2. 1. ĐỊNH NGHĨA
• Trĩ mũi là một bệnh điển hình và hay gặp nhất của hội chứng viêm mũi teo
(teo niêm mạc mũi do có bệnh viêm mũi nặng nhưng không được điều trị
thích hợp và triệt để)
3. • Yếu tố cơ giới: do bẩm sinh hốc mũi rộng sẵn, hay do phẫu thuật cuốn mũi dưới
gây ra.
• Yếu tố nhiễm khuẩn: trong trĩ mũi có các vi khuẩn Belfanti (giả bạch hầu),
Loevenberg và Perez (gây mùi thối). Song các vi khuẩn trên có thể gặp trong mũi
thường.
• Yếu tố nội tiết: trĩ mũi thường gặp ở nữ giới, độ tuổi dậy thì, khi có kinh nguyệt
bệnh có thể tăng hay giảm, đến tuổi mãn kinh hay sau sinh đẻ bệnh sẽ giảm đi.
• Yếu tố cơ địa: ở người trĩ mũi thường thấy có rối loạn giao cảm.
2. NGUYÊN NHÂN
4. Chuẩn đoán xác định
• Trĩ mũi thường khá điển hình với các triệu chứng sau:
- Hơi thở thối và tanh làm cho người xung quanh rất khó chịu.
- Mất ngửi: tự bệnh nhân lại không ngửi thấy mùi thối cũng như các mùi
khác.
- Mũi teo: khi lấy hết vẩy, thấy hốc mũi rộng, các cuốn mũi, kể cả cuốn mũi
dưới đều bị teo đi, niêm mạc mũi nhợt, khô.
- Ngạt mũi: tuy hốc mũi rộng nhưng bệnh nhân lại có cảm giác ngạt mũi
(đây là cảm giác ngạt giả).
3.CHUẨN ĐOÁN
5. • Kết hợp cận lâm sàng:
- Nội soi mũi xoang
- Chụp Xquang hoặc CT Scan mũi xoang: Để xác định có bị
tổn thương vùng hốc mũi hay bị viêm mũi xoang kèm theo
không.
Chuẩn đoán xác định
6. • Giang mai mũi: có vảy cứng nhưng khó lấy, niêm mạc hay bị loét
có mủ, cuốn mũi không bị teo nhỏ, Nội soi mũi sẽ thấy một trong
hai loại thương tổn là thâm nhiễm lan toả và thâm nhiễm khu trú.
• Lao mũi: vảy mũi mỏng, nhỏ, màu vàng, không thối.
CHUẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
7. • Lấy vảy mũi và rửa mũi bằng dung dịch Bôrat, Natri bicarbonate hoặc nước muối
sinh lý Nacl 9% loãng ấm hàng ngày.
• Bôi thuốc mỡ vitamin A, D để chống thoái hoá niêm mạc.
• Chống nhiễm khuẩn: thường dùng Streptomycin tại chỗ.
- Trong trường hợp nhiễm khuẩn vùng mũi xoang thì dung kháng sinh toàn thân
như: Amoxixiline+ Clavulanate,nhóm Quinolon,Cephalosporine.
- Dùng kháng viêm: Corticoid,Non-Steroid
4. XỬ TRÍ
4.1 Nội khoa
Giang mai mũi:
Các triệu chứng không điển hình gồm nghẹt mũi, nhức đầu, viêm đỏ da vùng mũi…
Ngạt mũi một bên hoặc hai bên có kèm theo chảy dịch nhầy hay dịch mủ có mùi hôi.
Nhức đầu về ban đêm, người bệnh đau ở xoang trán, ở rễ mũi.
Da ở mũi phù nề, đỏ, nắn tháp mũi đau.
Nội soi mũi sẽ thấy một trong hai loại thương tổn là thâm nhiễm lan toả và thâm nhiễm khu trú.
Với thâm nhiễm lan tỏa, niêm mạc vách ngăn, cuốn mũi dày, đỏ, vách ngăn phình to đến sát cuốn mũi. Chấm cocain và adrenalin (Rhinex) vào niêm mạc không co lại. Trong giai đoạn này nếu dùng thuốc chống giang mai, viêm sẽ rút lại, nếu không sẽ biến thành gôm.
Còn thâm nhiễm khu trú thường ở phần sau của vách ngăn mũi. Niêm mạc ở đây đỏ bầm và sưng phồng lên, hình thành một khối u tròn chắc bằng đầu ngón tay gọi là gôm. U gôm trở nên mềm, vỡ ra và tiết chất vàng đặc như keo có pha lẫn ít máu. Sau khi gôm vỡ, người bệnh thấy bớt nhức đầu.