) thực hiện thẩm quyền này. Vì vậy, về mặt nghiên cứu, chưa có bất
cứ một luận văn, luận án nào đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Có một số bài viết, bài
báo, công trình nghiên cứu, đề tài khoa học có đề cập. Nhưng số lượng không nhiều
và phạm vi đề cập thì còn rất hạn chế. Có thể kể đến một số bài viết, bài báo, công
trình nghiên cứu hay đề tài khoa học liên quan đến hoạt động giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh sau đây:
Một số bài viết
Luận án tiến sĩ Luật học “Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của
Phạm Thị Duyên Thảo năm 2012; “Thẩm quyền của UBTVQH về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh”, “Về quyền lập pháp của Quốc hội” của TS. Hoàng Văn Tú,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2000 và số 11/2002; “Bàn về UBTVQH”, “Sự
chuyển biến chức năng của Nghị viện”, “Sự hạn chế của quyền lực Nhà nước”, “thể
chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Khoa
học/ Kinh tế – Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003 và số 2/2005; “Giải
thích luật ở các nước theo hệ thống thông luật” Nguyễn Thuý Hà, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 5 T6/2001; “Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến ở các nước”
Nguyễn Đức Lam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2001...;
* Một số cuốn sách
“Hiến pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Nxb ĐHQG Hà Nội 2011;
Chủ biên: PGS, TS Nguyễn Đăng Dung, PGS, TS Phạm Hồng Thái, PGS-TS Phạm
Công Giao; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, PGS, TS Nguyễn Đăng
Dung (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2004; “Cơ chế bảo hiến”, Đặng Văn
Chiến (Chủ biên), Phó trưởng Ban công tác lập pháp. Nxb Tư pháp, Hà Nội năm
2005; “Quy trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội”, Ban Công tác lập pháp, Hà
nội 2005; “Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền”, Ths Bùi Ngọc
Sơn, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005...; “Quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước và
yêu cầu về kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”, GS Đào Trí Úc
* Đề tài khoa học
Đề tài khoa học cấp bộ của Văn phòng Quốc hội: “Đổi mới và hoàn thiện quy
trình lập pháp của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của UBTVQH” (mã số: 99 - 98 -
169 năm 2001) do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm; Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH”, Mã
3
số: 94-98-106/ĐT của Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội, do TS. Nguyễn Văn
Thuận, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội làm Chủ nhiệm.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả của các bài viết, bài báo, công
trình nghiên cứu và đề tài khoa học trên, Luận văn là công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật
về vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Luận văn có mục đích tổng quát là nghiên cứu các nội dung, tình hình thực
tiễn của tòa án trong hoạt động giải thích pháp luật; đề xuất các giải pháp hoàn thiện
để cho hoạt động này đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao, góp phần tăng cường
pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
Với mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Xây dựng và làm rõ các khái niệm và nội dung có liên quan; tìm hiểu nội
dung các quy định của pháp luật, cách thức tiến hành ở một số nước trên thế giới để
tìm ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, xây dựng cơ sở lý luận của
hoạt động giải thích pháp luật
- Đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý và tình hình thực hiện hoạt động giải thích
pháp luật ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử để tìm ra những tồn tại và nguyên
nhân; xây dựng cơ sở thực tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện
hoạt động giải thích pháp luật của tòa án ở nước ta hiện nay, phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
Là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
nên Luận văn tập trung vào các vấn đề sau:
- Lý luận về giải thích pháp luật pháp luật
- Hoạt động giải thích pháp luật của chủ thể là cơ quan lập pháp, hành pháp
và Tòa án
- Giải pháp đảm bảo vai trò giải thích pháp luật của Tòa án ở Việt Nam
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương
pháp luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các nguyên tắc của lý
luận về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật
trong thời kỳ đổi mới. Do đó, phương pháp nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp, phân tích các thông tin, tư liệu
liên quan đến nội dung nghiên cứu;
- Sử dụng phương so sánh, đối chiếu để so sánh, đối chiếu các quy định của
pháp luật với thực tiễn hoạt động, các quy định của pháp luật nước ngoài với pháp
luật Việt Nam;
- Sử dụng phương pháp thống kê và điều tra xã hội học và khảo sát thực tiễn
để hình thành các quan điểm và số liệu cụ thể trong nội dung luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Một là: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên xây dựng cơ sở lý luận một
cách toàn diện về hoạt động giải thích pháp luật. Lần đầu tiên hệ thống các khái niệm
và nội dung có liên quan đến hoạt động giải thích pháp luật và làm rõ về nội hàm và
bản chất một cách đầy đủ và có hệ thống;
- Hai là, Luận văn đã thể hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về
cơ sở pháp lý cũng như tình hình thực hiện hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án
qua các giai đoạn lịch sử. Từ đó, thấy được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân
làm cho hoạt động này chưa thật sự được phát huy;
- Ba là, dựa vào những luận chứng, luận cứ và kinh nghiệm đã được rút ra trong
quá trình phân tích, Luận văn đã đề xuất những giải pháp toàn diện, cụ thể và có tính khả
thi, phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội Việt Nam, góp phần tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực
tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của tòa án và có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy; đồng thời, là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và
giám sát việc thi hành pháp luật.
5
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật và vai trò của
Tòa án trong giải thích pháp luật
Chương 2: Thực trạng giải thích pháp luật và Quan điểm, giải pháp đảm bảo
vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
6
Chương 1
SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật
1.1.1 . Khái niệm giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật được tiếp cận từ nhiều phương diện, tuy có sự thống
nhất song cũng bao hàm cả sự khác biệt nhất định ở các quốc gia trên thế giới. Mỗi
quốc gia đều có sự tiếp cận giải thích pháp luật nhất định, có nhiều định nghĩa về
giải thích pháp luật.
Theo quan điểm của các nhà khoa học Nga, giải thích pháp luật bao gồm hai
phương diện của giải thích pháp luật, hai bộ phận hợp thành: làm sáng rõ ý nghĩa,
lời văn của các quy định pháp luật và giải thích pháp luật. Làm sáng rõ ý nghĩa, lời
văn của các quy định pháp luật có mục đích xác lập ý nghĩa của quy định pháp luật,
còn giải thích pháp luật lại có mục đích cụ thể hơn là giải thích rõ ý nghĩa của các
thuật ngữ, quy định đó tác động đến những đối tượng nào, mối tương quan giữa các
quy định đó với những quy định ráp ranh…
Các nhà nghiên cứu pháp lý ở Việt Nam đã đưa ra những định nghĩa khác
nhau về giải thích pháp luật. Có những định nghĩa tập trung xác định phạm vi, khu
vực của giải thích pháp luật là tại nơi diễn ra hoạt động áp dụng pháp luật; có định
nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ ngữ nghĩa của thuật ngữ giải thích,
có phần nhấn mạnh đến hoạt động giải thích pháp luật không chính thức; có định
nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ chung, chú trọng nhiều đến tính phổ
quát, tính logic học của giải thích pháp luật, bao gồm các hoạt động giải thích pháp
luật chính thức và không chính thức.
Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì giải thích pháp luật cũng phải bao
hàm các vấn đề sau:
Tính thẩm quyền của hoạt động giải thích pháp luật. Tính thẩm quyền là một
đặc điểm tất yếu của hoạt động giải thích pháp luật bởi vì nó đem đến cho hoạt động
giải thích pháp luật tính chính thức và giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên dù họ
có những giải thích khác nhau về cùng một quy phạm;
Tính chất, phạm vi của giải thích pháp luật là một hoạt động độc lập, khác
7
biệt với hoạt động xây dựng pháp luật. Giải thích pháp luật là xác định những quy
tắc xử sự, là đọc nghĩa của những quy phạm pháp luật đó;
Đối tượng trực tiếp của giải thích pháp luật là quy phạm pháp luật hay một
quy tắc xử sự nào đó. Đối tượng của giải thích pháp luật cũng có thể là tập quán
pháp, tiền lệ pháp và cả chính sách pháp luật. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu của giải
thích pháp luật vẫn là pháp luật thành văn mà hình thức phổ biến và cơ bản nhất là
các văn bản quy phạm pháp luật;
Mục đích của giải thích pháp luật. Mục đích cao nhất và mang tính quyết
định nhất của giải thích pháp luật là xác định đúng quy tắc xử sự mà nhà lập pháp
đã thể hiện trong các quy định của pháp luật để giúp cho việc nhận thức, thực hiện
pháp luật đúng đắn và thống nhất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về giải thích pháp luật như sau: Giải thích
pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về tư tưởng, tinh thần, ý nghĩa và nội dung,
mục đích của các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc nhận thức và thực hiện
đúng, thống nhất pháp luật.
Làm sáng tỏ quy định pháp luật được coi là bước trước của giải thích pháp
luật. Trước khi giải thích pháp luật nhà giải thích phải làm sáng rõ ý nghĩa, nội
dung. Trong quá trình giải thích pháp luật, các nhà giải thích pháp luật không được
đặt thêm mới hay bổ sung các quy định pháp luật mà công việc của họ là giải thích
ý nghĩa, nội dung của quy phạm pháp luật để hiểu, áp dụng cho đúng đắn, thống
nhất chúng trong cuộc sống.
1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật
Có nhiều hình thức giải thích pháp luật dựa vào các tiêu chí khác nhau khi
phân loại.
Nếu căn cứ vào tiêu chí chủ thể giải thích pháp luật thì có giải thích pháp luật
của Quốc hội, của cơ quan hành pháp, tòa án, của cơ quan và của các tổ chức, cá
nhân khác.
Căn cứ theo tiêu chí đối tượng của hoạt động giải thích, giải thích pháp luật có
hai hình thức giải thích các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng pháp
luật, tập quán pháp luật, giải thích Hiến pháp, giải thích Luật, giải thích Pháp lênh…
Căn cứ vào giá trị pháp lý, có thể chia thành hai hình thức giải thích pháp
luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức.
8
Giải thích không chính thức không mang tính bắt buộc thực hiện đối với các
chủ thể liên quan mà nó chỉ có giá trị tham khảo. Chủ thể của loại giải thích này bao
gồm tất cả các chủ thể pháp luật như các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học.v.v.
Sản phẩm của loại giải thích này là các ấn phẩm bình luận khoa học về các bộ luật
hay các văn bản pháp luật.
Chủ thể của giải thích pháp luật không chính thức trong đó có các nhà khoa
học pháp lý, các luật gia, các Thẩm phán giàu kinh nghiệm có tác động quan trọng
tới ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, và thông qua đó, tới hoạt động thực
tiễn và áp dụng pháp luật.
Chủ thể giải thích pháp luật chính thức là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo luật định, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục pháp luật nhất định.
Giải thích chính thức có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bằng
nhà nước. Sản phẩm của giải thích pháp luật chính thức là các văn bản giải thích
pháp luật. Trong giải thích pháp luật chính thức được chia thành hai loại: giải thích
chính thức mang tính quy phạm và giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể
(hay giải thích tình huống).
Giải thích chính thức mang tính quy phạm là giải thích pháp luật mà trong đó
nội dung giải thích được thể hiện dưới dạng một văn bản quy phạm pháp luật, được
thực hiện bởi cơ quan quyền lực nhà nước theo một trình tự độc lập trên cơ sở khái
quát từ thực tế của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Văn bản thể hiện nội
dung giải thích có giá trị chính thức, bắt buộc đối với mọi cơ quan quyền lực nhà
nước lập pháp, hành pháp, tư pháp…
Giải thích tình huống là hoạt động giải thích gắn liền với việc giải quyết một
vụ việc cụ thể; nội dung giải thích không mang tính quy phạm, chí có giá trị pháp lý
đối với các chủ thể trong vụ việc được giải quyết mà không có giá trị đối với các
chủ thể ở các vụ việc pháp lý khác; hoạt động này thường được tiến hành bới Tòa
án và các cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành khi giải quyết một tranh chấp hoặc
xét xử một vụ án cụ thể.
1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật
Phương pháp GTPL có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của việc
giải thích pháp luật. Thông thường, để làm sáng tỏ một nội dung, tư tưởng và ý
nghĩa của các quy định pháp luật, các phương pháp giải thích pháp luật thường
được sử dụng bao gồm:
9
1.1.3.1. Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm
Đây là phương pháp phổ biến, chủ yếu nhất và không thể thiếu được khi tiến
hành hoạt động giải thích pháp luật. Với phương pháp này để làm sáng tỏ nội dung,
tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng từ, từng câu và xác
định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của quy phạm đó. Phương pháp
này đặc biệt quan trọng và cần thiết khi tiến hành giải thích những văn bản pháp
luật mà trong đó có nhiều câu chữ, ngôn từ chuyên môn được sử dụng lần đầu, còn
mới lạ và không dễ nhận thức đối với những người không phải là luật gia hay nhà
chuyên môn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng pháp luật, ngôn ngữ, văn phạm không
phải bao giờ cũng thể hiện được đầy đủ, chính xác, rõ ràng ý chí của Nhà nước dẫn
đến các chủ thể thực hiện pháp luật có thể hiểu nhầm, hiểu sai, hiểu không đầy đủ…ý
chí của nhà nước. Ngôn ngữ không phải bao giờ cũng chuyển tải một cách chính xác,
đầy đủ ý chí đích thực của Nhà nước nên chỉ sử dụng phương pháp giải thích ngôn
ngữ, văn phạm để giải thích pháp luật là chưa đủ. Do vậy, nếu lời văn của quy phạm
hay văn bản quy phạm không thể hiện được ý chí của Nhà nước mà chủ thể ban hành
pháp luật cần thể hiện thì cần có sự giải thích trước bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ngay sau khi văn bản được ban hành. Trong trường hợp các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền không giải thích trước chỉ đến khi thực hiện mới có xung đột về nhận
thức và thực hiện các quy định pháp luật thì phải căn cứ vào lời văn đã được thể hiện
trong văn bản để giải thích nếu nội dung quy định pháp luật cần được giải thích có
liên quan đến lợi ích và quyền tự do dân chủ của nhân dân.
1.1.3.2. Phương pháp giải thích logic
Phương pháp giải thích logic là thông qua những phán đoán, suy luận, những
quy luật của tư duy logic để làm sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Bằng suy
đoán logic có thể cho phép người nhận thức đạt tới chân lý trong quá trình phân tích
nội dung quy phạm pháp luật. Với tư duy logic còn giúp cho người soạn thảo các
văn bản pháp luật tạo ra những điều luật vừa khái quát, rõ ràng, chính xác lại vừa dễ
hiểu. Phương pháp này thường được sử dụng kết hợp với phương pháp giải thích
ngôn ngữ và phương pháp giải thích hệ thống trong trường hợp lời văn của quy
phạm hay văn bản pháp luật không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của Nhà nước. Ở Việt
Nam do tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao nên phương pháp này
10
thương chỉ được sử dụng để giải thích từng văn bản riêng biệt, ít được sử dụng để
giải thích cho cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
1.1.3.3. Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử
Là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư tưởng của quy phạm thông qua việc
nghiên cứu các điều kiện, hoàn cảnh chính trị - lịch sử đã dẫn đến việc ban hành
quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó và nhiệm vụ chính trị mà nhà nước
mong muốn đạt được khi ban hành quy định hay văn bản pháp luật đó.
Xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ còn rất nhiều những biến đổi quan trọng nên
việc sử dụng phương pháp giải thích chính trị - lịch sử để giải thích các quy định
pháp luật cần được chú ý nhiều hơn trong tương lai.
1.1.3.4. Phương pháp giải thích hệ thống
Sử dụng phương pháp này để làm rõ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật
bằng cách đối chiếu nó với các quy phạm pháp luật khác, xác định vị trí, vai trò của
quy phạm đó trong chế định pháp luật, trong ngành luật hoặc trong toàn bộ hệ thống
pháp luật. Đối với các nhà nước hiên đại thì pháp luật là một hệ thống có cấu trúc rất
chặt chẽ, do vậy có thể sử dụng lý thuyết hệ thống để tìm hiểu nội dung của các quy
định pháp luật. Phương pháp này giúp phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng chéo hay
thiếu sót của quy phạm pháp luật hoặc của các bộ phận trong hệ thống pháp luật.
1.1.3.5. Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng và Giải thích pháp
luật theo cách hạn chế
Xét về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn,
không thêm, không bớt. Trên thực tế, cách giải thích này là phổ biến nhất, nội dung
lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu theo đúng từng từ, từng câu mà nó thể
hiện. Tuy nhiên, nếu chỉ giải thích pháp luật theo nghĩa đen thì trên thực tế đôi khi
sẽ gặp một số trường hợp lời giải thích sẽ là vô lý, không thể chấp nhận được. Vì
vậy, có những trường hợp cần phải giải thích theo cách phát triển mở rộng hoặc giải
thích hạn chế khi nhận thấy sự vô lý quá rõ ràng.
Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng: có nghĩa là giải thích nội
dung quy định hay văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ được thể
hiện trong quy định hay văn bản pháp luật, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà
người làm luật muốn thể hiện trong quy định hay văn bản pháp luật (nội dung lời
giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy định pháp luật mà nó giải thích)
11
Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế chỉ là những trường hợp ngoại lệ,
hiếm khi xảy ra, chúng không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại, chúng là một
trong những điều kiện để tăng cường pháp chế. Bởi vì, khi áp dụng nguyên tắc này
không thể giải thích pháp luật một cách tùy tiện mà nhằm bổ khuyết những thiếu sót
của kỹ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện pháp luật hiểu đúng, đủ nội
dung thực sự của các quy định pháp luật, ý chí đích thực của Nhà nước được thể
hiện trong đó. Trong trường hợp, lời văn của quy định pháp luật thật sự rộng hơn
hoặc hẹp hơn so với nội dung thật của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc hạn
chế nếu không việc giải thích mở rộng, hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế. Trong
nhiều trường hợp, việc giải thích pháp luật mở rộng hoặc hạn chế phụ thuộc vào
điều kiện chính trị - lịch sử của đất nước.
Các phương pháp giải thích pháp luật và các hình thức giải thích pháp luật
luôn có quan hệ mất thiết với nhau, không đươc loại trừ lẫn nhau. Trong quá trình
giải thích pháp luật cần phải sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức giải thích
pháp luật khác nhau để khắc phục, loại trừ sự nhận thức không đúng nội dung, tinh
thần quy định pháp luật.
1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật
Yếu tố có tính quyết định đến nội dung hoạt động giải thích pháp luật là chủ
thể giải thích pháp luật. Trên thế giới có những nước qui định chủ thể có thẩm
quyền giải thích pháp luật là Toà án, có những nước quy định chủ thể có thẩm
quyền giải thích pháp luật là Cơ quan lập pháp và có những nước quy định chủ thể
giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực của nhà nước gồm
Toà án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan hành chính và cả cơ quan lập pháp.
1.1.4.1. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án
Đối với các nước có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước
theo thuyết “Tam quyền phân lập” thì chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật
là Tòa án, điển hình là Anh, Mỹ. Đây là các quốc gia có truyền thống sử dụng án
lệ và tính hàm súc của hiến pháp. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
được tổ chức và hoạt động trong thế kìm chế, đối trọng nhau. Quyền giải thích
pháp luật được trao cho Tòa án là để hạn chế quyền lực Nhà nước và là cơ sở để
tạo nên sự cân bằng và đối trọng về quyền lực đối với hai hệ thống quyền lực lập
pháp và hành pháp.
12
Các thẩm phán ở các quốc gia Anh, Mỹ khi giải thích một vụ việc cụ thể phải
đối mặt với hàng nghìn án lệ và phải có nghĩa vụ phân tích, giải thích án lệ và các
quy định của pháp luật có liên quan, có nghĩa vụ phải xem xét tính hợp hiến của
một văn bản pháp luật khi áp dụng một vụ việc, trường hợp cụ thể.
Thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án được quy định trong những văn
bản pháp luật quan trọng của quốc gia hoặc được coi như là chủ thể hiển nhiên
trong hoạt động giải thích pháp luật.
Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án thì đối tượng giải thích pháp luật nhìn
chung không bị hạn chế, có thể là bất cứ hình thức pháp luật nào từ hiến pháp, các
đạo luật, các văn bản dưới luật và các hình thức khác của pháp luật. Các quốc gia có
chủ thể giải thích pháp luật đặc biệt coi trọng hình thức giải thích pháp luật mang
tính vụ việc – hình thức đặc thù của giải thích pháp luật.
1.1.4.2. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp
Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp về cơ bản là
được tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “tập quyền”. Các quốc gia có chủ
thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp gồm có các quốc gia theo hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa và một số nước như Canada, Cu Ba, Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên, Việt Nam… Quyền lực tập trung, thống nhất không có hoặc ít có sự kìm chế,
đối trọng. Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan quyền lực cao nhất, do nhân dân bầu ra,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với các quốc gia có chủ thể giải
thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì tòa án không được thừa nhận và không có
quyền giải thích pháp luật.
Tuy nhiên, từ nhiều năm trở lại đây, các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa truyền thống cũng đã dần trao quyền chính thức giải thích pháp
luật cho Tòa án hoặc đã ủy quyền cho Tòa án thực hiện chức năng này.
Đối tượng giải thích pháp luật của các quốc gia có chủ thể giải thích là các
cơ quan lập pháp chủ yếu là các văn bản pháp luật như Hiến pháp, luật, một số
văn bản pháp luật quan trọng như văn bản pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Nghị định của Chính phủ. Án lệ không được xem là một hình thức hay
nguồn của pháp luật.
Ở các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì chủ thể
có quyền yêu cầu giải thích pháp luật cũng hạn chế, không phải bất kỳ cơ quan, tổ
13
chức hoặc cá nhân nào mà thường là các chủ thể có thẩm quyền trình dự án luật mới
có quyền yêu cầu giải thích pháp luật. Quy trình giải thích pháp luật thường được quy
định cụ thể, chi tiết. Các bước của quy trình giải thích pháp luật thường giống như
quy trình pháp luật. Sản phẩm giải thích ít mang tính lý lẽ pháp luật và đôi khi khó
phân tách với nội dung hướng dẫn, bổ sung, quy định chi tiết để thực hiện pháp luật.
Theo xu hướng chung hiện nay, các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là
cơ quan lập pháp có xu hướng mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho tòa án.
Đây là một xu hướng tất yếu của đời sống pháp lý, không riêng ở bất kỳ quốc gia nào.
1.1.4.3. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả
ba nhánh quyền lực nhà nước gồm: Tòa án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan
hành chính và cả cơ quan lập pháp
Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cả ba cơ quan quyền lực nhà
nước thì họ không tổ chức quyền lực nhà nước theo thuyết “tam quyền phân lập”
cũng không tổ chức nhà nước theo hình thức tập trung quyền lực. Quốc gia có chủ
thể giải thích pháp luật là ba cơ quan quyền lực nhà nước hiện nay không nhiều,
điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc. Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là
cả ba cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt nhấn mạnh đến nhiệm vụ của giải thích
pháp luật và vai trò của tòa án trong việc giải thích pháp luật được đề cao.
Chủ thể giải thích pháp luật thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp thì hoạt động
giải thích pháp luật thường là kiêm nhiệm, giải thích theo sự ủy quyền của chủ thể
khác, trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Có nhiều chủ thể được trao
quyền giải thích pháp luật. Đối với chủ thể thuộc nhóm cơ quan hành pháp thì giải
thích pháp luật chủ yếu là các sản phẩm pháp luật được ban hành theo thẩm quyền
của họ. Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng ban hành các quy phạm pháp luật,
chưa đựng việc diễn giải các văn bản pháp luật có giá trị cao hơn. Đối với các cơ
quan hành chính thì phương thức giải thích pháp luật có thể mang tính quy chuẩn
thông qua việc ban hành các văn bản chính như các chỉ thị, hướng dẫn, thông báo,
hướng dẫn thi hành hoặc mang tính cụ thể thông qua việc trả lới các câu hỏi cụ thể
về ý nghĩa của luật có thẩm quyền. Chủ thể thuộc cơ quan lập pháp giải thích pháp
luật bằng chính văn bản luật, nó giải thích luật của cấp cao hơn vì chúng cần phải
được đặt trong phạm vi ý nghĩa của luật cấp cao hơn.
Tuy nhiên, các cơ quan giải thích pháp luật song đều được tòa án xem lại cho
14
từng vụ việc cụ thể, nếu các giải thích là đúng thẩm quyền, hợp lý thì sẽ được tòa án
thừa nhận nếu không sẽ bị hủy giá trị. Điều này chứng tỏ tòa án ngày càng có vai trò
quan trọng trong việc giải thích pháp luật.
Không có một khuôn mẫu chung cho các quốc gia về giải thích pháp luật vì
cách thức tổ chức nhà nước, trình độ và kinh nghiệm xây dựng nhà nước, đời sống
và tập quán pháp lý ở mỗi quốc gia đều khác nhau. Mỗi quốc gia đều chủ động tổ
chức hoạt động giải thích pháp luật nhằm đảm bảo tính hữu hiệu và an toàn của hệ
thống pháp luật. Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án, cơ quan lập pháp hay cả ba
cơ quan quyền lực đều có những thế mạnh, ưu nhược điểm riêng nhưng phát triển
theo xu thế chung hiện nay, có tính quy luật thì tòa án ngày càng được chú trọng
hơn trong hoạt động giải thích pháp luật và đang dần là chủ thể chủ yếu của hoạt
động giải thích pháp luật.
1.1.5 . Phạm vi giải thích pháp luật
1.1.5.1. Phạm vi giải thích pháp luật
Bất cứ một hoạt động pháp lý nào cũng phải có một phạm vi nhất định, đặc
biệt đối với hoạt động có tính nhạy cảm cao như giải thích pháp luật. Nhận thức
được phạm vi của hoạt động giải thích pháp luật và điều chỉnh nó theo một chừng
mực nhất định là việc cần thiết.
Phạm vi của giải thích pháp luật là các vấn đề được cho phép thực hiện hoạt
động giải thích pháp luật. Tức là các vấn đề mà nằm trong đó thì được phép giải
thích còn các vấn đề mà không nằm trong đó thì không được phép giải thích. Trong
các vấn đề được hoạt động giải thích pháp luật điều chỉnh thì chủ thể của giải thích
pháp luật được quyết định, được thể hiện. Phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật,
từng chế độ chính trị của từng quốc gia mà các vấn đề được giải thích có những quy
định cụ thể để điều chỉnh. Để phạm vi giải thích pháp luật được hiện hữu thì phái có
các nguyên tắc giải thích, pháp luật về giải thích, đối tượng, thẩm quyền, giải thích,
phương pháp, hình thức giải thích…Và khi có các quy định về giải thích pháp luật
thì để giải thích pháp luật phải thực hiện theo đúng như đã được quy định.
Trước hết, ngôn ngữ chính là một trong những phạm vi của giải thích pháp
luật. Giải thích pháp luật theo truyền thống: “giải thích pháp luật là hoạt động có lý
trí, nó mang đến cho văn bản pháp luật một nghĩa chứa đựng trong ngôn ngữ (cộng
đồng hoặc cá nhân) của văn bản đó” [60, tr.29]. Ngôn ngữ văn bản là điểm đầu và
15
cũng là cái đích để hướng tới của quá trình giải thích pháp luật. Và khi giải thích
người ta cũng có thể đưa đến cho văn bản một nghĩa mở rộng hoặc có thể hạn chế
hơn theo nghĩa mà ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó thể hiện. Theo Aharon.
Barak lập luận
Mỗi một ngữ nghĩa mà người giải thích đưa ra cho một văn bản
pháp luật phải có một vị trí “Asimet” trong ngôn ngữ của văn bản. Nhà
giải thích không phải là một nhà ngôn ngữ, nhưng nhà giải thích có thể
phải đặt mình vào vị trí của nhà ngôn ngữ khi giải thích pháp luật. Một
nhà giải thích không thể đưa ra nghĩa mà một nhà ngôn ngữ không thể
đưa ra nó [60, tr.19]
Và tất nhiên để giải thích thì phải đáp ứng đúng các quy định về giải thích
như các chủ thể có thẩm quyền giải thích, ngôn ngữ của văn bản cần giải thích.
Phạm vi của giải thich pháp luật nằm trong phạm vi của văn bản pháp luật và phạm
vi của văn bản pháp luật nằm trong ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó.
Learned Hand đã nói:
Từ ngữ là thất thường, ngôn ngữ không phải là một công cụ rõ
ràng. A.Holmes thì cho rằng: Ngôn ngữ không đảm nhiệm một sự đơn lẻ,
duy nhất một nghĩa trong trạng thái bình thường của tất cả người nghe…
Một từ không là viên pha lê, trong suốt và không thay đổi, nó là làn da
của một tư duy sống động và có thể có màu sắc đa dạng, to lớn và nội
dung theo hoàn cảnh và thời gian trong cái mà nó sử dụng [62].
Theo nhận xét của AHolmes cũng không hoàn toàn chính xác nhưng cũng có
thể thấy ngôn ngữ là một cái vô cùng mềm dẻo, linh hoạt, có thể trở nên mơ hồ, có
thể có một hoặc nhiều nghĩa và có khả năng cần thiết cho các vấn đề có nghĩa khác
nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Chính vì vậy, bản thân ngô ngữ cũng cần phải
có, phải được hiểu trong một phạm vi nhất định. Phạm vi đó để khẳng định một điều
“ngôn ngữ không thể đảm nhiệm bất kỳ một nghĩa nào mà một người giải thích mong
muốn”. “Ngôn ngữ đó chỉ có thể trong phạm vi mà được suy ra từ văn bản, từ cấu
trúc, tổ chức và mối liên hệ giữa các sự cung cấp khác nhau của nó” [88, tr.22].
Văn bản giải thích pháp luật không thể được giải thích theo ngôn ngữ mà
ngời nghe cảm thấy “bất ổn”. Phạm vi giải thích pháp luật được tiếp cận theo hai
cách, đó là giải thích pháp luật truyền thống thông thường và giải thích pháp luật
16
theo nghĩa mở rộng. Giải thích pháp luật theo nghĩa truyền thống thông thường tức
là giải thích theo nghĩa mà ngôn ngữ đem lại một cách đơn giản, dễ hiểu. Giải thích
pháp luật theo nghĩa mở rộng tức là có thể đưa ra cho văn bản pháp luật một nghĩa
nằm ngoài phạm vi ngôn ngữ của nó, một nghĩa có thể đưa ra từ vùng nghĩa bóng
của từ ngữ văn bản pháp luật cần giải thích. Giải thích pháp luật theo nghĩa rộng là
thể hiện quyền tự quyết định của các nhà giải thích pháp luật. Khi chủ thể thực hiện
giải thích thực hiện quyền tự quyết định cũng cần phải dựa trên những nguyên tắc
nhất định để có thể lấp đầy khoảng trống trong văn bản, hoặc giải quyết những mâu
thuẫn mang tính quy phạm, hoặc sửa chữa lỗi trong văn bản hoặc thay đổi ngôn ngữ
trong văn bản để tránh sự vô lý hoặc hoàn thành mục đích của văn bản bằng những
thay đổi nhất định… Nhưng điều đó không co nghĩa là không nằm trong phạm vi,
tức là mặc dù giải thích theo nghĩa rộng song cũng phải có phạm vi nhất định. Phạm
vi đó không nằm ngoài các luật lệ về giải thích, các chính sách pháp luật, các
nguyên tắc pháp lý của quốc gia, phạm vi đó cũng không thể quá xa lạ với đại bộ
phận dân chúng, phạm vi đó phải được đại bộ phận dân chúng hiểu, chấp nhận.
1.1.5.2. Ý nghĩa của việc xác định phạm vi giải thích pháp luật
Thứ nhất, Việc xác định phạm vi giải thích pháp luật là để thiết lập tính hợp
pháp của hoạt động giải thích. Tính hợp pháp được thể hiện việc chủ thể giải thích
là chủ thể được pháp luật quy định. Các chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật
thì các sản phẩm mà các chủ thể đó thực hiện mới có giá trị pháp lý. Sản phẩm đó
được ra đời trên cơ sở đã được rút kinh nghiêm, tham khảo từ thực tiễn xã hội, từ hệ
thống văn bản pháp luật, từ sự giải thích pháp luật không chính thức, từ các thẩm
phán, từ các cuộc hội thảo, tranh luận.
Thứ hai, phạm vi của giải thích pháp luật giúp hạn chế lạm quyền.
Phạm vi của giải thích pháp luật là việc chỉ ra quyền tự quyết định của chủ thể
giải thích pháp luật được thực hiện khi nào, được giải thích đến đâu, mức độ giải
thích. Chủ thể giải thích pháp luật là có quyền giải thích pháp luật nhưng không phải
giải thích tùy tiện mà phải giải thích trên cơ sở các quy định của pháp luật, thực hiện
ra các phán quyết nhất định dựa vào sự lựa chọn của bản thân chủ thể giải thích. Khi
ngôn ngữ của đối tượng giải thích có sự không rõ ràng hoặc hiểu theo nghĩa bóng.
Một quy định pháp luật đưa ra sẽ tồn tại ba cách hiểu, hiểu theo nghĩa đen, nghĩa
bóng và hiểu theo cách vừa nghĩa đen vừa nghĩa bóng. Với cách hiểu không phải là
17
nghĩa đen thì chủ thể giải thích pháp luật có quyền giải thích pháp luật theo ý chí của
mình song phải theo những nguyên tắc đó phải theo khuôn khổ do pháp luật quy
định. Việc giải thích thế nào, đến đâu, mức độ ra sao thì phải dựa trên lợi ích chung
tránh cho việc giải thích chỉ phục vụ lợi ích cá nhân. Theo như cách giải thích thông
thường, thẩm phán có thể không tạo ra một văn bản pháp luật mới, cách thức này đã
đáp ứng được mục đích làm sáng tỏ nội dung cần giải thích. Nếu thẩm phán cần phải
tìm một nguồn khác trong quá trình giải thích do hệ thống giải thích thông thường
không cung cấp cho họ, thì họ sẽ phải hoạt động cả ra ngoài phạm vi mà pháp luật
quy định. Do vậy, cần phải xác định ranh giới cần phải giải thích. Ví dụ như Tòa án
có quyền giải thích pháp luật thì cần phải giới hạn cho Tòa án giải thích những vấn đề
gì. Tòa án có chức năng xét xử thì có quyền giải thích các điều khoản trong bộ luật
mà mình áp dụng để việc xét xử được thống nhất chứ không phải vấn đề nào cũng
tham gia giải thích, không thể thực hiện việc giải thích các hoạt động của Quốc hội
hay của cơ quan nào khác không thuộc phạm vi hoạt động của mình.
Để có được phạm vi giải thích pháp luật nhất thiết phải đặt ra các luật lệ,
nguyên tắc của giải thích pháp luật. Từ các nguyên tắc, luật lệ sẽ xác định quy tắc,
hành vi cho các chủ thể giải thích pháp luật trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình. Các nguyên tắc, quy định sẽ hướng dẫn các chủ thể giải thích, tác động
trực tiếp đến ý thức pháp luật của họ, định hướng cho họ phải nghĩ thế nào, giải thích
thế nào? Các nguyên tắc, quy định pháp luật sẽ ngăn ngừa các chủ thể giải thích tùy
tiện đồng thời qua đó việc giải thích pháp luật được công khai trong cuộc sống. Chính
việc công khai này là sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Ngoài việc đặt ra các quy định, luật lệ, nguyên tắc để thực hiện nghiêm túc,
hiệu quả giải thích pháp luật thì phải có cơ chế kiểm soát đối với các quy định về
giải thích pháp luật. Cơ chế kiểm soát sẽ đánh giá tính hợp pháp, hợp lý, chất lượng
của các quy định của pháp luật về giải thích pháp luật
Thứ ba, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện đảm bảo cho chủ thể áp
dụng pháp luật (Thẩm phán) nhận thức, áp dụng và thực hiện pháp luật thống nhất.
Để các Thẩm phán đều hiểu và áp dụng pháp luật một cách thống nhất không phải
đơn giản. Với các điều luật được sử dụng ngôn ngữ không chính xác, dễ hiểu, đặc
biệt ngôn ngữ Việt Nam được ví von “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam” hoặc chỉ với việc đặt dấu phẩy sai vị trí, hoặc sử dụng từ có nhiều nghĩa sẽ
18
dẫn đến tình trạng mỗi người hiểu một khác, dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác
nhau, thậm chí có thể là mâu thuẫn. Hơn thế nữa, trình độ, kinh nghiệm của các
Thẩm phán không được đồng đều. Chính vì vậy, Tòa án nhân dân Tối cao phải có
hướng dẫn cụ thể để các Thẩm phán hiểu được thống nhất pháp luật dẫn đến việc áp
dụng và thực hiện thống nhất.
Từ việc nhận thức, áp dụng, thực hiện pháp luật của Thẩm phán trong việc
giải quyết vụ việc cụ thể thì bản án, quyết định là sản phẩm giải thích pháp luật của
Thẩm phán sẽ có tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức tất yếu sẽ được phản hồi lại từ phía người dân, xã hội, họ sẽ đánh giá sản
phẩm giải thích pháp luật của Tòa án có chất lượng hay không? Có thực sự đem lại
niềm tin cho nhân dân hay không? Thực tế cho thấy, có những bản án, quyết định
được dư luận, nhân dân đồng tình ủng hộ nhưng cũng có những bản án, quyết định
đã gặp phải sư phản đối, không đồng tình từ phía người dân.
Với cùng một điều luật, không thể có tình trạng nhận thức, áp dụng và thực
hiện khác nhau giữa các thẩm phán. Nếu có tình trạng đó, vô hình chung Tòa án sẽ
không còn là biểu tượng của công lý.
Thứ tư, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện sẽ xóa bỏ dần dần khoảng
cách giữa thực tế và pháp luật thành văn. Xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ
xã hội ngày càng trở nên phức tạp, có những quan hệ xã hội (hay tội phạm) mới mà
pháp luật thành văn chưa điều chỉnh, chưa có quy định. Mặc dù pháp luật chưa có
quy định nhưng các quan hệ, tội phạm đó vẫn diễn ra từng ngày, từng giờ không thể
không xử lý. Vì việc không xử lý sẽ có hậu quả khôn lường. Ví dụ hiện nay trong
Luật Hôn nhân và Gia đình quy định một người nam một người nữ kết hôn với nhau
là vợ chồng. Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội nước ta có những người cùng giới
tính ăn ở, sinh hoạt với nhau như “vợ chồng”. Pháp luật nước ta chưa quy định hay
thừa nhận về vấn đề này nhưng trong xã hội hiện tồn tại và có chiều hướng phát
triển. Vậy chúng ta hiểu, nhìn nhận vấn đề này như thế nào cho thống nhất? Để cho
vấn đề này về mặt pháp luật không còn là “lỗ hổng” (chưa có quy định) ?
Thứ năm, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện nhằm để nâng cao ý thức
pháp luật của người dân, đồng thời nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của chủ
thể áp dụng pháp luật (Thẩm phán). Thông qua quá trình giải quyết vụ án hàng ngày
tiếp xúc với nhân dân, thông qua quá trình hoạt động xét xử của Tòa án: phiên tòa
19
công khai, phiên tòa lưu động giúp cho nhân dân hiểu được pháp luật hơn, nâng cao ý
thức pháp luật, sự chấp hành pháp luật của người dân. Đồng thời, với mỗi sản phẩm
giải thích pháp luật có chất lượng cũng giúp các thẩm phán hiểu và áp dụng pháp luật
thống nhất hơn và qua đó cũng nâng cao trình độ áp dụng pháp luật của thẩm phán.
Thứ sáu, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện là sự thể hiện trình độ, giá
trị của pháp luật, xã hội mà quốc gia đạt được.
Khi thẩm phán giải thích pháp luật không thể đặt sự giải thích của mình
ngoài giá trị của pháp luật, giá trị xã hội. Pháp luật của mỗi quốc gia là sự thể hiện
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ văn hóa của mỗi quốc gia. Các giá trị
trên chỉ được hiện thực hóa thông qua pháp luật.
Thông qua sự giải thích pháp luật của Tòa án, cũng sẽ đánh giá được sự phát
triển của xã hội trong tương lai. Ví dụ, hiện nay đối với các tội phạm về ma túy,
TANDTC hướng dẫn thống nhất cần phải xử lý nghiêm, riêng các tội phạm về buôn
bán ma túy thì cần phải xử lý nghiêm và áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Thông qua hướng dẫn của TANDTC, có thể đánh giá được xu hướng phát triển
phức tạp của loại tội phạm về ma túy. Tại quy định của BLHS năm 1999 được sửa
đổi bổ sung năm 2009 thì Tại Điều 194 quy định Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Tuy nhiên đối với người tàng trữ để sử dụng
vì họ nghiện ma túy thì tính chất nguy hiểm không thể bằng đối tượng mua bán trái
trái phép chất ma túy để kiếm lợi nhuận. Cần phải có quy định riêng, từng tội cụ thể
để thể hiện sự đánh giá tính chất nguy hiểm của hai loại tội trên, xóa bỏ sự khác
nhau giữa luật thành văn và thực tế. Hay hiện nay, xã hội ngày càng phát triển thì
xuất hiện nhiều loại tội phạm về công nghệ thông tin. Bộ luật hình sự cần phải có
quy định về loại tội phạm này.
1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật
1.2.1. Vị trí của Tòa án trong Bộ máy Nhà nước
Tại Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VIệt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
20
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp [35].
Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Song song với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương
cải cách tư pháp, để công tác tư pháp ngang tầm với những đòi hỏi của Nhà nước
pháp quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII
(23-1-1995) xác định rõ “…Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức..” [9]. Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân” [10].
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 nêu:
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có
những tiến bộ quan trọng, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp
luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo
khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng
pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại…Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao
và phát huy trên thực tế [1].
- Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiên ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà
chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước
Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Do vậy, Toà án nhân dân có vị trí rất
quan trọng trong bộ máy nhà nước. Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân
địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21
Chức năng và thẩm quyền của Toà án được quy định trong Hiến pháp 2013,
Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật
tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác.
Toà án là nơi biểu hiện quyền lực mạnh mẽ nhất, sâu sắc nhất, mọi phán
quyết của Toà án có tính cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước. Theo quy định tại
Điều 136 HP 1992 quy định:
Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn
vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh [22]. Tại Điều 106 Hiến pháp
2013 đã được sửa đổi như sau: Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [35].
Nhà nước luôn tạo ra một hệ thống thiết chế, chế tài hỗ trợ cho bản án,quyết
định được thực hiện trong thực tế cuộc sống được quy định trong Hiến pháp – văn
bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Và trong Bộ luật hình sự hiện hành có quy định ba
tội phạm liên quan đến phán quyết của toà án, đó là tội “không chấp hành án” (Điều
304), tội “không thi hành án” (Điều 305) và tội “cản trở việc thi hành án” (Điều 306).
Toà án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
có hiệu quả nhất, bằng việc đưa lên phương tiện thông tin đại chúng các phiên toà
xét xử, tổ chức xét xử lưu động ngoài tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa riêng
và phòng ngừa chung, còn có tác dụng tuyên truyền, giới thiệu, giải thích cho quần
chúng nhân dân về pháp luật để mọi người hiểu biết thêm về pháp luật và hướng họ
tới “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bằng các hoạt động, Toà án
góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
- Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ-
TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc;
trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trung tâm”, [3]
điều này được thể hiện ở các điểm sau:
22
+ Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, chỉ có Toà án mới có quyền tuyên bố một người có tội hoặc vô tội và áp
dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp khác đối với họ;
+ Toà án xét xử theo chế độ hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Ngoài ra, Toà án còn thực hiện chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hay
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có sự vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng, hoặc phát hiện có những
tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án… để đảm bảo hoạt động xét xử của Toà án
phải là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai xảy ra;
+ Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá nhân, cơ quan
tổ chức nào được phép can thiệp, tác động làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử
của Toà án. Phán quyết của Toà án là nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; Bản án, quyết định của Toà án có tính cưỡng chế nhà nước khiêm
khắc nhất để đảm bảo hiệu lực thi hành;
+ Trong tố tụng hình sự, mọi hoạt động điều tra, truy tố đều phục vụ quá
trình xét xử, phục vụ cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Bản án, quyết định của Toà án làm cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội;
+ Khi nói đến quyền tư pháp là phải nói đến Toà án, Toà án là nơi biểu hiện
một cách mạnh mẽ, tập trung và rõ ràng nhất quyền lực tư pháp thông qua hoạt
động xét xử;
+ Ngoài chức năng xét xử, Toà án còn có nhiệm vụ đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và
mọi cá nhân. Trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án hình sự, Toà án có nhiệm vụ
tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, để từ đó có những kiến nghị, yêu cầu đối
với cá nhân có trách nhiệm, tổ chức, cơ quan nhà nước có liên quan có những biện
pháp hợp lý và kịp thời để chống và ngăn ngừa tội phạm mới phát sinh.
+ Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ra quyết định thi hành bản án, Toà án
có nhiệm vụ phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan đoàn thể, cơ quan
Viện kiểm sát để theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo được hưởng án treo, cải tạo
23
không giam giữ, xét giảm thời gian thử thách đối với những người bị phạt tù nhưng
cho hưởng án treo, công tác đặc xá.
+ Trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế Toà án là nơi bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân khi có tranh chấp xảy ra, luôn cố gắng
xây dựng mối đoàn kết trong nhân dân qua việc xét xử, hoà giải các tranh chấp dân
sự, hôn nhân và gia đình, hàn gắn và khôi phục lại một phần những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân, giữ được truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta là đoàn kết,
thân ái, giúp đỡ, chín bỏ làm mười, lá lành đùm lá rách, trọng tình, nghĩa…
Tại Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 quy định: Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:
1. Tòa án nhân dân Tối cao;
2. Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3. Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Các Tòa án quân sự;
5. Các Tòa án khác do luật định
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể có quyết định thành lập
Tòa đặc biệt [29, Điều 2].
Hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức cùng với đơn vị hành chính từ cấp
huyện đến cấp trung ương. Hiện nay, cả nước có hơn 700 tòa án nhân dân cấp
huyện, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao; Tổng biên chế của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 4088 người, trong đó có 1.170 thẩm phán trung cấp;
tổng biên chế tòa án nhân dân cấp huyện là 10.427 người, tròng đó có 4.865 thẩm
phán trung cấp và sơ cấp. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa
án theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002,
cụ thể như sau:
- Cơ cấu Tổ chức Tòa án nhân dân Tối cao gồm có:
+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao:
+ Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao; trong trường
hợp cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao.
+ Bộ máy giúp việc
24
- Theo quy định tại Điều 19 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân
Tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
+ Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm
xét xử của các Tòa án;
+ Giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp;
+ Trình Quốc hội dự án luật và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án pháp
lệnh theo quy định của pháp luật
Về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao, theo quy định của Điều
20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân Tối cao có thẩm quyền xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trực tiếp bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban Thẩm phán,
Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, bộ máy giúp
việc.Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: sơ thẩm những vụ án theo
quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật tố tụng; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản
án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng.
Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa
án nhân dân cấp huyện có bộ máy giúp việc (văn phòng); xét xử sơ thẩm những vụ
án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Tóm lại: hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay được tổ chức tương ứng với đơn
vị hành chính từ cấp huyện trở lên và có 3 cấp Tòa án.
Bên cạnh đó, hệ thống Tòa án quân sự được tổ chức theo địa bàn quân khu,
hiện hệ thống tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự trung ương; 9 Tòa án quân sự
cấp quân khu và 17 Tòa án cấp khu vực. Thẩm quyền của Tòa án quân sự các cấp:
xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy
định của pháp luật. Hệ thống Tòa án quân sự được tổ chức theo 3 cấp, và thẩm
quyền xét xử chủ yếu là xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ. Vì
25
vậy, cơ cấu tổ chức bộ máy Tòa án quân sự gọn nhẹ phù hợp với thẩm quyền xét xử
của từng cấp tòa quân sự.
Hiến pháp 2013 của nước ta được Quốc hội Khóa XIII thông qua ngày
28/11/2013 và có hiệu lực vào ngày 01/01/2014, là cơ sở hiến định cho quan trọng
cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
trong đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bằng các
quy định kế thừa các bản Hiến pháp cũ và tiếp thu những tư tưởng mới của Cải cách
tư pháp, Hiến pháp mới đã xác định Tòa án nhân dân có vị trí trung tâm và xét xử là
trọng tâm trong hoạt động tư pháp; thực sự nâng cao vị thế của Tòa án nhân dân
trong xã hội nước ta. Hiến pháp mới là cơ sở hiến định quan trọng cho công cuộc
đổi mới toàn diện ở đất nước ta nói chung, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân trong tiến trình cải cách tư pháp nói riêng trong thời gian tới
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp mới
của nước ta. Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong bản Hiến pháp mới. Nguyên tắc phân
công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn.
Với việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [35], Hiến pháp xác định rõ
ràng cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. TAND là cơ
quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; là cơ quan duy
nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định
của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các
tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của tòa án. Vì vậy, quy
định của Hiến pháp là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án
trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của Nhà nước pháp quyền. Hiến
pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm
của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Cũng là lần đầu tiên ngoài việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
26
pháp của tổ chức, cá nhân, Hiến pháp quy định nhiệm vụ của TAND là bảo vệ công
lý. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của TAND
đã được xác định. Là cơ quan có chức năng phán quyết về các vi phạm pháp luật,
các tranh chấp pháp lý, TAND có vai trò rất quan trọng không chỉ trong bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức cá nhân mà còn trong bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. Khi quyền,
lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án để bảo
vệ mình, tìm đến công lý. Các nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân bảo vệ công lý hòa quyện, bổ sung lẫn nhau như là một
thể thống nhất thể hiện vai trò, vị trí của TAND trong xã hội. Vì vậy, có thể nói,
Tòa án là biểu tượng của công lý
Hiến pháp mới có những quy định mới thể hiện vị thế của TAND được nâng
lên rõ rệt trong bộ máy Nhà nước ta. Ngoài việc xác định là cơ quan duy nhất thực
hiện quyền tư pháp; quy định nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thể hiện vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp.
Bên cạnh việc Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu, Hiến pháp mới quy định Thẩm
phán TANDTC do Quốc hội phê chuẩn tương xứng với các cán bộ cao cấp khác của
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp; thay cho Chánh án TANDTC, Thẩm phán các
Tòa án khác do Chủ tịch nước trực tiếp bổ nhiệm; nguyên tắc độc lập xét xử của tòa
án được nhấn mạnh và ở tầm hiến định nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức can thiệp
vào hoạt động xét xử của Tòa án; quy định mở về hệ thống Tòa án mở đường cho
việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử, không theo đơn vị hành chính… là những quy
định mới không chỉ khẳng định vị thế của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp
quyền mà còn là cơ sở hiến định quan trọng để TAND thực hiện có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của TAND được quy định trong
Hiến pháp mới phù hợp với địa vị, bản chất và chức năng của cơ quan tư pháp. Quy
định mới về hệ thống TAND gồm TANDTC và các Tòa án khác mở đường cho việc
tổ chức Tòa án theo cấp xét xử theo tinh thần Cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49
của Bộ Chính trị đã đề ra. Hiến pháp mới kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã
27
được các bản Hiến pháp cũ quy định. Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm nhân
dân tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử
công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở
mức cao hơn, chính xác hơn và có quy định ngoại lệ hợp lý. Đặc biệt, việc Hiến
pháp quy định nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện
nguyên tắc độc lập xét xử.
Đồng thời, Hiến pháp bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi
mới trong Cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp
cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của
những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt
động tư pháp nói chung,và trong xét xử của Tòa án nói riêng. Nguyên tắc thực hiện
chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được quy định trong hiến pháp là việc nâng lên
tầm hiến định nguyên tắc đã được quy định trong Luật tổ chức TAND và các luật tố
tụng tư pháp trước đây nhằm đảm bảo cho việc xét xử đúng đắn, khách quan, bảo vệ
quyền con người, bảo vệ công lý.
Thực tiễn cho thấy hoạt động tranh tụng tại phiên tòa vẫn còn hạn chế, tồn tại
từ quy định của pháp luật đến vai trò, trách nhiệm của Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, với tư cách là chủ thể quan trọng
nhất trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Mặc dù pháp luật về tố tụng có quy
định nhiều nội dung quan trọng cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Nhưng hoạt động
này hiện nay là vấn đề còn mới đối với đất nước ta. Về mặt lý luận còn có những
quan điểm nhận thức rất khác nhau, hệ thống quy định của pháp luật còn hạn chế,
chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chưa quy định rõ ràng, ranh giới giữa thủ tục hỏi và thủ
tục tranh luận trong các phiên tòa hình sự, dân sự, hành chính. Nội dung phần hỏi đã
làm rõ, đầy đủ về nội hàm vụ án nên làm cho phần tranh luận trở nên tẻ nhạt, ảnh
hưởng đến vai trò chủ thể của người tham gia tranh tụng như Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Luật sư… Quy định vấn đề tranh tụng sẽ tránh trường hợp theo “lệ cũ” khi xét
xử chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào kết quả của cơ quan điều tra, dễ dẫn đến việc
kết quả điều tra thế nào kết quả phiên xét xử sẽ như vậy. Hơn nữa đây là những sự
ràng buộc trách nhiệm giữa các bên tham gia tố tụng
28
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. Mục đích, ý nghĩa
GTPL do Tòa án thực hiện
Giải thích pháp luật (GTPL) là một hoạt động tất yếu, đóng vai trò quan
trọng trong việc đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống mà bất kỳ nhà nước nào
cũng phải thực hiện.
Giải thích pháp luật cần thiết cho nhiều mục đích khác nhau, để áp dụng pháp
luật, để tìm hiểu, nhận thức về các quy phạm pháp luật. GTPL cần thiết cho việc xây
dựng các quy định pháp luật mới. Nhất là trong điều kiện cải cách, hoàn thiện hệ
thống pháp luật như hiện nay thì rất cần thiết phải dựa vào thực tiễn các quy định
pháp luật đang tồn tại. GTPL cần thiết trong hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước, thực hiện pháp luật, tìm hiểu pháp luật của công dân. GTPL có mục
đích cơ bản là làm rõ ý nghĩa của quy định pháp luật, mục đích chính và khuynh
hướng của chúng, làm rõ bối cảnh, điều kiện xã hội cả việc ban hành chúng. Làm rõ
lời văn của quy phạm, ý chí của nhà làm luật trong quy định pháp luật. Không thể
thoát khỏi việc chịu trách nhiệm pháp lý với lý do không hiểu biết luật hoặc hiểu sai
luật. Chính vì vậy, hoạt động giải thích pháp luật lài càng cần thiết.
Giải thích pháp luật có khả năng giải quyết tính khái quát của các quy phạm
pháp luật bằng cách đặt nó đúng vào những quan hệ xã hội mà pháp luật mong
muốn điều chỉnh dù thực tế biểu hiện của các quan hệ ấy có riêng lẻ, rời rạc. Giải
thích pháp luật có khả năng đặt các quy phạm pháp luật có tính dự báo vào những
tình huống pháp lý trong những quan hệ xã hội mới nảy sinh với sự hợp lý, khoa
học. Việc giải quyết được các tình huống cần giải thích của các văn bản pháp luật
cụ thể cũng là sự đóng góp trí tuệ vào việc giữ gìn tính minh bạch của pháp luật,
bảo vệ và phát huy các giá trị của pháp luật.
Giải thích pháp luật có tác dụng đem lại những nhận thức nghiêm túc, đúng
đắn cho người dân về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật ở mỗi chủ thể pháp luật.
Giải thích pháp luật góp phần xây dựng đươc thái độ đúng đắn trước pháp luật, bao
gồm thái độ đúng đắn trong công tác lập pháp, công tác hành pháp, công tác tư pháp
và thái độ đúng đắn của mỗi công dân trong hành vi pháp lý của mình.
Giải thích pháp luật nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật. Khi các
chủ thê áp dụng pháp luật nhận thức và thực hiện một cách thống nhất pháp luật thì
chất lượng của việc áp dụng pháp luật được nâng cao, các quyết định áp dụng pháp
luật được đảm bảo đúng đắn hơn.
29
Giải thích pháp luật suy cho cùng là một nhu cầu tự nhiên, khách quan cũng
như chính bản thân pháp luật là cần thiết khách quan trong xã hội hiện đại. Không
chỉ giải thích những quy định pháp luật không rõ ràng mà các quy định có “rõ ràng,
dễ hiểu” trong pháp luật chỉ mang tính tương đối nên cũng cần phải giải thích để có
sự thống nhất.
GTPL sẽ làm khắc phục, hạn chế được sự tùy tiện trong việc hiểu, vận
dụng pháp luật, sự cố tình, hay vô ý hiểu sai lệch các quy định của pháp luật với
những động cơ, mục đích khác nhau. GTPL có vai trò to lớn, thiết thực để bảo vệ
và tăng cường sự tuân thủ, tôn trọng pháp luật – một trong những nguyên tắc của
nhà nước pháp quyền.
Trong lịch sử tư pháp của Việt Nam, Tòa án luôn có vai trò lớn trong việc
giải thích pháp luật thông qua các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, Thông tư
(bao gồm cả Thông tư tự mình ban hành hay các Thông tư liên tịch được ban hành
cùng với các cơ quan chức năng khác như Bộ Công an, Bộ Tư pháp hay Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao) của Tòa án nhân dân Tối cao với các chủ thể khác có thẩm quyền
và các công văn của Tòa án nhân dân Tối Cao. Tuy nhiên, sự ghi nhận vai trò này trong
pháp luật thực định diễn ra muộn hơn. Lần đầu tiên, Điều 14 Bộ luật dân sự 1995 quy
định: “trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận, thì
có thể áp dụng tập quán hoặc các quy định tương tự của pháp luật” [24]. Điều này
dẫn đến chính thức thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp như là nguồn của luật
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp dẫn
đến thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án. Vì vậy, Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 1996 đã chính thức thừa nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao là văn bản quy phạm pháp luật. Phạm vi giải thích
của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đến đâu? Chỉ đưa ra
các quy định chi tiết hóa luật hay các quy định mang tính “tiên phát”. Thực tế cho
thấy, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao chứa đựng cả
hai loại quy phạm nói trên và Hội đồng thẩm phán ra nghị quyết mà không phải
tham chiếu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải thích pháp luật
trong hoạt động xét xử, nên Tòa án còn sử dụng loại văn bản thứ hai là công văn
hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao. Công văn này mang tính chất luật rất cao
30
nhưng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 không ghi nhận là văn
bản quy phạm pháp luật. Ví dụ Công văn số 39/KHXX ngày 06/7/1996 của Tòa án
nhân dân Tối Cao đã phân định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa Tòa
án hành chính và cơ quan quản lý nhà nước khi vụ việc được đương sự đưa lên cấp
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần thứ hai đồng thời đưa vụ việc ra tòa hành
chính. Thực tế cho thấy loại công văn này chứa đựng các quy phạm mang tính chất
áp dụng chung và có hiệu lực trực tiếp mạnh mẽ nhưng lại không được đăng công
báo; làm ảnh hưởng quyền lợi của nhận dân và vô hình dung làm cho Tòa án Việt
Nam vi phạm các quy định về minh bạch hóa pháp luật tại Chương VI Hiệp định
thương mại Việt Mỹ 16. Hay một ví dụ khác, đó là Công văn số 165/KHXX ngày
18/10/2007 của Tòa án nhân dân Tối cao giải thích quy định tại Khoản 2 Điều 305
của Bộ luật dân sự. Để thi hành đúng và thống nhất quy định tại Khoản 2 Điều 313
của Bộ luật dân sự năm 1995 (BLDS 1995) tại điểm 1 Mục III của Thông tư liên
tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài
sản đã hướng dẫn như sau: “ … hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do
Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án” [46]. Tuy
nhiên, Bộ luật dân sự 2005 ban hành và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2006,
một số quy định đã có sự sửa đổi, bổ sung so với BLDS 1995. Tại Khoản 2 Điều
305 của BLDS 2005 quy định: “ Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì
bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán…” [32], có
nghiã là việc trả lãi đối với số tiền chậm trả phải theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng
nhà nước công bố. Hơn nữa, thực tế hiện nay các Ngân hàng đã bỏ mức lãi xuất nợ
quá hạn. Vì vậy, vấn đề này được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của
BLDS 2005. Ví dụ: Công văn số 40/KHXX ngày 06/4/2007 của Tòa án nhân dân
Tối cao về việc “Thụ lý giải quyết tranh chấp về họ”…
Giải thích pháp luật là một yêu cầu khách quan để đảm bảo tính minh bạch
và thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, nó gắn liền với sự tồn tại của nhà
nước và pháp luật. Mặc dù có ý nghĩa đặc biệt quan trọng song giải thích pháp luật
ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được chú ý, phát triển trên cả hai phương diện là lí
31
luận và thực tiễn đúng với tầm vóc vốn có của nó. Giai thích pháp luật chính thức
vẫn dừng lại là giải thích văn bản qui phạm pháp luật. Trong các văn bản qui phạm
pháp luật chỉ qui định việc giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban thường
vụ Quốc hội – một thiết chế cho đến nay chỉ thực hiện thẩm quyền này được năm
lần kể từ khi thành lập. Thực trạng này cho thấy tính minh bạch của hệ thống pháp
luật đang bị thách thức nghiêm trọng. Các phương pháp giải thích pháp luật ở Việt
Nam cũng chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản nào. Trong bối cảnh các đạo
luật, pháp lệnh đều tồn tại dưới dạng luật khung, nếu không có hướng dẫn chi tiết
thì việc thực hiện sẽ hết sức lung túng, mỗi người hiểu một kiểu, không truyền đạt
đúng đắn nội dung pháp lí trong các qui phạm pháp luật đến đối tượng thi hành.
Không ít các trường hợp, các văn bản hướng dẫn đó đã “xé rào” do cơ quan ban
hành không nhận thức đầy đủ các yêu cầu của nhà lập pháp. Trên thực tế, Tòa án
nhân dân Tối cao vẫn ban hành các nghị quyết và thông tư liên tịch với các cơ quan
nhà nước có liên quan để giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật, mặc dù nó
không được thừa nhận có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức. Bản chất và
giá trị pháp lý của các văn bản này đến nay vẫn chưa được khẳng định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần phải nhận thức lại về mục tiêu, bản
chất, nguyên tắc, phương pháp và các hình thức giải thích pháp luật của Việt Nam.
Không chỉ nội dung của các qui phạm pháp luật không rõ ràng, đa nghĩa dẫn
đến cần phải có hoạt động giải thích pháp luật mà cả trong trường hợp nội dung của
các qui phạm pháp luật khá rõ ràng nhưng do sự phát triển của các quan hệ xã hội
dẫn đến qui phạm pháp luật đó không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có cách giải
thích mở rộng, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hoặc khi xây dựng luật, các
nhà làm luật đã không đặt ra các qui tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội hoàn toàn
tương tự, dẫn đến phải có cách giải thích mở rộng để áp dụng pháp luật tương tự.
Dù cho trình độ lập pháp có phát triển đến đâu thì các nước văn minh vẫn tiếp tục
thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp bên cạnh văn bản qui phạm pháp luật. Việc
thừa nhận các loại nguồn này kéo theo việc thừa nhận quyền giải thích pháp luật của
Tòa án và các cơ quan áp dụng pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định, giải thích
pháp luật là một hoạt động tất yếu, cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa
các qui phạm pháp luật vào cuộc sống và mọi người đều phải thực hiện.
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nướcLuận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAYLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà NẵngLuận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
Luận văn: Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hải Châu, Đà Nẵng
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nayLuận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOTLuận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
 
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAYLuận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sựLuận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
 
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAYLuận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
 

Similar to Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT

Similar to Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT (20)

Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nướcĐề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước
 
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chínhVai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
 
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOTLuận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.pdf
Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.pdfVai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.pdf
Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.pdf
 
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 ĐiểmLuận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
Luận Văn Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, 9 Điểm
 
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docChế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAYĐề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
 
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.docChế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
 
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sưĐề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
 
Thời Hạn Tố Tụng Dân Sự.doc
Thời Hạn Tố Tụng Dân Sự.docThời Hạn Tố Tụng Dân Sự.doc
Thời Hạn Tố Tụng Dân Sự.doc
 
Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Hoạt Động Xây Dựng Pháp Luật Và Thực Hiệ...
Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Hoạt Động Xây Dựng Pháp Luật Và Thực Hiệ...Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Hoạt Động Xây Dựng Pháp Luật Và Thực Hiệ...
Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Hoạt Động Xây Dựng Pháp Luật Và Thực Hiệ...
 
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ THANH BÌNH VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 62 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ Hµ Néi – 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ sử dụng trong luận văn đảm báo tính trung thực, chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Thị Thanh Bình
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT ................................6 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật .................................6 1.1.1. Khái niệm giải thích pháp luật .........................................................................6 1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật.........................................................................7 1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật.....................................................................8 1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật ...........................................................................11 1.1.5. Phạm vi giải thích pháp luật...........................................................................14 1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật.................................19 1.2.1. Vị trí của Tòa án trong Bộ máy Nhà nước.....................................................19 1.2.2. Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. Mục đích, ý nghĩa GTPL do Tòa án thực hiện........................................................................................28 1.3. Giải thích pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới.................................32 1.3.1. Giải thích pháp luật ở Trung Quốc ................................................................32 1.3.2. Giải thích pháp luật ở Hàn Quốc....................................................................36 1.3.3. Giải thích pháp luật ở Hoa Kỳ .......................................................................39 Kết luận Chương 1...................................................................................................44 Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM..........................................................45 2.1. Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam .............................................45
  • 4. 2.1.1. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp ....................................45 2.1.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp .................................52 2.1.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án Việt Nam....................................57 2.2. Quan điểm về đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.............................................................................90 2.2.1. Thực hiện giải thích pháp luật của Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam.............90 2.2.2. Giải thích pháp luật của Tòa án nhằm thực hiện vai trò của tòa án trong việc bảo vệ công lý, quyền, lợi ích của con người.........................................97 2.2.3. Giải thích pháp luật của Tòa án phải gắn với đặc điểm chính trị, xã hội của đất nước và phải có lộ trình hợp lý, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm GTPL trên thế giới .......................................................................................100 2.3. Một số giải pháp đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay...........................................................................102 2.3.1. Cần trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án...........................................102 2.3.2. Phát triển án lệ, đăng tải công khai các bản án, quyết định của Tòa án.............108 2.3.3. Nâng cao trình độ, năng lực và đạo đức của Thẩm phán.............................110 2.3.4. Xây dựng, ban hành Luật về giải thích pháp luật.............................................112 2.3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giải thích pháp luật.....................................114 2.3.6. Nâng cao chất lượng lập pháp......................................................................115 KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................118 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................122
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ BHVBQPPL: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTDS: Bộ luật Tố tụng Dân sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ĐƯQT: Điều ước quốc tế GTPL: Giải thích pháp luật HĐLĐ: Hợp đồng lao động NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động QH: Quốc Hội TANDTC: Tòa án Nhân dân Tối cao UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật VKSNDTC: Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1. Lý luận về giải thích pháp luật là một bộ phận quan trọng của khoa học pháp lý, được tổng kết từ thực tiễn giải thích pháp luật ở nhiều nước, có tính phổ biến, có giá trị hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động giải thích pháp luật ở mỗi quốc gia. Việc giải thích pháp luật có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể giải thích pháp luật. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ thể về giải thích pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, chưa có điều kiện chính thức để nhận quyền giải thích pháp luật. 2. Hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện theo quyền hạn, thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu. Pháp luật Việt Nam không trao quyền giải thích pháp cho Tòa án nhưng để thực hiện chức năng xét xử của mình, Tòa án nhân dân Tối cao đã tham gia vào hoạt động giải thích pháp luật một cách có hiệu quả. Trong những năm qua, Tòa án có vị trí, vai trò nhất định trong hoạt động giải thích pháp luật. 3. Nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền và Cải cách tư pháp theo những yêu cầu và mục tiêu chiến lược đã được hoạch định. Trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là một trong những biện pháp bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. 4. Hiện nay, việc trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án đang có nhiều tranh cãi cả về mặt thực tiễn và lý luận Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật” ở Việt Nam hiện nay là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, có một số đề tài, công trình nghiên cứu giải thích pháp luật, giải thích hiến pháp với mục đích, góc độ phạm vi tiếp cận khác nhau trong đó ít nhiều đề cập đến vấn đề học viên đang nghiên cứu. Tìm hiểu lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy, hoạt động giải thích pháp luật đã được ghi nhận từ rất sớm, từ năm 1959. Tòa án thường xuyên giải thích pháp luật thông qua hoạt động của mình song không được thừa nhận chính thức. Nhưng cho đến nay, với nhiều lý do, tình hình triển khai hoạt động này của chủ thể được trao quyền trên thực tế là còn rất hạn chế. Mới một lần duy nhất UBTVQH (sau đây viết
  • 7. 2 tắt là UBTVQH) thực hiện thẩm quyền này. Vì vậy, về mặt nghiên cứu, chưa có bất cứ một luận văn, luận án nào đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Có một số bài viết, bài báo, công trình nghiên cứu, đề tài khoa học có đề cập. Nhưng số lượng không nhiều và phạm vi đề cập thì còn rất hạn chế. Có thể kể đến một số bài viết, bài báo, công trình nghiên cứu hay đề tài khoa học liên quan đến hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh sau đây: Một số bài viết Luận án tiến sĩ Luật học “Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Thị Duyên Thảo năm 2012; “Thẩm quyền của UBTVQH về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”, “Về quyền lập pháp của Quốc hội” của TS. Hoàng Văn Tú, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2000 và số 11/2002; “Bàn về UBTVQH”, “Sự chuyển biến chức năng của Nghị viện”, “Sự hạn chế của quyền lực Nhà nước”, “thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Khoa học/ Kinh tế – Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003 và số 2/2005; “Giải thích luật ở các nước theo hệ thống thông luật” Nguyễn Thuý Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5 T6/2001; “Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến ở các nước” Nguyễn Đức Lam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2001...; * Một số cuốn sách “Hiến pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Nxb ĐHQG Hà Nội 2011; Chủ biên: PGS, TS Nguyễn Đăng Dung, PGS, TS Phạm Hồng Thái, PGS-TS Phạm Công Giao; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, PGS, TS Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2004; “Cơ chế bảo hiến”, Đặng Văn Chiến (Chủ biên), Phó trưởng Ban công tác lập pháp. Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005; “Quy trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội”, Ban Công tác lập pháp, Hà nội 2005; “Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền”, Ths Bùi Ngọc Sơn, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005...; “Quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước và yêu cầu về kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”, GS Đào Trí Úc * Đề tài khoa học Đề tài khoa học cấp bộ của Văn phòng Quốc hội: “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của UBTVQH” (mã số: 99 - 98 - 169 năm 2001) do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm; Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH”, Mã
  • 8. 3 số: 94-98-106/ĐT của Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội, do TS. Nguyễn Văn Thuận, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội làm Chủ nhiệm. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả của các bài viết, bài báo, công trình nghiên cứu và đề tài khoa học trên, Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ Luận văn có mục đích tổng quát là nghiên cứu các nội dung, tình hình thực tiễn của tòa án trong hoạt động giải thích pháp luật; đề xuất các giải pháp hoàn thiện để cho hoạt động này đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao, góp phần tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật. Với mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Xây dựng và làm rõ các khái niệm và nội dung có liên quan; tìm hiểu nội dung các quy định của pháp luật, cách thức tiến hành ở một số nước trên thế giới để tìm ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, xây dựng cơ sở lý luận của hoạt động giải thích pháp luật - Đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý và tình hình thực hiện hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử để tìm ra những tồn tại và nguyên nhân; xây dựng cơ sở thực tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án - Đề xuất những quan điểm, giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hoạt động giải thích pháp luật của tòa án ở nước ta hiện nay, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân 4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn Là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật nên Luận văn tập trung vào các vấn đề sau: - Lý luận về giải thích pháp luật pháp luật - Hoạt động giải thích pháp luật của chủ thể là cơ quan lập pháp, hành pháp và Tòa án - Giải pháp đảm bảo vai trò giải thích pháp luật của Tòa án ở Việt Nam
  • 9. 4 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các nguyên tắc của lý luận về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Do đó, phương pháp nghiên cứu của luận văn bao gồm: - Sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp, phân tích các thông tin, tư liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu; - Sử dụng phương so sánh, đối chiếu để so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với thực tiễn hoạt động, các quy định của pháp luật nước ngoài với pháp luật Việt Nam; - Sử dụng phương pháp thống kê và điều tra xã hội học và khảo sát thực tiễn để hình thành các quan điểm và số liệu cụ thể trong nội dung luận văn. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Một là: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên xây dựng cơ sở lý luận một cách toàn diện về hoạt động giải thích pháp luật. Lần đầu tiên hệ thống các khái niệm và nội dung có liên quan đến hoạt động giải thích pháp luật và làm rõ về nội hàm và bản chất một cách đầy đủ và có hệ thống; - Hai là, Luận văn đã thể hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về cơ sở pháp lý cũng như tình hình thực hiện hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án qua các giai đoạn lịch sử. Từ đó, thấy được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân làm cho hoạt động này chưa thật sự được phát huy; - Ba là, dựa vào những luận chứng, luận cứ và kinh nghiệm đã được rút ra trong quá trình phân tích, Luận văn đã đề xuất những giải pháp toàn diện, cụ thể và có tính khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội Việt Nam, góp phần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của tòa án và có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy; đồng thời, là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và giám sát việc thi hành pháp luật.
  • 10. 5 8. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật và vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật Chương 2: Thực trạng giải thích pháp luật và Quan điểm, giải pháp đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
  • 11. 6 Chương 1 SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật 1.1.1 . Khái niệm giải thích pháp luật Giải thích pháp luật được tiếp cận từ nhiều phương diện, tuy có sự thống nhất song cũng bao hàm cả sự khác biệt nhất định ở các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều có sự tiếp cận giải thích pháp luật nhất định, có nhiều định nghĩa về giải thích pháp luật. Theo quan điểm của các nhà khoa học Nga, giải thích pháp luật bao gồm hai phương diện của giải thích pháp luật, hai bộ phận hợp thành: làm sáng rõ ý nghĩa, lời văn của các quy định pháp luật và giải thích pháp luật. Làm sáng rõ ý nghĩa, lời văn của các quy định pháp luật có mục đích xác lập ý nghĩa của quy định pháp luật, còn giải thích pháp luật lại có mục đích cụ thể hơn là giải thích rõ ý nghĩa của các thuật ngữ, quy định đó tác động đến những đối tượng nào, mối tương quan giữa các quy định đó với những quy định ráp ranh… Các nhà nghiên cứu pháp lý ở Việt Nam đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về giải thích pháp luật. Có những định nghĩa tập trung xác định phạm vi, khu vực của giải thích pháp luật là tại nơi diễn ra hoạt động áp dụng pháp luật; có định nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ ngữ nghĩa của thuật ngữ giải thích, có phần nhấn mạnh đến hoạt động giải thích pháp luật không chính thức; có định nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ chung, chú trọng nhiều đến tính phổ quát, tính logic học của giải thích pháp luật, bao gồm các hoạt động giải thích pháp luật chính thức và không chính thức. Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì giải thích pháp luật cũng phải bao hàm các vấn đề sau: Tính thẩm quyền của hoạt động giải thích pháp luật. Tính thẩm quyền là một đặc điểm tất yếu của hoạt động giải thích pháp luật bởi vì nó đem đến cho hoạt động giải thích pháp luật tính chính thức và giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên dù họ có những giải thích khác nhau về cùng một quy phạm; Tính chất, phạm vi của giải thích pháp luật là một hoạt động độc lập, khác
  • 12. 7 biệt với hoạt động xây dựng pháp luật. Giải thích pháp luật là xác định những quy tắc xử sự, là đọc nghĩa của những quy phạm pháp luật đó; Đối tượng trực tiếp của giải thích pháp luật là quy phạm pháp luật hay một quy tắc xử sự nào đó. Đối tượng của giải thích pháp luật cũng có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp và cả chính sách pháp luật. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu của giải thích pháp luật vẫn là pháp luật thành văn mà hình thức phổ biến và cơ bản nhất là các văn bản quy phạm pháp luật; Mục đích của giải thích pháp luật. Mục đích cao nhất và mang tính quyết định nhất của giải thích pháp luật là xác định đúng quy tắc xử sự mà nhà lập pháp đã thể hiện trong các quy định của pháp luật để giúp cho việc nhận thức, thực hiện pháp luật đúng đắn và thống nhất. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về giải thích pháp luật như sau: Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về tư tưởng, tinh thần, ý nghĩa và nội dung, mục đích của các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc nhận thức và thực hiện đúng, thống nhất pháp luật. Làm sáng tỏ quy định pháp luật được coi là bước trước của giải thích pháp luật. Trước khi giải thích pháp luật nhà giải thích phải làm sáng rõ ý nghĩa, nội dung. Trong quá trình giải thích pháp luật, các nhà giải thích pháp luật không được đặt thêm mới hay bổ sung các quy định pháp luật mà công việc của họ là giải thích ý nghĩa, nội dung của quy phạm pháp luật để hiểu, áp dụng cho đúng đắn, thống nhất chúng trong cuộc sống. 1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật Có nhiều hình thức giải thích pháp luật dựa vào các tiêu chí khác nhau khi phân loại. Nếu căn cứ vào tiêu chí chủ thể giải thích pháp luật thì có giải thích pháp luật của Quốc hội, của cơ quan hành pháp, tòa án, của cơ quan và của các tổ chức, cá nhân khác. Căn cứ theo tiêu chí đối tượng của hoạt động giải thích, giải thích pháp luật có hai hình thức giải thích các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng pháp luật, tập quán pháp luật, giải thích Hiến pháp, giải thích Luật, giải thích Pháp lênh… Căn cứ vào giá trị pháp lý, có thể chia thành hai hình thức giải thích pháp luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức.
  • 13. 8 Giải thích không chính thức không mang tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể liên quan mà nó chỉ có giá trị tham khảo. Chủ thể của loại giải thích này bao gồm tất cả các chủ thể pháp luật như các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học.v.v. Sản phẩm của loại giải thích này là các ấn phẩm bình luận khoa học về các bộ luật hay các văn bản pháp luật. Chủ thể của giải thích pháp luật không chính thức trong đó có các nhà khoa học pháp lý, các luật gia, các Thẩm phán giàu kinh nghiệm có tác động quan trọng tới ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, và thông qua đó, tới hoạt động thực tiễn và áp dụng pháp luật. Chủ thể giải thích pháp luật chính thức là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo luật định, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục pháp luật nhất định. Giải thích chính thức có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước. Sản phẩm của giải thích pháp luật chính thức là các văn bản giải thích pháp luật. Trong giải thích pháp luật chính thức được chia thành hai loại: giải thích chính thức mang tính quy phạm và giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể (hay giải thích tình huống). Giải thích chính thức mang tính quy phạm là giải thích pháp luật mà trong đó nội dung giải thích được thể hiện dưới dạng một văn bản quy phạm pháp luật, được thực hiện bởi cơ quan quyền lực nhà nước theo một trình tự độc lập trên cơ sở khái quát từ thực tế của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Văn bản thể hiện nội dung giải thích có giá trị chính thức, bắt buộc đối với mọi cơ quan quyền lực nhà nước lập pháp, hành pháp, tư pháp… Giải thích tình huống là hoạt động giải thích gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể; nội dung giải thích không mang tính quy phạm, chí có giá trị pháp lý đối với các chủ thể trong vụ việc được giải quyết mà không có giá trị đối với các chủ thể ở các vụ việc pháp lý khác; hoạt động này thường được tiến hành bới Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành khi giải quyết một tranh chấp hoặc xét xử một vụ án cụ thể. 1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật Phương pháp GTPL có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của việc giải thích pháp luật. Thông thường, để làm sáng tỏ một nội dung, tư tưởng và ý nghĩa của các quy định pháp luật, các phương pháp giải thích pháp luật thường được sử dụng bao gồm:
  • 14. 9 1.1.3.1. Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm Đây là phương pháp phổ biến, chủ yếu nhất và không thể thiếu được khi tiến hành hoạt động giải thích pháp luật. Với phương pháp này để làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng từ, từng câu và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của quy phạm đó. Phương pháp này đặc biệt quan trọng và cần thiết khi tiến hành giải thích những văn bản pháp luật mà trong đó có nhiều câu chữ, ngôn từ chuyên môn được sử dụng lần đầu, còn mới lạ và không dễ nhận thức đối với những người không phải là luật gia hay nhà chuyên môn. Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng pháp luật, ngôn ngữ, văn phạm không phải bao giờ cũng thể hiện được đầy đủ, chính xác, rõ ràng ý chí của Nhà nước dẫn đến các chủ thể thực hiện pháp luật có thể hiểu nhầm, hiểu sai, hiểu không đầy đủ…ý chí của nhà nước. Ngôn ngữ không phải bao giờ cũng chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ ý chí đích thực của Nhà nước nên chỉ sử dụng phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm để giải thích pháp luật là chưa đủ. Do vậy, nếu lời văn của quy phạm hay văn bản quy phạm không thể hiện được ý chí của Nhà nước mà chủ thể ban hành pháp luật cần thể hiện thì cần có sự giải thích trước bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngay sau khi văn bản được ban hành. Trong trường hợp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không giải thích trước chỉ đến khi thực hiện mới có xung đột về nhận thức và thực hiện các quy định pháp luật thì phải căn cứ vào lời văn đã được thể hiện trong văn bản để giải thích nếu nội dung quy định pháp luật cần được giải thích có liên quan đến lợi ích và quyền tự do dân chủ của nhân dân. 1.1.3.2. Phương pháp giải thích logic Phương pháp giải thích logic là thông qua những phán đoán, suy luận, những quy luật của tư duy logic để làm sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Bằng suy đoán logic có thể cho phép người nhận thức đạt tới chân lý trong quá trình phân tích nội dung quy phạm pháp luật. Với tư duy logic còn giúp cho người soạn thảo các văn bản pháp luật tạo ra những điều luật vừa khái quát, rõ ràng, chính xác lại vừa dễ hiểu. Phương pháp này thường được sử dụng kết hợp với phương pháp giải thích ngôn ngữ và phương pháp giải thích hệ thống trong trường hợp lời văn của quy phạm hay văn bản pháp luật không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của Nhà nước. Ở Việt Nam do tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao nên phương pháp này
  • 15. 10 thương chỉ được sử dụng để giải thích từng văn bản riêng biệt, ít được sử dụng để giải thích cho cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. 1.1.3.3. Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử Là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư tưởng của quy phạm thông qua việc nghiên cứu các điều kiện, hoàn cảnh chính trị - lịch sử đã dẫn đến việc ban hành quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó và nhiệm vụ chính trị mà nhà nước mong muốn đạt được khi ban hành quy định hay văn bản pháp luật đó. Xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ còn rất nhiều những biến đổi quan trọng nên việc sử dụng phương pháp giải thích chính trị - lịch sử để giải thích các quy định pháp luật cần được chú ý nhiều hơn trong tương lai. 1.1.3.4. Phương pháp giải thích hệ thống Sử dụng phương pháp này để làm rõ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách đối chiếu nó với các quy phạm pháp luật khác, xác định vị trí, vai trò của quy phạm đó trong chế định pháp luật, trong ngành luật hoặc trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Đối với các nhà nước hiên đại thì pháp luật là một hệ thống có cấu trúc rất chặt chẽ, do vậy có thể sử dụng lý thuyết hệ thống để tìm hiểu nội dung của các quy định pháp luật. Phương pháp này giúp phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng chéo hay thiếu sót của quy phạm pháp luật hoặc của các bộ phận trong hệ thống pháp luật. 1.1.3.5. Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng và Giải thích pháp luật theo cách hạn chế Xét về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn, không thêm, không bớt. Trên thực tế, cách giải thích này là phổ biến nhất, nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu theo đúng từng từ, từng câu mà nó thể hiện. Tuy nhiên, nếu chỉ giải thích pháp luật theo nghĩa đen thì trên thực tế đôi khi sẽ gặp một số trường hợp lời giải thích sẽ là vô lý, không thể chấp nhận được. Vì vậy, có những trường hợp cần phải giải thích theo cách phát triển mở rộng hoặc giải thích hạn chế khi nhận thấy sự vô lý quá rõ ràng. Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng: có nghĩa là giải thích nội dung quy định hay văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ được thể hiện trong quy định hay văn bản pháp luật, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà người làm luật muốn thể hiện trong quy định hay văn bản pháp luật (nội dung lời giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy định pháp luật mà nó giải thích)
  • 16. 11 Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế chỉ là những trường hợp ngoại lệ, hiếm khi xảy ra, chúng không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại, chúng là một trong những điều kiện để tăng cường pháp chế. Bởi vì, khi áp dụng nguyên tắc này không thể giải thích pháp luật một cách tùy tiện mà nhằm bổ khuyết những thiếu sót của kỹ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện pháp luật hiểu đúng, đủ nội dung thực sự của các quy định pháp luật, ý chí đích thực của Nhà nước được thể hiện trong đó. Trong trường hợp, lời văn của quy định pháp luật thật sự rộng hơn hoặc hẹp hơn so với nội dung thật của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc hạn chế nếu không việc giải thích mở rộng, hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế. Trong nhiều trường hợp, việc giải thích pháp luật mở rộng hoặc hạn chế phụ thuộc vào điều kiện chính trị - lịch sử của đất nước. Các phương pháp giải thích pháp luật và các hình thức giải thích pháp luật luôn có quan hệ mất thiết với nhau, không đươc loại trừ lẫn nhau. Trong quá trình giải thích pháp luật cần phải sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức giải thích pháp luật khác nhau để khắc phục, loại trừ sự nhận thức không đúng nội dung, tinh thần quy định pháp luật. 1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật Yếu tố có tính quyết định đến nội dung hoạt động giải thích pháp luật là chủ thể giải thích pháp luật. Trên thế giới có những nước qui định chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Toà án, có những nước quy định chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Cơ quan lập pháp và có những nước quy định chủ thể giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực của nhà nước gồm Toà án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan hành chính và cả cơ quan lập pháp. 1.1.4.1. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án Đối với các nước có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước theo thuyết “Tam quyền phân lập” thì chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án, điển hình là Anh, Mỹ. Đây là các quốc gia có truyền thống sử dụng án lệ và tính hàm súc của hiến pháp. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp được tổ chức và hoạt động trong thế kìm chế, đối trọng nhau. Quyền giải thích pháp luật được trao cho Tòa án là để hạn chế quyền lực Nhà nước và là cơ sở để tạo nên sự cân bằng và đối trọng về quyền lực đối với hai hệ thống quyền lực lập pháp và hành pháp.
  • 17. 12 Các thẩm phán ở các quốc gia Anh, Mỹ khi giải thích một vụ việc cụ thể phải đối mặt với hàng nghìn án lệ và phải có nghĩa vụ phân tích, giải thích án lệ và các quy định của pháp luật có liên quan, có nghĩa vụ phải xem xét tính hợp hiến của một văn bản pháp luật khi áp dụng một vụ việc, trường hợp cụ thể. Thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án được quy định trong những văn bản pháp luật quan trọng của quốc gia hoặc được coi như là chủ thể hiển nhiên trong hoạt động giải thích pháp luật. Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án thì đối tượng giải thích pháp luật nhìn chung không bị hạn chế, có thể là bất cứ hình thức pháp luật nào từ hiến pháp, các đạo luật, các văn bản dưới luật và các hình thức khác của pháp luật. Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật đặc biệt coi trọng hình thức giải thích pháp luật mang tính vụ việc – hình thức đặc thù của giải thích pháp luật. 1.1.4.2. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp về cơ bản là được tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “tập quyền”. Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp gồm có các quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và một số nước như Canada, Cu Ba, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam… Quyền lực tập trung, thống nhất không có hoặc ít có sự kìm chế, đối trọng. Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan quyền lực cao nhất, do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì tòa án không được thừa nhận và không có quyền giải thích pháp luật. Tuy nhiên, từ nhiều năm trở lại đây, các quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa truyền thống cũng đã dần trao quyền chính thức giải thích pháp luật cho Tòa án hoặc đã ủy quyền cho Tòa án thực hiện chức năng này. Đối tượng giải thích pháp luật của các quốc gia có chủ thể giải thích là các cơ quan lập pháp chủ yếu là các văn bản pháp luật như Hiến pháp, luật, một số văn bản pháp luật quan trọng như văn bản pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ. Án lệ không được xem là một hình thức hay nguồn của pháp luật. Ở các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì chủ thể có quyền yêu cầu giải thích pháp luật cũng hạn chế, không phải bất kỳ cơ quan, tổ
  • 18. 13 chức hoặc cá nhân nào mà thường là các chủ thể có thẩm quyền trình dự án luật mới có quyền yêu cầu giải thích pháp luật. Quy trình giải thích pháp luật thường được quy định cụ thể, chi tiết. Các bước của quy trình giải thích pháp luật thường giống như quy trình pháp luật. Sản phẩm giải thích ít mang tính lý lẽ pháp luật và đôi khi khó phân tách với nội dung hướng dẫn, bổ sung, quy định chi tiết để thực hiện pháp luật. Theo xu hướng chung hiện nay, các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp có xu hướng mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho tòa án. Đây là một xu hướng tất yếu của đời sống pháp lý, không riêng ở bất kỳ quốc gia nào. 1.1.4.3. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực nhà nước gồm: Tòa án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan hành chính và cả cơ quan lập pháp Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cả ba cơ quan quyền lực nhà nước thì họ không tổ chức quyền lực nhà nước theo thuyết “tam quyền phân lập” cũng không tổ chức nhà nước theo hình thức tập trung quyền lực. Quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là ba cơ quan quyền lực nhà nước hiện nay không nhiều, điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc. Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cả ba cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt nhấn mạnh đến nhiệm vụ của giải thích pháp luật và vai trò của tòa án trong việc giải thích pháp luật được đề cao. Chủ thể giải thích pháp luật thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp thì hoạt động giải thích pháp luật thường là kiêm nhiệm, giải thích theo sự ủy quyền của chủ thể khác, trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Có nhiều chủ thể được trao quyền giải thích pháp luật. Đối với chủ thể thuộc nhóm cơ quan hành pháp thì giải thích pháp luật chủ yếu là các sản phẩm pháp luật được ban hành theo thẩm quyền của họ. Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng ban hành các quy phạm pháp luật, chưa đựng việc diễn giải các văn bản pháp luật có giá trị cao hơn. Đối với các cơ quan hành chính thì phương thức giải thích pháp luật có thể mang tính quy chuẩn thông qua việc ban hành các văn bản chính như các chỉ thị, hướng dẫn, thông báo, hướng dẫn thi hành hoặc mang tính cụ thể thông qua việc trả lới các câu hỏi cụ thể về ý nghĩa của luật có thẩm quyền. Chủ thể thuộc cơ quan lập pháp giải thích pháp luật bằng chính văn bản luật, nó giải thích luật của cấp cao hơn vì chúng cần phải được đặt trong phạm vi ý nghĩa của luật cấp cao hơn. Tuy nhiên, các cơ quan giải thích pháp luật song đều được tòa án xem lại cho
  • 19. 14 từng vụ việc cụ thể, nếu các giải thích là đúng thẩm quyền, hợp lý thì sẽ được tòa án thừa nhận nếu không sẽ bị hủy giá trị. Điều này chứng tỏ tòa án ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giải thích pháp luật. Không có một khuôn mẫu chung cho các quốc gia về giải thích pháp luật vì cách thức tổ chức nhà nước, trình độ và kinh nghiệm xây dựng nhà nước, đời sống và tập quán pháp lý ở mỗi quốc gia đều khác nhau. Mỗi quốc gia đều chủ động tổ chức hoạt động giải thích pháp luật nhằm đảm bảo tính hữu hiệu và an toàn của hệ thống pháp luật. Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án, cơ quan lập pháp hay cả ba cơ quan quyền lực đều có những thế mạnh, ưu nhược điểm riêng nhưng phát triển theo xu thế chung hiện nay, có tính quy luật thì tòa án ngày càng được chú trọng hơn trong hoạt động giải thích pháp luật và đang dần là chủ thể chủ yếu của hoạt động giải thích pháp luật. 1.1.5 . Phạm vi giải thích pháp luật 1.1.5.1. Phạm vi giải thích pháp luật Bất cứ một hoạt động pháp lý nào cũng phải có một phạm vi nhất định, đặc biệt đối với hoạt động có tính nhạy cảm cao như giải thích pháp luật. Nhận thức được phạm vi của hoạt động giải thích pháp luật và điều chỉnh nó theo một chừng mực nhất định là việc cần thiết. Phạm vi của giải thích pháp luật là các vấn đề được cho phép thực hiện hoạt động giải thích pháp luật. Tức là các vấn đề mà nằm trong đó thì được phép giải thích còn các vấn đề mà không nằm trong đó thì không được phép giải thích. Trong các vấn đề được hoạt động giải thích pháp luật điều chỉnh thì chủ thể của giải thích pháp luật được quyết định, được thể hiện. Phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật, từng chế độ chính trị của từng quốc gia mà các vấn đề được giải thích có những quy định cụ thể để điều chỉnh. Để phạm vi giải thích pháp luật được hiện hữu thì phái có các nguyên tắc giải thích, pháp luật về giải thích, đối tượng, thẩm quyền, giải thích, phương pháp, hình thức giải thích…Và khi có các quy định về giải thích pháp luật thì để giải thích pháp luật phải thực hiện theo đúng như đã được quy định. Trước hết, ngôn ngữ chính là một trong những phạm vi của giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật theo truyền thống: “giải thích pháp luật là hoạt động có lý trí, nó mang đến cho văn bản pháp luật một nghĩa chứa đựng trong ngôn ngữ (cộng đồng hoặc cá nhân) của văn bản đó” [60, tr.29]. Ngôn ngữ văn bản là điểm đầu và
  • 20. 15 cũng là cái đích để hướng tới của quá trình giải thích pháp luật. Và khi giải thích người ta cũng có thể đưa đến cho văn bản một nghĩa mở rộng hoặc có thể hạn chế hơn theo nghĩa mà ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó thể hiện. Theo Aharon. Barak lập luận Mỗi một ngữ nghĩa mà người giải thích đưa ra cho một văn bản pháp luật phải có một vị trí “Asimet” trong ngôn ngữ của văn bản. Nhà giải thích không phải là một nhà ngôn ngữ, nhưng nhà giải thích có thể phải đặt mình vào vị trí của nhà ngôn ngữ khi giải thích pháp luật. Một nhà giải thích không thể đưa ra nghĩa mà một nhà ngôn ngữ không thể đưa ra nó [60, tr.19] Và tất nhiên để giải thích thì phải đáp ứng đúng các quy định về giải thích như các chủ thể có thẩm quyền giải thích, ngôn ngữ của văn bản cần giải thích. Phạm vi của giải thich pháp luật nằm trong phạm vi của văn bản pháp luật và phạm vi của văn bản pháp luật nằm trong ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó. Learned Hand đã nói: Từ ngữ là thất thường, ngôn ngữ không phải là một công cụ rõ ràng. A.Holmes thì cho rằng: Ngôn ngữ không đảm nhiệm một sự đơn lẻ, duy nhất một nghĩa trong trạng thái bình thường của tất cả người nghe… Một từ không là viên pha lê, trong suốt và không thay đổi, nó là làn da của một tư duy sống động và có thể có màu sắc đa dạng, to lớn và nội dung theo hoàn cảnh và thời gian trong cái mà nó sử dụng [62]. Theo nhận xét của AHolmes cũng không hoàn toàn chính xác nhưng cũng có thể thấy ngôn ngữ là một cái vô cùng mềm dẻo, linh hoạt, có thể trở nên mơ hồ, có thể có một hoặc nhiều nghĩa và có khả năng cần thiết cho các vấn đề có nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Chính vì vậy, bản thân ngô ngữ cũng cần phải có, phải được hiểu trong một phạm vi nhất định. Phạm vi đó để khẳng định một điều “ngôn ngữ không thể đảm nhiệm bất kỳ một nghĩa nào mà một người giải thích mong muốn”. “Ngôn ngữ đó chỉ có thể trong phạm vi mà được suy ra từ văn bản, từ cấu trúc, tổ chức và mối liên hệ giữa các sự cung cấp khác nhau của nó” [88, tr.22]. Văn bản giải thích pháp luật không thể được giải thích theo ngôn ngữ mà ngời nghe cảm thấy “bất ổn”. Phạm vi giải thích pháp luật được tiếp cận theo hai cách, đó là giải thích pháp luật truyền thống thông thường và giải thích pháp luật
  • 21. 16 theo nghĩa mở rộng. Giải thích pháp luật theo nghĩa truyền thống thông thường tức là giải thích theo nghĩa mà ngôn ngữ đem lại một cách đơn giản, dễ hiểu. Giải thích pháp luật theo nghĩa mở rộng tức là có thể đưa ra cho văn bản pháp luật một nghĩa nằm ngoài phạm vi ngôn ngữ của nó, một nghĩa có thể đưa ra từ vùng nghĩa bóng của từ ngữ văn bản pháp luật cần giải thích. Giải thích pháp luật theo nghĩa rộng là thể hiện quyền tự quyết định của các nhà giải thích pháp luật. Khi chủ thể thực hiện giải thích thực hiện quyền tự quyết định cũng cần phải dựa trên những nguyên tắc nhất định để có thể lấp đầy khoảng trống trong văn bản, hoặc giải quyết những mâu thuẫn mang tính quy phạm, hoặc sửa chữa lỗi trong văn bản hoặc thay đổi ngôn ngữ trong văn bản để tránh sự vô lý hoặc hoàn thành mục đích của văn bản bằng những thay đổi nhất định… Nhưng điều đó không co nghĩa là không nằm trong phạm vi, tức là mặc dù giải thích theo nghĩa rộng song cũng phải có phạm vi nhất định. Phạm vi đó không nằm ngoài các luật lệ về giải thích, các chính sách pháp luật, các nguyên tắc pháp lý của quốc gia, phạm vi đó cũng không thể quá xa lạ với đại bộ phận dân chúng, phạm vi đó phải được đại bộ phận dân chúng hiểu, chấp nhận. 1.1.5.2. Ý nghĩa của việc xác định phạm vi giải thích pháp luật Thứ nhất, Việc xác định phạm vi giải thích pháp luật là để thiết lập tính hợp pháp của hoạt động giải thích. Tính hợp pháp được thể hiện việc chủ thể giải thích là chủ thể được pháp luật quy định. Các chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật thì các sản phẩm mà các chủ thể đó thực hiện mới có giá trị pháp lý. Sản phẩm đó được ra đời trên cơ sở đã được rút kinh nghiêm, tham khảo từ thực tiễn xã hội, từ hệ thống văn bản pháp luật, từ sự giải thích pháp luật không chính thức, từ các thẩm phán, từ các cuộc hội thảo, tranh luận. Thứ hai, phạm vi của giải thích pháp luật giúp hạn chế lạm quyền. Phạm vi của giải thích pháp luật là việc chỉ ra quyền tự quyết định của chủ thể giải thích pháp luật được thực hiện khi nào, được giải thích đến đâu, mức độ giải thích. Chủ thể giải thích pháp luật là có quyền giải thích pháp luật nhưng không phải giải thích tùy tiện mà phải giải thích trên cơ sở các quy định của pháp luật, thực hiện ra các phán quyết nhất định dựa vào sự lựa chọn của bản thân chủ thể giải thích. Khi ngôn ngữ của đối tượng giải thích có sự không rõ ràng hoặc hiểu theo nghĩa bóng. Một quy định pháp luật đưa ra sẽ tồn tại ba cách hiểu, hiểu theo nghĩa đen, nghĩa bóng và hiểu theo cách vừa nghĩa đen vừa nghĩa bóng. Với cách hiểu không phải là
  • 22. 17 nghĩa đen thì chủ thể giải thích pháp luật có quyền giải thích pháp luật theo ý chí của mình song phải theo những nguyên tắc đó phải theo khuôn khổ do pháp luật quy định. Việc giải thích thế nào, đến đâu, mức độ ra sao thì phải dựa trên lợi ích chung tránh cho việc giải thích chỉ phục vụ lợi ích cá nhân. Theo như cách giải thích thông thường, thẩm phán có thể không tạo ra một văn bản pháp luật mới, cách thức này đã đáp ứng được mục đích làm sáng tỏ nội dung cần giải thích. Nếu thẩm phán cần phải tìm một nguồn khác trong quá trình giải thích do hệ thống giải thích thông thường không cung cấp cho họ, thì họ sẽ phải hoạt động cả ra ngoài phạm vi mà pháp luật quy định. Do vậy, cần phải xác định ranh giới cần phải giải thích. Ví dụ như Tòa án có quyền giải thích pháp luật thì cần phải giới hạn cho Tòa án giải thích những vấn đề gì. Tòa án có chức năng xét xử thì có quyền giải thích các điều khoản trong bộ luật mà mình áp dụng để việc xét xử được thống nhất chứ không phải vấn đề nào cũng tham gia giải thích, không thể thực hiện việc giải thích các hoạt động của Quốc hội hay của cơ quan nào khác không thuộc phạm vi hoạt động của mình. Để có được phạm vi giải thích pháp luật nhất thiết phải đặt ra các luật lệ, nguyên tắc của giải thích pháp luật. Từ các nguyên tắc, luật lệ sẽ xác định quy tắc, hành vi cho các chủ thể giải thích pháp luật trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Các nguyên tắc, quy định sẽ hướng dẫn các chủ thể giải thích, tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của họ, định hướng cho họ phải nghĩ thế nào, giải thích thế nào? Các nguyên tắc, quy định pháp luật sẽ ngăn ngừa các chủ thể giải thích tùy tiện đồng thời qua đó việc giải thích pháp luật được công khai trong cuộc sống. Chính việc công khai này là sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Ngoài việc đặt ra các quy định, luật lệ, nguyên tắc để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả giải thích pháp luật thì phải có cơ chế kiểm soát đối với các quy định về giải thích pháp luật. Cơ chế kiểm soát sẽ đánh giá tính hợp pháp, hợp lý, chất lượng của các quy định của pháp luật về giải thích pháp luật Thứ ba, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện đảm bảo cho chủ thể áp dụng pháp luật (Thẩm phán) nhận thức, áp dụng và thực hiện pháp luật thống nhất. Để các Thẩm phán đều hiểu và áp dụng pháp luật một cách thống nhất không phải đơn giản. Với các điều luật được sử dụng ngôn ngữ không chính xác, dễ hiểu, đặc biệt ngôn ngữ Việt Nam được ví von “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” hoặc chỉ với việc đặt dấu phẩy sai vị trí, hoặc sử dụng từ có nhiều nghĩa sẽ
  • 23. 18 dẫn đến tình trạng mỗi người hiểu một khác, dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau, thậm chí có thể là mâu thuẫn. Hơn thế nữa, trình độ, kinh nghiệm của các Thẩm phán không được đồng đều. Chính vì vậy, Tòa án nhân dân Tối cao phải có hướng dẫn cụ thể để các Thẩm phán hiểu được thống nhất pháp luật dẫn đến việc áp dụng và thực hiện thống nhất. Từ việc nhận thức, áp dụng, thực hiện pháp luật của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ việc cụ thể thì bản án, quyết định là sản phẩm giải thích pháp luật của Thẩm phán sẽ có tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức tất yếu sẽ được phản hồi lại từ phía người dân, xã hội, họ sẽ đánh giá sản phẩm giải thích pháp luật của Tòa án có chất lượng hay không? Có thực sự đem lại niềm tin cho nhân dân hay không? Thực tế cho thấy, có những bản án, quyết định được dư luận, nhân dân đồng tình ủng hộ nhưng cũng có những bản án, quyết định đã gặp phải sư phản đối, không đồng tình từ phía người dân. Với cùng một điều luật, không thể có tình trạng nhận thức, áp dụng và thực hiện khác nhau giữa các thẩm phán. Nếu có tình trạng đó, vô hình chung Tòa án sẽ không còn là biểu tượng của công lý. Thứ tư, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện sẽ xóa bỏ dần dần khoảng cách giữa thực tế và pháp luật thành văn. Xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp, có những quan hệ xã hội (hay tội phạm) mới mà pháp luật thành văn chưa điều chỉnh, chưa có quy định. Mặc dù pháp luật chưa có quy định nhưng các quan hệ, tội phạm đó vẫn diễn ra từng ngày, từng giờ không thể không xử lý. Vì việc không xử lý sẽ có hậu quả khôn lường. Ví dụ hiện nay trong Luật Hôn nhân và Gia đình quy định một người nam một người nữ kết hôn với nhau là vợ chồng. Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội nước ta có những người cùng giới tính ăn ở, sinh hoạt với nhau như “vợ chồng”. Pháp luật nước ta chưa quy định hay thừa nhận về vấn đề này nhưng trong xã hội hiện tồn tại và có chiều hướng phát triển. Vậy chúng ta hiểu, nhìn nhận vấn đề này như thế nào cho thống nhất? Để cho vấn đề này về mặt pháp luật không còn là “lỗ hổng” (chưa có quy định) ? Thứ năm, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện nhằm để nâng cao ý thức pháp luật của người dân, đồng thời nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của chủ thể áp dụng pháp luật (Thẩm phán). Thông qua quá trình giải quyết vụ án hàng ngày tiếp xúc với nhân dân, thông qua quá trình hoạt động xét xử của Tòa án: phiên tòa
  • 24. 19 công khai, phiên tòa lưu động giúp cho nhân dân hiểu được pháp luật hơn, nâng cao ý thức pháp luật, sự chấp hành pháp luật của người dân. Đồng thời, với mỗi sản phẩm giải thích pháp luật có chất lượng cũng giúp các thẩm phán hiểu và áp dụng pháp luật thống nhất hơn và qua đó cũng nâng cao trình độ áp dụng pháp luật của thẩm phán. Thứ sáu, giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện là sự thể hiện trình độ, giá trị của pháp luật, xã hội mà quốc gia đạt được. Khi thẩm phán giải thích pháp luật không thể đặt sự giải thích của mình ngoài giá trị của pháp luật, giá trị xã hội. Pháp luật của mỗi quốc gia là sự thể hiện trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ văn hóa của mỗi quốc gia. Các giá trị trên chỉ được hiện thực hóa thông qua pháp luật. Thông qua sự giải thích pháp luật của Tòa án, cũng sẽ đánh giá được sự phát triển của xã hội trong tương lai. Ví dụ, hiện nay đối với các tội phạm về ma túy, TANDTC hướng dẫn thống nhất cần phải xử lý nghiêm, riêng các tội phạm về buôn bán ma túy thì cần phải xử lý nghiêm và áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Thông qua hướng dẫn của TANDTC, có thể đánh giá được xu hướng phát triển phức tạp của loại tội phạm về ma túy. Tại quy định của BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì Tại Điều 194 quy định Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Tuy nhiên đối với người tàng trữ để sử dụng vì họ nghiện ma túy thì tính chất nguy hiểm không thể bằng đối tượng mua bán trái trái phép chất ma túy để kiếm lợi nhuận. Cần phải có quy định riêng, từng tội cụ thể để thể hiện sự đánh giá tính chất nguy hiểm của hai loại tội trên, xóa bỏ sự khác nhau giữa luật thành văn và thực tế. Hay hiện nay, xã hội ngày càng phát triển thì xuất hiện nhiều loại tội phạm về công nghệ thông tin. Bộ luật hình sự cần phải có quy định về loại tội phạm này. 1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật 1.2.1. Vị trí của Tòa án trong Bộ máy Nhà nước Tại Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VIệt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
  • 25. 20 Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [35]. Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Song song với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương cải cách tư pháp, để công tác tư pháp ngang tầm với những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII (23-1-1995) xác định rõ “…Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức..” [9]. Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân” [10]. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu: Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế [1]. - Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiên ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Do vậy, Toà án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • 26. 21 Chức năng và thẩm quyền của Toà án được quy định trong Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác. Toà án là nơi biểu hiện quyền lực mạnh mẽ nhất, sâu sắc nhất, mọi phán quyết của Toà án có tính cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước. Theo quy định tại Điều 136 HP 1992 quy định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh [22]. Tại Điều 106 Hiến pháp 2013 đã được sửa đổi như sau: Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [35]. Nhà nước luôn tạo ra một hệ thống thiết chế, chế tài hỗ trợ cho bản án,quyết định được thực hiện trong thực tế cuộc sống được quy định trong Hiến pháp – văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Và trong Bộ luật hình sự hiện hành có quy định ba tội phạm liên quan đến phán quyết của toà án, đó là tội “không chấp hành án” (Điều 304), tội “không thi hành án” (Điều 305) và tội “cản trở việc thi hành án” (Điều 306). Toà án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả nhất, bằng việc đưa lên phương tiện thông tin đại chúng các phiên toà xét xử, tổ chức xét xử lưu động ngoài tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, còn có tác dụng tuyên truyền, giới thiệu, giải thích cho quần chúng nhân dân về pháp luật để mọi người hiểu biết thêm về pháp luật và hướng họ tới “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bằng các hoạt động, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. - Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ- TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trung tâm”, [3] điều này được thể hiện ở các điểm sau:
  • 27. 22 + Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có Toà án mới có quyền tuyên bố một người có tội hoặc vô tội và áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp khác đối với họ; + Toà án xét xử theo chế độ hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Ngoài ra, Toà án còn thực hiện chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sự vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng, hoặc phát hiện có những tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án… để đảm bảo hoạt động xét xử của Toà án phải là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai xảy ra; + Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá nhân, cơ quan tổ chức nào được phép can thiệp, tác động làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Toà án. Phán quyết của Toà án là nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bản án, quyết định của Toà án có tính cưỡng chế nhà nước khiêm khắc nhất để đảm bảo hiệu lực thi hành; + Trong tố tụng hình sự, mọi hoạt động điều tra, truy tố đều phục vụ quá trình xét xử, phục vụ cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Bản án, quyết định của Toà án làm cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; + Khi nói đến quyền tư pháp là phải nói đến Toà án, Toà án là nơi biểu hiện một cách mạnh mẽ, tập trung và rõ ràng nhất quyền lực tư pháp thông qua hoạt động xét xử; + Ngoài chức năng xét xử, Toà án còn có nhiệm vụ đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân. Trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án hình sự, Toà án có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, để từ đó có những kiến nghị, yêu cầu đối với cá nhân có trách nhiệm, tổ chức, cơ quan nhà nước có liên quan có những biện pháp hợp lý và kịp thời để chống và ngăn ngừa tội phạm mới phát sinh. + Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ra quyết định thi hành bản án, Toà án có nhiệm vụ phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan đoàn thể, cơ quan Viện kiểm sát để theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo được hưởng án treo, cải tạo
  • 28. 23 không giam giữ, xét giảm thời gian thử thách đối với những người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo, công tác đặc xá. + Trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế Toà án là nơi bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân khi có tranh chấp xảy ra, luôn cố gắng xây dựng mối đoàn kết trong nhân dân qua việc xét xử, hoà giải các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, hàn gắn và khôi phục lại một phần những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ được truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta là đoàn kết, thân ái, giúp đỡ, chín bỏ làm mười, lá lành đùm lá rách, trọng tình, nghĩa… Tại Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây: 1. Tòa án nhân dân Tối cao; 2. Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 3. Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; 4. Các Tòa án quân sự; 5. Các Tòa án khác do luật định Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể có quyết định thành lập Tòa đặc biệt [29, Điều 2]. Hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức cùng với đơn vị hành chính từ cấp huyện đến cấp trung ương. Hiện nay, cả nước có hơn 700 tòa án nhân dân cấp huyện, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao; Tổng biên chế của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là 4088 người, trong đó có 1.170 thẩm phán trung cấp; tổng biên chế tòa án nhân dân cấp huyện là 10.427 người, tròng đó có 4.865 thẩm phán trung cấp và sơ cấp. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, cụ thể như sau: - Cơ cấu Tổ chức Tòa án nhân dân Tối cao gồm có: + Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao: + Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao; trong trường hợp cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. + Bộ máy giúp việc
  • 29. 24 - Theo quy định tại Điều 19 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: + Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án; + Giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp; + Trình Quốc hội dự án luật và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh theo quy định của pháp luật Về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao, theo quy định của Điều 20 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân Tối cao có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; - Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban Thẩm phán, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, bộ máy giúp việc.Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện: Tòa án nhân dân cấp huyện có bộ máy giúp việc (văn phòng); xét xử sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng. Tóm lại: hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay được tổ chức tương ứng với đơn vị hành chính từ cấp huyện trở lên và có 3 cấp Tòa án. Bên cạnh đó, hệ thống Tòa án quân sự được tổ chức theo địa bàn quân khu, hiện hệ thống tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự trung ương; 9 Tòa án quân sự cấp quân khu và 17 Tòa án cấp khu vực. Thẩm quyền của Tòa án quân sự các cấp: xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật. Hệ thống Tòa án quân sự được tổ chức theo 3 cấp, và thẩm quyền xét xử chủ yếu là xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ. Vì
  • 30. 25 vậy, cơ cấu tổ chức bộ máy Tòa án quân sự gọn nhẹ phù hợp với thẩm quyền xét xử của từng cấp tòa quân sự. Hiến pháp 2013 của nước ta được Quốc hội Khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực vào ngày 01/01/2014, là cơ sở hiến định cho quan trọng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; trong đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bằng các quy định kế thừa các bản Hiến pháp cũ và tiếp thu những tư tưởng mới của Cải cách tư pháp, Hiến pháp mới đã xác định Tòa án nhân dân có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm trong hoạt động tư pháp; thực sự nâng cao vị thế của Tòa án nhân dân trong xã hội nước ta. Hiến pháp mới là cơ sở hiến định quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta nói chung, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp nói riêng trong thời gian tới Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp mới của nước ta. Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong bản Hiến pháp mới. Nguyên tắc phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn. Với việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [35], Hiến pháp xác định rõ ràng cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. TAND là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp. Cũng là lần đầu tiên ngoài việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
  • 31. 26 pháp của tổ chức, cá nhân, Hiến pháp quy định nhiệm vụ của TAND là bảo vệ công lý. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của TAND đã được xác định. Là cơ quan có chức năng phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, TAND có vai trò rất quan trọng không chỉ trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân mà còn trong bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án để bảo vệ mình, tìm đến công lý. Các nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bảo vệ công lý hòa quyện, bổ sung lẫn nhau như là một thể thống nhất thể hiện vai trò, vị trí của TAND trong xã hội. Vì vậy, có thể nói, Tòa án là biểu tượng của công lý Hiến pháp mới có những quy định mới thể hiện vị thế của TAND được nâng lên rõ rệt trong bộ máy Nhà nước ta. Ngoài việc xác định là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp; quy định nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thể hiện vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp. Bên cạnh việc Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu, Hiến pháp mới quy định Thẩm phán TANDTC do Quốc hội phê chuẩn tương xứng với các cán bộ cao cấp khác của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp; thay cho Chánh án TANDTC, Thẩm phán các Tòa án khác do Chủ tịch nước trực tiếp bổ nhiệm; nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án được nhấn mạnh và ở tầm hiến định nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án; quy định mở về hệ thống Tòa án mở đường cho việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử, không theo đơn vị hành chính… là những quy định mới không chỉ khẳng định vị thế của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền mà còn là cơ sở hiến định quan trọng để TAND thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của TAND được quy định trong Hiến pháp mới phù hợp với địa vị, bản chất và chức năng của cơ quan tư pháp. Quy định mới về hệ thống TAND gồm TANDTC và các Tòa án khác mở đường cho việc tổ chức Tòa án theo cấp xét xử theo tinh thần Cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đề ra. Hiến pháp mới kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã
  • 32. 27 được các bản Hiến pháp cũ quy định. Các nguyên tắc như xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn và có quy định ngoại lệ hợp lý. Đặc biệt, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Đồng thời, Hiến pháp bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong Cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tư pháp nói chung,và trong xét xử của Tòa án nói riêng. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được quy định trong hiến pháp là việc nâng lên tầm hiến định nguyên tắc đã được quy định trong Luật tổ chức TAND và các luật tố tụng tư pháp trước đây nhằm đảm bảo cho việc xét xử đúng đắn, khách quan, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Thực tiễn cho thấy hoạt động tranh tụng tại phiên tòa vẫn còn hạn chế, tồn tại từ quy định của pháp luật đến vai trò, trách nhiệm của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, với tư cách là chủ thể quan trọng nhất trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Mặc dù pháp luật về tố tụng có quy định nhiều nội dung quan trọng cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Nhưng hoạt động này hiện nay là vấn đề còn mới đối với đất nước ta. Về mặt lý luận còn có những quan điểm nhận thức rất khác nhau, hệ thống quy định của pháp luật còn hạn chế, chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chưa quy định rõ ràng, ranh giới giữa thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận trong các phiên tòa hình sự, dân sự, hành chính. Nội dung phần hỏi đã làm rõ, đầy đủ về nội hàm vụ án nên làm cho phần tranh luận trở nên tẻ nhạt, ảnh hưởng đến vai trò chủ thể của người tham gia tranh tụng như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư… Quy định vấn đề tranh tụng sẽ tránh trường hợp theo “lệ cũ” khi xét xử chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào kết quả của cơ quan điều tra, dễ dẫn đến việc kết quả điều tra thế nào kết quả phiên xét xử sẽ như vậy. Hơn nữa đây là những sự ràng buộc trách nhiệm giữa các bên tham gia tố tụng
  • 33. 28 1.2.2. Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. Mục đích, ý nghĩa GTPL do Tòa án thực hiện Giải thích pháp luật (GTPL) là một hoạt động tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống mà bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện. Giải thích pháp luật cần thiết cho nhiều mục đích khác nhau, để áp dụng pháp luật, để tìm hiểu, nhận thức về các quy phạm pháp luật. GTPL cần thiết cho việc xây dựng các quy định pháp luật mới. Nhất là trong điều kiện cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật như hiện nay thì rất cần thiết phải dựa vào thực tiễn các quy định pháp luật đang tồn tại. GTPL cần thiết trong hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước, thực hiện pháp luật, tìm hiểu pháp luật của công dân. GTPL có mục đích cơ bản là làm rõ ý nghĩa của quy định pháp luật, mục đích chính và khuynh hướng của chúng, làm rõ bối cảnh, điều kiện xã hội cả việc ban hành chúng. Làm rõ lời văn của quy phạm, ý chí của nhà làm luật trong quy định pháp luật. Không thể thoát khỏi việc chịu trách nhiệm pháp lý với lý do không hiểu biết luật hoặc hiểu sai luật. Chính vì vậy, hoạt động giải thích pháp luật lài càng cần thiết. Giải thích pháp luật có khả năng giải quyết tính khái quát của các quy phạm pháp luật bằng cách đặt nó đúng vào những quan hệ xã hội mà pháp luật mong muốn điều chỉnh dù thực tế biểu hiện của các quan hệ ấy có riêng lẻ, rời rạc. Giải thích pháp luật có khả năng đặt các quy phạm pháp luật có tính dự báo vào những tình huống pháp lý trong những quan hệ xã hội mới nảy sinh với sự hợp lý, khoa học. Việc giải quyết được các tình huống cần giải thích của các văn bản pháp luật cụ thể cũng là sự đóng góp trí tuệ vào việc giữ gìn tính minh bạch của pháp luật, bảo vệ và phát huy các giá trị của pháp luật. Giải thích pháp luật có tác dụng đem lại những nhận thức nghiêm túc, đúng đắn cho người dân về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật ở mỗi chủ thể pháp luật. Giải thích pháp luật góp phần xây dựng đươc thái độ đúng đắn trước pháp luật, bao gồm thái độ đúng đắn trong công tác lập pháp, công tác hành pháp, công tác tư pháp và thái độ đúng đắn của mỗi công dân trong hành vi pháp lý của mình. Giải thích pháp luật nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật. Khi các chủ thê áp dụng pháp luật nhận thức và thực hiện một cách thống nhất pháp luật thì chất lượng của việc áp dụng pháp luật được nâng cao, các quyết định áp dụng pháp luật được đảm bảo đúng đắn hơn.
  • 34. 29 Giải thích pháp luật suy cho cùng là một nhu cầu tự nhiên, khách quan cũng như chính bản thân pháp luật là cần thiết khách quan trong xã hội hiện đại. Không chỉ giải thích những quy định pháp luật không rõ ràng mà các quy định có “rõ ràng, dễ hiểu” trong pháp luật chỉ mang tính tương đối nên cũng cần phải giải thích để có sự thống nhất. GTPL sẽ làm khắc phục, hạn chế được sự tùy tiện trong việc hiểu, vận dụng pháp luật, sự cố tình, hay vô ý hiểu sai lệch các quy định của pháp luật với những động cơ, mục đích khác nhau. GTPL có vai trò to lớn, thiết thực để bảo vệ và tăng cường sự tuân thủ, tôn trọng pháp luật – một trong những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Trong lịch sử tư pháp của Việt Nam, Tòa án luôn có vai trò lớn trong việc giải thích pháp luật thông qua các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, Thông tư (bao gồm cả Thông tư tự mình ban hành hay các Thông tư liên tịch được ban hành cùng với các cơ quan chức năng khác như Bộ Công an, Bộ Tư pháp hay Viện kiểm sát nhân dân Tối cao) của Tòa án nhân dân Tối cao với các chủ thể khác có thẩm quyền và các công văn của Tòa án nhân dân Tối Cao. Tuy nhiên, sự ghi nhận vai trò này trong pháp luật thực định diễn ra muộn hơn. Lần đầu tiên, Điều 14 Bộ luật dân sự 1995 quy định: “trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận, thì có thể áp dụng tập quán hoặc các quy định tương tự của pháp luật” [24]. Điều này dẫn đến chính thức thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp như là nguồn của luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp dẫn đến thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án. Vì vậy, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 đã chính thức thừa nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao là văn bản quy phạm pháp luật. Phạm vi giải thích của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đến đâu? Chỉ đưa ra các quy định chi tiết hóa luật hay các quy định mang tính “tiên phát”. Thực tế cho thấy, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao chứa đựng cả hai loại quy phạm nói trên và Hội đồng thẩm phán ra nghị quyết mà không phải tham chiếu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải thích pháp luật trong hoạt động xét xử, nên Tòa án còn sử dụng loại văn bản thứ hai là công văn hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao. Công văn này mang tính chất luật rất cao
  • 35. 30 nhưng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 không ghi nhận là văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ Công văn số 39/KHXX ngày 06/7/1996 của Tòa án nhân dân Tối Cao đã phân định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa Tòa án hành chính và cơ quan quản lý nhà nước khi vụ việc được đương sự đưa lên cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần thứ hai đồng thời đưa vụ việc ra tòa hành chính. Thực tế cho thấy loại công văn này chứa đựng các quy phạm mang tính chất áp dụng chung và có hiệu lực trực tiếp mạnh mẽ nhưng lại không được đăng công báo; làm ảnh hưởng quyền lợi của nhận dân và vô hình dung làm cho Tòa án Việt Nam vi phạm các quy định về minh bạch hóa pháp luật tại Chương VI Hiệp định thương mại Việt Mỹ 16. Hay một ví dụ khác, đó là Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân Tối cao giải thích quy định tại Khoản 2 Điều 305 của Bộ luật dân sự. Để thi hành đúng và thống nhất quy định tại Khoản 2 Điều 313 của Bộ luật dân sự năm 1995 (BLDS 1995) tại điểm 1 Mục III của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản đã hướng dẫn như sau: “ … hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án” [46]. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự 2005 ban hành và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2006, một số quy định đã có sự sửa đổi, bổ sung so với BLDS 1995. Tại Khoản 2 Điều 305 của BLDS 2005 quy định: “ Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán…” [32], có nghiã là việc trả lãi đối với số tiền chậm trả phải theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Hơn nữa, thực tế hiện nay các Ngân hàng đã bỏ mức lãi xuất nợ quá hạn. Vì vậy, vấn đề này được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của BLDS 2005. Ví dụ: Công văn số 40/KHXX ngày 06/4/2007 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc “Thụ lý giải quyết tranh chấp về họ”… Giải thích pháp luật là một yêu cầu khách quan để đảm bảo tính minh bạch và thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, nó gắn liền với sự tồn tại của nhà nước và pháp luật. Mặc dù có ý nghĩa đặc biệt quan trọng song giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được chú ý, phát triển trên cả hai phương diện là lí
  • 36. 31 luận và thực tiễn đúng với tầm vóc vốn có của nó. Giai thích pháp luật chính thức vẫn dừng lại là giải thích văn bản qui phạm pháp luật. Trong các văn bản qui phạm pháp luật chỉ qui định việc giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội – một thiết chế cho đến nay chỉ thực hiện thẩm quyền này được năm lần kể từ khi thành lập. Thực trạng này cho thấy tính minh bạch của hệ thống pháp luật đang bị thách thức nghiêm trọng. Các phương pháp giải thích pháp luật ở Việt Nam cũng chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản nào. Trong bối cảnh các đạo luật, pháp lệnh đều tồn tại dưới dạng luật khung, nếu không có hướng dẫn chi tiết thì việc thực hiện sẽ hết sức lung túng, mỗi người hiểu một kiểu, không truyền đạt đúng đắn nội dung pháp lí trong các qui phạm pháp luật đến đối tượng thi hành. Không ít các trường hợp, các văn bản hướng dẫn đó đã “xé rào” do cơ quan ban hành không nhận thức đầy đủ các yêu cầu của nhà lập pháp. Trên thực tế, Tòa án nhân dân Tối cao vẫn ban hành các nghị quyết và thông tư liên tịch với các cơ quan nhà nước có liên quan để giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật, mặc dù nó không được thừa nhận có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức. Bản chất và giá trị pháp lý của các văn bản này đến nay vẫn chưa được khẳng định trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần phải nhận thức lại về mục tiêu, bản chất, nguyên tắc, phương pháp và các hình thức giải thích pháp luật của Việt Nam. Không chỉ nội dung của các qui phạm pháp luật không rõ ràng, đa nghĩa dẫn đến cần phải có hoạt động giải thích pháp luật mà cả trong trường hợp nội dung của các qui phạm pháp luật khá rõ ràng nhưng do sự phát triển của các quan hệ xã hội dẫn đến qui phạm pháp luật đó không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có cách giải thích mở rộng, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hoặc khi xây dựng luật, các nhà làm luật đã không đặt ra các qui tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội hoàn toàn tương tự, dẫn đến phải có cách giải thích mở rộng để áp dụng pháp luật tương tự. Dù cho trình độ lập pháp có phát triển đến đâu thì các nước văn minh vẫn tiếp tục thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp bên cạnh văn bản qui phạm pháp luật. Việc thừa nhận các loại nguồn này kéo theo việc thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án và các cơ quan áp dụng pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định, giải thích pháp luật là một hoạt động tất yếu, cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các qui phạm pháp luật vào cuộc sống và mọi người đều phải thực hiện.