1. I. Đại cương
Thương hàn luận là một quyển sách về y học lâm sàng lớn nhất của Y
học Đông phương, được xếp thứ tư sau Nội kinh tố vấn, Linh khu và
Nạn kinh.
Trương Trọng Cảnh được xem là nhà sáng lập trường phái Thương
hàn luận. Ông còn có tên Trương Cơ, người Niết Dương, Nam quận đời
Đông Hán (nay là Hà Nam, Trung quốc). Sinh vào khoảng 142-10 thời
Hán Linh Đế (168-188). Ông học rộng tài cao, nổi tiếng liêm khiết và
được đời sau tôn là Y thánh. Ông đã biên soạn 2 bộ sách: (1) Thương
hàn luận (thương hàn tạp bệnh luận) gồm 10 quyển, ghi lại 113 phương
thuốc, bàn kỹ về kinh lạc và bệnh Thương hàn; (2) Kim quỹ ngọc hàm
kinh thường được gọi là Kim quỹ yếu lược gồm 6 quyển, ghi lại 262
phương thuốc.
NGOẠI CẢM THƯƠNG HÀN
2. II. Định nghĩa:
Bệnh Thương hàn: theo Nội kinh: “Nhiệt bệnh giai Thương Hàn
chi loại giã” (Các bệnh sốt đều là loại thương hàn). Thực ra chữ
Thương Hàn có thể có 3 nghĩa: (i) Nghĩa rộng, chỉ tất cả các loại
bệnh ngoại cảm có sốt, gồm 6 bệnh cảnh. (ii) Nghĩa hẹp, là bệnh
ngoại cảm do Hàn tà; (iii) nghĩa hẹp hơn nữa, chỉ một thể bệnh
của ngoại cảm giai đoạn đầu (đó là Kinh chứng Thái Dương
Thương hàn, có tính chất của Biểu thực chứng). Một cách tổng
quát, thương hàn là: Bệnh ngoại cảm, triệu chứng chủ yếu có
tính Hàn ở giai đoạn đầu và diễn biến theo một quy luật nhất
định. Lục kinh hình chứng: một cách nói khác của 6 bệnh cảnh
thương hàn. Lục kinh truyền biến (Truyền kinh): Diễn biến của
bệnh Thương hàn theo thứ tự 6 giai đoạn với 6 loại bệnh cảnh
được đặt tên theo 6 đường kinh chính.
3. III. NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH:
A. Nguyên nhân bệnh:
Chủ yếu do chính khí kém phối hợp với Tà khí
xâm nhập (lục khí trái thường) mà chủ yếu là
Phong hàn tà. “Tà chi sở thấy kỳ khí tất hư” (Nội
kinh). Sách Nan kinh nói: “Thương hàn hữu ngũ”
(Bệnh thương hàn bao gồm Phong, Hàn, Ôn,
Nhiệt, Thấp)
4.
5. Tà khí quá mạnh
Chính khí quá yếu
Trị bệnh lầm (ví dụ: Phát hãn lầm, tả hạ
bậy).
Nếu chính mạnh hơn tà: khỏi bệnh.
Người chính khí khá mạnh: Tà khí chỉ
truyền biến ở 3 kinh Dương (nhẹ).
Người hư yếu: Tà khí dễ truyền vào 3 kinh
Âm (nặng).
+ Quy luật truyền biến: có 4 kiểu truyền
biến
6.
7.
8. Thứ tự truyền kinh về mặt chi tiết có nhiều ý kiến
không nhất quán:
Nhiều người căn cứ vào Nội kinh mà nói:
- Ngày thứ nhất: bệnh ở Túc Thái Dương Bàng
quang kinh
- Ngày thứ hai: bệnh ở Túc Dương minh Vị kinh
- Ngày thứ ba: Bệnh ở Túc Thiếu Dương Đởm
kinh
- Ngày thứ tư: bệnh ở Túc Thái Âm Tỳ kinh
- Ngày thứ năm: bệnh ở Túc Thiếu Âm Thận kinh
- Ngày thứ sáu: bệnh ở Túc Quyết Âm Can kinh.
9. Đến kinh Quyết â là hết (chết nếu không trị) một vài trường hợp
đặc biệt như cảm thêm một lần nữa hay cảm thêm thứ khác thì
sẽ tái truyền lục kinh. Với tái truyền lục kinh nếu không có biến
chứng thì
đa số các triệu chứng thường giảm; nếu sau sáu ngày cũng chưa
giảm thì ngày thứ bảy Thủ Thái Dương Tiểu trường kinh bị (nhức
đầu giảm), ngày thứ tám Thủ Thái Dương Đại trường kinh bị (bớt
đau nhức mắt, ngủ được), ngày thứ chín Thủ Thiếu Dương Tam
tiêu bị (giảm ù tai và đau sườn), ngày thứ mười Thủ Thái Âm Phế
kinh bị (bụng bớt đầy đau), ngày thứ mười một Thủ Thiếu âm
tâm kinh bị (lưỡi đầy đau), ngày thứ mười hai Thủ Quyết Âm
Tâm bào bị (túi chứa Ngọc Hành đã xệ, bụng dưới thư thái). Một
khi bệnh đã truyền vào Thủ kinh, nếu không có biến chứng thì để
tự nhiên cũng khỏi. Một số người khác nêu:
10. Lúc đầu Tà khí vào Thái Dương kinh, nếu không phát
hãn để gải, tà sẽ truyền sang Dương minh kinh vào
ngày thứ hai (gọi là tuần kinh truyền); nếu từ Thái
dương không truyền vào Dương minh nhƣng lại truyền
vào Thiếu dương kinh thì goi là Việt kinh truyền. Nếu
bệnh ở Thái Dương kinh dùng lầm thuốc hạ, tà sẽ vào
Thái Âm kinh thì gọi là Ngộ hạ truyền. Nếu bệnh từ Thái
dương kinh truyền vào Thiếu âm kinh thì gọi là Biểu lý
truyền. Nếu bệnh từ Thái dương kinh truyền vào Quyết
âm kinh thì gọi là
Thủ túc truyền (vì Thái dương kinh ở đầu và quyết âm
kinh ở cuối của vòng tuần hoàn lục kinh).
11. Nếu bệnh tà không di theo thứ tự mà nhảy bỏ cách một hay hai
kinh thì goi là gián truyền. thí dụ từ Thái Dương truyền thẳng vào
Tam Âm.
Có khi bệnh ở Thái dương rồi tự dứt, không truyền kinh. Hoặc
bệnh truyền đến Quyết âm kinh rồi thôi (nếu truyền nữa sẽ thành
tái truyền kinh)
Trong thực tế, không nên câu nệ số ngày. Sách Hoạt nhan thư
nói: “Lục khí Phong Hàn Thử Thấp Táo Hỏa thừa kinh nào là vào
kinh đó”.
Ghi chú: có 3 giả thuyết (3 phái) trả lời chó vấn đề Hàn tà xâm
phạm vào Túc kinh trước hay Thủ kinh trước:
Hàn tà vào Túc kinh trước
Tà khí đã vàoo kinh thì không phân biệt Túc kinh hay Thủ kinh
Tà khí chỉ truyền vào Túc kinh nếu bệnh còn ở kinh lạc; còn
nếu tà đã vào tạng thì sẽ vào cả Thủ kinh
12. 2. Trực trúng:
Bệnh tà đi thẳng vào Tam âm (không từ Sương kinh truyền vào).
Thường là trực trúng Thái Âm và
Thiếu Âm. Thí dụ: chứng Thái âm trực trúng: đột nhiên nôn ói, tiêu
chảy, lạnh mát tay chân, bụng đầy,
không khát (Nguyên nhân: cơ thể yếu, Dương khí thiểu, Chính khí suy
làm ngoại tà trực tiếp hãm vào Tam Âm gây ra Hư hàn chứng).
Nhưng cũng có trực trúng vào Dương minh mà không qua Thái dương
kinh.
3. Lý chứng chuyển ra biểu chứng:
Đó là tình trạng bệnh từ Tam âm chuyển thành Tam dương, do chính
khí dần hồi phục, tà lui (tiên lượng tốt). thí dụ Trực trúng Thái âm có
nôn mửa tiêu chảy, do điều trị mà bệnh ngưng lại nhưng sau
đó xuất hiện chứng đi tiêu táo kết, phát sốt, khát. Đó là Thái âm bệnh
và Dương khí ở Trường Vị khôi phục lại đƣợc nhưng tà vẫn còn, do đó
chuyển thành Dương minh
13. 4. Tính bệnh:
Là tình trạng chứng trạng ở một kinh chưa được giải
khỏi hoàn toàn lại xuất hiện thêm chứng trạng của một
kinh khác, tình trạng này do sự truyền biến. Thí dụ:
Thái Dương bệnh chưa khỏi hẳn lại xuất hiện Dương
minh bệnh
5. Hợp bệnh:
Hai đến ba kinh thụ tà cùng lúc. Đây là trường hợp
không do truyền biến. có thể có Hợp bệnh Nhị dương
(Như thái dương hợp bệnh với dương minh), hoặc hợp
bệnh Tam dương.
14. IV. Bệnh cảnh thương hàn (Lục kinh hình chứng)
Có tất cả 6 bệnh cảnh Thương hàn chính kèm theo các thể bệnh
rieng của từng bệnh cảnh.
A. Thái dương chứng (biểu)
1. Chủ chứng: Phát sốt, ớn lạnh, sợ lạnh, nhức đầu, cứng gáy và
sống lưng, mạch phù.
2. Biện chứng:
Thái dương đứng đầu mọi kinh Dương, bao gồm Thủ thái dương tiểu
trường kinh và Túc thái dương
bàng quang kinh. Tà khí xâm nhập Túc thái dương trước, do đó xuất
hiện các chủ chứng là triệu chứng
dọc đường đi (đã nêu trên). Thái dương kinh đứng đầu 3 kinh
Dương nên chứng của Thái Dương là
Biểu chứng. Nhức đầu còn do Tà khí vào kinh Dương mà 3 kinh
Dương đều tụ lên đầu. Phát sốt là do Hàn tà vít lấp lỗ chân lông làm
chính khí bên trong cơ thể bị uất lại thành Nhiệt. Nhiệt này không
nguy hiểm vì là gốc ở chính khí
15. 3. Phân loại thái dương chứng: có 2 thể thái dương chứng:
a. Thái dương kinh chứng: gồm 2 thể bệnh:
Trúng phong (hay thương phong): sợ gió, tự hãn (mồ hôi nhỏ giọt
không ngừng), mạch
hoãn (tương đương với Biểu hư chứng trong Ngoại cảm lục dâm).
Có thể có sổ mũi nôn
khan.
- Pháp: điều hòa dinh vệ, giải cơ.
- Phương: Quế chi thang (có 19 phương gia giảm)
Quế chi (Quân): Ôn kinh, tán Hàn, giải biểu, phát Biểu (tán)
Thược dƣợc (Thần): hòa huyết mạch, thu liễm Âm khí (thu)
Cả 2 phối hợp điều hòa được Dinh Vệ, ở Biểu giải được tà, bên
trong hòa được khí.
Sinh khương (tá): ôn Vị, kiện Vị, giúp Quế chi phát tán
Đại táo (Tá): tăng dinh dưỡng hóa Thủy độc, giúp Thƣợc dược
điều hòa được dinh vệ.
Cam thảo (sứ): điều hòa các vị thuốc.
16. Thương hàn: sợ lạnh, không mồ hôi, mạch khẩn
(tương đương với Biểu Thực chứng
trong Ngoại cảnh Lục dâm). Có thể có đau nhức các
khớp suyễn, ói, đầu cổ cứng đau
- Pháp: Tân ôn giải Biểu
- Phương trị: Ma hoàng thang (có 6 phương gia giảm)
Ma hoàng (Quân): giải Biểu phát hãn bình suyễn
Quế chi (Thần): ôn kinh, tán Hàn, giúp Ma hoàng
phát hãn để đuổi tà.
Hạnh nhân (Tá): lợi Phế, hạ Khí, giúp Ma hoàng
bình suyễn
Chích thảo (Sứ): điều hòa các vị thuốc
17. b. Thái Dương Phủ chứng. Gồm có 2 thể bệnh:
Súc Thủy: Phát sốt về chiều, nhiều mồ hôi, khát muốn uống, uống
lại mửa, tiểu không lợi,
bụng dưới đầy nhẹ, mạch phù sác, lưỡi khô (tương đương với bệnh
cảnh Tà và Khí phận trong
Ôn bệnh)
- Phép trị: Hóa Khí Hành Thủy
- Phương trị: Ngũ linh tán
Trạch tả (1 lạng 6 thù)
Trƣ linh (18 thù)
Phục linh (18 thù)
Cả 3 vị thẩm thấp, hóa khí quyết độc, thông lợi thủy đạo
Bạch truật(18 thù): kiện Tỳ, thắng Thấp
Quế chi (nửa lạng): giải Thái Dương Biểu chứng, hòa khí Bàng
quang
18. Súc Huyết: đau quặn bụng dưới tức trướng, như phát
cuồng, tiểu lợi, tiêu phân đen ( tƣơng
đương với bệnh cảnh Tà và Huyết phận trong Ôn bệnh)
- Phép trị: Trục Huyết ứ
- Phương trị: Đào nhân thừa khí thang (= Điều vị thừa khí
thang gia Quế chi,
Đào nhân)
Đào nhân (50 hột): công phá súc huyết, trị ứ huyết, huyết bế
Quế chi (2 lạng) : thông huyết mạch, tán hạ, tiêu súc huyết
Đại hoàng (4 lạng)
Cam thảo (nướng, 2 lạng)
Mang tiêu (2 lạng)
Ba vị sau thuộc Điều vị thừa khí thang: tả nhiệt khứ thực, phá
huyết, hạ ứ
19. B. Dương minh chứng (Lý)
1. Chủ chứng: Nóng sốt cao, sợ nóng, đổ mồ hôi, táo bón, mạch đại.
2. Phân loại:
a. Dương minh kinh chứng: chưa táo, khát uống luôn, đổ mồ hôi, rêu
lưỡi vàng dày, mạch hồng
đại.
Phép trị: thanh giải Lý nhiệt (tân hàn, khổ hàn)
Phương trị: Cát căn thang gia giảm
Cát căn thang (chưa gia giảm):
- Cát căn (4 lạng)
- Ma hoàng (bỏ mấu, 8 lạng)
- Quế chi (bỏ vỏ, 2 lạng): ôn kinh tán Hàn gảii cơ, phát biểu (tán)
- Thược dược (2 lạng): hòa Huyết mạch, thu liễm Âm khí (thu)
- Sinh khương (2 lạng): ôn Vị, kiện Vị, giúp Quế chi phát tán.
- Đại táo bỏ hạt 12 quả: tăng dinh dưỡng hóa Thủy độc, giúp Thược
dược điều hòa Dinh vệ.
- Cam thảo 2 lạng: điều hòa các vị thuốc
20. b. Dương minh Phủ chứng
Sốt cơn (triều Nhiệt), nói sảng (thiềm ngữ), táo (bí
tiêu), bụng đầy đau, mồ hôi ướt đẫm, mạch trầm thực,
nặng thì măn áo sờ giường, trực thị.
Phép trị: tả hạ (khổ hàn)
Phương trị: tùy thể bệnh mà chọn phương:
Bạch hổ thang:
- Thạch cao (tán nhỏ, 1 lạng): thanh Dương minh kinh
nhiệt, trừ nhiệt thịnh, phiền táo
(Quân).
- Tri mẫu (6 lạng): thanh Nhiệt tà ở kinh Dương minh
(Thần)
- Cam thảo (nướng, 2 lạng): hòa vị (Sứ)
- Cánh mễ (6 hợp): dưỡng Âm (Tá).
21. Đại thừa khí thang (12 phương gia giảm):
- Đại hoàng (rửa rượu, 4 lạng): tiết Nhiệt, công hạ (tẩy rửa
Trường Vị) (Thực)
- Hậu phác (nửa cân, nƣớng, bỏ vỏ): ôn khí, hành khí, trừ mãn
(Mãn)
- Chỉ thực (nướng, 5 quả): tiêu bĩ, phá kết, trừ đầy (Bĩ)
- Mang tiêu (3 hợp): nhuận táo, nhuyễn kiên (làm mềm các
chất rắn) (Táo).
Tiểu thừa khí thang:
- Đại hoàng (rửa rượu, 4 lạng)
- Hậu phác (2 lạng, nướng, bỏ vỏ)
- Chỉ thực (nướng, 3 quả)
Điều vị thừa khí thang
- Đại hoàng (rửa rợưu, 4 lạng)
- Cam thảo (2 lạng, nướng)
- Mang tiêu (3 hợp)
22. C. Thiếu Dương chứng (Bán biểu bán lý):
1. Chủ chứng: Nóng rét qua lại, miệng đắng, họng
khô, mắt mờ hoa mắt, ngực sườn đầy tức, buồn
nôn, bứt rứt (tâm phiền) không muốn ăn, mạch huyền
tế. Có thể có khát thích uống mát.
2. Phân loại: bệnh có xu hướng vào Lý hay ra Biểu
nhưng thường là kiêm chứng.
3. Phép trị: không được hãn, thổ, hạ đơn độc. chỉ
được hòa giải và tùy bệnh cảnh mà gia thêm biểu
hay công lý.
4. Phương trị:
Tiểu sài hồ thang (6 phương gia giảm):
- Sài hồ (nửa cân): đạt tà ở bán biểu thiếu dương
- Hoàng cầm (3 lạng): thanh tiết Nhiệt ở bán Lý thiếu
dương
- Bán hạ (rửa, nửa thăng): hòa Vị giáng nghịch
23. *- Sinh khương (thái, 3 lạng): hòa Vị giáng
nghịch, điều hòa dinh vệ
- Nhân sâm (3 lạng): phù Chính
- Đại táo (bửa, bỏ hạt, 12 quả): phù Chính,
điều hòa Dinh vệ
- Cam thảo (3 lạng): phù Chính.
24. D. Thái âm chứng (Lý)
1. Chủ chứng: đầy bụng, nôn, bụng đầy ăn không
tiêu, tiêu lỏng, có thể có đau bụng, không khát.
Mạch hoãn, nhƣợc. không sốt.
2. Phép trị: ôn trung tán hàn (ôn bổ tỳ vị).
3. Phương trị:
Lý trung thang (10 phương gia giảm)
- Nhân sâm (3 tiền): bổ khí ích tỳ.
- Can khương (1 tiền): ông trung khu hàn
- Chích thảo (nƣớng, 1 tiền): hòa trung bổ thổ.
- Bạch truật (3 lạng): kiện tỳ táo thấp.
Tứ nghịch thang (8 phương gia giảm):
- Cam thảo (nướng, 2 lạng)
- Can khương (1 lạng rưỡi)
- Phụ tử (dùng sống, bỏ vỏ, phân làm 8 mảnh, 1 củ)
25. E. Thiếu âm chứng: (đây cũng là giai đoạn cuối của bệnh
Thương hàn.)
1. Chủ chứng: chỉ muốn ngủ mà không ngủ đƣợc, mê man,
tinh thần suy giảm cực độ, mạch vi tế.
Biểu hiện Lý, Hư, Hàn chứng.
2. Phân loại: có 2 loại:
Hàn hóa: sốt nhưng lại ớn lạnh, ỉa mửa, khát muốn uống
nóng, nhưng không uống nhiều, tiểu
trong nhiều, chân tay móp lạnh, co quắp (Dương hư, hư hàn,
có khi có giả nhiệt) chỉ muốn ngủ.
Pháp trị: phù dương, ôn bổ
Phương trị:
Ma hoàng phụ tử tế tân thang:
- Ma hoàng (bỏ đốt, 2 lạng): phát hãn, giải biểu, tán Hàn tà.
- Phụ tử (bào, bỏ vỏ, phân làm 8 mảnh, 1 củ): ôn kinh trợ
Dương.
- Tế tân (2 lạng): thông Biểu lý.
26. Nhiệt hóa: (biến chứng từ Thiếu âm) tiêu chảy, khát
nước, tâm phiền (bứt rứt khó chịu), ngực
đầy, nằm không yên, đau họng, mọc mụt trong cổ (Âm
hư)
Phép trị: dưỡng Âm, Thanh nhiệt
Phương trị:
Hoàng liên a giao thang
- Hoàng liên (4 lạng): tả tâm hỏa, thanh nội nhiệt, giải
nhiệt độc
- Hoàng cầm (1 lạng): tả hỏa thượng tiêu, thanh thấp
nhiệt vị trường
- Thược dược (2 lạng): dưỡng huyết liễm âm
- Kê tử hoàng (2 quả): thanh tâm nhiệt, dưỡng tâm
huyết, tăng dịch vị, bổ tỳ âm.
- A giao (3 lạng): tư âm dưỡng huyết.
27.
28. 1. Thượng Nhiệt hạ Hàn: Tiêu khát, uống nƣớc luôn, khí xông lên
ngực, vùng tim đau nóng (Thượng
công hạ thì tiêu không cầm lại được (Hạ Hàn = hư Hàn ở Trung và
Hạ tiêu).
2. Quyết Nhiệt thắng phục“Quyết” (lạnh quíu chân tay) và “Nhiệt” (sốt
nóng) thay thế nhau
Nếu Quyết nhiều hơn Nhiệt hoặc Quyết nghịch không khỏi là bệnh
đang tiến triển, tiên lượng xấu.
Nếu Nhiệt nhiều hơn quyết hoặc quyết khỏi rồi Nhiệt trở lại, là
chính khí đang hồi phục, bệnh sắp khỏi.
3. Quyết nghịch:
Chân tay giá lạnh, lạnh quíu. Có nhiều loại:
Hàn quyết: đổ nhiều mồ hôi, sốt không lui, bên trong co thắt, chân
tay đau nhức.
Nhiệt quyết: lý nhiệt, mạch hoạt
Hồi quyết: ăn vào nôn ra còn khó chịu, nôn ra lãi, mạch vi
Tạng quyết: người vật vã, không yên, da lạnh, mạch vi
V.v…
29. 4. Tiêu chảy nôn mửa:
Tiêu chảy Thấp nhiệt: có mót rặn
Tiêu chảy thực nhiệt: tiêu chảy nhưng phân cảm
giác đọng lại thức ăn đình trệ, nói sảng.
Tiêu chảy hư hàn: tiêu lợn cợn nước lượng
nhiều.
V.v…
Trong quyết âm chứng, 2 loại bệnh cảnh chính là:
Thượng nhiệt hạ hàn và Quyết nhiệt thắng phục.
Phép trị: tùy chứng mà trị liệu, Nhiệt thì thanh, hạ;
Hàn thì ôn, bổ. nếu hàn nhiệt lẫn lộn phức tạp thì
phối hợp phép cứu. Với quyết lãnh thì phải hồi
Dương phối hợp với bảo tồn Âm dịch.