SlideShare a Scribd company logo
1 of 96
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ LAN ANH
ĐIỀU TRẦN TẠI ỦY BAN CỦA NGHỊ VIỆN
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆC ÁP DỤNG CHO HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ
CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ LAN ANH
ĐIỀU TRẦN TẠI ỦY BAN CỦA NGHỊ VIỆN
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆC ÁP DỤNG CHO HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ
CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và phân tích trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Việc tham khảo, trích các kết quả nghiên cứu trước đó đã được
dẫn nguồn đầy đủ. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Lan Anh
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội
HĐDT : Hội đồng Dân tộc
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
TW : Trung ương
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
GTVT : Giao thông Vận tải
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AEC : Cộng đồng kinh tế ASEAN
VOV : Đài tiếng nói Việt Nam
EVN : Tập đoàn điện lực Việt Nam
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Nội dung Trang
1 Bảng 1.1: So sánh điều trần với điều tra, chất vấn 10
2 Bảng 1.3: Tính phổ biến của hoạt động điều trần ở các nước 28
3
Bảng 2.1: So sánh điều trần với giải trình, yêu cầu báo cáo,
hội nghị lấy ý kiến, điều tra
33
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt ...........................................................................i
Danh mục các bảng ......................................................................................ii
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA
NGHỊ VIỆN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐIỀU TRẦN.........9
1.1. Những vấn đề lý luận về điều trần tại ủy ban của nghị viện...............9
1.1.1. Khái niệm điều trần.............................................................................9
1.1.2 Mục đích, ý nghĩa của điều trần......................................................... 12
1.1.3. Chủ thể của điều trần........................................................................14
1.1.4. Đối tượng được mời tham gia điều trần............................................ 15
1.1.5. Nội dung của điều trần......................................................................15
1.1.6. Thời điểm tổ chức và tính công khai của điều trần........................... 16
1.1.7. Thủ tục điều trần............................................................................... 17
1.1.8. Kết quả của hoạt động điều trần ....................................................... 18
1.1.9. Khuôn khổ pháp lý về điều trần ........................................................18
1.2. Thực tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước
trên thế giới................................................................................................. 19
1.2.1. Nghị viện Nhật Bản...........................................................................19
1.2.2. Nghị viện Hoa Kỳ .............................................................................. 22
1.2.3. Nghị viện Ba Lan............................................................................... 23
1.2.4. Nghị viện New Zealand .....................................................................25
1.3. Một số đánh giá về điều trần tại ủy ban của nghị viện các nước và bài
học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam..................................................27
1.3.1. Một số đánh giá về áp dụng điều trần tại ủy ban của nghị các nước27
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam....................... 30
iv
Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÓ TÍNH TƯƠNG ĐỒNG
VỚI ĐIỀU TRẦN TẠI HĐDT VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI
VIỆT NAM ................................................................................................. 33
2.1. Giải trình: hoạt động có tính tương đồng với điều trần.................... 33
2.2. Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động giải trình tại HĐDT
và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam....................................................... 37
2.2.1. Các quy định trước khi Hiến pháp 2013 được ban hành..................37
2.2.2. Hiến pháp 2013 và các văn bản cụ thể hóa Hiến pháp.....................41
2.3. Thực tiễn tổ chức các phiên giải trình tại HĐDT và các ủy ban của
Quốc hội Việt Nam.....................................................................................42
2.3.1. Phiên giải trình đầu tiên và xu hướng phát triển.............................. 42
2.3.2. Một số phiên giải trình tiêu biểu trong thời gian gần đây................. 44
2.4. Những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt động giải trình....... 51
2.4.1. Những kết quả đạt được.................................................................... 51
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân....................................................... 54
Chương 3 ÁP DỤNG ĐIỀU TRẦN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT
VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI NƯỚC TA HIỆN NAY ................60
3.1. Sự cần thiết, cơ sở và phạm vi của việc áp dụng điều trần trong hoạt
động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội ...........................................60
3.2. Các nguyên tắc áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các
ủy ban của Quốc hội...................................................................................62
3.2.1. Góp phần phát huy dân chủ, tăng cường tính công khai, minh bạch
trong hoạt động của Quốc hội.....................................................................62
3.2.2. Bảo đảm điều trần phải gắn với việc tăng cường vai trò đại diện, nắm
bắt ý nguyện của người dân........................................................................63
3.2.3. Bảo đảm phiên điều trần phải gắn với việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của các ủy ban của Quốc hội .............................................................65
v
3.2.4. Bảo đảm điều trần phải góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của
Quốc hội ......................................................................................................67
3.3. Một số giải pháp áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các
ủy ban của Quốc hội nước ta hiện nay...................................................... 69
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giải trình ................69
3.3.2. Đẩy mạnh tổ chức thông tin, tuyên truyền rộng rãi về điều trần trong
hoạt động của Quốc hội .............................................................................. 72
3.3.3. Hoàn thiện tổ chức, hoạt động của HĐDT, các ủy ban của
Quốc hội.....................................................................................................75
3.3.4. Tăng cường năng lực của bộ máy giúp việc của Quốc hội............... 79
KẾT LUẬN................................................................................................. 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 83
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Có một sự thống nhất trong các nghiên cứu về nghị viện là duy trì một
hệ thống ủy ban mạnh sẽ tạo cho nghị viện khả năng tốt hơn để gây ảnh
hưởng về mặt chính sách đối với công chúng và để giám sát tốt hơn đối với
các hoạt động của ngành hành pháp [18, tr.37]. Một trong những công cụ hữu
hiệu được các ủy ban của nghị viện sử dụng để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình là tổ chức phiên điều trần. Đây là một cơ chế chính thức
để các ủy ban có thể thu thập thông tin về những vấn đề chính sách từ các cơ
quan thuộc chính phủ, các chuyên gia từ bên ngoài, các tổ chức dân sự, các
đối tượng có liên quan khác… nhằm mục đích tăng cường chất lượng của quá
trình ra quyết định.
Ở Việt Nam, trong điều kiện Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên
thì vai trò của HĐDT và các ủy ban ngày càng được coi trọng. Quốc hội Việt
Nam đã có những nỗ lực để đổi mới cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và phương
thức hoạt động của Ủy ban trong thời gian gần đây và thể hiện tập trung nhất
là trong Luật tổ chức Quốc hội 2015.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều trần chỉ mới được sử dụng dưới góc độ
nghiên cứu mà chưa được sử dụng chính thức. Trong Hiến pháp 2013, Luật tổ
chức Quốc hội 2014 cũng chỉ quy định về vấn đề “giải trình” trước HĐDT và
các Ủy ban của Quốc hội chứ chưa quy định về “điều trần”. Về mặt ngữ nghĩa
tiếng Việt, giải trình và điều trần thể hiện tính chất hoàn toàn khác nhau. Việc
lựa chọn thuật ngữ “giải trình” vô hình trung đã thu hẹp đáng kể đối tượng mà
các ủy ban của Quốc hội có thể nghe và cần phải nghe.
2
Thực tế trong thời gian qua, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt
Nam đã tổ chức các phiên giải trình đối với các vấn đề được dư luận xã hội
quan tâm và đã nhận được phản hồi tích cực từ phía cử tri cả nước. Tuy nhiên,
do chưa có quy định cụ thể về thủ tục tiến hành nên việc triển khai còn gặp
nhiều khó khăn, trở ngại và chưa thống nhất. Cách làm tùy thuộc vào sự sáng
tạo của mỗi ủy ban. Về cơ bản vẫn là sự giải trình, báo cáo của bộ ngành
trước ủy ban về một vấn đề cụ thể kết hợp tham khảo thêm một số yếu tố của
phiên điều trần của nghị viện các nước.
Chính vì vậy, để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội việc nghiên cứu áp dụng hình thức điều
trần là vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa. Việc áp dụng hình thức điều trần
trong hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội sẽ mang lại những
hiệu quả tích cực, giải quyết được những hạn chế trong họat động giải trình
hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Điều trần tại ủy
ban của nghị viện một số nước trên thế giới và việc áp dụng cho HĐDT và
các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật tại Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội, trong thời gian
qua, đã có nhiều cá nhân và tổ chức tiến hành nghiên cứu dưới hình thức sách,
đề tài khoa học, luận án, báo cáo nghiên cứu chuyên đề, các bài báo, tạp chí
khoa học. Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể kể như sau:
- TS. Ngô Đức Mạnh, “Suy nghĩ về việc đổi mới tổ chức các Ủy ban
của Quốc hội”, Hiến kế lập pháp, số 5/2006.
3
- Nghiên cứu sinh Trần Hồng Nguyên, “Nâng cao chất lượng hoạt
động lập pháp của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” (2007), Luận án tiến sĩ luật học bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- GS.TS Trần Ngọc Đường “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp”, Nghiên cứu
lập pháp, số 113, tháng 1/2008.
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Phát huy vai trò của HĐDT và các Ủy ban
của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, Bài viết tại Hội thảo “Hoạt động của
các Ủy ban của Quốc hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Viện nghiên
cứu lập pháp, 8/2010.
- Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng
Quốc hội, “Xây dựng quy trình làm việc mẫu của các Ủy ban của Quốc hội”,
Hà Nội, 2008.
- PGS.TS Trương Thị Hồng Hà, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức
năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- TS Hoàng Thị Ngân, Về cách tiếp cận quyền giám sát của Quốc hội
của tác giả, bài viết in trong sách: Giám sát và cơ chế thực hiện quyền giám
sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2003.
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ
về việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền giám sát tối cao của
Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, HĐDT và các Ủy ban
của Quốc hội, bài viết in trong Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2000 -
2001: Tăng cường giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
4
- Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Quốc Thắng, Một vài suy nghĩ về nâng
cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, bài viết in trong Kỷ yếu Hội
thảo khoa học về hoạt động giám sát của Quốc hội của Quốc hội, Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội, 1999.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tăng cường hoạt động
giám sát của Quốc hội, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội,
2000-2011.
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khoá XII, “Báo cáo kết quả đoàn nghiên
cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội Đức và Na Uy”, Hà nội, 4/2010.
- Đinh Thi Minh Thư, Mở rộng các hình thức liên hệ cử tri, Báo Đại
biểu nhân dân, 12/4/2010.
- Đoàn Đình Anh, Điều trần ở HĐND tỉnh Hà Tĩnh, Báo Đại biểu nhân
dân, 30/7/2010.
- Nguyễn Hải Long, Vấn đề pháp lý về điều trần, chất vấn tại HĐDT và
các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam, Trang thông tin điện tử của Trung tâm
bồi dưỡng đại biểu dân cử, tại địa chỉ http://ttbd.gov.vn, cập nhật ngày
02/11/2010.
- Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh Hiếu, John Patterson, Kit Dawnay,
Điều trần tại Ủy ban: Nghiên cứu khả năng áp dụng ở Việt Nam, Báo cáo
nghiên cứu thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực của các
cơ quan đại diện ở Việt Nam”, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2011.
- TS Nguyễn Sĩ Dũng, Giải trình hay điều trần? Báo lao động điện tử,
tại địa chỉ http://laodong.com.vn, cập nhật 28/01/2013.
- TS Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên), Giám sát của Quốc hội dưới góc nhìn
tham chiếu, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004.
5
- TS Ngô Huy Cương, Điều trần ủy ban của Quốc hội và sự cần thiết
tiếp nhận chế định này ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 191,
tháng 3/2011.
Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các công trình nghiên cứu nói trên tập
trung khảo cứu về hoạt động của cơ quan dân cử, trong đó có đề cập về điều
trần tại các Ủy ban của Quốc hội.
Một số ít công trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động điều trần, tuy nhiên
các công trình đó mới đề cập đến một số khía cạnh của điều trần như vấn đề
pháp lý, kinh nghiệm các nước mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
về lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động có tính tương đồng với điều trần (giải
trình) ở Việt Nam, kiến nghị các biện pháp áp dụng điều trần vào hoạt động của
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. Hơn nữa, luận văn được tiến
hành trong bối cảnh đã có những văn bản quan trọng liên quan đến hoạt động
của ủy ban mới được ban hành như Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội
2014 và có văn bản sắp được ban hành như Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân. Do vậy, việc lựa chọn và góc độ nghiên cứu của đề
tài “Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới và việc áp dụng
cho HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” là không trùng lặp với các
công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn này được nghiên cứu hướng tới một số mục đích như sau:
- Góp phần tiếp tục hoàn thiện những vấn đề lý luận và hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc
hội Việt Nam, trong đó có các văn bản quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và các văn bản quy định về quy trình, thủ tục hoạt động.
6
- Áp dụng điều trần trong họat động của HĐDT và các Ủy ban của
Quốc hội Việt Nam nhằm tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan chuyên môn của Quốc hội nói riêng và hoạt động của Quốc hội
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hoạt động điều trần tại các ủy ban
của nghị viện, trong đó, làm rõ các khái niệm điều trần, giải trình, chất vấn,
điều tra.
- Nghiên cứu hoạt động điều trần tại nghị viện một số quốc gia trên thế
giới, Trong đó tập trung vào các vấn đề cơ bản như mô hình, tổ chức, thẩm
quyền, phạm vi, thủ tục, loại hình, thời hạn,…
- Tìm hiểu về sự cần thiết và cách thức áp dụng điều trần vào hoạt động
của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam trong đó làm rõ cả cơ sở lý
luận, pháp lý và thực tiễn.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm áp dụng điều trần vào hoạt động
của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội.
4. Đối tượng và phạmvi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề như:
+ Các lý thuyết về tổ chức và hoạt động của ủy ban nói chung và điều
trần nói riêng.
+ Thực tiễn điều trần ở nghị viện một số nước;
+ Các quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐDT và các
ủy ban của Quốc hội.
+ Thực tiễn các hoạt động có sự tương đồng nhất định với điều trần tại
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội thời gian qua.
7
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu
hoạt động điều trần tại ủy ban nghị viện một số nước trên thế giới tiêu biểu
cho các mô hình chính thể đại nghị, tổng thống và lưỡng tính. Luận văn cũng
tập trung nghiên cứu những cơ sở pháp lý và thực tiễn hoạt động của HĐDT
và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam trong thời gian gần đây (trước và sau
khi ban hành Hiến pháp 2013). Việc áp dụng điều trần vào hoạt động của
HĐDT và các ủy ban được nghiên cứu trong cả lĩnh vực lập pháp và giám sát.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin;
tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn hiện nay, về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói
chung và tổ chức, hoạt động của các cơ quan của Quốc hội nói riêng; lý
thuyết về chuyển hóa, du nhập pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp với
phương pháp phân tích các tư liệu, tài liệu, báo cáo công tác có liên quan đến
tổ chức và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
+ Về cơ sở lý luận, luận văn tập trung vào khai thác, phân tích khái
niệm, bản chất, các thành tố của hoạt động điều trần như chủ thể, đối tượng,
mục đích, thủ tục; phân biệt rõ điều trần với điều tra, giải trình, tham vấn, lấy
ý kiến... Bên cạnh đó, làm rõ vai trò, lợi ích của điều trần trong hoạt động của
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động điều trần tại Ủy ban của Quốc
hội một số nước. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
8
+ Phân tích thực trạng hoạt động có sự tương đồng nhất định với điều trần
của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội thời gian qua – hoạt động giải trình. Từ
đó, đánh giá được những hiệu quả, hạn chế của họat động này trên thực tế.
+ Lý giải sự cần thiết áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và
các ủy ban của Quốc hội Việt Nam; luận giải cơ sở khoa học, pháp lý, thực
tiễn và phạm vi, mức độ của việc áp dụng điều trần vào Quốc hội Việt Nam.
+ Đề xuất những biện pháp cụ thể về hoàn thiện cơ sở pháp lý cũng như
những giải pháp đồng bộ để vận dụng, áp dụng điều trần trở thành phương
thức hoạt động mới hiệu quả, thiết thực trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện lý
luận về hoạt động của hệ thống ủy ban của Quốc hội nói chung, hoạt động
điều trần trong lập pháp và giám sát của các ủy ban của Quốc hội nói riêng.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội
trên thực tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương, cụ thể là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của nghị viện một số
nước trên thế giới về điều trần.
Chương 2: Thực trạng hoạt động có tính tương đồng với điều trần tại
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam.
Chương 3: Áp dụng điều trần trong họat động của HĐDT và các Ủy
ban của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA NGHỊ VIỆN
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐIỀU TRẦN
1.1. Những vấn đề lý luận về điều trần tại ủy ban của nghị viện
1.1.1. Khái niệmđiều trần
Nghĩa gốc tiếng Anh của điều trần là “nghe” (hearings). Ủy ban của
Quốc hội “nghe” tất cả các bên liên quan cung cấp thông tin, lập luận, chứng
cứ về một vấn đề trong giám sát, trong lập pháp, để làm sáng tỏ hơn vấn đề
đó. Điều trần là trình bày chính thức trước cơ quan đại diện nhà nước để giải
thích, biện bạch … về vấn đề nào đó mà mình chịu trách nhiệm [14, tr.10].
Thực tiễn hoạt động của nghị viện ở các nước trên thế giới cho thấy,
điều trần là phiên họp của Ủy ban nghị viện (thường là mở công khai) để thu
thập thông tin và ý kiến về một dự luật nào đó, hoặc để tiến hành điều tra về
một vấn đề thời sự nào đó, hoặc để giám sát, đánh giá hoạt động của Chính
phủ hoặc việc thực thi pháp luật. Trong một số trường hợp, điều trần hoàn
toàn mang tính chất giải thích, cung cấp những chứng cứ hoặc số liệu về một
vấn đề đang diễn ra. Các chuyên gia nghiên cứu đã khái quát thành 4 loại điều
trần cơ bản như sau [3. tr.11]:
i) Điều trần lập pháp;
ii) Điều trần giám sát;
iii) Điều trần điều tra;
iv) Điều trần thông báo.
Khái niệm điều trần có thể được làm rõ hơn thông qua việc so sánh sau đây.
10
Bảng 1.1: So sánh điều trần với điều tra, chất vấn
Điều trần Điều tra Chất vấn
Lĩnh vực Lập pháp + Giám sát Giám sát Giám sát
Tính chất Chủ yếu là xem xét
những vấn đề về chính
sách. Cũng có khi điều
trần về một vấn đề cụ
thể
Xem xét vụ việc cụ
thể
Xem xét cả những vấn
đề chính sách và
những vấn đề cụ thể
Mục đích Thu thập thông tin Xem xét tính hợp
pháp của các hành vi
Làm rõ trách nhiệm
của cá nhân có thẩm
quyền
Chủ thể Tất cả các loại ủy ban Ủy ban Điều tra
Ủy ban lâm thời
Thanh tra Quốc hội
Ban Dân nguyện của
Quốc hội
Đại biểu Quốc hội
Đối tượng
tham gia
Tất cả các bên có liên
quan đến chính sách
Chủ thể điều tra, đối
tượng bị điều tra và
bên cung cấp chứng
cứ
Đại biểu Quốc hội và
các thành viên Chính
phủ
Hình thức Phiên điều trần (phiên
họp của Ủy ban)
Xem xét tài liệu,
thu thập chứng cứ
Gặp nhân chứng
Đối chất …
Phiên họp toàn thể của
Quốc hội
Tính công
khai
Chủ yếu là công khai
trong toàn bộ quá trình
chuẩn bị và diễn ra
phiên điều trần
Thông thường chỉ
công khai kết quả
điều tra
Công khai
11
Nội dung Tất cả những vấn đề
thuộc nội dung hoạt
động của ủy ban
Chỉ những vụ việc
nhất định trên cơ sở
kiến nghị của cử tri
hoặc đại biểu Quốc
hội
Tất cả những vấn đề
thuộc thẩm quyền phụ
trách của Chính phủ
Thủ tục Theo thủ tục một
phiên họp ủy ban
Thủ tục của một cuộc
điều tra (thủ tục tư
pháp)
Thủ tục chất vấn tại
phiên họp toàn thể
Hệ quả - Kiến nghị đối với
Chính phủ
- Đưa vấn đề vào
chương trình nghị sự
của Quốc hội
- Báo cáo Quốc hội Làm rõ trách nhiệm
chính trị đối với người
bị chất vấn
Lợi ích Có tác động và ảnh
hưởng rộng tới: Quốc
hội, các cơ quan của
Quốc hội, xã hội, nền
dân chủ
Thường là tác động
hẹp hơn:
Giải quyết vụ việc cụ
thể
Có tác động và ảnh
hưởng tới: Quốc hội,
Chính phủ, xã hội
Ở Việt Nam, thuật ngữ “điều trần” chưa được sử dụng chính thức trong
các văn bản pháp luật mà thay vào đó là thuật ngữ “giải trình”. Về bản chất,
giữa hoạt động “điều trần” tại ủy ban của nghị viện các nước trên thế giới có
điểm tương đồng và khác biệt với hoạt động “giải trình” tại HĐDT và các Ủy
ban của Quốc hội Việt Nam (sẽ được làm rõ trong phần sau của luận văn).
Song việc lựa chọn thuật ngữ “giải trình” đã thu hẹp đáng kể đối tượng mà
các ủy ban của Quốc hội có thể nghe và cần phải nghe. Chỉ có đại diện Chính
phủ, các bộ ngành mới có trách nhiệm phải giải trình trước Quốc hội, ủy ban
của Quốc hội. Rất nhiều thành phần khác không có trách nhiệm phải giải trình
trước ủy ban nhưng lại rất cần được ủy ban lắng nghe [4].
12
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, điều trần là một hình thức để
các Ủy ban của nghị viện có thể thu thập thông tin (ý kiến, quan điểm, chứng
cứ, dữ liệu v.v…) về những vấn đề chính sách từ các cơ quan thuộc Chính
phủ, các chuyên gia từ bên ngoài, các tổ chức dân sự, hiệp hội, doanh nghiệp,
cá nhân công dân nhằm mục đích tăng cường chất lượng của quá trình ra
quyết định.
1.1.2 Mục đích, ý nghĩa của điều trần
* Về mục đích:
Phần lớn nghị viện các nước đều quy định việc điều trần là để thực hiện
nhiệm vụ của Ủy ban, nói cách khác, điều trần được xem là một công cụ để
thực hiện các nhiệm vụ mà Ủy ban được giao, không giới hạn đó là nhiệm vụ
lập pháp hay giám sát. Ví dụ, Điểm d, Khoản 4, Điều 37 Nội quy Hạ nghị
viện Cộng hòa Indonesia quy định các Ủy ban có thể tổ chức các cuộc điều
trần công khai để thực hiện các nhiệm vụ của Ủy ban. Điều 76, Điều 77, Nội
quy của Hạ nghị viện Nhật Bản ghi nhận một Ủy ban có thể tiến hành hoạt
động điều trần công khai để xem xét các giải pháp được chuyển tới Ủy ban
mình hoặc để thực hiện các nghiên cứu sơ Bộ theo sáng kiến của mình.
* Ý nghĩa của điều trần
Có thể thấy rằng, điều trần ở ủy ban nghị viện mang lại nhiều lợi ích
khác nhau sau đây:
Một là, thu thập thông tin đầy đủ, nhiều chiều (ý kiến, quan điểm,
chứng cứ, dữ liệu,…) về những vấn đề chính sách, phục vụ các hoạt động như
thẩm tra các dự án luật, giám sát các chính sách và hoạt động của Chính phủ.
Vai trò quan trọng nhất của hoạt động điều trần là thu thập thông tin để các
nghị sĩ, có cơ sở đánh giá, xem xét các vấn đề được đưa ra thảo luận của Ủy
ban, cung cấp những chứng cứ có sức thuyết phục phục vụ cho việc đưa ra
13
các quyết định của Ủy ban. Các thông tin được thu thập tại các phiên điều trần
đến từ rất nhiều nguồn đa dạng khác nhau như từ các nhân chứng đến từ các
cơ quan Chính phủ, các thành viên Ủy ban, các học giả, các nhóm lợi ích. Qua
thông tin thu thập được các nghị sỹ có thể phần nào xác định được liệu Quốc
hội nên có những quyết định như thế nào cho phù hợp với những vấn đề đang
được đặt ra.
Hai là, điều trần là diễn đàn tranh luận công khai. Vì vậy, thông qua
các phiên điều trần, các ủy ban giúp xoa dịu, dung hòa, giải tỏa tình trạng
căng thẳng trong đời sống chính trị. Hoạt động điều trần có ý nghĩa quan
trọng trong việc tạo điều kiện cho công dân, các tổ chức trong xã hội vốn lâu
nay có nhiều điều bức xúc được lên tiếng. Qua đó, sự căng thẳng trong xã hội
chùng xuống bất kể các đạo luật hoặc các vấn đề được Ủy ban xem xét có thể
được thông qua hay không.
Ba là, điều trần là một hình thức để cơ quan lập pháp thực hiện quyền
giám sát đối với hoạt động của hành pháp. Để đánh giá việc chấp hành, thực
hiện các kiến nghị giám sát thì trước hết, các Ủy ban – chủ thể tiến hành các
hoạt động giám sát đơn lẻ hoặc các cơ quan giúp việc được phân công cần
theo dõi sát sao việc triển khai thực hiện các kiến nghị của các đối tượng giám
sát. Hoạt động điều trần tại các Ủy ban của nghị viện với tính chất đặc trưng
là công khai, minh bạch có ý nghĩa quan trọng, thiết thực là hình thức để cơ quan
lập pháp thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành pháp.
Bốn là, điều trần tạo diễn đàn cho các thành viên của cơ quan đại diện
và cá nhân có thẩm quyền trong Bộ máy hành pháp trao đổi, thảo luận về những
vấn đề mà dư luận quan tâm. Việc áp dụng các phiên điều trần tại các Ủy ban
giúp cho các thành viên Ủy ban phát huy khả năng chuyên môn của mình; có
điều kiện thảo luận, trao đổi, đi sâu vào những vấn đề mà dư luận quan tâm.
14
Năm là, điều trần góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban
nói riêng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung. Tại phiên điều trần
các đại biểu nghe được ý kiến nhiều chiều trong đó có các chuyên gia và các
nhóm lợi ích. Chính vì vậy, chức năng đại diện trong trường hợp này cũng
được phát huy tối đa bởi nghị sĩ sẽ nghe và hiểu được tác động của chính sách
tới các nhóm đối tượng mà họ đại diện. Bên cạnh đó, thông qua điều trần, cơ
quan hành pháp có cơ hội tiếp thu thêm các ý kiến của chuyên gia, có thêm
nhiều góc nhìn, và từ đó hình thành các giải pháp chính sách phù hợp hơn với
cuộc sống. Như vậy, có thể nói rằng, điều trần góp phần thúc đẩy sự tương tác
giữa lập pháp và hành pháp trong việc ban hành và thực thi chính sách, điều
trần thúc đẩy sự năng động của chính quyền và chính vì vậy cũng tăng cường
hiệu quả của bộ máy nhà nước.
1.1.3. Chủ thể của điều trần
Chủ thể của điều trần là tất cả các Ủy ban của Quốc hội, bao gồm:
- Ủy ban thường trực;
- Ủy ban lâm thời;
- Ủy ban điều tra;
- Ủy ban nghiên cứu.
Về sự tham gia của các thành viên Ủy ban, do tính chất thu thập thông
tin và không đưa ra các quy định cụ thể của phiên điều trần, nên yêu cầu về số
lượng tối thiểu các nghị sỹ có mặt tại phiên điều trần là không khắt khe như
các phiên họp chính thức của Ủy ban. Thông thường, quy định ở nghị viện
của một số nước yêu cầu khoảng một phần ba số lượng thành viên của Ủy ban
phải có mặt tại phiên điều trần, trong khi đó ở một số nghị viện khác chỉ cần
vài ba nghị sỹ có mặt. Bên cạnh đó, ở một số nghị viện khác, để giảm tải cho
hoạt động của Ủy ban hoặc do quy mô của Ủy ban quá lớn, các hoạt động
điều trần có thể được tiến hành bởi các tiểu ban của Ủy ban.
15
1.1.4. Đối tượng đượcmời thamgia điều trần
Đối tượng được các ủy ban xác định lắng nghe phụ thuộc vào các nội
dung của cuộc điều trần. Nhìn chung, ở các nước có ghi nhận hoạt động điều
trần của ủy ban thì đối tượng được lắng nghe chủ yếu là những người có
quyền, lợi ích liên quan đến nội dung của dự thảo luật hoặc vấn đề đang được ủy
ban xem xét, hoặc những người có kiến thức chuyên môn sâu về vấn đề đó.
Những đối tượng được tham gia phát biểu ý kiến tại các phiên điều trần
có thể là các Bộ trưởng, các công chức, các chuyên gia trong các lĩnh vực có
liên quan, đại diện của các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị nghiên cứu khoa
học, đại diện cộng đồng dân cư hoặc người dân. Chẳng hạn ở Mỹ, những
người được mời tham dự các phiên điều trần có thể là những người vận động
hành lang, các chuyên gia, người của Lầu Năm Góc, người của Phố Wall, luật
sư, thẩm phán,… Tất cả đều muốn lên tiếng tại “cơ quan lập pháp nhỏ” này,
nơi mà những báo cáo Ủy ban có thể có tiếng nói quyết định lên tiến trình
biểu quyết ở phiên họp toàn thể.
Nghị viện ở các nước khác nhau có thể lựa chọn những người được mời
tham dự phiên họp điều trần theo các phương thức khác nhau. Một số nghị
viện chọn những người đã có kiến nghị gửi đến trước cho nghị viện được
tham dự và phát biểu tại các phiên điều trần (như ở Malaysia), trong khi một
số nghị viện sử dụng cách thức thông báo và lựa chọn những người dân có
quan tâm và đã đăng ký tham dự (như ở Philippines).
1.1.5. Nội dung của điều trần
Các nội dung được tiến hành điều trần rất phong phú, đa dạng và
thường liên quan trực tiếp đến các nội dung công việc mà các ủy ban được
giao thực hiện và bắt buộc trong một số trường hợp:
- Liên quan đến ngân sách hoặc có tác động làm giảm nguồn thu ngân sách;
16
- Khi đã nhận được các kiến nghị của cử tri.
Thông thường trước khi diễn ra phiên điều trần, Ủy ban cần phải quyết
định có cần đưa một vấn đề ra tiến hành điều trần hay không. Các Ủy ban
phải quyết định xem họ cần thông tin gì và các vấn đề cần trao đổi, sau đó
xem xét liệu điều trần có phải là phương thức tốt nhất để đạt được các mục
đích đó hay không.
Hiện nay, ở một số nước, điều trần là một khâu không thể thiếu trong
quy trình lập pháp. Chẳng hạn, trong những năm gần đây, rất hiếm khi các ủy
ban của Quốc hội Mỹ trình báo cáo ra phiên họp toàn thể về các dự luật quan
trọng mà không tổ chức các phiên điều trần về dự án luật đó. Thậm chí, nếu một
dự luật không được xếp vào lịch điều trần thì coi như dự luật đó đã “chết”.
1.1.6. Thời điểmtổ chức và tính công khai của điều trần
Thông thường các phiên điều trần có thể tổ chức bất kỳ lúc nào, trừ khi
có những hoạt động khác của nghị viện, ví dụ khi sắp xếp thời điểm tiến hành
điều trần, các Ủy ban thường phải tính toán để không bị trùng với các hoạt
động khác của Ủy ban, của Ủy ban khác và của cá nhân nghị sỹ để các nghị
sỹ có thể tham gia một cách thuận lợi nhất.
Các Ủy ban thường phải thông báo muộn nhất là một tuần trước khi
tiến hành phiên điều trần về:
+ Địa điểm;
+ Thời gian;
+ Các vấn đề sẽ đưa ra điều trần;
+ Thành phần tham dự.
Những thông tin trên cần phải được công bố công khai. Ngoài ra các Ủy ban còn
phảigửiđếncácnghịsỹvànhữngngườithamdự cáctàiliệu cần thiếtnhư:
17
+ Giấy mời;
+ Tóm tắt các vấn đề đưa ra điều trần;
+ Danh sách các nhân chứng…
1.1.7. Thủ tục điều trần
Phiên họp điều trần của các Ủy ban thường được tiến hành với các thủ
tục tương tự phiên họp chính thức của Ủy ban. Tuy nhiên, do tính chất của
phiên họp điều trần chủ yếu là để thu thập thông tin nên thủ tục tiến hành
phiên họp cũng được thực hiện một cách linh hoạt và đơn giản hơn. Cụ thể tại
phiên họp này, nhiệm vụ cơ bản của các thành viên Ủy ban là lắng nghe ý
kiến của các nhân chứng được mời tham gia phiên điều trần. Các thành viên
của Ủy ban có thể đặt các câu hỏi để làm rõ về các vấn đề liên quan, thông
thường, việc lựa chọn các nhân chứng tham gia phát biểu tại phiên điều trần
phải đảm bảo sự cân bằng về số lượng các ý kiến phản đối hoặc ủng hộ về các
vấn đề được thảo luận.
Quy trình tiến hành điều trần thường gồm các bước sau:
- Soạn thảo Đề cương tham chiếu;
- Mời công chúng gửi ý kiến bằng văn bản;
- Tìm kiếm hỗ trợ từ chuyên gia độc lập;
- Nghe các đại biểu tham dự phiên điều trần trình bày (thường kéo dài
nhiều giờ đồng hồ của một phiên hoặc nhiều phiên);
- Công bố biên bản về nội dung phiên điều trần;
- Soạn thảo báo cáo về điều trần;
- Công bố báo cáo và đưa báo cáo vào chương trình nghị sự;
- Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị trong báo cáo.
18
1.1.8. Kếtquả của hoạt động điều trần
Ủy ban không ra quyết định thông qua biểu quyết khi tiến hành điều
trần như tại các phiên họp toàn thể của Ủy ban. Hệ quả pháp lý của điều trần
không “nặng nề”, bởi từ những tranh luận công khai, ý tưởng lập pháp hoặc
các giải pháp quản lý, điều hành của Chính phủ, các Bộ sẽ dần được hoàn
thiện, và hệ quả sẽ là một phương án mới được lựa chọn cho tương lai.
Các thông tin thu nhận được trong các cuộc điều trần sẽ phục vụ cho
các hoạt động của ủy ban. Chẳng hạn, các thông tin điều trần đối với các bên
liên quan trong một dự án luật sẽ được ủy ban sử dụng trong việc thẩm tra dự
án luật đó. Vì vậy, có thể nói kết quả của các cuộc điều trần thường được sử
dụng trong các báo cáo chính thức của ủy ban trước nghị viện về những vấn
đề mà mình được giao xem xét.
Tuy nhiên, cũng có nghị viện yêu cầu kết quả điều trần của các ủy ban
phải được báo cáo tới chủ tịch của viện. Để phục vụ cho mục đích trên, nội
dung của các phiên điều trần thường được ghi thành biên bản. Thông thường
biên bản của phiên điều trần cũng được công bố để người dân có thể tiếp cận.
Biên bản của các phiên điều trần của Thượng viện và Hạ viện Nhật Bản đều
được công bố trên trang web tương ứng của từng viện [14, tr.34].
1.1.9. Khuôn khổ pháp lý vềđiều trần
Ở các nước khác nhau, khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Quốc hội nói chung và khuôn khổ pháp lý về hoạt động điều trần của ủy ban
nói riêng là rất phong phú và khác nhau.
Nghị viện nhiều nước quy định cụ thể về điều trần trong Luật nghị viện
(hay còn gọi là Nội quy nghị viện). Ví dụ, Nội quy của Thượng nghị viện
Nhật Bản dành riêng một mục (Mục 2, Chương VII) để quy định về hoạt động
19
điều trần [52]; Nội quy của Hạ nghị viện Philippines quy định ở Mục 38,
Chương IX [53]…
Tuy nhiên, cũng có nước quy định về điều trần trong văn bản pháp lý
khác. Ví dụ, điều trần được áp dụng chính thức ở Ba Lan từ năm 2006 khi
Luật về các hoạt động vận động hành lang trong quá trình lập pháp (2005) có
hiệu lực đã quy định về hình thức này.
1.2. Thực tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số
nước trên thế giới
1.2.1. Nghịviện NhậtBản
Mục đích của điều trần
Theo quy định của Nội quy Hạ nghị viện Nhật Bản, một Ủy ban có thể
tiến hành hoạt động điều trần công khai để xem xét các giải pháp được
chuyển tới Ủy ban mình, hoặc để thực hiện các nghiên cứu sơ bộ theo sáng
kiến của mình. Điều trần được xem là một công cụ hữu hiệu để các Ủy ban
thực hiện công việc. Một Ủy ban, không kể là Ủy ban thường trực hay Ủy ban
lâm thời, đều có thể tổ chức các cuộc điều trần công khai. Ngoài ra, kể cả
những Ủy ban đặc biệt như Ủy ban nghiên cứu ở Thượng nghị viện Nhật Bản
cũng có thể sử dụng công cụ này để thực hiện công việc của mình, mặc dù
công việc chủ yếu của Ủy ban là nghiên cứu. Điều đó cho thấy rõ điều trần
không phải là công cụ dành riêng cho hoạt động giám sát hay lập pháp của Ủy
ban, mà là công cụ phục vụ chung cho hoạt động của Ủy ban khi Ủy ban cần
các kiến thức chuyên sâu hoặc ý kiến của các đối tượng có liên quan.
Những nội dung phải tiến hành điều trần
Tại Hạ nghị viện và Thượng nghị viện Nhật Bản, cuộc điều trần chỉ có
thể được tiến hành khi được Chủ tịch của Viện đó đồng ý và điều trần công
20
khai là nội dung bắt buộc đối với các Ủy ban khi xem xét, thông qua ngân
sách nhà nước hoặc các dự án luật quan trọng có liên quan đến nguồn thu.
Thông thường, phiên điều trần luôn mặc nhiên được xem là tổ chức
công khai trừ khi Ủy ban có quyết định khác. Tính công khai của phiên điều
trần được xuất phát từ việc bảo đảm mục tiêu của phiên điều trần là lắng nghe
được ý kiến của công chúng về những vấn đề quan trọng của quốc gia. Nhật
Bản yêu cầu các phiên điều trần, cũng như các phiên họp của Ủy ban, phải
được tiến hành trong toà nhà của nghị viện.
Thủ tục tiến hành điều trần
Phiên họp điều trần ở nghị viện Nhật Bản được tiến hành với thủ tục
đơn giản hơn so với phiên họp của Ủy ban, vì mục tiêu của phiên điều trần là
để các thành viên của Ủy ban tìm hiểu thông tin từ những người được mời
đến phát biểu là chủ yếu, mà không phải là để ra quyết định. Điều này được
thể hiện rõ qua Nội quy Thượng nghị viện Nhật Bản khẳng định trong phiên
điều trần Ủy ban không tiến hành thảo luận.
Những người được phát biểu là những người được Ủy ban chủ động
lựa chọn theo nguyên tắc số người phản đối và ủng hộ đối với nội dung
chính sách được điều trần là ngang nhau. Do đó, tại phiên điều trần, chủ toạ
phiên họp phải đảm bảo những ý kiến phản đối và những ý kiến ủng hộ lần
lượt được phát biểu thay phiên nhau.
Nội quy của cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Nhật Bản đều quy
định rằng tại phiên điều trần, chỉ có các thành viên của Ủy ban mới được
quyền đặt câu hỏi đối với những người được mời đến phát biểu, còn những
người được mời, không được đặt câu hỏi đối với các nghị sĩ. Bên cạnh đó, khi
những người phát biểu đi quá xa chủ đề được điều trần, hoặc có những lời lẽ
21
và hành vi không phù hợp, thì chủ toạ của phiên điều trần có thể dừng bài
phát biểu và mời người đó ra khỏi phòng họp.
Kết quả của điều trần
Xuất phát từ mục đích của điều trần như đã đề cập ở trên, các thông tin
thu nhận được trong các cuộc điều trần sẽ phục vụ cho các hoạt động của Ủy
ban. Trong trường hợp phiên điều trần được tổ chức công khai, thông thường
biên bản của phiên điều trần cũng được công bố trên trang web tương ứng của
từng viện để người dân có thể tiếp cận.
Thực tiễn áp dụng điều trần
Việc yêu cầu bắt buộc phải tiến hành điều trần khi xem xét dự án ngân
sách hàng năm và các dự án luật có tác động làm tăng khoản chi đã làm cho
hoạt động điều trần trở nên là một hoạt động thường xuyên ở các Ủy ban.
Vướng mắc trong quá trình thực hiện điều trần
Vướng mắc mà nghị viện Nhật Bản gặp phải là hiện tượng không có
nhiều người sẵn sàng tham gia các phiên điều trần của Ủy ban. Sự bất hợp tác
của các đối tượng nắm giữ thông tin là một hạn chế phổ biến. Nhưng sự can
thiệp quá sâu của Ủy ban nghị viện trong quá trình thực hiện các hoạt động
điều trần, điều tra cũng không phải là điều được hoan nghênh. Ở Nhật Bản,
việc các Ủy ban trong quá trình tiến hành điều trần và điều tra can thiệp quá
sâu vào các hoạt động của cơ quan tư pháp đã bị đánh giá là vi phạm nguyên
tắc phân chia quyền lực. Ủy ban Tư pháp của Thượng viện nước này trong
quá trình nghiên cứu về hoạt động của công tố và toà án đã tiến hành xem xét
một vụ án và đi đến nhận định rằng bản án được tuyên ở vụ án đó là không
hợp lý. Điều này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ phía Toà án Tối cao.
Theo đó, Toà án Tối cao Nhật Bản đã nhận định rằng hoạt động của Ủy ban
22
Tư pháp đã “vi phạm tính độc lập của cơ quan tư pháp và thực sự đã đi ra
ngoài phạm vi được phép trong hoạt động điều tra được Hiến pháp giao cho
Nghị viện”.
Do hoạt động điều trần của Ủy ban có ảnh hưởng lớn đến quyết định
của Ủy ban, nên bản thân nội bộ của Ủy ban cũng thường bị chia rẽ khi đưa ra
các quyết định liên quan đến việc hoạt động điều trần. Điều này cũng ảnh
hưởng đến việc tổ chức các hoạt động điều trần của Ủy ban. Ở Hạ nghị viện
Nhật Bản, đảng cầm quyền và đảng đối lập trong các Ủy ban thường khó nhất
trí với nhau trong việc xác định thời gian tiến hành các cuộc điều trần công
khai đối với những nội dung bắt buộc phải hoạt động điều trần, như khi xem
xét về dự án ngân sách hoặc các dự án có ảnh hưởng đến nguồn thu. Tương
tự, các bên cũng khó đi đến thống nhất trong việc có nên tổ chức phiên họp
điều trần hay không khi xem xét một dự án luật. Tuy nhiên, có thể thấy rằng
đây là một khó khăn chung đối với mọi hoạt động của Ủy ban không chỉ đối
với hoạt động điều trần. Khó khăn này có thể được giải quyết nếu phe đa số
trong nghị viện cũng nắm đa số trong Ủy ban và có thể ảnh hưởng đến các
quyết định của Ủy ban qua các cuộc bỏ phiếu.
1.2.2. Nghịviện Hoa Kỳ
Tổng quan
Chính phủ Hoa Kỳ là một Chính phủ liên bang có hệ thống tam quyền
phân lập giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp trong Nhà nước. Quốc hội Mỹ
bao gồm Thượng viện (100 ghế) và Hạ viện (435 ghế), là cơ quan lập pháp
lưỡng viện của chính quyền liên bang. Các quyền lực lập pháp được giao cho
Quốc hội theo Hiến pháp Mỹ. Để một dự luật trở thành luật, Hiến pháp Hoa
Kỳ quy định dự thảo phải nhận được sự đồng ý của cả hai Viện trước khi
Tổng thống ký công bố luật.
23
Các Ủy ban và hoạt động thu thập thông tin
Điều trần đã được áp dụng ở Quốc hội Hoa Kỳ kể từ khi Quốc hội bắt
đầu tồn tại và là một phần không thể thiếu khi Quốc hội thực hiện các hoạt
động của mình trong việc giám sát thực hiện chính sách công và cung cấp
thông tin phục vụ quá trình làm luật của Quốc hội.
Có hơn 100 Ủy ban và tiểu ban hoạt động trong Quốc hội Hoa Kỳ
nhằm xem xét các dự thảo luật, đánh giá các vấn đề chính sách, thực hiện
các giám sát chuyên môn của nhánh hành pháp, và báo cáo lên Thượng viện
và Hạ viện. Tất cả các Ủy ban đều có quyền hoạt động điều trần, điều tra,
triệu tập các nhân chứng, tài liệu và công khai các cuộc điều trần. Điều trần
tại Ủy ban của cả hai viện phải được tổ chức công khai, trừ khi có đa số tán
thành bỏ phiếu yêu cầu hoạt động điều trần kín theo những lý do được luật lệ
của Nghị viện quy định.
Chủ nhiệm các Ủy ban có thẩm quyền quyết định việc tiến hành điều
trần, cũng như có quyền ra điều kiện cho việc lựa chọn nhân chứng và hình
thức điều trần, mặc dù những cải cách gần đây đã giảm bớt các ảnh hưởng đó.
Luật thủ tục của cả hai viện khuyến khích việc gửi các bằng chứng bằng văn
bản cho Ủy ban trước khi phiên điều trần diễn ra để cuộc điều trần trở thành
một cuộc “hỏi đáp” có đủ thông tin. Nhiều nhà bình luận chỉ ra rằng quyền
lực của các Ủy ban trong lĩnh vực chuyên môn của họ tương đương với quyền
lực của Thượng viện và Hạ viện nói chung.
1.2.3. Nghịviện Ba Lan
Tổng quan
Theo Hiến pháp năm 1997 hiện hành, Ba Lan là một nước dân chủ tam
quyền phân lập với 3 nhánh quyền lực độc lập là lập pháp, tư pháp và hành
pháp. Quốc hội lưỡng viện bao gồm Thượng viện (100 ghế) và Sejm, hay Hạ
24
viện (460 ghế). Các dự án luật có thể được các thượng nghị sĩ, Tổng thống và
Chính phủ trình ra trước Hạ viện. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước,
đảm bảo thực thi hiến pháp và đứng đầu nhánh tư pháp bên cạnh các nhiệm
vụ cụ thể khác. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ và chịu trách nhiệm về các
công việc quản trị quốc gia hàng ngày. Thủ tướng và nội các phải được sự tín
nhiệm của Hạ viện để tiếp tục nắm quyền.
Các ủy ban và hoạt động thu thập thông tin
Hiện tại, Hạ nghị viện của Ba Lan có 25 ủy ban phụ trách các lĩnh vực
tương ứng với các chức năng chính của Chính phủ. Các ủy ban tiến hành thu thập
thông tin để thẩm tra các dự án luật và giám sát các hoạt động của chính phủ.
Đối với việc xem xét các dự án luật, các ủy ban Hạ viện áp dụng 2 hình
thức thu thập thông tin cơ bản như sau:
Thứ nhất, yêu cầu các cơ quan của Chính phủ cung cấp thông tin. Hình
thức này được thực hiện rất có hiệu quả. Các ủy ban có thể yêu cầu các Bộ
trưởng, các quan chức và người đứng đầu các cơ quan nhà nước phải báo cáo
với các ủy ban về những vấn đề cụ thể theo yêu cầu. Chủ nhiệm các ủy ban có
thể mời các bên khác cung cấp thông tin khi cần.
Thứ hai, tiến hành điều trần. Đây là hình thức mới được áp dụng chính
thức ở Ba Lan từ năm 2006 khi Luật về các hoạt động vận động hành lang
trong quá trình lập pháp (2005) có hiệu lực. Luật này xuất phát từ kiến nghị
của một nhóm các tổ chức phi chính phủ và được xem như là một kết quả của
việc Ba Lan gia nhập Liên minh Châu Âu. Mục đích của Luật này là nhằm
nâng cao sự minh bạch trong quá trình lập pháp lên một tầm mới.
Thủ tục điều trần đối với một dự luật có thể do một thành viên Hạ viện
đề xuất và sau đó phải được thông qua bằng nghị quyết của ủy ban liên quan.
Điều trần diễn ra tại một phiên họp ủy ban sau khi dự luật được giới thiệu
25
chính thức (lần đọc đầu tiên) và quan trọng là phải diễn ra trước khi xem xét
cụ thể từng điều khoản trong dự luật. Bất cứ bên nào quan tâm đều có thể
tham dự điều trần mà không cần giấy mời từ ủy ban. Các cuộc điều trần phải
được công khai trên hệ thống thông tin của Hạ viện 14 ngày trước ngày diễn
ra điều trần. Các ủy ban có thể thay đổi ngày hoặc hủy bỏ cuộc điều trần vì
các lý do rất thực tế, ví dụ, do không đủ thời gian. Cho đến nay, vẫn chưa có
một cẩm nang hay tài liệu nào về cách thức tổ chức điều trần và thu thập
thông tin tại Hạ viện.
Việc tiến hành các thủ tục điều trần thu hút được sự quan tâm của nhiều
bên do cơ hội tác động vào chính sách của các dự án luật mà điều trần có thể
đưa lại. Chẳng hạn, hình thức điều trần cho phép các nhà vận động hành lang
chuyên nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình lập pháp. Hiện tại, 22 trong số
155 nhà vận động hành lang chuyên nghiệp đăng ký với Bộ Nội vụ và Quản
trị có các hoạt động liên quan đến các hoạt động tại Hạ viện. Trong năm 2009,
các nhà vận động hành lang đã tham dự 49 cuộc họp tại Hạ viện, trong đó có
3 cuộc là điều trần.
Bài học kinh nghiệm và các khó khăn thực tế
Kể từ khi mở rộng phạm vi hoạt động điều trần vào năm 2006, do có sự
nhất trí cao ở Quốc hội nên không xảy ra vấn đề gì về mặt khái niệm. Tuy
nhiên, việc thực hiện các quy định mới có một số vấn đề nhỏ. Thứ nhất, các
thông báo về điều trần trên website của Hạ viện tỏ ra không hiệu quả do số
lượt truy cập ít. Thứ hai, có một số vấn đề liên quan đến xuất bản các tài liệu
ghi lại các cuộc điều trần.
1.2.4. Nghịviện New Zealand
Tổng quan:
New Zealand là một nước dân chủ theo chế độ quân chủ lập hiến. Nữ
hoàng Elizabeth II là người đứng đầu Nhà nước. Đại diện cho Nữ Hoàng tại
26
New Zealand được gọi là Toàn quyền. Mô hình nhà nước New Zealand là mô
hình đại nghị với ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập. Người
đứng đầu Đảng cầm quyền sau cuộc tổng tuyển cử có quyền thành lập Chính
phủ và thường giữ vị trí Thủ tướng. Nghị viện chỉ có một viện với 122 ghế.
Các ủy ban và hoạt động thu thập thông tin
Tổ chức và hoạt động của nghị viện New Zealand dựa nhiều vào kinh
nghiệm của Nghị viện Anh. Các ủy ban của nghị viện New Zealand phát triển
dần dần từ phiên họp Nghị viện đầu tiên vào năm 1854 khi mà hoạt động thu
thập thông tin chuyển từ phiên họp toàn thể của Nghị viện trực tiếp sang các
ủy ban. Năm 1985, các ủy ban được trao quyền thu thập thông tin theo đó các
ủy ban có quyền tìm hiểu các thông tin về các vấn đề chính sách, quản lý hành
chính và chi tiêu của các cơ quan của Chính phủ cũng như các cơ quan công
không thuộc Chính phủ.
Hiện tại, Nghị viện New Zealand có 13 ủy ban và điều trần tại ủy ban là
một phần quan trọng trong các hoạt động của Nghị viện. Quy chế hoạt động
cho phép các ủy ban khởi xướng tổ chức các phiên điều trần về những nội
dung thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách, đồng thời cũng quy định cách thức
các ủy ban thu thập bằng chứng và tiến hành điều trần. Thông thường, các ủy
ban quyết định nội dung các công việc mà mình cần tiến hành điều trần. Tuy
nhiên trong một số trường hợp, Nghị viện yêu cầu các ủy ban chuyên môn
thường trực hoặc các ủy ban lâm thời tiến hành tìm hiểu và báo cáo về một
vấn đề cụ thể.
Quá trình tiến hành các phiên họp điều trần để thu thập thông tin tại ủy
ban được quy định trong cẩm nang quy trình thủ tục và bao gồm các bước sau:
- Xây dựng điều khoản tham chiếu;
27
- Thu thập chứng cứ;
- Hỗ trợ từ các chuyên gia độc lập nếu cần thiết;
- Thông thường chứng cứ được nghe một cách công khai;
- Chuyên viên giúp việc của ủy ban xây dựng dự thảo báo cáo trình ủy
ban xem xét, thường bao gồm cả các đề xuất đối với Chính phủ ;
- Ủy ban xem xét dự thảo báo cáo và sửa đổi nếu cần thiết;
- Ủy ban thông qua báo cáo cuối cùng sau khi thảo luận và trình chính
thức tới Nghị viện;
- In ấn và phát hành báo cáo;
- Chính phủ phải gửi văn bản phản hồi với báo cáo trong vòng 90 ngày
tới Nghị viện và văn bản này sẽ được công bố;
- Báo cáo này sẽ được đưa vào Nghị trình để có thể được đưa ra thảo
luận, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra.
1.3. Một số đánh giá về điều trần tại ủy ban của nghị viện các nước
và bài học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam
1.3.1. Một số đánhgiávề áp dụng điều trần tại ủy ban của nghị các nước
Hoạt động điều trần của ủy ban các nước được khảo sát thường xuất
hiện cùng với quá trình hình thành nghị viện ở các nước đó, đặc biệt là ở
những nước mà việc hình thành nghị viện là kết quả của quá trình học tập mô
hình chính thể của quốc gia đô hộ trong thời kỳ thuộc địa. Ví dụ như ở
Singapore, cùng với việc học tập mô hình của nghị viện Anh, nghị viện
Singapore ngay từ khi thành lập có hệ thống ủy ban cũng như hoạt động điều
trần gần tương tự như ở Anh. Tuy nhiên, cũng có những nước hoạt động điều
trần được hình thành sau một thời gian dài nghị viện tồn tại. Ở Hàn Quốc,
28
mặc dù Nghị viện được thành lập từ những năm 1948 nhưng mãi đến năm
1988 hoạt động điều trần tại các ủy ban mới chính thức được đưa vào Luật
Quốc hội Hàn Quốc.
Cho đến ngày nay hoạt động điều trần đã trở nên phổ biến ở hầu hết
nghị viện các nước. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, việc yêu cầu bắt buộc phải
tiến hành điều trần khi xem xét dự án ngân sách hàng năm và các dự án luật
có tác động làm tăng khoản chi đã làm cho hoạt động điều trần trở nên là một
hoạt động thường xuyên ở các ủy ban.
Bảng 1.2: Tính phổ biến của hoạt động điều trần ở các nước[14, tr. 35]
Stt Quốc gia
Phổ biến trong hoạt động của ủy ban
Có Không
1 Thượng viện Nhật Bản 
2 Hạ viện Nhật Bản 
3 Thượng viện Philippines 
4 Hạ viện Thái Lan 
5 Hàn Quốc 
6 Singapore 
Mặc dù điều trần là hoạt động thường xuyên ở hầu hết các nghị viện
được khảo sát nhưng thông tin cũng cho thấy việc triển khai hoạt động này
trên thực tế vẫn còn những vướng mắc nhất định.
29
Vướng mắc mà nghị viện nhiều nước gặp phải là hiện tượng không có
nhiều người sẵn sàng tham gia các phiên điều trần của ủy ban. Điều này là
khá phổ biến ở những nước đang phát triển trong khu vực như Philippines và
Thái Lan.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng thái độ bất hợp tác đó có thể chỉ có ở một
số lượng hạn chế các đối tượng có liên quan đến các phiên điều trần của ủy
ban. Đối với đa số những người chịu sự tác động hoặc có lợi ích liên quan đến
các dự án luật hoặc các vấn đề đang được ủy ban xem xét, thì việc được thể
hiện ý kiến để bảo vệ lợi ích của mình trước ủy ban là hết sức được đón đợi.
Để giải quyết các vấn đề trên, nghị viện các nước thường áp dụng biện
pháp cho phép nghị viện được quyền ra lệnh triệu tập bắt buộc những người
nắm giữ thông tin đến tham dự phiên điều trần và yêu cầu họ phải cung cấp
các thông tin, tài liệu cần thiết phục vụ cho công việc của ủy ban của nghị
viện. Tuy nhiên, điều này trong nhiều trường hợp có thể gây ra sự căng thẳng
giữa các cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nước với các ủy ban của nghị
viện. Ở đây, một ưu điểm cần nhấn mạnh của hoạt động điều trần là tính công
khai. Cho dù có thể không đạt được mục đích là nhận được thông tin từ phía
những đối tượng được yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng qua việc công khai
hoạt động điều trần của mình, các ủy ban của nghị viện đã cho công chúng
thấy được sự nỗ lực của mình. Qua đó, công chúng sẽ tạo nên những áp lực
nhất định đối với các đối tượng đã từ chối cung cấp thông tin phục vụ cho các
hoạt động của ủy ban nghị viện.
Ngoài ra, do hoạt động điều trần của ủy ban có ảnh hưởng lớn đến
quyết định của ủy ban nên ở một số nghị viện, bản thân nội bộ của ủy ban
cũng thường bị chia rẽ khi đưa ra các quyết định liên quan đến việc tổ chức
điều trần. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động điều trần
30
của ủy ban. Chẳng hạn như ở Hạ nghị viện Nhật Bản, đảng cầm quyền và
đảng đối lập trong các ủy ban thường khó nhất trí với nhau trong việc xác
định thời gian tiến hành các cuộc điều trần công khai đối với những nội dung
bắt buộc phải tổ chức điều trần như khi xem xét về dự án ngân sách hoặc các
dự án có ảnh hưởng đến nguồn thu. Tương tự, các bên cũng khó đi đến thống
nhất trong việc có nên tổ chức phiên họp điều trần hay không khi xem xét một
dự án luật. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đây là một khó khăn chung đối với mọi
hoạt động của ủy ban không chỉ đối với hoạt động điều trần. Khó khăn này có
thể được giải quyết nếu phe đa số trong nghị viện cũng nắm đa số trong ủy ban
và có thể ảnh hưởng đến các quyết định của ủy ban qua các cuộc bỏ phiếu.
1.3.2. Những bài học kinh nghiệmcho Quốchội ViệtNam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của nghị viện một số nước về hoạt động
điều trần tại các ủy ban, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây cho
Quốc hội Việt Nam:
Thứ nhất, đối tượng chủ yếu của điều trần không hạn chế là các công
chức trong bộ máy nhà nước mà còn bao gồm những tổ chức, cá nhân có
quyền lợi liên quan và các chuyên gia về các lĩnh vực thuộc phạm vi nội dung
điều trần.
Thứ hai, với mục đích thu thập thông tin phục vụ quá trình ban hành
quyết định, điều trần tại ủy ban được áp dụng đối với cả hoạt động lập pháp
và hoạt động giám sát, không nên quan niệm điều trần chỉ là công cụ giám sát
của ủy ban nghị viện.
Thứ ba, hoạt động điều trần thường không quá nghiêm ngặt như thủ tục
tiến hành các phiên họp của ủy ban bởi mục đích của hoạt động điều trần là để
lắng nghe hơn là để ra các quyết định. Trong quá trình tiến hành phiên họp,
31
thủ tục của hoạt động điều trần cũng được thiết kế để tạo cơ hội tối đa cho các
thành viên của ủy ban có thể lắng nghe được các ý kiến của các bên liên quan.
Thứ tư, để điều trần được thực thi hữu hiệu trên thực tế, cần xây dựng
một khung pháp luật đầy đủ cho hoạt động này. Có những nghị viện còn xây
dựng những bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo các ủy ban của nghị viện và
các nghị sĩ có thể tham gia hoạt động điều trần một cách có hiệu quả.
Thứ năm, qua quá trình áp dụng thủ tục điều trần, nghị viện các nước
đã nhận định, điều trần là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên từ nhu cầu
của các nghị sĩ, trong việc tìm kiếm các thông tin một cách đầy đủ và hữu
hiệu để phục vụ cho việc ra các quyết định của mình. Mặc dù điều trần có thể
phần nào làm chậm tiến trình làm việc của nghị viện, nhưng điều trần là hoạt
động cần thiết trong một xã hội dân chủ, nhằm tăng cường sự tham gia của
người dân vào các quyết định của nhà nước.
Thứ sáu, điểm đáng chú ý trong hoạt động điều trần là việc tăng cường
mối liên hệ giữa công chúng và những người đại diện cho họ ở tầm quốc gia,
vì vậy, việc công khai hóa điều trần là rất quan trọng. Các thông tin về nội
dung, thời gian, địa điểm tiến hành điều trần thường được công bố trước một
cách rộng rãi cho công chúng để huy động sự tham gia của những đối tượng
liên quan vào phiên điều trần.
Thứ bảy, bất cứ một hình thức điều trần nghiêm túc nào cũng cần có
một hệ thống ghi biên bản tốt và phải có thủ tục để xác nhận tính hợp lệ của các tài
liệu ghi âm các bên cung cấp thông tin, bằng chứng và các bên tiếp nhận.
Thứ tám, cần sử dụng công cụ điều trần một cách phù hợp và chặt chẽ
để vừa phát huy tác dụng với xã hội vừa chống lại việc “ngăn cản những
nhóm lợi ích khác bày tỏ ý kiến với các ủy ban của Quốc hội”.
32
Kết luận Chương 1
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận của hoạt động điều trần và thực
tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới,
chúng ta có thể thấy rằng, điều trần là một hình thức hoạt động, một công cụ
hữu hiệu của các ủy ban của nghị viện. Mục đích cơ bản của hoạt động điều
trần là nhằm tạo điều kiện để các ủy ban của nghị viện có thêm thông tin, lý lẽ
đa chiều phục vụ cho việc đưa ra các quyết định của mình. Điều đó có nghĩa
là nội dung điều trần thường phải gắn kết với các nhiệm vụ, hoạt động của ủy
ban, không thể có các hoạt động điều trần không phục vụ việc xem xét một
nội dung nào đó mà ủy ban đang được giao thực hiện. Đồng thời, điều trần
không phải là hoạt động soi xét, tìm kiếm sai sót, quy trách nhiệm của một
chủ thể nào đó. Những đối tượng được tham gia phát biểu ý kiến tại các phiên
điều trần có thể là các Bộ trưởng, các công chức, các chuyên gia trong các
lĩnh vực có liên quan, đại diện của các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị nghiên
cứu khoa học, các hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân công dân.
Phiên điều trần của các ủy ban thường được tiến hành với các thủ tục
tương tự như các phiên họp chính thức của ủy ban. Tuy nhiên, do tính chất
của phiên họp điều trần chủ yếu là để thu thập thông tin nên thủ tục tiến hành
phiên họp cũng được thực hiện một cách linh hoạt và đơn giản hơn. Cụ thể tại
phiên họp này, nhiệm vụ cơ bản của các thành viên ủy ban là lắng nghe quan
điểm của các nhân chứng được mời tham gia phiên điều trần. Các thành viên
của ủy ban có thể đặt các câu hỏi để làm rõ về các vấn đề liên quan, thông
thường, việc lựa chọn các nhân chứng tham gia phát biểu tại phiên điều trần
phải đảm bảo sự cân bằng về số lượng các ý kiến phản đối hoặc ủng hộ về các
vấn đề được thảo luận. Kết quả các phiên điều trần thường được sử dụng để
xây dựng báo cáo của ủy ban về cuộc điều trần trong đó có các đề xuất kiến
nghị với Chính phủ.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÓ TÍNH TƯƠNG ĐỒNG VỚI ĐIỀU
TRẦN TẠI HĐDT VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
2.1. Giải trình: hoạt động có tính tương đồng với điều trần
Như đã trình bày tại Chương 1, điều trần là một hình thức để ủy ban thu
thập thông tin, chứng cứ từ các nhóm đối tượng có liên quan để phục vụ việc
ban hành quyết định. Đối chiếu với quy định pháp luật và thực tế triển khai
các hình thức hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam
hiện nay, chúng ta có thể thấy một số hình thức hoạt động có thể có tính chất
tương đồng với điều trần như: giải trình, điều tra, lấy ý kiến, yêu cầu báo cáo
và cung cấp tài liệu.
Bảng 2.1: So sánh điều trần với giải trình, yêu cầu báo cáo, hội nghị
lấy ý kiến, điều tra
Điều trần Giải trình Yêu cầu
báo cáo,
cung cấp
tài liệu
Hội nghị
lấy ý kiến
Điều tra
Lĩnh vực Lập pháp +
Giám sát
Lập pháp +
Giám sát
nhưng chủ
yếu là giám
sát
Giám sát Lập pháp +
giám sát,
nhưng chủ
yếu là lập
pháp
Giám sát
Tính chất Chủ yếu là
xem xét những
vấn đề về
chính sách;
Chủ yếu
xem xét
những vấn
đề chính
Chủ yếu là
xem xét vụ
việc cụ thể
Chủ yếu là
xem xét
những vấn
đề về chính
Xem xét vụ
việc cụ thể
34
Điều trần Giải trình Yêu cầu
báo cáo,
cung cấp
tài liệu
Hội nghị
lấy ý kiến
Điều tra
Cũng có khi
điều trần về
một vấn đề cụ
thể nhưng rất ít
khi
sách. Cũng
có khi xem
xét vấn đề
cụ thể
sách
Mục đích Thu thập thông
tin
Thu thập
thông tin,
làm rõ trách
nhiệm
Thu thập
thông tin,
làm rõ trách
nhiệm
Thu thập
thông tin
Xem xét tính
hợp pháp
của các hành
vi
Chủ thể Tất cả các loại
Ủy ban
HĐDT, các
ủy ban của
Quốc hội
HĐDT, các
ủy ban của
Quốc hội
HĐDT, các
ủy ban của
Quốc hội
Ủy ban lâm
thời
Đối tượng
tham gia
Tất cả các bên
có liên quan
đến chính sách
Tất cả các
bên có liên
quan đến nội
dung giải
trình
Thành viên
Chính phủ,
Chánh án
TANDTC,
Viện trưởng
VKSNDTC,
cá nhân hữu
quan
Chuyên gia,
đối tượng bị
tác động
Chủ thể điều
tra, đối
tượng bị
điều tra và
bên cung cấp
chứng cứ
Hình thức Phiên điều trần
(phiên họp của
ủy ban)
Phiên họp tại
ủy ban
Phiên họp
hoặc báo
cáo bằng
văn bản
Hội nghị,
hội thảo
Xem xét tài
liệu, thu thập
chứng cứ;
Gặp nhân
chứng, đối
35
Điều trần Giải trình Yêu cầu
báo cáo,
cung cấp
tài liệu
Hội nghị
lấy ý kiến
Điều tra
chất,…
Tính công
khai
Chủ yếu là
công khai
trong toàn bộ
quá trình chuẩn
bị và diễn ra
phiên điều trần
Chủ yếu là
công khai
khi diễn ra
phiên giải
trình
Ít công khai Công khai ở
mức độ tổ
chức báo chí
đưa tin tại
hội nghị
Thông
thường chỉ
công khai
kết quả điều
tra
Nội dung Tất cả những
vấn đề thuộc
nội dung hoạt
động của ủy
ban
Những vấn
đề ủy ban
thẩm tra,
giám sát
Những vấn
đề mà ủy
ban đang
thẩm tra,
xem xét
Chỉ những
vụ việc nhất
định trên cơ
sở kiến nghị
của cử tri
hoặc đại
biểu Quốc
hội
Thủ tục Theo thủ tục
một phiên họp
Theo thủ tục
một phiên
họp
Thủ tục
phiên họp
nếu báo cáo
trực tiếp
Theo thủ tục
một hội thảo
khoa học
Thủ tục của
một cuộc
điều tra (thủ
tục tư pháp)
Hệ quả Kiến nghị đối
với Chính phủ;
Đưa vấn đề
vào chương
trình nghị sự
của Quốc hội
Kiến nghị
đối với
Chính phủ,
Bộ. Báo cáo
với
UBTVQH,
Báo cáo
UBTVQH,
Quốc hội
hoặc không
Tổng hợp ý
kiến để hoàn
thiện Báo
cáo của ủy
ban
Báo cáo
Quốc hội
36
Điều trần Giải trình Yêu cầu
báo cáo,
cung cấp
tài liệu
Hội nghị
lấy ý kiến
Điều tra
Quốc hội
Lợi ích Có tác động và
ảnh hưởng
rộng tới: Quốc
hội; các cơ
quan của Quốc
hội; xã hội
Có tác động
và ảnh
hưởng rộng
tới: Quốc
hội; các cơ
quan của
Quốc hội; xã
hội
Tác động
hẹp hơn
Tác động
hẹp hơn
Thường là
tác động hẹp
hơn: Giải
quyết vụ
việc cụ thể.
Qua bảng so sánh chi tiết, chúng ta có thể thấy rằng, điều tra và yêu cầu
báo cáo là hai hình thức có mức độ tương đồng với điều trần thấp nhất, hay
nói đúng hơn là có nhiều khác biệt. Hội nghị lấy ý kiến có mức độ tương đồng
khá song còn nhiều điểm khác nhau về chủ thể tham gia, thủ tục, hình thức,
mức độ công khai … Hình thức này tương đồng với hoạt động tham vấn công
chúng ở nghị viện các nước. Giải trình chính là hình thức có mức độ tương
đồng cao nhất với điều trần trong số các hình thức hoạt động của HĐDT và
các ủy ban của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
Hơn nữa, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội 2014, các nhà lập pháp
đã quy định một điều riêng về hoạt động giải trình tại HĐDT và các ủy ban
với ý tưởng thiết lập một cơ chế hoạt động của các ủy ban tương đồng với
hearings ở nghị viện các nước. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng hoạt
động của HĐDT và các ủy ban có tính tương đồng với điều trần trong
Chương này sẽ tập vào hình thức giải trình.
37
2.2. Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động giải trình tại
HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam
Như đã đề cập ở trên đây, pháp luật nước ta chưa sử dụng thuật ngữ
điều trần nhưng có quy định về giải trình, báo cáo của các đối tượng trước
HĐDT, các ủy ban của Quốc hội.
2.2.1. Các quy định trước khi Hiến pháp2013 được ban hành
Trước khi Hiến pháp 2013 được ban hành, các văn bản pháp luật liên
quan đến hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội như Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, Quy chế hoạt động của HĐDT và các ủy ban của
Quốc hội… đã có những quy định tạo cơ sở pháp lý cho HĐDT, các ủy ban
tiến hành các hoạt động giải trình.
Điều 38 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định: “Hội đồng Dân tộc
và các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên Chính phủ ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và những viên chức nhà nước hữu quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình
bày những vấn đề mà Hội đồng hoặc ủy ban xem xét, thẩm tra. Người nhận
được yêu cầu của Hội đồng hoặc ủy ban của Quốc hội phải đáp ứng yêu cầu
đó”.
Theo quy định của điều này, tại các phiên giải trình, HĐDT, các ủy ban
của Quốc hội có quyền yêu cầu các quan chức cao cấp trong Bộ máy hành
pháp, tư pháp đến “trình bày” những vấn đề mà HĐDT, ủy ban quan tâm. Bên
cạnh đó, HĐDT, các ủy ban cóthể yêu cầu các viên chức liên quan đến vấn đề
đang được xem xét, thẩm tra cung cấp tài liệu, hoặc đến trình bày.
Đối với những đối tượng khác, Luật không quy định HĐDT, các ủy ban
có được mời hay không mời tham gia. Căn cứ vào nguyên tắc hoạt động của
38
Quốc hội nói chung, hoạt động của HĐDT, các ủy ban của Quốc hội nói riêng
là công khai, minh bạch, với sự tham gia của công chúng. Do vậy, HĐDT, các
ủy ban hoàn toàn có thể mời các thành phần khác đến dự phiên họp giải trình
để có thêm thông tin đặt bên cạnh thông tin do Chính phủ cung cấp.
Điều 27 Quy chế hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội đã
có quy định cụ thể hơn: “Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có
quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan khác hoặc tổ chức, cá
nhân có liên quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội
đồng Dân tộc, các ủy ban đang xem xét, thẩm tra, người nhận được yêu cầu
có trách nhiệm thực hiện”. Với quy định này, HĐDT, các ủy ban không chỉ
có thẩm quyền yêu cầu đại diện các Bộ, ngành đến báo cáo, mà còn có thể
mời cả đại diện các tổ chức, cá nhân khác đến trình bày. Các đối tượng mà ủy
ban có quyền yêu cầu đến trình bày những vấn đề đang được xem xét, thẩm
tra gồm có cả “các tổ chức, cá nhân có liên quan”. Có thể hiểu “các tổ chức,
cá nhân có liên quan” không chỉ trong bộ máy nhà nước, mà cả các tổ chức xã
hội, hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, viện, trường, chuyên gia,
cá nhân công dân v.v…
Nghiên cứu quy định tại các Điều 3, Điều 27, Điều 29, Điều 32, Điều
33 trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có thể tổng hợp một số điểm
đáng lưu ý trong hoạt động giám sát của HĐDT, các ủy ban như sau:
- Đối tượng giám sát của HĐDT, các ủy ban bao gồm: hoạt động của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; văn bản quy phạm pháp luật.
- Một số quy định về trình tự tiến hành giám sát tại HĐDT, ủy ban như:
ủy ban yêu cầu các cơ quan báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực ủy ban phụ
39
trách; trong việc ủy ban xem xét báo cáo của Đoàn giám sát có thể mời đối
tượng bị giám sát có mặt tại phiên họp; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đến
trình bày và cung cấp thông tin, tài liệu mà ủy ban quan tâm liên quan đến
khiếu nại, tố cáo.
- Lĩnh vực yêu cầu các cơ quan báo cáo tương đối hạn hẹp, chỉ bó gọn
trong xem xét báo cáo hoạt động (những việc đã làm, không bao gồm trách
nhiệm phải làm gì để giải quyết), khi có khiếu nại, tố cáo và xem xét báo cáo
Đoàn giám sát. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có cách hiểu khác nhau về báo
cáo hoạt động, phân biệt sự khác nhau giữa báo cáo hoạt động và báo cáo
công tác. Nếu hiểu hoạt động theo nghĩa thông thường thì rất rộng, có khả
năng dẫn đến sự lạm quyền của các ủy ban khi yêu cầu các cơ quan phải báo
cáo hoạt động.
- Thẩm quyền của HĐDT, các ủy ban trong hoạt động này còn chưa
thật rõ: Các ủy ban chỉ có quyền nghe báo cáo mà không có quyền chất vấn, yêu
cầu giải trình hay yêu cầu gì thêm; trong hình thức thứ hai, không có quyền yêu
cầu đối tượng bị giám sát có mặt và không có quy định sự tranh luận giữa Đoàn
giám sát và đối tượng bị giám sát; trường hợp thứ ba gần với hoạt động điều trần
nhất (chỉ dừng lại ở việc xem xét vấn đề bị khiếu nại, tố cáo đúng hay sai).
Theo quy định của Khoản 1, Điều 27, Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội tiến hành thẩm tra báo cáo công
tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Phiên họp thẩm tra là phiên họp toàn thể của ủy ban, vì vậy không thích hợp
để tiến hành giải trình. Tuy nhiên, trước khi tiến hành họp thẩm tra, có quá
trình chuẩn bị thẩm tra. Đây là khâu có thể tổ chức giải trình để thu thập
thông tin, hỗ trợ các thành viên ủy ban tiến hành phiên họp thẩm tra tốt hơn.
40
Trong trường hợp cần thiết, HĐDT, các ủy ban có thể yêu cầu Chính
phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội đồng, ủy ban phụ trách….
Khoản 3, Điều 27 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội trao cho
HĐDT, các ủy ban thẩm quyền yêu cầu người đứng đầu hoặc đại diện được
uỷ quyền của các cơ quan báo cáo về hoạt động của mình tại cuộc họp của
Hội đồng, ủy ban. Trong cuộc họp, thành viên HĐDT, các ủy ban sẽ yêu cầu
làm rõ những điểm, những vấn đề, nội dung hoạt động, từ đó đưa ra những
khuyến nghị, đề xuất.
Điều 33 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định, trên cơ sở
khiếu nại, tố cáo nhận được, HĐDT, các ủy ban tổ chức họp và yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (trong đó có Bộ, cơ quan ngang Bộ,
người đứng đầu các cơ quan này) đến để trình bày, cung cấp thông tin, tài
liệu. Trong cuộc họp này, HĐDT, các ủy ban cũng có thể mời người khiếu
nại, tố cáo hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan đến để nghe trình bày về
vấn đề có liên quan. Các bên có điều kiện và cơ hội tranh luận, chứng minh
luận điểm của mình trước ủy ban.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, tại Điều 41 có
quy định HĐDT, ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự
án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và dự án, dự thảo khác do
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao. Và khi tiến hành thẩm tra, “cơ
quan chủ trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan,
các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý
kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan
thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án,
41
dự thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự
thảo… Cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp
thông tin, tài liệu và đáp ứng các yêu cầu khác của cơ quan thẩm tra”.
2.2.2. Hiến pháp2013 và cácvăn bản cụ thểhóaHiến pháp
Hiến pháp mới năm 2013 đã dành hẳn một điều (Điều 77) để quy
định về quyền của HĐDT và các ủy ban trong việc yêu cầu các chủ thể có
liên quan báo cáo, giải trình và cung cấp tài liệu: “Hội đồng dân tộc, các ủy
ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà
nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những
vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó”.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội 2014
(có hiệu lực từ 01/01/2016) đã quy định về giải trình tại phiên họp HĐDT, ủy
ban của Quốc hội tại Điều 82. Theo đó, HĐDT, ủy ban của Quốc hội có
quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân
hữu quan giải trình về những vấn đề thuộc lĩnh vực HĐDT, ủy ban của Quốc
hội phụ trách. Người được yêu cầu giải trình có trách nhiệm báo cáo, giải
trình tại phiên họp của HĐDT, ủy ban của Quốc hội. HĐDT, ủy ban của Quốc
hội phải kết luận về vấn đề được giải trình. Kết luận của Hội đồng, ủy ban
được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và các cơ
quan, tổ chức hữu quan.
Có thể thấy, Luật tổ chức Quốc hội 2014 đã cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp ở bốn điểm quan trọng. Một là có quyền yêu cầu giải trình về
những vấn đề mà HDDT và ủy ban phụ trách chứ không phải vấn đề cần
thiết. Hai là, phải giải trình tại phiên họp của HĐDT và ủy ban chứ không
42
phải giải trình bằng văn bản. Ba là HĐDT và ủy ban phải kết luận về vấn đề
được giải trình. Bốn là, kết luận phiên giải trình phải được gửi đến Ủy ban
thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội và cơ quan, tổ chức hữu quan.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội vào
trong hoạt động lập pháp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
(có hiệu lực từ 01/7/2016) đã quy định: “Cơ quan chủ trì thẩm tra có thể mời
đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại
diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp
do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung
của dự án, dự thảo. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại
biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo báo cáo, giải trình, cung cấp thông tin, tài
liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo” (Điều 63).
Với quy định này, Luật ban hành đã quy định cụ thể hơn về các đối tượng
được mời tham dự phiên họp của HĐDT và ủy ban, bao gồm các cơ quan, tổ
chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội mới, các
quy định của Luật hoạt động giám sát, Quy chế hoạt động của HĐDT và ủy
ban cũng đang được tích cực soạn thảo, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Như vậy, các quy định trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiến
hành những phiên giải trình tại HĐDT, các ủy ban của Quốc hội nước ta.
2.3. Thực tiễn tổ chức các phiên giải trình tại HĐDT và các ủy ban
của Quốc hội Việt Nam
2.3.1. Phiêngiải trìnhđầu tiên và xu hướngphát triển
Tháng 9-2009, một cuộc tọa đàm về hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội và hoạt động giải trình tại các cơ quan của Quốc hội được tổ chức ở
43
Đà Lạt. Tháng 12-2009, Văn phòng Quốc hội trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội một số vấn đề nhằm thí điểm hoạt động này. Ngay sau đó, Ủy ban Các
vấn đề xã hội đề xuất được thí điểm đầu tiên.
Đầu tháng 4-2010, nhiều tờ báo cùng lúc đăng tin về việc sắp thí điểm
điều trần tại Ủy ban Các vấn đề xã hội. Một số tờ báo để từ điều trần trong
ngoặc kép. Đến ngày 21tháng 4, ảnh chụp trên các báo về nội dung cuộc làm
việc của Ủy ban Các vấn đề xã hội với lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội cho thấy trên phông nền không có từ điều trần mà là “hội nghị giải trình”.
Trước hội nghị ít ngày, lãnh đạo Ủy ban (TS Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ
nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội) đã dùng từ điều trần khi trả lời báo chí. Từ
này mới quá nên dư luận xôn xao, một số người phản ứng và cho là cách dùng
từ như vậy có gì đó gay gắt hoặc đối lập với đối tượng bị điều trần.
Tháng 3-2010, Ủy ban có công văn gửi bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và các cơ quan, tổ chức sẽ tham gia giải trình; công
văn gửi các thành viên ủy ban để chuẩn bị câu hỏi. Sau đó là việc tập hợp, chọn
lọc thông tin, mời và đặt bài chuyên gia để xây dựng bộ tài liệu tham khảo.
Thường trực ủy ban họp nhiều lần để thảo luận kế hoạch tổ chức phiên
giải trình, xác định các vấn đề trọng tâm cần làm rõ trong phiên giải trình,
cách thức tiến hành phiên giải trình, phân công (Chủ nhiệm ủy ban chủ trì,
một Phó chủ nhiệm phụ trách nội dung và điều hành, một Phó chủ nhiệm phụ
trách quy trình thủ tục). Kế đến là tổ chức họp chuyên gia để xây dựng bộ câu hỏi
và cuối cùng là phần duyệt phông hội nghị, bố trí chỗ ngồi của các đại biểu.
Ngày 21-4-2010, hội nghị giải trình về chính sách giảm nghèo được tổ
chức, thu hút sự tham gia đông đảo của giới truyền thông. Bộ trưởng Nguyễn
Thị Kim Ngân (thời điểm đó) trở thành thành viên đầu tiên của Chính phủ ra
điều trần tại một ủy ban của Quốc hội. Sự “sẵn sàng” của Bà Nguyễn Thị Kim
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND
Luận văn: Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBNDLuận văn: Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND
Luận văn: Hiệu quả hoạt động của Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND
 
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAYLuận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
 
Đề tài: Cải cách hành chính nhà nước ở quận Đống Đa, Hà Nội, HAY
Đề tài: Cải cách hành chính nhà nước ở quận Đống Đa, Hà Nội, HAYĐề tài: Cải cách hành chính nhà nước ở quận Đống Đa, Hà Nội, HAY
Đề tài: Cải cách hành chính nhà nước ở quận Đống Đa, Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù Cát
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù CátLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù Cát
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù Cát
 
Luận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông
Luận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thôngLuận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông
Luận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phườngLuận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
 
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
 
Đề tài: Hoạt động chứng thực tại UBND xã Nga An huyện Nga Sơn thực trạng và g...
Đề tài: Hoạt động chứng thực tại UBND xã Nga An huyện Nga Sơn thực trạng và g...Đề tài: Hoạt động chứng thực tại UBND xã Nga An huyện Nga Sơn thực trạng và g...
Đề tài: Hoạt động chứng thực tại UBND xã Nga An huyện Nga Sơn thực trạng và g...
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm xã hội của UBND đối với công dân, HAY
Luận văn: Trách nhiệm xã hội của UBND đối với công dân, HAYLuận văn: Trách nhiệm xã hội của UBND đối với công dân, HAY
Luận văn: Trách nhiệm xã hội của UBND đối với công dân, HAY
 
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hộiLuận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
 
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại Sở Xây dựng Cao Bằng
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại Sở Xây dựng Cao BằngĐề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại Sở Xây dựng Cao Bằng
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại Sở Xây dựng Cao Bằng
 
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và SingaporeĐề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
 
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
 
Đề tài: Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chi ngân sách n...
Đề tài: Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chi ngân sách n...Đề tài: Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chi ngân sách n...
Đề tài: Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về quản lý chi ngân sách n...
 
Báo cáo: Pháp luật thành lập Công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp
Báo cáo: Pháp luật thành lập Công ty cổ phần theo luật doanh nghiệpBáo cáo: Pháp luật thành lập Công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp
Báo cáo: Pháp luật thành lập Công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Cải cách thủ tục theo cơ chế một cửa ở TP Việt Trì, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục theo cơ chế một cửa ở TP Việt Trì, HAYLuận văn: Cải cách thủ tục theo cơ chế một cửa ở TP Việt Trì, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục theo cơ chế một cửa ở TP Việt Trì, HAY
 
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luậtPháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
 

Similar to Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY

Similar to Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY (20)

Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
 
Đề tài: Tác động của pháp luật trong xây dựng pháp luật, HOT
Đề tài: Tác động của pháp luật trong xây dựng pháp luật, HOTĐề tài: Tác động của pháp luật trong xây dựng pháp luật, HOT
Đề tài: Tác động của pháp luật trong xây dựng pháp luật, HOT
 
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
 
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nạiĐề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
 
Tổ chức và hoạt động của Văn phòng Đoàn tại tỉnh Quảng Nam
Tổ chức và hoạt động của Văn phòng Đoàn tại tỉnh Quảng NamTổ chức và hoạt động của Văn phòng Đoàn tại tỉnh Quảng Nam
Tổ chức và hoạt động của Văn phòng Đoàn tại tỉnh Quảng Nam
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOTLuận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
 
BÀI MẪU Luận văn Tổ chức hội đồng nhân dân, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Tổ chức hội đồng nhân dân, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn Tổ chức hội đồng nhân dân, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Tổ chức hội đồng nhân dân, HAY, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HAY
Bài mẫu Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HAYBài mẫu Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HAY
Bài mẫu Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HAY
 
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hộiLuận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
 
Đề tài: Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận
Đề tài: Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình ThuậnĐề tài: Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận
Đề tài: Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOTLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
 
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
 
Đề tài: Giám sát của Mặt trận Tổ quốc với cơ quan hành chính, HOT
Đề tài: Giám sát của Mặt trận Tổ quốc với cơ quan hành chính, HOTĐề tài: Giám sát của Mặt trận Tổ quốc với cơ quan hành chính, HOT
Đề tài: Giám sát của Mặt trận Tổ quốc với cơ quan hành chính, HOT
 
Quản Lý Hoạt Động Hợp Tác Quốc Tế Tại Văn Phòng Quốc Hội
Quản Lý Hoạt Động Hợp Tác Quốc Tế Tại Văn Phòng Quốc HộiQuản Lý Hoạt Động Hợp Tác Quốc Tế Tại Văn Phòng Quốc Hội
Quản Lý Hoạt Động Hợp Tác Quốc Tế Tại Văn Phòng Quốc Hội
 
Quy trình ban hành văn bản hành chính tại UBND tỉnh Thanh Hóa
Quy trình ban hành văn bản hành chính tại UBND tỉnh Thanh HóaQuy trình ban hành văn bản hành chính tại UBND tỉnh Thanh Hóa
Quy trình ban hành văn bản hành chính tại UBND tỉnh Thanh Hóa
 
Luận văn: Quy trình ban hành văn bản hành chính tỉnh Thanh Hóa - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quy trình ban hành văn bản hành chính tỉnh Thanh Hóa - Gửi miễn phí...Luận văn: Quy trình ban hành văn bản hành chính tỉnh Thanh Hóa - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quy trình ban hành văn bản hành chính tỉnh Thanh Hóa - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND huyện Kim Động - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND huyện Kim Động - Gửi miễn phí ...Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND huyện Kim Động - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND huyện Kim Động - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Hưng Yên, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Hưng Yên, HAYLuận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Hưng Yên, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Hưng Yên, HAY
 
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND tỉnh Hưng Yên, HAY
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND tỉnh Hưng Yên, HAYĐề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND tỉnh Hưng Yên, HAY
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính tại UBND tỉnh Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lí, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của trợ giúp pháp lí, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 

Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN ANH ĐIỀU TRẦN TẠI ỦY BAN CỦA NGHỊ VIỆN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC ÁP DỤNG CHO HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN ANH ĐIỀU TRẦN TẠI ỦY BAN CỦA NGHỊ VIỆN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC ÁP DỤNG CHO HỘI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và phân tích trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Việc tham khảo, trích các kết quả nghiên cứu trước đó đã được dẫn nguồn đầy đủ. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Lan Anh
  • 4. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội HĐDT : Hội đồng Dân tộc TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao TW : Trung ương NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn GTVT : Giao thông Vận tải ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AEC : Cộng đồng kinh tế ASEAN VOV : Đài tiếng nói Việt Nam EVN : Tập đoàn điện lực Việt Nam
  • 5. ii DANH MỤC CÁC BẢNG STT Nội dung Trang 1 Bảng 1.1: So sánh điều trần với điều tra, chất vấn 10 2 Bảng 1.3: Tính phổ biến của hoạt động điều trần ở các nước 28 3 Bảng 2.1: So sánh điều trần với giải trình, yêu cầu báo cáo, hội nghị lấy ý kiến, điều tra 33
  • 6. iii MỤC LỤC Lời cam đoan Danh mục các chữ viết tắt ...........................................................................i Danh mục các bảng ......................................................................................ii MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA NGHỊ VIỆN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐIỀU TRẦN.........9 1.1. Những vấn đề lý luận về điều trần tại ủy ban của nghị viện...............9 1.1.1. Khái niệm điều trần.............................................................................9 1.1.2 Mục đích, ý nghĩa của điều trần......................................................... 12 1.1.3. Chủ thể của điều trần........................................................................14 1.1.4. Đối tượng được mời tham gia điều trần............................................ 15 1.1.5. Nội dung của điều trần......................................................................15 1.1.6. Thời điểm tổ chức và tính công khai của điều trần........................... 16 1.1.7. Thủ tục điều trần............................................................................... 17 1.1.8. Kết quả của hoạt động điều trần ....................................................... 18 1.1.9. Khuôn khổ pháp lý về điều trần ........................................................18 1.2. Thực tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới................................................................................................. 19 1.2.1. Nghị viện Nhật Bản...........................................................................19 1.2.2. Nghị viện Hoa Kỳ .............................................................................. 22 1.2.3. Nghị viện Ba Lan............................................................................... 23 1.2.4. Nghị viện New Zealand .....................................................................25 1.3. Một số đánh giá về điều trần tại ủy ban của nghị viện các nước và bài học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam..................................................27 1.3.1. Một số đánh giá về áp dụng điều trần tại ủy ban của nghị các nước27 1.3.2. Những bài học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam....................... 30
  • 7. iv Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÓ TÍNH TƯƠNG ĐỒNG VỚI ĐIỀU TRẦN TẠI HĐDT VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM ................................................................................................. 33 2.1. Giải trình: hoạt động có tính tương đồng với điều trần.................... 33 2.2. Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động giải trình tại HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam....................................................... 37 2.2.1. Các quy định trước khi Hiến pháp 2013 được ban hành..................37 2.2.2. Hiến pháp 2013 và các văn bản cụ thể hóa Hiến pháp.....................41 2.3. Thực tiễn tổ chức các phiên giải trình tại HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam.....................................................................................42 2.3.1. Phiên giải trình đầu tiên và xu hướng phát triển.............................. 42 2.3.2. Một số phiên giải trình tiêu biểu trong thời gian gần đây................. 44 2.4. Những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt động giải trình....... 51 2.4.1. Những kết quả đạt được.................................................................... 51 2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân....................................................... 54 Chương 3 ÁP DỤNG ĐIỀU TRẦN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI NƯỚC TA HIỆN NAY ................60 3.1. Sự cần thiết, cơ sở và phạm vi của việc áp dụng điều trần trong hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội ...........................................60 3.2. Các nguyên tắc áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội...................................................................................62 3.2.1. Góp phần phát huy dân chủ, tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội.....................................................................62 3.2.2. Bảo đảm điều trần phải gắn với việc tăng cường vai trò đại diện, nắm bắt ý nguyện của người dân........................................................................63 3.2.3. Bảo đảm phiên điều trần phải gắn với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các ủy ban của Quốc hội .............................................................65
  • 8. v 3.2.4. Bảo đảm điều trần phải góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội ......................................................................................................67 3.3. Một số giải pháp áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội nước ta hiện nay...................................................... 69 3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giải trình ................69 3.3.2. Đẩy mạnh tổ chức thông tin, tuyên truyền rộng rãi về điều trần trong hoạt động của Quốc hội .............................................................................. 72 3.3.3. Hoàn thiện tổ chức, hoạt động của HĐDT, các ủy ban của Quốc hội.....................................................................................................75 3.3.4. Tăng cường năng lực của bộ máy giúp việc của Quốc hội............... 79 KẾT LUẬN................................................................................................. 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 83
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Có một sự thống nhất trong các nghiên cứu về nghị viện là duy trì một hệ thống ủy ban mạnh sẽ tạo cho nghị viện khả năng tốt hơn để gây ảnh hưởng về mặt chính sách đối với công chúng và để giám sát tốt hơn đối với các hoạt động của ngành hành pháp [18, tr.37]. Một trong những công cụ hữu hiệu được các ủy ban của nghị viện sử dụng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình là tổ chức phiên điều trần. Đây là một cơ chế chính thức để các ủy ban có thể thu thập thông tin về những vấn đề chính sách từ các cơ quan thuộc chính phủ, các chuyên gia từ bên ngoài, các tổ chức dân sự, các đối tượng có liên quan khác… nhằm mục đích tăng cường chất lượng của quá trình ra quyết định. Ở Việt Nam, trong điều kiện Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên thì vai trò của HĐDT và các ủy ban ngày càng được coi trọng. Quốc hội Việt Nam đã có những nỗ lực để đổi mới cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và phương thức hoạt động của Ủy ban trong thời gian gần đây và thể hiện tập trung nhất là trong Luật tổ chức Quốc hội 2015. Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều trần chỉ mới được sử dụng dưới góc độ nghiên cứu mà chưa được sử dụng chính thức. Trong Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Quốc hội 2014 cũng chỉ quy định về vấn đề “giải trình” trước HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội chứ chưa quy định về “điều trần”. Về mặt ngữ nghĩa tiếng Việt, giải trình và điều trần thể hiện tính chất hoàn toàn khác nhau. Việc lựa chọn thuật ngữ “giải trình” vô hình trung đã thu hẹp đáng kể đối tượng mà các ủy ban của Quốc hội có thể nghe và cần phải nghe.
  • 10. 2 Thực tế trong thời gian qua, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam đã tổ chức các phiên giải trình đối với các vấn đề được dư luận xã hội quan tâm và đã nhận được phản hồi tích cực từ phía cử tri cả nước. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể về thủ tục tiến hành nên việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại và chưa thống nhất. Cách làm tùy thuộc vào sự sáng tạo của mỗi ủy ban. Về cơ bản vẫn là sự giải trình, báo cáo của bộ ngành trước ủy ban về một vấn đề cụ thể kết hợp tham khảo thêm một số yếu tố của phiên điều trần của nghị viện các nước. Chính vì vậy, để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội việc nghiên cứu áp dụng hình thức điều trần là vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa. Việc áp dụng hình thức điều trần trong hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, giải quyết được những hạn chế trong họat động giải trình hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới và việc áp dụng cho HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội, trong thời gian qua, đã có nhiều cá nhân và tổ chức tiến hành nghiên cứu dưới hình thức sách, đề tài khoa học, luận án, báo cáo nghiên cứu chuyên đề, các bài báo, tạp chí khoa học. Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể kể như sau: - TS. Ngô Đức Mạnh, “Suy nghĩ về việc đổi mới tổ chức các Ủy ban của Quốc hội”, Hiến kế lập pháp, số 5/2006.
  • 11. 3 - Nghiên cứu sinh Trần Hồng Nguyên, “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (2007), Luận án tiến sĩ luật học bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - GS.TS Trần Ngọc Đường “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp”, Nghiên cứu lập pháp, số 113, tháng 1/2008. - GS.TS Trần Ngọc Đường, Phát huy vai trò của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, Bài viết tại Hội thảo “Hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Viện nghiên cứu lập pháp, 8/2010. - Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội, “Xây dựng quy trình làm việc mẫu của các Ủy ban của Quốc hội”, Hà Nội, 2008. - PGS.TS Trương Thị Hồng Hà, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. - TS Hoàng Thị Ngân, Về cách tiếp cận quyền giám sát của Quốc hội của tác giả, bài viết in trong sách: Giám sát và cơ chế thực hiện quyền giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003. - GS.TS Trần Ngọc Đường, Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội, bài viết in trong Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2000 - 2001: Tăng cường giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  • 12. 4 - Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Quốc Thắng, Một vài suy nghĩ về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, bài viết in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học về hoạt động giám sát của Quốc hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 1999. - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2000-2011. - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khoá XII, “Báo cáo kết quả đoàn nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội Đức và Na Uy”, Hà nội, 4/2010. - Đinh Thi Minh Thư, Mở rộng các hình thức liên hệ cử tri, Báo Đại biểu nhân dân, 12/4/2010. - Đoàn Đình Anh, Điều trần ở HĐND tỉnh Hà Tĩnh, Báo Đại biểu nhân dân, 30/7/2010. - Nguyễn Hải Long, Vấn đề pháp lý về điều trần, chất vấn tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam, Trang thông tin điện tử của Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, tại địa chỉ http://ttbd.gov.vn, cập nhật ngày 02/11/2010. - Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh Hiếu, John Patterson, Kit Dawnay, Điều trần tại Ủy ban: Nghiên cứu khả năng áp dụng ở Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường năng lực của các cơ quan đại diện ở Việt Nam”, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2011. - TS Nguyễn Sĩ Dũng, Giải trình hay điều trần? Báo lao động điện tử, tại địa chỉ http://laodong.com.vn, cập nhật 28/01/2013. - TS Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên), Giám sát của Quốc hội dưới góc nhìn tham chiếu, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2004.
  • 13. 5 - TS Ngô Huy Cương, Điều trần ủy ban của Quốc hội và sự cần thiết tiếp nhận chế định này ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 191, tháng 3/2011. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các công trình nghiên cứu nói trên tập trung khảo cứu về hoạt động của cơ quan dân cử, trong đó có đề cập về điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội. Một số ít công trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động điều trần, tuy nhiên các công trình đó mới đề cập đến một số khía cạnh của điều trần như vấn đề pháp lý, kinh nghiệm các nước mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động có tính tương đồng với điều trần (giải trình) ở Việt Nam, kiến nghị các biện pháp áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. Hơn nữa, luận văn được tiến hành trong bối cảnh đã có những văn bản quan trọng liên quan đến hoạt động của ủy ban mới được ban hành như Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội 2014 và có văn bản sắp được ban hành như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Do vậy, việc lựa chọn và góc độ nghiên cứu của đề tài “Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới và việc áp dụng cho HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” là không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Luận văn này được nghiên cứu hướng tới một số mục đích như sau: - Góp phần tiếp tục hoàn thiện những vấn đề lý luận và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam, trong đó có các văn bản quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các văn bản quy định về quy trình, thủ tục hoạt động.
  • 14. 6 - Áp dụng điều trần trong họat động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam nhằm tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Quốc hội nói riêng và hoạt động của Quốc hội nói chung. 3.2. Nhiệm vụ - Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hoạt động điều trần tại các ủy ban của nghị viện, trong đó, làm rõ các khái niệm điều trần, giải trình, chất vấn, điều tra. - Nghiên cứu hoạt động điều trần tại nghị viện một số quốc gia trên thế giới, Trong đó tập trung vào các vấn đề cơ bản như mô hình, tổ chức, thẩm quyền, phạm vi, thủ tục, loại hình, thời hạn,… - Tìm hiểu về sự cần thiết và cách thức áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam trong đó làm rõ cả cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn. - Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội. 4. Đối tượng và phạmvi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề như: + Các lý thuyết về tổ chức và hoạt động của ủy ban nói chung và điều trần nói riêng. + Thực tiễn điều trần ở nghị viện một số nước; + Các quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội. + Thực tiễn các hoạt động có sự tương đồng nhất định với điều trần tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội thời gian qua.
  • 15. 7 - Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động điều trần tại ủy ban nghị viện một số nước trên thế giới tiêu biểu cho các mô hình chính thể đại nghị, tổng thống và lưỡng tính. Luận văn cũng tập trung nghiên cứu những cơ sở pháp lý và thực tiễn hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam trong thời gian gần đây (trước và sau khi ban hành Hiến pháp 2013). Việc áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các ủy ban được nghiên cứu trong cả lĩnh vực lập pháp và giám sát. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung và tổ chức, hoạt động của các cơ quan của Quốc hội nói riêng; lý thuyết về chuyển hóa, du nhập pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp với phương pháp phân tích các tư liệu, tài liệu, báo cáo công tác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn + Về cơ sở lý luận, luận văn tập trung vào khai thác, phân tích khái niệm, bản chất, các thành tố của hoạt động điều trần như chủ thể, đối tượng, mục đích, thủ tục; phân biệt rõ điều trần với điều tra, giải trình, tham vấn, lấy ý kiến... Bên cạnh đó, làm rõ vai trò, lợi ích của điều trần trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung. + Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động điều trần tại Ủy ban của Quốc hội một số nước. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
  • 16. 8 + Phân tích thực trạng hoạt động có sự tương đồng nhất định với điều trần của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội thời gian qua – hoạt động giải trình. Từ đó, đánh giá được những hiệu quả, hạn chế của họat động này trên thực tế. + Lý giải sự cần thiết áp dụng điều trần vào hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam; luận giải cơ sở khoa học, pháp lý, thực tiễn và phạm vi, mức độ của việc áp dụng điều trần vào Quốc hội Việt Nam. + Đề xuất những biện pháp cụ thể về hoàn thiện cơ sở pháp lý cũng như những giải pháp đồng bộ để vận dụng, áp dụng điều trần trở thành phương thức hoạt động mới hiệu quả, thiết thực trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện lý luận về hoạt động của hệ thống ủy ban của Quốc hội nói chung, hoạt động điều trần trong lập pháp và giám sát của các ủy ban của Quốc hội nói riêng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội trên thực tế. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể là: Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của nghị viện một số nước trên thế giới về điều trần. Chương 2: Thực trạng hoạt động có tính tương đồng với điều trần tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. Chương 3: Áp dụng điều trần trong họat động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam hiện nay.
  • 17. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA NGHỊ VIỆN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐIỀU TRẦN 1.1. Những vấn đề lý luận về điều trần tại ủy ban của nghị viện 1.1.1. Khái niệmđiều trần Nghĩa gốc tiếng Anh của điều trần là “nghe” (hearings). Ủy ban của Quốc hội “nghe” tất cả các bên liên quan cung cấp thông tin, lập luận, chứng cứ về một vấn đề trong giám sát, trong lập pháp, để làm sáng tỏ hơn vấn đề đó. Điều trần là trình bày chính thức trước cơ quan đại diện nhà nước để giải thích, biện bạch … về vấn đề nào đó mà mình chịu trách nhiệm [14, tr.10]. Thực tiễn hoạt động của nghị viện ở các nước trên thế giới cho thấy, điều trần là phiên họp của Ủy ban nghị viện (thường là mở công khai) để thu thập thông tin và ý kiến về một dự luật nào đó, hoặc để tiến hành điều tra về một vấn đề thời sự nào đó, hoặc để giám sát, đánh giá hoạt động của Chính phủ hoặc việc thực thi pháp luật. Trong một số trường hợp, điều trần hoàn toàn mang tính chất giải thích, cung cấp những chứng cứ hoặc số liệu về một vấn đề đang diễn ra. Các chuyên gia nghiên cứu đã khái quát thành 4 loại điều trần cơ bản như sau [3. tr.11]: i) Điều trần lập pháp; ii) Điều trần giám sát; iii) Điều trần điều tra; iv) Điều trần thông báo. Khái niệm điều trần có thể được làm rõ hơn thông qua việc so sánh sau đây.
  • 18. 10 Bảng 1.1: So sánh điều trần với điều tra, chất vấn Điều trần Điều tra Chất vấn Lĩnh vực Lập pháp + Giám sát Giám sát Giám sát Tính chất Chủ yếu là xem xét những vấn đề về chính sách. Cũng có khi điều trần về một vấn đề cụ thể Xem xét vụ việc cụ thể Xem xét cả những vấn đề chính sách và những vấn đề cụ thể Mục đích Thu thập thông tin Xem xét tính hợp pháp của các hành vi Làm rõ trách nhiệm của cá nhân có thẩm quyền Chủ thể Tất cả các loại ủy ban Ủy ban Điều tra Ủy ban lâm thời Thanh tra Quốc hội Ban Dân nguyện của Quốc hội Đại biểu Quốc hội Đối tượng tham gia Tất cả các bên có liên quan đến chính sách Chủ thể điều tra, đối tượng bị điều tra và bên cung cấp chứng cứ Đại biểu Quốc hội và các thành viên Chính phủ Hình thức Phiên điều trần (phiên họp của Ủy ban) Xem xét tài liệu, thu thập chứng cứ Gặp nhân chứng Đối chất … Phiên họp toàn thể của Quốc hội Tính công khai Chủ yếu là công khai trong toàn bộ quá trình chuẩn bị và diễn ra phiên điều trần Thông thường chỉ công khai kết quả điều tra Công khai
  • 19. 11 Nội dung Tất cả những vấn đề thuộc nội dung hoạt động của ủy ban Chỉ những vụ việc nhất định trên cơ sở kiến nghị của cử tri hoặc đại biểu Quốc hội Tất cả những vấn đề thuộc thẩm quyền phụ trách của Chính phủ Thủ tục Theo thủ tục một phiên họp ủy ban Thủ tục của một cuộc điều tra (thủ tục tư pháp) Thủ tục chất vấn tại phiên họp toàn thể Hệ quả - Kiến nghị đối với Chính phủ - Đưa vấn đề vào chương trình nghị sự của Quốc hội - Báo cáo Quốc hội Làm rõ trách nhiệm chính trị đối với người bị chất vấn Lợi ích Có tác động và ảnh hưởng rộng tới: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, xã hội, nền dân chủ Thường là tác động hẹp hơn: Giải quyết vụ việc cụ thể Có tác động và ảnh hưởng tới: Quốc hội, Chính phủ, xã hội Ở Việt Nam, thuật ngữ “điều trần” chưa được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật mà thay vào đó là thuật ngữ “giải trình”. Về bản chất, giữa hoạt động “điều trần” tại ủy ban của nghị viện các nước trên thế giới có điểm tương đồng và khác biệt với hoạt động “giải trình” tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam (sẽ được làm rõ trong phần sau của luận văn). Song việc lựa chọn thuật ngữ “giải trình” đã thu hẹp đáng kể đối tượng mà các ủy ban của Quốc hội có thể nghe và cần phải nghe. Chỉ có đại diện Chính phủ, các bộ ngành mới có trách nhiệm phải giải trình trước Quốc hội, ủy ban của Quốc hội. Rất nhiều thành phần khác không có trách nhiệm phải giải trình trước ủy ban nhưng lại rất cần được ủy ban lắng nghe [4].
  • 20. 12 Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, điều trần là một hình thức để các Ủy ban của nghị viện có thể thu thập thông tin (ý kiến, quan điểm, chứng cứ, dữ liệu v.v…) về những vấn đề chính sách từ các cơ quan thuộc Chính phủ, các chuyên gia từ bên ngoài, các tổ chức dân sự, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân công dân nhằm mục đích tăng cường chất lượng của quá trình ra quyết định. 1.1.2 Mục đích, ý nghĩa của điều trần * Về mục đích: Phần lớn nghị viện các nước đều quy định việc điều trần là để thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban, nói cách khác, điều trần được xem là một công cụ để thực hiện các nhiệm vụ mà Ủy ban được giao, không giới hạn đó là nhiệm vụ lập pháp hay giám sát. Ví dụ, Điểm d, Khoản 4, Điều 37 Nội quy Hạ nghị viện Cộng hòa Indonesia quy định các Ủy ban có thể tổ chức các cuộc điều trần công khai để thực hiện các nhiệm vụ của Ủy ban. Điều 76, Điều 77, Nội quy của Hạ nghị viện Nhật Bản ghi nhận một Ủy ban có thể tiến hành hoạt động điều trần công khai để xem xét các giải pháp được chuyển tới Ủy ban mình hoặc để thực hiện các nghiên cứu sơ Bộ theo sáng kiến của mình. * Ý nghĩa của điều trần Có thể thấy rằng, điều trần ở ủy ban nghị viện mang lại nhiều lợi ích khác nhau sau đây: Một là, thu thập thông tin đầy đủ, nhiều chiều (ý kiến, quan điểm, chứng cứ, dữ liệu,…) về những vấn đề chính sách, phục vụ các hoạt động như thẩm tra các dự án luật, giám sát các chính sách và hoạt động của Chính phủ. Vai trò quan trọng nhất của hoạt động điều trần là thu thập thông tin để các nghị sĩ, có cơ sở đánh giá, xem xét các vấn đề được đưa ra thảo luận của Ủy ban, cung cấp những chứng cứ có sức thuyết phục phục vụ cho việc đưa ra
  • 21. 13 các quyết định của Ủy ban. Các thông tin được thu thập tại các phiên điều trần đến từ rất nhiều nguồn đa dạng khác nhau như từ các nhân chứng đến từ các cơ quan Chính phủ, các thành viên Ủy ban, các học giả, các nhóm lợi ích. Qua thông tin thu thập được các nghị sỹ có thể phần nào xác định được liệu Quốc hội nên có những quyết định như thế nào cho phù hợp với những vấn đề đang được đặt ra. Hai là, điều trần là diễn đàn tranh luận công khai. Vì vậy, thông qua các phiên điều trần, các ủy ban giúp xoa dịu, dung hòa, giải tỏa tình trạng căng thẳng trong đời sống chính trị. Hoạt động điều trần có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện cho công dân, các tổ chức trong xã hội vốn lâu nay có nhiều điều bức xúc được lên tiếng. Qua đó, sự căng thẳng trong xã hội chùng xuống bất kể các đạo luật hoặc các vấn đề được Ủy ban xem xét có thể được thông qua hay không. Ba là, điều trần là một hình thức để cơ quan lập pháp thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của hành pháp. Để đánh giá việc chấp hành, thực hiện các kiến nghị giám sát thì trước hết, các Ủy ban – chủ thể tiến hành các hoạt động giám sát đơn lẻ hoặc các cơ quan giúp việc được phân công cần theo dõi sát sao việc triển khai thực hiện các kiến nghị của các đối tượng giám sát. Hoạt động điều trần tại các Ủy ban của nghị viện với tính chất đặc trưng là công khai, minh bạch có ý nghĩa quan trọng, thiết thực là hình thức để cơ quan lập pháp thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành pháp. Bốn là, điều trần tạo diễn đàn cho các thành viên của cơ quan đại diện và cá nhân có thẩm quyền trong Bộ máy hành pháp trao đổi, thảo luận về những vấn đề mà dư luận quan tâm. Việc áp dụng các phiên điều trần tại các Ủy ban giúp cho các thành viên Ủy ban phát huy khả năng chuyên môn của mình; có điều kiện thảo luận, trao đổi, đi sâu vào những vấn đề mà dư luận quan tâm.
  • 22. 14 Năm là, điều trần góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nói riêng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung. Tại phiên điều trần các đại biểu nghe được ý kiến nhiều chiều trong đó có các chuyên gia và các nhóm lợi ích. Chính vì vậy, chức năng đại diện trong trường hợp này cũng được phát huy tối đa bởi nghị sĩ sẽ nghe và hiểu được tác động của chính sách tới các nhóm đối tượng mà họ đại diện. Bên cạnh đó, thông qua điều trần, cơ quan hành pháp có cơ hội tiếp thu thêm các ý kiến của chuyên gia, có thêm nhiều góc nhìn, và từ đó hình thành các giải pháp chính sách phù hợp hơn với cuộc sống. Như vậy, có thể nói rằng, điều trần góp phần thúc đẩy sự tương tác giữa lập pháp và hành pháp trong việc ban hành và thực thi chính sách, điều trần thúc đẩy sự năng động của chính quyền và chính vì vậy cũng tăng cường hiệu quả của bộ máy nhà nước. 1.1.3. Chủ thể của điều trần Chủ thể của điều trần là tất cả các Ủy ban của Quốc hội, bao gồm: - Ủy ban thường trực; - Ủy ban lâm thời; - Ủy ban điều tra; - Ủy ban nghiên cứu. Về sự tham gia của các thành viên Ủy ban, do tính chất thu thập thông tin và không đưa ra các quy định cụ thể của phiên điều trần, nên yêu cầu về số lượng tối thiểu các nghị sỹ có mặt tại phiên điều trần là không khắt khe như các phiên họp chính thức của Ủy ban. Thông thường, quy định ở nghị viện của một số nước yêu cầu khoảng một phần ba số lượng thành viên của Ủy ban phải có mặt tại phiên điều trần, trong khi đó ở một số nghị viện khác chỉ cần vài ba nghị sỹ có mặt. Bên cạnh đó, ở một số nghị viện khác, để giảm tải cho hoạt động của Ủy ban hoặc do quy mô của Ủy ban quá lớn, các hoạt động điều trần có thể được tiến hành bởi các tiểu ban của Ủy ban.
  • 23. 15 1.1.4. Đối tượng đượcmời thamgia điều trần Đối tượng được các ủy ban xác định lắng nghe phụ thuộc vào các nội dung của cuộc điều trần. Nhìn chung, ở các nước có ghi nhận hoạt động điều trần của ủy ban thì đối tượng được lắng nghe chủ yếu là những người có quyền, lợi ích liên quan đến nội dung của dự thảo luật hoặc vấn đề đang được ủy ban xem xét, hoặc những người có kiến thức chuyên môn sâu về vấn đề đó. Những đối tượng được tham gia phát biểu ý kiến tại các phiên điều trần có thể là các Bộ trưởng, các công chức, các chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan, đại diện của các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị nghiên cứu khoa học, đại diện cộng đồng dân cư hoặc người dân. Chẳng hạn ở Mỹ, những người được mời tham dự các phiên điều trần có thể là những người vận động hành lang, các chuyên gia, người của Lầu Năm Góc, người của Phố Wall, luật sư, thẩm phán,… Tất cả đều muốn lên tiếng tại “cơ quan lập pháp nhỏ” này, nơi mà những báo cáo Ủy ban có thể có tiếng nói quyết định lên tiến trình biểu quyết ở phiên họp toàn thể. Nghị viện ở các nước khác nhau có thể lựa chọn những người được mời tham dự phiên họp điều trần theo các phương thức khác nhau. Một số nghị viện chọn những người đã có kiến nghị gửi đến trước cho nghị viện được tham dự và phát biểu tại các phiên điều trần (như ở Malaysia), trong khi một số nghị viện sử dụng cách thức thông báo và lựa chọn những người dân có quan tâm và đã đăng ký tham dự (như ở Philippines). 1.1.5. Nội dung của điều trần Các nội dung được tiến hành điều trần rất phong phú, đa dạng và thường liên quan trực tiếp đến các nội dung công việc mà các ủy ban được giao thực hiện và bắt buộc trong một số trường hợp: - Liên quan đến ngân sách hoặc có tác động làm giảm nguồn thu ngân sách;
  • 24. 16 - Khi đã nhận được các kiến nghị của cử tri. Thông thường trước khi diễn ra phiên điều trần, Ủy ban cần phải quyết định có cần đưa một vấn đề ra tiến hành điều trần hay không. Các Ủy ban phải quyết định xem họ cần thông tin gì và các vấn đề cần trao đổi, sau đó xem xét liệu điều trần có phải là phương thức tốt nhất để đạt được các mục đích đó hay không. Hiện nay, ở một số nước, điều trần là một khâu không thể thiếu trong quy trình lập pháp. Chẳng hạn, trong những năm gần đây, rất hiếm khi các ủy ban của Quốc hội Mỹ trình báo cáo ra phiên họp toàn thể về các dự luật quan trọng mà không tổ chức các phiên điều trần về dự án luật đó. Thậm chí, nếu một dự luật không được xếp vào lịch điều trần thì coi như dự luật đó đã “chết”. 1.1.6. Thời điểmtổ chức và tính công khai của điều trần Thông thường các phiên điều trần có thể tổ chức bất kỳ lúc nào, trừ khi có những hoạt động khác của nghị viện, ví dụ khi sắp xếp thời điểm tiến hành điều trần, các Ủy ban thường phải tính toán để không bị trùng với các hoạt động khác của Ủy ban, của Ủy ban khác và của cá nhân nghị sỹ để các nghị sỹ có thể tham gia một cách thuận lợi nhất. Các Ủy ban thường phải thông báo muộn nhất là một tuần trước khi tiến hành phiên điều trần về: + Địa điểm; + Thời gian; + Các vấn đề sẽ đưa ra điều trần; + Thành phần tham dự. Những thông tin trên cần phải được công bố công khai. Ngoài ra các Ủy ban còn phảigửiđếncácnghịsỹvànhữngngườithamdự cáctàiliệu cần thiếtnhư:
  • 25. 17 + Giấy mời; + Tóm tắt các vấn đề đưa ra điều trần; + Danh sách các nhân chứng… 1.1.7. Thủ tục điều trần Phiên họp điều trần của các Ủy ban thường được tiến hành với các thủ tục tương tự phiên họp chính thức của Ủy ban. Tuy nhiên, do tính chất của phiên họp điều trần chủ yếu là để thu thập thông tin nên thủ tục tiến hành phiên họp cũng được thực hiện một cách linh hoạt và đơn giản hơn. Cụ thể tại phiên họp này, nhiệm vụ cơ bản của các thành viên Ủy ban là lắng nghe ý kiến của các nhân chứng được mời tham gia phiên điều trần. Các thành viên của Ủy ban có thể đặt các câu hỏi để làm rõ về các vấn đề liên quan, thông thường, việc lựa chọn các nhân chứng tham gia phát biểu tại phiên điều trần phải đảm bảo sự cân bằng về số lượng các ý kiến phản đối hoặc ủng hộ về các vấn đề được thảo luận. Quy trình tiến hành điều trần thường gồm các bước sau: - Soạn thảo Đề cương tham chiếu; - Mời công chúng gửi ý kiến bằng văn bản; - Tìm kiếm hỗ trợ từ chuyên gia độc lập; - Nghe các đại biểu tham dự phiên điều trần trình bày (thường kéo dài nhiều giờ đồng hồ của một phiên hoặc nhiều phiên); - Công bố biên bản về nội dung phiên điều trần; - Soạn thảo báo cáo về điều trần; - Công bố báo cáo và đưa báo cáo vào chương trình nghị sự; - Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị trong báo cáo.
  • 26. 18 1.1.8. Kếtquả của hoạt động điều trần Ủy ban không ra quyết định thông qua biểu quyết khi tiến hành điều trần như tại các phiên họp toàn thể của Ủy ban. Hệ quả pháp lý của điều trần không “nặng nề”, bởi từ những tranh luận công khai, ý tưởng lập pháp hoặc các giải pháp quản lý, điều hành của Chính phủ, các Bộ sẽ dần được hoàn thiện, và hệ quả sẽ là một phương án mới được lựa chọn cho tương lai. Các thông tin thu nhận được trong các cuộc điều trần sẽ phục vụ cho các hoạt động của ủy ban. Chẳng hạn, các thông tin điều trần đối với các bên liên quan trong một dự án luật sẽ được ủy ban sử dụng trong việc thẩm tra dự án luật đó. Vì vậy, có thể nói kết quả của các cuộc điều trần thường được sử dụng trong các báo cáo chính thức của ủy ban trước nghị viện về những vấn đề mà mình được giao xem xét. Tuy nhiên, cũng có nghị viện yêu cầu kết quả điều trần của các ủy ban phải được báo cáo tới chủ tịch của viện. Để phục vụ cho mục đích trên, nội dung của các phiên điều trần thường được ghi thành biên bản. Thông thường biên bản của phiên điều trần cũng được công bố để người dân có thể tiếp cận. Biên bản của các phiên điều trần của Thượng viện và Hạ viện Nhật Bản đều được công bố trên trang web tương ứng của từng viện [14, tr.34]. 1.1.9. Khuôn khổ pháp lý vềđiều trần Ở các nước khác nhau, khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung và khuôn khổ pháp lý về hoạt động điều trần của ủy ban nói riêng là rất phong phú và khác nhau. Nghị viện nhiều nước quy định cụ thể về điều trần trong Luật nghị viện (hay còn gọi là Nội quy nghị viện). Ví dụ, Nội quy của Thượng nghị viện Nhật Bản dành riêng một mục (Mục 2, Chương VII) để quy định về hoạt động
  • 27. 19 điều trần [52]; Nội quy của Hạ nghị viện Philippines quy định ở Mục 38, Chương IX [53]… Tuy nhiên, cũng có nước quy định về điều trần trong văn bản pháp lý khác. Ví dụ, điều trần được áp dụng chính thức ở Ba Lan từ năm 2006 khi Luật về các hoạt động vận động hành lang trong quá trình lập pháp (2005) có hiệu lực đã quy định về hình thức này. 1.2. Thực tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới 1.2.1. Nghịviện NhậtBản Mục đích của điều trần Theo quy định của Nội quy Hạ nghị viện Nhật Bản, một Ủy ban có thể tiến hành hoạt động điều trần công khai để xem xét các giải pháp được chuyển tới Ủy ban mình, hoặc để thực hiện các nghiên cứu sơ bộ theo sáng kiến của mình. Điều trần được xem là một công cụ hữu hiệu để các Ủy ban thực hiện công việc. Một Ủy ban, không kể là Ủy ban thường trực hay Ủy ban lâm thời, đều có thể tổ chức các cuộc điều trần công khai. Ngoài ra, kể cả những Ủy ban đặc biệt như Ủy ban nghiên cứu ở Thượng nghị viện Nhật Bản cũng có thể sử dụng công cụ này để thực hiện công việc của mình, mặc dù công việc chủ yếu của Ủy ban là nghiên cứu. Điều đó cho thấy rõ điều trần không phải là công cụ dành riêng cho hoạt động giám sát hay lập pháp của Ủy ban, mà là công cụ phục vụ chung cho hoạt động của Ủy ban khi Ủy ban cần các kiến thức chuyên sâu hoặc ý kiến của các đối tượng có liên quan. Những nội dung phải tiến hành điều trần Tại Hạ nghị viện và Thượng nghị viện Nhật Bản, cuộc điều trần chỉ có thể được tiến hành khi được Chủ tịch của Viện đó đồng ý và điều trần công
  • 28. 20 khai là nội dung bắt buộc đối với các Ủy ban khi xem xét, thông qua ngân sách nhà nước hoặc các dự án luật quan trọng có liên quan đến nguồn thu. Thông thường, phiên điều trần luôn mặc nhiên được xem là tổ chức công khai trừ khi Ủy ban có quyết định khác. Tính công khai của phiên điều trần được xuất phát từ việc bảo đảm mục tiêu của phiên điều trần là lắng nghe được ý kiến của công chúng về những vấn đề quan trọng của quốc gia. Nhật Bản yêu cầu các phiên điều trần, cũng như các phiên họp của Ủy ban, phải được tiến hành trong toà nhà của nghị viện. Thủ tục tiến hành điều trần Phiên họp điều trần ở nghị viện Nhật Bản được tiến hành với thủ tục đơn giản hơn so với phiên họp của Ủy ban, vì mục tiêu của phiên điều trần là để các thành viên của Ủy ban tìm hiểu thông tin từ những người được mời đến phát biểu là chủ yếu, mà không phải là để ra quyết định. Điều này được thể hiện rõ qua Nội quy Thượng nghị viện Nhật Bản khẳng định trong phiên điều trần Ủy ban không tiến hành thảo luận. Những người được phát biểu là những người được Ủy ban chủ động lựa chọn theo nguyên tắc số người phản đối và ủng hộ đối với nội dung chính sách được điều trần là ngang nhau. Do đó, tại phiên điều trần, chủ toạ phiên họp phải đảm bảo những ý kiến phản đối và những ý kiến ủng hộ lần lượt được phát biểu thay phiên nhau. Nội quy của cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Nhật Bản đều quy định rằng tại phiên điều trần, chỉ có các thành viên của Ủy ban mới được quyền đặt câu hỏi đối với những người được mời đến phát biểu, còn những người được mời, không được đặt câu hỏi đối với các nghị sĩ. Bên cạnh đó, khi những người phát biểu đi quá xa chủ đề được điều trần, hoặc có những lời lẽ
  • 29. 21 và hành vi không phù hợp, thì chủ toạ của phiên điều trần có thể dừng bài phát biểu và mời người đó ra khỏi phòng họp. Kết quả của điều trần Xuất phát từ mục đích của điều trần như đã đề cập ở trên, các thông tin thu nhận được trong các cuộc điều trần sẽ phục vụ cho các hoạt động của Ủy ban. Trong trường hợp phiên điều trần được tổ chức công khai, thông thường biên bản của phiên điều trần cũng được công bố trên trang web tương ứng của từng viện để người dân có thể tiếp cận. Thực tiễn áp dụng điều trần Việc yêu cầu bắt buộc phải tiến hành điều trần khi xem xét dự án ngân sách hàng năm và các dự án luật có tác động làm tăng khoản chi đã làm cho hoạt động điều trần trở nên là một hoạt động thường xuyên ở các Ủy ban. Vướng mắc trong quá trình thực hiện điều trần Vướng mắc mà nghị viện Nhật Bản gặp phải là hiện tượng không có nhiều người sẵn sàng tham gia các phiên điều trần của Ủy ban. Sự bất hợp tác của các đối tượng nắm giữ thông tin là một hạn chế phổ biến. Nhưng sự can thiệp quá sâu của Ủy ban nghị viện trong quá trình thực hiện các hoạt động điều trần, điều tra cũng không phải là điều được hoan nghênh. Ở Nhật Bản, việc các Ủy ban trong quá trình tiến hành điều trần và điều tra can thiệp quá sâu vào các hoạt động của cơ quan tư pháp đã bị đánh giá là vi phạm nguyên tắc phân chia quyền lực. Ủy ban Tư pháp của Thượng viện nước này trong quá trình nghiên cứu về hoạt động của công tố và toà án đã tiến hành xem xét một vụ án và đi đến nhận định rằng bản án được tuyên ở vụ án đó là không hợp lý. Điều này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ phía Toà án Tối cao. Theo đó, Toà án Tối cao Nhật Bản đã nhận định rằng hoạt động của Ủy ban
  • 30. 22 Tư pháp đã “vi phạm tính độc lập của cơ quan tư pháp và thực sự đã đi ra ngoài phạm vi được phép trong hoạt động điều tra được Hiến pháp giao cho Nghị viện”. Do hoạt động điều trần của Ủy ban có ảnh hưởng lớn đến quyết định của Ủy ban, nên bản thân nội bộ của Ủy ban cũng thường bị chia rẽ khi đưa ra các quyết định liên quan đến việc hoạt động điều trần. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động điều trần của Ủy ban. Ở Hạ nghị viện Nhật Bản, đảng cầm quyền và đảng đối lập trong các Ủy ban thường khó nhất trí với nhau trong việc xác định thời gian tiến hành các cuộc điều trần công khai đối với những nội dung bắt buộc phải hoạt động điều trần, như khi xem xét về dự án ngân sách hoặc các dự án có ảnh hưởng đến nguồn thu. Tương tự, các bên cũng khó đi đến thống nhất trong việc có nên tổ chức phiên họp điều trần hay không khi xem xét một dự án luật. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đây là một khó khăn chung đối với mọi hoạt động của Ủy ban không chỉ đối với hoạt động điều trần. Khó khăn này có thể được giải quyết nếu phe đa số trong nghị viện cũng nắm đa số trong Ủy ban và có thể ảnh hưởng đến các quyết định của Ủy ban qua các cuộc bỏ phiếu. 1.2.2. Nghịviện Hoa Kỳ Tổng quan Chính phủ Hoa Kỳ là một Chính phủ liên bang có hệ thống tam quyền phân lập giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp trong Nhà nước. Quốc hội Mỹ bao gồm Thượng viện (100 ghế) và Hạ viện (435 ghế), là cơ quan lập pháp lưỡng viện của chính quyền liên bang. Các quyền lực lập pháp được giao cho Quốc hội theo Hiến pháp Mỹ. Để một dự luật trở thành luật, Hiến pháp Hoa Kỳ quy định dự thảo phải nhận được sự đồng ý của cả hai Viện trước khi Tổng thống ký công bố luật.
  • 31. 23 Các Ủy ban và hoạt động thu thập thông tin Điều trần đã được áp dụng ở Quốc hội Hoa Kỳ kể từ khi Quốc hội bắt đầu tồn tại và là một phần không thể thiếu khi Quốc hội thực hiện các hoạt động của mình trong việc giám sát thực hiện chính sách công và cung cấp thông tin phục vụ quá trình làm luật của Quốc hội. Có hơn 100 Ủy ban và tiểu ban hoạt động trong Quốc hội Hoa Kỳ nhằm xem xét các dự thảo luật, đánh giá các vấn đề chính sách, thực hiện các giám sát chuyên môn của nhánh hành pháp, và báo cáo lên Thượng viện và Hạ viện. Tất cả các Ủy ban đều có quyền hoạt động điều trần, điều tra, triệu tập các nhân chứng, tài liệu và công khai các cuộc điều trần. Điều trần tại Ủy ban của cả hai viện phải được tổ chức công khai, trừ khi có đa số tán thành bỏ phiếu yêu cầu hoạt động điều trần kín theo những lý do được luật lệ của Nghị viện quy định. Chủ nhiệm các Ủy ban có thẩm quyền quyết định việc tiến hành điều trần, cũng như có quyền ra điều kiện cho việc lựa chọn nhân chứng và hình thức điều trần, mặc dù những cải cách gần đây đã giảm bớt các ảnh hưởng đó. Luật thủ tục của cả hai viện khuyến khích việc gửi các bằng chứng bằng văn bản cho Ủy ban trước khi phiên điều trần diễn ra để cuộc điều trần trở thành một cuộc “hỏi đáp” có đủ thông tin. Nhiều nhà bình luận chỉ ra rằng quyền lực của các Ủy ban trong lĩnh vực chuyên môn của họ tương đương với quyền lực của Thượng viện và Hạ viện nói chung. 1.2.3. Nghịviện Ba Lan Tổng quan Theo Hiến pháp năm 1997 hiện hành, Ba Lan là một nước dân chủ tam quyền phân lập với 3 nhánh quyền lực độc lập là lập pháp, tư pháp và hành pháp. Quốc hội lưỡng viện bao gồm Thượng viện (100 ghế) và Sejm, hay Hạ
  • 32. 24 viện (460 ghế). Các dự án luật có thể được các thượng nghị sĩ, Tổng thống và Chính phủ trình ra trước Hạ viện. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước, đảm bảo thực thi hiến pháp và đứng đầu nhánh tư pháp bên cạnh các nhiệm vụ cụ thể khác. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ và chịu trách nhiệm về các công việc quản trị quốc gia hàng ngày. Thủ tướng và nội các phải được sự tín nhiệm của Hạ viện để tiếp tục nắm quyền. Các ủy ban và hoạt động thu thập thông tin Hiện tại, Hạ nghị viện của Ba Lan có 25 ủy ban phụ trách các lĩnh vực tương ứng với các chức năng chính của Chính phủ. Các ủy ban tiến hành thu thập thông tin để thẩm tra các dự án luật và giám sát các hoạt động của chính phủ. Đối với việc xem xét các dự án luật, các ủy ban Hạ viện áp dụng 2 hình thức thu thập thông tin cơ bản như sau: Thứ nhất, yêu cầu các cơ quan của Chính phủ cung cấp thông tin. Hình thức này được thực hiện rất có hiệu quả. Các ủy ban có thể yêu cầu các Bộ trưởng, các quan chức và người đứng đầu các cơ quan nhà nước phải báo cáo với các ủy ban về những vấn đề cụ thể theo yêu cầu. Chủ nhiệm các ủy ban có thể mời các bên khác cung cấp thông tin khi cần. Thứ hai, tiến hành điều trần. Đây là hình thức mới được áp dụng chính thức ở Ba Lan từ năm 2006 khi Luật về các hoạt động vận động hành lang trong quá trình lập pháp (2005) có hiệu lực. Luật này xuất phát từ kiến nghị của một nhóm các tổ chức phi chính phủ và được xem như là một kết quả của việc Ba Lan gia nhập Liên minh Châu Âu. Mục đích của Luật này là nhằm nâng cao sự minh bạch trong quá trình lập pháp lên một tầm mới. Thủ tục điều trần đối với một dự luật có thể do một thành viên Hạ viện đề xuất và sau đó phải được thông qua bằng nghị quyết của ủy ban liên quan. Điều trần diễn ra tại một phiên họp ủy ban sau khi dự luật được giới thiệu
  • 33. 25 chính thức (lần đọc đầu tiên) và quan trọng là phải diễn ra trước khi xem xét cụ thể từng điều khoản trong dự luật. Bất cứ bên nào quan tâm đều có thể tham dự điều trần mà không cần giấy mời từ ủy ban. Các cuộc điều trần phải được công khai trên hệ thống thông tin của Hạ viện 14 ngày trước ngày diễn ra điều trần. Các ủy ban có thể thay đổi ngày hoặc hủy bỏ cuộc điều trần vì các lý do rất thực tế, ví dụ, do không đủ thời gian. Cho đến nay, vẫn chưa có một cẩm nang hay tài liệu nào về cách thức tổ chức điều trần và thu thập thông tin tại Hạ viện. Việc tiến hành các thủ tục điều trần thu hút được sự quan tâm của nhiều bên do cơ hội tác động vào chính sách của các dự án luật mà điều trần có thể đưa lại. Chẳng hạn, hình thức điều trần cho phép các nhà vận động hành lang chuyên nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình lập pháp. Hiện tại, 22 trong số 155 nhà vận động hành lang chuyên nghiệp đăng ký với Bộ Nội vụ và Quản trị có các hoạt động liên quan đến các hoạt động tại Hạ viện. Trong năm 2009, các nhà vận động hành lang đã tham dự 49 cuộc họp tại Hạ viện, trong đó có 3 cuộc là điều trần. Bài học kinh nghiệm và các khó khăn thực tế Kể từ khi mở rộng phạm vi hoạt động điều trần vào năm 2006, do có sự nhất trí cao ở Quốc hội nên không xảy ra vấn đề gì về mặt khái niệm. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định mới có một số vấn đề nhỏ. Thứ nhất, các thông báo về điều trần trên website của Hạ viện tỏ ra không hiệu quả do số lượt truy cập ít. Thứ hai, có một số vấn đề liên quan đến xuất bản các tài liệu ghi lại các cuộc điều trần. 1.2.4. Nghịviện New Zealand Tổng quan: New Zealand là một nước dân chủ theo chế độ quân chủ lập hiến. Nữ hoàng Elizabeth II là người đứng đầu Nhà nước. Đại diện cho Nữ Hoàng tại
  • 34. 26 New Zealand được gọi là Toàn quyền. Mô hình nhà nước New Zealand là mô hình đại nghị với ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập. Người đứng đầu Đảng cầm quyền sau cuộc tổng tuyển cử có quyền thành lập Chính phủ và thường giữ vị trí Thủ tướng. Nghị viện chỉ có một viện với 122 ghế. Các ủy ban và hoạt động thu thập thông tin Tổ chức và hoạt động của nghị viện New Zealand dựa nhiều vào kinh nghiệm của Nghị viện Anh. Các ủy ban của nghị viện New Zealand phát triển dần dần từ phiên họp Nghị viện đầu tiên vào năm 1854 khi mà hoạt động thu thập thông tin chuyển từ phiên họp toàn thể của Nghị viện trực tiếp sang các ủy ban. Năm 1985, các ủy ban được trao quyền thu thập thông tin theo đó các ủy ban có quyền tìm hiểu các thông tin về các vấn đề chính sách, quản lý hành chính và chi tiêu của các cơ quan của Chính phủ cũng như các cơ quan công không thuộc Chính phủ. Hiện tại, Nghị viện New Zealand có 13 ủy ban và điều trần tại ủy ban là một phần quan trọng trong các hoạt động của Nghị viện. Quy chế hoạt động cho phép các ủy ban khởi xướng tổ chức các phiên điều trần về những nội dung thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách, đồng thời cũng quy định cách thức các ủy ban thu thập bằng chứng và tiến hành điều trần. Thông thường, các ủy ban quyết định nội dung các công việc mà mình cần tiến hành điều trần. Tuy nhiên trong một số trường hợp, Nghị viện yêu cầu các ủy ban chuyên môn thường trực hoặc các ủy ban lâm thời tiến hành tìm hiểu và báo cáo về một vấn đề cụ thể. Quá trình tiến hành các phiên họp điều trần để thu thập thông tin tại ủy ban được quy định trong cẩm nang quy trình thủ tục và bao gồm các bước sau: - Xây dựng điều khoản tham chiếu;
  • 35. 27 - Thu thập chứng cứ; - Hỗ trợ từ các chuyên gia độc lập nếu cần thiết; - Thông thường chứng cứ được nghe một cách công khai; - Chuyên viên giúp việc của ủy ban xây dựng dự thảo báo cáo trình ủy ban xem xét, thường bao gồm cả các đề xuất đối với Chính phủ ; - Ủy ban xem xét dự thảo báo cáo và sửa đổi nếu cần thiết; - Ủy ban thông qua báo cáo cuối cùng sau khi thảo luận và trình chính thức tới Nghị viện; - In ấn và phát hành báo cáo; - Chính phủ phải gửi văn bản phản hồi với báo cáo trong vòng 90 ngày tới Nghị viện và văn bản này sẽ được công bố; - Báo cáo này sẽ được đưa vào Nghị trình để có thể được đưa ra thảo luận, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra. 1.3. Một số đánh giá về điều trần tại ủy ban của nghị viện các nước và bài học kinh nghiệm cho Quốc hội Việt Nam 1.3.1. Một số đánhgiávề áp dụng điều trần tại ủy ban của nghị các nước Hoạt động điều trần của ủy ban các nước được khảo sát thường xuất hiện cùng với quá trình hình thành nghị viện ở các nước đó, đặc biệt là ở những nước mà việc hình thành nghị viện là kết quả của quá trình học tập mô hình chính thể của quốc gia đô hộ trong thời kỳ thuộc địa. Ví dụ như ở Singapore, cùng với việc học tập mô hình của nghị viện Anh, nghị viện Singapore ngay từ khi thành lập có hệ thống ủy ban cũng như hoạt động điều trần gần tương tự như ở Anh. Tuy nhiên, cũng có những nước hoạt động điều trần được hình thành sau một thời gian dài nghị viện tồn tại. Ở Hàn Quốc,
  • 36. 28 mặc dù Nghị viện được thành lập từ những năm 1948 nhưng mãi đến năm 1988 hoạt động điều trần tại các ủy ban mới chính thức được đưa vào Luật Quốc hội Hàn Quốc. Cho đến ngày nay hoạt động điều trần đã trở nên phổ biến ở hầu hết nghị viện các nước. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, việc yêu cầu bắt buộc phải tiến hành điều trần khi xem xét dự án ngân sách hàng năm và các dự án luật có tác động làm tăng khoản chi đã làm cho hoạt động điều trần trở nên là một hoạt động thường xuyên ở các ủy ban. Bảng 1.2: Tính phổ biến của hoạt động điều trần ở các nước[14, tr. 35] Stt Quốc gia Phổ biến trong hoạt động của ủy ban Có Không 1 Thượng viện Nhật Bản  2 Hạ viện Nhật Bản  3 Thượng viện Philippines  4 Hạ viện Thái Lan  5 Hàn Quốc  6 Singapore  Mặc dù điều trần là hoạt động thường xuyên ở hầu hết các nghị viện được khảo sát nhưng thông tin cũng cho thấy việc triển khai hoạt động này trên thực tế vẫn còn những vướng mắc nhất định.
  • 37. 29 Vướng mắc mà nghị viện nhiều nước gặp phải là hiện tượng không có nhiều người sẵn sàng tham gia các phiên điều trần của ủy ban. Điều này là khá phổ biến ở những nước đang phát triển trong khu vực như Philippines và Thái Lan. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng thái độ bất hợp tác đó có thể chỉ có ở một số lượng hạn chế các đối tượng có liên quan đến các phiên điều trần của ủy ban. Đối với đa số những người chịu sự tác động hoặc có lợi ích liên quan đến các dự án luật hoặc các vấn đề đang được ủy ban xem xét, thì việc được thể hiện ý kiến để bảo vệ lợi ích của mình trước ủy ban là hết sức được đón đợi. Để giải quyết các vấn đề trên, nghị viện các nước thường áp dụng biện pháp cho phép nghị viện được quyền ra lệnh triệu tập bắt buộc những người nắm giữ thông tin đến tham dự phiên điều trần và yêu cầu họ phải cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết phục vụ cho công việc của ủy ban của nghị viện. Tuy nhiên, điều này trong nhiều trường hợp có thể gây ra sự căng thẳng giữa các cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nước với các ủy ban của nghị viện. Ở đây, một ưu điểm cần nhấn mạnh của hoạt động điều trần là tính công khai. Cho dù có thể không đạt được mục đích là nhận được thông tin từ phía những đối tượng được yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng qua việc công khai hoạt động điều trần của mình, các ủy ban của nghị viện đã cho công chúng thấy được sự nỗ lực của mình. Qua đó, công chúng sẽ tạo nên những áp lực nhất định đối với các đối tượng đã từ chối cung cấp thông tin phục vụ cho các hoạt động của ủy ban nghị viện. Ngoài ra, do hoạt động điều trần của ủy ban có ảnh hưởng lớn đến quyết định của ủy ban nên ở một số nghị viện, bản thân nội bộ của ủy ban cũng thường bị chia rẽ khi đưa ra các quyết định liên quan đến việc tổ chức điều trần. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động điều trần
  • 38. 30 của ủy ban. Chẳng hạn như ở Hạ nghị viện Nhật Bản, đảng cầm quyền và đảng đối lập trong các ủy ban thường khó nhất trí với nhau trong việc xác định thời gian tiến hành các cuộc điều trần công khai đối với những nội dung bắt buộc phải tổ chức điều trần như khi xem xét về dự án ngân sách hoặc các dự án có ảnh hưởng đến nguồn thu. Tương tự, các bên cũng khó đi đến thống nhất trong việc có nên tổ chức phiên họp điều trần hay không khi xem xét một dự án luật. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đây là một khó khăn chung đối với mọi hoạt động của ủy ban không chỉ đối với hoạt động điều trần. Khó khăn này có thể được giải quyết nếu phe đa số trong nghị viện cũng nắm đa số trong ủy ban và có thể ảnh hưởng đến các quyết định của ủy ban qua các cuộc bỏ phiếu. 1.3.2. Những bài học kinh nghiệmcho Quốchội ViệtNam Qua nghiên cứu kinh nghiệm của nghị viện một số nước về hoạt động điều trần tại các ủy ban, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây cho Quốc hội Việt Nam: Thứ nhất, đối tượng chủ yếu của điều trần không hạn chế là các công chức trong bộ máy nhà nước mà còn bao gồm những tổ chức, cá nhân có quyền lợi liên quan và các chuyên gia về các lĩnh vực thuộc phạm vi nội dung điều trần. Thứ hai, với mục đích thu thập thông tin phục vụ quá trình ban hành quyết định, điều trần tại ủy ban được áp dụng đối với cả hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát, không nên quan niệm điều trần chỉ là công cụ giám sát của ủy ban nghị viện. Thứ ba, hoạt động điều trần thường không quá nghiêm ngặt như thủ tục tiến hành các phiên họp của ủy ban bởi mục đích của hoạt động điều trần là để lắng nghe hơn là để ra các quyết định. Trong quá trình tiến hành phiên họp,
  • 39. 31 thủ tục của hoạt động điều trần cũng được thiết kế để tạo cơ hội tối đa cho các thành viên của ủy ban có thể lắng nghe được các ý kiến của các bên liên quan. Thứ tư, để điều trần được thực thi hữu hiệu trên thực tế, cần xây dựng một khung pháp luật đầy đủ cho hoạt động này. Có những nghị viện còn xây dựng những bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo các ủy ban của nghị viện và các nghị sĩ có thể tham gia hoạt động điều trần một cách có hiệu quả. Thứ năm, qua quá trình áp dụng thủ tục điều trần, nghị viện các nước đã nhận định, điều trần là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên từ nhu cầu của các nghị sĩ, trong việc tìm kiếm các thông tin một cách đầy đủ và hữu hiệu để phục vụ cho việc ra các quyết định của mình. Mặc dù điều trần có thể phần nào làm chậm tiến trình làm việc của nghị viện, nhưng điều trần là hoạt động cần thiết trong một xã hội dân chủ, nhằm tăng cường sự tham gia của người dân vào các quyết định của nhà nước. Thứ sáu, điểm đáng chú ý trong hoạt động điều trần là việc tăng cường mối liên hệ giữa công chúng và những người đại diện cho họ ở tầm quốc gia, vì vậy, việc công khai hóa điều trần là rất quan trọng. Các thông tin về nội dung, thời gian, địa điểm tiến hành điều trần thường được công bố trước một cách rộng rãi cho công chúng để huy động sự tham gia của những đối tượng liên quan vào phiên điều trần. Thứ bảy, bất cứ một hình thức điều trần nghiêm túc nào cũng cần có một hệ thống ghi biên bản tốt và phải có thủ tục để xác nhận tính hợp lệ của các tài liệu ghi âm các bên cung cấp thông tin, bằng chứng và các bên tiếp nhận. Thứ tám, cần sử dụng công cụ điều trần một cách phù hợp và chặt chẽ để vừa phát huy tác dụng với xã hội vừa chống lại việc “ngăn cản những nhóm lợi ích khác bày tỏ ý kiến với các ủy ban của Quốc hội”.
  • 40. 32 Kết luận Chương 1 Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận của hoạt động điều trần và thực tiễn hoạt động điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước trên thế giới, chúng ta có thể thấy rằng, điều trần là một hình thức hoạt động, một công cụ hữu hiệu của các ủy ban của nghị viện. Mục đích cơ bản của hoạt động điều trần là nhằm tạo điều kiện để các ủy ban của nghị viện có thêm thông tin, lý lẽ đa chiều phục vụ cho việc đưa ra các quyết định của mình. Điều đó có nghĩa là nội dung điều trần thường phải gắn kết với các nhiệm vụ, hoạt động của ủy ban, không thể có các hoạt động điều trần không phục vụ việc xem xét một nội dung nào đó mà ủy ban đang được giao thực hiện. Đồng thời, điều trần không phải là hoạt động soi xét, tìm kiếm sai sót, quy trách nhiệm của một chủ thể nào đó. Những đối tượng được tham gia phát biểu ý kiến tại các phiên điều trần có thể là các Bộ trưởng, các công chức, các chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan, đại diện của các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị nghiên cứu khoa học, các hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân công dân. Phiên điều trần của các ủy ban thường được tiến hành với các thủ tục tương tự như các phiên họp chính thức của ủy ban. Tuy nhiên, do tính chất của phiên họp điều trần chủ yếu là để thu thập thông tin nên thủ tục tiến hành phiên họp cũng được thực hiện một cách linh hoạt và đơn giản hơn. Cụ thể tại phiên họp này, nhiệm vụ cơ bản của các thành viên ủy ban là lắng nghe quan điểm của các nhân chứng được mời tham gia phiên điều trần. Các thành viên của ủy ban có thể đặt các câu hỏi để làm rõ về các vấn đề liên quan, thông thường, việc lựa chọn các nhân chứng tham gia phát biểu tại phiên điều trần phải đảm bảo sự cân bằng về số lượng các ý kiến phản đối hoặc ủng hộ về các vấn đề được thảo luận. Kết quả các phiên điều trần thường được sử dụng để xây dựng báo cáo của ủy ban về cuộc điều trần trong đó có các đề xuất kiến nghị với Chính phủ.
  • 41. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÓ TÍNH TƯƠNG ĐỒNG VỚI ĐIỀU TRẦN TẠI HĐDT VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM 2.1. Giải trình: hoạt động có tính tương đồng với điều trần Như đã trình bày tại Chương 1, điều trần là một hình thức để ủy ban thu thập thông tin, chứng cứ từ các nhóm đối tượng có liên quan để phục vụ việc ban hành quyết định. Đối chiếu với quy định pháp luật và thực tế triển khai các hình thức hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể thấy một số hình thức hoạt động có thể có tính chất tương đồng với điều trần như: giải trình, điều tra, lấy ý kiến, yêu cầu báo cáo và cung cấp tài liệu. Bảng 2.1: So sánh điều trần với giải trình, yêu cầu báo cáo, hội nghị lấy ý kiến, điều tra Điều trần Giải trình Yêu cầu báo cáo, cung cấp tài liệu Hội nghị lấy ý kiến Điều tra Lĩnh vực Lập pháp + Giám sát Lập pháp + Giám sát nhưng chủ yếu là giám sát Giám sát Lập pháp + giám sát, nhưng chủ yếu là lập pháp Giám sát Tính chất Chủ yếu là xem xét những vấn đề về chính sách; Chủ yếu xem xét những vấn đề chính Chủ yếu là xem xét vụ việc cụ thể Chủ yếu là xem xét những vấn đề về chính Xem xét vụ việc cụ thể
  • 42. 34 Điều trần Giải trình Yêu cầu báo cáo, cung cấp tài liệu Hội nghị lấy ý kiến Điều tra Cũng có khi điều trần về một vấn đề cụ thể nhưng rất ít khi sách. Cũng có khi xem xét vấn đề cụ thể sách Mục đích Thu thập thông tin Thu thập thông tin, làm rõ trách nhiệm Thu thập thông tin, làm rõ trách nhiệm Thu thập thông tin Xem xét tính hợp pháp của các hành vi Chủ thể Tất cả các loại Ủy ban HĐDT, các ủy ban của Quốc hội HĐDT, các ủy ban của Quốc hội HĐDT, các ủy ban của Quốc hội Ủy ban lâm thời Đối tượng tham gia Tất cả các bên có liên quan đến chính sách Tất cả các bên có liên quan đến nội dung giải trình Thành viên Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, cá nhân hữu quan Chuyên gia, đối tượng bị tác động Chủ thể điều tra, đối tượng bị điều tra và bên cung cấp chứng cứ Hình thức Phiên điều trần (phiên họp của ủy ban) Phiên họp tại ủy ban Phiên họp hoặc báo cáo bằng văn bản Hội nghị, hội thảo Xem xét tài liệu, thu thập chứng cứ; Gặp nhân chứng, đối
  • 43. 35 Điều trần Giải trình Yêu cầu báo cáo, cung cấp tài liệu Hội nghị lấy ý kiến Điều tra chất,… Tính công khai Chủ yếu là công khai trong toàn bộ quá trình chuẩn bị và diễn ra phiên điều trần Chủ yếu là công khai khi diễn ra phiên giải trình Ít công khai Công khai ở mức độ tổ chức báo chí đưa tin tại hội nghị Thông thường chỉ công khai kết quả điều tra Nội dung Tất cả những vấn đề thuộc nội dung hoạt động của ủy ban Những vấn đề ủy ban thẩm tra, giám sát Những vấn đề mà ủy ban đang thẩm tra, xem xét Chỉ những vụ việc nhất định trên cơ sở kiến nghị của cử tri hoặc đại biểu Quốc hội Thủ tục Theo thủ tục một phiên họp Theo thủ tục một phiên họp Thủ tục phiên họp nếu báo cáo trực tiếp Theo thủ tục một hội thảo khoa học Thủ tục của một cuộc điều tra (thủ tục tư pháp) Hệ quả Kiến nghị đối với Chính phủ; Đưa vấn đề vào chương trình nghị sự của Quốc hội Kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ. Báo cáo với UBTVQH, Báo cáo UBTVQH, Quốc hội hoặc không Tổng hợp ý kiến để hoàn thiện Báo cáo của ủy ban Báo cáo Quốc hội
  • 44. 36 Điều trần Giải trình Yêu cầu báo cáo, cung cấp tài liệu Hội nghị lấy ý kiến Điều tra Quốc hội Lợi ích Có tác động và ảnh hưởng rộng tới: Quốc hội; các cơ quan của Quốc hội; xã hội Có tác động và ảnh hưởng rộng tới: Quốc hội; các cơ quan của Quốc hội; xã hội Tác động hẹp hơn Tác động hẹp hơn Thường là tác động hẹp hơn: Giải quyết vụ việc cụ thể. Qua bảng so sánh chi tiết, chúng ta có thể thấy rằng, điều tra và yêu cầu báo cáo là hai hình thức có mức độ tương đồng với điều trần thấp nhất, hay nói đúng hơn là có nhiều khác biệt. Hội nghị lấy ý kiến có mức độ tương đồng khá song còn nhiều điểm khác nhau về chủ thể tham gia, thủ tục, hình thức, mức độ công khai … Hình thức này tương đồng với hoạt động tham vấn công chúng ở nghị viện các nước. Giải trình chính là hình thức có mức độ tương đồng cao nhất với điều trần trong số các hình thức hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội 2014, các nhà lập pháp đã quy định một điều riêng về hoạt động giải trình tại HĐDT và các ủy ban với ý tưởng thiết lập một cơ chế hoạt động của các ủy ban tương đồng với hearings ở nghị viện các nước. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng hoạt động của HĐDT và các ủy ban có tính tương đồng với điều trần trong Chương này sẽ tập vào hình thức giải trình.
  • 45. 37 2.2. Các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động giải trình tại HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam Như đã đề cập ở trên đây, pháp luật nước ta chưa sử dụng thuật ngữ điều trần nhưng có quy định về giải trình, báo cáo của các đối tượng trước HĐDT, các ủy ban của Quốc hội. 2.2.1. Các quy định trước khi Hiến pháp2013 được ban hành Trước khi Hiến pháp 2013 được ban hành, các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quy chế hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội… đã có những quy định tạo cơ sở pháp lý cho HĐDT, các ủy ban tiến hành các hoạt động giải trình. Điều 38 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định: “Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên Chính phủ , Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và những viên chức nhà nước hữu quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội đồng hoặc ủy ban xem xét, thẩm tra. Người nhận được yêu cầu của Hội đồng hoặc ủy ban của Quốc hội phải đáp ứng yêu cầu đó”. Theo quy định của điều này, tại các phiên giải trình, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các quan chức cao cấp trong Bộ máy hành pháp, tư pháp đến “trình bày” những vấn đề mà HĐDT, ủy ban quan tâm. Bên cạnh đó, HĐDT, các ủy ban cóthể yêu cầu các viên chức liên quan đến vấn đề đang được xem xét, thẩm tra cung cấp tài liệu, hoặc đến trình bày. Đối với những đối tượng khác, Luật không quy định HĐDT, các ủy ban có được mời hay không mời tham gia. Căn cứ vào nguyên tắc hoạt động của
  • 46. 38 Quốc hội nói chung, hoạt động của HĐDT, các ủy ban của Quốc hội nói riêng là công khai, minh bạch, với sự tham gia của công chúng. Do vậy, HĐDT, các ủy ban hoàn toàn có thể mời các thành phần khác đến dự phiên họp giải trình để có thêm thông tin đặt bên cạnh thông tin do Chính phủ cung cấp. Điều 27 Quy chế hoạt động của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội đã có quy định cụ thể hơn: “Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan khác hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội đồng Dân tộc, các ủy ban đang xem xét, thẩm tra, người nhận được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện”. Với quy định này, HĐDT, các ủy ban không chỉ có thẩm quyền yêu cầu đại diện các Bộ, ngành đến báo cáo, mà còn có thể mời cả đại diện các tổ chức, cá nhân khác đến trình bày. Các đối tượng mà ủy ban có quyền yêu cầu đến trình bày những vấn đề đang được xem xét, thẩm tra gồm có cả “các tổ chức, cá nhân có liên quan”. Có thể hiểu “các tổ chức, cá nhân có liên quan” không chỉ trong bộ máy nhà nước, mà cả các tổ chức xã hội, hiệp hội, tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, viện, trường, chuyên gia, cá nhân công dân v.v… Nghiên cứu quy định tại các Điều 3, Điều 27, Điều 29, Điều 32, Điều 33 trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội có thể tổng hợp một số điểm đáng lưu ý trong hoạt động giám sát của HĐDT, các ủy ban như sau: - Đối tượng giám sát của HĐDT, các ủy ban bao gồm: hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; văn bản quy phạm pháp luật. - Một số quy định về trình tự tiến hành giám sát tại HĐDT, ủy ban như: ủy ban yêu cầu các cơ quan báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực ủy ban phụ
  • 47. 39 trách; trong việc ủy ban xem xét báo cáo của Đoàn giám sát có thể mời đối tượng bị giám sát có mặt tại phiên họp; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đến trình bày và cung cấp thông tin, tài liệu mà ủy ban quan tâm liên quan đến khiếu nại, tố cáo. - Lĩnh vực yêu cầu các cơ quan báo cáo tương đối hạn hẹp, chỉ bó gọn trong xem xét báo cáo hoạt động (những việc đã làm, không bao gồm trách nhiệm phải làm gì để giải quyết), khi có khiếu nại, tố cáo và xem xét báo cáo Đoàn giám sát. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có cách hiểu khác nhau về báo cáo hoạt động, phân biệt sự khác nhau giữa báo cáo hoạt động và báo cáo công tác. Nếu hiểu hoạt động theo nghĩa thông thường thì rất rộng, có khả năng dẫn đến sự lạm quyền của các ủy ban khi yêu cầu các cơ quan phải báo cáo hoạt động. - Thẩm quyền của HĐDT, các ủy ban trong hoạt động này còn chưa thật rõ: Các ủy ban chỉ có quyền nghe báo cáo mà không có quyền chất vấn, yêu cầu giải trình hay yêu cầu gì thêm; trong hình thức thứ hai, không có quyền yêu cầu đối tượng bị giám sát có mặt và không có quy định sự tranh luận giữa Đoàn giám sát và đối tượng bị giám sát; trường hợp thứ ba gần với hoạt động điều trần nhất (chỉ dừng lại ở việc xem xét vấn đề bị khiếu nại, tố cáo đúng hay sai). Theo quy định của Khoản 1, Điều 27, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội tiến hành thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Phiên họp thẩm tra là phiên họp toàn thể của ủy ban, vì vậy không thích hợp để tiến hành giải trình. Tuy nhiên, trước khi tiến hành họp thẩm tra, có quá trình chuẩn bị thẩm tra. Đây là khâu có thể tổ chức giải trình để thu thập thông tin, hỗ trợ các thành viên ủy ban tiến hành phiên họp thẩm tra tốt hơn.
  • 48. 40 Trong trường hợp cần thiết, HĐDT, các ủy ban có thể yêu cầu Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội đồng, ủy ban phụ trách…. Khoản 3, Điều 27 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội trao cho HĐDT, các ủy ban thẩm quyền yêu cầu người đứng đầu hoặc đại diện được uỷ quyền của các cơ quan báo cáo về hoạt động của mình tại cuộc họp của Hội đồng, ủy ban. Trong cuộc họp, thành viên HĐDT, các ủy ban sẽ yêu cầu làm rõ những điểm, những vấn đề, nội dung hoạt động, từ đó đưa ra những khuyến nghị, đề xuất. Điều 33 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định, trên cơ sở khiếu nại, tố cáo nhận được, HĐDT, các ủy ban tổ chức họp và yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (trong đó có Bộ, cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu các cơ quan này) đến để trình bày, cung cấp thông tin, tài liệu. Trong cuộc họp này, HĐDT, các ủy ban cũng có thể mời người khiếu nại, tố cáo hoặc các cá nhân, tổ chức có liên quan đến để nghe trình bày về vấn đề có liên quan. Các bên có điều kiện và cơ hội tranh luận, chứng minh luận điểm của mình trước ủy ban. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, tại Điều 41 có quy định HĐDT, ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và dự án, dự thảo khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao. Và khi tiến hành thẩm tra, “cơ quan chủ trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án,
  • 49. 41 dự thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo… Cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu và đáp ứng các yêu cầu khác của cơ quan thẩm tra”. 2.2.2. Hiến pháp2013 và cácvăn bản cụ thểhóaHiến pháp Hiến pháp mới năm 2013 đã dành hẳn một điều (Điều 77) để quy định về quyền của HĐDT và các ủy ban trong việc yêu cầu các chủ thể có liên quan báo cáo, giải trình và cung cấp tài liệu: “Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó”. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội 2014 (có hiệu lực từ 01/01/2016) đã quy định về giải trình tại phiên họp HĐDT, ủy ban của Quốc hội tại Điều 82. Theo đó, HĐDT, ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan giải trình về những vấn đề thuộc lĩnh vực HĐDT, ủy ban của Quốc hội phụ trách. Người được yêu cầu giải trình có trách nhiệm báo cáo, giải trình tại phiên họp của HĐDT, ủy ban của Quốc hội. HĐDT, ủy ban của Quốc hội phải kết luận về vấn đề được giải trình. Kết luận của Hội đồng, ủy ban được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Có thể thấy, Luật tổ chức Quốc hội 2014 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp ở bốn điểm quan trọng. Một là có quyền yêu cầu giải trình về những vấn đề mà HDDT và ủy ban phụ trách chứ không phải vấn đề cần thiết. Hai là, phải giải trình tại phiên họp của HĐDT và ủy ban chứ không
  • 50. 42 phải giải trình bằng văn bản. Ba là HĐDT và ủy ban phải kết luận về vấn đề được giải trình. Bốn là, kết luận phiên giải trình phải được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội và cơ quan, tổ chức hữu quan. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Quốc hội vào trong hoạt động lập pháp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (có hiệu lực từ 01/7/2016) đã quy định: “Cơ quan chủ trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo báo cáo, giải trình, cung cấp thông tin, tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo” (Điều 63). Với quy định này, Luật ban hành đã quy định cụ thể hơn về các đối tượng được mời tham dự phiên họp của HĐDT và ủy ban, bao gồm các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội mới, các quy định của Luật hoạt động giám sát, Quy chế hoạt động của HĐDT và ủy ban cũng đang được tích cực soạn thảo, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Như vậy, các quy định trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành những phiên giải trình tại HĐDT, các ủy ban của Quốc hội nước ta. 2.3. Thực tiễn tổ chức các phiên giải trình tại HĐDT và các ủy ban của Quốc hội Việt Nam 2.3.1. Phiêngiải trìnhđầu tiên và xu hướngphát triển Tháng 9-2009, một cuộc tọa đàm về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội và hoạt động giải trình tại các cơ quan của Quốc hội được tổ chức ở
  • 51. 43 Đà Lạt. Tháng 12-2009, Văn phòng Quốc hội trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội một số vấn đề nhằm thí điểm hoạt động này. Ngay sau đó, Ủy ban Các vấn đề xã hội đề xuất được thí điểm đầu tiên. Đầu tháng 4-2010, nhiều tờ báo cùng lúc đăng tin về việc sắp thí điểm điều trần tại Ủy ban Các vấn đề xã hội. Một số tờ báo để từ điều trần trong ngoặc kép. Đến ngày 21tháng 4, ảnh chụp trên các báo về nội dung cuộc làm việc của Ủy ban Các vấn đề xã hội với lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy trên phông nền không có từ điều trần mà là “hội nghị giải trình”. Trước hội nghị ít ngày, lãnh đạo Ủy ban (TS Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội) đã dùng từ điều trần khi trả lời báo chí. Từ này mới quá nên dư luận xôn xao, một số người phản ứng và cho là cách dùng từ như vậy có gì đó gay gắt hoặc đối lập với đối tượng bị điều trần. Tháng 3-2010, Ủy ban có công văn gửi bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan, tổ chức sẽ tham gia giải trình; công văn gửi các thành viên ủy ban để chuẩn bị câu hỏi. Sau đó là việc tập hợp, chọn lọc thông tin, mời và đặt bài chuyên gia để xây dựng bộ tài liệu tham khảo. Thường trực ủy ban họp nhiều lần để thảo luận kế hoạch tổ chức phiên giải trình, xác định các vấn đề trọng tâm cần làm rõ trong phiên giải trình, cách thức tiến hành phiên giải trình, phân công (Chủ nhiệm ủy ban chủ trì, một Phó chủ nhiệm phụ trách nội dung và điều hành, một Phó chủ nhiệm phụ trách quy trình thủ tục). Kế đến là tổ chức họp chuyên gia để xây dựng bộ câu hỏi và cuối cùng là phần duyệt phông hội nghị, bố trí chỗ ngồi của các đại biểu. Ngày 21-4-2010, hội nghị giải trình về chính sách giảm nghèo được tổ chức, thu hút sự tham gia đông đảo của giới truyền thông. Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân (thời điểm đó) trở thành thành viên đầu tiên của Chính phủ ra điều trần tại một ủy ban của Quốc hội. Sự “sẵn sàng” của Bà Nguyễn Thị Kim