Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng, cho các bạn tham khảo
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đào Thi ̣Hồng Nhung
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ .......................... 9
1.1. Khái niệm, đă ̣c điểm, đối tƣợng và hình thức về trợ giúp pháp lý....... 9
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý............................................................ 11
1.1.3. Đối tượng của Trợ giúp pháp lý ......................................................... 14
1.1.4. Hình thức Trợ giúp pháp lý ................................................................ 16
1.2. Cơ sở pháp lý về hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam.......... 19
1.3. Vai trò của trợgiú p pháp lý............................................................. 25
1.4. Các điều kiện đảm bảo trợ giúp pháp lý ........................................ 32
1.4.1. Cần có hê ̣thống pháp luâ ̣t về trợ giúp pháp lý đầy đủ ....................... 33
1.4.2. Đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý........ 35
1.4.3. Phát triển đội ngũ luật sư, đă ̣c biê ̣t luâ ̣t sư ở vùng sâu, vùng xa........ 37
1.4.4. Cần có đội ngũ tr ợ giúp pháp lý và Luâ ̣t sư giỏi chuyên môn ,
giàu kinh nghiệm................................................................................ 38
1.4.5. Người thực hiê ̣n trợ giúp pháp lý cần nắm rõ quy đi ̣nh về
quyền con người ................................................................................ 39
1.5. Hoạt động trợ giúp pháp lý theo kinh nghiê ̣m ở mô ̣t số nƣớ c ..... 40
1.5.1. Kinh nghiê ̣m trợ giúp pháp lý tại Phần Lan ....................................... 40
4. 1.5.2. Trợ giúp pháp lý ở ISRAEL............................................................... 43
1.5.3. Kinh nghiệm Trợ giúp pháp lý ở AILEN........................................... 47
1.5.4. Một số nước khác ............................................................................... 49
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ TẠI HẢI PHÒNG ...................................................................... 52
2.1. Thực trạng về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Trợ
giúp pháp lý ở Hải Phòng ................................................................ 52
2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam............................................................................................ 52
2.1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý ở
Hải Phòng........................................................................................... 61
2.2. Thực trạng về tổ chức, bộ máy trợ giúp pháp lý ở Hải Phòng..... 66
2.2.1. Tổ chức thực hiê ̣n trợ giúp pháp lý ở Hải Phòng ............................... 66
2.2.2. Kết quả hoạt động của trợ giúp pháp lý nhà nước tại Hải Phòng.......... 69
2.3. Đánh giá chung về quản lý, tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý ở Hải Phòng......................................................................... 78
2.3.1. Mặt thuận lợi....................................................................................... 78
2.3.2. Khó khăn, hạn chế .............................................................................. 79
2.3.3. Nguyên nhân....................................................................................... 83
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG
HIỆU QUẢ, HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ......................... 87
3.1. Quan điểm về đảm bảo ch ất lƣợng hiê ̣u quả ho ạt động trợ
giúp pháp lý (định hƣớng, đƣờng lối nhằm đảm bảo ch ất
lƣợng trợ giúp pháp lý đảm bảo quyền con ngƣời)....................... 87
3.1.1. Quan điểm về đảm bảo ch ất lượng hiê ̣u quả ho ạt động trợ giúp
pháp lý ................................................................................................ 87
3.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý....................... 94
5. 3.2. Giải pháp để đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Hải Phòng ................................................................ 97
3.2.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật về trợ giúp pháp lý......................... 97
3.2.2. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người thực hiện trợ giúp
pháp lý ................................................................................................ 97
3.2.3. Giáo dục pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý và truyền
thông nâng cao nhâ ̣n thứ c về trợ giúp pháp lý cho người được trợ
giúp pháp lý và cộng đồng.................................................................. 98
3.2.4. Giải pháp về mô hình tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý................ 102
3.2.5. Phát triển mạng lưới và tăng cường trợ giúp pháp lý ở cơ sở .......... 104
3.2.6. Giải pháp về thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt
động trợ giúp pháp lý........................................................................ 105
3.2.7. Xây dựng mối quan hệ giữa trợ giúp pháp lý với các cơ quan
chức năng.......................................................................................... 106
3.2.8. Phát huy hiệu quả của Hội đồng phối hợp liên n gành về trợ giúp
pháp lý trong hoa ̣t động tố tụng........................................................ 107
3.2.9. Giải pháp khác.................................................................................. 109
KẾ T LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 115
6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐN Hội đồng nhân dân
NĐ Nghị định
TGPL Trợ giúp pháp lý
TT Thông tư
UBND Uỷ ban nhân dân
7. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình tổ chức ma ̣ng lưới, cán bộ, cộng tác viên trợ
giúp pháp lý 74
Bảng 2.2: Thống kê kết quả công táctrợ giúp pháp lý qua các năm 76
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ trợ giúp pháp lý (TGPL) là một loại trợ giúp tư pháp được đại
đa số các nước trên thế giới áp dụng (khoảng 150 nước). Nó là kết quả tất yếu
của sự phát triển trong xã hội, là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối
với công dân của mình. Nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải
tuân theo, do vậy nhà nước cũng phải có cơ chế bảo đảm để pháp luật bảo vệ
được quyền lợi của nhân dân. Nếu không làm được điều này, tất yếu sự hoài
nghi của công chúng đối với pháp luật sẽ nảy sinh và đó sẽ là nguy cơ lớn đối
với khả năng thực thi pháp luật.
Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng,
ngay cả người được đào tạo về pháp luật đôi khi cũng không hiểu hết các quy
định của pháp luật và khi có vướng mắc pháp luật hay phải đứng trước toà án
cũng không chắc chắn có thể bảo vệ thành công quyền lợi của mình. Do đó,
một công dân không có kiến thức pháp luật và không có kỹ năng thì dù không
phạm tội cũng không thể chứng minh được sự vô tội của mình.
Nhiều cuộc tranh luận trên thế giới đã đi đến sự khẳng định rằng, TGPL
là cần thiết. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách
rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể
thiếu trong quá trình xét xử.
Từ những năm 50 của thế kỷ 20, đã có ý kiến từ các luật gia tư sản cho
rằng việc tiếp cận luật pháp của người giàu cũng như của người nghèo là cần
thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó, cần phải tư vấn và đại diện
pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, tự do, danh dự bị đe
doạ nhưng không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý …
Sẽ là rất vô nghĩa nếu quyền được bào chữa chỉ áp dụng đối với người
9. 2
có khả năng trả chi phí dịch vụ. Vì vậy, việc khẳng định vị trí của TGPL là
một yêu cầu mang tính thủ tục cần thiết để bổ sung ý nghĩa cho nhà nước
pháp quyền. Nếu thừa nhận trật tự xã hội trong nhà nước pháp quyền là một
mục tiêu cần hướng tới thì việc thừa nhận TGPL rất quan trọng, có thể coi
như một phương tiện để đạt được mục tiêu ấy.
Tại Việt Nam TGPL ra đời năm 1997 trên cơ sở Quyết định số
734/TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, hoạt động TGPL miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách ngày càng khẳng định được vị trí, vai
trò trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trong trong
chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo và được cụ thể
hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010
và chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng
đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010.
Luật TGPL được Quốc hội thông qua tháng 6/2006 và có hiệu lực thi
hành vào ngày 01/01/2007 là một bước tiến của công tác lập pháp khi đúc rút
kinh nghiệm của việc thực hiện một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách TGPL, một lĩnh vực hoạt động pháp luật tương đối mới mẻ được
thể chế ổn định trong văn bản có hiệu lực cao. Luật này còn là tuyên ngôn
nhân quyền của nhà nước Việt Nam về các vấn đề công lý khi khẳng định
quyền được TGPL của người nghèo và các nhóm dân cư thiệt thòi, dễ bị tổn
thương được Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm để họ có quyền bình đẳng
tiếp cận dịch vụ pháp lý có chất lượng như các công dân khác. Tiếp đó, Chính
phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành 26 văn bản quy phạm pháp luật
đơn ngành và liên tịch góp phần đưa Luật TGPL đi vào cuộc sống nhằm
“giảm nghèo về pháp luật” cho một bộ phận nhân dân.
Việc giám sát thực hiện Luật này có vị trí rất quan trọng vì thông qua
số vụ việc và lĩnh vực pháp luật người dân thường có vướng mắc, cơ quan lập
10. 3
pháp có cơ sở để rà soát lại các quy định pháp luật hiện hành ở các lĩnh vực
này, cơ quan quản lý chuyên ngành cũng có căn cứ để đánh giá lại đội ngũ
công chức, viên chức đang có trách nhiệm giải quyết việc của dân.
Việc giám sát và theo dõi việc thực hiện Luật TGPL có thể được xem
xét từ nhiều góc độ như: theo thẩm quyền của các chủ thể có trách nhiệm tổ
chức thực hiện Luật; việc hình thành các tổ chức thực hiện TGPL và các tổ
chức này có tuân thủ luật hay không; việc các đối tượng thuộc diện có được
bảo đảm nhận dịch vụ dễ dàng và đúng đắn; nhu cầu TGPL của người dân
tăng hay giảm, tập trung nhiều ở lĩnh vực pháp luật nào (ví dụ, nếu số lượng
lớn vụ việc tập trung ở lĩnh vực đất đai thì phải xem lại quy định và chính
sách, xem lại đội ngũ cán bộ có thẩm quyền và trực tiếp giải quyết vấn đề đất
đai …); đội ngũ người thực hiện TGPL có được hình thành và đáp ứng yêu
cầu của người dân hay chưa; chất lượng TGPL so với chất lượng dịch vụ pháp
lý ngoài thị trường tự do như thế nào…
Sau 15 hình thành và phát triển, hệ thống TGPL Việt Nam đã và đang
không ngừng lớn mạnh về quy mô, ổ định về tổ chức với đội ngũ Trợ giúp
viên pháp lý, cộng tác viên TGPL là luật sư và các cộng tác viên khác không
ngừng phát triển về số lượng cũng như về năng lực, trình độ, đạo đức nghề
nghiệp và kỹ năng TGPL. Công tác TGPL đạt được những kết quả tích cực,
góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công
với cách mạng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác. Theo số liệu
thống kê, sau 05 năm triển khai thực hiện Luật TGPL của các tổ chức thực
hiện TGPL, các tổ chức thực hiện TGPL trong cả nước đã TGPL cho
497.617 đối tượng thông qua 489.082 vụ việc (tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện ngoài tố tụng …) [15].
Trợ giúp pháp lý là chính sách của Đảng và nhà nước thể hiện sự quan
11. 4
tâm tới nhân dân, “tôn chỉ” của hoạt động TGPL là đảm bảo công bằng xã hội
bằng cách “bênh vực” những người yếu thế, khó khăn, tạo điều kiện cho họ
có thể tiếp cận dịch vụ pháp lý tốt.
Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan TGPL trên thực tế tại Việt Nam
vẫn còn là một vấn đề cần phải xem xét, đánh giá từ nhiều khía cạnh để hoàn
thiện hơn nữa, để đáp ứng được yêu cầu thực tế - thực hiện được sứ mệnh của
mình và đáp ứng khát vọng của người dân nghèo, yếu thế về một nền pháp luật
công bằng. Xuất phát từ đòi hỏi khách quan này, tác giả đã chọn đề tài “Hoạt
động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng”
là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ mới của ngành tư pháp thể hiện sự
quan tâm sâu sắc của Đảng và nhà nước đối với người nghèo và đối tượng
chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam. Xóa đói, giảm nghèo cả về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho
người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công
bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ,
đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến TGPL miễn phí cho người nghèo và
đối tượng chính sách. Đó là:
- Luận án tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều
kiện đổi mới” của tiến sĩ Tạ Thị Minh Lý;
- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến;
- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của
người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân;
12. 5
- Luận văn thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan;
- Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị
Thu Hà;
- Luận văn thạc sĩ “Chất lượng TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Bắc
Ninh” của tác giả Nguyễn Đức trực;
- Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở
Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà;
- Luận văn thạc sĩ “Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm
nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy; …
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”; Bài viết “Luận cứ khoa
học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL”; Bài viết “Chất lượng vụ việc
TGPL” TS. Tạ Minh Lý, Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên
đề tháng 10/2009, tr.2-8; Bài viết “Đánh giá chất lượng vụ việc TGPL là hình
thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật TGPL”/TS. Tạ Minh
Lý/Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội; Bài viết “Chất lượng
vụ việc TGPL và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc TGPL”/Đỗ
Xuân Lân/ Tạp chí dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp, số 1/2008, tr.22-29; Bài
viết “Chất lượng vụ việc TGPL” của tác giả Nguyễn Hải Anh, Tạp chí Dân
chủ Pháp luật số 5/2008; Bài viết”Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc
TGPL”, chuyên đề của Cục TGPL, Bộ Tư pháp, 2008; Bài viết “Tiêu chí
đánh giá chất lượng cung ứng dịch vụ công tại các cơ quan hành chính nhà
nước”/ PGS.TS Nguyễn Hữu Hải, ThS. Lê Văn Hòa, Học viện Hành chính,
Tạp chí tổ chức nhà nước số 3/2010; Bài viết “Xã hội hóa và chất lượng cung
ứng dịch vụ công”, tác giả Đinh Mai Lan, Văn phòng UBND tỉnh Cao Bằng,
nguồn: http://www.nclp.org.vn/chinh sach/xa-hoi-hoa-va-chat-luong-cung-
ung-dich-vu-cong; Bài viết “Chất lượng dịch vụ, sự thỏa mãn và long trung
13. 6
thành của khách hang siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Nguyễn
Thị Mai Trang, khoa kinh tế, ĐHQG-HCM, Tạp chí Phát triển KH-CN, Tập
9, số 10-2006; The importance of Quality in Legal Aid/Helaine M.Barnett,
February, 2009 – Wyoming State Bar, …
Trong phạm vi luận văn, tác giả không có tham vọng tổng kết hay đánh
giá tổng thể TGPL với tư cách là dịch vụ công do Nhà nước cung cấp. Với đề
tài “Hoạt động của Trung tâm TGPL – qua thực tiễn ở Hải Phòng ”, tác giả sẽ
đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến hoạt động TGPL trên
cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn tại Hải Phòng, góp phần tìm ra giải pháp
khoa học đưa hoạt động TGPL trong thời gian tới gần với người dân nhất,
đảm bảo tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đồng bào
dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh đặc biệt khác, góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình hoạt động Trung tâm trợ giúp
pháp lý, bao gồm khái niệm, mục tiêu, đặc điểm, thực trạng hoạt động của
Trung tâm TGPL nhà nước trong phạm vi Thành phố Hải Phòng trong thời
gian qua; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
hoạt động của các Trung tâm TGPL, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu sô và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội.
Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và cơ sở thực tiễn về hoạt động của
Trung tâm TGPL;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động TGPL Nhà nước thành phố
Hải Phòng, tìm ra được những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất
14. 7
cập và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập đó
cũng như tình hình quản lý, đánh giá hoạt động của các Trung tâm TGPL ở
Hải Phòng trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của
Trung tâm TGPL Nhà nước ở Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý về hoạt
động TGPL ở Việt Nam.
- Thực tiễn hoạt động của Trung tâm TGPL ở Hải Phòng.
- Giải pháp đảm bảo, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm
TGPL trong thời gian tới tại Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích – tổng hợp, logic- lịch sử, so
sánh, đối chiếu. Đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử
dụng các tư liệu thực tiễn; các chuyên đề nghiên cứu trong và ngoài nước; kết
quả khảo sát để hoàn thành Luận văn.
6. Ý nghĩa của Luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu
trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn về hoạt động của Trung tâm TGPL
Nhà nước Hải Phòng.
- Luận văn góp phần khẳng định sự quan tâm sâu sắc và triệt để của
Đảng và Nhà nước về mặt công lý cho tầng lớp người nghèo, các đối tượng
15. 8
yếu thế trong xã hội, người dân tộc thiểu số và những người có công với đất
nước. Đồng thời, có sự đánh giá sát tình hình hoạt động của Trung tâm TGPL,
nêu và phân tích yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn đối với vấn đề hoạt động
của Trung tâm TGPL trong thời gian tới.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần bảo đảm
và nâng cao chất lượng TGPL trong thời gian tới.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn
được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý
Chương 2: Thực trạng của hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hải Phòng
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo chất lượng hiệu quả hoạt
động trợ giúp pháp lý
16. 9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. Khái niệm, đă ̣c điểm, đối tƣợng và hình thức về trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm Trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20,
xuất phát từ tiếng anh là “legal aid”. Theo nghĩa phổ biến thì “legal aid” được
hiểu là “tiền lấy từ quỹ công để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện
pháp lý” [25, tr.998]. “legal aid” trong cụm từ “legal aid schem” có nghĩa là
“bảo trợ tư pháp” [25]. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ
pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”.
Theo Đại từ điển tiếng việt – Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến” [58]. Từ điển từ và
ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh giải thích: trợ giúp là
góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ
mà không lấy tiền công.
Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau, cách gọi khác nhau về thuật
ngữ này, nhưng cụm từ “trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự
“sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ”. Xuất phát từ bản chất và hình thức hoạt động
“Legal aid” trên thế giới và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam trong thời
gian qua, thuật ngữ “Legal aid” được dịch là“Trợ giúp pháp lý” đang được sử
dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo ở Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo,
người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một
trong nhữmg tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Việc
17. 10
thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính
những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên thế giới rất phong
phú và đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Vì vậy, chưa có quan niệm chung, thống nhất về trợ giúp pháp lý.
Do có nhiều mô hình trợ giúp pháp lý, với những quan niệm khác nhau
về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí trợ giúp pháp lý trên thế giới,
nên ở mỗi nước đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể
hiện tính kinh tế, nhân đạo và tính pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý.
Tính kinh tế, nhân đạo thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng không có khả
năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Tính pháp lý
của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết
các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...).
Dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo một số nước (như Đức) quan
niệm trợ giúp pháp lý là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những
người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại
diện hoặc bào chữa trước toà án [18].
Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì Trợ giúp
pháp lý là giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi trả cho
việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý [18].
Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp luật năm 1995 của Singapore cũng
giải thích rằng trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ những người không có khả
năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý [18, Điều 2].
Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý, người Úc
cho rằng trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ cho một người có được hoàn cảnh và
18. 11
điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo
ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật [18].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” (sau đây xin được viết tắt là
TGPL) được sử dụng trong các tài liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu
xây dựng Đề án về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996,
thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực
hiện trong điều kiện hiện nay” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư
pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg
ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách. Năm 2006, Luật TGPL đã có quy định
chính thức về khái niệm TGPL:
TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến,
giáo dục pháp luật bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng
ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [43, Điều 3].
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp,
có đầy đủ những đặc trưng của dịch vụ công như: được xác định là một trong
những chức năng xã hội của nhà nước và là trách nhiệm của nhà nước; đối
tượng được TGPL là những người yếu thế, không có đủ điều kiện tiếp cận với
các loại dịch vụ pháp lý có thu tiền, cần có sự trợ giúp của nhà nước. Các chi
phí cho hoạt động TGPL chủ yếu do ngân sách bảo đảm. (Người được trợ
giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí hay thù lao nào dưới bất
kỳ hình thức nào. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý do ngân sách Nhà nước
cấp và nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước).
19. 12
Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có
trình độ am hiểu pháp luật thực hiện:
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà
nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ
chức chính trị xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Như vậy, hoạt động trợ
giúp pháp lý là một loại hoạt động vừa có tính chất nhà nước, vừa mang tính
chất xã hội.
Người thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 là
Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước, luật sư, tư
vấn viên pháp luật của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật
của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện trợ giúp trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu giúp đỡ
pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách thông qua việc tham gia tố
tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên
quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại… TGPL được coi là một
loại hình dịch vụ pháp lý bởi hình thức và phương thức thực hiện tương tự
như dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm khác biệt ở đây là TGPL có đối tượng,
phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn; việc thực hiện
TGPL cũng được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định khác so với trình
tự, thủ tục cung cấp dịch vụ pháp lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực
hiện. Người thụ hưởng TGPL không phải trả bất kỳ một khoản phí nào.
Trợ giúp pháp lý còn là một loại hình dịch vụ pháp lý chứa đựng tính
nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những
người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được nhà nước và xã hội quan tâm
giúp đỡ, hỗ trợ (Đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí là người
thuộc hộ nghèo; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số
thường trú ở các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; người
20. 13
già cô đơn, người tàn tật, người nhiễm HIV, nhiễm chất độc hóa học, trẻ
em không nơi nương tựa.
Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu
thế, góp phần tạo sự công bằng trong tiếp cận công lý.
Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện
đối với tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được trợ giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật, trừ các vụ
việc có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý, thể hiện qua phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Tính chất pháp lý của TGPL thể hiện ở
chỗ, TGPL là một trong các biện pháp thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào
cuộc sống bởi nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để giúp người
dân biết các quy định của pháp luật để thực hiện, sử dụng, tuân thủ trong cuộc
sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp phá của mình. Đặc biệt khi Nhà nước
thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật và giải quyết các vấn đề phát
sinh hang ngày trên cơ sở pháp luật thì yêu cầu cần phải giúp cho người dân
hiểu biết pháp luật trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: TGPL được xác định
là trách nhiệm của nhà nước, nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng
xã hội của nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp
cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập
sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí
của nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ. TGPL là một
trong những phương thức có hiệu quả để nhà nước giải quyết các mối quan hệ
xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết công đồng, bảo đảm ổn định trật tự và
an toàn xã hội.
21. 14
1.1.3. Đối tượng của trợ giúp pháp lý
Theo quy định của pháp luật về TGPL, người được TGPL là người
thuộc một trong các đối tượng sau đây:
Người nghèo là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật.
Chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chuẩn nghèo hiện
nay được thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dung cho giai đoạn 2011-2015.
Người có công với cách mạng bao gồm: người hoạt động cách mạng
trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hung; Anh
hung lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng lao động; Thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hóa học; người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; người có công giúp đỡ cách mạng,
gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có
công với nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia
đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến
(Điều 32 Pháp lệnh về người có công với cách mạng năm 2005); cha, mẹ,
chồng của liệt sĩ, con liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.
Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ
và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp
luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị
ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khỏe và khả năng lao động (thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa
22. 15
chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ), … chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có
thu nhập ổn định. Với nhóm dân cư này, chính sách TGPL của nhà nước chủ
yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn của xã hội nói chung đối với những
cống hiến của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập.
Người già cô đơn không nơi nương tựa: là những người từ 60 tuổi trở
lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng.
Trẻ em không nơi nương tựa: là người dưới 16 tuổi, không có gia đình
hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình thường
về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và
hòa nhập với gia đình, cộng đồng.
Người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn theo quy định của pháp luật. Ngày 5/3/2007, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ban hành danh mục
các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn làm căn cứ thực hiện một số chế
độ, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh – quốc
phòng, xóa đói, giảm nghèo nhằm cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các vùng
khác trong cả nước. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả các vùng, miền
của đất nước, nhưng tập trung phần lớn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, bị cô
lập về mặt địa lý, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã
hội cơ bản. Thu nhập của đồng bào chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài một số dân tộc có mặt bằng dân trí cao,
mức sống khá như người Hoa (sống ở Thành phố Hồ Chí Minh), người Khơ-
me (sống ở đồng bằng song Cửu Long), người Chàm (sống ở một số tỉnh
Nam Trung Bộ và Nam bộ), còn lại các dân tộc thiểu số khác đều có trình độ
dân trí thấp. Hầu hết các tộc người không có chữ viết riêng, phần đông không
có chữ quốc ngữ. Luật tục (tập quán pháp) giữ vai trò rất quan trọng trong đời
23. 16
sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số, quy định các chuẩn mực ứng
xử của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, gần
như thay thế cho pháp luật của nhà nước. Do không có điều kiện tiếp cận để
tìm hiểu pháp luật của nhà nước nên trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật
của người dân tộc thiểu số còn hạn chế.
- Người tàn tật: là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận của cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó
khăn, hoặc là người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc các bệnh
khác làm mất năng lực hành vi dân sự và không có nơi nương tựa.
- Các đối tượng khác, gồm: Phụ nữ: là nạn nhân của bạo lực gia đình,
nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị bóc lột sức lao động hoặc bị xâm hại tình
dục; phụ nữ đang trong quá trình chuẩn bị thủ tục kết hôn và ly hôn; phụ nữ
có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, người bị hại, bị can, bị cáo trong thời
gian mang thai, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng; phụ nữ là người khuyết tật
hoặc đang bị các bệnh hiểm nghèo; phụ nữ là người lao động bị sa thải trái
pháp luật hoặc nạn nhân bị lừa đảo trong quan hệ lao động, trong quan hệ hôn
nhân gia đình hoặc bị tước đoạt tài sản trái pháp luật.
Các đối tượng khác được TGPL theo quy định tại điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hiện Việt Nam đã ký hiệp
định tương trợ tư pháp với các nước: Cu Ba, Bungari, Hungari, Ba Lan, Lào,
Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Beelarut. Công dân của các nước
này cũng có thể được xem xét hưởng TGPL miễn phí nếu họ đang ở việt Nam.
1.1.4. Hình thức Trợ giúp pháp lý
Theo quy định của Luật TGPL, TGPL được thực hiện thông qua các
hình thức: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, các hình
thức TGPL khác.
24. 17
- Tư vấn pháp luật:
Tư vấn pháp luật là một loại hình dịch vụ trí tuệ, trong đó người có
trình độ hiểu biết sâu rộng đưa ra những ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể
nào đó có liên quan đến pháp luật. Những ý kiến đó không mang tính chất bắt
buộc (tính cưỡng chế) người được tư vấn phải thực hiện, nhưng nên thực hiện
bởi những lời tư vấn đó đều là những quy định của pháp luật.
Trong TGPL, tư vấn pháp luật là một hình thức TGPL. Luật TGPL
2006 quy định: “Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên, Luật sư, Tư vấn viên
pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật cho người được TGPL bằng việc hướng
dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn
bản liên quan đến vụ việc TGPL” [43, Điều 28]. Như vậy, hoạt động tư vấn
pháp luật do người thực hiện TGPL thực hiện bao gồm: giải đáp pháp luật,
hướng dẫn soạn thảo, góp ý kiến cho đơn từ, văn bản có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của công dân, hướng dẫn những thủ tục cần thiết, cung cấp địa
chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc, cung cấp những thông tin pháp
lý, đưa ra những lời khuyên về những vấn đề có liên quan đến pháp luật và
hướng dẫn đối tượng ứng xử phù hợp với pháp luật nhằm giúp cho người yêu
cầu tư vấn nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật để họ thực hiện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tư vấn pháp luật không phải là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật một cách chung chung hoặc chuyển tải thông tin pháp lý về các văn bản
pháp luật mới, bở đối tượng của hoạt dộng tư vấn pháp luật là một tổ chức
hoặc một cá nhân cụ thể; nội dung hoạt động tư vấn có liên quan đến một vụ
việc cụ thể theo yêu cầu của đối tượng. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật,
người tư vấn tuyên truyền, phổ biến pháp luật có liên quan trực tiếp đến vụ
việc cụ thể đó nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Hoạt động tư
vấn pháp luật cũng giúp cho người được tư vấn hiểu được đúng bản chất về
25. 18
quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện và ứng xử phù hợp với pháp luật,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật.
Tư vấn pháp luật trong TGPL được thực hiện tại trụ sở và ngoài trụ sở.
Tai trụ sở, tổ chức thực hiện TGPL tiếp nhận yêu cầu tư vấn trực tiếp hoặc
thông qua thư tín, điện thoại, fax hoặc thông qua phương tiện thông tin đại
chúng khác. Ở ngoài trụ sở, tư vấn được thực hiện thông qua các chuyến
TGPL lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, sinh hoạt câu lạc bộ TGPL và
thông qua các phương thức TGPL khác. Đối với những vụ việc tư vấn đơn
giản, người thực hiện TGPL sẽ phải tư vấn ngay. Đối với những vụ việc phức
tạp, cần có thời gian nghiên cứu, xác minh hoặc các vụ việc thiếu những giấy
tờ, tài liệu liên quan cần thiết cho việc tư vấn thì người thực hiện TGPL sẽ
viết phiếu hẹn hoặc yêu cầu bổ sung.
- Tham gia tố tụng.
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho
người được TGPL là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi
của người được TGPL là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc
dân sự, vụ án hành chính.
Giám đốc trung tâm TGPL nhà nước hoặc trưởng chi nhánh có trách
nhiệm cử người tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý,
luật sư xuất trình giấy chứng nhận tham gia tố tụng, thẻ Trợ giúp viên pháp lý
hoặc thẻ luật sư và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
tố tụng, được sử dụng các biện pháp quy định trong luật tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
26. 19
- Đại diện ngoài tố tụng.
Khi người được TGPL không thể tự mình bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của mình thì Trung tâm TGPL nhà nước, tổ chức hành nghề luật sư
cử người thực hiện TGPL đại diện ngoài tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho họ. Khi thực hiện đại diện ngoài tố tụng, người đại diện có thể sử
dụng các biện pháp phù hợp với các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
Các hình thức TGPL khác bao gồm: hỗ trợ thực hiện các công việc liên
quan đến thủ tục hành chính; hỗ trợ người được TGPL trong quá trình thực hiện
thủ tục khiếu nại theo quy định của Luật TGPL; cung cấp thông tin pháp luật, tờ
gấp, sách bỏ túi, cẩm nang pháp luật, các ấn phẩm tài liệu pháp luật khác qua các
đợt TGPL lưu động, sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL, sinh hoạt chuyên đề pháp luật,
cung cấp bản sao các điều khoản của văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
đến vụ việc TGPL, cung cấp địa chỉ làm việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà
pháp luật quy định có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
1.2. Cơ sở pháp lý về hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam
Ở các nước trên thế giới, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo,
người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của Nhà nước tư sản (như Na uy và Đa Mạch là hai quốc gia có hoạt động trợ
giúp pháp lý đã ra đời từ thế kỷ 17) và được coi là chức năng xã hội của nhà
nước, là một trong những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp
quyền. So với các quốc gia khác thì trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ra đời có
muộn hơn và cũng còn là hoạt động tương đối mới mẻ. Hoạt động này mới
chỉ ra đời vào những năm cuối của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những
thành tựu phát triển vượt bậc của 10 năm đổi mới, sự kiểm nghiệm thành
công của những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của
27. 20
dịch vụ pháp lý, đặc biệt là nghề luật sư ở Việt Nam. Có thể nói, quan điểm
của Đảng lấy con người làm trung tâm trong mọi định hướng phát triển của
đất nước đã tạo cơ hội cho sự hình thành và phát triển, dần đi đến hoàn thiện
của dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân và nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một cao đã
trở thành động lực quan trọng mang tính quyết định thúc đẩy trợ giúp pháp lý
ra đời và phát triển.
Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước, từ năm 1945 đến nay, dịch vụ
pháp lý miễn phí của Nhà nước ta đã trải qua các bước phát triển khác nhau
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn cách mạng đặt ra trong từng giai đoạn của đất nước. Từ năm 1945 đến
năm 1996, hoạt động dịch vụ pháp lý miễn phí phát triển gắn liền với hoạt
động của luật sư và của các cơ quan tư pháp. Mặc dù trợ giúp pháp lý mới
chính thức được khẳng định là một chế định pháp luật độc lập từ mười năm
trở lại đây nhưng những hoạt động mang tính chất trợ giúp pháp lý đã manh
nha hình thành và phát triển từ khá lâu trong lịch sử lập pháp nước nhà. Với
sự ra đời của Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư;
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm
phán; Sắc lệnh 163/SL ngày 23/3/1946 về tổ chức các Toà án binh và Sắc
lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949, Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946, những
hoạt động mang tính chất trợ giúp pháp lý đã ra đời dưới hình thức “tư pháp
bảo trợ”, gắn liền với yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của "người bị can, bị
cáo". Hoạt động này chủ yếu do các luật sư, cán bộ, công chức nhà nước và
các công dân khác không phải là luật sư thực hiện dưới sự trợ giúp, bảo đảm
kinh phí từ phía nhà nước. Theo đó, nếu muốn được “tư pháp bảo trợ” thì phải
làm đơn. Nếu “người đương sự” được kiện thì việc được hưởng “tư pháp bảo
28. 21
trợ” có hiệu lực cho đến khi thi hành xong hẳn bản án mà “người đương sự”
không phải nộp một khoản lệ phí nào, kể cả việc cấp trích lục án, phí tổn này
sẽ do công khố chịu. Có thể nói dịch vụ pháp lý miễn phí giai đoạn này đã thể
hiện sâu sắc bản chất "dân chủ" của nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
non trẻ. Tuy vậy, hoạt động “tư pháp bảo trợ” mới chỉ tập trung ở bảo đảm
quyền bào chữa cho bị can, bị cáo mà chưa mở rộng bảo đảm quyền tiếp cận
pháp luật cho các đối tượng đặc thù như một số nước trên thế giới vì đất nước
ta phải gồng mình tập trung mọi sức lực, của cải cho cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ để giành độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc.
Trên nền tảng Hiến pháp 1946, các bản Hiến pháp tiếp theo (1959,
1980, 1992) vấn đề "tư pháp bảo trợ" được tiếp tục thể hiện qua nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Năm 1982, Việt Nam tham gia 2
Công ước lớn: Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và Công ước
về các quyền dân sự và chính trị. Theo Điều 14, điểm 3 Phần d Công ước về
các quyền dân sự và chính trị, quá trình xét xử một tội hình sự, mỗi người đều
có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu là:
Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ
sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về
pháp lý thì phải được thông báo về quyền này; trong trường hợp do
lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ
pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu không có đủ điều kiện
trả [27, Điều 14, điểm 3 Phần d].
Việc tham gia các Công ước này đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư
duy về quyền được tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật của mọi
công dân không phân biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn
thiện chế định tư pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ
dừng lại ở bảo đảm quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và
29. 22
sử dụng pháp luật của công dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt
(không có đủ điều kiện trả tiền) nhằm bảo đảm công bằng xã hội.
Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với nước ngoài ngày càng đòi
hỏi phải phát triển thị trường dịch vụ pháp lý. Trước yêu cầu đó, ngày
18/5/1995, tại phiên họp Ban Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng Bí thư
Đỗ Mười khẳng định:
Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường hoạt
động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng
cũng cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân
dân, mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công
tác này chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một vấn đề cần được
nghiên cứu và làm ngay trong thời gian tới [46].
Ngày 31/5/1995, Văn phòng Trung ương Đảng đã có Công văn số
485/CV-VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán sự Đảng
Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị:
Xác định phạm vi thích hợp hoạt động tư vấn pháp luật của tổ
chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, trước hết chú trọng tổ
chức tư vấn pháp luật của nhà nước…; cần nghiên cứu lập hệ thống
dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân
sống và làm việc theo pháp luật [55].
Trong thư ngày 20/12/1995 gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân
dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười một lần
nữa nhấn mạnh: Nhà nước phải nghiên cứu sớm thành lập một hệ thống các tổ
chức tư vấn pháp luật không mất tiền dành cho người nghèo, các gia đình
thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ đạo này đã định
hướng để đổi mới tư duy về công tác cung ứng dịch vụ pháp lý, đặt mốc cho
30. 23
quá trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt
động của đời sống pháp luật, tạo tiền đề về mặt chính trị - pháp lý cho sự ra
đời và phát triển của công tác trợ giúp pháp lý.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, dưới sự chỉ
đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, tham mưu giúp
Chính phủ triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm trợ giúp pháp lý của
Nhà nước tại một số tỉnh. Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh Cần
Thơ được thành lập ngày 13/7/1996, Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước
tỉnh Hà Tây được thành lập ngày 28/01/1997. Trải qua 01 năm thu được một số
kết quả đáng khích lệ (trên 700 vụ/2 địa phương), số vụ việc ngày càng tăng,
nhiều đối tượng đã gửi thư cảm ơn. Lãnh đạo hai tỉnh đánh giá cao và coi đây
là một trong những loại hình đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đi vào cuộc sống hiệu quả nhất. Kết quả thí điểm là tiền đề rất
quan trọng cho sự ra đời của công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
734/TTg thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối
tượng chính sách tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời hệ thống tổ chức trợ giúp
pháp lý của Nhà nước. Theo đó, ở Trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý thuộc
Bộ Tư pháp được thành lập (Điều 1), ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp được
thành lập (Điều 4).
Sau 03 năm triển khai hoạt động, để thúc đẩy hoạt động trợ giúp pháp
lý phát triển, ngày 01/03/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
05/2000/CT-TTg về việc tăng cường công tác trợ giúp pháp lý. Chỉ thị đã
đánh giá:
Trong thời gian qua (1997-2000) các Bộ, ngành và UBND
các cấp đã nỗ lực, công tác trợ giúp pháp lý đã được triển khai thực
31. 24
hiện khẩn trương, nghiêm túc và có hiệu quả, tạo điều kiện cho
nhiều người nghèo và đối tượng chính sách hiểu biết pháp luật, giúp
họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp [47].
Chỉ thị xác định trợ giúp pháp lý là một bộ phận trong tổng thể chính
sách thực hiện dân chủ ở cơ sở; thiết lập quan hệ phối hợp trong hoạt động trợ
giúp pháp lý, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
trả lời các kiến nghị của tổ chức trợ giúp pháp lý, thiết lập cơ chế để hướng dẫn
các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công tác này. Thủ tướng nhấn mạnh:
Công tác trợ giúp pháp lý đã và đang trực tiếp hướng dẫn
nhân dân sống, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nghĩa
vụ công dân, giữ đoàn kết trong cộng đồng, bảo đảm cho các quyền
của công dân được tôn trọng trong thực tế, góp phần ổn định trật tự
xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, pháp luật,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội [47].
Năm 2001 Pháp lệnh Luật sư được thông qua, Pháp lệnh đã thiết lập
cơ chế pháp lý khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham gia trợ giúp
pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách [41, Điều 6].
Ngày 05/8/2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức
hành nghề.
Kịp thời thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối và chính sách của Đảng
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế đi đôi với bảo
đảm công bằng xã hội, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp đỡ pháp luật cho nhân dân
theo tinh thần, nội dung nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
lần thứ X và các Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã
thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2007). Sự ra đời của Đạo luật này đã thể hiện nhất quán chính sách của Đảng
32. 25
và Nhà nước trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho nhân dân đặc biệt là người nghèo và đối tượng
chính sách, đánh dấu bước chuyển về chất và đưa công tác trợ giúp pháp lý lên
một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước.
1.3. Vai trò của trợgiú p pháp lý
Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới ra đời
và phát triển từ nhiều năm nay, như Na uy và Đa Mạch là hai quốc gia có hoạt
động trợ giúp pháp lý đã ra đời từ thế kỷ 17, ở đó, ban đầu hoạt động trợ giúp
pháp lý thực hiện dưới hình thức từ thiện của các luật sư như bào chữa cho bị
can, bị cáo, bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự miễn phí trước
toà án. Ở Việt nam, hoạt động về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách tuy mới ra đời gần 10 năm trở lại đây, nhưng bước đầu đã
đem lại nhiều kết quả và khẳng định vị trí, vai trò của công tác trợ giúp pháp
lý cho người nghèo và đối tượng chính sách là không thể thiếu được trong đời
sống pháp luật của xã hội Việt nam hiện nay.
Hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức trợ giúp pháp lý thật sự
đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý cho
người được trợ giúp pháp lý, chủ yếu người nghèo và đối tượng chính
sách và hàng triệu lượt người được phổ biến, giáo dục pháp luật miễn phí,
kịp thời hòa giải nhiều vụ việc xích mích, tư vấn và hướng dẫn cho người
thực hiện trợ giúp pháp lý và kịp thời bài chữa, đại diện hàng nghìn vụ việc
của người dân.
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở nước ta hiện nay,
bước đầu cho thấy trợ giúp pháp lý có vai trò quan trọng đối với đời sống
kinh tế xã hội, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Cụ thể là:
33. 26
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ
giúp pháp lý nói chung và cho người nghèo và đối tượng chính sách nói
riêng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam được
hình thành từ lâu, nó được thể hiện và ghi nhận trong 4 bản Hiến pháp (1946,
1959, 1980, 1992). Đặc biệt, tư tưởng Nhà nước pháp quyền được tiếp tục
khẳng định và làm rõ hơn qua các kỳ Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII,
VIII, và IX và nhất là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Đảng ta tiếp tục nhấn
mạnh chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN:
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần có cơ chế
vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [20].
Điều 2 Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…” [40].
Về bản chất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước dân chủ, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Trong Nhà nước pháp quyền mọi công dân điều phải bình đẳng trước pháp
luật, ở đó các quyền con người được tôn trọng và bảo đảm thực thi. Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam có nhiệm vụ phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của
đất nước, thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Cho nên tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý với mục tiêu
là nâng cao hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý, tạo điều kiện cho
người yếu thế trong xã hội, mà cụ thể người nghèo và đối tượng chính sách
vươn lên trong việc tiếp cận pháp luật, tạo ra cơ chế công bằng trong mỗi
34. 27
công dân khi thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, do đó quá
trình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý đã làm bộc lộ được bản chất và
những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Ngoài ra, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ góp phần mở rộng
việc thực thi dân chủ ở cơ sở, nhất là mở rộng dân chủ trực tiếp; thông qua
nhận thức pháp luật của người được trợ giúp pháp lý (chủ yếu người nghèo và
đối tượng chính sách), họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật.
Thông qua việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật của các
chủ thể thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý sẽ tạo ra một môi trường pháp
lý rộng rãi cho người được trợ giúp pháp lý có những hành vi ứng xử hợp
pháp; bảo đảm cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý sử dụng các quy định
của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình, thực hiện
tốt nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”.
Thứ hai, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý góp phần vào công
cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính nước ta hiện nay: Nghị quyết
48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24.5.2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
khẳng định: "Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ
thông tin, tư vấn, hỗ trợ pháp luật đáp ứng các nhu cầu đa dạng của nhân
dân và phù hợp pháp luật. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách…” [01]. Với tính cách là một hoạt động bổ trợ
tư pháp, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý còn nhằm nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật trong nhân dân, tránh sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan, cán
bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi nhiệm vụ, góp phần quan trọng
trong việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời tạo cơ
chế hữu hiệu thực thi nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật
35. 28
không phân biệt vị thế xã hội. Nó còn đóng vai trò là người hướng dẫn pháp
luật cho người nghèo và đối tượng chính sách, bảo đảm cho người được trợ
giúp pháp lý miễn phí đều được tiếp cận, sử dụng pháp luật trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo ra điều kiện để công lý và công bằng
xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
dân biết quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật trợ giúp pháp lý...đó là bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, mà trước hết là quyền
bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình thông qua tổ chức trợ giúp
pháp lý. Chính vì vậy, hoạt động trợ giúp pháp lý đã có những đóng góp quan
trọng cho công cuộc cải cách tư pháp.
Thông qua tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ giúp cho người
dân hiểu hơn các trình tự, thủ tục hành chính cần thiết, tránh đi lại nhiều lần,
tốn kém tiền bạc và công sức của người dân, mà trước hết là người được trợ
giúp pháp lý. Những vụ việc liên quan đến pháp lý của người nghèo, đối
tượng chính sách, người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa, dân tộc
thiểu số, phụ nữ trong gia đình bạo lực... được những người thực hiện trợ
giúp pháp lý tư vấn, đại diện, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết vụ việc nhanh chóng, đúng pháp luật, góp phần rất lớn vào công
cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Đồng thời, tổ chức và hoạt
động trợ giúp pháp lý còn làm cầu nối giúp chính quyền các cấp tháo gỡ,
khắc phục những vướng mắc và tạo ra diễn đàn đối thoại giữa chính quyền
với dân. Ngoài ra tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý còn giúp cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, các cơ quan Nhà nước giải quyết công việc một cách
chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực
hiện cải cách tư pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trước toà, bảo đảm cho người nghèo, đối tượng chính sách, người già cô
đơn, trẻ em không nơi nương tựa, dân tộc thiểu số, phụ nữ trong gia đình
36. 29
bạo lực... không có điều kiện thuê luật sư cũng có luật sư (với tư cách cộng
tác viên) hoặc Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ, bào chữa miễn phí quyền và lợi
ích hợp pháp cho họ trước các cơ quan tố tụng.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý góp phần quan trọng
trong công tác xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xóa đói giảm nghèo đến năm 2010 của Việt nam (Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Công văn số 2685/VPCP ngày 21/5/2002) là chương trình hành
động thực hiện định hướng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, kết
hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Để phục
vụ cho mục đích chung của Chiến lược là "tạo môi trường tăng trưởng nhanh,
bền vững và xóa đói giảm nghèo", công tác trợ giúp pháp lý được coi là một
trong những chính sách của Chiến lược trong đó xác định: "Hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật, tăng cường trợ giúp pháp lý và khả năng tiếp cận pháp lý cho
người nghèo. Mở rộng mạng lưới trợ giúp pháp luật để người nghèo ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp luật”[48].
Đồng thời, Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp
pháp lý góp phần còn thực hiện một số chính sách hỗ trợ các dịch vụ, cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức
pháp luật thuộc Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010. Theo đó, tổ
chức và hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ hỗ trợ về trợ giúp pháp lý, nâng cao
nhận thức pháp luật cho người nghèo: hỗ trợ một số hoạt động tổ chức sinh
hoạt câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tại xã; tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động tại
xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; cung cấp thông tin pháp luật (tờ gấp, băng
catset) miễn phí cho người nghèo.
Thực tế qua gần 10 năm tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý đã góp
37. 30
phần nâng cao hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đối tượng chính sách,
người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa, dân tộc thiểu số, phụ nữ trong
gia đình bạo lực... Nó góp phần tăng cường khả năng tiếp cận pháp lý cho
đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Hoạt động trợ giúp pháp lý
thời gian qua không ngừng mở rộng mạng lưới trợ giúp pháp luật về cơ sở
thông qua các hình thức và phương pháp tiến hành như thực hiện trợ giúp
pháp lý lưu động, trợ giúp pháp lý qua các phương tiện thông tin đại chúng…
để người nghèo, đối tượng chính sách ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể
tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp luật miễn phí. Chính vì vậy, hoạt động
trợ giúp pháp lý góp phần đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao
mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, không phân biệt dân tộc, địa bàn sinh
sống… Chính vai trò này đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế trong việc bảo vệ nhân quyền, phù hợp xu thế phát triển của
thế giới, trước hết chú trọng người nghèo và các đối tượng bị thiệt thòi khác
trong xã hội.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý người được trợ giúp
pháp lý còn làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước được triển khai và thực thi trên thực tế. Tổ chức thực hiện
các hoạt động về trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý là quá
trình hiện thực hóa các quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý trên thức tế,
mà pháp luật về trợ giúp pháp lý là sự cụ thể hóa các chủ trương, chính sách
của Đảng, nên quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cũng là quá trình triển
khai các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tế cuộc
sống. Hay nói cách khác, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ
giúp pháp lý nhằm bảo đảm thực hiện chính sách nhất quán của Đảng ta là
đặc biệt quan tâm đến người nghèo, đối tượng chính sách, trong đó có việc
“xóa mù, xóa nghèo” về mặt pháp lý.
38. 31
Pháp luật về trợ giúp pháp lý được ban hành trong thời gian qua sẽ làm
cơ sở cho việc tiếp tục triển khai và thực hiện có hiệu quả công tác trợ giúp
pháp lý trên phạm vi toàn quốc, tạo ra cơ chế đưa chủ trương, chính sách xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo đảm thực hiện bình đẳng dân tộc và
công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, đáp ứng kịp thời
nhu cầu cần được giúp đỡ pháp luật miễn phí của người nghèo, đối tượng
chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian tới.
Thứ năm, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ góp phần đắc lực
vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Thông qua tổ chức và hoạt
động trợ giúp pháp lý sẽ giúp cho các tổ chức trợ giúp pháp lý đã phát hiện
những vướng mắc, bất cập từ các quy định pháp luật, nhất là những quy định
pháp luật liên quan đến người được trợ giúp pháp lý, để kiến nghị cơ quan chức
năng sửa đổi, bổ sung nhằm làm hoàn thiện hơn trong việc xây dựng cơ chế,
chính sách và pháp luật. Đồng thời, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý còn
thúc đẩy cho đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý hoạt
động chuyên nghiệp hơn, cũng như nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ và tu dưỡng
đạo đức phẩm chất của người thực hiện trợ giúp pháp lý...thực tế gần 10 năm
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đã cung cấp nhiều luận cứ
khoa học từ thực tiễn để xây dựng cơ chế, chính sách cho việc nâng cao hoạt
động trợ giúp pháp lý; nhất là việc hoàn thiện chức năng, tiêu chuẩn, điều kiện
của từng người thực hiện trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý, cơ
quan quản lý nhà nước đối hoạt động trợ giúp pháp lý..
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý có vai trò củng cố,
bảo vệ và phát triển các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Tâm lý chung của người Việt Nam chúng ta ngại tham gia kiện tụng, hoạt
động hòa giải cơ sở là hình thức do pháp luật trợ giúp pháp lý cho phép đã
vận động, thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết vướng mắc trên cơ sở
39. 32
pháp luật và đạo đức xã hội. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý còn đóng
vai trò bảo vệ tính công bằng, tự do và nhân đạo, lòng tin vào công lý của con
người. Các nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý được ghi nhận trong
Luật trợ giúp pháp lý sẽ chống lại các biểu hiện vi phạm trách nhiệm nghề
nghiệp, không tuân thủ pháp luật và quy tắc trợ giúp pháp lý, hoặc việc quy
định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trợ giúp pháp lý, tôn
trọng sự thật khách quan, không thu phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp
lý...cho thấy, hoạt động trợ giúp pháp lý đóng vai trò giúp cho người nghèo,
đối tượng chính sách, và đối tượng khác... nắm bắt những giá trị đạo đức,
thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt nam, đồng thời củng cố bảo vệ và làm
cho nó không ngừng phát triển trong cuộc sống xã hội....
Tóm lại, từ những vấn đề trên, có thể nói, tổ chức và hoạt động trợ giúp
pháp lý có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nó không những đem lại nhiều lợi ích cho
người nghèo và đối tượng chính sách và một số đối tượng yếu thế khác, mà
còn giúp cho các cơ quan chức năng nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người
dân từ cơ sở, nhất là những nguyện vọng chính đáng của người nghèo và đối
tượng chính sách, qua đó, Nhà nước sẽ có những chủ trương, quyết sách đúng
đắn trong việc thực hiện các chức năng xã hội của mình. Do vậy, tổ chức và
hoạt động trợ giúp pháp lý có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.4. Các điều kiện đảm bảo trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được TGPL, nhằm giúp họ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật,ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật;
góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công
bằng xã hội , phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật . Muốn
40. 33
công tác TGPL phát huy được tính ưu viê ̣t của nó thì trên thực tế từ phía cơ
quan quản lý nhà nước phải đảm bảo một số điều sau:
1.4.1. Cần có hê ̣thống phá p luật vềtrợ giúp pháp lý đầy đủ
Hoạt động TGPL trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc thụ
hưởng quyền tiếp cận công lý và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
những người nghèo, đối tượng chính sách, người dân tộc thiểu số, trẻ em và
phụ nữ. Nó góp phần quan trọng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nhất
là ở địa phương, và tới những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong xã hội, nhờ
đó họ nâng cao được nhận thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của mình
trong các quan hệ dân sự và hình sự có liên quan. Hoạt động TGPL đã làm
thay đổi nhận thức và hành vi của cán bộ, công chức và người dân về pháp
luật cũng như quyền và nghĩa vụ liên quan của cán bộ, công chức đối với
nhân dân. Theo ý nghĩa đó, TGPL tăng cường việc bảo đảm và hiện thực hoá
các quyền con người và quyền công dân của các cá nhân.
Cùng với sự ra đời của Luật TGPL và Luật Luật sư, các văn bản quy
phạm pháp luật dưới luật đã góp phần tích cực vào cải thiện nhận thức của đội
ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật cũng như việc nâng cao vai trò,
quyền hạn và trách nhiệm của những người tham gia hoạt động tố tụng và các
trợ giúp viên pháp lý, các cộng tác viên đối với việc bảo đảm quyền được
TGPL của đối tượng thụ hưởng. Chẳng hạn, Mục I của Thông tư liên tịch của
Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-
BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một
số quy định về TGPL trong hoạt động tố tụng quy định về trách nhiệm của
các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án cần phải cung cấp thông tin và
hướng dẫn tiếp cận TGPL cho bị can, bị cáo và các đương sự liên quan. Cơ
quan tố tụng khi giải thích cho người đang bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị
41. 34
cáo và các đương sự khác biết về quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật tố
tụng thì phải giải thích cho họ về quyền được TGPL và hướng dẫn họ tiếp cận
các thông tin về TGPL (điểm 4, Mục I của Thông tư liên tịch). Đây là những
điểm mới trong công tác thực thi pháp luật và bảo đảm quyền con người của
các cá nhân, đặc biệt là quyền được TGPL từ nghĩa vụ thực thi của các cơ
quan tố tụng và cán bộ áp dụng pháp luật.
Bên cạnh những thành tựu nói trên, việc bảo đảm quyền được TGPL
của người dân vẫn còn nhiều bất cập.
Một trong những bất cập, hạn chế của việc bảo đảm quyền được TGPL
cho người dân là hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa có những văn bản
hướng dẫn, quy định chi tiết, cụ thể về tiêu chí thụ hưởng quyền được TGPL
của các đối tượng được nêu trong Điều 10 của Luật. Hơn nữa, đối tượng được
TGPL theo quy định của Luật còn hạn chế và chưa phản ánh đầy đủ tinh thần
nhân văn, nhân đạo của pháp luật nước ta cũng như của việc thực thi nghĩa vụ
của Việt Nam đối với chuẩn mực quốc tế về quyền con người được thể hiện
trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Chẳng hạn, Luật TGPL chỉ thừa nhận quyền được TGPL cho đối tượng là trẻ
em không nơi nương tựa, chứ chưa phải là trẻ em nói chung, cũng như đối
tượng là người nghèo mà chưa có những quy định mở rộng cho những đối
tượng có thu nhập thấp hoặc những người thất nghiệp, vô gia cư... Trong khi
đó, pháp luật quốc tế quy định rằng, trẻ em là đối tượng đặc biệt cần phải
được bảo vệ và có quyền được tiếp cận tư pháp và TGPL miễn phí. Điều 40
(khoản b, đoạn ii) của Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng khẳng định,
bất cứ trẻ em nào bị khởi tố là đã vi phạm pháp luật hình sự đều có quyền
được trợ giúp về pháp lý hoặc sự trợ giúp thích hợp khác cho sự biện hộ của
mình. Điều 14 (khoản 3, đoạn d) của Công ước quốc tế về quyền dân sự -
chính trị quy định trong quá trình xét xử với một tội hình sự, mỗi người đều
42. 35
có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình lựa chọn,
được nhận sự TGPL mà người ấy không phải trả tiền nếu không có đủ điều
kiện chi trả. Thực tiễn tư pháp ở các quốc gia châu Âu và Toà án châu Âu
cũng cho thấy, đối tượng thụ hưởng TGPL không chỉ là những người không
có khả năng chi trả trong các vụ án hình sự, trong quá trình tố tụng hình sự,
mà còn cả cho những vụ án dân sự - trong quá trình tố tụng dân sự (3). Thực
tiễn này đặt ra kinh nghiệm cho hoạt động TGPL ở Việt Nam dựa trên cách
tiếp cận quyền. Thêm nữa, ở Việt Nam, đối tượng được TGPL hiện nay chưa
bao hàm những người cũng được coi là yếu thế và dễ bị tổn thương nhất trong
xã hội và chiếm số lượng khá lớn là phụ nữ ở nông thôn. Nhiều vụ án dân sự,
hình sự liên quan đến quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này đã xảy ra,
nhưng không phải tất cả họ đều có thể có quyền được TGPL.
1.4.2. Đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho một
số đối tượng để tiếp cận các dịch vụ pháp lý, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Qua 5 năm triển khai Luật TGPL, việc thúc đẩy, nâng
cao và mở rộng hoạt động TGPL đã chứng tỏ vai trò quan trọng của các
nguồn lực tài chính.
Sau khi Luật TGPL được thông qua và có hiệu lực thi hành, các văn
bản quy phạm pháp luật về cơ chế tài chính đã được ban hành kịp thời. Chẳng
hạn như, Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc lập,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan
TGPL nhà nước đã nêu cụ thể các nội dung chi liên quan đến tiền lương, tiền
công, công tác phí, thanh toán dịch vụ, chi nghiệp vụ, mua sắm…
Hay theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg về việc thành lập Quỹ TGPL
Việt Nam, Quỹ TGPL được sử dụng để hỗ trợ mua sắm trang thiết bị, phương
tiện làm việc cũng như hỗ trợ trực tiếp cho một số hoạt động khác liên quan
43. 36
tới từng vụ việc TGPL (riêng trong năm 2011, Quỹ TGPL được ngân sách
nhà nước hỗ trợ 26,4 tỷ đồng để chi cho các đối tượng thuộc Chương trình
30a của Chính phủ)…
Các văn bản này đã tạo cơ chế linh hoạt cho các Trung tâm TGPL nhà
nước trong việc sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước được giao và chủ
động huy động các nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, trong khi
nguồn lực ngân sách còn hạn chế thì Quỹ TGPL thực sự là một kênh huy
động các nguồn tài chính từ xã hội. Nhờ vậy, đáp ứng được nhu cầu về kinh
phí cho hoạt động TGPL và tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất
cho các Trung tâm.
Bên cạnh đó, với sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
sự phối kết hợp, sẵn sàng chia sẻ khó khăn với công tác TGPL, hoạt động
TGPL còn được bố trí thực hiện lồng ghép với các Chương trình mục tiêu
quốc gia về giảm nghèo, Chương trình 135… nên đã tranh thủ được nguồn
kinh phí đáng kể từ những Chương trình này để tiến hành một số hoạt động cụ
thể, mang lại hiệu quả rất lớn.
Ngoài ra, việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của các Trung tâm TGPL
nhà nước sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đã tạo điều kiện cho các Trung tâm nâng
cao chất lượng dịch vụ, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức của
Trung tâm.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại trong việc bảo đảm nguồn lực tài
chính cho công tác TGPL. Đó là chưa đủ động lực để xây dựng, phát triển
được đội ngũ cộng tác viên TGPL đáp ứng yêu cầu của công tác này trong
tình hình mới do các định mức về chế độ bồi dưỡng và chi phí hành chính cho
cộng tác viên thực hiện TGPL chậm được nghiên cứu, hoàn thiện. Đó là cơ
chế hoạt động và khả năng huy động nguồn tài chính cho Quỹ TGPL còn gặp
44. 37
phải những rào cản bởi Quỹ mới được thành lập, chưa xây dựng được kế
hoạch hoạt động lâu dài.
1.4.3. Phát triển đội ngũ luật sư, đặc biê ̣t luật sư ở vùng sâu, vùng xa
Trong bất kỳ một xã hội văn minh, dân chủ nào, luật sư đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng và bảo đảm quyền con người.
Tuy nhiên, vai trò của luật sư ở Việt Nam còn rất khiêm tốn. Cùng với sự
thiếu hụt về số lượng là chất lượng của đội ngũ luật sư. Hiện cả nước mới chỉ
có hơn 4.000 luật sư trên tổng số 86 triệu dân, chủ yếu tập trung ở các thành
phố lớn. So sánh với các quốc gia phát triển như Vương quốc Anh, tỷ lệ luật
sư trên số dân là 1/430; Hoa Kỳ là 1/300 dân. Trong khi đó, tỉ lệ của Việt
Nam là 1/25.000 dân, chỉ xấp xỉ bằng 1/60 so với Vương quốc Anh. So với
những quốc gia trong khu vực, tỷ lệ luật sư trên người dân của nước ta vẫn là
rất thấp. Quốc gia láng giềng Trung Quốc có tỉ lệ luật sư trên số dân là
1/12.000, Hàn Quốc là 1/4.400 và Nhật Bản là 1/5.500 dân. Sự thiếu hụt đội
ngũ luật sư ở nước ta đã ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền được TGPL của
người dân. Ngoài ra, hệ thống giáo dục pháp luật và nghề luật nước ta trong
những năm qua chưa thực sự chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng hành nghề
và trang bị tri thức pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người. Hệ quả
là đội ngũ luật sư - những người tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho công dân còn hiểu rất mơ hồ và thiếu sâu sắc về quyền
con người. Đó là chưa kể đến những luật sư thiếu nhiệt tình, thiếu đạo đức
trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
Thêm nữa, hiện nay chúng ta vẫn chưa có các luật sư công có trách
nhiệm tham gia hoạt động TGPL và cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý
`miễn phí. Mặc dù pháp luật khuyến khích sự tham gia tự nguyện, tích cực và
chủ động đối với hoạt động TGPL, nhưng thực tiễn cho thấy sự tham gia ở
mức độ rất hạn chế của đội ngũ luật sư vào hoạt động TGP. Điều này cũng có