SlideShare a Scribd company logo
1 of 98
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG
TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH
HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C
TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG
TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH
HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C
TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Thị Hương Dung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG
MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................8
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự
Việt Nam........................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ................ 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh................................................................................ 12
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.............................. 17
1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 .................................................. 17
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999....... 19
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay............................................................................................. 21
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH
ĐỘNG MẠNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH..... 24
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh ................................................................ 24
2.1.1. Khách thể của tội phạm.................................................................... 25
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm........................................................... 27
2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm .............................................................. 37
2.1.4. Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 40
2.2. Các trường hợp phạm tội cụ thể ................................................... 42
2.2.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%.............................................................. 42
2.2.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.......................... 43
2.2.3. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên ................................................................. 44
2.2.4. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến
chết người........................................................................................ 45
2.2.5. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng................................................................ 46
2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh với một số tội khác............................................................... 48
2.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
(Điều 105) với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác (Điều 104) ...................................................... 48
2.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng............................... 50
2.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.............. 54
2.3.4. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy
định tại Điều 105 Bộ luật hình sự với trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được áp dụng
tình tiết giảm nhẹ điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự................ 56
Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP
TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG
TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH .............. 59
3.1. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh ở nước ta hiện nay .............................................. 59
3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh trong thời gian 2010-2014 ................... 59
3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh........................................................................................ 62
3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh và những nguyên nhân cơ bản ................................................ 72
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh.................................................. 76
3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...... 76
3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh............. 79
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh....................................................................................... 81
3.3.1. Tăng cường công tác giáo dục, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật ....... 81
3.3.2. Củng cố và kiện toàn tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân đáp ứng
yêu cầu xét xử.................................................................................. 82
KẾT LUẬN................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
HĐXX: Hội đồng xét xử
PVCĐ: Phòng vệ chính đáng
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Số vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh/ Tổng số các vụ án hình sự 60
Bảng 3.2: Số vụ án đã xét xử/ tổng số vụ án phải giải quyết 61
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để
đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời, pháp
luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi
người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Trong thời đại kinh tế thị trường với sự phát triển như vũ bão của khoa
học - kỹ thuật, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng ngày càng diễn biến phức tạp.
Các tội xâm phạm đến sức khỏe của người khác là một trong những
nhóm tội được quy định sớm trong pháp luật hình sự ở nước ta. Trong đó, các
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
những năm trở lại đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có
nhiều chiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Hậu quả mà các tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có
thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người bị hại, ảnh hưởng tới tình
hình trật tự, an ninh của xã hội;… Đặc biệt, trong mấy năm gần đây dưới sự
ảnh hưởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều yếu tố khác tình hình các tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ngày càng
diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng
con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày càng nhiều hơn các
loại vũ khí nóng, vũ khí nguy hiểm… Nhiều vụ cố ý gây thương tích có quy
mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia, có tính chất xã hội đen. Tuy nhiên,
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2
cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Có những hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình tiết làm
giảm đi một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội, cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh là một trong những trường hợp đó.
Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009) đã dành một chương quy định Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người – Chương XII,
trong đó Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 105.
Trong thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,
không ít Tòa án còn gặp những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường
hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét
xử. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và thực tiễn áp
dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó
không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn mà còn là lý do luận chứng cho sự
cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trong luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cùng với sự phát triển của pháp luật hình sự nói chung trong thời kỳ
đổi mới, các quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
cũng ngày càng được củng cố và hoàn thiện.
3
Sau khi BLHS năm 1985 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu
như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987
(tái bản năm 1992,1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT
của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998...
Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh được đề cập trong nhiều công trình như: Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của
Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS.
Trần Văn Luyện, LS. Th.S Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S
Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận
chuyên sâu) của Th.s Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002,
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Lê Cảm (chủ
biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003;...
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội cố ý gây thương
4
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh ở khía cạnh tổng quát, đặt tội này trong tổng thể các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Bên cạnh
đó những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp kiến nghị dừng lại ở mức độ
khá chung chung và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
có hệ thống về loại tội này.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới khía cạnh lập pháp hình sự và
thực tiễn trong công tác xét xử trên phạm vi cả nước, từ đó luận văn đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan
tới cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam. Những
điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh để xây dựng nên khái niệm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
5
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,
bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong mối tương quan so sánh với một
số chế định tội danh khác;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình xét xử tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh, từ đó đưa ra được những tồn tại, hạn chế của thực
tiễn xét xử, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong Bộ luật hình
sự hiện hành dưới tên gọi là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
6
(Điều 105 Bộ Luật hình sự). Do vậy, tuy tên đề tài là Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh trong luật hình sự Việt Nam nhưng xuyên suốt nội dung của luận
văn, tác giả đã sử dụng cụm từ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
theo như đúng quy định trong BLHS năm 1999 để nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn
chính là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong
BLHS năm 1999.
Luận văn đã nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế
định tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam
mà cụ thể là trong BLHS năm 1999, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá
tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp và những nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực
định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh trên phạm vi cả nước trong giai đoạn 05 năm từ năm
2010 đến 2014.
Tác giả qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu chung có thể tự nhận thấy
rằng, có thể với công trình này có lẽ là lần đầu tiên vấn đề tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh được triển khai trên quy mô của một luận văn thạc sĩ.
Do vậy, việc tìm ra hướng phát triển còn gặp nhiều khó khăn cũng như việc
tiếp cận các nguồn tài liệu có thể. Tác giả hy vọng rằng trong quá trình nghiên
cứu sẽ tìm ra được một lối đi phù hợp.
7
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh trong Bộ luật hình sự hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trường hợp đặc biệt của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có
thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt làm giảm tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó là phạm tội trong “trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh”. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh thì trước hết chúng ta phải làm rõ được khái niệm “gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” và khái niệm “trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh”.
1.1.1.1. Khái niệm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường, sức khỏe được hiểu là tình
trạng không có bệnh tật hoặc không có thương tật. Quan điểm khác lại cho rằng:
“Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong
điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt động
hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [13, tr. 206, 207].
9
Còn theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất,
tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật;
cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của
môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có
hiệu quả [10, tr.835].
Xâm phạm sức khỏe con người được hiểu là thông qua sự tác động làm
cho người đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó
làm họ khó khăn trong cử động, hoạt động so với trước khi họ bị hành vi xâm
hại tác động tới. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là hành vi cố ý xâm hại đến sức khỏe của con người, đến
quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người. Trong đó, hành vi gây thương
tích cho người khác được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên
thân thể của con người, làm cho con người có những thương tích nhất định
như: vết bỏng, mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay,
cánh tay, bàn chân,... để lại trạng thái bất thường. Còn hành vi gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác thì được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác
động lên thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi không
còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ hoặc
làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân làm giảm
chức năng hoạt động của bộ phận đó.
Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác” là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người
khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có của họ.
1.1.1.2. Khái niệm trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Có nhiều quan điểm khác nhau về trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là
10
tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn
đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi, nhưng vẫn
còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Quan điểm thứ hai cho rằng, trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái của một người chưa mất hoàn
toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế
và điều khiển hành vi của mình. Còn quan điểm thứ ba thì cho rằng, tình trạng
tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự
kiềm chế được hành vi của mình.
Theo tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ
nhất và thứ ba, không đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, một người phạm
tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chịu sự tác động mạnh mẽ
về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế
và điều khiển hành vi của họ vẫn còn. Còn nếu theo quan điểm thứ hai thì, nếu
khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất, có thể coi họ là một trong
những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13
của BLHS năm 1999 quy định: “1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự,...” [26]. Người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh có nguyên nhân khách quan là xuất phát từ người bị hại. Như vậy,
có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân
ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi,
họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình theo quy
định của Khoản 1 Điều 13 của BLHS năm 1999.
Trong thực tế, chỉ có thể xảy ra trường hợp một người vẫn còn khả
năng nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của
mình do cơ chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tổn hại bộ phận điều
khiển hành vi của não bộ. Những tác động tâm lý dù có mạnh mẽ đến đâu
11
cũng không thể làm cho một người mất khả năng tự chủ và điều khiển hành
vi của mình.
Người bị kích động mạnh về tinh thần là người không còn nhận thức
đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả
năng nhận thức, khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi
bị hạn chế ở mức độ cao; trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh
thần của họ trở lại bình thường như trước. Có thể lý giải vì sao trong trường
hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này.
Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức
được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái
pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của
mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận
thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái
quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi
của mình là trái pháp luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy
hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả
năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả
năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.
Tóm lại, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể hiểu một cách
khái quát là tình trạng không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình,
nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự điều khiển
hành vi bị hạn chế ở mức độ cao.
Giống như các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo PGS.TSKH Lê Cảm,
12
phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a, bình diện
khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b, bình diện pháp lý:
tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c, bình diện chủ quan: tội phạm là
hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện một cách có lỗi [15, tr.105].
Từ tất cả những phân tích trên, có thể tổng quát khái niệm về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động
lên thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ
sức lực vốn có của họ một cách trái pháp luật hình sự do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trong trạng
thái không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình nhưng chưa mất hẳn
khả năng nhận thức, khả năng tự chủ và điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức
độ cao do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó
hoặc người thân thích của người đó.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh lần đầu tiên được quy định
trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp
hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp
hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo
vệ sức khỏe của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp
lý hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ
quyền con người được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013:
13
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm.... [30, Điều 20].
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 105
thuộc chương II của Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, hạn chế việc lợi dụng việc quy định các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự nhằm xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách
tùy tiện, trái pháp luật.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp đặc biệt của tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy nhiên, nó
có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt làm giảm tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, đó là thực hiện trong “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Việc
quy định cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình
sự thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người kể cả trong các trường
hợp nạn nhân là người có lỗi trước làm cho người phạm tội bị kích động
mạnh về tinh thần dẫn đến có các hành vi phạm tội. Bởi lẽ, trong các trường
hợp này, người phạm tội vẫn có lỗi, và khi có lỗi thì họ dù nặng hay nhẹ họ
vẫn phải chịu TNHS về phần lỗi đó của mình nếu dấu hiệu khác thỏa mãn cấu
thành tội phạm được quy định trong luật. Điều này góp phần tích cực làm hạn
chế việc lợi dụng sự có lỗi trước của nạn nhân để có những hành vi xâm phạm
đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật.
14
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi
xâm phạm đến sức khỏe của người khác.
Đạo luật hình sự giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói
riêng, bởi vì chỉ văn bản này mới quy định hành vi gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây ra hành vi
đó. Việc Nhà nước quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và hình
phạt được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là
sự thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy
phạm pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa có tính
chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta
không được thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bằng sự răn đe áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội. Mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự
này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một
cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của nhà nước ta đối với việc bảo vệ và
phát triển quyền con người nói chung, sức khỏe của con người nói riêng.
Con người là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong xã hội, con
người với bàn tay lao động và trí óc sáng tạo đã xây dựng và phát triển một xã
hội ngày càng tươi đẹp. Vì thế bảo vệ con người tạo dựng một xã hội trong
15
sạch và lành mạnh cho sự phát triển của con người là nhiệm vụ quan trọng
của mỗi đất nước, đặc biệt là ở các đất nước hiện đại vấn đề con người càng
được quan tâm hơn bao giờ hết. Xã hội ngày càng phát triển thì việc bảo vệ
con người và các lợi ích của con người càng được chú trọng.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước
ta khẳng định, con người là trung tâm của các chính sách kinh tế- xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo
đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc pháp
luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh về
quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ, mọi chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu
cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
tất cả vi con người và cho con người.
Thứ tư, bảo vệ sức khỏe của con người góp phần tích cực vào việc phát
triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của con
người đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan
có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự
về tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng trong
16
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh một cách tùy tiện, không
đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi
nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự và việc áp dụng
đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà
nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra
truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh nói riêng.
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật
hình sự hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, con có ý nghĩa
nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng về sự cần thiết phải bảo vệ sự khỏe của con người.
Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trong pháp luật hình sự còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội
dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự
này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh động viên quần chúng nhân dân tham gia tích
cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội này.
17
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh
1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp
điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Cùng với việc ra đời nhà nước, nhân dân ta vừa phải xây
dựng củng cố chính quyền, vừa phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Thực
dân Pháp xâm lược. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và nhà nước ta
trong giai đoạn này là xây dựng và củng cố chính quyền, đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài. Đây cũng là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của pháp luật hình sự Việt Nam.
Nhiệm vụ nổi bật của pháp luật hình sự ở thời kỳ này là phục vụ cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đi đến thắng lợi, trừng trị bọn
việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, bảo vệ chính quyền non
trẻ, bảo vệ các quan hệ xã hội mới được thiết lập và duy trì. Trong điều kiện
như vậy, nhà nước đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật phục vụ cho
những nhiệm vụ cấp bách. Sắc lệnh số 47/SL quy định tạm thời về việc sử
dụng luật lệ cũ hiện hành ở Việt Nam. Theo nội dung của sắc lệnh, khi xét xử,
Tòa án xét xử theo Luật hình cũ mà thực dân Phong kiến đề ra nhưng không
được trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Do vậy, ở giai đoạn 1945-1954, việc xét xử các tội phạm nói chung vẫn dựa
theo luật hình cũ để xét xử. Đó là Bộ hình luật Bắc Kỳ năm 1923, Bộ hình
luật Nam Kỳ năm 1912 và Bộ Hình luật Trung Kỳ năm 1933.
Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy trấn động địa
cầu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta hoàn toàn
thắng lợi. Cách mạnh Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, đất nước
18
bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Do điều kiện kinh tế văn hóa xã hội ở miền Bắc đã có nhiều biến đổi về
căn bản so với trước đó nên toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ cũ không
được áp dụng nữa. Ngày 19/01/1955 Thủ tưởng Chính phủ đã ban hành
Thông Tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội trên cơ sở tổng kết việc áp
dụng luật lệ cũ và án lệ. Nội dung của Thông tư yêu cầu khi xét xử các tội
phạm nói chung phải theo đường lối chính sách của Đảng. Thông tư này có
hướng dẫn về tội cố ý gây thương tích tuy nhiên chưa đề cập đến trường hợp
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Năm 1976, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng
lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày
15 tháng 3 năm 1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976
văn bản này được áp dụng cho các nước và được sử dụng cho đến khi BLHS
năm 1985 ra đời và có hiệu lực). Tại Điều 5 của Sắc luật này có quy định các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong
đó có tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên Sắc luật này cũng chỉ dừng lại ở
việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng được thống nhất,
ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng dẫn thi
hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Theo Thông tư này,
19
trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được coi là phạm tội ít
nghiêm trọng và là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tóm lại, trước khi BLHS năm 1985 chưa ra đời thì việc quy định các
tội phạm nói chung và trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói
riêng ở các văn bản quy dưới luật nên giá trị pháp lý của những văn bản đó
chưa cao đồng thời các quy định còn quá chung chung, không cụ thể rõ ràng
dẫn đến việc áp dụng khó thống nhất, việc xét xử gặp nhiều vướng mắc và do
vậy cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam
được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982-1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời
của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt- Bộ luật
Hình sự năm 1985. Có thể nói, BLHS năm 1985 là sự kết tinh thành tựu 40
năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng, là bản tổng kết sâu sắc
thực hiện phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến
thời điểm bộ luật được ban hành. Trong bộ luật này, các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được quy định tại chương II với những
chế tài hết sức nghiêm khắc.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991,
1992 và 1997. Tại lần sửa đổi bổ sung thứ nhất năm 1989, Điều 109 quy định
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã
20
được bổ sung thêm trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh và phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng vào khoản 4 của điều luật, như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a, Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe
của người khác;
b, Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân;
c, Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
d, Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của nhiều người.
3. Phạm tội gây cố tật nặng, dẫn đến chết người hoặc trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm
đến hai mươi năm.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a
khoản 2 hoặc ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vi hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bị cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [23].
Như vậy, ở giai đoạn này, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới chỉ
được quy định như một trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
21
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay
Kế thừa và phát triển những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của
Nhà nước ta, nhất là BLHS năm 1985, cũng như những bài học trong hoạt
động tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
những thập kỷ qua dự kiến những diễn biến mới của tình hình tội phạm, ngày
21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999.
So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã có những thay đổi cơ bản
mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự
Việt Nam. Có rất nhiều điều luật được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình
hình mới, trong đó, “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được tách ra từ
khoản 4 điều 109 của BLHS năm 1985 quy định thành một tội danh độc lập
tại Điều 105 BLHS năm 1999 với nội dung:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người
thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người
hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác [26].
So với BLHS năm 1985 thì quy định về “tội cố ý gây thương tích hoặc
22
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” tại Điều 105 BLHS năm 1999 có những điểm mới:
Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã tách trường hợp cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh ra khỏi tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác và quy định thành một tội danh độc lập với các khung
hình phạt riêng.
Thứ hai, trên cơ sở quy định thành một tội danh độc lập, BLHS năm
1999 tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự các trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh có các mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nếu như
trước đây BLHS năm 1985 quy định trường hợp “cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh” chỉ có một khung hình phạt là bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm thì trong
BLHS năm 1999 với tư cách là một tội danh độc lập “tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh” quy định hai khung hình phạt là: khung cơ bản có hình phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
hai năm còn khung tăng nặng đối với nhiều người, hoặc gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác
thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
Thứ ba, nếu như khoản Khoản 4 Điều 109 BLHS năm 1985 chỉ quy
định "bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân", chứ chưa quy định "hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân
đối với người đó hoặc người thân tích của người đó" như khoản 1 Điều 105
23
BLHS năm 1999. Mặt khác, BLHS năm 1999 quy định rõ tỷ lệ thương tật là
từ 31% trở lên thì người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị
truy cứu trách nhiệm hình sự còn khoản 4 Điều 109 BLHS năm 1985 chỉ quy
định gây thương tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của
nạn nhân có tỷ lệ thương tật 31% trở lên được coi là thương tích nặng.
Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành
vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, nhìn vào lịch sử lập pháp của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh, chúng ta nhận thấy sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập
pháp của các nhà làm luật. Với các quy định tại Điều 105 BLHS năm 1999,
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đã được quy định một cách rõ ràng, chi
tiết và sát với thực tiễn tội phạm diễn ra. Điều này vừa đảm bảo tính được tính
chặt chẽ, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa là cơ sở cho việc áp dụng pháp
luật được minh bạch, thuận lợi và chính xác.
24
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG
TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm là tổng hợp
những dấu hiệu chung có tính đặc thù cho loại tội phạm cụ thể được quy định
trong luật hình sự. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể đóng
vai trò quan trọng, nó giúp chúng ta phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm
khác. Để từ đó chúng ta mới đưa ra được kết luận chính xác về tội phạm như
tội đó thuộc loại tội phạm nào? Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội đó ra
sao? Người thực hiện hành vi tội phạm đó có phải chịu TNHS hay không? Tất
cả những điều đó sẽ giúp chúng ta trong việc định tội đối với tội phạm cụ thể.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại điều 105
BLHS năm 1999 như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người
thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ một năm đến năm năm:
25
a) Đối với nhiều người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người
hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác [26].
Tội này là trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do vậy, tội này có những dấu hiệu pháp
lý chung của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác đồng thời cũng có những dấu hiệu pháp lý riêng.
2.1.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo
vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong khoản 1
điều 8 của BLHS 1999, bao gồm:
Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công
dân, những lĩnh vực khác trật tự pháp luật xã hội chủ nghiã, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và
lợi ích hợp pháp khác của công dân, vi phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [26].
Đồng thời, mỗi một tội phạm đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho một trong những khách thể nhất định. Khách thể của tội phạm là một căn
cứ quan trọng để đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Điều 105 BLHS năm 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Việc quy định điều luật này nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe cho
26
mọi công dân. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi xâm
hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được tôn trọng và bảo vệ
về sức khỏe của con người. Như vậy, khách thể của tội này là quyền được tôn
trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người. Đây là một trong những khách thể
quan trọng được luật hình sự bảo vệ.
Cũng như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là
chủ thể của quan hệ xã hội. Đó là những người đang sống, những người đang
tồn tại trong thế giới khách quan. Tuy nhiên, đối tượng tác động của hai loại
tội phạm này có điểm khác nhau. Nếu như đối tượng tác động của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể là bất kỳ ai
thì đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có thể là
người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng xâm hại tới người phạm tội hoặc
người thân thích của người phạm tội. Ví dụ: A đang ngồi chơi uống nước bên
nhà hàng xóm thì thấy con gái chạy sang gọi “bố ơi, mẹ bị chú B đánh vỡ đầu
rồi”. A chạy về thấy người vợ đầy máu, liền chạy vào nhà vác dao ra chém B,
C can ngăn cũng bị A chém vào tay. B bị tổn hại sức khỏe 32 % còn C bị tổn
hại sức khỏe 12%. Trong ví dụ này, chỉ có B là người đã có hành vi trái pháp
luật nghiệm trọng đến người thân thích của A (vợ của A) làm cho tinh thần
của A bị kích động mạnh dẫn đến hành vi phạm tội (chém B) nên chỉ B là đối
tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh còn C là đối
tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
27
của người khác. Có thể nói, việc xác định đúng khách thể và đối tượng của tội
phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh, xử lý tội phạm phù
hợp với mức độ phạm tội.
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn
tại bên ngoài mà còn thì con người có thể nhận biết được. Đó là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành
vi phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của
tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội
phạm, gồm các biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan
như hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra, còn có
các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ,
phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,...Những dấu hiệu này
không được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa trong việc
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
* Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc
đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện
qua hai hình thức đó là hành động hoặc không hành động. Theo quy định của
BLHS năm 1999, hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh gồm các loại hành vi sau: hành vi gây thương tích cho người khác và
28
hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh.
Hành vi gây thương tích cho người khác là hành vi dùng sức mạnh vật
chất tác động lên thân thể của con người, làm cho con người có những thương
tích nhất định như: vết bỏng, mất đi một hoặc một số bộ phận trên cơ thể như
mất bàn tay, cánh tay, bàn chân,.... Hành vi này có thể dùng chân tay hoặc
công cụ phương tiện trực tiếp tác động vào cơ thể con người như dao, súng,
gậy, kiếm, mã tấu,... bằng nhiều hình thức khác nhau như đâm, bắn, chém,
đấm đá... Ngoài ra, hành vi này còn được thực hiện gián tiếp thông qua các
hình thức dùng súc vật như chó, thú dữ hoặc ép người khác tự gây thương tích
cho chính mình.
Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi dùng sức
mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn
nhân yếu đi không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết
trên thân thể họ hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể
của nạn nhân làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó, ví dụ như cho
uống thuốc độc gây ra suy kiệt sức khỏe lâu dài.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này
với các tội khác mà trước hết là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
Như đã nêu trong phần 1.1.2, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có
thể hiểu là tình trạng người phạm tội không còn nhận thức đầy đủ về hành vi
29
của mình, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự
điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao. Trạng thái tinh thần này của họ
chỉ xẩy ra trong chốc lát. Người phạm tội khi thực hiện tội phạm trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh thường xuất hiện cơn bùng phát về tinh thần,
thường biểu hiện các trạng thái tâm lý như: quá lo sợ, quá hốt hoảng, quá kinh
hãi, quá căm tức và quá phẫn nộ. Nguyên nhân dẫn tới trạng thái tâm lý này
xuất phát từ những hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, dưới
đây, chúng tôi xin phân tích một số hành vi chủ yếu để thấy rõ biểu hiện tâm
lý của người phạm tội khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ:
- Hành vi sỉ nhục hay vu khống người khác: Đây là dạng hành vi xúc
phạm tới nhân phẩm, danh dự của người khác, tác động mạnh tới trạng thái
tâm lý của của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A và B là bạn của nhau, A
vu khống cho rằng B lấy cắp tiền của A, B đã nhiều lần đính chính là B không
làm điều đó nhưng A vẫn một mực nghi ngờ và đi nói với nhiều người khác
và B cũng đã nhắc nhở A nhiều lần. Một lần, B đang đi chơi với bạn gái thì A
nói bóng gió rằng B là thằng ăn trộm, ai yêu B thì khổ, quá tức giận, B liền
nhặt đá ném vào mắt A làm A bị mù một bên mắt. Như vậy, hành vi vu khống
của A đã tác động vào tâm lý của B, đỉnh điểm là khi B đi với người yêu làm
cho B cảm thấy bị xúc phạm, căm phẫn dẫn tới hành vi ném đá vào A.
- Hành vi dùng bạo lực một cách thô bạo với người khác: Đây là
dạng hành vi xâm phạm vào tính mạng, sức khoẻ người khác một cách trái
pháp luật. Ví dụ, A đang trên đường đi làm về, bỗng B từ ngõ hẻm chạy ra
chặn đường rồi đấm A túi bụi sau đó mới nhận ra là đã nhầm lẫn A với một
đối tượng khác. Do bị đánh đau nên mặc dù B đã xin lỗi (vì đã nhận nhầm
người) nhưng A vẫn vô cùng tức giận rút dao chém nhiều nhát vào người
B, làm B bị tổn hại sức khỏe 34 %.
- Những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình: Trong thực
30
tế, có rất nhiều vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xuất phát từ mâu
thuẫn gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình, chồng đánh đập vợ, đánh đập con
cái, người vợ không làm tròn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ…
Ví dụ: Anh A và chị H lấy nhau sinh được ba đứa con gái. Do bị bạn bè
chê bai rằng anh không có con trai, anh A sinh ra chán nản, rượu chè, cờ bạc.
A thường xuyên đay nghiến, chửi bới đánh đập vợ con và có quan hệ bất
chính với hết cô gái này đến cô gái khác, bất chấp sự khuyên bảo của bà con,
họ hàng. Sau mỗi lần đi uống rượu say, A đều tìm lý do đánh vợ nên đã làm
cho chị H bị dồn nén, ức chế về tinh thần. Một hôm, khoảng 2h sáng A về nhà
và đòi chị H đưa tiền để A đi chơi bạc tiếp, chị H nói không còn tiền, A liền
tát chị H hai cái. Chị H tức quá, không kiềm chế được hành vi đã lấy then
chốt cửa bằng sắt vụt bừa vào A làm A bị gãy tay tỷ lệ thương tật 32%.
- Hành vi xâm phạm tới tài sản của người khác như đốt cháy, cướp giật,
đập phá. Đây là hành vi xâm phạm tới tài sản của người phạm tội của nạn
nhân, tài sản ở đây thường là tài sản có giá trị lớn về vật chất hoặc tình thần.
Ví dụ, do mâu thuẫn trong quan hệ hàng xóm láng giềng nên một lần, nhân
lúc thấy xe ô tô của A dựng ngoài sân mà không có người nên B đã lấy một
thanh sắt đập vào kính, vào gương và cốp xe của A, A đi chơi bên nhà C về
thì thấy ô tô của mình bị vỡ kính, vỡ gương và méo mó trong khi B tay cầm
thanh sắt đứng cạnh đó đang cười hả hê, nên thấy vậy A tức quá nhảy vào
đánh B làm cho B thương tật 57 %. Hành vi phá hoại tài sản có giá trị lớn của
B đã làm cho A tức giận và có hành động nhảy vào đánh B.
Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa
đến mức khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao thì
không gọi là tinh thần bị kích động mạnh, không thuộc trường hợp cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
31
tinh thần bị kích động mạnh, đối với trường hợp này người phạm tội chỉ được
giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 46 BLHS.
Trên thực tế việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần
hay không là một vấn đề phức tạp, cho đến nay các nhà làm luật cũng chưa
đưa ra được một công thức hay tiêu chí, chuẩn mực cụ thể áp dụng cho mọi
trường hợp. Bởi trạng thái tâm lý của mỗi người là khác nhau, cùng một sự
việc nhưng người này xử sự khác người kia, có người bị kích động mạnh về
tinh thần nhưng có người lại không bị kích động mạnh. Ví dụ: Cùng một sự
việc là thấy vợ có quan hệ bất chính với người khác, anh A lao tới đánh tình
nhân của vợ, anh B đệ đơn ly hôn.
Chính vì vậy, việc đánh giá trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay
chỉ là bị kích động nhưng chưa tới mức mạnh cần được xem xét gắn liền với
từng vụ việc cụ thể và trên cơ sở đánh giá nhưng vấn đề sau: điều kiện, hoàn
cảnh xảy ra vụ việc, các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá
trình diễn biến của sự việc, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoạt động xã hội,
điều kiện sống, tính tình, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, quan hệ giữa người
phạm tội với nạn nhân, biểu hiện phản ứng của chủ thể khi sự việc xảy ra, sự
mãnh liệt, cường độ, sức mạnh của hành vi,... [13].
Nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người có
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân
thích của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật của nạn nhân có thể là hành
vi vi phạm Luật hình sự, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
phạm tội hoặc đối với người thân thích của họ như xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh dự con người nhưng cũng có một số
trường hợp hành vi xâm phạm đến tài sản như hủy hoại tài sản, cướp tài
sản... Tuy nhiên hành vi trái pháp luật của nạn nhân cũng có thể không phải
32
là vi phạm pháp luật hình sự mà là vi phạm luật Hành chính, luật Lao động,
luật Hôn nhân và gia đình, luật An toàn giao thông, luật Đất đai,… Hành vi
trái pháp luật ở đây có thể CTTP hoặc chưa CTTP nhưng dù trường hợp nào
thì hành vi đó cũng phải có tính chất trái pháp luật nghiêm trọng. Hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng được hiểu là hành vi trái pháp luật gây ra một
thiệt hại lớn cho những quan hệ xã hội mà hành vi đó xâm hại (thiệt hại đó
có thể là về vật chất, về tinh thần, về thể chất hoặc một thiệt hại khác…). Để
xác định tính chất nghiêm trọng của một hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề
phức tạp đòi hỏi phải xem xét một cách khách quan, toàn diện sự việc xảy ra
trên cơ sở đánh giá các tình tiết cụ thể như hoàn cảnh, không gian, thời gian,
thủ đoạn, công cụ, phương tiện, đặc điểm nhân thân người phạm tội,... Nếu
hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng không nghiêm trọng, có
tính chất nhỏ nhặt thì không thuộc trường hợp này.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một
hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của
người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi
lặp lại trong suốt thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm
tội làm cho họ bị dồn ép về mặt tâm lý. Đến thời điểm nào đó khi có hành vi
trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy
lên cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Trong trường hợp này, nếu chỉ xét hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân [39, tr.380].
Ví dụ, trường hợp A mở quán bán bún, phở trước nhà B, thường xuyên
vứt rác trước cổng nhà B, B đã rất nhiều lần nhắc nhở nhưng A không thay
đổi. Một lần, cả nhà B đang ngồi ăn cơm ngoài sân thì A lại tiếp tục vứt rất
33
nhiều rác bẩn trước cổng nhà B, B ra mắng A thì bị A cãi lại, thách thức làm
B tức giận lấy dao chém A nhiều nhát, làm A phải cắt cụt chân trái trên đầu
gối do vết thương bị hoại tử thương tật với tỷ lệ đến 77 %. Nếu xét từng hành
vi cụ thể của A thì sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp
luật mà A đã thực hiện nhưng hành vi này đã diễn ra thường xuyên, liên tục
trong một thời gian dài mặc dù đã được B nhắc nhở, đến thời điểm cả nhà B
đang ăn cơm, A lại vứt rác bẩn vào cổng, khi B mắng A còn lớn tiếng cãi lại,
thách thức làm B quá tức giận, bị kích động mạnh về tinh thần nên đã dùng
dao chém A khiến A bị cắt cụt bàn chân trái.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng có thể thực hiện với chính bản thân
người phạm tội hoặc người thân thích của người đó. Hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng được thực hiện với bản thân người phạm tội thì việc xác định
được dễ dàng hơn nhưng trong trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng thực hiện với người thân thích của người phạm tội thì cũng rất phức tạp
vì chưa có văn bản giải thích chính thức thế nào là người thân thích của người
phạm tội. Theo thực tiễn xét xử có thể hiểu những người thân thích với người
phạm tội là những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan
hệ nuôi dưỡng như: vợ chồng, cha mẹ- con cái, anh chị em ruột, anh chị em
cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với nhau, ông bà nội ngoại đối với các
cháu, trong thực tiễn xét xử Tòa án cũng công nhận một số trường hợp tuy
không phải là quan hệ huyết thống hay quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ
thân thuộc giống như anh chị em ruột, cha mẹ ruột cũng được xác định là
người thân thích của nhau. Nhưng trong trường hợp mẹ và con nuôi với nhau
mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng cũng có quan hệ nuôi dưỡng,
tình cảm với nhau: Bố mẹ A chết sớm, A được bà B nhận làm con nuôi từ
nhỏ. Một hôm, đang trên đường đi làm về thì có người gọi “về nhà ngay! Mẹ
của mày bị người ta đánh gãy chân rồi”. A vội chạy về nhà và biết mẹ mình bị
34
C đánh đang nằm bất tỉnh ở góc sân. A liền cầm dao chạy sang nhà C chém
liên tiếp vào C, khiến C gãy tay thương tật 40 %. Tuy A và B không phải
quan hệ huyết thống nhưng có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau nên bà
C có thể được xem là người có quan hệ thân thích với A.
Trong trường hợp hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại đang trực tiếp
xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người phạm tội hoặc người thân thích
của người phạm tội như giết người, cố ý thương tích thì trong từng trường
hợp cụ thể hành vi chống trả lại gây thương tích có thể được thừa nhận là
phòng vệ chính đáng (Điều 15 BLHS) hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng (Điều 106 BLHS).
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải có mối quan hệ
nhân quả với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Theo
quy định của Khoản 1 Điều 105 thì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó
phải do chính hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên. Như
vậy, nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh này xuất phát từ
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc
người thân thích của người phạm tội. Không có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người
đó thì không có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Ví
dụ, trường hợp A đánh con của C bị gãy tay, C đi làm về nghe tin cầm gậy
chạy đi tìm A để đánh nhưng không gặp A mà gặp bà M (mẹ của A) nên C
dùng gậy đánh bà M gãy hai chân. Trường hợp này, A mới là người có hành
vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người thân thích của C (con của C) làm
cho C bị kích động mạnh về tinh thần chứ không phải bà M, nên hành vi
phạm tội của C đối với M không phải là cố ý gây thương tích cho người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
35
Nếu hành vi của nạn nhân là người tâm thần hoặc trẻ em dưới 14 tuổi
có những hành vi làm cho người phạm tội bị kích động mạnh cũng không coi
là trường hợp bị kích động mạnh theo Điều 105 BLHS. Bởi vì, hành vi của
người điên và người dưới 14 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam
không bị coi là hành vi có lỗi, hành vi trái pháp luật do họ không nhận thức
hết được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh rồi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người
khác cũng không thuộc trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Ví dụ, A
và B cãi nhau, B tức giận đi uống rượu, say rồi về cầm dao đi đâm A, trường
hợp này B sẽ bị xử lý theo Điều 104 BLHS chứ không áp dụng Điều 105
BLHS, vì hành vi gây thương tích cho A của B là do B bị say rượu dẫn tới
không nhận thức và điều khiển được hành vi chứ không phải do A và B cãi
nhau mà B bị kích động mạnh về tinh thần.
* Hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có CTTP vật chất nên hậu quả là
dấu hiệu bắt buộc. Dấu hiệu hậu quả của tội phạm này được xác định ở mức
độ thương tích hoặc gây nên mức độ tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên. Điều
này có nghĩa, nếu hậu quả mức độ thương tích hoặc gây nên mức độ tổn hại
sức khỏe từ 31% trở lên thì cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Nếu nạn nhân chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe dưới 31% thì sẽ
không cấu thành tội phạm. Căn cứ để xác định tỷ lệ thương tật là kết luận của
Hội đồng giám định y khoa, trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội
36
đồng giám định y khoa thì căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng quy
tại Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1995 của Bộ Y tế- Bộ Lao động,
thương binh và xã hội.
Theo quy định của BLHS, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh chỉ có khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với
người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó
phải có tính đột xuất, nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm có cấu thành vật chất
nên hậu quả tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên là dấu hiệu
bắt buộc của CTTP. Một người chỉ phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh nếu giữa hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và
hậu quả tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên đó có mối quan
hệ nhân quả với nhau.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác
phải xảy ra tức thời, ngay lúc có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân. Bởi vì: “Nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành động của bị cáo có một
khoảng thời gian nhất định thì không thể nói bị cáo đang ở trong tình trạng
đột xuất bị kích động tinh thần mạnh mẽ đến nỗi họ không tự chủ được mình
nữa” [34, tr.346].
Như vậy, để xác định người phạm tội có ở trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh hay không chúng ta cần xem xét giữa hành vi cố ý gây
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác

More Related Content

What's hot

Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAYLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
 
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt NamĐè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 

Similar to Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác

Similar to Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác (20)

Tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động
Tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích độngTội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động
Tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động
 
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnhTội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con ngườiTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOTLuận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
 
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAYTình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
 
Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội
Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tộiGiảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội
Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội
 
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đLuận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đángLuận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxsongtoan982017
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...songtoan982017
 

Recently uploaded (20)

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 

Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HƯƠNG DUNG TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C TRONG TR¹NG TH¸I TINH THÇN BÞ KÝCH §éNG M¹NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Thị Hương Dung
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................8 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam........................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ................ 8 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh................................................................................ 12 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.............................. 17 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 .................................................. 17 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999....... 19
  • 5. 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay............................................................................................. 21 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH..... 24 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ................................................................ 24 2.1.1. Khách thể của tội phạm.................................................................... 25 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm........................................................... 27 2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm .............................................................. 37 2.1.4. Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 40 2.2. Các trường hợp phạm tội cụ thể ................................................... 42 2.2.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.............................................................. 42 2.2.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.......................... 43 2.2.3. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên ................................................................. 44 2.2.4. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người........................................................................................ 45 2.2.5. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng................................................................ 46
  • 6. 2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với một số tội khác............................................................... 48 2.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104) ...................................................... 48 2.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng............................... 50 2.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.............. 54 2.3.4. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự................ 56 Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH .............. 59 3.1. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở nước ta hiện nay .............................................. 59
  • 7. 3.1.1. Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong thời gian 2010-2014 ................... 59 3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh........................................................................................ 62 3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và những nguyên nhân cơ bản ................................................ 72 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.................................................. 76 3.2.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ...... 76 3.2.2. Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh............. 79 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh....................................................................................... 81 3.3.1. Tăng cường công tác giáo dục, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật ....... 81 3.3.2. Củng cố và kiện toàn tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xét xử.................................................................................. 82 KẾT LUẬN................................................................................................. 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 86
  • 8. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm HĐXX: Hội đồng xét xử PVCĐ: Phòng vệ chính đáng TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự
  • 9. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Số vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh/ Tổng số các vụ án hình sự 60 Bảng 3.2: Số vụ án đã xét xử/ tổng số vụ án phải giải quyết 61
  • 10. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Trong thời đại kinh tế thị trường với sự phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp. Các tội xâm phạm đến sức khỏe của người khác là một trong những nhóm tội được quy định sớm trong pháp luật hình sự ở nước ta. Trong đó, các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong những năm trở lại đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có nhiều chiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Hậu quả mà các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người bị hại, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội;… Đặc biệt, trong mấy năm gần đây dưới sự ảnh hưởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều yếu tố khác tình hình các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ngày càng diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày càng nhiều hơn các loại vũ khí nóng, vũ khí nguy hiểm… Nhiều vụ cố ý gây thương tích có quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia, có tính chất xã hội đen. Tuy nhiên, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
  • 11. 2 cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Có những hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình tiết làm giảm đi một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trong những trường hợp đó. Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009) đã dành một chương quy định Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người – Chương XII, trong đó Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 105. Trong thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, không ít Tòa án còn gặp những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cùng với sự phát triển của pháp luật hình sự nói chung trong thời kỳ đổi mới, các quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh cũng ngày càng được củng cố và hoàn thiện.
  • 12. 3 Sau khi BLHS năm 1985 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992,1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998... Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được đề cập trong nhiều công trình như: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.s Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Lê Cảm (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003;... Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội cố ý gây thương
  • 13. 4 tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở khía cạnh tổng quát, đặt tội này trong tổng thể các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Bên cạnh đó những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp kiến nghị dừng lại ở mức độ khá chung chung và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về loại tội này. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử trên phạm vi cả nước, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh để xây dựng nên khái niệm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
  • 14. 5 cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong mối tương quan so sánh với một số chế định tội danh khác; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, từ đó đưa ra được những tồn tại, hạn chế của thực tiễn xét xử, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành dưới tên gọi là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
  • 15. 6 (Điều 105 Bộ Luật hình sự). Do vậy, tuy tên đề tài là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam nhưng xuyên suốt nội dung của luận văn, tác giả đã sử dụng cụm từ: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo như đúng quy định trong BLHS năm 1999 để nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định trong BLHS năm 1999. Luận văn đã nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là trong BLHS năm 1999, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này. Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên phạm vi cả nước trong giai đoạn 05 năm từ năm 2010 đến 2014. Tác giả qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu chung có thể tự nhận thấy rằng, có thể với công trình này có lẽ là lần đầu tiên vấn đề tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được triển khai trên quy mô của một luận văn thạc sĩ. Do vậy, việc tìm ra hướng phát triển còn gặp nhiều khó khăn cũng như việc tiếp cận các nguồn tài liệu có thể. Tác giả hy vọng rằng trong quá trình nghiên cứu sẽ tìm ra được một lối đi phù hợp.
  • 16. 7 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong Bộ luật hình sự hiện hành. Chương 3: Thực tiễn xét xử, một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
  • 17. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt làm giảm tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó là phạm tội trong “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì trước hết chúng ta phải làm rõ được khái niệm “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” và khái niệm “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. 1.1.1.1. Khái niệm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường, sức khỏe được hiểu là tình trạng không có bệnh tật hoặc không có thương tật. Quan điểm khác lại cho rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [13, tr. 206, 207].
  • 18. 9 Còn theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam: Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả [10, tr.835]. Xâm phạm sức khỏe con người được hiểu là thông qua sự tác động làm cho người đó mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó làm họ khó khăn trong cử động, hoạt động so với trước khi họ bị hành vi xâm hại tác động tới. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý xâm hại đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người. Trong đó, hành vi gây thương tích cho người khác được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người, làm cho con người có những thương tích nhất định như: vết bỏng, mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay, bàn chân,... để lại trạng thái bất thường. Còn hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó. Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có của họ. 1.1.1.2. Khái niệm trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Có nhiều quan điểm khác nhau về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là
  • 19. 10 tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Quan điểm thứ hai cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái của một người chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức, nhưng đã mất khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình. Còn quan điểm thứ ba thì cho rằng, tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình. Theo tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất và thứ ba, không đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, một người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chịu sự tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ vẫn còn. Còn nếu theo quan điểm thứ hai thì, nếu khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất, có thể coi họ là một trong những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 của BLHS năm 1999 quy định: “1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự,...” [26]. Người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nguyên nhân khách quan là xuất phát từ người bị hại. Như vậy, có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi, họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình theo quy định của Khoản 1 Điều 13 của BLHS năm 1999. Trong thực tế, chỉ có thể xảy ra trường hợp một người vẫn còn khả năng nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của mình do cơ chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tổn hại bộ phận điều khiển hành vi của não bộ. Những tác động tâm lý dù có mạnh mẽ đến đâu
  • 20. 11 cũng không thể làm cho một người mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình. Người bị kích động mạnh về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức, khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao; trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước. Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra. Tóm lại, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể hiểu một cách khái quát là tình trạng không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao. Giống như các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo PGS.TSKH Lê Cảm,
  • 21. 12 phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a, bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b, bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c, bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [15, tr.105]. Từ tất cả những phân tích trên, có thể tổng quát khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có của họ một cách trái pháp luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trong trạng thái không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức, khả năng tự chủ và điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân thích của người đó. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ sức khỏe của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý hình sự tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013:
  • 22. 13 Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.... [30, Điều 20]. Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 105 thuộc chương II của Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, hạn chế việc lợi dụng việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy nhiên, nó có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt làm giảm tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đó là thực hiện trong “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Việc quy định cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người kể cả trong các trường hợp nạn nhân là người có lỗi trước làm cho người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần dẫn đến có các hành vi phạm tội. Bởi lẽ, trong các trường hợp này, người phạm tội vẫn có lỗi, và khi có lỗi thì họ dù nặng hay nhẹ họ vẫn phải chịu TNHS về phần lỗi đó của mình nếu dấu hiệu khác thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định trong luật. Điều này góp phần tích cực làm hạn chế việc lợi dụng sự có lỗi trước của nạn nhân để có những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật.
  • 23. 14 Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Đạo luật hình sự giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng, bởi vì chỉ văn bản này mới quy định hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy phạm pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh bằng sự răn đe áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của nhà nước ta đối với việc bảo vệ và phát triển quyền con người nói chung, sức khỏe của con người nói riêng. Con người là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong xã hội, con người với bàn tay lao động và trí óc sáng tạo đã xây dựng và phát triển một xã hội ngày càng tươi đẹp. Vì thế bảo vệ con người tạo dựng một xã hội trong
  • 24. 15 sạch và lành mạnh cho sự phát triển của con người là nhiệm vụ quan trọng của mỗi đất nước, đặc biệt là ở các đất nước hiện đại vấn đề con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Xã hội ngày càng phát triển thì việc bảo vệ con người và các lợi ích của con người càng được chú trọng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước ta khẳng định, con người là trung tâm của các chính sách kinh tế- xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ, mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vi con người và cho con người. Thứ tư, bảo vệ sức khỏe của con người góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của con người đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng trong
  • 25. 16 hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng. Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, con có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải bảo vệ sự khỏe của con người. Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong pháp luật hình sự còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh động viên quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội này.
  • 26. 17 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Cùng với việc ra đời nhà nước, nhân dân ta vừa phải xây dựng củng cố chính quyền, vừa phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn này là xây dựng và củng cố chính quyền, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Đây cũng là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam. Nhiệm vụ nổi bật của pháp luật hình sự ở thời kỳ này là phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đi đến thắng lợi, trừng trị bọn việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, bảo vệ chính quyền non trẻ, bảo vệ các quan hệ xã hội mới được thiết lập và duy trì. Trong điều kiện như vậy, nhà nước đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật phục vụ cho những nhiệm vụ cấp bách. Sắc lệnh số 47/SL quy định tạm thời về việc sử dụng luật lệ cũ hiện hành ở Việt Nam. Theo nội dung của sắc lệnh, khi xét xử, Tòa án xét xử theo Luật hình cũ mà thực dân Phong kiến đề ra nhưng không được trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do vậy, ở giai đoạn 1945-1954, việc xét xử các tội phạm nói chung vẫn dựa theo luật hình cũ để xét xử. Đó là Bộ hình luật Bắc Kỳ năm 1923, Bộ hình luật Nam Kỳ năm 1912 và Bộ Hình luật Trung Kỳ năm 1933. Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy trấn động địa cầu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi. Cách mạnh Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, đất nước
  • 27. 18 bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Do điều kiện kinh tế văn hóa xã hội ở miền Bắc đã có nhiều biến đổi về căn bản so với trước đó nên toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ cũ không được áp dụng nữa. Ngày 19/01/1955 Thủ tưởng Chính phủ đã ban hành Thông Tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội trên cơ sở tổng kết việc áp dụng luật lệ cũ và án lệ. Nội dung của Thông tư yêu cầu khi xét xử các tội phạm nói chung phải theo đường lối chính sách của Đảng. Thông tư này có hướng dẫn về tội cố ý gây thương tích tuy nhiên chưa đề cập đến trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Năm 1976, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày 15 tháng 3 năm 1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn bản này được áp dụng cho các nước và được sử dụng cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực). Tại Điều 5 của Sắc luật này có quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong đó có tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên Sắc luật này cũng chỉ dừng lại ở việc nêu tội danh chứ chưa phân biệt cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng được thống nhất, ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Theo Thông tư này,
  • 28. 19 trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được coi là phạm tội ít nghiêm trọng và là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tóm lại, trước khi BLHS năm 1985 chưa ra đời thì việc quy định các tội phạm nói chung và trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng ở các văn bản quy dưới luật nên giá trị pháp lý của những văn bản đó chưa cao đồng thời các quy định còn quá chung chung, không cụ thể rõ ràng dẫn đến việc áp dụng khó thống nhất, việc xét xử gặp nhiều vướng mắc và do vậy cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982-1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt- Bộ luật Hình sự năm 1985. Có thể nói, BLHS năm 1985 là sự kết tinh thành tựu 40 năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng, là bản tổng kết sâu sắc thực hiện phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến thời điểm bộ luật được ban hành. Trong bộ luật này, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được quy định tại chương II với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Tại lần sửa đổi bổ sung thứ nhất năm 1989, Điều 109 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã
  • 29. 20 được bổ sung thêm trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vào khoản 4 của điều luật, như sau: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a, Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác; b, Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; c, Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; d, Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người. 3. Phạm tội gây cố tật nặng, dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản 2 hoặc ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bị cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [23]. Như vậy, ở giai đoạn này, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới chỉ được quy định như một trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
  • 30. 21 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay Kế thừa và phát triển những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của Nhà nước ta, nhất là BLHS năm 1985, cũng như những bài học trong hoạt động tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những thập kỷ qua dự kiến những diễn biến mới của tình hình tội phạm, ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. Có rất nhiều điều luật được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, trong đó, “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” được tách ra từ khoản 4 điều 109 của BLHS năm 1985 quy định thành một tội danh độc lập tại Điều 105 BLHS năm 1999 với nội dung: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Đối với nhiều người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác [26]. So với BLHS năm 1985 thì quy định về “tội cố ý gây thương tích hoặc
  • 31. 22 gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” tại Điều 105 BLHS năm 1999 có những điểm mới: Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã tách trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ra khỏi tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và quy định thành một tội danh độc lập với các khung hình phạt riêng. Thứ hai, trên cơ sở quy định thành một tội danh độc lập, BLHS năm 1999 tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự các trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có các mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nếu như trước đây BLHS năm 1985 quy định trường hợp “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” chỉ có một khung hình phạt là bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm thì trong BLHS năm 1999 với tư cách là một tội danh độc lập “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định hai khung hình phạt là: khung cơ bản có hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm còn khung tăng nặng đối với nhiều người, hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Thứ ba, nếu như khoản Khoản 4 Điều 109 BLHS năm 1985 chỉ quy định "bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân", chứ chưa quy định "hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân tích của người đó" như khoản 1 Điều 105
  • 32. 23 BLHS năm 1999. Mặt khác, BLHS năm 1999 quy định rõ tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên thì người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn khoản 4 Điều 109 BLHS năm 1985 chỉ quy định gây thương tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật 31% trở lên được coi là thương tích nặng. Trường hợp nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 31% thì người thực hiện hành vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, nhìn vào lịch sử lập pháp của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chúng ta nhận thấy sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật. Với các quy định tại Điều 105 BLHS năm 1999, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đã được quy định một cách rõ ràng, chi tiết và sát với thực tiễn tội phạm diễn ra. Điều này vừa đảm bảo tính được tính chặt chẽ, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa là cơ sở cho việc áp dụng pháp luật được minh bạch, thuận lợi và chính xác.
  • 33. 24 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc thù cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể đóng vai trò quan trọng, nó giúp chúng ta phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Để từ đó chúng ta mới đưa ra được kết luận chính xác về tội phạm như tội đó thuộc loại tội phạm nào? Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội đó ra sao? Người thực hiện hành vi tội phạm đó có phải chịu TNHS hay không? Tất cả những điều đó sẽ giúp chúng ta trong việc định tội đối với tội phạm cụ thể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại điều 105 BLHS năm 1999 như sau: 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
  • 34. 25 a) Đối với nhiều người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác [26]. Tội này là trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do vậy, tội này có những dấu hiệu pháp lý chung của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đồng thời cũng có những dấu hiệu pháp lý riêng. 2.1.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong khoản 1 điều 8 của BLHS 1999, bao gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác trật tự pháp luật xã hội chủ nghiã, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, vi phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [26]. Đồng thời, mỗi một tội phạm đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những khách thể nhất định. Khách thể của tội phạm là một căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Điều 105 BLHS năm 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Việc quy định điều luật này nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe cho
  • 35. 26 mọi công dân. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người. Như vậy, khách thể của tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người. Đây là một trong những khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Cũng như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là chủ thể của quan hệ xã hội. Đó là những người đang sống, những người đang tồn tại trong thế giới khách quan. Tuy nhiên, đối tượng tác động của hai loại tội phạm này có điểm khác nhau. Nếu như đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể là bất kỳ ai thì đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có thể là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng xâm hại tới người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Ví dụ: A đang ngồi chơi uống nước bên nhà hàng xóm thì thấy con gái chạy sang gọi “bố ơi, mẹ bị chú B đánh vỡ đầu rồi”. A chạy về thấy người vợ đầy máu, liền chạy vào nhà vác dao ra chém B, C can ngăn cũng bị A chém vào tay. B bị tổn hại sức khỏe 32 % còn C bị tổn hại sức khỏe 12%. Trong ví dụ này, chỉ có B là người đã có hành vi trái pháp luật nghiệm trọng đến người thân thích của A (vợ của A) làm cho tinh thần của A bị kích động mạnh dẫn đến hành vi phạm tội (chém B) nên chỉ B là đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh còn C là đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
  • 36. 27 của người khác. Có thể nói, việc xác định đúng khách thể và đối tượng của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh, xử lý tội phạm phù hợp với mức độ phạm tội. 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà còn thì con người có thể nhận biết được. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, gồm các biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan như hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra, còn có các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,...Những dấu hiệu này không được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng việc xác định nó có ý nghĩa trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. * Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai hình thức đó là hành động hoặc không hành động. Theo quy định của BLHS năm 1999, hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh gồm các loại hành vi sau: hành vi gây thương tích cho người khác và
  • 37. 28 hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Hành vi gây thương tích cho người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người, làm cho con người có những thương tích nhất định như: vết bỏng, mất đi một hoặc một số bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay, bàn chân,.... Hành vi này có thể dùng chân tay hoặc công cụ phương tiện trực tiếp tác động vào cơ thể con người như dao, súng, gậy, kiếm, mã tấu,... bằng nhiều hình thức khác nhau như đâm, bắn, chém, đấm đá... Ngoài ra, hành vi này còn được thực hiện gián tiếp thông qua các hình thức dùng súc vật như chó, thú dữ hoặc ép người khác tự gây thương tích cho chính mình. Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó, ví dụ như cho uống thuốc độc gây ra suy kiệt sức khỏe lâu dài. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đặc điểm này vừa phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đồng thời cũng là đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt tội này với các tội khác mà trước hết là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Như đã nêu trong phần 1.1.2, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể hiểu là tình trạng người phạm tội không còn nhận thức đầy đủ về hành vi
  • 38. 29 của mình, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức; khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao. Trạng thái tinh thần này của họ chỉ xẩy ra trong chốc lát. Người phạm tội khi thực hiện tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thường xuất hiện cơn bùng phát về tinh thần, thường biểu hiện các trạng thái tâm lý như: quá lo sợ, quá hốt hoảng, quá kinh hãi, quá căm tức và quá phẫn nộ. Nguyên nhân dẫn tới trạng thái tâm lý này xuất phát từ những hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, dưới đây, chúng tôi xin phân tích một số hành vi chủ yếu để thấy rõ biểu hiện tâm lý của người phạm tội khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với họ hoặc người thân thích của họ: - Hành vi sỉ nhục hay vu khống người khác: Đây là dạng hành vi xúc phạm tới nhân phẩm, danh dự của người khác, tác động mạnh tới trạng thái tâm lý của của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A và B là bạn của nhau, A vu khống cho rằng B lấy cắp tiền của A, B đã nhiều lần đính chính là B không làm điều đó nhưng A vẫn một mực nghi ngờ và đi nói với nhiều người khác và B cũng đã nhắc nhở A nhiều lần. Một lần, B đang đi chơi với bạn gái thì A nói bóng gió rằng B là thằng ăn trộm, ai yêu B thì khổ, quá tức giận, B liền nhặt đá ném vào mắt A làm A bị mù một bên mắt. Như vậy, hành vi vu khống của A đã tác động vào tâm lý của B, đỉnh điểm là khi B đi với người yêu làm cho B cảm thấy bị xúc phạm, căm phẫn dẫn tới hành vi ném đá vào A. - Hành vi dùng bạo lực một cách thô bạo với người khác: Đây là dạng hành vi xâm phạm vào tính mạng, sức khoẻ người khác một cách trái pháp luật. Ví dụ, A đang trên đường đi làm về, bỗng B từ ngõ hẻm chạy ra chặn đường rồi đấm A túi bụi sau đó mới nhận ra là đã nhầm lẫn A với một đối tượng khác. Do bị đánh đau nên mặc dù B đã xin lỗi (vì đã nhận nhầm người) nhưng A vẫn vô cùng tức giận rút dao chém nhiều nhát vào người B, làm B bị tổn hại sức khỏe 34 %. - Những mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân và gia đình: Trong thực
  • 39. 30 tế, có rất nhiều vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình, chồng đánh đập vợ, đánh đập con cái, người vợ không làm tròn trách nhiệm làm mẹ, làm vợ… Ví dụ: Anh A và chị H lấy nhau sinh được ba đứa con gái. Do bị bạn bè chê bai rằng anh không có con trai, anh A sinh ra chán nản, rượu chè, cờ bạc. A thường xuyên đay nghiến, chửi bới đánh đập vợ con và có quan hệ bất chính với hết cô gái này đến cô gái khác, bất chấp sự khuyên bảo của bà con, họ hàng. Sau mỗi lần đi uống rượu say, A đều tìm lý do đánh vợ nên đã làm cho chị H bị dồn nén, ức chế về tinh thần. Một hôm, khoảng 2h sáng A về nhà và đòi chị H đưa tiền để A đi chơi bạc tiếp, chị H nói không còn tiền, A liền tát chị H hai cái. Chị H tức quá, không kiềm chế được hành vi đã lấy then chốt cửa bằng sắt vụt bừa vào A làm A bị gãy tay tỷ lệ thương tật 32%. - Hành vi xâm phạm tới tài sản của người khác như đốt cháy, cướp giật, đập phá. Đây là hành vi xâm phạm tới tài sản của người phạm tội của nạn nhân, tài sản ở đây thường là tài sản có giá trị lớn về vật chất hoặc tình thần. Ví dụ, do mâu thuẫn trong quan hệ hàng xóm láng giềng nên một lần, nhân lúc thấy xe ô tô của A dựng ngoài sân mà không có người nên B đã lấy một thanh sắt đập vào kính, vào gương và cốp xe của A, A đi chơi bên nhà C về thì thấy ô tô của mình bị vỡ kính, vỡ gương và méo mó trong khi B tay cầm thanh sắt đứng cạnh đó đang cười hả hê, nên thấy vậy A tức quá nhảy vào đánh B làm cho B thương tật 57 %. Hành vi phá hoại tài sản có giá trị lớn của B đã làm cho A tức giận và có hành động nhảy vào đánh B. Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa đến mức khả năng tự chủ và tự điều khiển hành vi bị hạn chế ở mức độ cao thì không gọi là tinh thần bị kích động mạnh, không thuộc trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
  • 40. 31 tinh thần bị kích động mạnh, đối với trường hợp này người phạm tội chỉ được giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 46 BLHS. Trên thực tế việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề phức tạp, cho đến nay các nhà làm luật cũng chưa đưa ra được một công thức hay tiêu chí, chuẩn mực cụ thể áp dụng cho mọi trường hợp. Bởi trạng thái tâm lý của mỗi người là khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia, có người bị kích động mạnh về tinh thần nhưng có người lại không bị kích động mạnh. Ví dụ: Cùng một sự việc là thấy vợ có quan hệ bất chính với người khác, anh A lao tới đánh tình nhân của vợ, anh B đệ đơn ly hôn. Chính vì vậy, việc đánh giá trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay chỉ là bị kích động nhưng chưa tới mức mạnh cần được xem xét gắn liền với từng vụ việc cụ thể và trên cơ sở đánh giá nhưng vấn đề sau: điều kiện, hoàn cảnh xảy ra vụ việc, các tình tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội, quá trình diễn biến của sự việc, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoạt động xã hội, điều kiện sống, tính tình, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, biểu hiện phản ứng của chủ thể khi sự việc xảy ra, sự mãnh liệt, cường độ, sức mạnh của hành vi,... [13]. Nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật của nạn nhân có thể là hành vi vi phạm Luật hình sự, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc đối với người thân thích của họ như xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh dự con người nhưng cũng có một số trường hợp hành vi xâm phạm đến tài sản như hủy hoại tài sản, cướp tài sản... Tuy nhiên hành vi trái pháp luật của nạn nhân cũng có thể không phải
  • 41. 32 là vi phạm pháp luật hình sự mà là vi phạm luật Hành chính, luật Lao động, luật Hôn nhân và gia đình, luật An toàn giao thông, luật Đất đai,… Hành vi trái pháp luật ở đây có thể CTTP hoặc chưa CTTP nhưng dù trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tính chất trái pháp luật nghiêm trọng. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng được hiểu là hành vi trái pháp luật gây ra một thiệt hại lớn cho những quan hệ xã hội mà hành vi đó xâm hại (thiệt hại đó có thể là về vật chất, về tinh thần, về thể chất hoặc một thiệt hại khác…). Để xác định tính chất nghiêm trọng của một hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải xem xét một cách khách quan, toàn diện sự việc xảy ra trên cơ sở đánh giá các tình tiết cụ thể như hoàn cảnh, không gian, thời gian, thủ đoạn, công cụ, phương tiện, đặc điểm nhân thân người phạm tội,... Nếu hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng không nghiêm trọng, có tính chất nhỏ nhặt thì không thuộc trường hợp này. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là chuỗi những hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi lặp lại trong suốt thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm tội làm cho họ bị dồn ép về mặt tâm lý. Đến thời điểm nào đó khi có hành vi trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy lên cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Trong trường hợp này, nếu chỉ xét hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái tinh thần bị kích động mạnh sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân [39, tr.380]. Ví dụ, trường hợp A mở quán bán bún, phở trước nhà B, thường xuyên vứt rác trước cổng nhà B, B đã rất nhiều lần nhắc nhở nhưng A không thay đổi. Một lần, cả nhà B đang ngồi ăn cơm ngoài sân thì A lại tiếp tục vứt rất
  • 42. 33 nhiều rác bẩn trước cổng nhà B, B ra mắng A thì bị A cãi lại, thách thức làm B tức giận lấy dao chém A nhiều nhát, làm A phải cắt cụt chân trái trên đầu gối do vết thương bị hoại tử thương tật với tỷ lệ đến 77 %. Nếu xét từng hành vi cụ thể của A thì sẽ không thấy được sự nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật mà A đã thực hiện nhưng hành vi này đã diễn ra thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài mặc dù đã được B nhắc nhở, đến thời điểm cả nhà B đang ăn cơm, A lại vứt rác bẩn vào cổng, khi B mắng A còn lớn tiếng cãi lại, thách thức làm B quá tức giận, bị kích động mạnh về tinh thần nên đã dùng dao chém A khiến A bị cắt cụt bàn chân trái. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng có thể thực hiện với chính bản thân người phạm tội hoặc người thân thích của người đó. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng được thực hiện với bản thân người phạm tội thì việc xác định được dễ dàng hơn nhưng trong trường hợp hành vi trái pháp luật nghiêm trọng thực hiện với người thân thích của người phạm tội thì cũng rất phức tạp vì chưa có văn bản giải thích chính thức thế nào là người thân thích của người phạm tội. Theo thực tiễn xét xử có thể hiểu những người thân thích với người phạm tội là những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng như: vợ chồng, cha mẹ- con cái, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với nhau, ông bà nội ngoại đối với các cháu, trong thực tiễn xét xử Tòa án cũng công nhận một số trường hợp tuy không phải là quan hệ huyết thống hay quan hệ hôn nhân mà chỉ là quan hệ thân thuộc giống như anh chị em ruột, cha mẹ ruột cũng được xác định là người thân thích của nhau. Nhưng trong trường hợp mẹ và con nuôi với nhau mặc dù không có quan hệ huyết thống nhưng cũng có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau: Bố mẹ A chết sớm, A được bà B nhận làm con nuôi từ nhỏ. Một hôm, đang trên đường đi làm về thì có người gọi “về nhà ngay! Mẹ của mày bị người ta đánh gãy chân rồi”. A vội chạy về nhà và biết mẹ mình bị
  • 43. 34 C đánh đang nằm bất tỉnh ở góc sân. A liền cầm dao chạy sang nhà C chém liên tiếp vào C, khiến C gãy tay thương tật 40 %. Tuy A và B không phải quan hệ huyết thống nhưng có quan hệ nuôi dưỡng, tình cảm với nhau nên bà C có thể được xem là người có quan hệ thân thích với A. Trong trường hợp hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại đang trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội như giết người, cố ý thương tích thì trong từng trường hợp cụ thể hành vi chống trả lại gây thương tích có thể được thừa nhận là phòng vệ chính đáng (Điều 15 BLHS) hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106 BLHS). Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Theo quy định của Khoản 1 Điều 105 thì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đó phải do chính hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên. Như vậy, nguyên nhân của trạng thái tinh thần bị kích động mạnh này xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người đó thì không có trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Ví dụ, trường hợp A đánh con của C bị gãy tay, C đi làm về nghe tin cầm gậy chạy đi tìm A để đánh nhưng không gặp A mà gặp bà M (mẹ của A) nên C dùng gậy đánh bà M gãy hai chân. Trường hợp này, A mới là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người thân thích của C (con của C) làm cho C bị kích động mạnh về tinh thần chứ không phải bà M, nên hành vi phạm tội của C đối với M không phải là cố ý gây thương tích cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
  • 44. 35 Nếu hành vi của nạn nhân là người tâm thần hoặc trẻ em dưới 14 tuổi có những hành vi làm cho người phạm tội bị kích động mạnh cũng không coi là trường hợp bị kích động mạnh theo Điều 105 BLHS. Bởi vì, hành vi của người điên và người dưới 14 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam không bị coi là hành vi có lỗi, hành vi trái pháp luật do họ không nhận thức hết được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Trường hợp người phạm tội tự mình gây nên tình trạng tinh thần bị kích động mạnh rồi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác cũng không thuộc trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Ví dụ, A và B cãi nhau, B tức giận đi uống rượu, say rồi về cầm dao đi đâm A, trường hợp này B sẽ bị xử lý theo Điều 104 BLHS chứ không áp dụng Điều 105 BLHS, vì hành vi gây thương tích cho A của B là do B bị say rượu dẫn tới không nhận thức và điều khiển được hành vi chứ không phải do A và B cãi nhau mà B bị kích động mạnh về tinh thần. * Hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có CTTP vật chất nên hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Dấu hiệu hậu quả của tội phạm này được xác định ở mức độ thương tích hoặc gây nên mức độ tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên. Điều này có nghĩa, nếu hậu quả mức độ thương tích hoặc gây nên mức độ tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên thì cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nếu nạn nhân chỉ bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe dưới 31% thì sẽ không cấu thành tội phạm. Căn cứ để xác định tỷ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám định y khoa, trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội
  • 45. 36 đồng giám định y khoa thì căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng quy tại Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1995 của Bộ Y tế- Bộ Lao động, thương binh và xã hội. Theo quy định của BLHS, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì trạng thái tinh thần bị kích động mạnh chỉ có khi có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó, sự kích động đó phải có tính đột xuất, nó đến rất nhanh và cũng qua đi rất nhanh. * Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Một người chỉ phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nếu giữa hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và hậu quả tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác phải xảy ra tức thời, ngay lúc có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Bởi vì: “Nếu giữa lỗi của nạn nhân và hành động của bị cáo có một khoảng thời gian nhất định thì không thể nói bị cáo đang ở trong tình trạng đột xuất bị kích động tinh thần mạnh mẽ đến nỗi họ không tự chủ được mình nữa” [34, tr.346]. Như vậy, để xác định người phạm tội có ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không chúng ta cần xem xét giữa hành vi cố ý gây