SlideShare a Scribd company logo
1 of 114
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CAO MẠNH LINH
QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2006
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu ..................................................................................................... 1
Chương 1 - một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .... 6
1.1. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân .............................................. 6
1.1.1. Khái niệm về khiếu nại, tố cáo ....................................................... 6
1.1.2. Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo ...................................... 12
1.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội ............................................... 15
1.2.1. Vị trí pháp lý của Quốc hội ............................................................ 15
1.2.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình thành
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân ............................................................................................ 18
1.3. Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân ...................................................................................... 24
1.3.1. Khái niệm quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................................. 24
1.3.2. Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân .................................................................................. 26
1.3.3. Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................................. 28
1.3.4. Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................ 29
Chương 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân ..................... 43
2.1. Quá trình hình thành, phát triển hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ 1945 đến trước
khi ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 ........................................ 43
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960 ........................................................... 43
2.1.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1980 ........................................................... 45
2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ........................................................... 47
2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 1998 ........................................................... 50
2.2. Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân từ khi Quốc hội ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998 đến nay ................................................................... 54
2.2.1. Về hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp ............................ 55
2.2.2. Về hoạt động giám sát của Quốc hội giữa hai kỳ họp ................... 56
2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ khi Quốc hội ban hành Luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998 đến nay
..................................................................
60
2.3.1. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân tại các kỳ họp Quốc hội .................................................................... 60
2.3.2. Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................ 63
2.3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ............................ 66
2.3.4. Hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
.............
69
Chương 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
.................................................................. 76
3.1. Yªu cÇu kh¸ch quan ph¶i t¨ng c-êng ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc
héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ...................... 76
3.1.1. Yªu cÇu x©y dùng Nhµ n-íc ph¸p quyÒn x· héi chñ nghÜa cña
nh©n d©n, do nh©n d©n, v× nh©n d©n ......................................................... 77
3.1.2. Yªu cÇu hoµn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt .......................................... 78
3.1.3. XuÊt ph¸t tõ yªu cÇu b¶o ®¶m quyÒn khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng
d©n vµ tõ thùc tr¹ng khiÕu n¹i, tè c¸o vµ viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè
c¸o cña c«ng d©n ...................................................................................... 79
3.2. Mét sè quan ®iÓm c¬ b¶n vÒ n©ng cao hiÖu qu¶ thùc hiÖn quyÒn
gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña
c«ng d©n ................................................................................................... 80
3.3. Gi¶i ph¸p ®æi míi ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc
gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ................................................ 83
3.3.1. Hoµn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt ®Ó t¹o c¬ së ph¸p lý ®Çy ®ñ, thèng
nhÊt vµ ®ång bé cho ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i
quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ....................................................... 83
3.3.2. Hoµn thiÖn c¬ cÊu tæ chøc cña Quèc héi ....................................... 85
3.3.3. Hoµn thiÖn ph-¬ng thøc ho¹t ®éng cña Quèc héi .......................... 87
3.3.4. T¨ng c-êng c¸c ®iÒu kiÖn b¶o ®¶m cho viÖc thùc hiÖn quyÒn
gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña
c«ng d©n ................................................................................................... 92
3.3.5. Ph¸t huy vai trß gi¸m s¸t cña nh©n d©n ®èi víi ho¹t ®éng cña
Quèc héi b¶o ®¶m quyÒn lùc nhµ n-íc thùc sù thuéc vÒ nh©n d©n ......... 94
KÕt luËn .................................................................................................... 97
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o ................................................................... 99
Phô lôc ..................................................................................................... 105
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Trong hệ
thống tổ chức bộ máy nhà nƣớc, Quốc hội đƣợc xác định là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc
hội thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
những chính sách cơ bản của đất nƣớc. Đồng thời Quốc hội là cơ quan có
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc, trong đó có
nội dung giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Quyền giám
sát của Quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện
vai trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nƣớc cao nhất, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc nói chung và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nói
riêng.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ
chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, trong thời gian qua,
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội đã thƣờng xuyên tiến hành giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
thông qua các phƣơng thức: xem xét các báo cáo của Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, báo cáo của Chính
phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thành lập đoàn giám sát thực
trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các Bộ, ngành, địa
phƣơng; giám sát việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể có dấu
hiệu vi phạm pháp luật .v.v.
2
Thông qua các hoạt động này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã kiến nghị nhiều vấn đề
liên quan đến tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động… nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, làm cơ sở để Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kịp thời sửa đổi, bổ sung
những văn bản quy phạm không còn phù hợp với thực tiễn, đề xuất những
giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót xảy ra, góp phần bảo vệ lợi ích
của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Mặc dù đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, song công tác giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong thời gian qua vẫn còn có
nhiều hạn chế. Qua công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy,
tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp, số lƣợng đơn, thƣ khiếu nại,
tố cáo ngày càng tăng, nhiều đơn, thƣ gửi vƣợt cấp, gửi đến các cơ quan không
có thẩm quyền giải quyết và gửi đến nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nƣớc. Tuy nhiên, số lƣợng đơn thƣ khiếu nại, tố cáo mà Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chuyển đến
các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền yêu cầu xem xét, giải quyết theo thẩm quyền
còn chiếm một tỷ lệ thấp so với số lƣợng đơn, thƣ đã tiếp nhận. Số lƣợng đơn,
thƣ đƣợc xử lý lại tập trung chủ yếu vào những vụ việc có ý kiến đề nghị của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát việc
giải quyết cũng chƣa đƣợc chú trọng nên số vụ việc đƣợc các cơ quan nhà
nƣớc, ngƣời có thẩm quyền xem xét, trả lời cũng đạt tỷ lệ thấp. Ví dụ nhƣ :
trong năm 2005, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý 20.250 đơn thư
3
khiếu nại, tố cáo của công dân, đã chuyển 1.331 đơn đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết và chỉ nhận được 433 văn bản trả lời, chiếm 32,5% [3].
Vì vậy, cần thiết phải có sự nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động này trong thời
gian qua ở nƣớc ta để có những giải pháp hữu hiệu, sát thực, nâng cao hiệu
quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tiến tới xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động giám sát của Quốc hội là vấn đề cấp thiết, đƣợc nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu thƣờng mới chỉ tập
trung vào các vấn đề chung về quyền giám sát tối cao mà chƣa đi sâu vào
những hoạt động cụ thể để thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Đối với hoạt động tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của Quốc hội tuy cũng đã đƣợc nghiên cứu tại Đề tài "Nghiên cứu thực
trạng và những vấn đề cần đổi mới trong công tác dân nguyện của Quốc
hội" do Vụ Dân nguyện, Văn phòng Quốc hội thực hiện năm 1996 nhƣng Đề
tài này lại chủ yếu đề cập đến việc cải cách các thủ tục hành chính trong việc
xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân mà chƣa đi sâu làm rõ các vấn đề lý luận
về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân để có những giải pháp thực sự hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả
giám sát của Quốc hội. Cũng có nhiều bài báo, hội thảo, hội nghị đƣợc tổ
chức với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đã bàn về hoạt động giám sát
của Quốc hội nhƣng vẫn chƣa chú trọng tới hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân hoặc nếu có thì chủ yếu
chỉ chú ý tới hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, nhận
4
và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân. Chính vì vậy, đề tài luận văn "Quyền
giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân" là phƣơng hƣớng nghiên cứu mới đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn
bức xúc hiện nay.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và thực tiễn thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, đánh
giá thực trạng thực hiện quyền này trong những năm qua, nêu ra những bất
cập, tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền giám sát tối cao của Quốc
hội đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc ta.
- Cơ sở thực tiễn : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên thực tiễn hoạt động
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và
đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đánh
giá những thành tựu và những hạn chế để đƣa ra những giải pháp hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, lịch
sử, thống kê và so sánh đối chiếu để nghiên cứu về những vấn đề lý luận của
hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, thực tiễn thực hiện trong thời gian qua và từ đó đƣa ra những giải
pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
5
6. Điểm mới của đề tài
- Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền giám sát tối cao của Quốc hội và việc thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân; phân tích và chỉ ra những nhƣợc điểm, vƣớng mắc cần khắc phục;
- Đề tài nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân trong thời gian tới nhƣ hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ
cấu, tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân ...
7. Kết cấu của Luận văn.
Luận văn đƣợc kết cấu gồm ba chƣơng và phần mở đầu, kết luận, mục
lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Chƣơng 1 - Một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Chƣơng 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Chƣơng 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát
của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI
VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
1.1 QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
1.1.1 Khái niệm về khiếu nại, tố cáo
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của con
ngƣời đƣợc pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời ngày 10 tháng 12 năm 1948 trong
Chƣơng 8 đã ghi nhận “Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến các
cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền chống những hành động vi phạm
các quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp hoặc luật pháp thừa
nhận” [56, tr.5]. Trong phạm vi quốc gia, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nƣớc mà nội dung quyền khiếu
nại, tố cáo đƣợc quy định khác nhau. Điều 41 Hiến pháp của nƣớc Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa năm 1993 quy định “..Các công dân có quyền khiếu nại,
tố cáo hoặc kiện bất kỳ cơ quan hoặc công chức nhà nước nào về những vi
phạm pháp luật hoặc vì thiếu tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ
nhưng nghiêm cấm việc xuyên tạc, bịa đặt với mục đích bôi nhọ, lừa dối hoặc
vu cáo...” [27, tr.980]. Ở nƣớc ta, quyền khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của
công dân và đƣợc Hiến pháp ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 29 Hiến pháp
1959 : "Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của nhà
nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên nhà nước.
Các khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị
thiệt hại có quyền được bồi thường”. Từ đó đến nay, quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân đã tiếp tục đƣợc khẳng định và hoàn thiện trong các bản Hiến
pháp sau này cũng nhƣ trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhƣ
7
Luật khiếu nại, tố cáo, các luật về tổ chức, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố
tụng hình sự .v.v., cụ thể là Điều 74 Hiến pháp 1992 đã quy định : "Công dân
có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố
cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp
luật quy định..."
Để thấy rõ quyền khiếu nại, tố cáo, quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thì cần phải phân tích khái
niệm khiếu nại, tố cáo.
1.1.1.1 Khái niệm khiếu nại
Ở nhiều nƣớc, ngƣời ta quan niệm khiếu nại là việc công dân, pháp
nhân hay một nhóm công dân yêu cầu đƣợc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ
quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc [32].
Ở nƣớc ta, tuy quyền khiếu nại đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp cũng
nhƣ đƣợc quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣng có
thể nói chƣa có một văn bản nào chính thức ghi nhận khái niệm khiếu nại là
gì. Luật khiếu nại, tố cáo tuy cũng có quy định về khiếu nại nhƣng đó chỉ là
khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đề cập tới khiếu
nại một cách chung nhất chỉ có Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm
1971 của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại
và tố cáo, trong đó xác định "Đơn khiếu nại là chỉ những sự việc của đương
sự khiếu vì quyền lợi bị thiệt hại, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết
(đơn đề đạt nguyện vọng xếp vào loại đơn khiếu nại)" [21, tr.48].
Trong khoa học pháp lý có những quan niệm khác nhau về khái niệm
này, đƣợc các tác giả lý giải từ những giác độ khác nhau. Theo Từ điển Tiếng
8
Việt, khiếu nại thƣờng đƣợc hiểu là "đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một
việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý" [52,
tr.483].
Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý phổ thông, khiếu nại là việc yêu cầu cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm
các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay của người
khác [41, tr. 202].
Cũng có quan điểm khác cho rằng, khiếu nại theo nghĩa chung nhất là
việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem
xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại
hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường
thiệt hại do việc làm không đúng gây ra [28].
Tuy nhiên, theo các khái niệm này, các tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa
quyền khiếu nại của công dân với quyền kiến nghị, yêu cầu của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Có thể dẫn chứng qua quy định về trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội khi phát hiện có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị
với ngƣời có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt vi
phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với ngƣời vi phạm (Điều 87 Luật khiếu
nại, tố cáo). Hoặc, khi giữa các cá nhân, tổ chức xảy ra tranh chấp khi tham
gia một "quan hệ dân sự", dựa trên nguyên tắc tự thoả thuận thì bên cho rằng
mình bị thiệt hại có thể yêu cầu bên kia sửa chữa, khắc phục hoặc bồi thƣờng.
Đồng thời, bên cạnh việc “trông chờ” bên vi phạm có hành động khắc phục
thì bên bị vi phạm có quyền chủ động bảo vệ quyền, lợi ích của mình (khởi
kiện ra Tòa án, phạt hợp đồng...).
Phân tích nội dung các quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền
khiếu nại của công dân có thể thấy một số đặc trƣng của khiếu nại nhƣ sau:
9
Thứ nhất, khiếu nại xuất phát từ nhận thức chủ quan của ngƣời khiếu
nại cho rằng quyền và lợi ích chính đáng của mình bị xâm phạm [22, tr.64].
Nói cách khác, khiếu nại là một hình thức phản ứng của công dân, cơ quan, tổ
chức với những hiện tƣợng vi phạm các quyền và lợi ích của họ đƣợc pháp
luật bảo vệ.
Thứ hai, khiếu nại luôn mang trong mình thông tin về sự vi phạm các
quyền và lợi ích của công dân đƣợc pháp luật quy định hoặc bắt nguồn từ
những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa và những quy định của cộng
đồng cũng nhƣ sự vi phạm các quyền lợi cá nhân khác của công dân. Việc xác
định loại vi phạm cụ thể hoặc thiệt hại cụ thể bởi những việc làm trái pháp
luật là yếu tố nhất thiết của nội dung khiếu nại [56, tr.37].
Thứ ba, ngƣời khiếu nại không thể tự khôi phục những quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại bởi việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà
nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào. Sự khiếu nại của họ trông chờ vào quyết định của cơ quan, ngƣời
có thẩm quyền.
Vì vậy, có thể hiểu khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét lại việc làm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân mà họ cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của chính họ.
1.1.1.2 Khái niệm tố cáo
Tố cáo là một quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp, pháp luật
quy định.
Khoản 2 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “ Tố cáo là việc công
dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá
10
nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm 1971 của Uỷ ban Thanh
tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại và tố cáo quy định :
“Đơn tố cáo là đơn nói những hành vi sai phạm của cán bộ, cơ quan làm sai
chế độ, chính sách, pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích tập thể và của Nhà
nước”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tố cáo là "Báo cho mọi người hoặc cơ quan
có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó" hay "Vạch trần
hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn"
[52, tr.973].
Ở các nƣớc, ngƣời ta quan niệm tố cáo là một hình thức thông tin giúp
cho các cơ quan nhà nước đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm
pháp luật và tố cáo vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Pháp luật các
nƣớc đều có xu hƣớng khuyến khích mọi ngƣời phát hiện và thông báo cho cơ
quan nhà nƣớc về những hành vi vi phạm pháp luật. Ở nhiều nƣớc nhƣ Mỹ,
Hàn Quốc, Malaixia ... ngƣời ta lập ra các hòm thƣ đặc biệt hoặc các đƣờng
dây điện thoại nóng để tiếp nhận các thông tin tố cáo 24/24 giờ [32].
Nhƣ vậy, tố cáo thực chất là việc phát hiện và báo cho cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật nào đó diễn ra trong đời
sống xã hội. Tố cáo khác với khiếu nại về tính chất, nội dung, mục đích. Tố
cáo, thông thƣờng đó là sự phát hiện những vi phạm nào đó của hoạt động
bình thƣờng diễn ra trong đời sống xã hội mà không liên quan đến quyền và
lợi ích của những con ngƣời cụ thể; đó là sự thông báo về những hành vi lạm
dụng, những việc làm trái pháp luật và những vi phạm khác đối với pháp chế
xã hội chủ nghĩa mà chính những vi phạm đó không xâm phạm đến quyền và
lợi ích của những ngƣời tố cáo hoặc của những ngƣời cụ thể khác [56, tr.39].
11
Ở nƣớc ta, quyền tố cáo là một quyền cơ bản, quan trọng của công dân,
là “phƣơng tiện” để công dân bảo vệ mình, bảo vệ ngƣời khác. Thực hiện
quyền tố cáo tức là công dân tỏ rõ trách nhiệm của mình trong việc giám sát
hoạt động quản lý của Nhà nƣớc, để xây dựng bộ máy nhà nƣớc ngày càng
vững mạnh và trong sạch, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nƣớc ta thật sự là “công bộc của nhân dân”, loại trừ những hành vi quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ, công
chức nhà nƣớc [22, tr.101].
Mặt khác, tố cáo không chỉ có ý nghĩa đối với ngƣời dân mà còn có giá
trị to lớn đối với Nhà nƣớc. Nhờ có thông tin từ nhân dân qua việc tố cáo,
Nhà nƣớc sẽ kịp thời nắm bắt đƣợc phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm,
trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức để kịp thời làm trong sạch
đội ngũ cán bộ bảo vệ pháp chế, lợi ích của Nhà nƣớc và quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Có thể nói, đại đa số những cán bộ, công chức tham
nhũng, cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại cho Nhà nƣớc,
bao che cho tội phạm... bị xử lý kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự phần
lớn do nhân dân phát hiện và tố cáo với các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Tố cáo diễn ra trong thực tế rất đa dạng, phức tạp nhƣng có thể chia
thành một số loại sau:
- Tố cáo chứa đựng trong đó yêu cầu đƣợc pháp luật quy định trƣớc;
- Tố cáo không liên quan đến việc vi phạm các quyền cụ thể của công
dân, nhƣng chứa đựng những thông báo về những khuyết tật hoặc những vi
phạm trong công tác của từng cơ quan riêng biệt;
- Tố cáo về những việc làm trái pháp luật của một cá nhân trong bộ
máy Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế [49, tr.168].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu tố cáo là việc công dân phát hiện
và báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
12
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân.
1.1.2 Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo
1.1.2.1 Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của
công dân
Ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà
nƣớc thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc không còn là bộ máy thống trị của giai cấp
bóc lột, mà là Nhà nƣớc của nhân dân, tổ chức thành cơ quan quyền lực chính
trị. Mục tiêu, phƣơng hƣớng phát triển cơ bản của Nhà nƣớc ta là xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức (Điều 2 Hiến
pháp 1992). Đồng thời, ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con ngƣời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội đƣợc tôn
trọng và bảo đảm thực hiện, thể hiện ở các quyền công dân đƣợc quy định
trong Hiến pháp (Điều 50 Hiến pháp 1992) và các văn bản pháp luật.
Qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) và hệ thống văn bản pháp
luật nƣớc ta, quyền và nghĩa vụ của công dân có thể chia làm 3 nhóm chính:
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực chính trị và xã hội:
quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, quyền bầu cử, ứng cử,
quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ...
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá nhƣ:
quyền và nghĩa vụ lao động, quyền đƣợc bảo vệ sức khoẻ, quyền tự do kinh
doanh, quyền về nhà ở, quyền và nghĩa vụ học tập, nghiên cứu khoa học, phát
minh sáng chế…
13
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong đời sống riêng nhƣ: quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, về chỗ ở, thƣ tín, quyền tự do đi lại và cƣ trú,
quyền tự do tín ngƣỡng...
Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên là những quyền chủ
thể của công dân, thể hiện những lợi ích riêng của cá nhân công dân đƣợc
pháp luật bảo hộ, đồng thời bảo đảm sự hài hoà, thống nhất với lợi ích chung
của toàn xã hội.
Trong các quyền cơ bản của công dân, quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc
Hiến pháp ghi nhận thể hiện địa vị pháp lý của công dân, nó đƣợc xác lập nhƣ
một phƣơng tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua khiếu nại, tố cáo, công dân bày tỏ ý
nguyện của mình đối với Nhà nƣớc, vạch ra trƣớc cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền những việc làm trái chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc,
nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Họ có quyền
yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật, nhằm khôi phục lại quyền lợi đã bị
xâm phạm, giúp các tổ chức, đoàn thể, cơ quan nhà nƣớc đấu tranh chống các
hành vi lạm quyền, lộng hành, làm sai chính sách, pháp luật [26, tr.207].
Ngƣợc lại, thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nƣớc sẽ biết và kiểm tra đƣợc
tính đúng đắn trong các đƣờng lối, chính sách, pháp luật, thấy đƣợc hành vi
của các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc có đúng pháp luật, có hợp lòng
dân hay không để có sự điều chỉnh phù hợp.
1.1.2.2 Quyền khiếu nại, tố cáo là một hình thức dân chủ trực tiếp để
công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội
Sự ra đời của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản đồng thời cũng tạo ra tiền
đề cho sự ra đời của một chế độ dân chủ mới trong lịch sử, chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, công dân tham gia vào
14
quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, thông qua hai hình thức: dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện trực tiếp ý chí, nguyện vọng của
mỗi chủ thể quan hệ pháp luật, qua đó công dân trực tiếp bày tỏ ý kiến, tham
gia vào việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, tạo nên tính tích cực chính trị,
tính trách nhiệm trong xã hội, trong nhà nƣớc của mỗi công dân, nâng cao
tính chủ động, sáng tạo và sự tham gia tích cực của mỗi công dân vào hoạt
động quản lý nhà nƣớc.
Dân chủ đại diện là hình thức công dân sử dụng quyền dân chủ của
mình thông qua các cơ quan, tổ chức và ngƣời đại diện mà mình bầu ra; các
cơ quan, tổ chức và đại diện dân cử phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của cử
tri, thể hiện ý chí, nguyện vọng của cử tri.
Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, trực tiếp kiểm tra, giám sát
các hoạt động của Nhà nƣớc, trực tiếp góp ý phản ánh với Nhà nƣớc về các
vấn đề quan tâm đó là thể hiện đặc thù của hình thức dân chủ trực tiếp. Thông
qua con đƣờng khiếu nại, tố cáo, công dân chủ động kiểm tra, giám sát, phát
hiện, phản ánh với Nhà nƣớc về những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động
của bộ máy nhà nƣớc và các cán bộ, công chức nhà nƣớc mà gây thiệt hại tới
lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở đó,
công dân yêu cầu cơ quan, ngƣời có thẩm quyền có những biện pháp giải
quyết kịp thời nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nƣớc, của tập thể khi bị
xâm hại.
Về phƣơng diện lý luận, khiếu nại, tố cáo là một “nguồn thông tin” từ
xã hội, từ công dân đến Nhà nƣớc vô cùng quan trọng. Thông qua việc thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo, nhân dân có thể tự mình phát hiện cho Nhà nƣớc
những vấn đề khiếm khuyết của cơ chế, chính sách để Nhà nƣớc xem xét điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà
15
nƣớc, quản lý xã hội ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để phát huy yếu tố
tích cực của nó phụ thuộc vào cơ chế, biện pháp bảo đảm dân chủ của thể chế
chính trị.
Thực tế hiện tƣợng khiếu nại, tố cáo ở một số địa phƣơng những năm
gần đây cho thấy, tình trạng mất dân chủ trong quản lý, sự yếu kém và những
khuyết tật của bộ máy chính quyền, sự lỏng lẻo và vi phạm pháp luật trong
hoạt động quản lý nhà nƣớc là những vấn đề đƣợc quần chúng phát hiện, báo
động cho xã hội, cho Nhà nƣớc. Từ nguồn thông tin này, Nhà nƣớc đã kịp
thời có điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách, pháp luật cho phù hợp, qua đó thể
hiện tác động tích cực của quyền khiếu nại, tố cáo - một hình thức dân chủ
trực tiếp đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc.
1.2 QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI
1.2.1 Vị trí pháp lý của Quốc hội
Vị trí pháp lý của Quốc hội đƣợc xác định bởi những quy định của
Hiến pháp, văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao của Nhà nƣớc ta cũng nhƣ
đƣợc thể hiện trong nhiều quy định của các văn bản pháp luật khác nhƣ Luật
tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật khiếu nại tố cáo, Luật tổ chức
Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế hoạt động
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội...Trong đó, Điều 83 Hiến
pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, đƣợc sửa đổi bổ sung
năm 2001 đã quy định :"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
16
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước".
Quy định trên cho thấy vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà
nƣớc thể hiện ở hai đặc điểm: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân và đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất.
1.2.1.1 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân
Tính đại biểu cao nhất của Quốc hội nƣớc ta trƣớc hết thể hiện ở cách
thức thành lập và cơ cấu tổ chức của Quốc hội.
- Về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan nhà nƣớc duy nhất do cử
tri cả nƣớc bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Bầu cử đại biểu Quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả
nƣớc [23, tr.267].
- Về thành phần, Quốc hội luôn có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện
rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân, phản ánh đƣợc cơ cấu kết hợp đa dạng,
thể hiện Quốc hội là khối đại đoàn kết dân tộc.
- Về cơ cấu thành phần theo đơn vị hành chính (cấp tỉnh), Quốc hội có
đại biểu ở tất cả các đơn vị hành chính. Theo Điều 8 Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội năm 1997, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì mỗi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng có ít nhất ba đại biểu cƣ trú và làm việc tại địa phƣơng;
số đại biểu tiếp theo đƣợc tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phƣơng.
Ngoài ra, tính đại biểu cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở việc Quốc
hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa vào sự tín nhiệm của
nhân dân, do nhân dân ủy quyền đồng thời chịu sự giám sát và chịu trách
17
nhiệm trƣớc nhân dân. Xuất phát từ tính đại diện nhân dân mà Quốc hội đƣợc
giao những chức năng, nhiệm vụ hết sức quan trọng nhƣ quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc và quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc. Do đó, nhân dân có
quyền xem xét, đánh giá tƣ cách, phẩm chất, năng lực của các đại biểu có
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân hay không. Đại biểu Quốc hội có
thể bị bãi nhiệm khi không còn sự tín nhiệm của nhân dân.
1.2.1.2 Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
Đặc điểm này đƣợc thể hiện rõ qua các quy định của Hiến pháp và pháp
luật về chức năng, quyền hạn của Quốc hội, theo đó:
Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Hiến pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, nó chứa đựng các quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý và thể hiện những đƣờng lối cơ bản,
những chủ trƣơng lớn của Đảng đã đƣợc Nhà nƣớc thể chế hóa và có hiệu lực
thi hành trên toàn lãnh thổ nƣớc ta. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền
thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật. Chỉ có Quốc hội với tƣ cách là cơ quan
quyền lực nhà nƣớc tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này.
Và ngƣợc lại cũng chính việc Quốc hội, cơ quan duy nhất đƣợc quyền thông
qua các loại văn bản này mới chứng tỏ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nƣớc cao nhất [23, tr.273].
Thứ hai, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc thuộc thẩm quyền quyết
định của Quốc hội gồm các nội dung chủ yếu :
- Các vấn đề về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nƣớc nhƣ : Thành
lập, bãi bỏ các cơ quan trung ƣơng trong bộ máy nhà nƣớc; miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê chuẩn các chức vụ cao cấp nhất của Nhà nƣớc và những
18
ngƣời đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới hành chính...
- Các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, trong đó quyết định kế hoạch phát triển
kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; dự toán ngân sách nhà
nƣớc và phân bổ ngân sách trung ƣơng; quyết định chính sách dân tộc và
chính sách tôn giáo của Nhà nƣớc ...
- Các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhƣ : quyết định vấn đề
chiến tranh và hòa bình, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ƣớc quốc tế...
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước
Giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc hội, đƣợc bắt nguồn từ
quyền làm chủ tập thể của nhân dân và là một bộ phận không thể thiếu trong
toàn bộ hệ thống kiểm tra, thanh tra và giám sát của Đảng, Nhà nƣớc và nhân
dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội chính là việc Quốc hội theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Phạm vi và nội dung giám sát của Quốc hội
bao gồm nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau nhƣ kinh tế-ngân sách,
văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh và thi hành pháp luật. Mục đích hoạt
động giám sát của Quốc hội là nhằm góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nƣớc
và các cơ quan nhà nƣớc hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; bảo
đảm Hiến pháp, pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh; bảo đảm Nhà nƣớc ta
là Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.2.2 Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình
thành quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân
19
Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung và ý nghĩa của quyền giám sát tối cao
của Quốc hội, trƣớc hết chúng ta cần tìm hiểu về thuật ngữ "giám sát".
Qua nghiên cứu một số tài liệu cho thấy, hiện nay thuật ngữ "giám sát"
đƣợc hiểu từ các góc độ khác nhau:
- Giám sát là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã
quy định".
- Giám sát là "chức quan thời xƣa trông nom một loại công việc nhất
định" [52, tr.389].
- Giám sát là "sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động
thƣờng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hƣớng hoạt động của đối tƣợng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt đƣợc những mục đích, hiệu quả đã đƣợc xác định từ trƣớc,
bảo đảm cho pháp luật đƣợc tuân theo nghiêm chỉnh" [47, tr.174].
Với nhiều cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của thuật ngữ "giám sát"
khác nhau nhƣ vậy, nên để xác định tính chất quyền giám sát của Quốc hội
với tính cách là một biểu hiện của quyền lực nhà nƣớc, chúng ta cần xuất phát
từ việc xem xét nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nƣớc, mối tƣơng quan giữa
các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
Hiện nay, tuỳ thuộc sự khác biệt trong nguyên tắc tổ chức và cơ chế
vận hành của quyền lực nhà nƣớc mà ở các nƣớc có những sự khác biệt trong
việc quy định về quyền giám sát và chức năng giám sát của các cơ quan trong
bộ máy nhà nƣớc. Với mục đích duy trì và bảo vệ pháp chế, bảo đảm các cơ
quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức và mọi công dân phải thực
hiện đúng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình, các
nƣớc đều tìm cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất để ngăn chặn
sự vi phạm pháp luật, đặc biệt là chống lại sự lạm quyền từ phía các cơ quan
công quyền, trong đó có hoạt động giám sát từ Quốc hội. Ở nhiều nƣớc đã
20
thành lập các cơ quan nhà nƣớc chuyên môn để tiến hành hoặc hỗ trợ hoạt
động giám sát của Quốc hội (các Toà án hiến pháp và Hội đồng hiến pháp để
giám sát việc tuân thủ Hiến pháp; Thanh tra Quốc hội, những nhà chức trách
khác của Quốc hội để giám sát việc thực hiện nhân quyền; cơ quan kiểm
toán... để giám sát hoạt động hành chính - tài chính của các cơ quan nhà
nƣớc...). Thực tế các nƣớc cho thấy, giám sát của Quốc hội đã thể hiện là một
phƣơng thức hữu hiệu để cân bằng quyền lực và bảo đảm cho quyền lực nhà
nƣớc thực thi có hiệu quả.
Các nhà nƣớc tƣ sản, mặc dù có những nét riêng, nhƣng cơ chế giám
sát đƣợc thực hiện về cơ bản là giống nhau. Trên cơ sở nguyên tắc phân
quyền, các Nhà nƣớc tƣ sản áp dụng cơ chế kìm chế, đối trọng, dùng quyền
lực hạn chế quyền lực. Với cơ chế nhƣ vậy, các cơ quan trong Nhà nƣớc thực
hiện sự giám sát lẫn nhau một cách mạnh mẽ quyết liệt và cũng rất hiệu quả.
Mặt khác, do thực hiện chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng, các đảng phái
chính trị ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa cũng giữ vai trò rất lớn trong việc giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và nhân viên nhà nƣớc. Cũng bởi
vậy, cách thức tổ chức hoạt động giám sát cũng nhƣ cơ chế giám sát ở các
Nhà nƣớc tƣ sản không giống nhƣ mô hình và cơ chế giám sát ở nƣớc ta [35,
tr.376].
Ở Việt Nam, theo quan điểm của Đảng cũng nhƣ các quy định của pháp
luật, bộ máy nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo nguyên tắc "quyền lực nhà nƣớc
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp"[4, tr.45]. Trong đó,
Quốc hội, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nƣớc nên Quốc hội có quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực hiện
chúng trong đời sống thực tiễn. Về bản chất, quyền giám sát tối cao của Quốc
21
hội mang bản chất của quyền lực nhà nƣớc nghĩa là thực hiện ý chí của nhân
dân.
Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao với mục đích là kiểm
soát hệ thống các cơ quan hành pháp và tƣ pháp trong việc thực hiện chức
năng, quyền hạn của bộ máy hành chính, bộ máy tƣ pháp, việc thực thi pháp
luật và các quyết định của Quốc hội. Việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát
đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp và tƣ pháp xuất phát từ một vấn
đề có tính nguyên tắc: Cơ quan quyền lực nhà nƣớc cần phải kiểm soát các
hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nhằm duy trì sự vận hành của bộ máy nhà
nƣớc theo hƣớng đáp ứng tốt nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với tƣ
cách là cơ quan đại diện của dân, Quốc hội giám sát hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc ta là nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa [35, tr.376].
1.2.2.1 Các đặc trưng cơ bản của quyền giám sát của Quốc hội:
Thứ nhất, giám sát của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực nhà
nƣớc [54, tr.144]. Nội dung của quyền này thực chất là quyền của Quốc hội
với tƣ cách là cơ quan đại diện cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất
áp dụng các biện pháp đối với các đối tƣợng chịu sự giám sát nhằm bảo đảm
cho Hiến pháp, pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh. Ở nƣớc ta “Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2 - Hiến pháp 1992) và “Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. (Điều 6 - Hiến pháp 1992).
Vì thế, thực hiện quyền giám sát tối cao chính là Quốc hội thay mặt nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nƣớc do chính nhân dân giao cho.
Thứ hai, quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao. Bởi vì,
Quốc hội là cơ quan nhà nƣớc duy nhất đƣợc nhân dân giao cho thực hiện
22
quyền giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc và không thể có một
cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong việc xem xét thi hành Hiến pháp, luật
là những văn bản mà chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành. Tính chất tối
cao quyền giám sát của Quốc hội bắt nguồn từ vị trí pháp lý tối cao của Quốc
hội trong bộ máy nhà nƣớc [54, tr.145]. Tuy nhiên, Quốc hội dù là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, thay
mặt nhân dân cả nƣớc thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, vừa quyết
định luật, vừa giám sát các cơ quan nhà nƣớc thi hành luật, nhƣng phải bảo
đảm "không lẫn lộn với quyền hành pháp của Chính phủ cũng nhƣ quyền độc
lập xét xử của Toà án" [48, tr.14].
1.2.2.2 Chủ thể của quyền giám sát tối cao
Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định chủ thể duy
nhất thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội, nhƣ vậy Quốc hội nói ở
đây không phải là các cơ quan của Quốc hội mà là toàn thể các đại biểu Quốc
hội tại kỳ họp Quốc hội mới là chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao [54,
tr.146]. Mặt khác, với quy định "Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước" có nghĩa, không có bất kỳ một hoạt
động nào của các cơ quan nhà nƣớc là không thuộc đối tƣợng giám sát của
Quốc hội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc khẳng định Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, do Quốc hội hoạt động không thƣờng xuyên nên khó có thể giám
sát đƣợc mọi hoạt động của mọi cơ quan nhà nƣớc và nếu có giám sát thì chỉ
có thể giám sát các lĩnh vực hoạt động của Nhà nƣớc. Vì vậy, để Quốc hội có
thể thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc
trong khi Quốc hội hoạt động không thƣờng xuyên, Hiến pháp thực hiện cơ
chế uỷ quyền giám sát [54, tr.191].
23
Điều 1, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định:" Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở
hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội".
Nhƣ vậy, quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã đƣợc ủy quyền cho
các chủ thể theo quy định của Hiến pháp và pháp luật gồm có : Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội (cơ quan thường trực của Quốc hội), Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Mặc dù hoạt động giám sát của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu
Quốc hội không đƣợc xác định là giám sát tối cao nhƣng là một bộ phận cấu
thành của quyền giám sát tối cao. Trên cơ sở các thông tin có đƣợc qua hoạt
động giám sát của các chủ thể này, toàn thể các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp
Quốc hội mới có đầy đủ thông tin để xem xét, đánh giá chính xác, toàn diện
về thực trạng thi hành Hiến pháp, pháp luật trên phạm vi cả nƣớc để từ đó
"thực hiện quyền giám sát tối cao" có hiệu lực, hiệu quả và kịp thời hoàn
thiện hệ thống pháp luật cũng nhƣ đƣa ra những quyết định phù hợp về những
vấn đề quan trọng của đất nƣớc.
1.2.2.3 Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội
Về đối tƣợng chịu sự giám sát của Quốc hội, hiện nay còn có nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Có quan điểm cho rằng, Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc có nghĩa là Quốc hội
giám sát tất cả các lĩnh vực hoạt động Nhà nƣớc (lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp), tất cả các cơ quan Nhà nƣớc (cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng, các cơ
quan nhà nƣớc ở địa phƣơng, các ngành, các cấp) và mọi công dân [35,
tr.376]. Quan điểm khác lại cho rằng, đối tƣợng của giám sát tối cao chỉ có
24
thể là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn.
Hay nói cách khác, đối tƣợng giám sát tối cao của Quốc hội đó là các chủ thể
cao nhất của bộ máy nhà nƣớc bao gồm Chủ tịch nƣớc, Uỷ ban Thƣờng vụ
Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, những ngƣời đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ
[54, tr.147].
Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở trên, Quốc hội nƣớc ta không phải là
Quốc hội hoạt động chuyên trách, thời gian diễn ra các kỳ họp Quốc hội còn
ít, vì vậy để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao có hiệu quả thì Quốc
hội phải đƣợc tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp rành mạch về chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội tức là phải xác định cơ chế thực hiện quyền
giám sát của Quốc hội. Nói cách khác, quyền giám sát tối cao của Quốc hội
đƣợc ủy quyền cho Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Điều
này đƣợc thể hiện qua các quy định của Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và nhiều văn bản pháp luật khác về thẩm quyền giám sát của
các chủ thể này. Do đó, có thể khẳng định rằng, mọi lĩnh vực hoạt động Nhà
nƣớc, mọi cơ quan nhà nƣớc đều thuộc đối tƣợng giám sát của Quốc hội
1.2.2.4 Nội dung của hoạt động giám sát
Căn cứ các quy định của Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật có
liên quan, hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm các nội dung :
- Thứ nhất, giám sát hoạt động và việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của các đối tƣợng chịu sự giám sát.
25
- Thứ hai, xử lý các hành vi vi phạm bằng các biện pháp chế tài nhƣ:
bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nƣớc; đình
chỉ, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, pháp luật.
1.2.2.5 Phương thức thực hiện
Hoạt động giám sát của Quốc hội đƣợc thực hiện tại kỳ họp và giữa hai
kỳ họp Quốc hội.
Thứ nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua việc xem xét
báo cáo của Chủ tịch nƣớc, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các kỳ họp Quốc hội.
Thứ hai, Giám sát thông qua chất vấn của đại biểu Quốc hội trong hoặc
ngoài kỳ họp.
Thứ ba, Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở cơ sở, địa phƣơng của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc của Uỷ ban lâm thời của Quốc
hội.
Thứ tư, Giám sát qua việc xem xét việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.3 QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
1.3.1 Khái niệm quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân
Từ việc xem xét vị trí pháp lý của Quốc hội theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật, trong mối quan hệ giữa Quốc hội với các thiết chế khác trong
bộ máy nhà nƣớc thì Quốc hội đứng ở vị trí cao nhất về mặt quyền lực nhà
nƣớc. Hiến pháp năm 1992 quy định “Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83), “Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội”(Điều 84) nghĩa là không có bất kỳ một hoạt động nào của các cơ quan
26
nhà nƣớc là không thuộc đối tƣợng giám sát tối cao của Quốc hội [54, tr.191],
đồng thời, mọi quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đều
phải đƣợc Quốc hội theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực hiện chúng trong
đời sống thực tiễn.
Mặt khác, nhƣ đã phân tích ở trên, khiếu nại, tố cáo là một trong những
quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp quy định và bảo vệ. Trên cơ sở
các quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác mới cụ thể hoá, xác
lập những cơ chế để bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc thực hiện trong
thực tế. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các đạo luật đều có các điều khoản ghi
nhận quyền khiếu nại, tố cáo đi kèm nhƣ một chế định đảm bảo cho quyền,
lợi ích của các bên khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật mà đạo luật đó điều
chỉnh. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xây dựng pháp luật ở nƣớc
ta. Bản chất của luật là xác lập và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ
thể. Mối quan hệ đó suy cho cùng không ngoài những vấn đề về quyền, nghĩa
vụ, lợi ích của các bên liên quan mà Nhà nƣớc và pháp luật dự liệu, bảo vệ.
Do vậy, mỗi khi có sự vi phạm các quyền, lợi ích nào đó thì pháp luật cũng
quy định cho các bên đƣợc dùng quyền khiếu nại, tố cáo để tự bảo vệ thông
qua sự can thiệp của Nhà nƣớc. Các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền
khi nhận đƣợc khiếu nại, tố cáo của công dân phải xem xét, giải quyết kịp
thời. Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền
tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc
bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”. Nhƣ vậy, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân chính là việc các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có
thẩm quyền "sử dụng quyền lực nhà nƣớc" mà Hiến pháp, pháp luật giao để
xem xét, xử lý các thông tin, yêu cầu đƣợc nêu trong khiếu nại, tố cáo của
27
công dân, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân cũng là “hoạt động của Nhà nƣớc” và chịu sự giám sát tối cao của Quốc
hội.
Vì vậy, có thể hiểu quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền của Quốc hội tiến hành các biện
pháp giám sát tối cao nhằm bảo đảm cho các quy định của Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
được thi hành nghiêm chỉnh.
Về bản chất, quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân không phải là một “nhánh” quyền lực độc lập đƣợc
quy định trong Hiến pháp mà nó là quyền phái sinh từ quyền giám sát tối cao
của Quốc hội, là một bộ phận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Chất
lƣợng, hiệu quả của việc thực hiện quyền này là một trong những yếu tố chỉ
mức độ hiệu quả của quyền giám sát tối cao và cũng là một trong những yếu
tố khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội trong thực tiễn vận hành của cơ chế
tổ chức quyền lực nhà nƣớc.
1.3.2 Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân
Hiến pháp 1992 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam...”(Điều 83) và “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Do đó, có thể nói trong cơ chế bảo đảm việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân nói chung và quyền
khiếu nại, tố cáo nói riêng, Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất. Một mặt,
28
mỗi cá nhân bằng việc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín
bầu ra các đại biểu Quốc hội để thông qua đó thực hiện quyền lực nhà nƣớc
của mình. Mặt khác, Quốc hội là cơ quan có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ
máy nhà nƣớc bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân với tƣ cách
cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân.
Quốc hội bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân nói chung và việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nói
riêng thông qua các phƣơng thức nhƣ bằng hoạt động lập hiến, lập pháp, bằng
hoạt động giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
mình, bằng hoạt động quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng nhất của
đất nƣớc, trong đó hoạt động giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
là một phƣơng thức thực hiện quyền lực của nhân dân có ý nghĩa quan trọng.
Cụ thể là:
a) Việc khiếu nại, tố cáo của công dân một mặt biểu hiện quyền giám
sát trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nƣớc, mặt khác lại là nguồn
thông tin quan trọng cho hoạt động giám sát. Thông qua hoạt động giám sát,
Quốc hội nắm bắt đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng và những yêu cầu bức xúc của
ngƣời dân và qua đó kiến nghị những giải pháp kịp thời, phù hợp góp phần
vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi bị xâm hại.
b) Qua giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Quốc
hội có thể phát hiện những tồn tại trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó kiến nghị giải pháp
khắc phục những khó khăn, bất cập, chấn chỉnh về mặt tổ chức, hoạt động,
góp phần bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
thúc đẩy cải cách tƣ pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nƣớc
29
trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nƣớc ta.
c) Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội không chỉ tác động
tích cực đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát mà nó còn có sự liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với việc thực hiện
chức năng lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nƣớc. Một
mặt, thông qua hoạt động giám sát đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, Quốc hội có thể phát hiện những bất cập trong hệ thống pháp
luật cũng nhƣ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, phát hiện
những vấn đề nào, quan hệ nào cần có sự điều chỉnh của pháp luật, những quy
định nào, chế định nào không còn phù hợp với thực tiễn để từ đó có những
sửa đổi, bổ sung kịp thời. Mặt khác, hoạt động giám sát sẽ giúp Quốc hội có
thể hoạch định những chính sách lớn và quyết định những vấn đề quan trọng
đƣợc sát với thực tiễn, yêu cầu của xã hội.
1.3.3 Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân
1.3.3.1 Chủ thể thực hiện quyền
Qua việc phân tích về quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn
bộ hoạt động của Nhà nƣớc cũng nhƣ phân tích khái niệm về quyền giám sát
của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, có thể
thấy chỉ có Quốc hội mới là chủ thể duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên phạm vi cả
nƣớc. Tuy nhiên, do tính chất hoạt động không thƣờng xuyên nên Quốc hội
không thể trực tiếp giám sát đối với mọi đối tƣợng, mọi khâu trong quá trình
thực hiện Hiến pháp và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
nên quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã đƣợc uỷ quyền cho Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
30
Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các chủ thể này có quyền tiến hành các hoạt
động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong phạm vi
đƣợc phân công.
1.3.3.2 Đối tượng chịu sự giám sát
Mọi cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong việc giải quyết
khiếu nại tố cáo của công dân đƣợc Hiến pháp và pháp luật quy định đều là
đối tƣợng chịu sự giám sát của Quốc hội. Trong đó, đối tƣợng trực tiếp,
thƣờng xuyên chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội chỉ tập trung vào các đối
tƣợng ở trung ƣơng, là các chủ thể cao nhất của bộ máy nhà nƣớc bao gồm
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những
ngƣời đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ.
1.3.3.3 Phạm vi giám sát
Quốc hội có quyền giám sát tối cao việc thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những ngƣời đứng đầu các cơ quan này
và các thành viên của Chính phủ. Căn cứ vào kết quả hoạt động giám sát,
Quốc hội có thể ra quyết định miễn nhiệm, bãi nhiệm nếu thấy có hành vi vi
phạm pháp luật hoặc phê chuẩn đề nghị của ngƣời có thẩm quyền về việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức các chức vụ. Hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội đƣợc thực hiện trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân của các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trên phạm vi
toàn quốc.
1.3.4 Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
31
Để bảo đảm hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội đối với việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã quy định
cụ thể các hình thức giám sát của Quốc hội với tƣ cách là cơ quan quyền lực
nhà nƣớc cao nhất, của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.3.4.1 Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp
Quốc hội nƣớc ta họp thƣờng lệ 2 kỳ mỗi năm, làm việc theo chế độ
hội nghị và quyết định theo đa số. Tại kỳ họp, nơi biểu hiện trực tiếp và tập
trung nhất quyền lực nhà nƣớc, ngoài việc xây dựng pháp luật và quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nƣớc, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc nói chung và giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng. Hoạt động giám sát của Quốc hội tại
kỳ họp là phƣơng thức giám sát quan trọng nhất, có tác động lớn nhất đến
hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ toàn xã hội. Tại kỳ họp, Quốc
hội thực hiện quyền giám sát thông qua các hình thức:
Thứ nhất, xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân.
Đây là một nội dung quan trọng trong toàn bộ hoạt động giám sát của
Quốc hội. Tại kỳ họp Quốc hội cuối năm, Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Quốc hội về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của mình. Xem
xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc tập thể Quốc hội cùng thảo
luận, phân tích đánh giá kết quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các
32
cơ quan nhà nƣớc. Qua xem xét thảo luận các báo cáo, Quốc hội nắm đƣợc
thông tin đầy đủ, chính xác và toàn diện về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo của các cơ quan này. Trên cơ sở đó, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan này theo Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của
Quốc hội và xem xét, đánh giá về trách nhiệm của họ trong công tác giải
quyết, khiếu nại tố cáo của công dân. Để việc xem xét đánh giá của Quốc hội
có chất lƣợng, một mặt đại biểu Quốc hội phải thu thập thông tin thật đầy đủ,
khách quan, có thể từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ thông tin đƣợc nêu trong
các báo cáo, thông tin qua việc tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của công dân,
thông tin từ phƣơng tiện thông tin đại chúng, thông tin đƣợc đề cập trong báo
cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật (Cơ quan của Quốc hội đƣợc giao thẩm tra
các báo cáo này), từ báo cáo công tác dân nguyện của Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội...Mặt khác, yêu cầu các báo cáo của các cơ quan trình Quốc hội phải
đầy đủ, khách quan, nêu đúng thực trạng của công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền, những kết quả đã đạt đƣợc, những khó khăn, yếu kém
còn tồn tại, từ đó đề ra đƣợc những biện pháp giải quyết và có những kiến
nghị, đề xuất việc giải quyết. Thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo, Quốc hội có quyền :
- Ra nghị quyết về tình hình thực hiện pháp luật trong công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong đó, yêu cầu
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có biện
pháp đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kịp thời
giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo không để tồn đọng, kéo dài,
xử lý nghiêm minh đối ngƣời vi phạm.
33
- Quyết định việc xem xét trách nhiệm đối với Thủ tƣớng Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Thứ hai, xem xét việc trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đối với các chất vấn của đại
biểu Quốc hội về tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong
phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của mình.
Chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp là một trong những hình
thức giám sát quan trọng của Quốc hội. Chất vấn của đại biểu Quốc hội không
phải là câu hỏi mang tính chất cung cấp thông tin thông thƣờng mà mang tính
quyền lực. Khi đại biểu Quốc hội chất vấn thì đấy là chất vấn của cơ quan
quyền lực, phát sinh quyền và trách nhiệm pháp lý bắt buộc những cá nhân và
cơ quan hữu quan phải nghiên cứu trả lời.
Tại kỳ họp, đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tƣớng Chính phủ,
Bộ trƣởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, yêu cầu giải trình về
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết của họ.
Ngƣời bị chất vấn, theo quy định của pháp luật, buộc phải giải trình trƣớc
Quốc hội về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và nếu có sai
sót thì phải nêu về những nhƣợc điểm, tồn tại trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền cá nhân ngƣời đó phụ trách, đồng thời
phải trả lời về nguyên nhân và biện pháp khắc phục tình trạng trên.
Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thể hiện trực tiếp
quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nƣớc hữu quan
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đại biểu Quốc hội
lúc này nhân danh quyền lực nhà nƣớc cao nhất mà phán xét trách nhiệm
34
pháp lý của các cá nhân bị chất vấn. Ngƣời bị chất vấn phải trả lời trực tiếp,
đầy đủ các nội dung vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn. Nếu việc trả lời
chất vấn của ngƣời bị chất vấn không thoả đáng với nội dung chất vấn thì đại
biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó
hoặc đƣa ra thảo luận tại Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội hoặc phiên họp khác
của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị Quốc hội xem xét trách
nhiệm đối với ngƣời bị chất vấn.
Căn cứ vào kết quả chất vấn và trả lời chất vấn, Quốc hội có thể thảo
luận và ra nghị quyết về vấn đề chất vấn nếu thấy cần thiết.
Thứ ba, khi tình hình khiếu nại, tố cáo trở nên bức xúc hoặc có vụ việc
khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài, được dư luận quan tâm, Quốc hội có thể
thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra và xem xét báo cáo kết quả điều tra của
Uỷ ban lâm thời về việc giải quyết của cơ quan hữu quan đối với khiếu nại, tố
cáo đó.
Trong trƣờng hợp cần thiết, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội tự mình hoặc
theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành
lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về thực trạng khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo ở một vùng, một địa phƣơng hay điều tra đối với một vụ việc
cụ thể mà đƣơng sự khiếu nại gay gắt, kéo dài hoặc đƣợc dƣ luận quan tâm.
Có thể nói, việc thành lập Uỷ ban lâm thời là phƣơng thức thực hiện
quyền giám sát tối cao không có tính phổ biến. Phƣơng thức này thƣờng chỉ
xảy ra khi tiến hành giám sát tối cao bằng các phƣơng thức khác nhƣng có
một hay một số hoạt động nào đó của đối tƣợng bị giám sát chƣa đƣợc làm rõ
mà các chủ thể nhƣ đã nói ở trên yêu cầu làm rõ thêm [54, tr.155].
Khi tiến hành điều tra, Uỷ ban lâm thời có quyền yêu cầu các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến vấn đề cần điều tra cung cấp tài liệu hoặc
35
trực tiếp đến trình bày những vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo mà Uỷ
ban lâm thời đang tiến hành xem xét, thẩm tra. Báo cáo kết quả điều tra của
Uỷ ban lâm thời đƣợc trình bày trƣớc Quốc hội để Quốc hội xem xét, thảo
luận và cho ý kiến. Căn cứ vào kết quả thảo luận của đại biểu Quốc hội đối
với Báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban lâm thời, Quốc hội sẽ ra nghị quyết
về vấn đề đƣợc điều tra.
1.3.4.2 Các hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân giữa hai kỳ họp
Thứ nhất, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân
Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ quan thƣờng trực của Quốc hội. Với
tính chất là cơ quan thƣờng trực của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đƣợc Hiến
pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật
khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan quy định cụ thể
những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân. Xuất phát từ tính chất của Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nƣớc cao nhất, có thẩm quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nƣớc nên phạm vi giám sát của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội cũng rất
rộng bao gồm giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành
pháp, cơ quan tƣ pháp ở trung ƣơng và địa phƣơng.
Việc xem xét báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một
trong những hình thức giám sát chính và quan trọng của Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thông qua
hoạt động xem xét báo cáo của các cơ quan này, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội
36
đánh giá đƣợc thực trạng khiếu nại, tố cáo của công dân và tình hình, chất
lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nƣớc, từ đó có những
kiến nghị kịp thời tới các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để có biện pháp
khắc phục những tồn tại, nâng cao chất lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân.
Nguồn thông tin để Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội làm cơ sở xem xét các
báo cáo đƣợc thu thập từ nhiều nguồn nhƣ thông tin ngay trong các báo cáo
của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
thông tin từ việc tiếp nhận đơn thƣ khiếu nại, tố cáo của công dân, thông tin
từ dƣ luận xã hội, từ báo cáo của các đoàn giám sát, từ báo cáo công tác dân
nguyện của Ban dân nguyện của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ( là cơ quan
giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân) cũng nhƣ các báo cáo chuyên đề về giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội,
thông tin từ báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật... Đây là những nguồn
thông tin quan trọng để Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét một cách khách
quan, đầy đủ đối với báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách
nhiệm của các cơ quan này.
Thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội có quyền:
- Ra nghị quyết về tình hình thực hiện pháp luật trong công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Kiến nghị, yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét, xử lý
đối với những ngƣời vi phạm cũng nhƣ đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm
37
đối với Thủ tƣớng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ hai, giám sát việc chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc
hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại phiên họp của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có
quyền chất vấn Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Chất vấn
đƣợc gửi đến Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội để chuyển đến những ngƣời bị chất
vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Tại phiên họp của Uỷ ban thƣờng
vụ Quốc hội, ngƣời bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trực tiếp, đầy đủ nội
dung các vấn đề liên quan đến chất vấn nêu trên cũng nhƣ những chất vấn đã
đƣợc nêu tại kỳ họp Quốc hội đƣợc Quốc hội cho phép trả lời tại phiên họp
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý thì có
quyền yêu cầu Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đƣa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc
hội. Khi cần thiết, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ra nghị quyết việc trả lời chất
vấn và trách nhiệm của ngƣời bị chất vấn.
Thứ ba, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội thành lập đoàn giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Qua thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội cho thấy hình thức tổ
chức đoàn giám sát để giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan hữu quan đƣợc Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội rất quan tâm, chú trọng và đang
ngày càng phát huy hiệu quả. Thông qua việc tổ chức các đoàn giám sát, Uỷ
ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại
38
biểu Quốc hội có đƣợc nguồn thông tin đầy đủ, chính xác về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hữu quan từ đó có những kiến nghị
kịp thời, phù hợp với các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền nhằm nâng cao chất
lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trƣớc khi tiến hành giám sát, đoàn giám sát phải xây dựng kế hoạch,
nội dung, chƣơng trình, mục đích, thời gian, địa điểm..giám sát và thông báo
tới đối tƣợng chịu sự giám sát. Khi tiến hành giám sát, đoàn giám sát có
quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự giám sát cũng nhƣ có liên
quan cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến hoạt động giám sát của
Đoàn. Đoàn giám sát còn yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân
chịu sự giám sát cũng nhƣ có liên quan trả lời trực tiếp các vấn đề mà Đoàn
quan tâm. Trên cơ sở các thông tin thu thập đƣợc qua giám sát, đoàn giám sát
đánh giá, kết luận về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức,
đơn vị chịu sự giám sát và đƣa ra các kiến nghị để giải quyết. Đoàn có quyền
kiến nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm
phải chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp
cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị xâm hại. Đoàn giám sát có thể yêu
cầu, kiến nghị các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét trách nhiệm, xử
lý đối với ngƣời có hành vi vi phạm. Các kiến nghị, yêu cầu của đoàn giám
sát phải đƣợc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan xem xét, thực hiện.
Tất cả các nội dung này đƣợc phản ánh trong báo cáo giám sát của Đoàn để
báo cáo Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
và Đoàn đại biểu Quốc hội.
Căn cứ vào kết quả hoạt động giám sát của Đoàn giám sát, Uỷ ban
thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội có quyền :
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại
Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại

More Related Content

What's hot

Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đaiĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đaiDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (15)

Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đaiĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
 
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...
Luận án: Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành...
 
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOTLuận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú YênLuận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
 
Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân ở quận Thanh Xuân, HAY
Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân ở quận Thanh Xuân, HAYBảo đảm quyền khiếu nại của công dân ở quận Thanh Xuân, HAY
Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân ở quận Thanh Xuân, HAY
 
Giải quyết khiếu nại hành chính của Chủ tịch UBND quận Tân Bình
Giải quyết khiếu nại hành chính của Chủ tịch UBND quận Tân BìnhGiải quyết khiếu nại hành chính của Chủ tịch UBND quận Tân Bình
Giải quyết khiếu nại hành chính của Chủ tịch UBND quận Tân Bình
 
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOTLuận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOTĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm thời trong giải quyết vụ án kinh doanh
Luận văn: Biện pháp tạm thời trong giải quyết vụ án kinh doanhLuận văn: Biện pháp tạm thời trong giải quyết vụ án kinh doanh
Luận văn: Biện pháp tạm thời trong giải quyết vụ án kinh doanh
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOT
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOTLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOT
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOT
 
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hộiLuận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của Đoàn Đại biểu Quốc hội
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phườngLuận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND phường
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOTLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
 

Similar to Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại

Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại (20)

Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
Hoạt Động Giám Sát Của Đại Biểu Quốc Hội Và Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Ở Việt Nam...
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOTLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
 
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
 
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luậtPháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
 
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
 
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hộiLuận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
Luận văn: Giám sát giải quyết khiếu nại của đoàn đại biểu quốc hội
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOTĐề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực của UBND, HOT
 
Đề tài: Quản lý về chứng thực của UBND phường tại Hà Nội, HAY
Đề tài: Quản lý về chứng thực của UBND phường tại Hà Nội, HAYĐề tài: Quản lý về chứng thực của UBND phường tại Hà Nội, HAY
Đề tài: Quản lý về chứng thực của UBND phường tại Hà Nội, HAY
 
Quản lý về chứng thực của UBND phường quận Thanh Xuân, 9đ
Quản lý về chứng thực của UBND phường quận Thanh Xuân, 9đQuản lý về chứng thực của UBND phường quận Thanh Xuân, 9đ
Quản lý về chứng thực của UBND phường quận Thanh Xuân, 9đ
 
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAYLuận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
Luận văn: Điều trần tại ủy ban của nghị viện một số nước, HAY
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOTĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
 
Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAYLuận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAYLuận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
 
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAYLuận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (19)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Đề tài: Quyền giám sát của Quốc hội đối với giải quyết khiếu nại

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO MẠNH LINH QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2006
  • 2. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Mở đầu ..................................................................................................... 1 Chương 1 - một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .... 6 1.1. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân .............................................. 6 1.1.1. Khái niệm về khiếu nại, tố cáo ....................................................... 6 1.1.2. Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo ...................................... 12 1.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội ............................................... 15 1.2.1. Vị trí pháp lý của Quốc hội ............................................................ 15 1.2.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình thành quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ............................................................................................ 18 1.3. Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ...................................................................................... 24 1.3.1. Khái niệm quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................................. 24 1.3.2. Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .................................................................................. 26 1.3.3. Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................................. 28 1.3.4. Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................ 29 Chương 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ..................... 43 2.1. Quá trình hình thành, phát triển hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ 1945 đến trước khi ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 ........................................ 43
  • 3. 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960 ........................................................... 43 2.1.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1980 ........................................................... 45 2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ........................................................... 47 2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 1998 ........................................................... 50 2.2. Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ khi Quốc hội ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đến nay ................................................................... 54 2.2.1. Về hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp ............................ 55 2.2.2. Về hoạt động giám sát của Quốc hội giữa hai kỳ họp ................... 56 2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ khi Quốc hội ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đến nay .................................................................. 60 2.3.1. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các kỳ họp Quốc hội .................................................................... 60 2.3.2. Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ................................................ 63 2.3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ............................ 66 2.3.4. Hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ............. 69 Chương 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .................................................................. 76 3.1. Yªu cÇu kh¸ch quan ph¶i t¨ng c-êng ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ...................... 76 3.1.1. Yªu cÇu x©y dùng Nhµ n-íc ph¸p quyÒn x· héi chñ nghÜa cña nh©n d©n, do nh©n d©n, v× nh©n d©n ......................................................... 77 3.1.2. Yªu cÇu hoµn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt .......................................... 78 3.1.3. XuÊt ph¸t tõ yªu cÇu b¶o ®¶m quyÒn khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng
  • 4. d©n vµ tõ thùc tr¹ng khiÕu n¹i, tè c¸o vµ viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ...................................................................................... 79 3.2. Mét sè quan ®iÓm c¬ b¶n vÒ n©ng cao hiÖu qu¶ thùc hiÖn quyÒn gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ................................................................................................... 80 3.3. Gi¶i ph¸p ®æi míi ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ................................................ 83 3.3.1. Hoµn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt ®Ó t¹o c¬ së ph¸p lý ®Çy ®ñ, thèng nhÊt vµ ®ång bé cho ho¹t ®éng gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ....................................................... 83 3.3.2. Hoµn thiÖn c¬ cÊu tæ chøc cña Quèc héi ....................................... 85 3.3.3. Hoµn thiÖn ph-¬ng thøc ho¹t ®éng cña Quèc héi .......................... 87 3.3.4. T¨ng c-êng c¸c ®iÒu kiÖn b¶o ®¶m cho viÖc thùc hiÖn quyÒn gi¸m s¸t cña Quèc héi ®èi víi viÖc gi¶i quyÕt khiÕu n¹i, tè c¸o cña c«ng d©n ................................................................................................... 92 3.3.5. Ph¸t huy vai trß gi¸m s¸t cña nh©n d©n ®èi víi ho¹t ®éng cña Quèc héi b¶o ®¶m quyÒn lùc nhµ n-íc thùc sù thuéc vÒ nh©n d©n ......... 94 KÕt luËn .................................................................................................... 97 Danh môc tµi liÖu tham kh¶o ................................................................... 99 Phô lôc ..................................................................................................... 105
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nƣớc, Quốc hội đƣợc xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản của đất nƣớc. Đồng thời Quốc hội là cơ quan có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc, trong đó có nội dung giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Quyền giám sát của Quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nƣớc là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc nói chung và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, trong thời gian qua, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đã thƣờng xuyên tiến hành giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thông qua các phƣơng thức: xem xét các báo cáo của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, báo cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thành lập đoàn giám sát thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các Bộ, ngành, địa phƣơng; giám sát việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể có dấu hiệu vi phạm pháp luật .v.v.
  • 6. 2 Thông qua các hoạt động này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã kiến nghị nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động… nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, làm cơ sở để Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kịp thời sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm không còn phù hợp với thực tiễn, đề xuất những giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót xảy ra, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, song công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong thời gian qua vẫn còn có nhiều hạn chế. Qua công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy, tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp, số lƣợng đơn, thƣ khiếu nại, tố cáo ngày càng tăng, nhiều đơn, thƣ gửi vƣợt cấp, gửi đến các cơ quan không có thẩm quyền giải quyết và gửi đến nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc. Tuy nhiên, số lƣợng đơn thƣ khiếu nại, tố cáo mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chuyển đến các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền yêu cầu xem xét, giải quyết theo thẩm quyền còn chiếm một tỷ lệ thấp so với số lƣợng đơn, thƣ đã tiếp nhận. Số lƣợng đơn, thƣ đƣợc xử lý lại tập trung chủ yếu vào những vụ việc có ý kiến đề nghị của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết cũng chƣa đƣợc chú trọng nên số vụ việc đƣợc các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền xem xét, trả lời cũng đạt tỷ lệ thấp. Ví dụ nhƣ : trong năm 2005, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý 20.250 đơn thư
  • 7. 3 khiếu nại, tố cáo của công dân, đã chuyển 1.331 đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết và chỉ nhận được 433 văn bản trả lời, chiếm 32,5% [3]. Vì vậy, cần thiết phải có sự nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động này trong thời gian qua ở nƣớc ta để có những giải pháp hữu hiệu, sát thực, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tiến tới xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động giám sát của Quốc hội là vấn đề cấp thiết, đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu thƣờng mới chỉ tập trung vào các vấn đề chung về quyền giám sát tối cao mà chƣa đi sâu vào những hoạt động cụ thể để thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Đối với hoạt động tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội tuy cũng đã đƣợc nghiên cứu tại Đề tài "Nghiên cứu thực trạng và những vấn đề cần đổi mới trong công tác dân nguyện của Quốc hội" do Vụ Dân nguyện, Văn phòng Quốc hội thực hiện năm 1996 nhƣng Đề tài này lại chủ yếu đề cập đến việc cải cách các thủ tục hành chính trong việc xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân mà chƣa đi sâu làm rõ các vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân để có những giải pháp thực sự hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội. Cũng có nhiều bài báo, hội thảo, hội nghị đƣợc tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đã bàn về hoạt động giám sát của Quốc hội nhƣng vẫn chƣa chú trọng tới hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân hoặc nếu có thì chủ yếu chỉ chú ý tới hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, nhận
  • 8. 4 và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân. Chính vì vậy, đề tài luận văn "Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân" là phƣơng hƣớng nghiên cứu mới đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn bức xúc hiện nay. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và thực tiễn thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, đánh giá thực trạng thực hiện quyền này trong những năm qua, nêu ra những bất cập, tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. 4. Cơ sở khoa học của đề tài - Cơ sở lý luận : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc ta. - Cơ sở thực tiễn : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đánh giá những thành tựu và những hạn chế để đƣa ra những giải pháp hoàn thiện. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, lịch sử, thống kê và so sánh đối chiếu để nghiên cứu về những vấn đề lý luận của hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, thực tiễn thực hiện trong thời gian qua và từ đó đƣa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
  • 9. 5 6. Điểm mới của đề tài - Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền giám sát tối cao của Quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; phân tích và chỉ ra những nhƣợc điểm, vƣớng mắc cần khắc phục; - Đề tài nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong thời gian tới nhƣ hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ cấu, tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân ... 7. Kết cấu của Luận văn. Luận văn đƣợc kết cấu gồm ba chƣơng và phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Chƣơng 1 - Một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Chƣơng 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Chƣơng 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
  • 10. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 1.1 QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 1.1.1 Khái niệm về khiếu nại, tố cáo Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm. Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời ngày 10 tháng 12 năm 1948 trong Chƣơng 8 đã ghi nhận “Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền chống những hành động vi phạm các quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp hoặc luật pháp thừa nhận” [56, tr.5]. Trong phạm vi quốc gia, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nƣớc mà nội dung quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc quy định khác nhau. Điều 41 Hiến pháp của nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1993 quy định “..Các công dân có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc kiện bất kỳ cơ quan hoặc công chức nhà nước nào về những vi phạm pháp luật hoặc vì thiếu tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ nhưng nghiêm cấm việc xuyên tạc, bịa đặt với mục đích bôi nhọ, lừa dối hoặc vu cáo...” [27, tr.980]. Ở nƣớc ta, quyền khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân và đƣợc Hiến pháp ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 29 Hiến pháp 1959 : "Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”. Từ đó đến nay, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã tiếp tục đƣợc khẳng định và hoàn thiện trong các bản Hiến pháp sau này cũng nhƣ trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhƣ
  • 11. 7 Luật khiếu nại, tố cáo, các luật về tổ chức, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự .v.v., cụ thể là Điều 74 Hiến pháp 1992 đã quy định : "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định..." Để thấy rõ quyền khiếu nại, tố cáo, quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thì cần phải phân tích khái niệm khiếu nại, tố cáo. 1.1.1.1 Khái niệm khiếu nại Ở nhiều nƣớc, ngƣời ta quan niệm khiếu nại là việc công dân, pháp nhân hay một nhóm công dân yêu cầu đƣợc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc [32]. Ở nƣớc ta, tuy quyền khiếu nại đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp cũng nhƣ đƣợc quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣng có thể nói chƣa có một văn bản nào chính thức ghi nhận khái niệm khiếu nại là gì. Luật khiếu nại, tố cáo tuy cũng có quy định về khiếu nại nhƣng đó chỉ là khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đề cập tới khiếu nại một cách chung nhất chỉ có Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm 1971 của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại và tố cáo, trong đó xác định "Đơn khiếu nại là chỉ những sự việc của đương sự khiếu vì quyền lợi bị thiệt hại, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết (đơn đề đạt nguyện vọng xếp vào loại đơn khiếu nại)" [21, tr.48]. Trong khoa học pháp lý có những quan niệm khác nhau về khái niệm này, đƣợc các tác giả lý giải từ những giác độ khác nhau. Theo Từ điển Tiếng
  • 12. 8 Việt, khiếu nại thƣờng đƣợc hiểu là "đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý" [52, tr.483]. Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý phổ thông, khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay của người khác [41, tr. 202]. Cũng có quan điểm khác cho rằng, khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra [28]. Tuy nhiên, theo các khái niệm này, các tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa quyền khiếu nại của công dân với quyền kiến nghị, yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Có thể dẫn chứng qua quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội khi phát hiện có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị với ngƣời có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt vi phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với ngƣời vi phạm (Điều 87 Luật khiếu nại, tố cáo). Hoặc, khi giữa các cá nhân, tổ chức xảy ra tranh chấp khi tham gia một "quan hệ dân sự", dựa trên nguyên tắc tự thoả thuận thì bên cho rằng mình bị thiệt hại có thể yêu cầu bên kia sửa chữa, khắc phục hoặc bồi thƣờng. Đồng thời, bên cạnh việc “trông chờ” bên vi phạm có hành động khắc phục thì bên bị vi phạm có quyền chủ động bảo vệ quyền, lợi ích của mình (khởi kiện ra Tòa án, phạt hợp đồng...). Phân tích nội dung các quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền khiếu nại của công dân có thể thấy một số đặc trƣng của khiếu nại nhƣ sau:
  • 13. 9 Thứ nhất, khiếu nại xuất phát từ nhận thức chủ quan của ngƣời khiếu nại cho rằng quyền và lợi ích chính đáng của mình bị xâm phạm [22, tr.64]. Nói cách khác, khiếu nại là một hình thức phản ứng của công dân, cơ quan, tổ chức với những hiện tƣợng vi phạm các quyền và lợi ích của họ đƣợc pháp luật bảo vệ. Thứ hai, khiếu nại luôn mang trong mình thông tin về sự vi phạm các quyền và lợi ích của công dân đƣợc pháp luật quy định hoặc bắt nguồn từ những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa và những quy định của cộng đồng cũng nhƣ sự vi phạm các quyền lợi cá nhân khác của công dân. Việc xác định loại vi phạm cụ thể hoặc thiệt hại cụ thể bởi những việc làm trái pháp luật là yếu tố nhất thiết của nội dung khiếu nại [56, tr.37]. Thứ ba, ngƣời khiếu nại không thể tự khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Sự khiếu nại của họ trông chờ vào quyết định của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền. Vì vậy, có thể hiểu khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét lại việc làm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ. 1.1.1.2 Khái niệm tố cáo Tố cáo là một quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp, pháp luật quy định. Khoản 2 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “ Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá
  • 14. 10 nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm 1971 của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại và tố cáo quy định : “Đơn tố cáo là đơn nói những hành vi sai phạm của cán bộ, cơ quan làm sai chế độ, chính sách, pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích tập thể và của Nhà nước”. Theo Từ điển Tiếng Việt, tố cáo là "Báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó" hay "Vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn" [52, tr.973]. Ở các nƣớc, ngƣời ta quan niệm tố cáo là một hình thức thông tin giúp cho các cơ quan nhà nước đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm pháp luật và tố cáo vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Pháp luật các nƣớc đều có xu hƣớng khuyến khích mọi ngƣời phát hiện và thông báo cho cơ quan nhà nƣớc về những hành vi vi phạm pháp luật. Ở nhiều nƣớc nhƣ Mỹ, Hàn Quốc, Malaixia ... ngƣời ta lập ra các hòm thƣ đặc biệt hoặc các đƣờng dây điện thoại nóng để tiếp nhận các thông tin tố cáo 24/24 giờ [32]. Nhƣ vậy, tố cáo thực chất là việc phát hiện và báo cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật nào đó diễn ra trong đời sống xã hội. Tố cáo khác với khiếu nại về tính chất, nội dung, mục đích. Tố cáo, thông thƣờng đó là sự phát hiện những vi phạm nào đó của hoạt động bình thƣờng diễn ra trong đời sống xã hội mà không liên quan đến quyền và lợi ích của những con ngƣời cụ thể; đó là sự thông báo về những hành vi lạm dụng, những việc làm trái pháp luật và những vi phạm khác đối với pháp chế xã hội chủ nghĩa mà chính những vi phạm đó không xâm phạm đến quyền và lợi ích của những ngƣời tố cáo hoặc của những ngƣời cụ thể khác [56, tr.39].
  • 15. 11 Ở nƣớc ta, quyền tố cáo là một quyền cơ bản, quan trọng của công dân, là “phƣơng tiện” để công dân bảo vệ mình, bảo vệ ngƣời khác. Thực hiện quyền tố cáo tức là công dân tỏ rõ trách nhiệm của mình trong việc giám sát hoạt động quản lý của Nhà nƣớc, để xây dựng bộ máy nhà nƣớc ngày càng vững mạnh và trong sạch, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nƣớc ta thật sự là “công bộc của nhân dân”, loại trừ những hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nƣớc [22, tr.101]. Mặt khác, tố cáo không chỉ có ý nghĩa đối với ngƣời dân mà còn có giá trị to lớn đối với Nhà nƣớc. Nhờ có thông tin từ nhân dân qua việc tố cáo, Nhà nƣớc sẽ kịp thời nắm bắt đƣợc phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức để kịp thời làm trong sạch đội ngũ cán bộ bảo vệ pháp chế, lợi ích của Nhà nƣớc và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Có thể nói, đại đa số những cán bộ, công chức tham nhũng, cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại cho Nhà nƣớc, bao che cho tội phạm... bị xử lý kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự phần lớn do nhân dân phát hiện và tố cáo với các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Tố cáo diễn ra trong thực tế rất đa dạng, phức tạp nhƣng có thể chia thành một số loại sau: - Tố cáo chứa đựng trong đó yêu cầu đƣợc pháp luật quy định trƣớc; - Tố cáo không liên quan đến việc vi phạm các quyền cụ thể của công dân, nhƣng chứa đựng những thông báo về những khuyết tật hoặc những vi phạm trong công tác của từng cơ quan riêng biệt; - Tố cáo về những việc làm trái pháp luật của một cá nhân trong bộ máy Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế [49, tr.168]. Từ những phân tích trên, có thể hiểu tố cáo là việc công dân phát hiện và báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
  • 16. 12 của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. 1.1.2 Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo 1.1.2.1 Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân Ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc không còn là bộ máy thống trị của giai cấp bóc lột, mà là Nhà nƣớc của nhân dân, tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Mục tiêu, phƣơng hƣớng phát triển cơ bản của Nhà nƣớc ta là xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức (Điều 2 Hiến pháp 1992). Đồng thời, ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội đƣợc tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thể hiện ở các quyền công dân đƣợc quy định trong Hiến pháp (Điều 50 Hiến pháp 1992) và các văn bản pháp luật. Qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) và hệ thống văn bản pháp luật nƣớc ta, quyền và nghĩa vụ của công dân có thể chia làm 3 nhóm chính: - Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực chính trị và xã hội: quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ... - Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá nhƣ: quyền và nghĩa vụ lao động, quyền đƣợc bảo vệ sức khoẻ, quyền tự do kinh doanh, quyền về nhà ở, quyền và nghĩa vụ học tập, nghiên cứu khoa học, phát minh sáng chế…
  • 17. 13 - Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong đời sống riêng nhƣ: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về chỗ ở, thƣ tín, quyền tự do đi lại và cƣ trú, quyền tự do tín ngƣỡng... Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên là những quyền chủ thể của công dân, thể hiện những lợi ích riêng của cá nhân công dân đƣợc pháp luật bảo hộ, đồng thời bảo đảm sự hài hoà, thống nhất với lợi ích chung của toàn xã hội. Trong các quyền cơ bản của công dân, quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc Hiến pháp ghi nhận thể hiện địa vị pháp lý của công dân, nó đƣợc xác lập nhƣ một phƣơng tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua khiếu nại, tố cáo, công dân bày tỏ ý nguyện của mình đối với Nhà nƣớc, vạch ra trƣớc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền những việc làm trái chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Họ có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật, nhằm khôi phục lại quyền lợi đã bị xâm phạm, giúp các tổ chức, đoàn thể, cơ quan nhà nƣớc đấu tranh chống các hành vi lạm quyền, lộng hành, làm sai chính sách, pháp luật [26, tr.207]. Ngƣợc lại, thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nƣớc sẽ biết và kiểm tra đƣợc tính đúng đắn trong các đƣờng lối, chính sách, pháp luật, thấy đƣợc hành vi của các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc có đúng pháp luật, có hợp lòng dân hay không để có sự điều chỉnh phù hợp. 1.1.2.2 Quyền khiếu nại, tố cáo là một hình thức dân chủ trực tiếp để công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội Sự ra đời của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản đồng thời cũng tạo ra tiền đề cho sự ra đời của một chế độ dân chủ mới trong lịch sử, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, công dân tham gia vào
  • 18. 14 quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, thông qua hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện trực tiếp ý chí, nguyện vọng của mỗi chủ thể quan hệ pháp luật, qua đó công dân trực tiếp bày tỏ ý kiến, tham gia vào việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, tạo nên tính tích cực chính trị, tính trách nhiệm trong xã hội, trong nhà nƣớc của mỗi công dân, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự tham gia tích cực của mỗi công dân vào hoạt động quản lý nhà nƣớc. Dân chủ đại diện là hình thức công dân sử dụng quyền dân chủ của mình thông qua các cơ quan, tổ chức và ngƣời đại diện mà mình bầu ra; các cơ quan, tổ chức và đại diện dân cử phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của cử tri, thể hiện ý chí, nguyện vọng của cử tri. Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, trực tiếp kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nƣớc, trực tiếp góp ý phản ánh với Nhà nƣớc về các vấn đề quan tâm đó là thể hiện đặc thù của hình thức dân chủ trực tiếp. Thông qua con đƣờng khiếu nại, tố cáo, công dân chủ động kiểm tra, giám sát, phát hiện, phản ánh với Nhà nƣớc về những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và các cán bộ, công chức nhà nƣớc mà gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở đó, công dân yêu cầu cơ quan, ngƣời có thẩm quyền có những biện pháp giải quyết kịp thời nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nƣớc, của tập thể khi bị xâm hại. Về phƣơng diện lý luận, khiếu nại, tố cáo là một “nguồn thông tin” từ xã hội, từ công dân đến Nhà nƣớc vô cùng quan trọng. Thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, nhân dân có thể tự mình phát hiện cho Nhà nƣớc những vấn đề khiếm khuyết của cơ chế, chính sách để Nhà nƣớc xem xét điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà
  • 19. 15 nƣớc, quản lý xã hội ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để phát huy yếu tố tích cực của nó phụ thuộc vào cơ chế, biện pháp bảo đảm dân chủ của thể chế chính trị. Thực tế hiện tƣợng khiếu nại, tố cáo ở một số địa phƣơng những năm gần đây cho thấy, tình trạng mất dân chủ trong quản lý, sự yếu kém và những khuyết tật của bộ máy chính quyền, sự lỏng lẻo và vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nƣớc là những vấn đề đƣợc quần chúng phát hiện, báo động cho xã hội, cho Nhà nƣớc. Từ nguồn thông tin này, Nhà nƣớc đã kịp thời có điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách, pháp luật cho phù hợp, qua đó thể hiện tác động tích cực của quyền khiếu nại, tố cáo - một hình thức dân chủ trực tiếp đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc. 1.2 QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI 1.2.1 Vị trí pháp lý của Quốc hội Vị trí pháp lý của Quốc hội đƣợc xác định bởi những quy định của Hiến pháp, văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao của Nhà nƣớc ta cũng nhƣ đƣợc thể hiện trong nhiều quy định của các văn bản pháp luật khác nhƣ Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật khiếu nại tố cáo, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội...Trong đó, Điều 83 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2001 đã quy định :"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
  • 20. 16 chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Quy định trên cho thấy vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nƣớc thể hiện ở hai đặc điểm: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất. 1.2.1.1 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Tính đại biểu cao nhất của Quốc hội nƣớc ta trƣớc hết thể hiện ở cách thức thành lập và cơ cấu tổ chức của Quốc hội. - Về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan nhà nƣớc duy nhất do cử tri cả nƣớc bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu Quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nƣớc [23, tr.267]. - Về thành phần, Quốc hội luôn có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân, phản ánh đƣợc cơ cấu kết hợp đa dạng, thể hiện Quốc hội là khối đại đoàn kết dân tộc. - Về cơ cấu thành phần theo đơn vị hành chính (cấp tỉnh), Quốc hội có đại biểu ở tất cả các đơn vị hành chính. Theo Điều 8 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng có ít nhất ba đại biểu cƣ trú và làm việc tại địa phƣơng; số đại biểu tiếp theo đƣợc tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phƣơng. Ngoài ra, tính đại biểu cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở việc Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa vào sự tín nhiệm của nhân dân, do nhân dân ủy quyền đồng thời chịu sự giám sát và chịu trách
  • 21. 17 nhiệm trƣớc nhân dân. Xuất phát từ tính đại diện nhân dân mà Quốc hội đƣợc giao những chức năng, nhiệm vụ hết sức quan trọng nhƣ quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc. Do đó, nhân dân có quyền xem xét, đánh giá tƣ cách, phẩm chất, năng lực của các đại biểu có xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân hay không. Đại biểu Quốc hội có thể bị bãi nhiệm khi không còn sự tín nhiệm của nhân dân. 1.2.1.2 Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất Đặc điểm này đƣợc thể hiện rõ qua các quy định của Hiến pháp và pháp luật về chức năng, quyền hạn của Quốc hội, theo đó: Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Hiến pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, nó chứa đựng các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý và thể hiện những đƣờng lối cơ bản, những chủ trƣơng lớn của Đảng đã đƣợc Nhà nƣớc thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nƣớc ta. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật. Chỉ có Quốc hội với tƣ cách là cơ quan quyền lực nhà nƣớc tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này. Và ngƣợc lại cũng chính việc Quốc hội, cơ quan duy nhất đƣợc quyền thông qua các loại văn bản này mới chứng tỏ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất [23, tr.273]. Thứ hai, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước Những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội gồm các nội dung chủ yếu : - Các vấn đề về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nƣớc nhƣ : Thành lập, bãi bỏ các cơ quan trung ƣơng trong bộ máy nhà nƣớc; miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn các chức vụ cao cấp nhất của Nhà nƣớc và những
  • 22. 18 ngƣời đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính... - Các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, trong đó quyết định kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; dự toán ngân sách nhà nƣớc và phân bổ ngân sách trung ƣơng; quyết định chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo của Nhà nƣớc ... - Các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhƣ : quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ƣớc quốc tế... Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước Giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc hội, đƣợc bắt nguồn từ quyền làm chủ tập thể của nhân dân và là một bộ phận không thể thiếu trong toàn bộ hệ thống kiểm tra, thanh tra và giám sát của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội chính là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Phạm vi và nội dung giám sát của Quốc hội bao gồm nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau nhƣ kinh tế-ngân sách, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh và thi hành pháp luật. Mục đích hoạt động giám sát của Quốc hội là nhằm góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nƣớc và các cơ quan nhà nƣớc hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; bảo đảm Hiến pháp, pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh; bảo đảm Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 1.2.2 Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình thành quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
  • 23. 19 Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung và ý nghĩa của quyền giám sát tối cao của Quốc hội, trƣớc hết chúng ta cần tìm hiểu về thuật ngữ "giám sát". Qua nghiên cứu một số tài liệu cho thấy, hiện nay thuật ngữ "giám sát" đƣợc hiểu từ các góc độ khác nhau: - Giám sát là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định". - Giám sát là "chức quan thời xƣa trông nom một loại công việc nhất định" [52, tr.389]. - Giám sát là "sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thƣờng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hƣớng hoạt động của đối tƣợng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt đƣợc những mục đích, hiệu quả đã đƣợc xác định từ trƣớc, bảo đảm cho pháp luật đƣợc tuân theo nghiêm chỉnh" [47, tr.174]. Với nhiều cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của thuật ngữ "giám sát" khác nhau nhƣ vậy, nên để xác định tính chất quyền giám sát của Quốc hội với tính cách là một biểu hiện của quyền lực nhà nƣớc, chúng ta cần xuất phát từ việc xem xét nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nƣớc, mối tƣơng quan giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay. Hiện nay, tuỳ thuộc sự khác biệt trong nguyên tắc tổ chức và cơ chế vận hành của quyền lực nhà nƣớc mà ở các nƣớc có những sự khác biệt trong việc quy định về quyền giám sát và chức năng giám sát của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc. Với mục đích duy trì và bảo vệ pháp chế, bảo đảm các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức và mọi công dân phải thực hiện đúng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình, các nƣớc đều tìm cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự vi phạm pháp luật, đặc biệt là chống lại sự lạm quyền từ phía các cơ quan công quyền, trong đó có hoạt động giám sát từ Quốc hội. Ở nhiều nƣớc đã
  • 24. 20 thành lập các cơ quan nhà nƣớc chuyên môn để tiến hành hoặc hỗ trợ hoạt động giám sát của Quốc hội (các Toà án hiến pháp và Hội đồng hiến pháp để giám sát việc tuân thủ Hiến pháp; Thanh tra Quốc hội, những nhà chức trách khác của Quốc hội để giám sát việc thực hiện nhân quyền; cơ quan kiểm toán... để giám sát hoạt động hành chính - tài chính của các cơ quan nhà nƣớc...). Thực tế các nƣớc cho thấy, giám sát của Quốc hội đã thể hiện là một phƣơng thức hữu hiệu để cân bằng quyền lực và bảo đảm cho quyền lực nhà nƣớc thực thi có hiệu quả. Các nhà nƣớc tƣ sản, mặc dù có những nét riêng, nhƣng cơ chế giám sát đƣợc thực hiện về cơ bản là giống nhau. Trên cơ sở nguyên tắc phân quyền, các Nhà nƣớc tƣ sản áp dụng cơ chế kìm chế, đối trọng, dùng quyền lực hạn chế quyền lực. Với cơ chế nhƣ vậy, các cơ quan trong Nhà nƣớc thực hiện sự giám sát lẫn nhau một cách mạnh mẽ quyết liệt và cũng rất hiệu quả. Mặt khác, do thực hiện chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng, các đảng phái chính trị ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa cũng giữ vai trò rất lớn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và nhân viên nhà nƣớc. Cũng bởi vậy, cách thức tổ chức hoạt động giám sát cũng nhƣ cơ chế giám sát ở các Nhà nƣớc tƣ sản không giống nhƣ mô hình và cơ chế giám sát ở nƣớc ta [35, tr.376]. Ở Việt Nam, theo quan điểm của Đảng cũng nhƣ các quy định của pháp luật, bộ máy nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo nguyên tắc "quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp"[4, tr.45]. Trong đó, Quốc hội, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nƣớc nên Quốc hội có quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực hiện chúng trong đời sống thực tiễn. Về bản chất, quyền giám sát tối cao của Quốc
  • 25. 21 hội mang bản chất của quyền lực nhà nƣớc nghĩa là thực hiện ý chí của nhân dân. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao với mục đích là kiểm soát hệ thống các cơ quan hành pháp và tƣ pháp trong việc thực hiện chức năng, quyền hạn của bộ máy hành chính, bộ máy tƣ pháp, việc thực thi pháp luật và các quyết định của Quốc hội. Việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp và tƣ pháp xuất phát từ một vấn đề có tính nguyên tắc: Cơ quan quyền lực nhà nƣớc cần phải kiểm soát các hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nhằm duy trì sự vận hành của bộ máy nhà nƣớc theo hƣớng đáp ứng tốt nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với tƣ cách là cơ quan đại diện của dân, Quốc hội giám sát hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ta là nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đặc biệt là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa [35, tr.376]. 1.2.2.1 Các đặc trưng cơ bản của quyền giám sát của Quốc hội: Thứ nhất, giám sát của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực nhà nƣớc [54, tr.144]. Nội dung của quyền này thực chất là quyền của Quốc hội với tƣ cách là cơ quan đại diện cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất áp dụng các biện pháp đối với các đối tƣợng chịu sự giám sát nhằm bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh. Ở nƣớc ta “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2 - Hiến pháp 1992) và “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. (Điều 6 - Hiến pháp 1992). Vì thế, thực hiện quyền giám sát tối cao chính là Quốc hội thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nƣớc do chính nhân dân giao cho. Thứ hai, quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao. Bởi vì, Quốc hội là cơ quan nhà nƣớc duy nhất đƣợc nhân dân giao cho thực hiện
  • 26. 22 quyền giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc và không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong việc xem xét thi hành Hiến pháp, luật là những văn bản mà chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành. Tính chất tối cao quyền giám sát của Quốc hội bắt nguồn từ vị trí pháp lý tối cao của Quốc hội trong bộ máy nhà nƣớc [54, tr.145]. Tuy nhiên, Quốc hội dù là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, thay mặt nhân dân cả nƣớc thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, vừa quyết định luật, vừa giám sát các cơ quan nhà nƣớc thi hành luật, nhƣng phải bảo đảm "không lẫn lộn với quyền hành pháp của Chính phủ cũng nhƣ quyền độc lập xét xử của Toà án" [48, tr.14]. 1.2.2.2 Chủ thể của quyền giám sát tối cao Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định chủ thể duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội, nhƣ vậy Quốc hội nói ở đây không phải là các cơ quan của Quốc hội mà là toàn thể các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội mới là chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao [54, tr.146]. Mặt khác, với quy định "Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước" có nghĩa, không có bất kỳ một hoạt động nào của các cơ quan nhà nƣớc là không thuộc đối tƣợng giám sát của Quốc hội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc khẳng định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, do Quốc hội hoạt động không thƣờng xuyên nên khó có thể giám sát đƣợc mọi hoạt động của mọi cơ quan nhà nƣớc và nếu có giám sát thì chỉ có thể giám sát các lĩnh vực hoạt động của Nhà nƣớc. Vì vậy, để Quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc trong khi Quốc hội hoạt động không thƣờng xuyên, Hiến pháp thực hiện cơ chế uỷ quyền giám sát [54, tr.191].
  • 27. 23 Điều 1, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định:" Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội". Nhƣ vậy, quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã đƣợc ủy quyền cho các chủ thể theo quy định của Hiến pháp và pháp luật gồm có : Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội (cơ quan thường trực của Quốc hội), Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Mặc dù hoạt động giám sát của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội không đƣợc xác định là giám sát tối cao nhƣng là một bộ phận cấu thành của quyền giám sát tối cao. Trên cơ sở các thông tin có đƣợc qua hoạt động giám sát của các chủ thể này, toàn thể các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội mới có đầy đủ thông tin để xem xét, đánh giá chính xác, toàn diện về thực trạng thi hành Hiến pháp, pháp luật trên phạm vi cả nƣớc để từ đó "thực hiện quyền giám sát tối cao" có hiệu lực, hiệu quả và kịp thời hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nhƣ đƣa ra những quyết định phù hợp về những vấn đề quan trọng của đất nƣớc. 1.2.2.3 Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội Về đối tƣợng chịu sự giám sát của Quốc hội, hiện nay còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có quan điểm cho rằng, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc có nghĩa là Quốc hội giám sát tất cả các lĩnh vực hoạt động Nhà nƣớc (lập pháp, hành pháp, tƣ pháp), tất cả các cơ quan Nhà nƣớc (cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng, các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng, các ngành, các cấp) và mọi công dân [35, tr.376]. Quan điểm khác lại cho rằng, đối tƣợng của giám sát tối cao chỉ có
  • 28. 24 thể là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. Hay nói cách khác, đối tƣợng giám sát tối cao của Quốc hội đó là các chủ thể cao nhất của bộ máy nhà nƣớc bao gồm Chủ tịch nƣớc, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những ngƣời đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ [54, tr.147]. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở trên, Quốc hội nƣớc ta không phải là Quốc hội hoạt động chuyên trách, thời gian diễn ra các kỳ họp Quốc hội còn ít, vì vậy để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao có hiệu quả thì Quốc hội phải đƣợc tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp rành mạch về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội tức là phải xác định cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Nói cách khác, quyền giám sát tối cao của Quốc hội đƣợc ủy quyền cho Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Điều này đƣợc thể hiện qua các quy định của Hiến pháp, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và nhiều văn bản pháp luật khác về thẩm quyền giám sát của các chủ thể này. Do đó, có thể khẳng định rằng, mọi lĩnh vực hoạt động Nhà nƣớc, mọi cơ quan nhà nƣớc đều thuộc đối tƣợng giám sát của Quốc hội 1.2.2.4 Nội dung của hoạt động giám sát Căn cứ các quy định của Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan, hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm các nội dung : - Thứ nhất, giám sát hoạt động và việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các đối tƣợng chịu sự giám sát.
  • 29. 25 - Thứ hai, xử lý các hành vi vi phạm bằng các biện pháp chế tài nhƣ: bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nƣớc; đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, pháp luật. 1.2.2.5 Phương thức thực hiện Hoạt động giám sát của Quốc hội đƣợc thực hiện tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp Quốc hội. Thứ nhất, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua việc xem xét báo cáo của Chủ tịch nƣớc, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các kỳ họp Quốc hội. Thứ hai, Giám sát thông qua chất vấn của đại biểu Quốc hội trong hoặc ngoài kỳ họp. Thứ ba, Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở cơ sở, địa phƣơng của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc của Uỷ ban lâm thời của Quốc hội. Thứ tư, Giám sát qua việc xem xét việc khiếu nại, tố cáo của công dân. 1.3 QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 1.3.1 Khái niệm quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Từ việc xem xét vị trí pháp lý của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, trong mối quan hệ giữa Quốc hội với các thiết chế khác trong bộ máy nhà nƣớc thì Quốc hội đứng ở vị trí cao nhất về mặt quyền lực nhà nƣớc. Hiến pháp năm 1992 quy định “Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83), “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”(Điều 84) nghĩa là không có bất kỳ một hoạt động nào của các cơ quan
  • 30. 26 nhà nƣớc là không thuộc đối tƣợng giám sát tối cao của Quốc hội [54, tr.191], đồng thời, mọi quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đều phải đƣợc Quốc hội theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực hiện chúng trong đời sống thực tiễn. Mặt khác, nhƣ đã phân tích ở trên, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp quy định và bảo vệ. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác mới cụ thể hoá, xác lập những cơ chế để bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc thực hiện trong thực tế. Thực tiễn cho thấy, hầu hết các đạo luật đều có các điều khoản ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo đi kèm nhƣ một chế định đảm bảo cho quyền, lợi ích của các bên khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật mà đạo luật đó điều chỉnh. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xây dựng pháp luật ở nƣớc ta. Bản chất của luật là xác lập và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể. Mối quan hệ đó suy cho cùng không ngoài những vấn đề về quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên liên quan mà Nhà nƣớc và pháp luật dự liệu, bảo vệ. Do vậy, mỗi khi có sự vi phạm các quyền, lợi ích nào đó thì pháp luật cũng quy định cho các bên đƣợc dùng quyền khiếu nại, tố cáo để tự bảo vệ thông qua sự can thiệp của Nhà nƣớc. Các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền khi nhận đƣợc khiếu nại, tố cáo của công dân phải xem xét, giải quyết kịp thời. Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”. Nhƣ vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân chính là việc các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền "sử dụng quyền lực nhà nƣớc" mà Hiến pháp, pháp luật giao để xem xét, xử lý các thông tin, yêu cầu đƣợc nêu trong khiếu nại, tố cáo của
  • 31. 27 công dân, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng là “hoạt động của Nhà nƣớc” và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Vì vậy, có thể hiểu quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền của Quốc hội tiến hành các biện pháp giám sát tối cao nhằm bảo đảm cho các quy định của Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được thi hành nghiêm chỉnh. Về bản chất, quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân không phải là một “nhánh” quyền lực độc lập đƣợc quy định trong Hiến pháp mà nó là quyền phái sinh từ quyền giám sát tối cao của Quốc hội, là một bộ phận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Chất lƣợng, hiệu quả của việc thực hiện quyền này là một trong những yếu tố chỉ mức độ hiệu quả của quyền giám sát tối cao và cũng là một trong những yếu tố khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội trong thực tiễn vận hành của cơ chế tổ chức quyền lực nhà nƣớc. 1.3.2 Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Hiến pháp 1992 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...”(Điều 83) và “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Do đó, có thể nói trong cơ chế bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân nói chung và quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng, Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất. Một mặt,
  • 32. 28 mỗi cá nhân bằng việc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín bầu ra các đại biểu Quốc hội để thông qua đó thực hiện quyền lực nhà nƣớc của mình. Mặt khác, Quốc hội là cơ quan có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ máy nhà nƣớc bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân với tƣ cách cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc hội bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung và việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng thông qua các phƣơng thức nhƣ bằng hoạt động lập hiến, lập pháp, bằng hoạt động giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của mình, bằng hoạt động quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng nhất của đất nƣớc, trong đó hoạt động giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một phƣơng thức thực hiện quyền lực của nhân dân có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể là: a) Việc khiếu nại, tố cáo của công dân một mặt biểu hiện quyền giám sát trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nƣớc, mặt khác lại là nguồn thông tin quan trọng cho hoạt động giám sát. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng và những yêu cầu bức xúc của ngƣời dân và qua đó kiến nghị những giải pháp kịp thời, phù hợp góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi bị xâm hại. b) Qua giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Quốc hội có thể phát hiện những tồn tại trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó kiến nghị giải pháp khắc phục những khó khăn, bất cập, chấn chỉnh về mặt tổ chức, hoạt động, góp phần bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và thúc đẩy cải cách tƣ pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nƣớc
  • 33. 29 trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nƣớc ta. c) Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội không chỉ tác động tích cực đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát mà nó còn có sự liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với việc thực hiện chức năng lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nƣớc. Một mặt, thông qua hoạt động giám sát đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Quốc hội có thể phát hiện những bất cập trong hệ thống pháp luật cũng nhƣ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, phát hiện những vấn đề nào, quan hệ nào cần có sự điều chỉnh của pháp luật, những quy định nào, chế định nào không còn phù hợp với thực tiễn để từ đó có những sửa đổi, bổ sung kịp thời. Mặt khác, hoạt động giám sát sẽ giúp Quốc hội có thể hoạch định những chính sách lớn và quyết định những vấn đề quan trọng đƣợc sát với thực tiễn, yêu cầu của xã hội. 1.3.3 Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân 1.3.3.1 Chủ thể thực hiện quyền Qua việc phân tích về quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc cũng nhƣ phân tích khái niệm về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, có thể thấy chỉ có Quốc hội mới là chủ thể duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên phạm vi cả nƣớc. Tuy nhiên, do tính chất hoạt động không thƣờng xuyên nên Quốc hội không thể trực tiếp giám sát đối với mọi đối tƣợng, mọi khâu trong quá trình thực hiện Hiến pháp và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nên quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã đƣợc uỷ quyền cho Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
  • 34. 30 Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các chủ thể này có quyền tiến hành các hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong phạm vi đƣợc phân công. 1.3.3.2 Đối tượng chịu sự giám sát Mọi cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân đƣợc Hiến pháp và pháp luật quy định đều là đối tƣợng chịu sự giám sát của Quốc hội. Trong đó, đối tƣợng trực tiếp, thƣờng xuyên chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội chỉ tập trung vào các đối tƣợng ở trung ƣơng, là các chủ thể cao nhất của bộ máy nhà nƣớc bao gồm Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những ngƣời đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ. 1.3.3.3 Phạm vi giám sát Quốc hội có quyền giám sát tối cao việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những ngƣời đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ. Căn cứ vào kết quả hoạt động giám sát, Quốc hội có thể ra quyết định miễn nhiệm, bãi nhiệm nếu thấy có hành vi vi phạm pháp luật hoặc phê chuẩn đề nghị của ngƣời có thẩm quyền về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức các chức vụ. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đƣợc thực hiện trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trên phạm vi toàn quốc. 1.3.4 Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
  • 35. 31 Để bảo đảm hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã quy định cụ thể các hình thức giám sát của Quốc hội với tƣ cách là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. 1.3.4.1 Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội nƣớc ta họp thƣờng lệ 2 kỳ mỗi năm, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Tại kỳ họp, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nƣớc, ngoài việc xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc nói chung và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng. Hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp là phƣơng thức giám sát quan trọng nhất, có tác động lớn nhất đến hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ toàn xã hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua các hình thức: Thứ nhất, xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là một nội dung quan trọng trong toàn bộ hoạt động giám sát của Quốc hội. Tại kỳ họp Quốc hội cuối năm, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Quốc hội về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của mình. Xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc tập thể Quốc hội cùng thảo luận, phân tích đánh giá kết quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các
  • 36. 32 cơ quan nhà nƣớc. Qua xem xét thảo luận các báo cáo, Quốc hội nắm đƣợc thông tin đầy đủ, chính xác và toàn diện về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan này. Trên cơ sở đó, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này theo Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Quốc hội và xem xét, đánh giá về trách nhiệm của họ trong công tác giải quyết, khiếu nại tố cáo của công dân. Để việc xem xét đánh giá của Quốc hội có chất lƣợng, một mặt đại biểu Quốc hội phải thu thập thông tin thật đầy đủ, khách quan, có thể từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ thông tin đƣợc nêu trong các báo cáo, thông tin qua việc tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của công dân, thông tin từ phƣơng tiện thông tin đại chúng, thông tin đƣợc đề cập trong báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật (Cơ quan của Quốc hội đƣợc giao thẩm tra các báo cáo này), từ báo cáo công tác dân nguyện của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội...Mặt khác, yêu cầu các báo cáo của các cơ quan trình Quốc hội phải đầy đủ, khách quan, nêu đúng thực trạng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, những kết quả đã đạt đƣợc, những khó khăn, yếu kém còn tồn tại, từ đó đề ra đƣợc những biện pháp giải quyết và có những kiến nghị, đề xuất việc giải quyết. Thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Quốc hội có quyền : - Ra nghị quyết về tình hình thực hiện pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong đó, yêu cầu Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có biện pháp đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kịp thời giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo không để tồn đọng, kéo dài, xử lý nghiêm minh đối ngƣời vi phạm.
  • 37. 33 - Quyết định việc xem xét trách nhiệm đối với Thủ tƣớng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thứ hai, xem xét việc trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đối với các chất vấn của đại biểu Quốc hội về tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của mình. Chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp là một trong những hình thức giám sát quan trọng của Quốc hội. Chất vấn của đại biểu Quốc hội không phải là câu hỏi mang tính chất cung cấp thông tin thông thƣờng mà mang tính quyền lực. Khi đại biểu Quốc hội chất vấn thì đấy là chất vấn của cơ quan quyền lực, phát sinh quyền và trách nhiệm pháp lý bắt buộc những cá nhân và cơ quan hữu quan phải nghiên cứu trả lời. Tại kỳ họp, đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, yêu cầu giải trình về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm giải quyết của họ. Ngƣời bị chất vấn, theo quy định của pháp luật, buộc phải giải trình trƣớc Quốc hội về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và nếu có sai sót thì phải nêu về những nhƣợc điểm, tồn tại trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền cá nhân ngƣời đó phụ trách, đồng thời phải trả lời về nguyên nhân và biện pháp khắc phục tình trạng trên. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thể hiện trực tiếp quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nƣớc hữu quan trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đại biểu Quốc hội lúc này nhân danh quyền lực nhà nƣớc cao nhất mà phán xét trách nhiệm
  • 38. 34 pháp lý của các cá nhân bị chất vấn. Ngƣời bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ các nội dung vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn. Nếu việc trả lời chất vấn của ngƣời bị chất vấn không thoả đáng với nội dung chất vấn thì đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó hoặc đƣa ra thảo luận tại Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội hoặc phiên họp khác của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với ngƣời bị chất vấn. Căn cứ vào kết quả chất vấn và trả lời chất vấn, Quốc hội có thể thảo luận và ra nghị quyết về vấn đề chất vấn nếu thấy cần thiết. Thứ ba, khi tình hình khiếu nại, tố cáo trở nên bức xúc hoặc có vụ việc khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo dài, được dư luận quan tâm, Quốc hội có thể thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban lâm thời về việc giải quyết của cơ quan hữu quan đối với khiếu nại, tố cáo đó. Trong trƣờng hợp cần thiết, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về thực trạng khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một vùng, một địa phƣơng hay điều tra đối với một vụ việc cụ thể mà đƣơng sự khiếu nại gay gắt, kéo dài hoặc đƣợc dƣ luận quan tâm. Có thể nói, việc thành lập Uỷ ban lâm thời là phƣơng thức thực hiện quyền giám sát tối cao không có tính phổ biến. Phƣơng thức này thƣờng chỉ xảy ra khi tiến hành giám sát tối cao bằng các phƣơng thức khác nhƣng có một hay một số hoạt động nào đó của đối tƣợng bị giám sát chƣa đƣợc làm rõ mà các chủ thể nhƣ đã nói ở trên yêu cầu làm rõ thêm [54, tr.155]. Khi tiến hành điều tra, Uỷ ban lâm thời có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vấn đề cần điều tra cung cấp tài liệu hoặc
  • 39. 35 trực tiếp đến trình bày những vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo mà Uỷ ban lâm thời đang tiến hành xem xét, thẩm tra. Báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban lâm thời đƣợc trình bày trƣớc Quốc hội để Quốc hội xem xét, thảo luận và cho ý kiến. Căn cứ vào kết quả thảo luận của đại biểu Quốc hội đối với Báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban lâm thời, Quốc hội sẽ ra nghị quyết về vấn đề đƣợc điều tra. 1.3.4.2 Các hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân giữa hai kỳ họp Thứ nhất, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ quan thƣờng trực của Quốc hội. Với tính chất là cơ quan thƣờng trực của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đƣợc Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan quy định cụ thể những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Xuất phát từ tính chất của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, có thẩm quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc nên phạm vi giám sát của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội cũng rất rộng bao gồm giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành pháp, cơ quan tƣ pháp ở trung ƣơng và địa phƣơng. Việc xem xét báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một trong những hình thức giám sát chính và quan trọng của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thông qua hoạt động xem xét báo cáo của các cơ quan này, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội
  • 40. 36 đánh giá đƣợc thực trạng khiếu nại, tố cáo của công dân và tình hình, chất lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nƣớc, từ đó có những kiến nghị kịp thời tới các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để có biện pháp khắc phục những tồn tại, nâng cao chất lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nguồn thông tin để Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội làm cơ sở xem xét các báo cáo đƣợc thu thập từ nhiều nguồn nhƣ thông tin ngay trong các báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tin từ việc tiếp nhận đơn thƣ khiếu nại, tố cáo của công dân, thông tin từ dƣ luận xã hội, từ báo cáo của các đoàn giám sát, từ báo cáo công tác dân nguyện của Ban dân nguyện của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ( là cơ quan giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân) cũng nhƣ các báo cáo chuyên đề về giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, thông tin từ báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật... Đây là những nguồn thông tin quan trọng để Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét một cách khách quan, đầy đủ đối với báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của các cơ quan này. Thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội có quyền: - Ra nghị quyết về tình hình thực hiện pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nƣớc của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Kiến nghị, yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với những ngƣời vi phạm cũng nhƣ đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm
  • 41. 37 đối với Thủ tƣớng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thứ hai, giám sát việc chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Chất vấn đƣợc gửi đến Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội để chuyển đến những ngƣời bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn. Tại phiên họp của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, ngƣời bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề liên quan đến chất vấn nêu trên cũng nhƣ những chất vấn đã đƣợc nêu tại kỳ họp Quốc hội đƣợc Quốc hội cho phép trả lời tại phiên họp của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý thì có quyền yêu cầu Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đƣa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội. Khi cần thiết, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ra nghị quyết việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của ngƣời bị chất vấn. Thứ ba, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội thành lập đoàn giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Qua thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội cho thấy hình thức tổ chức đoàn giám sát để giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hữu quan đƣợc Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội rất quan tâm, chú trọng và đang ngày càng phát huy hiệu quả. Thông qua việc tổ chức các đoàn giám sát, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại
  • 42. 38 biểu Quốc hội có đƣợc nguồn thông tin đầy đủ, chính xác về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hữu quan từ đó có những kiến nghị kịp thời, phù hợp với các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trƣớc khi tiến hành giám sát, đoàn giám sát phải xây dựng kế hoạch, nội dung, chƣơng trình, mục đích, thời gian, địa điểm..giám sát và thông báo tới đối tƣợng chịu sự giám sát. Khi tiến hành giám sát, đoàn giám sát có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự giám sát cũng nhƣ có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến hoạt động giám sát của Đoàn. Đoàn giám sát còn yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân chịu sự giám sát cũng nhƣ có liên quan trả lời trực tiếp các vấn đề mà Đoàn quan tâm. Trên cơ sở các thông tin thu thập đƣợc qua giám sát, đoàn giám sát đánh giá, kết luận về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự giám sát và đƣa ra các kiến nghị để giải quyết. Đoàn có quyền kiến nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị xâm hại. Đoàn giám sát có thể yêu cầu, kiến nghị các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét trách nhiệm, xử lý đối với ngƣời có hành vi vi phạm. Các kiến nghị, yêu cầu của đoàn giám sát phải đƣợc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan xem xét, thực hiện. Tất cả các nội dung này đƣợc phản ánh trong báo cáo giám sát của Đoàn để báo cáo Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Căn cứ vào kết quả hoạt động giám sát của Đoàn giám sát, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền :