Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Luận văn: Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình, HAY
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............./.................. ........../...........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ SÁU
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............./.................. ........../...........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ SÁU
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các thông tin
trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Thừa Thiên Huế, ngày 05 tháng 5 năm 2017
Học viên
Trần Thị Sáu
4. LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi luôn luôn nhận được sự động viên,
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư, Tiến sỹ Lê Thị Hương,
người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, các
Khoa, Phòng cũng như các Phó Giáo sư, Tiến sỹ, các nhà khoa học, các thầy, cô
giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy, các anh, chị em đồng nghiệp đang công tác
tại Văn phòng HĐND tỉnh Quảng Bình và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, trong việc thu thập số liệu, thông tin
cần thiết tại cơ quan Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Quản lý công
HC20T4 đã cùng tôi chia sẽ kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình học tập
và nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc tiếp
thu, trao đổi những kiến thức đóng góp của quý thầy, cô giáo và bạn bè, đã
tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song khó tránh khỏi
thiếu sót, rất mong nhận được thông tin góp ý của quý thầy, cô và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn./.
Thừa Thiên Huế, ngày 05 tháng 5năm 2017
Học viên
Trần Thị Sáu
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chƣơng 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH................................................................................8
1.1. Quan niệm về giám sát và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh.................................................................................................................. 8
1.1.1. Nhận thức chung về giám sát ......................................................................8
1.1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh.....................................12
1.2. Nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh...................23
1.2.1. Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.................................23
1.2.2. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh............................................................25
1.2.3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh, nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện khi phát hiện có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, pháp luật.............................................................................................26
1.2.4. Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.......................................27
1.2.5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
bầu ..........................................................................................................................28
1.3. Các yêu cầu và các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh................................................................................................30
1.3.1. Các yêu cầu đối với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh..30
1.3.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh...35
6. Chƣơng 2.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH TỪ NĂM 2011 - 2016........................42
2.1. Khái quát về tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình.............42
2.1.1. Về đại biểu và cơ cấu đại biểu...................................................................42
2.1.2. Tổ chức của HĐND tỉnh Quảng Bình......................................................44
2.2. Kết quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình 45
2.2.1. Về hoạt động giám sát tại kỳ họp..............................................................45
2.2. 2. Về hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp...................................................53
2.2.3. Hoạt động giám sát chuyên đề ..................................................................64
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................67
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân...........................................................................67
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân............................................................................69
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH.........77
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................77
3.1.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo đảm hoạt động của các
cơ quan dân cử nói chung và hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
nói riêng .................................................................................................................77
3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh .........................................................................................................81
3.1.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh phải đặt trong mối quan
hệ chặt chẽ với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các cơ quan Nhà nước khác và của toàn xã hội.......................................82
3.1.4. Đảm bảo chất lượng, hiệu lực của các kết luận, kiến nghị sau giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh .................................................................................82
7. 3.2. Các giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................83
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh ........................................................................................83
3.2.2. Nâng cao năng lực của các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh ........................................................................................87
3.2.3. Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh .........................................................................................................97
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp trong hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh..............................................................................................103
3.2.5. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho Hội đồng nhân dân tỉnh trong hoạt
động giám sát.......................................................................................................105
KẾT LUẬN...................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Đại biểu Quốc hội: ĐBQH
Hội đồng nhân dân: HĐND
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: MTTQVN
Thường trực Hội đồng nhân dân: TTHĐND
Văn bản quy phạm pháp luật: VBQPPL
Ủy ban nhân dân: UBND
9. DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Bảng đại diện nghề nghiệp, vị trí công tác 42
Bảng 2.2. Bảng đại diện theo cấp hành chính 42
Bảng 2.3. Bảng trình độ chuyên môn và lý luận chính trị 42
Bảng 2.4. Tuổi trung bình của các độ tuổi 42
Bảng 2.5. Các tổ đại biểu và số đơn vị bầu cử 44
10. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay,
vấn đề tiếp tục cải cách, kiện toàn tổ chức của bộ máy nhà nước nói chung và
hệ thống chính quyền địa phương nói riêng trong đó có HĐND các cấp là yêu
cầu khách quan và tất yếu.
Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và hoạt động giám
sát là hai chức năng chủ yếu và cơ bản nhất của HĐND cấp tỉnh. Trong hai
chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng bảo đảm HĐND
thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện
đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức
năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND.
Thực trạng kinh tế- xã hội và nâng cao năng lực quản lý của chính
quyền địa phương ở tỉnh Quảng Bình là những thách thức trong quá trình phát
triển của tỉnh. Vấn đề đang đặt ra đối với chính quyền địa phương là phải tạo
bước đột phá, giữ vững tốc độ tăng trưởng trên mọi mặt, hoàn thành kế hoạch
kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn cụ thể, tạo đà cho sự phát triển cao hơn
trong những năm tiếp theo. Để tạo bước đột phá đó thì nhiệm vụ giám sát của
HĐND tỉnh Quảng Bình phải là công việc nặng nề, phức tạp. Giám sát để
thúc đẩy, đưa pháp luật vào cuộc sống và góp phần vừa đảm bảo trật tự kỷ
cương, đồng thời qua đó tạo sự năng động để tỉnh tiếp tục phát triển. Đặc biệt
là từ khi có Luật Tổ chức HĐND và UBND sửa đổi năm 2003 và mới đây
nhất là Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015) thì công tác giám sát
được tiến hành thuận lợi hơn, song hiện nay trên địa bàn tỉnh đang diễn ra
nhiều vấn đề phức tạp cần được giải quyết đặc biệt là trên các lĩnh vực kinh
11. 2
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách
người có công, giáo dục - đào tạo, y tế, cộng đồng…Trước tình trạng như vậy,
đòi hỏi phải tăng cường quản lý của các cấp, các ngành, đặc biệt là vai trò
giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội và HĐND các cấp
trong phạm vi được phân cấp.
Năm 2015 là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 05 năm, giai đoạn 2011 - 2016 của tỉnh Quảng Bình, cùng với nhiều
nguồn lực đầu tư, hỗ trợ để tỉnh Quảng Bình phát triển, bên cạnh đó tình trạng
sử dụng các nguồn vốn phân tán, đầu tư dàn trải, nợ xây dựng cơ bản lớn, gây
lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp, các chính sách xã hội đầu tư chưa đồng
đều, tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao, y tế chưa đáp ứng được nhu cầu khám
chữa bệnh cho người dân, một số vấn đề giao thông, tội phạm vẫn còn diễn
biến phức tạp.... Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập này là
hoạt động quản lý của Nhà nước nói chung và giám sát của HĐND nói riêng
chưa thật sự hiệu quả.
Quá trình giám sát, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế ở nhiều mức độ khác
nhau trên các lĩnh vực khác nhau của HĐND các cấp. Những tồn tại, hạn chế
đó có cả nguyên nhân khách quan từ thể chế và chủ quan từ chính bản thân
năng lực của Hội đồng nhân dân và bộ máy giúp việc vẫn còn có những
khoảng cách nhất định so với yêu cầu. Trong khi đó, các cơ quan, tổ chức,
đơn vị và nhân dân nói chung ở địa phương cũng chưa ý thức đầy đủ về
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với hoạt động giám sát của
HDND. Nội dung một số cuộc giám sát chưa tập trung, chọn đối tượng giám
sát chưa phù hợp; hình thức giám sát chủ yếu chỉ nghe báo cáo bằng văn bản,
thiếu khảo sát, kiểm tra thực tế; thời gian giám sát quá ít nên khó phát hiện
được vấn đề; chưa thường xuyên theo dõi, đôn đốc các cơ quan chức năng
xem xét, giải quyết các kết luận sau giám sát; việc mời chuyên gia trên các
12. 3
lĩnh vực được giám sát để tham gia các buổi làm việc còn rất hạn chế; một số
đối tượng được giám sát còn có biểu hiện cho rằng giám sát là tìm khuyết
điểm, gây khó khăn cho công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan liên
quan; chưa có quy định cụ thể các chế tài cần thiết đối với hành vi không thực
hiện các kết luận, kiến nghị qua giám sát.... Tất cả những điều này đã hạn chế
đáng kể đến hiệu lực và hiệu quả của quá trình giám sát của HĐND cấp tỉnh ở
các địa phương nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng trong những năm qua.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng
Bình” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Giám sát và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của các cơ
quan dân cử ở nước ta được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn
đàn khoa học. Nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng đã được nhiều đề tài tiếp cận. Có thể kể ra một số
công trình nghiên cứu sau đây:
- Bàn về tính chất của HĐND trong điều kiện cải cách bộ máy nhà
nước hiện nay, PGS,TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
12/2003
- Tổ chức và hoạt động của các ban của HĐND, Trương Đắc Linh, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
- Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-
2009, Đinh Ngọc Quang, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND thành phố Hà
Nội, Bùi Huyền Mai, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật,
2004.
- Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương
đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai, Luận văn thạc sĩ Luật học,
13. 4
Phạm Quang Hưng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn “Nhân bầu cử Quốc hội và bầu cử HĐND
các cấp, suy nghỉ về vấn đề tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước số 3/2011.
- Cao Thị Bích Lan “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân từ thực tiễn hoạt động của HĐND Quận Hoàn Kiếm,
TP. Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính quốc
gia Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Sỹ Tháng “Nâng cao năng lực giám sát của HĐND thành
phố Hà Nội trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường”, Luận văn thạc sĩ
Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia TP.HCM, 2004.
Các công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và
hoạt động một cách chung chung, còn về chức năng giám sát của HĐND chỉ
khai thác ở khía cạnh nâng cao hiệu lực. Hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa
nhiều các công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và
đầy đủ, nhất là ở một địa bàn cụ thể như giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình
đối với UBND tỉnh Quảng Bình. Các kết quả nghiên cứu này sẽ là nguồn tư
liệu quan trọng cho việc nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh trên một địa bàn cụ thể ở Quảng Bình với tính chất là một đề tài độc
lập đi sâu nghiên cứu thực tiễn, để đánh giá mặt được, mặt chưa được qua đó
đưa ra được những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm tăng cường hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống và làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh nói chung và thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
14. 5
Quảng Bình, luận văn đề xuất giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của
HĐND tỉnh Quảng Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về vị trí, chức năng của HĐND; làm rõ khái
niệm giám sát; phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức giám sát của HĐND
cấp tỉnh cũng như các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm hoạt động
giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng
Bình hiện nay để tìm ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm,
hạn chế.
- Từ các cơ sở trên, đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
kiểu mới, HĐND, chức năng giám sát của HĐND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, luận văn dựa trên một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, khảo sát,
15. 6
thực tiễn..để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn
còn sử dụng và kế thừa thành quả của một số công trình nghiên cứu, bài viết,
báo cáo và các tài liệu liên quan khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Việc nghiên cứu luận văn sẽ cung cấp cơ sở phương pháp luận giúp
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước nhìn nhận đúng đắn tầm quan
trọng, vai trò vị trí của hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong việc
kiểm soát thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
Nhân dân, hạn chế tệ quan liêu, tham nhũng, làm lành mạnh các quan hệ xã
hội.
- Góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực
nhà nước với cơ quan hành chính trong việc phối hợp thực hiện quyền lực nhà
nước ở địa phương.
- Đặt ra những vấn đề mới, tiếp tục nghiên cứu góp phần hoàn thiện
phương thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm thực quyền của HĐND.
- Luận văn có giá trị làm tài liệu tham khảo, vận dụng vào hoạt động
thực tiễn của HĐND các cấp, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách trong các cơ quan chuyên
môn của HĐND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
(bảng, biểu....), luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh
16. 7
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Quảng Bình từ năm 2011 - 2016
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình.
17. 8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Quan niệm về giám sát và hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh
1.1.1. Nhận thức chung về giám sát
1.1.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều định nghĩa giám sát khác nhau được đưa ra tùy theo phạm
vi rộng, hẹp của nội dung nghiên cứu cụ thể.
Theo định nghĩa tại Từ điển Tiếng việt của nhà xuất bản Khoa học xã
hội- Hà nội 1988, thì giám sát là "Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện
đúng những điều quy định không?".
Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1998 do Nguyễn
Như Ý Chủ biên lại định nghĩa giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi
nhiệm vụ”
Theo Từ điển Luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các
biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát
đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác
định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh.
Theo luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Giám sát được định nghĩa:
"Là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội".
18. 9
Có thể thấy rằng thuật ngữ "giám sát" được dùng rất phổ biến trong
khoa học chính trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ
biến ở đời sống xã hội.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng theo một cách chung
nhất, có thể thấy giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá
nhân, tổ chức, cộng đồng người này với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người
khác trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối,
nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các
quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, tổ chức, cá nhân... để kiến nghị phát huy ưu
điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi sai trái. Theo cách
hiểu trên, khái niệm giám sát bao hàm những nội dung sau đây:
- Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc
làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định.
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với
đối tượng cụ thể (giám sát ai và giám sát cái gì).
- Giám sát được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể.
- Giám sát là hoạt động có mục đích của một chủ thể nhất định.
Dưới góc độ chính trị, pháp lý thì giám sát là việc cơ quan quyền lực
nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
được giám sát, từ đó có các biện pháp nhằm đảm bảo cho lĩnh vực được giám
sát vận hành thông suốt, hiệu quả và đúng pháp luật. Cùng với kiểm tra, thanh
tra, kiểm sát, giám sát là một loại nhiệm vụ trong quá trình thực thi quyền lực
chính trị nhằm làm cho các đối tượng (của chủ thể giám sát) thực hiện đúng
yêu cầu, mục đích, chức năng, nhiệm vụ đặt ra.
19. 10
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: Giám sát là sự theo dõi,
quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác để
biết được đối tượng bị giám sát có thực thi đúng, đủ theo quy định hay
không và quy định về hành vi đối tượng giám sát phải và được làm có phù
hợp với điều kiện thực tiễn hay không và làm rõ được nguyên nhân của sự
vi phạm, sự không phù hợp này.
1.1.1.2. Phân biệt giám sát, kiểm tra, thanh tra
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước ta, để kiểm soát đối với quyền
lực nhà nước, có nhiều hình thức khác nhau, trong đó giám sát, kiểm tra,
thanh tra là những hình thức cơ bản, trong đó:
Giám sát dùng để chỉ hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, toà
án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu thực
hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc.
Kiểm tra là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là,
kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp
dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết
định quản lý hành chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt động kiểm tra thực hiện
trong quan hệ trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ quan cấp trên, thủ
trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp
bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực tới
đối tượng bị kiểm tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai là, kiểm tra
là hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, kiểm tra các tổ chức
xã hội đối với hành chính nhà nước. Vì vậy, kiểm tra ở phạm vi này ít mang
tính quyền lực nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã
hội.
20. 11
Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thanh tra
nhà nước, gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (thanh tra bộ,
thanh tra sở). Cơ quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có
quan hệ trực thuộc. Tuy nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ
quan hành chính thành lập, do vậy nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức
năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Vì vậy, có thể coi hoạt động thanh tra được cơ
quan cấp trên tiến hành trong quan hệ đối với cơ quan trực thuộc. Trong quá
trình thanh tra, cơ quan thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
bảo đảm công tác thanh tra, kể cả các biện pháp trách nhiệm kỷ luật (tạm đình
chỉ công tác...) và xử lý vi phạm hành chính, nhưng không có quyền sửa đổi,
bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm đình chỉ
việc thi hành một số loại quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó,
trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính
trái pháp luật.
Từ những phân tích trên đây có thể nhận thấy giám sát khác với kiểm
tra và thanh tra ở chỗ:
- Giám sát khác với kiểm tra
Kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định, tính
cụ thể rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc sự việc sai
phạm xảy ra là “xem xét cụ thể công việc”. Chủ thể và đối tượng kiểm tra
có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới).
Giám sát khác với kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài,
còn kiểm tra là hoạt động thường xuyên từ bên trong tổ chức hành pháp.
- Giám sát khác với thanh tra
Thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau là đều có hoạt động “xem
xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ động theo dõi”
còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm xảy ra.
21. 12
Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu thông qua hình thức “kiến nghị” còn
thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể. Thanh tra được tiến hành
bởi chủ thể xác định, có thẩm quyền, với trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật
định, là hoạt động đặc thù của hệ thống hành pháp. Còn giám sát được tiến
hành bởi nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền, trách nhiệm khác nhau
do địa vị chính trị pháp lý khác nhau.
Có thể nói, giám sát, kiểm tra, thanh tra là những thuật ngữ có nội dung
tương đối gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi, tính chất gần
nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá)
nằm trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có
sự khác nhau về quan hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp
thực hiện và hậu quả pháp lý.
1.1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
1.1.2.1. Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân tỉnh
trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
a. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân tỉnh
Trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam, HĐND tỉnh là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân ở địa phương đó. HĐND có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định
pháp luật. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà
nước ta đã quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND các cấp,
đặc biệt là cấp tỉnh. Vì thế, HĐND cấp tỉnh đã làm được nhiều việc ích nước
lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa
vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng
lớn mạnh.
22. 13
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
nhân dân địa phương, HĐND cấp tỉnh có khả năng đoàn kết tập hợp được
quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được
mọi nguồn lực vật chất và tinh thần ở mỗi địa phương, góp phần vào thắng lợi
chung của sự nghiệp cách mạng. HĐND cấp tỉnh còn là cầu nối giữa chính
quyền Trung ương với chính quyền địa phương, vừa đảm bảo sự tập trung
thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa
đảm bảo phát huy được nội lực ở từng địa phương, cơ sở.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương
năm 2015 “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên”.
Như vậy, HĐND tỉnh cũng như HĐND các cấp có hai tính chất cơ bản:
“là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương” và “là cơ quan đại biểu của
nhân dân ở địa phương”.
Tính quyền lực nhà nước của HĐND cấp tỉnh thể hiện ở quyền đơn
phương quyết định và quyết định đó có tính bắt buộc thực hiện đối với mọi cơ
quan, tổ chức có liên quan trên địa bàn quản lý của tỉnh. Nhưng vì HĐND cấp
tỉnh chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nên một mặt, những
quyết định này chỉ có hiệu lực trong địa bàn quản lý của tỉnh và chỉ giới hạn
trong phạm vi thẩm quyền được giao theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, mặt khác những quyết định đó không được trái với Hiến pháp, luật và
các văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Chính vì vậy, theo điều
113 Hiến pháp năm 2013 xác định, HĐND cấp tỉnh dù là cơ quan quyền lực
nhà nước ở cấp cao nhất trên địa bàn tỉnh, nhưng HĐND cấp tỉnh cũng phải
căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung
23. 14
ương, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của tỉnh để quyết định các chủ
trương, biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương, phát huy tiềm năng của tỉnh, xây dựng và phát triển tỉnh về
kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ của tỉnh đối với cả
nước. Các nghị quyết của HĐND tỉnh được ban hành trong phạm vi thẩm
quyền được giao có tính bắt buộc thực hiện đối với tất cả các cơ quan, tổ chức
và cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh.
Cũng do tính quyền lực nhà nước của HĐND đã được Hiến pháp năm
2013 và Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 xác định, nên
HĐND cấp tỉnh còn thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp
luật và các nghị quyết của HĐND tỉnh đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có liên quan
trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật, cũng như giám sát hoạt động
công tác của TTHĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp.
Cùng với tính quyền lực nhà nước, HĐND cấp tỉnh còn là cơ quan đại
diện của nhân dân địa phương. Điều 79 hiến pháp 2013 quy định “HĐND là
cơ quan đại diện của nhân dân địa phương và đại biểu HĐND là người đại
diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương”.
Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện
chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm để HĐND trở thành cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, HĐND mới có đủ quyền năng thực hiện được tính chất
đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng
ở địa phương.
24. 15
Với vị trí, tính chất của HĐND được quy định trong Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì HĐND vừa là
một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho
nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa
phương, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa
phương trên mọi mặt kinh tế, xã hội.
b. Chức năng của Hội đồng nhân dân tỉnh
Theo quy định của pháp luật hiện hành, HĐND các cấp đều có hai
chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám sát.
- Chức năng quyết định
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ghi nhận như sau:
"HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội,
củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước". Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này,
tại Điều 19 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã xác định cụ thể nội
dung những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao
gồm các lĩnh vực sau đây: Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật; xây dựng chính quyền; kinh tế, tài nguyên, môi trường; giáo dục,
đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế, lao
động và thực hiện chính sách xã hội; dân tộc, tôn giáo; quốc phòng, an ninh,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND tỉnh rất rộng, bao
gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm
25. 16
quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là
những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa
phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ với
cử tri và cấp trên giao cho.
- Chức năng giám sát
Giám sát là một trong hai chức năng cơ bản của HĐND, có mối quan hệ
và tác động qua lại với chức năng quyết định của HĐND. Vì muốn thực hiện
đúng và có hiệu quả chức năng quyết định, HĐND phải có được đầy đủ
những thông tin về tình hình kinh tế xã - hội của địa phương, về thực tế thực
hiện Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về việc thực hiện các nghị quyết
của HĐND trước đó đã ban hành... Thiếu những thông tin này, HĐND không
thể quyết định được những chủ trương, biện pháp phù hợp và đáp ứng nhu
cầu mà cuộc sống đòi hỏi. Để có được những thông tin như thế thì một kênh
rất cần thiết là hoạt động giám sát của HĐND. Vì vậy, hoạt động giám sát của
HĐND được xem như một khâu không thể thiếu của quá trình ban hành các
quyết định của HĐND.
Theo Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy
định: "Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các Ban của Hội
đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban
nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp huyện”. [1]
Hoạt động giám sát của HĐND được tiến hành thường xuyên, gắn liền
với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. HĐND giám
sát thông qua các hoạt động sau đây:
26. 17
- Xem xét báo cáo công tác của TTHĐND, Uỷ ban nhân dân, Toà án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp;
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp,
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HDND cùng cấp;
- Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
1.1.2.2. Khái niệm và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh
Ngày 20/11/2015, Quốc hội khoá XIII đã ban hành Luật Giám sát của
Quốc hội và HĐND nhằm cụ thể hoá hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND các cấp mà trước đó chỉ có Luật giám sát của Quốc hội. Trên cơ sở đó
hoạt động giám sát của HĐND sẽ được tiến hành thường xuyên, gắn liền với
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Giám sát của
HĐND bao gồm: Giám sát của HĐND tại kỳ họp; giám sát của TTHĐND; giám
sát của các ban HĐND và giám sát của Tổ đại biểu, đại biểu HĐND.
Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát
của HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND cấp tỉnh như sau:
Giám sát của HĐND tỉnh là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên
tục của HĐND cấp tỉnh nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn
việc tuân theo pháp luật, chấp hành nghị quyết của Thường trực HĐND,
27. 18
UBND, TAND, VKSND, của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương theo quy định
của pháp luật.
Giám sát của HĐND tỉnh mang các đặc điểm sau đây:
- Trước hết, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền
hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình
thức hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND. Nói tới vai
trò giám sát là nói tới vị thế của HĐND với tư cách tổ chức và đại biểu
HĐND với tư cách cá nhân trong thực hiện chức trách.
- Mục đích của giám sát là nhằm bảo đảm việc thi hành các văn bản
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND ở địa
phương được nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả; giám sát để khẳng định
những kết quả đạt được, đồng thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, từ đó kiến nghị, đề xuất, quyết định các biện pháp, giải pháp thực
hiện tốt hơn.
- Chủ thể thực hiện quyền giám sát gồm giám sát của tập thể HĐND
tại kỳ họp; giám sát của TTHĐND; giám sát của các ban của HĐND và giám
sát của đại biểu HĐND tỉnh.
Tại Điều 5 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015 đã thể hiện rõ thẩm quyền giám sát của HĐND như sau:
+ Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở
địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt
động của Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và Ban của HĐND cấp
mình; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp và nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp;
28. 19
+ Thường trực HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở
địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát hoạt
động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và HĐND
cấp dưới; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp; giúp HĐND thực hiện quyền giám sát theo sự phân
công của HĐND;
+ Ban của HĐND giúp HĐND giám sát hoạt động của Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp; giám sát
hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp
thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh
vực Ban phụ trách;
+ Tổ đại biểu HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ở địa phương và nghị
quyết của HĐND cùng cấp hoặc về vấn đề do HĐND, TTHĐND phân công;
+ Đại biểu HĐND chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác
của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa
phương.
Khi xét thấy cần thiết, HĐND, TTHĐND, Ban của HĐND tiến hành
giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ở địa phương.
- Đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND các cấp nói chung,
HĐND cấp tỉnh nói riêng bao gồm nhiều loại khác nhau gồm: giám sát hoạt
động của TTHĐND, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát
29. 20
việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. Tuy nhiên, ở
phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng thuộc
quyền giám sát của HĐND tỉnh là UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh.
- Nguyên tắc giám sát là bảo đảm công khai, khách quan, đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của pháp luật và không làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
- Hình thức giám sát gồm xem xét báo cáo công tác của các đối tượng
thuộc quyền giám sát; xem xét việc trả lời chất vấn của những đối tượng này;
xem xét việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị
quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín
nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu; thông qua việc tiếp dân và theo
dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND; tiếp xúc cử
tri.
- Các chế tài của giám sát đó là HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp chấm dứt hành vi vi phạm; yêu
cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của các đối
tượng giám sát có hành vi vi phạm; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy
phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực
tiếp nếu các văn bản đó trái pháp luật, gây thiệt hại về KT-XH, ảnh hưởng an
ninh, quốc phòng; bãi nhiệm, miễn nhiệm, đối với các chức danh do HĐND
bầu; ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất
vấn; quyết định giải tán HĐND cấp dưới trực tiếp.
Sau giám sát, các chủ thể sẽ báo cáo về hoạt động giám sát của mình
trước cử tri địa phương, trước các cơ quan liên quan bằng văn bản trực tiếp
hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động tiếp xúc cử tri
30. 21
của đại biểu HĐND. Các chủ thể giám sát sẽ chịu trách nhiệm về báo cáo,
nghị quyết, kết luận, yêu cầu và kiến nghị sau giám sát của mình.[2]
1.1.2.3. Vai trò của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
- Đảm bảo cho HĐND thật sự là cơ quan đại diện của nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hội đồng nhân dân tỉnh là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương.
Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu
cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
bỏ phiếu kín. Hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn
thể. Mọi quyết định của Hội đồng được thông qua bằng việc biểu quyết theo
nguyên tắc đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của
HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu
trong HĐND. Mỗi HĐND có một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ
giới, người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân và các cơ quan nhà nước khác đóng tại địa phương. Điều này
có nghĩa, HĐND đại diện cho toàn thể nhân dân; thành phần trong HĐND thể
hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa phương. HĐND là cơ quan
chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên.
- Bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được tuân thủ thống nhất, nghiêm
chỉnh trên phạm vi địa phương và bảo đảm việc thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 quy định: Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
31. 22
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. Cụ thể,
HĐND tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết định của
HĐND trong phạm vi địa phương. Các quyết định của HĐND đều được thể
hiện dưới hình thức nghị quyết. Vì thế, chức năng này được triển khai trên các
mặt công tác: tuyên truyền, phổ biến nghị quyết trong nhân dân qua hoạt động
của đại biểu, Tổ đại biểu và các cơ quan chức năng thuộc UBND; TTHĐND
chỉ đạo, đôn đốc UBND triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND, trong đó
có việc ban hành các văn bản cụ thể hóa đề ra các biện pháp thực hiện.
HĐND giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của các cơ
quan chịu sự giám sát của HĐND, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của
cơ quan nhà nước cùng cấp, thông qua việc xem xét các báo cáo của
TTHĐND, các Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, thông
qua hoạt động của đại biểu HĐND trong kỳ họp và giữa hai kỳ họp nhất là
qua chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp của HĐND.
Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng
quyết định những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt
chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động
của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị
quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện được sự không phù hợp,
thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND ban hành để kịp thời sửa đổi, bổ
sung. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi nhiệm,
miễn nhiệm các chức vụ chủ chốt hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những
quyết định sai trái của UBND cùng cấp, những nghị quyết sai trái của HĐND
cấp dưới trực tiếp.
Như vậy, Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và
chức năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải làm thế
nào để HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức năng trên thực tế;
32. 23
đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với nhau giữa các cơ quan nhà nước ở địa
phương nhằm đưa lại cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc cho người dân.
- Góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân nói riêng và của bộ máy nhà nước ở địa phương nói chung
HĐND tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân trong tỉnh bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, cùng với
chịu trách nhiệm trước nhân dân thì HĐND cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và Chính phủ, bộ, ngành trung ương về việc bảo đảm thi hành
Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cấp trên; điều này sẽ bảo đảm cho sự
tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn
quốc. Mặt khác HĐND cấp tỉnh là cấp bảo đảm các điều kiện để quyết định
và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng, lợi thế của địa phương, bảo đảm phát huy quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đời
sống của nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh. Xét ở cấp độ địa phương, HĐND
cấp tỉnh là cơ quan hoạch định, quyết định chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong việc
tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương nói
riêng và bộ máy nhà nước nói chung.
1.2. Nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
1.2.1. Xem xét báo cáo công tác của Thƣờng trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Việc xem xét, thảo luận, đánh giá các báo cáo của TTHĐND, UBND,
Viện KSND và TAND tại các kỳ họp là hoạt động giám sát quan trọng, trực tiếp
33. 24
của HĐND được các đại biểu đặc biệt quan tâm. Hoạt động này tập trung chủ
yếu tại các kỳ họp thường lệ, hoặc kỳ họp chuyên đề quyết định các nội dung
quan trọng khác. Tại kỳ họp cuối năm, HĐND xem xét, thảo luận báo công tác
hàng năm của TTHĐND, UBND, các Ban của HĐND, TAND, VKSND cùng
cấp. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu
HĐND; khi cần thiết, HĐND có thể xem xét, thảo luận. Tại kỳ họp cuối
nhiệm kỳ, HĐND xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của
HĐND, TTHĐND, UBND, các Ban của HĐND, TAND, VKSND cùng cấp.
HĐND có thể yêu cầu báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.
Riêng đối với báo cáo của UBND, VKSND, TAND phải được các Ban của
HĐND thẩm tra theo sự phân công của TTHĐND.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo phải đảm bảo trình tự: Người đứng
đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo; Trưởng ban HĐND cấp tỉnh
trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND cấp tỉnh thảo luận; người đứng đầu cơ
quan trình báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà
HĐND quan tâm; HĐND ra nghị quyết về báo cáo công tác khi xét thấy cần
thiết. Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công
việc của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó HĐND có
thể kiểm soát tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản pháp luật
cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội, tăng cường
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu UBND và các ban ngành về công tác của
họ trước HĐND.
Để hoạt động xem xét báo cáo của TTHĐND, UBND, Viện KSND và
TAND một cách khoa học, ngoài việc thực hiện đúng quy trình xây dựng báo
cáo, công tác thẩm tra các báo cáo phải được TTHĐND phân công cho các
Ban của HĐND thực hiện một cách tích cực. Các Ban phải tiến hành làm việc
với các cơ quan chuẩn bị báo cáo, đi khảo sát nắm tình hình cơ sở, tiếp xúc cử
tri, tổ chức đoàn giám sát, họp Ban và thông qua báo cáo thẩm tra tại kỳ họp
34. 25
nhằm cung cấp cho các đại biểu HĐND cơ sở pháp lý, tính thực tiễn, những
nhận định đánh giá khách quan, tính khả thi làm cơ sở để các đại biểu HĐND
nghiên cứu, thảo luận và xem xét các báo cáo.
Tại kỳ họp, HĐND phải thảo luận tại hội trường hoặc qua các tổ đại
biểu; đại biểu quan tâm vấn đề nào hơn thì ưu tiên thảo luận vấn đề đó; một
đại biểu có thể tham gia thảo luận nhiều nội dung. Những vấn đề mà các đại
biểu quan tâm hoặc có ý kiến khác nhau thì chủ toạ kỳ họp đưa ra thảo luận,
lấy biểu quyết riêng trước khi biểu quyết chung thông qua nghị quyết.
1.2.2. Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân
dân, Thủ trƣởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện
trƣởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện quyền lực
của cơ quan dân cử ở địa phương. Tại kỳ họp, chất vấn là nội dung thu hút
được sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Thông qua chất vấn, các đại biểu
thể hiện trách nhiệm của mình đối với cử tri. Đồng thời, qua việc trả lời chất
vấn, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
Dưới góc độ thực hiện chức năng giám sát của HĐND, quyền chất vấn
được xem là một trong những hình thức giám sát quan trọng nhất, thể hiện
năng lực, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của người đại biểu HĐND. Để
thực hiện quyền chất vấn, đòi hỏi người đại biểu phải có một quá trình theo dõi,
xem xét, tiếp xúc, nghe phản ánh từ nhân dân, phải có quá trình thu thập thông
tin, số liệu, chứng cứ và hiểu biết về pháp luật, hiểu được phạm vi, chức năng,
nhiệm vụ đối tượng mà mình chất vấn.
Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND tỉnh đưa ra các
câu hỏi chất vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của câu hỏi này
thường xoay quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm
thuộc lĩnh vực quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.
35. 26
Theo quy định của pháp luật, đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch
HĐND tỉnh, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND tỉnh, Chánh án
TAND tỉnh, Viện trưởng VKSND tỉnh và Thủ trưởng các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh. Tại kỳ họp, việc chất vấn và trả lời chất vấn được
thực hiện như sau:
- Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu
ghi chất vấn và gửi đến TTHĐND tỉnh. Thường trực HĐND tỉnh chuyển chất
vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để
báo cáo HĐND tỉnh.
- Thường trực HĐND tỉnh dự kiến danh sách những người có trách
nhiệm trả lời chất vấn và báo cáo HĐND quyết định.
+ Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của HĐND được thực hiện
theo trình tự: Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà
đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục.
Đại biểu HĐND có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn. Sau
khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu HĐND không đồng ý với nội dung trả
lời thì có quyền đề nghị HĐND tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó hoặc đưa
ra thảo luận tại phiên họp khác hoặc kiến nghị HĐND xem xét trách nhiệm
của người bị chất vấn. HĐND ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
1.2.3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện khi phát hiện có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, pháp luật
Đây là hình thức HĐND cấp tỉnh giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của
các văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh và nghị quyết của
HĐND cấp huyện. Nếu HĐND cấp tỉnh phát hiện thấy những văn bản này có
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
36. 27
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp huyện thì HĐND sẽ
xem xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.
Việc quy định thẩm quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND cấp tỉnh như hiện nay, một mặt giảm được bớt gánh nặng công việc
cho Quốc Hội, mặt khác góp phần bảo đảm tính thống nhất cao của pháp
luật. HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nắm
vững tình hình của địa phương về mọi mặt, đảm nhiệm công việc này sẽ
thuận lợi và hiệu quả hơn.
Việc xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
nghị quyết của HĐND cấp huyện phải đảm bảo trình tự sau:
+ Đại diện TTHĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên;
+ HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan
đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn
đề có liên quan;
+ HĐND ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái
với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Có thể nói, hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của HĐND
cấp tỉnh có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động này mới loại bỏ được
những văn bản pháp luật sai trái, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất của các văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.4. Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi xét thấy
cần thiết phải xác minh, làm rõ, hoặc muốn biết một số thông tin cụ thể trong
quá trình hoạt động của các đối tượng chịu giám sát thì HĐND thành lập
Đoàn giám sát.
37. 28
Hàng năm, căn cứ vào chương trình giám sát đề ra hoặc theo đề nghị của
TTHĐND, các Ban HĐND hoặc của đại biểu HĐND, HĐND tỉnh quyết định
thành lập Đoàn giám sát. Khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra, những nội
dung hoạt động của Đoàn giám sát bao giờ cũng được thông báo trước cho
đối tượng bị giám sát trong thời gian chậm nhất là 7 ngày trước khi Đoàn
giám sát bắt đầu các hoạt động giám sát. Trong quá trình làm việc với đối
tượng bị giám sát, Đoàn giám sát có quyền xem xét, xác minh tất cả những
vấn đề mà Đoàn xét thấy cần thiết; có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin tài liệu có
liên quan đến nội dung giám sát; đồng thời giải trình tất cả những vấn đề mà
đoàn giám sát quan tâm. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt
hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì
đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy
định của pháp luật.
1.2.5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với ngƣời giữ chức vụ do Hội đồng nhân
dân bầu
Ngày 22/4/2012, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết số 35/2012/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê
chuẩn. Việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35/2012/QH13 thể hiện sự
quyết tâm của Đảng của cả hệ thống chính trị và cũng là một bước cụ thể hóa
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” và các quy định hiện hành của Hiến pháp, pháp
luật; tạo cơ sở pháp lý để Quốc hội, HĐND thực hiện giám sát chặt chẽ,
thường xuyên hơn đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội, HĐND
bầu hoặc phê chuẩn; trên cơ sở đó, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của những
38. 29
người này trước Quốc hội, HĐND và nhân dân cả nước; đáp ứng nhu cầu
quản lý, sử dụng cán bộ; tăng cường tính khả thi đối với những quy định về
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc
phê chuẩn. Thời gian tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
được Quốc hội, HĐND các cấp tiến hành định kỳ hàng năm kể từ năm thứ hai
của nhiệm kỳ; riêng đối với nhiệm kỳ 2011-2016 thì việc lấy phiếu tín nhiệm
lần đầu được tiến hành ngay từ kỳ họp thường kỳ đầu tiên năm 2013.
Thực hiện cơ chế giám sát những người có chức vụ do HĐND bầu
phải trở thành chế độ thường xuyên vì đó là cơ sở khách quan để góp phần
khắc phục tệ quan liêu, xa dân của đội ngũ cán bộ có chức, có quyền. Mục
tiêu của việc lấy phiếu tín nhệm các chức danh do HĐND bầu nhằm tạo điều
kiện thuận lợi để các đại biểu Hội đồng nhân dân thay mặt cử tri đánh giá, thể
hiện sự tín nhiệm của mình đối với người do HĐND bầu hoặc phê chuẩn
trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, qua đó, tăng cường trách
nhiệm của những người này trước HĐND nói riêng và cử tri trong tỉnh nói
chung. Kết quả của việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ góp phần tham mưu cho Đảng,
Nhà nước đánh giá chính xác, hiệu quả hơn năng lực trình độ của người giữ
chức vụ quyền hạn, kịp thời đưa ra khỏi hàng ngũ những người không đủ đức,
đủ tài, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp.
Việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm tại kỳ họp HĐND rất cần có sự
lãnh đạo tập trung, xuyên suốt của cấp ủy Đảng; sự thống nhất trong tổ chức
thực hiện của HĐND, UBND. Bên cạnh đó, Uỷ ban MTTQ và các tổ chức
đoàn thể cần phải nêu cao vai trò giám sát, phản biện xã hội để cung cấp
thông tin nhiều hơn về quá trình công tác, đạo lức, lối sống của người được
lấy phiếu tín nhiệm. HDND cần quy định chế độ các đại biểu giữ các chức vụ,
quyền hạn do HĐND bầu, định kỳ tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú và định kỳ lấy
ý kiến đóng góp của cử tri tại cơ quan làm việc và nơi cư trú.
39. 30
1.3. Các yêu cầu và các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh
1.3.1. Các yêu cầu đối với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh
Để hoạt động giám sát của HĐND tỉnh được thực hiện một cách đồng bộ,
xứng đáng với vị thế và trách nhiệm của cơ quan dân cử, cần đảm bảo các yêu cầu
sau đây:
Thứ nhất, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh phải được tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật và phải đảm bảo tôn trọng sự thật khách quan
Để có cơ sở thực tế và căn cứ khoa học cho HĐND đưa ra các nhận xét,
đánh giá, kết luận, kiến nghị hoặc ra nghị quyết đối với hoạt động của các đối
tượng chịu giám sát, thì hoạt động giám sát phải được tiến hành một cách
khoa học và phải tôn trọng sự thật khách quan. Giám sát phải được tiến hành
theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh phải được tiến hành theo những quy trình và quy định do
pháp luật định. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát tiến
hành một cách khách quan và thống nhất, tránh được tình trạng tùy tiện trong
hoạt động giám sát.
Thứ hai, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục với một chương trình, kế hoạch hợp lý và không
cản trở hoạt động bình thường của đối tượng chịu sự giám sát
Để có cơ sở thực tế và căn cứ khoa học cho HĐND tỉnh đưa ra các nhận
xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị hoặc ra nghị quyết đối với hoạt động của các
đối tượng chịu giám sát, thì hoạt động giám sát phải được tiến hành một cách
khoa học và phải tôn trọng sự thật khách quan. Giám sát phải được tiến hành
theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh phải được tiến hành theo những quy trình và quy định do luật
40. 31
định. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát tiến hành một
cách khách quan và thống nhất, tránh được tình trạng tùy tiện trong hoạt động
giám sát.
Thứ ba, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh phải đảm bảo mọi hành vi vi
phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát phải được phát hiện chính xác
và kịp thời
Thông qua hoạt động giám sát, HĐND tỉnh kịp thời phát hiện những
nhân tố mới để khẳng định, đồng thời phát hiện những yếu kém, trì trệ trong
tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh để kịp thời chấn chỉnh, áp dụng các biện
pháp pháp lý cần thiết thuộc thẩm quyền của HĐND theo quy định của pháp
luật, khắc phục sự yếu kém, trì trệ, cũng như những vi phạm pháp luật của
UBND tỉnh và những người có liên quan. Ví dụ, thông qua hoạt động giám
sát, HĐND có quyền bãi bỏ các văn bản của UBND, Chủ tịch UBND cùng
cấp trái pháp luật, trái nghị quyết HĐND nhằm bảo đảm trật tự pháp luật, bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và nhân dân ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND, trong nhiều trường hợp, góp phần quan
trọng vào việc đấu tranh chống tham nhũng, chống những biểu hiện của thái
độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền của những cán bộ, công chức, kịp thời loại
ra khỏi các cơ quan công quyền ở địa phương những cán bộ, công chức thoái
hoá, biến chất này để lấy lại niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, đối với
chính quyền.
Hoạt động giám sát của HĐND còn bảo đảm và tạo điều kiện UBND tỉnh
thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động quản lý nhà nước ở địa phương, nhằm xây dựng và phát triển địa
phương về mọi mặt, ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ở địa phương, làm tròn nhiệm vụ của địa phương với Nhà nước.
41. 32
Thứ tư, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh phải mang lại hiệu quả thực
tế
Hoạt động giám sát của HĐND phải đem lại những kết quả cụ thể và
thiết thực. Hoạt động giám sát tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp cần phải được
tiến hành một cách khoa học, đúng theo quy định của pháp luật. Thông qua
hoạt động giám sát HĐND phát hiện kịp thời những tồn tại, hạn chế cụ thể
của các đối tượng chịu sự giám sát để từ đó đưa ra các kiến nghị phù hợp
nhằm khắc phục được những tồn tại, hạn chế và đưa ra các giải pháp nâng cao
hơn nữa hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Hiệu quả của hoạt động
giám sát còn thể hiện ở chỗ, thông qua giám sát HĐND nắm bắt được tình
hình thực tế diễn ra tại địa phương để từ đó ban hành nghị quyết có tính khả
thi cao.
Thứ năm, đảm bảo sự phối hợp hợp lý với hoạt động thanh tra, kiểm
tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị xã hội nhằm tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là một mắt khâu quan trọng trong cơ
chế giám sát. Cơ chế đó bao gồm hệ thống các yếu tố tác động qua lại với
nhau từ giám sát tối cao của Quốc hội, HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ
quốc, giám sát của nhân dân... đến hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát,
thanh tra của các cơ quan ban ngành. Mỗi chủ thể có một nhiệm vụ giám sát
khác nhau nhưng tất cả đều có chung mục đích bảo đảm tăng cường pháp chế,
giữ vững trật tự xã hội và bảo vệ pháp luật nhà nước. Do vậy, HĐND tỉnh cần
chú trọng phối hợp với các chủ thể giám sát khác, với các cấp các ngành cũng
như các chuyên gia để tránh sự chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác giám sát. Theo đó, cần tăng cường mối quan hệ giữa HĐND cấp tỉnh
với các cơ quan, tổ chức sau:
42. 33
- Tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với Tỉnh ủy và các Ban của Tỉnh
ủy
Một trong những nguyên nhân làm HĐND tỉnh ít sử dụng các biện pháp
pháp lý là do sự chi phối của Đảng đối với hoạt động của HĐND tỉnh, trong
đó có hoạt động giám sát. Do đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động của HĐND, đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng ở địa phương đối với hoạt động của HĐND tỉnh
nhưng phải theo đúng nguyên tắc mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Một trong những nội dung quan trọng thể hiện sự lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng tỉnh đối với HĐND tỉnh trong lĩnh vực giám sát là công tác tổ chức
cán bộ. Các cấp ủy Đảng tỉnh cần quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng và giới
thiệu các đảng viên ưu tú, có đủ đức, tài vào các cương vị chủ chốt của
HĐND tỉnh. Để khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền, tình trạng "ô
dù"... trong việc bố trí cán bộ trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm
quyền, cần bảo đảm quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa vào tập thể và
nhân dân để tuyển chọn cán bộ.
- Tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các thành viên của Mặt trận
MTTQVN và các thành viên của Mặt trận (Liên đoàn lao động, Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...) cũng như các tổ chức đoàn thể
khác của nhân dân ở tỉnh là hình thức tập hợp đông đảo nhất sự tham gia của
nhân dân trên địa bàn tỉnh, thu thập và phản ánh các ý kiến, kiến nghị, tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân ở địa phương.
Chính vì vậy, HĐND tỉnh cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với MTTQ
và các tổ chức xã hội ở địa bàn tỉnh để dựa vào "tai mắt" của nhân dân kiểm
43. 34
tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật, nhất là công cuộc đấu
tranh chống tham nhũng trong chính bộ máy chính quyền tỉnh.
Ngoài ra cần tăng cường mối liên hệ của đại biểu HĐND tỉnh với
MTTQVN bằng cách phối hợp với MTTQ dự họp với chính quyền trong các
buổi tiếp công dân tại đơn vị mình ứng cử cùng tham gia giải quyết khiếu nại,
tố cáo, qua đó thực hiện quyền giám sát, đôn đốc của đại biểu theo Luật định.
Một hình thức tham gia kiểm tra, giám sát việc chấp hành Hiến pháp và
pháp luật ở tỉnh rất có hiệu quả là các phương tiện thông tin đại chúng ở tỉnh
như Đài phát thanh, Đài truyền hình, báo chí...Vì vậy, HĐND tỉnh cần có sự
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo, đài ở địa bàn tỉnh để thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng đó kịp thời nắm bắt được những ý kiến, kiến
nghị của cử tri, đồng thời lưu ý xem xét trách nhiệm của các cơ quan liên
quan khi làm ảnh hưởng hoặc vi phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. HĐND tỉnh cần thường xuyên giám sát hiện tượng "thương mại hóa"
trong lĩnh vực báo chí khi phản ánh những vấn đề của xã hội nói chung cũng
như lĩnh vực giám sát nói riêng bằng cách xét báo cáo của Sở Văn hóa-Thông
tin, UBND tỉnh và yêu cầu UBND tỉnh và Sở Văn hóa-Thông tin phải có biện
pháp chỉ đạo, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong lĩnh vực
này
- Tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan nhằm cung
cấp thêm thông tin cho giám sát. Ví dụ: TTHĐND và các ban của Hội đồng
phải tham gia đầy đủ các cuộc họp của UBND; yêu cầu các sở, ban, ngành
nhất là cơ quan Tư pháp, các cơ quan chuyên môn tổng hợp như Sở Kế hoạch
đầu tư, tài chính, ngân hàng, kho bạc... phải cung cấp đầy đủ thông tin hoạt
động hàng quý, hàng tháng cho Hội đồng. Có như thế, cùng với nguồn thông
tin khác (do nhân dân phản ánh, qua phương tiện thông tin đại chúng,...)
44. 35
HĐND mới có đủ căn cứ xác định các đối tượng và nội dung cần tập trung
giám sát.
- Tăng cường phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội. Khi có
đoàn đại biểu Quốc hội xuống địa phương giám sát, Thường trực, các ban của
HĐND có thể kết hợp thực hiện nhiệm vụ của mình. Như thế, vừa tránh được
chồng chéo, vừa tranh thủ được trí tuệ của các đại biểu Quốc hội trong việc
tháo gỡ những vướng mắc cho địa phương, đồng thời giảm bớt việc gây phiền
hà cho các đơn vị bị giám sát.
- Tăng cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ giám
sát. Khi báo cáo yêu cầu các đơn vị phải quán triệt quan điểm khách quan,
trình bày đúng thực trạng hoạt động của cơ quan đơn vị mình. Mặt khác trong
quá trình phối hợp, HĐND phải chỉ rõ cho các đơn vị thấy rằng: giám sát là
để ngăn chặn tồn tại, giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ, đó là động lực để
phát triển chứ không phải "vạch lá tìm sâu" gây cản trở cho nhau.
1.3.2. Các yếu tố bảo đảm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh
1.3.2.1. Yếu tố chính trị
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Điều đó đã
được khẳng định trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, giành
độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với HĐND các cấp, Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chủ
trương chính sách chung của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính quyền
nhà nước ở địa phương; thông qua sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng
đối với tổ chức và hoạt động của HĐND. Như vậy hiệu quả hoạt động của
HĐND không chỉ phụ thuộc vào chủ chương, đường lối của Đảng nói chung
mà còn phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo trực
45. 36
tiếp của từng cấp ủy Đảng ở địa phương.
Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, chức năng, nhiệm vụ của
HĐND được quy định trong Luật Tổ chức HĐND và UBND, cấp uỷ Đảng ở
địa phương lãnh đạo HĐND thông qua việc đề ra các chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, làm căn cứ cho
HĐND cụ thể hoá bằng Nghị quyết; thông qua lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ
chức, cán bộ của HĐND; thông qua hoạt động của Đảng đoàn trong HĐND
và thông qua các đảng viên là đại biểu HĐND.
Đối với hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, sự lãnh đạo của Đảng
chính là yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động này. Mọi hoạt động giám sát đều phải căn cứ vào quan điểm
chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, từ việc xây dựng nghị quyết về chương trình giám
sát hàng năm của HĐND, TTHĐND, các Ban của HĐND đến việc tổ chức kỳ
họp… đều phải xin ý kiến của cấp uỷ Đảng. Trước và sau cuộc giám sát,
những vấn đề nổi lên, liên quan đến cơ chế, chính sách, đến cán bộ lãnh đạo
đều được tổng hợp, báo cáo tranh thủ ý kiến của cấp uỷ Đảng để có phương
án xử lý đúng đắn. Đảm bảo Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
Nghị quyết của HĐND được chấp hành có hiệu quả; nâng cao trách nhiệm
của đại biểu trước nhân dân, trách nhiệm của cán bộ công chức, của các cấp,
các ngành trước yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Do việc lựa chọn nội dung giám sát có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong công tác giám sát, chính vì vậy trước khi quyết định nội dung giám sát
cụ thể phải tổ chức thảo luận, thống nhất trong tập thể Đảng đoàn HĐND và
báo cáo xin ý kiến của Ban thường vụ hoặc Thường trực Tỉnh uỷ. Trong quá
trình giám sát của HĐND phải thường xuyên có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ
với cơ quan kiểm tra, nội chính của cấp uỷ để trao đổi, cung cấp thông tin có
liên quan đến nội dung giám sát. Việc kết luận và kiến nghị các biện pháp xử
lý qua giám sát của HĐND về nguyên tắc phải đảm bảo tính thực tiễn khách
46. 37
quan, đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của HĐND,
tuy nhiên những vấn đề nhạy cảm phải báo cáo cấp uỷ trước khi kết luận
chính thức.
Hoạt động giám sát nhằm đảm bảo cho các chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và Nghị quyết của HĐND được thực hiện nghiêm túc, chấn
chỉnh những sai phạm hoặc phát hiện, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện nghị quyết của HĐND. Chính vì vậy, cấp uỷ Đảng
cần phải đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để HĐND thực hiện tốt
quyền giám sát của mình. Đảm bảo giám sát có trọng tâm, trọng điểm, đảm
bảo chất lượng của các kết luận, kiến nghị.
Để HĐND thực hiện tốt chức năng giám sát thì cần phải có sự lãnh đạo
của Đảng. Tuy nhiên Đảng lãnh đạo như thế nào là vấn đề cần xem xét. Các
cấp uỷ Đảng chỉ nên thực hiện lãnh đạo HĐND dựa trên những định hướng
và kiểm tra việc thực hiện đường hướng đó. Sự bao biện, làm thay của cấp uỷ
Đảng đối với HĐND sẽ là nguyên nhân biến cơ quan dân cử thành công cụ
thực hiện thiếu sức sống, chỉ còn mang tính hình thức.
1.3.2.2. Yếu tố pháp lý
Các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND có vai trò tạo
cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh trong việc thực hiện quyền năng giám
sát của mình.
Đây là yếu tố quan trọng tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân, bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý
cho HĐND thực hiện quyền năng của mình. Năm 2015 Quốc hội khoá XIII
đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND thể hiện rõ
những quy định cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn.... của các đối
tượng liên quan đến hoạt động giám sát, đồng thời việc ghi nhận chức năng
giám sát của HĐND trong Hiến pháp đã thể hiện yêu cầu, nhiệm vụ và tầm
47. 38
quan trọng của hoạt động giám sát của HĐND. Điều này đã được chứng minh
trong thực tiễn phát triển của Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015. Các
văn bản nói trên đã cụ thể, chi tiết hoá chức năng giám sát của HĐND nên
trong thời gian vừa qua đã đem lại nhiều kết quả đáng kể.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thì đòi hỏi quan
trọng nhất là phải ban hành đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giám sát
cho HĐND tỉnh nói riêng và toàn bộ hoạt động của Hội đồng nhân dân nói
chung.
1.3.2.3. Yếu tố tổ chức, bộ máy và nguồn nhân lực
Muốn đảm bảo hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đòi hỏi
phải có một bộ máy đủ khả năng thực hiện một cách tốt nhất chức năng giám
sát. Bất kỳ cơ quan nào nếu có một tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên
guồng máy làm việc nhịp nhàng, hiệu quả công việc sẽ cao hơn.
HĐND là cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, để thực hiện tốt
chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi hỏi Hội đồng nhân
dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động, phải đảm bảo số
lượng đại biểu chuyên trách trong Thường trực, trong các Ban để tránh tình
trạng công việc bị ùn tắc, hoạt động mang tính hình thức, thiếu hiệu quả, đồng
thời phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận giúp việc cho Thường trực, cho các
Ban, có như vậy mới đảm đương được công việc giám sát của HĐND tỉnh.
Bên cạnh đó, yếu tố nguồn lực con người có tính quyết định. Sinh thời,
Chue tịch Hồ Chí Minh từng nói: Cán bộ là gốc, mọi việc tốt hay xấu đều do
cán bộ mà ra. Hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh phụ thuộc trước
hết vào phẩm chất, năng lực, trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của
đại biểu HĐNd. Đại biểu HĐND do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, là cầu nối quan trọng giữa
chính quyền Nhà nước với nhân dân, vì thế họ vừa chịu trách nhiệm trước cử
48. 39
tri vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Với vị trí vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, đòi hỏi người đại biểu
nhân dân phải là những người có phẩm chất, năng lực, trình độ và tinh thần
trách nhiệm cao.
Theo quy định của pháp luật, đại biểu HĐND phải là người trung thành
với Tổ quốc, người tiêu biểu trong nhân dân, phấn đấu thực hiện công cuộc
đổi mới làm cho dân giàu nước mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu
chấp hành pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu
HĐND, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, được
nhân dân tín nhiệm. Như vậy ngoài phẩm chất đạo đức tốt đại biểu HĐND
phải có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND;
tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. Trình độ hiểu
biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu thể hiện ở trình độ chuyên môn
được đào tạo, sự am hiểu chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, thể hiện ở kết quả làm nhiệm vụ. Còn trách nhiệm đại biểu thể hiện
ở việc tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp HĐND; tích cực thảo luận và
biểu quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND; liên hệ chặt
chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri và báo cáo với cử tri về hoạt động
của mình và của HĐND.
Đối với đại biểu HĐND, pháp luật hiện hành đã giao một quyền năng
pháp lý gắn với tư cách người đại biểu để thực hiện hoạt động giám sát đó là
quyền chất vấn. Đây là hình thức giám sát khá chặt chẽ của đại biểu HĐND
đối với Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND,
thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án Toà án nhân dân,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Thể hiện được tinh thần làm
chủ, đấu tranh cao của người đại biểu nhân dân nhằm thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các Nghị quyết của HĐND. Một đại