1. ĐHQG
1
SINH LÝ BỆNH NỘI TIẾT
Bệnh tuyến giáp
Giảm bài tiết tuyến giáp
Sự giảm bài tiết tuyến giáp được gọi là suy giáp. Có thể chia thành suy giáp nguyên phát hay thứ
phát do thiếu TSH.
- Trong suy giáp nguyên phát bất thường là do bản thân tuyến giáp. Nguyên nhân là do thiếu iốt,
thiếu enzyme tuyến giáp bẩm sinh và viêm giáp. Nồng độ T3 và T4 thấp, dẫn đến tăng TSH (do
giảm feedback âm tính), nên kích thích sự phát triển của tuyến giáp, gọi là bướu giáp.
- Trong suy giáp thứ phát sự bài tiết TSH của tuyến yên trước giảm. Tuyến giáp bị teo lại.
Các triệu chứng và dấu hiệu chính của suy giáp liên quan đến tác dụng của hormone trên chuyển
hóa, tác dụng toàn thể và tác dụng trên sự phát triển.
Hậu quả về chuyển hóa
- Giảm tốc độ chuyển hóa căn bản dẫn đến không chịu được lạnh, giảm thèm ăn nhưng tăng
cân.
- Giảm đường huyết.
- Tăng lipid máu, có thể dẫn đến xơ vữa động mạch.
Hậu quả toàn thể
- Tần số tim chậm lúc nghỉ
- Giảm nhu động ruột dẫn đến bón
- Suy nghĩ chậm chạp và buồn ngủ; phản xạ duỗi cơ chậm
Hậu quả về phát triển
- Quan trọng nhất là chậm phát triển tâm thần không hồi phục trong suy giáp bẩm sinh, do não
kém phát triển trong những tháng đầu đời. Có thể ngăn ngừa bệnh đần độn bằng cách tầm
soát trẻ sơ sinh và điều trị thay thế hormone tuyến giáp khi cần.
Tăng bài tiết tuyến giáp
Cường giáp hay cơn độc giáp trạng xảy ra theo hai con đường chính:
- Kháng thể bất thường gắn vào thụ thể TSH trên tuyến giáp và kích thích tuyến, gây ra bướu giáp
và tăng bài tiết T3 và T4. Feedback âm tính tăng làm giảm nồng độ TSH.
- U bài tiết hormone phát triển bên trong tuyến giáp. U hoạt động độc lập với TSH nên sự điều
hòa bình thường không còn hữu hiệu. Nồng độ TSH thấp đên độ tuyến giáp bị teo lại.
Các triệu chứng và dấu hiệu chính của cường giáp liên quan đến tác dụng chuyển hóa, tác dụng trên
hệ tuần hoàn và tác dụng trên sự phát triển của hormone.
Hậu quả về chuyển hóa
Tăng chuyển hóa cơ bản rất nhiều với tăng sản xuất nhiệt, không chịu được nóng, giãn mạch và
đổ mồ hôi, tăng thèm ăn nhưng cân nặng giảm.
Hậu quả toàn thể
2. ĐHQG
2
- Tần số tim nhanh và loạn nhịp, đặc biệt là rung nhĩ; mạch đập mạnh và tăng hiệu áp; tăng
cung lượng tim để dáp ứng với tăng chuyển hóa, có thể dẫn đến suy tim thể tăng cung lượng
tim.
- Khó thở khi vận động
- Tăng nhu động ruột dẫn đến tiêu chảy
- Tăng hoạt động thần kinh và khó ngủ; phản xạ cơ nhanh nhưng cơ thường yếu; triệu chứng
kích thích hệ giao cảm như lo lắng và run cơ.
Hậu quả về sự phát triển
Hậu quả chính của sự tăng bài tiêt tuyến giáp trong thời kỳ thơ ấu là đóng sớm đầu xương dài
nên tuy sự tăng trưởng nhanh lúc đầu nhưng chiều cao lúc trưởng thành giảm.
Rối loạn bài tiết tuyến thượng thận
Giảm bài tiết tuyến thượng thận
Tình trạng này được gọi là suy tuyến thượng thận hay bệnh Addison. Có thể do suy chức năng
thượng thận nguyên phát hay thứ phát sau rối loạn tuyến yên trước.
Suy thượng thận nguyên phát là do suy bản thân vỏ thượng thận sau khi bị hủy bởi tự kháng
thể, bị u xâm lấn hay phẫu thuật. Feedback từ cortisol lưu hành giảm dẫn đến tăng ACTH và
peptide tuyến yên có liên quan, kích thích hoạt động của tế bào melanin, gây ra da và niêm mạc
miệng sậm màu rất đặc trưng. Test kích thích bằng ACTH không có tác dụng trên nồng độ
steroid trong máu hay nước tiểu.
Suy thượng thận thứ phát là do giảm kích thích tuyến bởi ACTH sau tổn thương tuyến yên
trước. Test kích thích bằng ACTH làm tăng nhanh đáp ứng của tuyến thượng thận.
Rối loạn do suy thượng thận phản ánh tác dụng kết hợp của thiếu mineralocorticoid và
glucocorticoid.
- Thiếu aldosterone dẫn đến
+ Tăng mất Na+
và nước trong nước tiểu gây mất nước, giảm thể tích huyết tương và hạ áp;
nếu không điều trị có thể dẫn đến tử vong trong vòng vài ngày.
+ Thận giữ K+
và tăng K+ huyết tương, làm tăng tính kích thích của tim bằng sự khử cực
của màng tế bào và có thể gây rung thất, dẫn đến tử vong.
+ Thận giữ H+
gây toan chuyển hóa.
- Thiếu glucocorticoid
+ Giảm cân và giảm thèm ăn, không vận động được nhiều và yếu cơ; có thể hạ đường huyết
khi nhịn đói lâu ngày.
+ Giảm đề kháng với chấn thương và nhiễm trùng nên chỉ cần sang chấn nhẹ cũng có thể
gây suy sụp cơ thể.
Bệnh nhân được điều trị thay thế glucocorticoid cần liều cao hơn trong thời kỳ bị bệnh hay
trước khi mổ để mô phỏng sự gia tăng bài tiết sinh lý trong các tình trạng đó.
3. ĐHQG
3
Tăng bài tiết vỏ thượng thận
Sự bài tiết quá mức của một trong ba loại hormone thượng thận gây ra ba kiểu bệnh riêng rẽ:
Cường aldosterone nguyên phát
Cường aldosterone nguyên phát phản ánh hoạt động của một khối u vỏ thượng thận bài tiết
aldosterone. Tác dụng chính là như sau:
+ Giữ Na+
và nước dẫn đến tăng thể tích máu và tăng huyết áp; sự bài tiết renin bởi phức hợp
cận tiểu cầu giảm nên nồng độ angiotensin thấp.
+ Mất K+
dẫn đến giảm nồng độ K+
huyết tương, có thể gây yếu cơ.
+ Mất H+
dẫn đến kiềm chuyển hóa.
Dư glucocorticoid
Hội chứng Cushing là do tăng hoạt động glucocorticoid. Có thể do sự bài tiết quá mức của
ACTH, khối u vỏ thượng thận bài tiết glucocorticoid hay điều trị lâu ngày với glucocorticoid như
trong trường hợp ghép cơ quan. Tác dụng chính bao gồm:
+ Tăng đường huyết kháng điều trị với insulin
+ Tăng thoái hóa protein dẫn đến teo cơ, loãng xương và các vết rạn (striae) trong da; tăng
trưởng chậm ở trẻ em
+ Tăng cân do kích thích sự thèm ăn, với sự tích tụ mỡ bất thường phía sau lưng (gù trâu) và
mặt (mặt hình mặt trăng)
+ Tăng huyết áp do tác dụng mineralocorticoid của cortisol
+ Rậm lông và nổi mụn do tác dụng androgenic của cortisol
Dư androgen
Hội chứng thượng thận sinh dục là một khiếm khuyết di truyền dẫn đến tăng bài tiết androgen từ
vỏ thượng thận. Tác dụng tùy thuộc vào giới tính của người bệnh:
+ Bài tiết androgen thượng thận quá mức trong thời kỳ thơ ấu làm tăng chiều cao nhanh và dậy
thì sớm ở trẻ nam. Tuy nhiên chiều cao lúc trưởng thành lại giảm do đóng đầu xương sớm.
+ Nữ đang phát triển có thể bị nam hóa với cấu trúc cơ thể và phân bố lông giống nam. Cơ
quan sinh dục ngoài có thể bị nam hóa đến mức chẩn đoán lầm nữ thành nam.
Tăng bài tiết tủy thượng thận là do khối u thủy thượng thận. Đặc điểm chính là tăng huyết áp,
phản ánh tác dụng co mạch của adrenalin và noradrenalin lên hệ tuần hoàn. Cũng có thể tăng đường
huyết do tác dụng chuyển hóa của hormone này. Chẩn đoán dự trên sự phát hiện catecholamine và
sản phẩm chuyển hóa trong máu và nước tiểu.
Rối loạn bài tiết tuyến yên
Giảm bài tiết tuyến yên
Sự giảm bài tiết tuyến yên có thể là toàn thể, ảnh hưởng lên tất cả các hormone tuyến yên, thí dụ do
một khối u tại chỗ hay do phẫu thuật cắt bỏ. Cũng có trường hợp chỉ thiếu hụt một hormone riêng lẻ
do khiếm khuyết loại tế bào tuyến yên có liên quan hay do khiếm khuyết tế bào hạ đồi điều hòa sự
bài tiết của loại tế bào này.
Các rối loạn chính bao gồm:
- Thiếu corticosteroid do thiếu ACTH
4. ĐHQG
4
- Thiếu hormone tuyến giáp do thiếu TSH
- Suy giảm chức năng sinh sản do thiếu FSH/LH
- Lùn do thiếu GH thời thơ ấu
- Đái tháo nhạt do thiếu ADH. Bệnh nhân không có khả năng cô đặc nước tiểu, bài xuất 8-10 L
nước tiểu một ngày và phải uống rất nhiều nước.
Tăng bài tiết tuyến yên
Sự tăng bài tiết một hormone riêng lẻ dẫn đến các rối loạn lâm sàng sau đây:
- Dư corticosteroid do dư ACTH
- Rối loạn sinh sản do tăng prolactin. Tăng prolactin máu là nguyên nhân quan trọng gây vô kinh
và vô sinh. Có lẽ là do prolactin ức chế sự sản xuất GnRH của hạ đồi.
- Cao bất thường do tăng GH. GH kích thích sự tăng trưởng của xương dài ở trẻ nên gây bệnh
khổng lồ. Nếu GH tăng trong thời kỳ trưởng thành, sau khi đã đóng đầu xương, chiều cao không
tăng nhưng sự tăng trưởng mô mềm và các tạng bị kích thích, được gọi là bệnh to đầu ngón. Sự
tăng GH kinh niên có thể dẫn đến tăng đường huyết.
- Giữ nước và giảm nồng độ thẩm thấu huyết tương do tăng ADH. Tình trạng này kết hợp đặc biệt
với ung thư phổi và được gọi là sự bài tiết ADH không phù hợp.
Rối loạn bài tiết tuyến tụy
Thiếu insulin
Sự giảm bài tiết insulin gây bệnh tiểu đường. Nguyên nhân có thể là:
- Thiếu insulin nguyên phát, gọi là tiểu đường týp I, phụ thuộc insulin hay thể trẻ. Tác nhân làm
tổn thương tế bào chưa rõ nhưng có thể là do cơ chế tự miễn.
- Sự bài tiết insulin tương đối bình thường nhưng tác dụng chuyển hóa của insulin trên tế bào bị ức
chế, gọi là đề kháng insulin. Thường xảy ra ở người lớn tuổi, thừa cân, được phân loại là tiểu
đường týp II, không phụ thuộc insulin, thể trưởng thành.
- Đôi khi tiểu đường không phải do thiếu tác dụng của insulin mà xảy ra thứ phát sau sự bài tiết
quá mức của một hormone sinh tiểu đường như cortisol, GH hay rất hiếm là glucagon.
Nhiều triệu chứng và rối loạn sinh hóa trong tiểu đường phụ thuộc insulin có thể được giải thích trên
cơ sở tác dụng chuyển hóa bình thường của insulin
Rối loạn do chuyển hóa carbohydrate bất thường
- Tăng đường huyết. Giảm lấy glucose vào và giảm sử dụng trong tế bào dẫn đến nồng độ
glucose huyết tương tăng cao.
- Đường trong nước tiểu. Glucose huyết tương được lọc tự do tịa thận nhưng bình thường được
tái hấp thu hoàn toàn trong ống thận. Tuy nhiên nồng độ glucose huyết tương tăng cao dẫn
đến bão hòa cơ chế vận chuyển glucose tối đa của thận và glucose thặng dư dduwwojc thải ra
trong nước tiểu. Điều này xảy ra khi glucose huyết tương tăng trên ngưỡng glucose bình
thường của thận, khoảng 11 mol L-1.
- Tiểu nhiều. tăng glucose trong ống thận gây giữ nước trong lòng ống do cơ chế thẩm thấu
nên làm tăng sản xuất nước tiểu, gọi là lợi niêu do thẩm thấu.
5. ĐHQG
5
- Uống nhiều. Tăng cảm giác khát và uống nhiều để đáp ứng với tình trạng mất nước.
Rối loạn do chuyển hóa protein bất thường
Giảm lấy axit amin và tổng hợp protein dẫn đến cân bằng nitrogen âm tính, chậm tăng trưởng ở
trẻ em và giảm cân, teo cơ ở ngưới lớn.
Rối loạn do chuyển hóa lipid bất thường
- Huy động lipid dẫn đến giảm cân và tăng axít béo trong huyết tương.
- Nhiễm xêton. Do giảm lấy glucose vào và giảm sử dụng glucose nên sự -oxít hóa axít béo
tăng, dẫn đến thành lập thể xêtôn, gây toan chuyển hóa.
- Tăng thông khí. Sự bù trừ hô hấp đối với tình trạng toan chuyển hóa dẫn đến tăng thông khí.
Điều trị thiếu hụt insulin. Nếu không được điều trị bệnh tiểu đường có thể dẫn đến hôn mê do
nhiễm xêtôn và tử vong do mất nước và toan chuyển hóa. Hạn chế sử dụng carbohydrate và tiêm
insulin đều có thể giúp kiểm soát tốt glucose máu.
Dư insulin
Khối u bài tiết insulin có thể làm tăng nồng độ insulin máu. Dư insulin cũng thường xảy ra khi
không có sự phù hợp giữa việc sử dụng carbohydate và liều tiêm insulin ở người tiểu đường, thí dụ
khi bỏ một bữa ăn. Hậu quả là hạ đường huyết và triệu chứng phản ánh sự phụ thuộc chuyển hóa của
não vào sự cung cấp glucose. Hạ đường huyết kích thích trực tiếp hệ giao cảm dẫn đến run, đổ mồ
hôi và tăng tần số tim. Bệnh nhân có thể lo lắng hay bực bội trước khi bị hôn mê hạ đường huyết.
Phải điều trị nhanh chóng với tiêm glucose hay glucagon tĩnh mạch để tránh tổn thương não.
Rối loạn canxi
Giảm canxi
Suy tuyến cận giáp có thể do kháng thể tự miễn đới với tuyến cận giáp hay do tổn thương khi mổ
tuyến giáp. Kết quả là giảm canxi và tăng phosphate máu. Tính kích thích cơ-thần kinh tăng, có
thể dẫn đến co cứng cơ, co thắt thanh quản và co giật.
Thiếu vitamin D có thể do chế độ ăn không phù hợp hay kém hấp thu lipid (vitamin D là vitamin
tan trong dầu) kết hợp với việc phơi nắng ít. Sự hoạt hóa vitamin D cũng bị rối loạn ở bệnh nhân
suy thận mạn. Có thể sẽ chỉ bị giảm canxi máu nhẹ vì sự bài tiết PTH tăng để bù trừ nhưng nồng
độ phosphate máu giảm. Hậu quả là xương mất chất khoáng, dẫn đến loãng xương với đau
xương ở người lớn và biến dạng xương (còi xương) ở trẻ em.
Tăng canxi
Tăng bài tiết tuyến cận giáp là do không có feedback âm tính của nồng độ canxi trong huyết
tương lên sự bài tiết PTH, thường do một khối u bài tiết PTH. Nồng độ Ca2+
tăng trong khi
phosphate giảm. Sự hủy xương làm bào mòn xương và thành lập nang (cyst) trong khi canxi có
thể lắng đọng tại nơi khác trong cơ thể , thí dụ nước tiểu (sỏi thận) và thận.
Dư vitamin D có thể do tăng sử dụng vitamin D bổ sung. Tác dụng chính là tăng canxi máu.
Nồng độ phosphate trong máu có thể tăng.