Tiểu Luận Môn Mọc Quyền Im Lặng Tố Tụng Hình Sự, 9 Điểm. có thể nói rằng việc ghi nhận “quyền im lặng” trong hoạt động tố tụng hình sự được xem là một bước chuyển biến quan trọng và đáng tuyên dương trong công tác bảo vệ quyền con người ở nước ta. Không những vậy, quy định về quyền con người còn góp phần nâng cao tính công bằng, minh bạch trong hoạt động tố tụng hình sự khi bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội.
Tiểu Luận Môn Mọc Quyền Im Lặng Tố Tụng Hình Sự, 9 Điểm.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
TRƯỜNG ....
TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN MỌC
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Đề tài: Quyền im lặng tố tụng hình sự
Tên tác giả :
Mã số học viên :
Lớp :
Nơi công tác :
Số điện thoại :
Địa chỉ email :
Giới thiệu:
Quyền im lặng được nhắc đến lần đầu tiên tại bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sau đây
gọi là “BLTTHS 2015”) như một quyền của người bị buộc tội trong hoạt động tố tụng hình
sự. Bài tiểu luận sau đây sẽ đi phân tích và tìm hiểu quy định pháp lý về quyền này và các
biện pháp để bảo đảm pháp lý của quyền này. Trên cơ sở đó, bài tiểu luận sẽ chỉ ra các mặt
hạn chế còn tồn tại của quy định này.
Năm
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỤC LỤC
NỘI DUNG..........................................................................................................................1
1. Căn cứ pháp lý về quyền im lặng ...............................................................................1
2. Căn cứ pháp lý bảo đảm quyền im lặng trong tố tụng hình sự...............................2
3. Những hạn chế trong quy định về quyền im lặng.....................................................2
4. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền im lặng.........................4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................5
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NỘI DUNG
1. Căn cứ pháp lý về quyền im lặng
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào đề cập trực tiếp, nhắc đến trực
tiếp khái niệm về “quyền im lặng”, tuy nhiên căn cứ trên các quy định của BLTTHS 2015
có thể thấy nội dung hàm chứa quyền này.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015, người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự bao gồm 4 đối tượng như sau: (i) bị cáo; (ii) bị can; (iii) người bị tạm giữ; (iv)
người bị bắt. Những đối tượng này trong quá trình tham gia hoạt động tố tụng hình sự được
BLTTHS 2015 ghi nhận có quyền: “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phản nhận mình có tội”. Nội dung này tương đương với việc ghi nhận về quyền
im lặng của người bị buộc tội. Như vậy, đối với quyền im lặng này, yếu tố cơ bản nhất
chính là tự nguyện xuất phát từ phía người bị buộc tội khi đưa ra lời khai, theo đó không
có bất kỳ đối tượng, chủ thể nào được buộc họ phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc
buộc họ phải thừa nhận là mình có tội.
Tuy nhiên, quyền im lặng này không được trao cho người bị buộc tội để áp dụng
trong mọi thời điểm diễn ra hoạt động tố tụng hình sự. Theo quy định hiện hành, việc “từ
chối đưa ra lời khai” của người bị buộc tội chỉ được thực hiện nếu khi được thẩm vấn, người
thẩm vấn có yêu cầu lời khai bao gồm nội dung bắt buộc nhận tội hoặc chống lại bản thân
người bị buộc tội đó. Chống lại bản thân người bị buộc tội được hiểu là những nội dung,
lời khai bất lợi, làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Những
câu hỏi, nội dung khác vấn đề này, người bị buộc tội vẫn bắt buộc phải trả lời. Như vậy ở
đây, người bị buộc tội không thể giữ im lặng trong suốt thời gian tham gia các cuộc thẩm
vấn trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quy định về quyền im lặng trong pháp luật Việt Nam có giới hạn tương đối hẹp hơn
so với quy định của các quốc gia khác trên thế giới.1
Theo đó, nhiều quốc gia như Hàn Quốc
đã cho phép ghi nhận quyền im lặng hoàn toàn trong giai đoạn tố tụng hình sự đối với người
bị buộc tội. Điều này xuất phát trước hết từ thực tế đây là một quyền còn khá mới được ghi
1
Võ Minh Kỳ (2018), Quyền im lặng của người bị buộc tội và các đảm bảo pháp lý trong tố tụng hình sự, Nghiên
cứu lập pháp số 13(365).
4. 2
nhận trong hệ thống pháp luật nước ta, bời vậy khi áp dụng một cách tuyệt đối quyền im
lặng.
2. Căn cứ pháp lý bảo đảm quyền im lặng trong tố tụng hình sự
Nhằm đảm bảo việc thực thi và sử dụng một cách có hiệu quả, đúng quy định
quyền im lặng trên thực tế, BLTTHS đã đưa ra ba biện pháp bảo đảm gồm:
Thứ nhất, quyền được thông báo về quyền của người bị buộc tội.
Theo quyền này, người bị buộc tội có quyền được thông báo, được biết và hiểu về
các quyền của mình trong hoạt động tố tụng hình sự, trong đó có quyền im lặng. Việc sử
dụng quyền im lặng hay không từ đó mà phụ thuộc vào quyết định của người bị buộc tội
thay vì những chủ thể khác.
Thứ hai, yêu cầu về việc bắt buộc thực hiện ghi hình, ghi âm.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS 2015, “mọi cuộc hỏi cung diễn ra
trong cơ sở tạm giữ hoặc tại trụ sở của Cơ quan điều tra đều phải được ghi âm hoặc ghi
hành có âm thanh”. Thông qua việc ghi âm, ghi hình sẽ làm hạn chế các hành vi vi phạm
pháp luật, ép cung, mớm cung từ phía cơ quan điều tra nhằm bảo vệ quyền của bị cáo.
Không những vậy, trước những chứng cứ rõ ràng từ bản ghi âm, ghi hành có âm thanh đồng
thời giúp giảm thiểu tình trạng khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan điều tra.
Thứ ba, việc đánh giá tính hợp pháp của lời khai được căn cứ dựa trên nhưng đảm
bảo theo quy định của pháp luật.
Với quy định hiện hành, việc thu thập lời khai, chứng cứ phải được tiến hành theo
đúng thủ tục, trình tự được quy định, nếu không sẽ không được công nhận là chứng cứ. Hay
đơn giản hơn, tính hợp pháp của của những chứng cứ được thu thập phải dựa trên yêu cầu
tuân thủ quy định pháp luật về trình tự, thủ tục theo đúng quy định.
3. Những hạn chế trong quy định về quyền im lặng
Quy định ghi nhận về quyền im lặng ở nước ta vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất
định, điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả và công tác thực hiện, áp dụng quyền trên
thực tế. Một số hạn chế có thể nhắc đến như:
5. 3
Thứ nhất, chưa đáp ứng đầy đủ cơ chế bảo vệ người bị buộc tội, đặc biệt là người
bị tạm giữ và người bị bắt.
Đầu tiên, về việc đảm bảo “quyền được thông báo quyền im lặng”. Mặc dù theo quy
định hiện nay, người bị tạm giữ và người bị bắt có quyền được giải thích về quyền của
mình, tuy nhiên lại thiếu quy định cụ thể về thời điểm thực hiện quyền này. Khác với bị can
và bị cáo được quy định vụ thể là “trước lần hỏi cung đầu tiên” và “trong thủ tục bắt đầu
phiên tòa”, người bị tạm giữ và người bị bắt không có bất kỳ nội dung nào quy định. Điều
này làm giảm đi mức độ bảo đảm pháp lý về việc thực thi quy định này, làm giảm hiệu quả
trong công tác bảo vệ quyền của các chủ thể.
Tiếp theo, liên quan đến lời khai của người bị tạm giữ và người bị bắt, Điều 95
BLTTHS 2015 quy định đây được coi là một nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, việc thực hiện
lấy lời khai được tiến hành như thế nào lại không được quy định rõ ràng (về thủ tục, trình
tự, thể thức).
Với những thiếu sót về cơ chế này dẫn tới quyền của người bị tạm giữ và người bị
bắt bị ảnh hưởng, quyền im lặng không được thực thi một cách hiệu quả trên thực tiễn.
Thứ hai, mâu thuẫn về quyền im lặng và cơ sở đánh giá tính pháp lý của lời khai.
Theo phân tích đã được nêu ra ở trên, BLTTHS 2015 quy định về tính pháp lý của
lời khai, chứng cứ sẽ không được thừa nhận nếu không tuân thủ thủ tục, trình tự thu thập
theo quy định. Nói một cách khác, “bất kỳ chứng cứ nào được thu thập theo đúng trình tự,
thủ tục do luật định thì đương nhiên sẽ đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ”. Trong những
quy định đó không hề nhắc đến yêu cầu về tính tự nguyện của người bị buộc tội khi đưa ra
lời khai. Tuy nhiên, liên quan đến quyền im lặng của người bị buộc tội, pháp luật tố tụng
dân sự lại cho phép họ có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội”, tức phải đảm bảo tính tự nguyện trong việc đưa ra lời
khai. Điều này gây ra mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật.
Như vậy, rõ ràng quy định pháp luật hiện hành về việc đánh giá tính hợp pháp của
lời khai vẫn còn thiếu bao quát khi không đề cập đến các đặc điểm phù hợp với loại chứng
cứ, lời khai được thu thập khi bảo đảm quyền im lặng của người bị buộc tội.
6. 4
4. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền im lặng
Xuất phát từ những bất cập, vướng mắc còn tồn tại nêu trên, với mục tiêu nhằm hoàn
thiện quy định pháp luật về quyền im lặng của người bị buộc tôi, học viên có đề xuất một
số kiến nghị như sau:
Một là, BLTTHS 2015 cần sớm được hoàn thiện, bổ sung quy định về thời điểm
thông báo cho người bị tạm giữ, người bị bắt về quyền của họ trong tố tụng hình sự, trong
đó bao gồm cả quyền im lặng. Theo đó, để phù hợp với thực tiễn, việc thông báo quyền này
đối với người bị bắt nên được thực hiện tại thời điểm người đó bị bắt và được xác nhận cụ
thể tại biên bản liên quan. Trường hợp áp dụng đối với người bị tạm giữ, khi giao quyết
định tạm giữ là thời điểm thích hợp để thông báo quyền này cho người bị tạm giữ và cũng
được thể hiện rõ qua biên bảo liên quan.
Hai là, BLTTHS 2015 cần sớm bổ sung quy định về thủ tục, trình tự người bị tạm
giữ và người bị bắt bị lấy lời khai. Cụ thể trình tự, thủ tục này có thể được quy định tương
tự đối với bị can bởi giá trị lời khai có sự tương đương giữa cả hai giai đoạn.
Ba là, BLTTHS 2015 cần bổ sung quy định về đánh giá tính pháp lý của lời khai,
chứng cứ trong trường hợp được thực hiện khi người bị buộc tội thực hiện quyền im lặng
của mình. Hay nói cách khác là ghi nhận tính tự nguyện trong việc đưa ra lời khai.
Nhìn chung, có thể nói rằng việc ghi nhận “quyền im lặng” trong hoạt động tố tụng
hình sự được xem là một bước chuyển biến quan trọng và đáng tuyên dương trong công tác
bảo vệ quyền con người ở nước ta. Không những vậy, quy định về quyền con người còn
góp phần nâng cao tính công bằng, minh bạch trong hoạt động tố tụng hình sự khi bảo vệ
quyền lợi của người bị buộc tội.
7. 5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Võ Minh Kỳ (2018), Quyền im lặng của người bị buộc tội và các đảm bảo pháp lý
trong tố tụng hình sự, Nghiên cứu lập pháp số 13(365)