Luận văn thạc sĩ ngành luật: Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, cho các bạn tham khảo
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Hoài Phƣơng
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH ..........................................................................................7
1.1. Những vấn đề cơ bản về quyền công dân...............................................7
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền công dân ................................7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền công dân ......................................................11
1.1.3. Phân loại quyền công dân.........................................................................15
1.2. Những vấn đề cơ bản trong hoạt động xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình......................................................................................17
1.2.1. Khái niệm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình....................................17
1.2.2. Trình tự xét xử vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND cấp thành phố
trực thuộc trung ƣơng ...............................................................................19
1.3. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n chung về b ảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ...............................22
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình .....................................................22
1.3.2. Nội dung bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án
hôn nhân và gia đình.................................................................................24
1.3.3. Các yếu tố bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình............................................................................32
4. 1.3.4. Ý nghĩa, vai trò bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình.......................................................................35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................37
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..........................................................................38
2.1. Khái quát chung về đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội và
TAND thành phố Hà Nội .......................................................................38
2.1.1. Đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội......................38
2.1.2. Vị trí, vai trò của TAND thành phố Hà Nội.............................................41
2.2. Những ƣu điểm về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét
xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội.....44
2.2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND
thành phố Hà Nội......................................................................................44
2.2.2. Công tác chỉ đạo, triển khai tổ chức và kiểm tra......................................52
2.2.3. Những kết quả đạt đƣợc về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố
Hà Nội.......................................................................................................55
2.3. Những hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét
xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội.....74
2.4. Nguyên nhân hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành
phố Hà Nội...............................................................................................79
KẾT LUẬT CHƢƠNG 2..........................................................................................84
Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƢỜNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT
XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.......................................85
3.1. Yêu cầu tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình .................................................85
5. 3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng...................................................85
3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân....87
3.1.3. Yêu cầu cải cách tƣ pháp..........................................................................88
3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình .................................................89
3.2.1. Giải pháp chung........................................................................................89
3.2.2. Giải pháp riêng .......................................................................................101
3.3. Kiến nghị với cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm tạo điều
kiện bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án
hôn nhân và gia đình ............................................................................108
KẾT LUẬN ............................................................................................................111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................113
6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐND Hội đồng nhân dân
TAND Tòa án nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
7. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Kết quả giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình của
TAND thành phố Hà Nội (từ năm 2011 - 2013) 45
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền công dân là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản của bất cứ
quốc gia nào. Quyền công dân phải đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của
mà bất cứ quốc gia nào cũng phải thực hiện.
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân là chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, điều đó đã đƣợc thể
chế tại Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm
2013): “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân” [2518, Điều 2].
Một trong những tiêu chí rất quan trọng của Nhà nƣớc pháp quyền là bảo
đảm cao nhất quyền công dân trong mọi hoạt động của Nhà nƣớc trong đó có hoạt
động xét xử của Tòa án. Trong những năm qua, cùng với những thành tựu to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN, Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm
quyền công dân trên tất cả mọi mặt nói chung và bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử của Tòa án trong đó có hoạt động xét xử án hôn nhân và gia đình.
Thực tế hoạt động xét xử của ngành TAND trong những năm gần đây đã
cho thấy các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình ngày càng phức tạp, do vậy
việc nhận thức và vận dụng pháp luật để giải quyết loại tranh chấp này cũng nhƣ
đảm bảo quyền công dân trong hoạt động xét xử cũng gặp không ít khó khăn. Tuy
nhiên, với sự cố gắng của các Thẩm phán và cán bộ ngành Tòa án, việc áp dụng
pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng nhƣ pháp luật về tố tụng dân sự và đảm
bảo quyền công dân trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về hôn nhân gia
đình đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ góp phần giải quyết kịp thời các
mâu thuẫn bất hòa trong quan hệ hôn nhân, bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đƣơng sự, đồng thời góp phần làm ổn định chính trị, trật tự an
9. 2
toàn xã hội, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không những vậy, thông qua
hoạt động xét xử đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình đã tăng
cƣờng việc phổ biến tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân để họ
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc, thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm của ngành TAND đã phát hiện đƣợc những thiếu sót, hạn chế nhất
định: để quá thời hạn chuẩn bị xét xử, đánh giá chứng cứ chƣa toàn diện, bản án
tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự, thiếu ngƣời tham
gia tố tụng, xác định tài sản chung, tài sản riêng để phân chia chƣa đúng hoặc chƣa
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự dẫn đến Tòa án cấp trên phải
sửa, hủy bản án của Tòa án cấp dƣới. Đặc biệt còn có một số vụ án tranh chấp về hôn
nhân và gia đình có tính chất phức tạp, có liên quan đến nhiều tài sản chung của gia
đình, vợ chồng nên bị kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh hƣởng đến quyền
và lợi ích của công dân. Đội ngũ Thẩm phán còn hạn chế về chuyên môn và thiếu
kinh nghiệm xét xử đã làm giảm lòng tin của các đƣơng sự, cũng nhƣ các chủ thể
khác vào phán quyết của Tòa án. Do đó, trong hoạt động xét xử các vụ án nói chung
và các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng phải bảo đảm cho các đƣơng sự tìm thấy
lẽ công bằng, tính nhân đạo, tin tƣởng vào cơ quan Tòa án.
Thành phố Hà Nội là thủ đô của Việt Nam đƣợc coi là trung tâm kinh tế,
chính trị và văn hóa. Nền kinh tế càng phát triển thì các mâu thuẫn phát sinh ngày
càng đa dạng và phức tạp đặc biệt những mâu thuẫn phát sinh trong mối quan hệ
hôn nhân và gia đình. Trong những năm qua số vụ án về hôn nhân và gia đình mà
toàn ngành Tòa án nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng thụ lý đã tăng
vƣợt bậc. Ngoài bảo đảm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đúng với các quy
định của pháp luật thì bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án
hôn nhân và gia đình luôn đƣợc lãnh đạo TAND thành phố Hà Nội quan tâm chỉ
đạo. Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử của Toà án nói chung và bảo
đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng đã
đạt đƣợc nhiều thành tựu vƣợt bậc làm tấm gƣơng cho toàn ngành Tòa án. Tuy
10. 3
nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc thì vấn đề bảo đảm quyền công dân
trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND Thành phố Hà
Nội còn nhiều bất cập gây ảnh hƣởng đến uy tín cũng nhƣ chất lƣợng xét xử của
TAND Thành phố Hà Nội.
Trong bối cảnh Thành phố Hà Nội đang tiếp tục thực hiện Chƣơng trình cải
cách Tƣ pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW ngày 24/05/2005 của Ban chấp hành
Trung Ƣơng về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày
02/6/2005 của Ban chấp hành Trung Ƣơng về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm
2020 và thực hiện các Nghị quyết, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố
thì tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng là yêu cầu bức thiết.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành
phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
đã đƣợc các nhà nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể gồm một số các
đề tài của các tác giả nhƣ: Hoàng Văn Hạnh “Áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết án hôn nhân và gia đình của TAND ở tỉnh Thái Nguyên” Luận văn thạc sỹ
luật học, năm 2006; “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của
Tòa án nhân dân ở tỉnh Thừa Thiên Huế” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả
Đào Thị Mai Hƣờng năm 2010; “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Văn Cừ năm 2005; Vũ
Thanh Tuấn “Một số vấn đề khi giải quyết việc hôn nhân và gia đình” Tạp chí Tòa
án số 14 tháng 7/2007; Thủy Nguyên “Áp dụng Luật hôn nhân, gia đình khi giải
quyết vụ án có yếu tố nước ngoài” Tạp chí Tòa án số 17 năm 2005; Đỗ Văn
Chỉnh, Ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Pháp luật và thực tiễn. Tạp chí Tòa án nhân
dân số 10 tháng 5/2007... Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề
11. 4
giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình dƣới góc độ về áp dụng pháp luật, giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài.
Các nghiên cứu của các học giả trên đã đề cập đến vấn đề giải quyết các vụ
án hôn nhân và gia đình dƣới góc độ về áp dụng pháp luật, giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài.
Vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử nói chung và các vụ
án hôn nhân và gia đình của các chuyên gia pháp lý và đặc biệt là những ngƣời làm
công tác xét xử của ngành Tòa án nghiên cứu ở nhiều mức độ và khía cạnh khác
nhau. Các bài viết trên các tạp chí khác nhƣ: Tạp chí Tòa án, Tạp chí Luật học; Tạp
chí Kiểm sát; Tạp chí Dân chủ; Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật… cũng có nghiên
cứu về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền công
dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Đó là những tiền đề tƣ
liệu quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, các bài viết trên hoặc nghiên
cứu chung về vấn đề bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử của TAND
hoặc nghiên cứu về một khía cạnh nào đó của hoạt động xét xử các tranh chấp về
hôn nhân và gia đình. Song đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào phân tích
một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống dƣới góc độ lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đặc biệt
là tại TAND thành phố Hà Nội. Vì vậy đó chính là lý do để tôi chọn chủ đề này làm
đề tài luận văn Cao học Luật của mình.
3. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công dân, về hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình, bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình.
- Phân tích thực trạng hoạt động bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, phân tích nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế của bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và
gia đình tại TAND thành phố Hà Nội;
12. 5
- Từ đó đƣa ra một số yêu cầu tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình ở Việt Nam; đƣa ra một số giải
pháp chung và riêng, một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân
trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Ý nghĩa luận văn:
- Có ý nghĩa thực tiễn góp phần tăng cƣờng bảo đảm quyền công dân trong
hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và tại
TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp cho công tác tăng cƣờng chất lƣợng, hiệu quả xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đóng góp một phần vào thành quả của chƣơng trình cải cách tƣ pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW tại Việt Nam nói
chung và thành phố Hà Nội nói riêng.
- Đồng thời, luận văn cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, là tài liệu tham
khảo cho những ngƣời trực tiếp làm công tác giải quyết các tranh chấp các vụ án
hôn nhân và gia đình trong ngành TAND, công tác giảng dạy, học tập trong các
trƣờng Đại học chuyên Luật và không chuyên Luật.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một luận văn thạc sỹ Luật học thuộc chuyên ngành Lý luận
và Lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về
bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
đồng thời nghiên cứu thực tiễn vấn đề trên tại TAND thành phố Hà Nội từ năm
2011 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên việc vận dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể là phân
tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phƣơng pháp phân tích quy phạm cũng
đƣợc tác giả vận dụng để phân tích, bình luận nội dung của một số chế định.
13. 6
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của bảo đảm
quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND
thành phố Hà Nội trong bối cảnh thành phố Hà Nội đang tiếp tục phát huy hiệu quả
của chƣơng trình cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết số 48/NQ – TW và Nghị quyết số
49/NQ- TW. Với những kết quả mà luận văn đạt đƣợc, tác giả hy vọng sẽ góp một
phần nhỏ vào việc bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình của Việt Nam nói chung và của TAND thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử
các vụ án hôn nhân và gia đình.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp và kiến nghị tăng cƣờng bảo đảm quyền công
dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
14. 7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Những vấn đề cơ bản về quyền công dân
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền công dân
Mặc dù vấn đề công dân đã manh nha trong tƣ tƣởng của Aritstốt nhƣng phải
đến thời điểm ra đời Nhà nƣớc Cộng hòa Quý tộc chủ nô trong xã hội cổ đại La Mã
vấn đề công dân mới xuất hiện rõ nét. Vấn đề quyền công dân chỉ đƣợc bàn đến
rộng rãi và phổ biến trong xã hội tƣ sản đặc biệt là qua các cuộc Cách mạng Tƣ sản
và sự xuất hiện các Nhà nƣớc Tƣ sản ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII, sau các cuộc
Cách mạng Vô sản và sự xuất hiện Nhà nƣớc XHCN thế kỷ XX.
Trải qua thời gian, vấn đề quyền công dân ngày càng đƣợc hoàn thiện cùng
với sự phát triển của xã hội, của khoa học pháp lý. Tại Châu Âu đến cuối thế kỷ thứ
XIX vấn đề quyền công dân bắt đầu đƣợc bàn đến rộng rãi và đƣợc ghi nhận trong
các bản Hiến pháp. Điển hình là tại Đức, quyền công dân bắt đầu đƣợc ghi nhận trong
Hiến pháp từ năm 1818 - 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg
năm 1819). Khi đó, nƣớc Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là
thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tƣ bản chủ nghĩa nên thời kỳ
này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với
những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tƣ sản mà trong đó, cái ảnh hƣởng
to lớn là những tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Vào những năm 50 của thế kỷ
XX, quyền công dân đƣợc tiếp cận ở góc độ quyền bình đẳng với tƣ cách là nền tảng
của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới - với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền và sự thể hiện tuyên ngôn này trong pháp luật quốc gia. Những
năm 70, 80 của thế kỷ XX, quyền công dân đƣợc ghi nhận trong pháp luật quốc gia
với tƣ cách là sự thể hiện các nội dung và quyền con ngƣời về quyền dân sự và chính
trị, kinh tế, xã hội và văn hóa theo các Công ƣớc về quyền dân sự và chính trị, Công
ƣớc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, 1976.
15. 8
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác
nhau mà hệ thống các quyền công dân đƣợc thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Tuy nhiên xã hội càng phát triển vấn đề quyền công dân càng đƣợc coi trọng và bảo
vệ. Đặc biệt với các nƣớc hiện nay đang tiến hành xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
và xã hội công dân, thì vấn đề bảo đảm quyền công dân rất đƣợc coi trọng.
Tại Việt Nam, vấn đề quyền công dân lần đầu tiên đƣợc ghi nhận một cách cụ
thể nhất tại Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Nhà nƣớc ta đã đƣợc Quốc
hội thông qua. Với Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những
ngƣời dân nô lệ trƣớc đây thực sự trở thành ngƣời chủ của đất nƣớc, đƣợc bảo đảm
các quyền tự do, dân chủ trên nhiều phƣơng diện. Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam đƣợc bảo đảm các quyền tự do, dân chủ.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng của công dân trƣớc pháp luật
đƣợc ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc. Và cũng là lần đầu tiên trong lịch
sử dân tộc, phụ nữ đƣợc ngang quyền với nam giới về mọi phƣơng diện.
Kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do dân chủ và
tự do cá nhân của công dân, Hiến pháp năm 1959 đã có những bƣớc phát triển mới
trong việc quy định cụ thể hơn các quyền công dân đồng thời bổ sung thêm một số
quyền công dân mới. Các quyền của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
trong Hiến pháp 1959 bao gồm: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, quyền tự do tín ngƣỡng, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền tự do đi lại cƣ trú. Hiến
pháp 1959 đã ghi nhận những thành tựu mới của Nhà nƣớc dân chủ nhân dân trong
việc hình thành và phát triển quan hệ lao động mới. Đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc
không những quy định lao động là cơ sở phát triển kinh tế của đất nƣớc, cơ sở nâng
cao đời sống văn hóa của nhân dân mà còn quy định đó là nghĩa vụ và danh dự của
công dân (Điều 21 và Điều 32). Bằng quan điểm đó Hiến pháp 1959 đã xác định
một quan điểm mới về lao động, với quan điểm này nhân dân Việt Nam vốn dĩ cần
cù, sáng tạo phát triển, thêm tƣ chất đạo đức tốt đẹp của mình, coi lao động không
những là nguồn gốc của cải xã hội, mà còn là nhu cầu của đời sống tinh thần của
16. 9
nhân dân. Ngoài những quyền mà Hiến pháp 1946 quy định, Hiến pháp năm 1959
quy định thêm nhiều quyền mới nhƣ quyền của ngƣời lao động đƣợc giúp đỡ về vật
chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu
khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác
(Điều 34); quyền khiếu nại tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nƣớc nào về những hành
vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nƣớc (Điều 29).
Với sự ra đời Hiến pháp 1980 - bản Hiến pháp thứ ba và là Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa thứ hai của nƣớc ta, các quy định về các quyền tự do dân chủ và tự do cá
nhân cùng với các bảo đảm pháp lí từng bƣớc cải thiện đáng kể. So với Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã quy định thêm một số quyền mới của công dân
nhƣ quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nƣớc và xã hội (Điều 56);
Quyền khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61); Quyền có nhà ở (Điều
62); Quyền đƣợc học tập không phải trả tiền (Điều 60); Quyền của xã viên hợp tác
xã đƣợc hƣởng phụ cấp khi sinh đẻ (Điều 63)… Mặc dù, có những hạn chế nhƣng
so với Hiến pháp năm 1946 và 1959 nhƣng quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp 1980 vẫn là một bƣớc phát triển mới phong phú hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Tại bản Hiến pháp 1992 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phần lớn
các quy định về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân đƣợc ghi nhận ở Hiến
pháp 1980 đã đƣợc sửa đổi, mở rộng và quy định cụ thể hơn, đồng thời ghi nhận
thêm những quyền mới nhằm đáp ứng nhu cầu của việc mở rộng hơn nữa nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phù hợp với sự vận
động của nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói so với
các bản Hiến pháp trƣớc, nhóm các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và
tự do cá nhân trong Hiến pháp 1992 đó có bƣớc phát triển đáng kể và tƣơng đối
hoàn thiện, thể hiện một quá trình phát triển liên tục về phƣơng diện chính trị, pháp
lí cũng nhƣ về phƣơng diện kĩ thuật lập hiến Việt Nam.
Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2013 đƣợc Quốc hội (khóa XIII)
thông qua tại kỳ họp thứ 6, gồm 11 chƣơng, 120 điều có hiệu lực từ ngày
01/01/2014, giảm 01 chƣơng và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp
17. 10
năm 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh
tế, xã hội, văn hóa của con ngƣời. Nếu nhƣ Hiến pháp năm 1992 quy định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân đƣợc tại chƣơng V thì ở Hiến pháp năm 2013 chƣơng
về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chƣơng II, chỉ xếp
sau chƣơng về chế độ chính trị. Đây không phải là sự ngẫu nhiên hoặc cơ học mà
đây là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con ngƣời trong Hiến
pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách
nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời, quyền công
dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nƣớc ta.
Về tên chƣơng cũng có sự thay đổi, nếu nhƣ ở Hiến pháp năm 1992 là
"Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp năm 2013 chƣơng này có tên
là "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định
quyền con ngƣời đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công
ƣớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. So với Hiến pháp năm 1992 thì
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế
trong một số trƣờng hợp nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con ngƣời,
quyền công dân. Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định
về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể
và bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 nhƣ gộp các Điều 65, 66, 67 và
bổ sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53
Hiến pháp năm 1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nƣớc trƣng
cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo
hƣớng ghi nhận mọi ngƣời có quyền, công dân có quyền và quyền con ngƣời là
quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của
ngƣời có quốc tịch Việt Nam… Để mọi ngƣời, công dân thực hiện quyền của mình
thì Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nƣớc là phải ban hành văn
bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngƣời và công dân thực hiện đầy
18. 11
đủ các quyền của mình. Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con ngƣời, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng
lối, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về quyền con ngƣời, coi con ngƣời là chủ
thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nƣớc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhằm hƣớng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền công dân
Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tƣ sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tƣ sản đã biến
con ngƣời (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nƣớc quân
chủ sang địa vị công dân trong Nhà nƣớc cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái
niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con ngƣời, theo quy định của pháp luật với
tƣ cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nƣớc, từ đó mà quyền con ngƣời
đƣợc thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân.
Nhƣng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng
của quyền con ngƣời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc và
mối quan hệ đó đƣợc xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định
quốc tịch.
Nếu xét về phƣơng diện ngữ nghĩa của từ thì thuật ngữ “quyền công dân”
đƣợc phân tích cụ thể nhƣ sau:
"Quyền" theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, là: "1. Điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền công dân, quyền bầu
cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm (nói tổng quát.
Có chức có quyền. lạm dụng quyền” [51, tr.815].
Tuy nhiên, dù với cách giải thích thứ hai, "quyền" vẫn là những gì "mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi", là khả năng
xử sự nhất định của cá nhân, tổ chức đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi từ cộng
đồng xung quanh. "Công dân" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là "người
dân, trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước" [51, tr.207].
19. 12
Khi con ngƣời đƣợc coi là công dân, quyền công dân chính là quyền con
ngƣời trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội - chính trị cụ thể.
Nhƣ vậy trên bình diện phân tích về ngữ nghĩa của câu từ chúng ta có thể
hiểu quyền công dân là những quyền của những con ngƣời đƣợc hiến pháp và pháp
luật của một quốc gia nhất định ghi nhận và bảo vệ.
Về khái niệm quyền công dân C. Mác cho rằng: "Quyền công dân là những
quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên "xã hội
công dân" [1, tr.14].
Tại Việt Nam hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công
dân nhƣ theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc:
Quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt Nhà nƣớc bằng
pháp luật địa vị con ngƣời trong khuôn khổ Nhà nƣớc, là sự thừa nhận,
trong chừng mực mà Nhà nƣớc chấp nhận, địa vị con ngƣời của cá nhân
trong Nhà nƣớc [2027, tr.75].
Tiến sỹ Vũ Công Giao cho rằng: "Quyền công dân là tập hợp
những quyền tự nhiên đƣợc pháp luật của một nƣớc quy định, mà tất cả
những ngƣời có chung quốc tịch của nƣớc đó đƣợc hƣởng một cách bình
đẳng” [17, tr.21].
Thực ra, khái niệm quyền công dân không phải dùng để chỉ các quyền cụ thể
của công dân là quyền nào mà là khái niệm có tính chất là tiêu chí đánh giá, hàm ý
chỉ rằng Nhà nƣớc đã ghi nhận và bảo đảm cho công dân, quyền con ngƣời nhƣ thế
nào trong các quyền và trong các nghĩa vụ cụ thể của công dân. Tính cụ thể của khái
niệm chỉ là chỗ nó không tồn tại độc lập nhƣ khái niệm quyền con ngƣời mà phải
gắn với các quy định của pháp luật, phải qua việc xem các quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của một hệ thống pháp luật nhƣ thế đã phản ánh quyền công dân nhƣ
thế nào. Thông qua quyền công dân trong một hệ thống pháp luật, ngƣời ta có thể
biết nó đã thể hiện quyền con ngƣời nhƣ thế nào. Quyền công dân khác với khái
niệm “quyền cơ bản” của công dân đƣợc ghi nhận trong các bản hiến pháp, nó mang
tính chất cụ thể chỉ các lợi ích cơ bản mà pháp luật ghi nhận cho công dân. Cần
nhấn mạnh rằng quyền cơ bản của công dân là quyền đƣợc thể hiện trong các quy
định cụ thể cho cả quyền và cả nghĩa vụ cơ bản cho đối với công dân.
20. 13
Từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu thuật ngữ quyền công dân dƣới
hai phƣơng diện theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp nhƣ sau:
Theo nghĩa rộng: Quyền công dân đƣợc hiểu là quyền con ngƣời giới hạn
trong phạm vi các đặc tính xã hội của con ngƣời và trong phạm vi một quốc gia,
một chế độ chính trị trong đó con ngƣời tồn tại.
Theo nghĩa hẹp: Quyền công dân là các quyền cụ thể của con ngƣời đƣợc
pháp luật của một quốc gia ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Quyền công dân có những đặc điểm sau:
Một là quyền công dân là một bộ phận của quyền con người
Quyền con ngƣời xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá nhân,
không liên quan đến việc nó có đƣợc ghi nhận trong pháp luật một Nhà nƣớc cụ thể
nào không. Quyền công dân lại là các quyền đƣợc thể hiện trong pháp luật của một
nƣớc ghi nhận (dƣới dạng là các quyền và nghĩa vụ cụ thể) và bảo đảm thực hiện
trong một Nhà nƣớc cụ thể. Nội hàm của khái niệm “quyền con ngƣời” rộng hơn
khái niệm “quyền công dân”, hay nói cách khác, “quyền công dân” là một bộ phận
của “quyền con ngƣời”. So với khái niệm quyền con ngƣời, khái niệm quyền công
dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, đƣợc pháp luật của mỗi
quốc gia quy định. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội dung, số lƣợng,
chất lƣợng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thƣờng không giống nhau. Tuy
nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con ngƣời và quyền công dân trong quy định
của các nƣớc.
Trong mỗi quốc gia, quyền công dân trong nội dung là sự thể hiện cụ thể của
quyền con ngƣời, khó có thể phân định một cách thật sự rạch ròi quyền con ngƣời,
quyền công dân theo quan điểm quyền con ngƣời là quyền tự nhiên, quyền công dân
là do pháp luật quy định; hay quyền con ngƣời là do luật quốc tế quy định, quyền
công dân là do pháp luật quốc gia quy định. Việc nhận thức giá trị và bản chất của
quyền con ngƣời có vai trò quyết định trực tiếp trong việc xây dựng các quy chế
pháp lý về quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việc ghi
nhận và bảo đảm thực hiện các quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ
bản của quyền con ngƣời.
21. 14
Trong văn kiện quốc tế đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn thế giới về quyền
con ngƣời và các Công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời, theo đó, quyền con ngƣời
là nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của
con ngƣời đƣợc thể chế hoá trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Còn quyền công dân phản ánh, thể hiện là quyền con ngƣời, là những giá
trị gắn liền với một Nhà nƣớc nhất định và đƣợc Nhà nƣớc đó bảo đảm thực hiện
bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với
một Nhà nƣớc cụ thể.
Hai là quyền công dân được ghi nhận trong hệ thống pháp luật và được bảo
đảm thực hiện
Sự xác lập các quyền nghĩa vụ này tạo thành một chế định quan trọng của
Luật Hiến pháp - chế định quan hệ giữa Nhà nƣớc và cá nhân. Ở nhiều nƣớc chế
định này gọi là quyền và nghĩa vụ của công dân (Nhật Bản), quyền và nghĩa vụ
của con ngƣời và công dân (Nga). Nhƣng với đặc trƣng đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp, tức đƣợc điều chỉnh bằng Hiến pháp, mà Hiến pháp là đạo Luật cơ bản nên
các quyền và nghĩa vụ này ở nhiều nƣớc thƣờng gọi là quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành sử dụng cách gọi quyền và
nghĩa vụ cơ bản của nhân dân. Với sự ghi nhận bằng pháp luật các cơ quan Nhà
nƣớc có trách nhiệm bảo đảm quyền công dân đƣợc thực hiện và có cơ chế xử lý
đối với hành vi vi phạm quyền công dân của bất cứ đối tƣợng nào kể cả cơ quan
quyền lực Nhà nƣớc.
Ba là quyền công dân gắn liền với vấn đề về quốc tịch
Trong một quốc gia thì không chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có thể
có công dân nƣớc ngoài hoặc ngƣời không quốc tịch, thậm chí có ngƣời mang nhiều
quốc tịch. Hay nói cách khác không phải mọi cá nhân sinh sống trên lãnh thổ của
một quốc gia đều đƣợc coi là công dân của quốc gia đó. Một cá nhân muốn trở
thành công dân thì cần những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó có thể giống
hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia nhất định.
Để trở thành công dân của một nƣớc, các cá nhân bao giờ cũng phải có quốc
22. 15
tịch của nƣớc đó. Tƣ cách công dân mang đến cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc
biệt trong quan hệ với nƣớc mà họ mang quốc tịch. Đó chính là tất cả các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Các quyền và nghĩa vụ này tồn tại đối với công dân trong
quan hệ với Nhà nƣớc mà họ mang quốc tịch, ngay cả trong trƣờng hợp họ sống ở
nƣớc ngoài. Những ngƣời không phải là công dân (ngƣời không có quốc tịch, ngƣời
nƣớc ngoài) có thể sẽ không có đƣợc hoặc chỉ có các quyền, nghĩa vụ của nƣớc sở
tại ở mức độ hạn chế. Một số quyền, nghĩa vụ mà họ sẽ không đƣợc hƣởng nhƣ:
quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, tham gia nghĩa
vụ quân sự và xây dựng quốc phòng toàn dân... Dựa trên những điều kiện cụ thể của
mình mà Nhà nƣớc quy định cho công dân những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định. Nhƣng bất luận thế nào thì các quyền và nghĩa vụ này cũng nói
lên một điều rằng, quyền công dân cũng nhƣ quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận và
bảo đảm nhƣ thế nào, tiến bộ hay lạc hậu.
Có thể nói, việc đặt ra khái niệm công dân có một ý nghĩa rất quan trọng. Điều
này thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nƣớc thì ngƣời đó đƣợc hƣởng đầy đủ các
quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nƣớc đó quy định. Còn những
ngƣời không phải là công dân của nƣớc sở tại thì quyền và nghĩa vụ của họ bị hạn chế
trong một số lĩnh vực nhƣ: họ không có quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội;
không có quyền bầu cử; ứng cử; họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham
gia xây dựng quốc phòng toàn dân,… Mặt khác, khái niệm công dân thể hiện mối quan
hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại trong cả trƣờng hợp công dân nƣớc đó đã ra nƣớc
ngoài sinh sống nhƣng vẫn còn mang quốc tịch. Việc sinh sống ở trong hay ngoài nƣớc
sẽ không ảnh hƣởng đến tƣ cách công dân khi họ vẫn mang quốc tịch nƣớc đó.
1.1.3. Phân loại quyền công dân
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác
nhau mà hệ thống các quyền công dân đƣợc thể hiện ở những mức độ khác nhau
nhƣng tựu chung lại vẫn có những cách phân loại cơ bản sau:
Căn cứ vào nhu cầu bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con ngƣời thì quyền
công dân đƣợc chia thành 02 nhóm sau:
23. 16
Nhóm quyền được bảo đảm những điều kiện xã hội để con người tồn tại bao
gồm: quyền có công ăn việc làm; quyền cƣ trú, đi lại; quyền bất khả xâm phạm về
thân thể; quyền đƣợc bảo đảm chỗ ở; quyền an ninh chính trị; quyền tự do kết hôn;
quyền sở hữu và thừa kế tài sản;...
Nhóm quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được sáng tạo để
tự biểu hiện mình như một nhân cách bao gồm: quyền đƣợc học hành và nâng cao
học vấn; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền đƣợc xã hội đào tạo nghề
nghiệp; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do bầu cử và ứng cử; quyền tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo; quyền đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chân lý;...
Căn cứ vào các lĩnh vực đời sống xã hội, các phƣơng diện hoạt động của cá
nhân thì quyền công dân bao gồm:
Nhóm quyền trong lĩnh vực chính trị: Gồm các quyền nhƣ quyền tham gia
quản lý Nhà nƣớc; quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nƣớc;
quyền tự do ngôn luận, tự do báo trí, hội họp, lập hội biểu tình theo quy định của
pháp luật đây; quyền khiếu nại, tố cáo...
Nhóm quyền trong lĩnh vực kinh tế: Gồm các quyền nhƣ quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu tƣ liệu sản xuất...
Nhóm quyền trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Quyền học tập; quyền nghiên
cứu khoa học; quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe; quyền bình đẳng nam - nữ; quyền đƣợc
bảo hộ về hôn nhân và gia đình; quyền đƣợc hƣởng ƣu đãi và chăm sóc; quyền đƣợc
thông tin...
Nhóm quyền trong lĩnh vực tự do cá nhân: Gồm các quyền nhƣ quyền tự do
tín ngƣỡng; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại
về vật chất và phục hồi danh dự; quyền bí mật thƣ tín, điện thoại; quyền tự do đi lại
và cƣ trú…
Căn cứ theo phƣơng pháp tiếp cận của khoa học pháp lý thì quyền công dân
đƣợc phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm các quyền và tự do dân chủ về chính trị: Gồm có các quyền nhƣ quyền
tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ;
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền đƣợc thông tin; quyền tự do tín ngƣỡng;...
24. 17
Nhóm các quyền về dân sự bao gồm: Gồm các quyền nhƣ quyền tự do đi lại
cƣ trú trong nƣớc; quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc; quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền khiếu nại, tố cáo;...
Các quyền về kinh tế - xã hội: Gồm các quyền nhƣ quyền lao động;
quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế; quyền
học tập;...
Mặc dù có nhiều các phân loại thành nhiều nhóm quyền dựa vào các căn cứ
khác nhau nhƣng sự phân định giữa các nhóm quyền này chỉ mang tính chất tƣơng đối.
1.2. Những vấn đề cơ bản trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và
gia đình
1.2.1. Khái niệm xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau" [24, Điều 8].
Nhƣ vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ, ông bà…
cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng. Trong
quá trình chung sống phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Hôn nhân là cơ sở
của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa
lợi ích của mỗi công dân, Nhà nƣớc và xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định việc kết hôn, để đƣợc công
nhận hôn nhân hợp pháp; việc đăng ký kết hôn phải tuân theo các quy định của
pháp luật và việc ly hôn cũng nhƣ giải quyết các quan hệ liên quan đến hôn nhân
cũng đƣợc tiến hành theo trình tự pháp luật nhất định, các bƣớc phải đƣợc tuân thủ theo
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011) (sau đây gọi tắt là Bộ
luật Tố tụng dân sự 2004) khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì đƣợc áp dụng theo Luật
Hôn nhân và gia đình. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã quy định hai loại trình tự thủ
tục tố tụng hoàn toàn khác nhau, đó là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình và trình tự giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình. Căn cứ quan trọng để
25. 18
phân biệt vụ án hôn nhân và gia đình và vụ việc hôn nhân và gia đình là giữa các
bên có tranh chấp với nhau hay không? Nếu giữa hai bên đƣơng sự có tranh chấp
với nhau thì đƣợc xác định là vụ án hôn nhân và gia đình; nếu không có tranh chấp
đƣợc xác định là vụ việc hôn nhân và gia đình.
Nhƣ vậy, chúng ta cũng có thể hiểu vụ án hôn nhân và gia đình là việc
nguyên đơn và bị đơn tranh chấp với nhau về quyền và nghĩa vụ, trong đó nguyên
đơn là người yêu cầu Tòa án buộc bên bị đơn phải thực hiện một số nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ về hôn nhân và gia đình.
Theo quy định của Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì các vụ án hôn
nhân và gia đình gồm các loại tranh chấp sau:
Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Tranh chấp về thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ:
Tranh chấp về cấp dƣỡng:
Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Thực tiễn thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án cho thấy, việc giải quyết các
vụ án hôn nhân và gia đình thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng và phức tạp, các
đƣơng sự khởi kiện có tính cách, trình độ, sự nhận thức xã hội, nghề nghiệp khác
nhau, có các lý do xin ly hôn khác nhau, cũng nhƣ những yêu cầu giải quyết các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình cũng khác nhau. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền
công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án có thể
nhận thấy chủ yếu tập trung vào các nguyên nhân, tranh chấp sau:
+ Mâu thuẫn gia đình;
+ Bị đánh đập, ngƣợc đãi;
+ Ngoại tình;
+ Bệnh tật, không có con;
+ Do nghiện ma túy, rƣợu chè, cờ bạc;
26. 19
+ Một bên bị mất tích;
+ Mâu thuẫn về kinh tế;
+ Mâu thuẫn về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
+ Mâu thuẫn về thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
+ Mâu thuẫn về xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ;
+ Mâu thuẫn về cấp dƣỡng;
+ Các tranh chấp khác.
1.2.2. Trình tự xét xử vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND cấp thành
phố trực thuộc trung ương
Hoạt động giải quyết án hôn nhân và gia đình cụ thể đƣợc giao cho một Thẩm
phán chịu trách nhiệm từ khi nhận đơn thụ lý. Trình tự các bƣớc giải quyết hôn nhân
và gia đình phải tuân theo trình tự trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. Theo quy định
khi đƣơng sự gửi đơn đề nghị giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình đến TAND cấp
có thẩm quyền giải quyết, sau khi nhận đơn Tòa án tiến hành phân loại và thụ lý giải
quyết theo trình tự tố tụng, nhƣ điều tra thu thập chứng cứ vụ án, lựa chọn quy phạm
pháp luật, ra các quyết định hoặc ra bản án buộc các đƣơng sự thi hành bằng nhiều
hình thức nhƣ, tự nguyện thi hành hoặc có sự cƣỡng chế thi hành của cơ quan thi
hành án dân sự.
Nhƣ đã phân tích ở phần trên TAND cấp thành phố có thẩm quyền xét xử các
vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm.
Hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình theo những trình tự khác nhau thì
có những quy định pháp luật cụ thể về trình tự, cách thức giải quyết khác nhau.
Giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm
TAND thành phố xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình đối với trƣờng
hợp có đƣơng sự hoặc tài sản ở nƣớc ngoài hoặc cần phải ủy thác tƣ pháp cho cơ
quan đại diện nƣớc CHXHCN Việt Nam ở nƣớc ngoài, cho Tòa án nƣớc ngoài
không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện.
Khi tiến hành đƣa vụ án ra xét xử, phải tuân thủ theo các bƣớc nhƣ đã trình
bày ở trên. Về nội dung vụ án cần đƣợc Hội đồng xét xử chuẩn bị chu đáo nhƣ nội
27. 20
dung cần hỏi, cách hỏi nhƣ thế nào, nội dung nào cần hỏi trƣớc… Trong quá trình
hỏi phải bảo đảm khách quan, đồng thời tuân theo trật tự pháp luật quy định về thủ
tục hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự phúc thẩm
Giải quyết án hôn nhân và gia đình theo trình tự phúc thẩm chiếm số lƣợng
lớn của TAND thành phố. Bởi sau khi bản án cấp sơ thẩm đƣợc tuyên, có thể bản án
sơ thẩm không thể đáp ứng đƣợc nguyện vọng của một trong các đƣơng sự nên đã
thực hiện quyền kháng cáo, cá biệt có một số ít đƣơng sự cố tình gây khó khăn cho
bên kia nên thực hiện quyền kháng cáo của mình để bản án chƣa thi hành đƣợc phải
kéo dài. Khi tiến hành giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình ở cấp phúc thẩm,
TAND thành phố phải hết sức thận trọng, ngoài việc kiểm tra lại việc áp dụng pháp
luật của TAND cấp quận đã chính xác chƣa, kết quả của bản án đã thấu tình đạt lý
không… Nhƣ vậy, quyết định của bản án phúc thẩm đòi hỏi phải có sức thuyết phục
cao hơn đối với TAND cập quận và các đƣơng sự.
Khi tiến hành áp dụng pháp luật để xét xử theo trình tự phúc thẩm đối với bản
án hôn nhân và gia đình có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm có thẩm quyền:
- Giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;
- Sửa bản án, quyết định sơ thẩm;
- Hủy bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
Giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba nên trình tự xét xử
giám đốc thẩm cơ bản khác với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm từ trình tự kháng nghị
cho đến việc xét xử. Khi xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm có thẩm quyền:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật;
- Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dƣới đã bị
hủy hoặc bị sửa;
28. 21
- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại;
- Hủy bán án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết
vụ án.
Việc xét lại bản án, quyết định vụ án hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm có ý nghĩa giúp cho Tòa án cấp trên thấy đƣợc
những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dƣới trong việc giải quyết từng vụ
án cụ thể. Qua đó, có hƣớng khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật
của Tòa án cấp dƣới trong việc giải quyết vụ án, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự. Mặt khác, thông qua thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên có thể
tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử, hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới hiểu và vận
dụng đúng pháp luật.
Giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự tái thẩm
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định về hôn
nhân và gia đình đã có hiệu lực khi có những căn cứ nhƣ sau:
- Mới phát hiện đƣợc tình tiết quan trọng của vụ án mà đƣơng sự và Tòa án
đã không thể biết đƣợc trong quá trình giải quyết vụ án;
- Có cơ sở chứng minh kết luận của ngƣời giám định, lời dịch của ngƣời
phiên dịch rõ ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng;
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ
án hoặc cố tình kết luận trái pháp luật;
- Bản án của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nƣớc mà Tòa án căn
cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy.
Hoạt động áp dụng pháp luật của Hội đồng tái thẩm có các quyền như sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên quyết định, bản án hôn nhân
và gia đình đã có hiệu lực pháp luật;
- Hủy bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực pháp luật để
xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định;
- Hủy bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình đã có hiệu lực pháp luật và
đình chỉ giải quyết vụ án.
29. 22
Thủ tục tái thẩm vụ án hôn nhân và gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với cả
việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình của Tòa án và việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự. Giúp cho Tòa án khắc phục đƣợc những thiếu sót trong
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đƣợc thi hành từ bao giờ.
1.3. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n chung về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
Hiện nay, qua các tài liệu nghiên cứu chƣa hình thành khái niệm cụ thể về bảo
đảm quyền công dân trong xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Mà qua phân tích ta
có thể hiểu khái niệm một cách chung nhất về bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình là hoạt động của Tòa án thông qua các
Thẩm phán, hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật tố
tụng dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình cùng các quy định khác của pháp luật
nhằm bảo đảm các quyền của công dân trong suốt quá trình xét xử các vụ án hôn nhân
và gia đình theo các trình tự mà pháp luật quy định.
Từ khái niệm chúng ta có thể đƣa ra những đặc điểm cơ bản của bảo đảm quyền
công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nhƣ:
Một là bảo đảm quyền công dân trong xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
Việt Nam dù không áp dụng triệt để nguyên tắc tam quyền phân lập mà chỉ
thừa nhận những “hạt nhân” tích cực của học thuyết này nên quyền lực Nhà nƣớc là
thống nhất nhƣng có sự phân công quyền lực giữa các cơ quan: Quốc Hội có chức
năng lập pháp, Chính phủ - hành pháp và Tòa án - xét xử. Tòa án chính là một cơ
quan đại diện cho quyền lực Nhà nƣớc.
Xét xử là hình thức thực hiện chức năng Nhà nƣớc đặc biệt của cơ quan tƣ
pháp. Thẩm phán và Hội đồng xét xử đại diện cho Tòa án xét xử vụ án và kết thúc
bằng việc ra bản án hoặc quyết định bắt buộc thực hiện đối với tất cả những ngƣời
30. 23
có liên quan giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Các bản án, quyết định đó tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của công dân. Do đó
việc bảo đảm quyền công dân trong xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình luôn
mang tính quyền lực Nhà nƣớc.
Hai là tòa án là cơ quan có trách nhiệm chính trong bảo đảm quyền công
dân trong xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
Tòa án là cơ quan chính thực hiện hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và
gia đình có trách nhiệm chính đối với việc bảo đảm quyền công dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Trách nhiệm của Tòa án đã đƣợc quy định
cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình.
Ngoài bảo đảm quyền công dân cho các đƣơng sự tòa án có trách nhiệm bảo đảm
cho công dân đƣợc thực hiện quyền bảo vệ của mình. Trong mọi trƣờng hợp, Tòa
án tuyệt đối không đƣợc gây khó dễ cho việc tham gia tố tụng của đƣơng sự cũng
nhƣ việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự trong hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình.
Tòa án phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Trong trƣờng hợp ngƣời tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
thì Tòa án phải bồi thƣờng cho ngƣời bị hại theo quy định của pháp luật.
Ba là hoạt động bảo đảm quyền công dân trong xét xử các vụ án hôn nhân
và gia đình phải căn cứ theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật
hôn nhân và gia đình
Quyền công dân không những đƣợc pháp luật ghi nhận mà còn đƣợc pháp
luật bảo vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền công dân nào cũng phải đƣợc
xử lý theo pháp luật. Song, tất nhiên quyền công dân còn có quan hệ chặt chẽ với
chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nƣớc, của các tổ chức, trật tự xã hội... là những
khách thể đƣợc pháp luật tố tụng dân sự nói chung và các quy định pháp luật về xét
xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng bảo vệ. Nhƣ vậy, việc bảo đảm quyền
công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình phải tuân thủ
những trình tự, thủ tục đƣợc quy định chặt chẽ trong pháp luật.
31. 24
Do đó, để bảo đảm quyền công dân thì ngoài việc quy định cơ sở trách nhiệm
dân sự, hệ thống các biện pháp khẩn cấp, các điều kiện để đảm bảo quyền công dân
thì còn phải tạo cho hoạt động xét xử án hôn nhân và gia đình hay cụ thể hơn là áp
dụng pháp luật đƣợc nghiêm minh, chính xác. Vì nếu pháp luật đƣợc xây dựng đúng
đắn mà việc áp dụng nó (thông qua xét xử) sai lệch thì mục đích của pháp luật
chẳng những không đạt đƣợc mà các quan hệ xã hội (trong đó có quyền công dân)
đƣợc nó bảo vệ còn bị vi phạm thô bạo, nhân dân thiếu tin tƣởng vào cơ quan bảo
vệ pháp luật.
1.3.2. Nội dung bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình
Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia
đình là Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền tự bảo vệ của công dân trong tố
tụng và quyền nhờ ngƣời khác bảo vệ trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân
và gia đình từ giai đoạn chuẩn bị xét xử đến giai đoạn xét xử và kết thúc hoạt động
xét xử đối với trình tự xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Khi tham gia vào hoạt động xét xử các vụ án dân sự nói chung và các cụ án hôn
nhân và gia đình nói riêng của Tòa án thì quyền của công dân chính là quyền của
đƣơng sự. Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và
gia đình chính là bảo vệ các quyền của đƣơng sự. Khi tham gia hoạt động xét xử
các vụ án hôn nhân và gia đình công dân có quyền tự mình bảo vệ hoặc nhờ ngƣời
khác bảo vệ các quyền của mình ở bất cứ trình tự xét xử nào. Mặc dù ở mỗi trình
tự xét xử theo quy định của pháp luật có thủ tục, cách thức, quy trình xét xử khác
nhau nhƣng đều vẫn phải bảo đảm những quyền công dân. Có thể một số quyền
chỉ có ở hình thức xét xử này nhƣng không áp dụng cho hình thức xét xử khác tuy
nhiên trong luận văn này chỉ nêu ra vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt
động xét xử dƣới hai khía cạnh bảo đảm quyền công dân tự mình thực hiện và bảo
đảm quyền công dân nhờ ngƣời khác bảo vệ trong hoạt động xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình. Cụ thể nhƣ sau:
Bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án
Công dân có quyền khởi quyền tự mình hoặc thông qua ngƣời đại diện hợp
32. 25
pháp khởi viện vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của ngƣời khác.
Phƣơng thức khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình có thể nộp đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu trực tiếp hoặc qua bƣu điện.
Bảo đảm quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Để bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự đƣợc đúng đắn, bảo vệ đƣợc
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định
Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, từ đó đƣơng sự có thể đƣợc kháng cáo đối
với bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật yêu cầu Tòa án cấp trên
phúc thẩm lại. Quy định trên đƣợc bảo đảm tại các Điều 194, 239, 241, 246, 247,
248 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Ngoài ra, để tạo thuận lợi cho các đƣơng sự đƣợc
thực hiện quyền trên, Điều 256 quy định đƣơng sự đã kháng cáo có quyền thay đổi,
bổ sung hoặc rút kháng cáo.
Bảo đảm quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hôn nhân và gia đình.
Đây là một trong các quyền tố tụng dân sự cơ bản của đƣơng sự đƣợc quy
định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật Tố tụng dân sự. Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa
vụ với yêu cầu của nguyên đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập là trƣờng hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn, ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nguyên đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu
cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của
nguyên đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Ngoài ra, tại Điều 177 còn quy định trong trƣờng hợp ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng đứng về nghía nguyên đơn hoặc bị đơn
thì có quyền đƣa ra yêu cầu độc lập.
Bảo đảm quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự
Đây là quy định nhằm giúp đƣơng sự khắc phục đƣợc trƣờng hợp đƣa ra yêu
cầu không đẩy đủ, chính xác. Để bảo đảm quyền công dân của đƣơng sự, pháp luật
không quy định hạn chế việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đƣơng sự nhƣng
33. 26
để tránh trƣờng hợp lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho Tòa án
cũng nhƣ đƣơng sự khác, pháp luật quy định việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của
đƣơng sự trong một số trƣờng hợp phải đáp ứng đƣợc những điều kiện nhất định
nhƣ việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đƣơng sự tại phiên tòa sơ thẩm không đƣợc
vƣợt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu;
trƣớc khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện
nếu bị đơn đồng ý thì Tòa án mới đƣợc chấp nhận.
Bảo đảm quyền thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án hôn nhân và gia
đình của đương sự.
Trong tố tụng dân sự các đƣơng sự có quyền định đoạt theo quy định tại
Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Để bảo đảm quyền thỏa thuận của đƣơng sự tại
Điều 10, Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định Tòa án có trách nhiệm hòa giải
vụ án hôn nhân và gia đình để giúp các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về giải quyết
các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, trừ những vụ pháp luật quy định không
đƣợc hòa giải hoặc không hòa giải đƣợc.
Hòa giải luôn đƣợc coi là phƣơng thức giải quyết tranh chấp tốt nhất. Đó là
sự thƣơng lƣợng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp nhằm đƣa ra phƣơng án giải
quyết mâu thuẫn tốt nhất cho các bên. Vì vậy, việc bảo đảm quyền bảo vệ của các
đƣơng sự trong tố tụng dân sự cũng có nghĩa là bảo đảm cho các đƣơng sự đƣợc
tham gia tham gia hòa giải. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án phải
chủ động việc hòa giải để giúp các đƣơng sự thỏa thuận hƣớng giải quyết vụ án để
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
quy định Tòa án hòa giải tất cả các vụ án dân sự trừ một số trƣờng hợp đặc biệt. Khi
hòa giải, các đƣơng sự có quyền có mặt tham gia hòa giải. Trong trƣờng hợp đƣơng
sự vắng mặt, Tòa án hoãn việc hòa giải. Bên cạnh đó, khi hòa giải, Tòa án hƣớng
dẫn, giúp đỡ đƣơng sự trong việc nhận thức quyền lợi, nghĩa vụ của họ để thỏa
thuận giải quyết vụ án theo đúng pháp luật. Ngoài việc hòa giải dƣới sự hƣớng dẫn
của Tòa án, đƣơng sự còn có quyền tự hòa giải trong suốt quá trình tố tụng dân sự.
Trƣờng hợp hòa giải mà các đƣơng sự thỏa thuận đƣợc với nhau về giải quyết
vụ việc dân sự thì theo Điều 186, Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 Tòa án phải
34. 27
ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đƣơng sự theo thủ tục do pháp luật quy
định, nếu nội dung thỏa thuận đó không trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Bảo đảm quyền chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của người khác của đương sự.
Đây là một quyền tố tụng dân sự đề cao quyền tự định đoạt của đƣơng sự, có ý
nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Để bảo đảm
quyền bảo vệ của bị đơn trong tố tụng dân sự, Điều 60 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy
định bị đơn có thể chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, bác bỏ
yêu cầu của nguyên đơn. Đối với các đƣơng sự khác nhƣ nguyên đơn, ngƣời có quyền
và nghĩa vụ liên quan tuy pháp luật không quy định cụ thể những theo tinh thần chung
thì họ cũng có quyền chấp nhận yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của đƣơng sự khác.
Bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Theo quy định tại Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì ngƣời khởi kiện
vụ án hôn nhân và gia đình phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Theo quy định
tại các Điều 165, 175, 221, 272 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì các đƣơng sự có thể
cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án hôn nhân và gia đình
trƣớc hoặc tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phúc thẩm.
Ngoài ra, các đƣơng sự đƣợc bình đẳng với nhau trong việc cung cấp chứng
cứ, tài liệu chứng minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bảo đảm quyền của đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.
Trƣờng hợp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án hôn nhân và gia đình
đang do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác quản lý, lƣu giữ thì đƣơng sự có quyền
yêu cầu chủ thể đó cung cấp chứng cứ cho mình theo quy định của pháp luật.
Trƣờng hợp chủ thể quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc dân sự
không chịu cung cấp cho đƣơng sự theo yêu cầu thì có thể yêu cầu Tòa án hỗ trợ.
Các đƣơng sự có quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu liên
quan đến án dân sự mà tự mình không thể thực hiện đƣợc hoặc đề nghị Tòa án triệu
tập ngƣời làm chứng, trƣng cầu giám định, định giá tài sản.
35. 28
Ngoài ra, để bảo đảm quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của
đƣơng sự pháp luật tố tụng dân sự còn quy định đƣơng sự có quyền khiếu nại việc
xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án.
Bảo đảm quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các
đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu nhập.
Việc đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền này giúp họ hiểu rõ hơn vụ án hôn nhân
và gia đình, có ý nghĩa làm cho việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự đƣợc tốt hơn. Ngoài ra, còn làm cho các hoạt động tố tụng dân
sự đƣợc công khai, minh bạch, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia
đình của Tòa án đƣợc đúng đắn.
Bảo đảm quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp, tạm thời của
đương sự.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đƣơng sự có thể yêu cầu Tòa
án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời trƣớc hoặc tại phiên tòa,
phiên họp giải quyết vụ việc dân sự. Đồng thời, Điều 121 và Điều 122, trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình đƣơng sự có quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng bổ sung, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đƣơng sự có
quyền khiếu nại đối với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án hôn nhân và gia
đình về việc áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định tại các Điều 124, 125 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Bảo đảm quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát
viên, thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thƣ ký Tòa án, ngƣời giám
định, ngƣời phiên dịch là những ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng có
vai trò quyết định trong việc giải quyết vụ án dân sự. Chính vì vậy mà việc họ có
khách quan trong quá trình tố tụng dân sự hay không sẽ ảnh hƣởng đến việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự. Những trƣờng hợp có nguy cơ dẫn đến
việc không khách quan trong việc giải quyết vụ án, pháp luật quy định họ phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Những căn cứ để thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
36. 29
nhân dân, Kiểm sát viên, thƣ ký Tòa án, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch đƣợc quy
định tại các Điều 46, Điều 47, Điều 48, Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thƣ ký Tòa án,
ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch cũng đƣợc ghi nhận là quyền của đƣơng sự để
bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Quyền này đƣợc thực hiện
trƣớc hoặc trong phiên tòa. Do vậy, Tòa án phải có trách nhiệm thông báo cho
đƣơng sự biết những ngƣời tiến hành tố tụng giải quyết vụ án trƣớc khi quyết định
đƣa vụ án ra xét xử.
Bảo đảm quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đương sự.
Phiên tòa, phiên họp là nơi Tòa án xem xét giải quyết các vấn đề của vụ việc
dân sự. Kết thúc phiên tòa, quyền lợi và nghĩa vụ của các đƣơng sự đƣợc Tòa quyết
định ghi trong bản án và đƣợc bảo đảm thi hành. Tại phiên tòa, phiên họp đƣơng sự
có quyền trình bày về những vấn đề của vụ việc dân sự, đƣợc tham gia tranh luận để
làm rõ các tình tiết, sự kiện có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Để bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, các điều luật này quy
định phải bảo đảm sự có mặt của đƣơng sự trong phiên tòa, phiên họp; tại phiên tòa,
phiên họp phải bảo đảm quyền trình bày, hỏi và tranh luận của đƣơng sự.
Bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự
Trong quá trình tố tụng tại tòa án, từ giai đoạn thụ lý vụ án dân sự đến giai đoạn
thu thập chứng cứ và xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm. Tòa án phải có trách nhiệm
bảo đảm quyền tranh luận không chỉ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
đƣơng sự mà còn nhằm quán triệt đối với các thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải tạo
điều kiện để đƣơng sự thực hiện quyền tranh luận của đƣơng sự để ra bản án, quyết
định đúng pháp luật. Quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử lắng nghe ý kiến tranh luận
từ hai phía, bảo đảm cho đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đƣợc trình
bày quan điểm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bảo đảm quyền bình đẳng
giữa những ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng trong việc đƣa ra chứng cứ,
bày tỏ quan điểm ý kiến, để xác định sự thật khách quan; bảo đảm cao nhất quyền của
đƣơng sự đƣợc quyền yêu cầu thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng
37. 30
của đƣơng sự; bảo đảm quyền thỏa thuận với nhau về giải quyết cũng nhƣ bảo đảm
quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đƣơng sự.
Bảo đảm quyền khiếu nại của đương sự đối với các quyết định, hành vi tố
tụng trái pháp luật.
Để bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại của đƣơng sự đối với các quyết
định, hành vi tố tụng trái pháp luật các Điều 391, 395, 396, 392, 402, 403 Bộ luật
Tố tụng dân sự 2004 quy định rõ những quyết định, hành vi trong tố tụng dân sự bị
khiếu nại, phƣơng thức đƣơng sự thực hiện quyền khiếu nại, thời hạn, thẩm quyền,
thủ tục cũng nhƣ trách nhiệm của ngƣời giải quyết khiếu nại. Theo các quy định
này, đƣơng sự có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng dân sự nếu có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.
Bảo đảm quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật sư hay người khác bảo vệ trong giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình
Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì “Đương sự có quyền tự bảo vệ
hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [258, Điều 9].
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản đƣợc ghi nhận tại Bộ luật tố tụng
dân sự 2004. Theo đó, đƣơng sự có quyền nhờ ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.
Quy định này bảo đảm cho việc hỗ trợ ngƣời dân dễ dàng tiếp cận với công
lý. Bởi vì, không phải ai khi tham gia tố tụng đều hiểu biết về pháp luật để tự bảo vệ
lấy quyền lợi của mình, nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật của chúng ta
tƣơng đối phức tạp và thiếu hoàn chỉnh, các văn bản pháp luật với số lƣợng khổng
lồ, quy định chồng chéo. Do đó, nhờ luật sƣ hay ngƣời khác có đủ điều kiện để giúp
đỡ họ về mặt pháp lý là điều hết sức cần thiết. Sự ghi nhận quyền nhờ ngƣời bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự còn có tác dụng làm cho các cán bộ Tòa án
thận trọng, khách quan, tôn trọng pháp luật hơn.
Ngoài ra, đối với những đƣơng sự là ngƣời nghèo, thuộc đối tƣợng chính sách
thì việc ghi nhận quyền đƣợc tƣ vấn, trợ giúp miễn phí trong việc thực hiện quyền khởi
38. 31
kiện cũng là một bảo đảm quan trọng để thực hiện quyền này. Trợ giúp pháp lý là việc
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho một số đối tƣợng không có khả năng tài chính
để tiếp cận các dịch vụ pháp lý có thu phí, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ giúp pháp lý thƣờng là ngƣời nghèo và các đối tƣợng
yếu thế khác. Ở Việt Nam, hệ thống các cơ quan trợ giúp pháp lý đƣợc thành lập từ
năm 1997 theo Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06 tháng 9 năm 1997 của Thủ tƣớng
Chính phủ. Luật Trợ giúp pháp lý đã đƣợc Quốc Hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006. Theo đó, ngƣời đƣợc trợ
giúp pháp lý, bao gồm ngƣời nghèo; ngƣời có công với cách mạng; ngƣời già cô đơn,
ngƣời tàn tật và trẻ em không nơi nƣơng tựa; ngƣời dân tộc thiểu số thƣờng trú ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Nội dung của bảo đảm quyền của công dân đƣợc ngƣời khác bảo vệ trong tố
tụng dân sự bao gồm:
- Bảo đảm quyền ủy quyền cho luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người
khác đại diện trong tố tụng dân sự của đương sự
Việc bảo đảm quyền của đƣơng sự đƣợc ủy quyền cho ngƣời khác đại diện,
đƣợc đại diện, hỗ trợ pháp lý trong tố tụng dân sự là một nội dung cơ bản của
nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự bởi không phải đƣơng sự nào cũng
hiểu biết pháp lý, có kinh nghiệm tố tụng để dễ dàng thực hiện tốt đƣợc quyền tố
tụng dân sự của mình. Vì vậy, quyền đƣợc ủy quyền ủy quyền hoặc nhờ ngƣời khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ là một điều cần thiết.
Quyền ủy quyền cho luật sƣ, bào chữa viên nhân dân hoặc ngƣời khác đại
diện trong tố tụng dân sự của đƣơng sự là một bảo đảm cho việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đƣơng sự. Thông qua hoạt động tố tụng của những ngƣời này,
đƣơng sự có thể thực hiện tốt nhất các quyền tố tụng dân sự để bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của họ.
- Bảo đảm quyền của đương sự được đại diện trong tố tụng dân sự
Đƣơng sự là ngƣời có năng lực hành vi tố tụng dân sự đƣợc tự mình thực
hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự đƣợc lựa chọn luật sƣ, bào chữa viên nhân
dân hoặc ngƣời khác đại diện trong tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
39. 32
pháp của họ. Đƣơng sự là ngƣời không có năng lực hành vi dân sự, phải có ngƣời
đại diện tham gia tố tụng. Thông qua hoạt động tố tụng của ngƣời đại diện, những
hạn chế của đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đƣợc
khắc phục.
- Bảo đảm quyền nhờ người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Việc đƣơng sự cần sự hỗ trợ pháp lý của các luật sƣ, bào chữa viên nhân dân
hoặc ngƣời khác là một yêu cầu khách quan của hoạt động tố tụng dân sự. Thông
qua sự hỗ trợ pháp lý này, đƣơng sự nhận thức đúng đƣợc quyền, lợi ích của mình,
đề ra yêu cầu đúng, đƣa ra lý lẽ thuyết phục để bảo vệ một cách hiệu quả nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trong tố tụng dân sự, ngƣời bảo vệ quyền lợi của
đƣơng sự có vị trí pháp lý độc lập với đƣơng sự. Họ là ngƣời cố vấn pháp lý cho
đƣơng sự tham gia tố tụng và ngƣời bảo đảm quyền và lợi ích của đƣơng sự.
1.3.3. Các yếu tố bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ
án hôn nhân và gia đình
Một là yếu tố pháp luật
Quyền công dân và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động
qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Quyền công dân chỉ tồn tại khi nó đƣợc pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Pháp luật ghi nhận các quyền công dân đƣợc xã hội thừa
nhận. Thông qua pháp luật, quyền công dân đƣợc lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm
quyền công dân, pháp luật đƣa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải
làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền công dân. Quyền công
dân đƣợc pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tuỳ tiện và
đƣợc bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cƣỡng chế của xã hội,
Nhà nƣớc.
Pháp luật đƣợc coi là một điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền của công dân
trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình và có vai trò là phƣơng tiện
pháp lý để công dân đƣợc bảo đảm các quyền của mình khi tham gia hoạt động xét
xử các vụ án hôn nhân và gia đình với tƣ cách là đƣơng sự.Vậy nên pháp luật về tố
tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình phải đƣợc sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện để thực sự trở thành một hành lang pháp lý thông suốt, minh bạch, thuận lợi
40. 33
để bảo đảm quyền công dân trong các vụ án dân sự nói chung và vụ án hôn nhân và
gia đình nói riêng.
Với các quy định của pháp luật còn tạo ra nhiều thiết chế giám sát, đối trọng
nhƣ gia tăng vai trò của luật sƣ, tăng cƣờng vai trò kiểm sát tƣ pháp của Viện kiểm
sát và vai trò giám sát xã hội của các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác đối với vấn đề
bảo đảm quyền con ngƣời trong xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.
Hai là hoạt động của cơ quan tư pháp
Trong hoạt động đảm bảo quyền con ngƣời của công dân nói chung và đảm
bảo quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói
riêng, nếu nhƣ cơ quan lập pháp có chức năng xây dựng và ban hành các văn bản
pháp luật ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, quy định các biện pháp cũng
nhƣ trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc trong việc bảo đảm quyền công dân; cơ
quan hành pháp lại có chức năng triển khai các hoạt động đảm bảo quyền công dân
thì cơ quan tƣ pháp lại là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quy định của pháp
luật về đảm bảo quyền công dân. Tuy là cơ quan bảo vệ những ngay trong hoạt
động xét xử của mình các cơ quan tƣ pháp gồm Tòa án, Viện Kiểm sát cũng phải có
trách nhiệm đảm bảo quyền công dân theo đúng quy định của pháp luật.
Muốn đảm bảo quyền của công dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nói
riêng cũng nhƣ hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình, Tòa án phải trở
thành một trong những cách thức tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Cách thức tốt nhất đó đòi hỏi không chỉ vì phán quyết của Tòa là chuẩn
mực của sự công bằng mà cũng đòi hỏi thủ tục trong hoạt động xét xử phải thuận
tiện, dễ dàng và chi phí thấp để bất kỳ công dân nào cũng có thể tiếp cận đƣợc với
Tòa án. Cơ chế khiếu nại ra Tòa án phải trở thành nếp suy nghĩ bình thƣờng của
mỗi công dân, và cả khi công dân đƣa đại diện cơ quan nhà nƣớc ra trƣớc Tòa án
khi xét thấy quyền và lợi ích của mình bị cán bộ, công chức nhà nƣớc xâm hại cũng
phải trở thành nếp sinh hoạt bình thƣờng trong thể chế Nhà nƣớc và lúc đó Tòa án
chỉ có thể độc lập và tuân theo pháp luật mà phán quyết.
Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay, bên cạnh việc tăng cƣờng vai trò của các
Tòa án nói chung và trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình thì chú