SlideShare a Scribd company logo
1 of 106
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG VĂN TIẾN
C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG
TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG VĂN TIẾN
C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG
TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜ I CAM ĐOAN
Hoàng Văn Tiến
MỤC LỤC
Trang
- Trang phụ bìa
- Lời cam đoan
- Mục lục
- Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.............................9
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................9
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt ....................................................................9
1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt................................................................16
1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt ..........................................................18
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................24
1.2.1. Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt ................................................24
1.2.2. Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt..............................................27
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
QUY ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 1999 ............................................................................................29
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa
lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ....................................29
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp
điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999........................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ BỘ
LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC
CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT...................................................35
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN
CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............................................................35
2.1.1. Các quy định của Bộ luật hình sự ...............................................................35
2.1.2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội................................................41
2.1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội...........................................................................45
2.1.4. Khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự ..............................................................................................48
2.1.5. Khi quyết định hình phạt tòa án căn cứ vào các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự .....................................................................................54
2.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT....................59
2.2.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản ............................................................................59
2.2.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp...................................................................61
2.2.3. Bộ luật hình sự Liên bang Nga....................................................................62
2.2.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.........................................63
2.2.5. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức...................................................64
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ.....65
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ..............................................65
3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Hà Giang...................65
3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt và việc áp dụng các căn cứ quyết định
hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..........................................................66
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các căn cứ quyết định hình
phạt trên địa bàn tỉnh Hà giang và những nguyên nhân cơ bản..................71
3.2. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC CĂN CỨ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT......................................................................81
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA
VIỆC ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............89
3.3.1. Kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử .................................................................89
3.3.2. Các giải pháp phối hợp khác .......................................................................93
KẾT LUẬN..............................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Tổng số ngƣời bị kết án tại TAND cấp tỉnh Hà Giang từ
2010 - 2014 68
Bảng 3.2: Tổng số ngƣời bị kết án tại Tòa án nhân dân cấp huyện ở
Hà Giang từ 2010 - 2014 68
Bảng 3.3: Tổng hợp các hình phạt đƣợc áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà
Giang từ 2010 - 2014 69
Bảng 3.4: Bảng tổng hợp nhân thân ngƣời phạm tội qua việc xét xử
của TAND tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 70
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng phạt.
Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn chứa đựng
trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp
pháp của con người” [43, tr. 63]. Tuy vậy, mặc dù tất cả tội phạm đều có tính nguy
hiểm cho xã hội nhƣng mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội là khác nhau,
do đó cần có biện pháp xử lý chính xác, phù hợp và công bằng. Trên cơ sở đó, với
tƣ cách là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống
tội phạm, Bộ luật hình sự Viê ̣t Nam đã quy định về tội phạm và hình phạt với mục
đích - “bảo vệ các quyền và tự do của con người với tư cách là những giá trị cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại tránh khỏi sự xâm hại
có tính chất tội phạm của công dân khác” [6, tr. 672].
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những
nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc
biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trƣớc hết ở chỗ
Tòa án mới có quyền áp dụng và quyết định hình phạt. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật
định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [29].
Tƣơng tự, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân:
2
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác...
[31, Điều 2].
Bên cạnh đó, Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự
và do Tòa án quyết định” [30, Điều 26]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm
khắc về hình sự đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc
quyết định áp dụng với ngƣời phạm tội, không một cơ quan nhà nƣớc nào khác
ngoài Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp
với mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho
ngƣời phạm tội. Do đó:
Tòa án “vốn là một cơ quan trong hoạt động của mình thể hiện những nguyên
tắc pháp luật sâu xa đƣợc quyền đánh giá các quyền chủ thể của con ngƣời, phán quyết
ở cấp cuối cùng và phán quyết theo cách là các quyết định của nó dù chỉ liên quan đến
một vụ việc cụ thể, nhƣng nó có sức mạnh bắt buộc nhƣ chính là sức mạnh của bản
thân pháp luật [48, tr. 145].
Hay nói cách khác, để nâng cao vai trò của pháp luật, "một nguyên tắc khác
của ý tƣởng chế độ pháp trị là phải bảo đảm sự bảo vệ của pháp luật, mọi công dân
phải đƣợc phép yêu cầu thực hiện các quyền của mình tại Tòa án” [19, tr. 50].
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử.
Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt đƣợc các
mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết án trở thành ngƣời có ích
3
cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm
1999). Ngƣợc lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công
bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt đƣợc các mục đích đó. Do đó,
việc áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội có đạt đƣợc mục đích hay không,
hiệu quả của hình phạt đạt đƣợc ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào
việc quyết định hình phạt. Nếu Tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt
nhƣ là phƣơng tiện chủ yếu để trừng trị ngƣời phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết
định hình phạt quá nặng. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ
tƣởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của
mình, gây ra oán hờn và không tin tƣởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành.
Một hình phạt nhƣ vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho ngƣời
phạm tội đƣợc cải tạo, giáo dục để hoàn lƣơng trở thành công dân có ích cho xã
hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng
ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính ngƣời phạm tội và những ngƣời khác có
thái độ coi thƣờng pháp luật; không tạo ra sự tin tƣởng, đồng tình cần thiết để giáo
dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm [13, tr. 83-84].
Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng,
một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán
và Hội thẩm tiến hành đối với ngƣời thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý
nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết
định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác
nhau nhƣ kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở
giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ƣu nhất trong
việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt đƣợc quyết
định áp dụng đối với bị cáo phải đƣợc thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự và đƣợc công bố một cách công khai khi tuyên án.
Hình phạt do Tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án
4
có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhƣng trong mọi trƣờng hợp bao
giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa,
để bảo đảm sự tƣơng xứng khi quyết định hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân ngƣời
phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài
ra, hình phạt đƣợc quyết định đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập
luận và bắt buộc có lý do. Các căn cứ quyết định hình phạt đóng vai trò rất quan
trọng trong việc bảo đảm tính pháp chế, công bằng và nhân đạo của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng chƣa đúng, chƣa chính xác các căn cứ quyết
định hình phạt vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt quá
nặng hoặc quá nhẹ, chƣa bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng
nhƣ hiệu quả của hình phạt. Bên cạnh đó, trên phƣơng diện lý luận, các căn cứ
quyết định hình phạt vẫn chƣa đƣợc đề cập sâu sắc và riêng rẽ. Vì vậy, việc nghiên
cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản
nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung các căn cứ quyết định
hình phạt và thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này để đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng quyết định hình phạt
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính
cấp thiết phục vụ yêu cầu cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian
tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên
công tác tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định lựa chọn đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Căn cứ quyết định hình phạt theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhƣ đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt đã đƣợc đề
5
cập nhiều, nhƣng các căn cứ quyết định hình phạt còn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề chủ yếu đƣợc đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt
mà thôi, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau dƣới đây:
* Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo ở nƣớc ngoài: 1) C.L.Ten, Tội
phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2) P.J.Fizgerald, Luật
hình sự và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 3) Doman J. Newman,
Giới thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 4) Larry K. Gaines and
Roger LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth
Publishing, USA, 2006; v.v...
* Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, đề tài trong nƣớc: 1)
Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người bằng
các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Chí, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; 2)
PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; 3) PGS. TS. Lê Văn Đệ,
Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên, Định tội danh và quyết
định hình phạt, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007; 5) ThS. Đinh Văn Quế, Tìm
hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v…
* Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nƣớc: 1) Dƣơng Tuyết
Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt
trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2009; 3) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 1997; 4) Nguyễn Minh
Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc
6
sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; 5) Trịnh Thị Yến, Quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v...
* Còn về các công trình dƣới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học
pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Cảm, Về bản chất pháp
lý của quy phạm nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1989; 2) TS. Trần Văn Dũng,
Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí
Luật học, số 5/2000; 3) PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) ThS. Đinh Văn
Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 6/2007; v.v...
Nhƣ vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến
quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung,
mà chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về vấn đề lý luận
cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
về các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng quy định đó trên một địa
bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quyết định hình phạt. Nói một cách khác, các
vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc áp dụng căn cứ quyết định hình phạt đòi
hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tƣợng nghiên cứu là: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tƣợng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu nhƣ sau:
- Phân tích khái niệm, nội dung, các nguyên tắc quyết định hình phạt, từ đó,
chỉ ra xây dựng khái niệm (các) căn cứ quyết định hình phạt (lƣu ý, căn cứ quyết
7
định hình phạt đƣợc học viên sử dụng ở đây là theo nghĩa rộng và đúng theo tên
gọi trong Bộ luật hình sự và nội dung bao gồm cả bốn căn cứ quyết định hình phạt);
- Hệ thống hóa quy định về các căn cứ quyết định hình phạt trong lịch sử từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong đó phân tích quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề này để rút ra nhận xét;
- Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới
về các căn cứ quyết định hình phạt để rút ra đánh giá;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn
tỉnh Hà Giang, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng và đƣa ra những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả và chất lƣợng của việc quyết định hình phạt.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà
nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong
các Nghị quyết Đại hội Đảng XI, XII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng
pháp đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng
các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm
rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định
hình phạt; phân tích, đánh giá nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
8
hành về các căn cứ quyết định hình phạt, đồng thời đƣa ra những kiến nghị hoàn
thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn.
Bên cạnh đó, về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất
định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến các căn cứ quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trƣờng hợp
phức tạp của các căn cứu quyết định hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất
phục vụ cho thực tiễn xét xử, tránh vi phạm trong việc áp dụng. Đặc biệt, nó còn có
ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ
giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ
pháp hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số
nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn
tỉnh Hà Giang và những kiến nghị.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Pháp luật là đại lƣợng công bằng áp dụng cho những trƣờng hợp khác nhau.
Do đó, pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những ngƣời
không giống nhau trong thực tế. Ttrong phạm vi đó, làm thế nào để đƣa ra một
quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của
những cơ quan và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Ở đây, việc áp dụng đúng các
quy định của pháp luật hình sự đã đƣợc ban hành liên quan chặt chẽ với việc áp
dụng có căn cứ và đúng đắn các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật hình sự với
việc tuân thủ chính xác và nhất quán các quy định của pháp luật với việc xác định
chân lý khách quan của vụ án hình sự.
Lần đầu tiên, khái niệm hình phạt đƣợc quy định trong Điều 26 Bộ luật hình
sự năm 1999, đây là một điểm mới so với Bộ luật hình sự năm 1985. Việc quy định
này không những bảo đảm nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn
có nhiều mục đích khác nhƣ: giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, bảo đảm tính răn đe và
nghiêm minh của pháp luật hình sự, cũng nhƣ yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Bởi lẽ, đề cập tội phạm chúng ta không thể không nhắc đến hình phạt. Tội
phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản trong luật hình sự của mọi quốc gia. Tội
phạm và hình phạt luôn luôn đi liền với nhau, có nghĩa là giữa tội phạm và hình phạt
luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau... [18, tr. 93]. Về
nguyên tắc, khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự và thông
thƣờng phải chịu hình phạt và ngƣợc lại hình phạt không thể đƣợc áp dụng khi không
có tội phạm xảy ra và cũng không áp dụng đối với ai khác ngoài ngƣời đã phạm tội.
Do đó, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã nhận định:
10
Chừng nào, Nhà nƣớc còn cần đến luật hình sự và hình phạt, thì hình phạt
chỉ đƣợc áp dụng và chỉ cho phép đƣợc áp dụng với tính chất là sự phản ứng Nhà
nƣớc và xã hội đối với tội phạm; nó là sự phủ định công khai, quyết liệt của Nhà
nƣớc, là sự thể hiện không thể dung thứ của Nhà nƣớc và xã hội đối với các hành vi
phạm tội... [35, tr. 37].
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc áp dụng
theo trình tự riêng biệt cho ngƣời phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện
đƣợc mục đích của mình. Hình phạt với tƣ cách là sự hạn chế, tƣớc bỏ những
quyền, lợi ích quan trọng nhất của ngƣời phạm tội có những tác động nhất định đến
bản thân ngƣời phạm tội cũng nhƣ tác động đến xã hội theo những hƣớng khác nhau
tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó đƣợc quyết định thế nào. Luật hình sự đòi hỏi
những tác động đó của hình phạt phải đạt đƣợc những kết quả trực tiếp hay nói cách
khác là đạt đƣợc mục đích của hình phạt.
Về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết
định hình phạt là gì ? Dƣới góc độ lý luận, quyết định hình phạt là một khái niệm
hiện nay có nhiều quan điểm không giống nhau.
ThS. Đinh Văn Quế đƣa ra định nghĩa mang tính khái quát về quyết định
hình phạt nhƣ sau "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc
người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt
bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 3]. Định
nghĩa này đã chỉ ra nội dung quan trọng của quyết định hình phạt là một hoạt động
của Toà án đồng thời đó là việc toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ
pháp lý của quyết định hình phạt đó chính là các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy
nhiên, định nghĩa này cho thấy chƣa bao quát đƣợc hết hoạt động quyết định hình
phạt. Bởi lẽ, quyết định hình phạt là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều
thao tác ngoài việc lựa chọn loại hình phạt còn xác định mức hình phạt.Bên cạnh
đó, tác giả cho rằng hình phạt áp dụng với “người bị kết án” là chƣa chính xác. Bởi
ngƣời bị kết là ngƣời đã có bản án kết tội của Tòa án.
Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "Quyết định hình phạt là sự
11
lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định
để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [9, tr. 161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ
thể hai thao tác quan trọng khi quyết định hình phạt là xác định loại hình phạt và
xác định mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động quyết
định hình phạt, đối tƣợng bị áp dụng hình phạt là ngƣời phạm tội cụ thể. Tuy nhiên,
ở đây chƣa cho thấy chủ thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là toà án
Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm quyết định hình phạt còn đƣợc tiếp
cận dƣới góc độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó:
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử
của Bộ luật hình sự, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể
đƣợc quy định trong luật hình sự tƣơng ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp
dụng với ngƣời phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [40, tr. 73].
Trong định nghĩa này coi quyết định hình phạt là một giai đoạn trong hoạt
động xét xử là chƣa chính xác. Bởi lẽ nói đến giai đoạn trong tố tụng cũng nhƣ
trong quá trình xét xử của toà án là nói đến một bƣớc (một khoảng thời gian) độc
lập để chủ thể thực hiện hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trƣớc khi lựa chọn loại hình
phạt và xác định mức hình phạt cụ thể toà án còn phải dựa vào các căn cứ nhƣ tính
chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân bị cáo… Những hoạt
động này đƣợc thực hiện xuyên suốt quá trình xét xử chứ không phải là một giai
đoạn độc lập. Định nghĩa này chỉ ra hình thức của việc quyết định hình phạt đó
chính là bản án của Tòa án. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự thì chỉ có bản án kết
tội chứ không có bản án buộc tội nếu hiểu theo đúng nghĩa của hoạt động buộc tội
trong mối quan hệ với hoạt động gỡ tội, xét xử thì nó thuộc về bên buộc tội thể hiện
bằng cáo trạng của Viện kiểm sát.
Ngoài ra, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội thì "quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ
thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [20, tr. 317].
Bên cạnh đó, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà
12
Nội thì định nghĩa: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định
mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ
thể" [36, tr. 211]; v.v...
Do đó, để làm sáng tỏ một cách đầy đủ nội dung của khái niệm quyết định
hình phạt, cần xác định vị trí của quyết định hình phạt trong quá trình áp dụng các
quy phạm pháp luật hình sự.
Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự là một quá trình
phức tạp gồm nhiều mặt đƣợc tiến hành thông qua các giai đoạn nhất định nhƣ: giải
thích quy phạm pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không
gian và thời gian, định tội danh và quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự
và xoá án tích.
Các quy phạm pháp luật hình sự cấm việc thực hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội trƣớc hết bằng sự tuân thủ các quy phạm đó. Bằng cách đó, mục đích của
luật hình sự đã đƣợc và nhƣ vậy, quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thực hiện đƣợc
chức năng chính, cơ bản của mình
Tuy nhiên, bản chất của các quy phạm pháp luật hình sự không bị hạn chế
bởi việc công bố các điều cấm nhất định. Mọi quy phạm pháp luật đều có tính chất
bắt buộc và cho phép. Quy phạm pháp luật hình sự ngoài việc đƣa ra điều cấm đối
với mọi ngƣời còn xác định cả quyền, nghĩa vụ của toà án trong việc áp dụng quy
phạm pháp luật hình sự, tức là áp dụng hình phạt trong trƣờng hợp một ngƣời thực
hiện hành vi tội phạm. Chức năng thứ hai của quy phạm pháp luật hình sự - quy
định về hình phạt chỉ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp Toà án áp dụng quy phạm
pháp luật hình sự.
Liên quan đến khái niệm quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hiện
nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyết định hình phạt:
Đó là quyết định hình phạt đƣợc hiêu theo nghĩa nghĩa hẹp của khái niệm
quyết định hình phạt, nghĩa rộng của khái niệm quyết định hình phạt. Theo đó,
quyết định hình phạt còn bao gồm cả các hoạt động: xác định ngƣời phạm tội có
đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình
13
phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc
dƣới khung đó [14, tr.65 - 66].
Theo PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên trong sách "Định tội danh và quyết định
hình phạt" thì nên coi miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt:
"Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng
đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự" [21, tr 62]. Nhƣ vậy, về
nội dung pháp lý thì miễn hình phạt là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu hình phạt
tức biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất về tội mà họ đã phạm. Miễn hình phạt phải
thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt đƣợc thực hiện sau khi Tòa
án đã xác định xong tội danh và là bƣớc đầu của quá trình xác định hình phạt.
Tác giả Dƣơng Tuyết Miên cho rằng, đối với trƣờng hợp miễn trách nhiệm
hình sự cũng nên coi thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi những lý do sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội họ đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự đƣợc thực hiện sau
khi Tòa án đã xác định xong tội danh cho bị cáo nên không thể thuộc giai đoạn định
tội danh. Trên cơ sở định tội danh bị cáo đã phạm, Tòa án sẽ xem xét, nếu thấy
không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà vẫn đảm bảo
đƣợc các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố
miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo [21, tr. 62].
Tác giả chia sẽ với quan điểm coi miễn hình phạt là biện pháp xử lý trách
nhiệm hình sự chỉ do Tòa án tiến hành trên cơ sở những căn cứ, quy định của Bộ
luật hình sự. Miễn hình phạt cũng chỉ đƣợc tiến hành sau khi Tòa án đã định tội
danh xong đối với bị cáo. Vì vậy, cần xác định miễn hình phạt phải thuộc về giai
đoạn quyết định hình phạt.
Còn đối với quan điểm cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn
quyết định hình phạt thì tác giả không đồng ý, bởi lẽ, miễn trách nhiệm hình sự là
một biện pháp xử lý hình sự do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành,
tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau, nhƣ: Cơ quan điều tra ở giai đoạn điều tra,
14
Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố, hay Tòa án ở giai đoạn xét xử. Nhƣ vậy, ngƣời đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ các điều kiện đƣợc miễn trách nhiệm
hình sự thì vẫn đƣợc các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự để miễn trách nhiệm hình sự cho ngƣời đó. Hơn nữa, quyết định hình phạt
là hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự, do đó nếu cho rằng
miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt là chƣa chính xác
ở cả khía cạnh nội dung lẫn khía cạnh chủ thể có thẩm quyền quyết định hình phạt.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái
niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có
thuộc về hoạt động quyết định hình phạt hay không? Tác giả cho rằng, cần coi giai
đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt,
thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì, định khung hình phạt là việc làm
đƣợc thực hiện sau khi định tội danh xong và là hoạt động đầu tiên xác định giới
hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo khung hình phạt đƣợc phép áp dụng, trên
cơ sở giới hạn luật định, hình phạt cụ thể sẽ đƣợc quyết định. Mặt khác, việc định
tội danh phải đƣợc thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải
là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh
xong các cơ quan tố tụng mới xác định khung hình phạt, trong trƣờng hợp điều
luật chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án đƣơng nhiên không phải xác định
khung hình phạt. Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng định khung. Vì vậy, theo tác giả nên coi định khung hình phạt thuộc
về hoạt động quyết định hình phạt.
Từ những sự phân tích trên, kế thừa các quan điểm khoa học, học viên cho
rằng nên định nghĩa khái niệm này nhƣ sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, căn cứ vào các
quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực
hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại và mức hình phạt cụ thể áp
dụng cho người phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy
định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
15
hành vi phạm tội.
Trên cơ sở định nghĩa về quyết định hình phạt, có thể rút ra một số đặc điểm
của cơ bản của hoạt động quyết định hình phạt nhƣ sau:
Một là, quyết định hình phạt là một hoạt động (thực tiễn) áp dụng pháp luật
hình sự của Tòa án sau khi Tòa án đã định tội danh.
Ở đây, quyết định hình phạt tuân thủ theo các nguyên tắc, các yêu cầu cũng
nhƣ các giai đoạn của áp dụng pháp luật nói chung. Tính đặc thù thể hiện ở chủ thể áp
dụng là Toà án. Định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định
hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá
thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong tƣ pháp hình sự. Ngƣợc lại, nếu định tội danh sai đƣơng nhiên sẽ dẫn đến
một loạt hậu quả tiêu cực nhƣ: không bảo đảm đƣợc tính công minh và đúng pháp
luật của hình phạt do Tòa án quyết định, dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời
không có tội, bỏ lọt ngƣời phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo đến danh dự, nhân
phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm” [7, tr.17-18]. Do đó, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt
Nam, tức là chỉ Tòa án mới có quyền tuyên một ngƣời có tội và áp dụng hình phạt
với ngƣời đó. Quyết định hình phạt là hoạt động tƣ duy của các thành viên Hội
đồng xét xử cân nhắc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng nhƣ các yếu tố khác để đƣa ra một quyết định hình phạt phù hợp, áp dụng hình
phạt; nếu áp dụng hình phạt thì phải lựa chọn một hình phạt nào đó thể hiện sự lên
án của nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội [29, Điều 102].
Ngoài ra, để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, chính xác, có hiệu
quả, căn cứ quyết định hình phạt bắt buộc phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự
và trở thành chuẩn mực chung cho việc quyết định hình phạt đối với mọi trƣờng
hợp phạm tội. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình trạng áp dụng một
cách tuỳ tiện và nhằm đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của
16
ngƣời phạm tội.
Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính bắt buộc Hội đồng xét xử
phải tuân thủ để hình phạt được quyết định một cách đúng đắn.
Trong mối quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt
chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật
của hoạt động quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Hội
đồng xét xử phải tuân thủ triệt để các căn cứ đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định
nhằm bảo đảm cho hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, đúng pháp luật,
đáp ứng và phù hợp với đòi hỏi của lợi ích chung.
Thứ ba, yêu cầu tuân thủ đúng căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan
trọng để hình phạt được tuyên có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt ở
mức cao nhất.
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt.
Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt không phải đƣợc thực hiện một cách
ngẫu nhiên cũng có thể đạt đƣợc các mục đích của hình phạt mà nó phải đƣợc dựa
trên các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Đến lƣợt
mình, với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, chính sự tuân
thủ căn cứ quyết định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định đúng
và quan trọng hơn còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó có khả năng đạt đƣợc
các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất.
1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt đƣợc hiểu là việc Tòa án lựa chọn một loại và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với ngƣời phạm tội.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn, một nội dung quan trọng
của quá trình áp dụng luật hình sự. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật hình sự năm
1999 (sau là Bộ luật hình sự năm 2015) đều quy định chỉ có Tòa án mới có quyền
quyết định hình phạt. Theo đó, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào quy định
của Bộ luật hình sự tuyên bố áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Điều này
thể hiện sự lên án của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội về việc thực hiện tội phạm.
17
Quyết định hình phạt có vai trò vô cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các hoạt
động tố tụng hình sự trƣớc đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng
tại phiên tòa) sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc quyết
định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền
đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng).
- Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt đƣợc mục đích của hình
phạt. Nói một cách khác, việc quy định các mục đích của hình phạt phải bảo đảm
để: “thứ nhất, mục đích phản ánh một cách tƣơng xứng các lợi ích của nhân dân,
thứ hai, mục đích đƣợc quy định trong quy phạm pháp luật cần phải phản ánh tính
hiện thực; thứ ba, mục đích cần phải dựa trên những biện pháp mà việc áp dụng nó
đƣợc lập luận về mặt đạo đức...” [44, tr. 221]. Ngoài ra, mục đích của hình phạt là
kết quả mà Nhà nƣớc đặt ra và mong muốn đạt đƣợc khi áp dụng hình phạt đối với
ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, mục đích của hình phạt có đạt đƣợc hay không lại phụ
thuộc vào việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử. Quyết định hình phạt bảo
đảm tính công minh, đúng pháp luật, tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội là điều kiện bắt buộc để
hình phạt đƣợc tuyên đạt đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm
tội. Qua đó, hình phạt cũng phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung đối với
các thành viên khác trong xã hội.
- Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả
của hình phạt [21, tr.64]. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ:
xây dựng pháp luật hình sự; quyết định hình phạt; tổ chức thi hành án và tái hoà
nhập cộng đồng; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân. Trong tất
cả các yếu tố này thì quyết định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan
trọng nhất vì suy cho cùng, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đảm bảo cho các
yếu tố còn lại thực sự có ý nghĩa và phát huy đƣợc tác dụng trong thực tiễn.
- Quyết định hình phạt đúng là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống
hình phạt. Trong quyết định hình phạt, việc Hội đồng xét xử lựa chọn đúng loại và
mức hình phạt đối với ngƣời phạm tội, kết hợp đƣợc giữa trừng trị với giáo dục
18
ngƣời phạm tội, phù hợp với hoàn cảnh của ngƣời phạm tội chính là điều kiện bảo
đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt trong thực tiễn. Quyết định hình phạt đúng
sẽ làm cho mỗi hình phạt nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung thực sự là công
cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Quyết định hình phạt đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định hình phạt đúng sẽ
tác động đến ý thức của mỗi cá nhân để họ thấy sợ hình phạt mà không dám phạm
tội và quan trọng hơn là nhận thức đƣợc tính nghiêm minh của pháp luật để tự giác
chấp hành pháp luật. Từ đó xác định ý thức và trách nhiệm tham gia tích cực vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo đảm pháp chế trong Nhà
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan trọng
của của chế định quyết định hình phạt, bởi vì, việc quyết định hình phạt đúng pháp
luật, công bằng và hợp lý tuỳ thuộc vào nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó
trong thực tiễn xét xử. Nghiên cứu các nguyên tắc quyết định hình phạt có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn rất lớn. Về mặt lý luận, việc làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định
hình phạt góp phần vào việc nhận thức đƣợc bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa
của chế định quyết định hình phạt, phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình
phạt, đƣa ra phƣơng án tối ƣu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm pháp luật
hình sự. Về mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là quan điểm chỉ đạo, là kim chỉ nam
cho hoạt động của Tòa án khi lựa chọn và quyết định loại, mức hình phạt đối với từng
bị cáo trong từng vụ án cụ thể, là điều kiện cho việc cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết
án đƣợc tốt, góp phần vào việc phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tƣ tƣởng đƣợc thể hiện trong
luật hoặc đƣợc làm sáng tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật. F.Anghen viết: Nguyên
tắc, không phải là đƣợc áp dụng vào thế giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời, mà là
đƣợc rút ra trong giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời; không phải giới tự nhiên và
lịch sử loài ngƣời thích ứng với các nguyên tắc mà trái ngƣợc, nguyên tắc chỉ đúng
19
nếu nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử [3, tr. 56]. Nhƣ vậy, các nguyên tắc có
tính khách quan, không thể đƣợc đặt ra bởi ý chí chủ quan của ngƣời.
Quyết định hình phạt phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: (i) Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa; (ii) Nguyên tắc nhân đạo; (iii) Nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm
hình sự; (iv) Nguyên tắc công bằng [47, tr. 409], [22, tr. 70], [10, tr. 163].
- Nguyên tắc pháp chế
Tƣ tƣởng của nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt
đối với ngƣời phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật
hình sự. Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quyết định hình phạt bởi lẽ chỉ khi
tuân thủ nguyên tắc này thì mới đảm bảo đƣợc các nguyên tắc khác. Vi phạm
nguyên tắc pháp chế sẽ vi phạm các nguyê tắc khác và dẫn đến quyết định hình phạt
không đúng và sẽ làm mất đi ý nghĩa của quyết định hình phạt. Nội dung của
nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, chỉ áp dụng hình phạt đối với hành vi phạm tội đã
đƣợc quy định cụ thể trong luật hình sự. Điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định: Chỉ
ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc luật này quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự. Điều này khẳng định cơ sở của trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở
việc quyết định hình phạt là thẩm quyền của Toà án. Tại phiên toà sau khi xét hỏi,
tranh luận Toà án sẽ đánh giá chứng cứ và đi đến kết luận hành vi của bị cáo có cấu
thành tội phạm cụ thể hay không và quyết định một loại và mức hình phạt cụ thể.
Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ
các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể chỉ tuyên những hình phạt đƣợc Bộ
luật hình sự quy định.
Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có tính xác
định, có căn cứ và lập luận. Tính xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện
ở chỗ, hình phạt quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Về
vấn đề này C. Mác viết: “Nếu như khái niệm phạm tội giả định phải có sự trừng phạt
thì tội phạm thực tế lại giải định phải có mức độ trừng phạt nhất định” [3, tr.169].
Tính có lập luận và căn cứ của bản án đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và
20
làm sáng tỏ các tình tiết có trong vụ án và làm căn cứ cho việc quyết định hình
phạt. Những tình tiết đó phải là những tình tiết đƣợc thẩm vấn, đƣợc kiểm tra lại
trong quá trình xét xử đã đƣợc Hội đồng xét xử đánh giá, nhận xét. Tính có căn cứ
đòi hỏi phải chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt. Đòi hỏi khác của nguyên
tắc pháp chế là tính hợp lý của việc quyết định hình phạt. Tính hợp lý của quyết
định hình phạt thể hiện ở chỗ trong các phƣơng án giải quyết khác nhau mà luật
cho phép, Tòa án phải lựa chọn loại và mức hình phạt, một mặt, phải đúng luật.
Mặt khác, phải phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết cụ thể
của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
- Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình
phạt phải xuất phát từ tƣ tƣởng nhân đạo để áp dụng và tuân thủ triệt để các quy
định của luật hình sự về hình phạt cũng nhƣ quyết định hình phạt. Nguyên tắc nhân
đạo của luật hình sự thể hiện trƣớc hết thể hiện sự khoan hồng của Nhà nƣớc, là
việc đặt mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội lên mục đích hàng đầu, là việc
xem xét tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của ngƣời phạm tội theo quy định của
pháp luật hình sự, là việc xem xét kỹ lƣỡng những đặc điểm tâm, sinh lý cũng nhƣ
hoàn cảnh cụ thể của ngƣời phạm tội để quyết định một loại hình phạt ở mức độ cần
thiết thấp nhất, vừa đủ đảm bảo mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung,
vừa đủ đảm bảo đƣợc mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội cũng nhƣ mục đích
răn đe, ngăn chặn ngƣời khác phạm tội và mục đích khuyến khích, động viên, giáo
dục quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm.
Với tƣ cách là một nội dung quan trọng, không thể thiếu đƣợc của họat động
xét xử, quyết định hình phạt có vai trò hết sức quan trọng trong việc biến mục đích
hình phạt thành hiện thực. Chỉ khi nào quyết định một hình phạt đúng pháp luật,
công bằng, nhân đạo, đáp ứng đƣợc những yêu cầu, mong đợi của nhân dân và của
bản thân ngƣời bị kết án thì khi đó nó mới có thể trở thành tiền đề, điều kiện để đạt
21
đƣợc mục đích của hình phạt, đó là: Mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, mục
đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, răn đe, ngăn ngừa ngƣời khác phạm
tội và khuyến khích, giáo dục, động viên quần chúng nhân dân tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Ngƣợc lại, quyết định một hình
phạt không đúng pháp luật, không công bằng, không nhân đạo thì mục đích trên đây
của hình phạt cũng không thể đạt đƣợc.
Trong quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo thể hiện một cách tập trung
nhất ở chỗ khi quyết dịnh hình phạt tòa án phải cân nhắc và có thái độ đúng đắn đối
với cả lợi ích của Nhà nƣớc, của cộng đồng lẫn với lợi ích của bị cáo trong một tổng
thể thống nhất, biện chứng, hài hòa và hợp lý. Không thể nói đến nhân đạo đƣợc khi
mà Tòa án quyết định hình phạt quá đề cao lợi ích của Nhà nƣớc, của cộng đồng,
rồi hạ thấp, xem thƣờng lợi ích, vai trò, giá trị của bị cáo hoặc ngƣợc lại. Một hình
phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa, bởi nó làm nảy sinh ở chính ngƣời
phạm tội và những ngƣời khác, đặc biệt là những ngƣời đang có ý định phạm tội,
thái độ, cảm giác vô trách nhiệm, coi thƣờng pháp luật. Một hình phạt nhƣ vậy chắc
chắn không đảm bảo việc đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Ngƣợc lại, một hình
phạt quá nặng sẽ làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác cảm giác là không
nhân đạo, không hợp lý, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ tƣởng phải chịu một
hình phạt không tƣơng xứng với hành vi phạm tội của họ, dễ oán hờn, không tin
tƣởng chân lý của pháp luật và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Đến lƣợt mình,
trong trƣờng hợp này hình phạt cũng không đạt đƣợc mục đích của nó. Nói cách
khác, trong quyết định hình phạt, tòa án phải giải quyết một cách hợp lý mối tƣơng
quan giữa cƣỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục, cải tạo của hình
phạt. Lê-nin từng nói: “Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt hoàn toàn không phải
hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ là đã phạm tội thì không thóat khỏi bị trừng phạt.
Điều quan trọng không phải ở chỗ là tội phạm phải bị trừng phạt nặng, mà ở chỗ
không một tội phạm nào không bị phát hiện ra” [39, tr.120].
- Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Đây là nguyên tắc quan trọng trong quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ: khi
quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, ý
22
thức pháp luật, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự để quyết định cho bị cáo một loại và một mức hình phạt cụ thể, phù hợp, tạo
điều kiện cho việc đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Nguyên tắc này đòi hỏi, khi
quyết định hình phạt, Toà án phải nhận thức rằng hình phạt đƣợc áp dụng đối với
một con ngƣời cụ thể với hoàn cảnh sống cụ thể, một tâm sinh lý cụ thể. Do đó, mọi
sự bình quân về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và cào bằng về mặt nhân
thân trong khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội đều biểu hiện của của sự
vi phạm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt có liên
quan đến nhiều chế định khác của Bộ luật hình sự, vì vậy, khi quyết định hình phạt
đối với ngƣời phạm tội cụ thể, Tòa án phải xem xét một cách đầy đủ tất cả các tình
tiết liên quan đến các chế định khác mà Bộ luật hình sự quy định có liên quan đến
việc quyết định hình phạt nhƣ: tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chƣa đạt...
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đƣợc thể hiện trong những quy định của
phần chung Bộ luật hình sự về phân loại tội phạm với các mức cao nhất của khung
hình phạt dành cho tội đó. Bên cạnh đó, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt còn đƣợc
thể hiện trong các quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, các
loại hình phạt các điều kiện áp dụng chúng.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt còn thể hiện trong các chế tài của quy phạm
pháp luật hình sự đối với các tội cụ thể. Các quy định về hình phạt trong phần
chung của Bộ luật hình sự không chỉ là cơ sở cho việc quyết định hình phạt mà là
còn là cơ sở để để quy định phần chế tài ở phần các tội phạm cụ thể. Đó là quy định
chế tài ở phần các tội phạm cụ thể phải tƣơng xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đối với các tội phạm cùng loại có tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội giống nhau thì quy định chế tài nghiêm khắc giống
nhau. Đối với các tội khác loại có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau thì quy
định chế tài có độ nghiêm khắc khác nhau.
Ngoài ra, tƣ tƣởng của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt còn thể hiện ở việc quy
23
định chế tài tƣơng đối và chế tài tuỳ nghi. Các chế tài của quy phạm phần tội phạm
quy định khung hình phạt có hoảng cách khá rộng và với nhiều loại khác nhau cho
phép toà án lựa chọn khi quyết định hình phạt đối với từng ngƣời phạm tội cụ thể.
- Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc của luật hình sự và nó thể hiện trong
việc Quyết định hình phạt. Nguyên tắc công bằng đòi hỏi có sự tƣơng xứng giữa
hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc công bằng đƣợc hiểu ở các
phƣơng diện sau: Ở mức độ lập pháp hình sự, mức độ chế tài của quy phạm pháp
luật và mức độ của việc quyết định hình phạt.
Một hình phạt đƣợc coi là công bằng khi nó xác định đƣợc sự tƣơng xứng
giữa loại và mức hình phạt với mức độ nghiêm trọng của hành vi với nhân thân
ngƣời phạm tội và tất cả các tình tiết khách quan và chủ quan liên quan đến trƣờng
hợp phạm tội này. Hình phạt đã tuyên phải tƣơng xứng với tội phạm đã thực hiện,
nghĩa là tội phạm càng nghiêm trọng và trong những điều kiện khác tƣơng tự nhau
thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngƣợc lại. Bên cạnh đó, khi quyết định hình phạt
cần cân nhắc cả nhân thân ngƣời phạm tội bởi vì mục đích của hình phạt là để tác
động đến ý thức ngƣời phạm tội cụ thể với những đặc điểm nhân cách khác nhau
trong xã hội. Tất cả các yếu tố tính chất mức độ nguy hiểm, nhân thân ngƣời phạm
tội, các tình tiết khác đều phải đƣợc cân nhắc một cách biện chứng khi quyết định
hình phạt. Nếu khi quyết định hình phạt mà quá coi trọng yếu tố này mà bỏ qua yếu
tố kia thì không thể có một hình phạt công bằng.
Nhƣ vậy, để làm căn cứ cho việc quyết định một hình phạt công bằng, Tòa
án cần phải cân nhắc tổng thể tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm của tội phạm đã thực hiện (trong đó có chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt),
nhân thân ngƣời phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự;
ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa [46, tr. 194].
Tóm lại, để áp dụng các nguyên tắc trong quyết định hình phạt đạt hiệu quả
cao cần đáp ứng các yếu tố khách quan và chủ quan nêu trên. Những đảm bảo đó
càng tốt thì hiệu quả áp dụng chúng trên thực tế càng cao, góp phần vào quyết định
hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý.
24
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt
Căn cứ, nếu định nghĩa dƣới góc độ triết học, đó là những hiện tƣợng thể
hiện ra nhƣ một điều kiện cần thiết, một điều kiện để tồn tại một hiện tƣợng khác
nào đó (kết quả) và dùng để giải thích hiện tƣợng này. Nhƣ vậy, căn cứ quyết định
hình phạt là điều kiện cần thiết, là tiền đề tồn tại của nguyên tắc quyết định hình
phạt và đƣợc dùng để giải thích làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định hình phạt và
cả chế định quyết định hình phạt nói chung.
Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc
do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Toà án phải tuân
theo khi Quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm [42, tr.237].
Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản buộc Tòa án phải tuân
theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm. Trƣớc khi Bộ luật hình sự năm 1999
đƣợc ban hành, thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt ” không đƣợc dùng trong
các văn bản pháp luật hình sự mà nó chỉ đƣợc dùng trong các bài viết, các công
trình khoa học của các tác giả hoặc các luật gia; các giáo trình trong các trƣờng đại
học, cao đẳng; các thông tƣ, chỉ thị, các báo cáo tổng kết hoặc sơ kết của Tòa án
nhân dân tối cao. Bộ luật hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ “nguyên tắc quyết định
hình phạt” để nêu các nội dung mà các nội dung đó chính là căn cứ quyết định hình
phạt. Nhận rõ tính thiếu chính xác, không có cơ sở khoa học của việc đồng nhất hai
khái niệm “nguyên tắc” và “căn cứ” quyết định hình phạt nhƣ quy định tại Bộ luật
hình sự năm 1985, nên Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự 2015 đã dùng
thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt” (Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999) thay
cho thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt” (Điều 37 Bộ luật hình sự năm
1985). Theo Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 50 Bộ luật hình sự 2015), thì
khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách hiệm hình sự.
25
Nếu các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tƣ tƣởng chỉ đạo mang
tính chất chung thì các căn cứ quyết định hình phạt là những quy định cụ thể, đƣợc
luật thực định ghi nhận một cách rõ ràng để Tòa án áp dụng trong quá trình áp dụng
hình phạt. Các căn cứ quyết định hình phạt chính là những biểu hiện cụ thể của các
nguyên tắc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án đối
với ngƣời phạm tội, quyết định hình phạt đúng, công bằng và hợp lý là tiền đề, là
điều kiện để đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Để quyết định hình phạt đúng pháp
luật, công bằng và hợp lý đối với ngƣời phạm tội, Tòa án phải tuân theo các nguyên
tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt.
Hiện nay, có quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh về khái niệm này
tƣơng đối hợp lý nhƣ sau: “Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ
bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà
có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội
phạm” [45, tr.272-273]. Trên cơ sở này, dƣới góc độ khoa học, theo chúng tôi, khái
niệm đang nghiên cứu đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Các căn cứ quyết định hình phạt là
những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ luật hình sự quy định mà Hội đồng
xét xử bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định
một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của hình
phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội.
Các căn cứ quyết định hình phạt có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi đƣợc luật hình sự
quy định một cách rõ ràng, đầy đủ. Đó là những quy định tại Điều 45 Bộ luật hình
sự năm 1999 (nay là Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015) bao gồm các quy định của
Bộ luật hình sự; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân
thân ngƣời phạm tội; các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, chính xác, có hiệu quả, căn cứ
quyết định hình phạt bắt buộc phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự và trở thành
chuân mực chung cho việc quyết định hình phạt đối với mọi trƣờng hợp phạm tội.
Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình trạng áp dụng một cách tuỳ tiện và
26
nhằm đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội
Thứ hai, các căn cứ quyết định hình phạt mang tính bắt buộc đối với Tòa án,
tức là trong mọi trƣờng hợp, khi quyết định hình phạt, Toà án phải dựa vào các đòi
hỏi đó của pháp luật hình sự để lựa chọn loại và ấn định mức hình phạt cụ thể
Trong mối quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt
chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật
của hoạt động quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Hội
đồng xét xử phải tuân thủ triệt để các căn cứ đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định
nhằm đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, đúng pháp luật,
phù hợp với đòi hỏi và lợi ích chung của xã hội.
Thứ ba, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi có tính nguyên tắc
vì đó là những biểu hiện, đòi hỏi của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Trên cơ
sở nguyên tắc quyết định hình phạt, nhà làm luật quy định những đòi hỏi cơ bản
buộc Tòa án phải tuân theo. Tính có nguyên tắc của các căn cứ quyết định hình phạt
thể hiện tính thống nhất, mối quan hệ chặt chẽ của các nguyên tắc quyết định hình
phạt và các căn cứ quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án một mặt
phải tuân theo các tƣ tƣởng chỉ đạo (nguyên tắc) nhất định và mặt khác, phải dựa
vào những đòi hỏi (căn cứ) nhất định mới có đủ điều kiện để quyết định ở mức độ
lớn nhất, một hình phạt có khả năng đạt đƣợc các mục đích của hình phạt.
Thứ tư, tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để hình
phạt đƣợc tuyên có khả năng đạt đƣợc các mục đích ở mức cao nhất.
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt.
Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt không phải đƣợc thực hiện một cách
ngẫu nhiên cũng có thể đạt đƣợc các mục đích của hình phạt mà nó phải đƣợc dựa
trên các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Với vị trí là
cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, chính sự tuân thủ căn cứ quyết
định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định đúng và quan trọng hơn
còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó có khả năng đạt đƣợc các mục đích của
hình phạt ở mức cao nhất các nguyên tắc quyết định hình phạt.
27
1.2.2. Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt
Từ khái niệm trên cho thấy ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt nhƣ sau:
Một là, các căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết
định hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội.
Để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt, Hội đồng xét xử phải lựa chọn và
quyết định đƣợc loại hình phạt với mức độ cụ thể trong giới hạn luật định, tƣơng
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Để làm
đƣợc điều đó, việc quyết định hình phạt phải tuân thủ những quy định của pháp luật
hình sự, trong đó, bắt buộc phải dựa vào căn cứ quyết định hình phạt. Căn cứ quyết
định hình phạt là chuẩn mực chung, là cơ sở pháp lý giúp cho Hội đồng xét xử xác
định đúng loại và mức hình phạt cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt mà
điều luật về tội phạm đã quy định.
Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện cần thiết để khắc phục
tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt, đồng thời bảo đảm
tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt.
Căn cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự và có tính
bắt buộc tuân thủ khi quyết định hình phạt đã loại bỏ việc áp dụng tƣơng tự pháp
luật và hạn chế tình trạng áp dụng căn cứ quyết định hình phạt một cách tuỳ tiện.
Đồng thời, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải viện dẫn đầy đủ các căn
cứ quyết định hình phạt trong bản án hình sự. Chỉ nhƣ vậy, bản án đƣợc tuyên mới
đƣợc coi là hợp pháp và có căn cứ. Đây cũng còn là cơ sở để Tòa án cấp trên kiểm
tra, giám sát nhằm bảo đảm tính minh bạch, đúng pháp luật trong xét xử vụ án hình
sự của Tòa án cấp dƣới.
Ba là, việc tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện tiên
quyết để đạt mục đích của hình phạt.
Mục đích của hình phạt chỉ có thể đạt đƣợc trong thực tiễn khi ngƣời phạm
tội bị kết án thừa nhận việc áp dụng loại và mức hình phạt đối với mình là đúng và
28
tự giác thi hành hình phạt đó. Một hình phạt với mức độ nghiêm khắc không cần
thiết sẽ là yếu tố cản trở ngƣời phạm tội tự giác chấp hành hình phạt, làm nảy sinh
thái độ chống đối pháp luật ở ngƣời phạm tội. Ngƣợc lại, một hình phạt nhẹ hơn
mức độ cần thiết của nó sẽ làm cho ngƣời phạm tội không những không sợ mà còn
coi thƣờng pháp luật, không quyết tâm cải tạo để từ bỏ con đƣờng phạm tội. Vì
vậy, để hình phạt vừa đạt đƣợc mục đích trừng trị, vừa giáo dục, cải tạo ngƣời
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội và đáp ứng đƣợc yêu cầu phòng
ngừa chung thì hình phạt đƣợc tuyên phải tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục và
hoàn cảnh thực tế của ngƣời phạm tội. Một hình phạt nhƣ vậy chỉ có thể có đƣợc
khi hình phạt đó là sản phẩm của sự tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác, khoa học
các căn cứ quyết định hình phạt.
Tóm lại, quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật
hình sự, do Tòa án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử), nhân danh Nhà nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào
từng trƣờng hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (các hình phạt chính
và bổ sung), mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do
luật định áp dụng cho chính cá nhân ngƣời phạm tội, phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho ngƣời phạm
tội theo quy định của Bộ luật hình sự.
Để bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoạt động quyết định hình phạt phải
đƣợc thực hiện dựa trên các căn cứ luật định. Căn cứ quyết định hình phạt là những
đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ luật hình sự quy định mà Hội đồng xét xử
bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định một
cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt đƣợc các mục đích của hình phạt
ở mức cao nhất khi áp dụng đối với ngƣời phạm tội bị kết án. Việc tuân thủ căn cứ
quyết định hình phạt sẽ đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định tƣơng xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đảm bảo tính hợp pháp và
có căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, khắc phục tình trạng tuỳ tiện,
29
thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, việc tuân thủ căn cứ quyết định
hình phạt là điều kiện tiên quyết để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt.
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY
ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN
HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu một bƣớc quan
trọng về mọi mặt của Nhà nƣớc ta, trong đó pháp luật giai đoạn này cũng đánh dấu
một thời kỳ mới. Thời gian này, bƣớc đầu Nhà nƣớc mới thành lập đã cho ra đời các
qui định, pháp luật nhằm bảo vệ và duy trì ổn định một Nhà nƣớc còn non trẻ, mang
tính sáng tạo, nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc.
Bản tổng kết về thảo luận báo cáo công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1959
của Tòa án nhân dân tối cao đã hƣớng dẫn: Định tội phải cho đúng chính sách, cho
đúng pháp luật.... Trƣớc hết, chúng ta phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hại
của hành vi phạm pháp để phân biệt phạm pháp nặng hay phạm pháp nhẹ (Ví dụ: ăn
cắp của công nguy hại hơn đụng đến quyền tƣ hữu, giết ngƣời nguy hại hơn đánh
ngƣời...). Chúng ta cũng cần căn cứ vào ngƣời phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án
hay không, khả năng cải tạo, thành tích...) và trƣờng hợp tăng hoặc giảm tội...
Chúng ta chƣa có một bộ hình pháp đầy đủ, mà căn cứ vào pháp luật hiện có, vào
đƣờng lối chính sách chung vào án lệ, kinh nghiệm của chúng ta để xác định tính
chất về mức độ nguy hại của pháp pháp cho đúng.
Cân nhắc hình phạt phải cho đúng chính sách, pháp luật. Hình phạt phải phù
hợp với chính sách, phải có tính chính trị, sách lƣợc. Đây rõ ràng hông phải là vấn
đề nửa cân tám lạng nghĩa là không phải là có số mức hình phạt cố định tỉ mỉ có thể
áp dụng cho bất cứ mọi trƣờng hợp nào xảy ra trong thực tế. Trong thực tế, có rất
nhiều tình tiết phức tạp. Trong trƣờng hợp đó, thì phải tùy tình hình cụ thể, tùy yêu
cầu chính trị từng nơi, từng lúc mà xử lý cho có lợi về chính trị. Kiên quyết xử nặng
30
khi cần thiết và kiên quyết không bỏ tù khi cần thiết, hai cái đó không mâu thuẫn
với nhau. Trái lại đó chính là chính sách xử lý có phần phân biệt của chúng ta. Có
phân biệt xử lý thì quần chúng mới đồng tình mới có lợi về chính trị [33, tr.76].
Nhƣ vậy, có thể nói trong các hƣớng dẫn trên cho thấy các nguyên tắc pháp
chế, cá thể hoá hình phạt, nhân đạo các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc thể
hiện và là đòi hỏi bắt buộc đối với hoạt động quyết định hình phạt.
Các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc ghi nhận rõ hơn trong Báo cáo tổng
kết công tác năm 1962 của Tòa án nhân dân tối cao:
Khi xét xử các vụ án hình sự các Tòa án đã dựa vào ý thức pháp luật xã
hội chủ nghĩa, chú trọng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đến
nhân thân của bị cáo, đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đồng thời vận dụng
đúng đắn chính sách trừng trị kết hợp với giáo dục [33, tr.76].
Có thể nói, hƣớng dẫn trong Báo cáo này là một bƣớc tiến bộ về khoa học
luật hình sự và là tiền đề cho việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong
Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 sau này.
Trong Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) của Tòa án nhân dân tối
cao (trang 35) trong đoạn nói về đƣờng lỗi xét xử đối với các tội chống lại hoặc phá
hoại việc thực hiện chính sách pháp luật của nhà nƣớc, những sai lầm thiếu sót
trong Quyết định hình phạt đã đƣợc chỉ ra, đặc biệt là việc vận dụng yếu tố nhân
thân ngƣời phạm tội và tình hình thực tế đã đƣợc đề cập khi Quyết định hình phạt.
Báo cáo này viết: Nhƣng trong lĩnh vực Quyết định hình phạt cần kiên quyết khắc
phục các hiện tƣợng lệch lạc hoặc quá nhấn một chiều vào tình hình thời chiến và
yêu cầu chính trị của địa phƣơng để lên án một cách tuỳ tiện. Cần thấy rằng nhân
thân “tốt” hay “xấu” cũng chỉ là một căn cứ để lƣợng hình mà căn cứ chủ yếu là
tính chất, mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp” [33, tr.77].
Mặc dù, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào quy định những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhƣng sự ra đời của Công văn số
38-NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao đã đánh dấu một bƣớc tiến
bộ rõ rệt về việc việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong công tác xét xử. Công văn này là sự tổng kết việc áp dụng các tình tiết tăng
31
nặng, giảm nhẹ trong thực tiễn xét xử, đã có tác dụng hạn chế sự tùy tiện trong vận
dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các Tòa án và là tiền
đề cho việc xây dựng điều luật quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 sau này.
Nội dung chủ yếu trong Công văn này nhƣ sau:
a) Về các tình tiết tăng nặng:
Những tình tiết tăng nặng thuộc phƣơng diện khách quan của tội phạm:
- Cộng phạm: cộng phạm có nhiều hình thức, với mức độ nguy hiểm khác
nhau, do đó mà mức độ tăng nặng của tình tiết này cũng khác nhau. Hình thức nguy
hiểm ở mức độ thấp nhất là hình thức cộng phạm thông thƣờng: có nhiều ngƣời
cùng tham gia phạm tội, nhƣng không có thông mƣu trƣớc, hay tuy có thông mƣu
trƣớc, nhƣng chỉ là việc bàn bạc thƣờng có trong các vụ cộng phạm, và không có
vai trò cầm đầu hoặc chủ chốt. Hình thức nguy hiểm ở mức độ cao là hình thức
cộng phạm có tổ chức.
- Xúi giục, lôi kéo ngƣời chƣa thành niên phạm tội. Đây là một tội ác đối với
lớp ngƣời còn non trẻ, trong trắng, đƣa họ vào con đƣờng lƣu manh hóa, trụy lạc
hóa, nên phải coi đây là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Lợi dụng một số hoàn cảnh, tình hình để phạm tội. Đó là việc lợi dụng thiên
tai, địch họa, hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, lợi dụng lũ lụt, hỏa hoạn; lợi
dụng tình hình trật tự trị an diễn biến phức tạp, lợi dụng tình hình quản lý kinh tế
thiếu chặt chẽ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chuyên môn, nghề nghiệp để
phạm tội.
- Sử dụng những phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội có tính chất táo bạo, xảo
quyệt, bỉ ổi, tàn ác, nguy hiểm chung đến tính mạng, sức khỏe nhiều ngƣời.
- Phạm tội đối với những ngƣời cần chú ý bảo vệ về lý do đạo đức, nhân đạo:
trẻ em, ngƣời già, ngƣời ốm đau...
- Phạm tội chống cán bộ đang thi hành công vụ.
- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc phƣơng diện chủ quan
32
của tội phạm: phạm tội với động cơ đê hèn; phạm tội với động cơ hƣởng lạc; có
quyết tâm thực hiện tội phạm cao; có lỗi vô ý nặng.
Những tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội: ngƣời phạm
tội là lƣu manh chuyên nghiệp; tái phạm; ngƣời phạm tội là phần tử ngoan cố không
chịu cải tạo; ngƣời phạm tội là phần tử xấu; ngƣời phạm tội đã có tiền án: đây là
trƣờng hợp trƣớc kia đã bị kết án về một tội nay lại phạm tội nữa, mà không phải là
tái phạm; phạm tội nhiều lần hoặc phạm nhiều tội; ngƣời phạm tội có thái độ xấu
sau khi phạm tội.
b) Các tình tiết giảm nhẹ:
- Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về phƣơng diện khách quan của tội phạm:
kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội
phạm; tự nguyện bồi thƣờng hoặc sửa chữa thiệt hại đã gây ra; chƣa gây tác hại hay
tác hại không lớn; phạm tội do ảnh hƣởng một phần của hoàn cảnh khách quan.
- Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về phƣơng diện chủ quan của tội phạm:
vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong khi ngăn ngừa một hành vi nguy hại
cho xã hội; phạm tội vì bị kích động do hành vi bất hợp pháp của ngƣời bị hại gây
ra; phạm tội vì bị ảnh hƣởng của sự đe dọa hoặc sự cƣỡng bức, vì bị phụ thuộc về
mặt vật chất, công tác hay một mặt nào khác; phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn của bản thân hay gia đình.
- Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội: ngƣời phạm
tội là ngƣời chƣa thành niên; ngƣời phạm tội là phụ nữ có thai; trình độ lạc hậu của
ngƣời phạm tội; trình độ nghiệp vụ tay nghề non kém; phạm tội nhẹ lần đầu; ngƣời
phạm tội tự thú; ngƣời phạm tội thành khẩn khai báo; ngƣời phạm tội lập công
chuộc tội hoặc cải tạo tốt; ngƣời phạm tội là ngƣời có quá trình tốt hoặc là ngƣời có
công; hoàn cảnh khó khăn đáng kể hiện nay của bản thân ngƣời phạm tội hay gia
đình họ; gia đình ngƣời phạm tội là gia đình tốt, gia đình có công.
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp
điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V, nhân dân
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYLuận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sựLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOTĐề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễnLuận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
 

Similar to Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT

Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT (20)

Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAYThi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOTLuận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCMLuận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN TIẾN C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN TIẾN C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜ I CAM ĐOAN Hoàng Văn Tiến
  • 4. MỤC LỤC Trang - Trang phụ bìa - Lời cam đoan - Mục lục - Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.............................9 1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................9 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt ....................................................................9 1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt................................................................16 1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt ..........................................................18 1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................24 1.2.1. Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt ................................................24 1.2.2. Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt..............................................27 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ............................................................................................29 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ....................................29 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999........................32 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT...................................................35 2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............................................................35 2.1.1. Các quy định của Bộ luật hình sự ...............................................................35
  • 5. 2.1.2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội................................................41 2.1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội...........................................................................45 2.1.4. Khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ..............................................................................................48 2.1.5. Khi quyết định hình phạt tòa án căn cứ vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .....................................................................................54 2.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT....................59 2.2.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản ............................................................................59 2.2.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp...................................................................61 2.2.3. Bộ luật hình sự Liên bang Nga....................................................................62 2.2.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.........................................63 2.2.5. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức...................................................64 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ.....65 3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ..............................................65 3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Hà Giang...................65 3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt và việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..........................................................66 3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà giang và những nguyên nhân cơ bản..................71 3.2. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT......................................................................81 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............89 3.3.1. Kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử .................................................................89 3.3.2. Các giải pháp phối hợp khác .......................................................................93 KẾT LUẬN..............................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................97
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tổng số ngƣời bị kết án tại TAND cấp tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 68 Bảng 3.2: Tổng số ngƣời bị kết án tại Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Giang từ 2010 - 2014 68 Bảng 3.3: Tổng hợp các hình phạt đƣợc áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 69 Bảng 3.4: Bảng tổng hợp nhân thân ngƣời phạm tội qua việc xét xử của TAND tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 70
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng phạt. Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người” [43, tr. 63]. Tuy vậy, mặc dù tất cả tội phạm đều có tính nguy hiểm cho xã hội nhƣng mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội là khác nhau, do đó cần có biện pháp xử lý chính xác, phù hợp và công bằng. Trên cơ sở đó, với tƣ cách là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống tội phạm, Bộ luật hình sự Viê ̣t Nam đã quy định về tội phạm và hình phạt với mục đích - “bảo vệ các quyền và tự do của con người với tư cách là những giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm của công dân khác” [6, tr. 672]. Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trƣớc hết ở chỗ Tòa án mới có quyền áp dụng và quyết định hình phạt. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [29]. Tƣơng tự, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân:
  • 8. 2 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác... [31, Điều 2]. Bên cạnh đó, Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định” [30, Điều 26]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc về hình sự đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc quyết định áp dụng với ngƣời phạm tội, không một cơ quan nhà nƣớc nào khác ngoài Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho ngƣời phạm tội. Do đó: Tòa án “vốn là một cơ quan trong hoạt động của mình thể hiện những nguyên tắc pháp luật sâu xa đƣợc quyền đánh giá các quyền chủ thể của con ngƣời, phán quyết ở cấp cuối cùng và phán quyết theo cách là các quyết định của nó dù chỉ liên quan đến một vụ việc cụ thể, nhƣng nó có sức mạnh bắt buộc nhƣ chính là sức mạnh của bản thân pháp luật [48, tr. 145]. Hay nói cách khác, để nâng cao vai trò của pháp luật, "một nguyên tắc khác của ý tƣởng chế độ pháp trị là phải bảo đảm sự bảo vệ của pháp luật, mọi công dân phải đƣợc phép yêu cầu thực hiện các quyền của mình tại Tòa án” [19, tr. 50]. Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt đƣợc các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết án trở thành ngƣời có ích
  • 9. 3 cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngƣợc lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt đƣợc các mục đích đó. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội có đạt đƣợc mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt đƣợc ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt. Nếu Tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt nhƣ là phƣơng tiện chủ yếu để trừng trị ngƣời phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ tƣởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của mình, gây ra oán hờn và không tin tƣởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành. Một hình phạt nhƣ vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho ngƣời phạm tội đƣợc cải tạo, giáo dục để hoàn lƣơng trở thành công dân có ích cho xã hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính ngƣời phạm tội và những ngƣời khác có thái độ coi thƣờng pháp luật; không tạo ra sự tin tƣởng, đồng tình cần thiết để giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [13, tr. 83-84]. Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành đối với ngƣời thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau nhƣ kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ƣu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt đƣợc quyết định áp dụng đối với bị cáo phải đƣợc thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đƣợc công bố một cách công khai khi tuyên án. Hình phạt do Tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án
  • 10. 4 có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhƣng trong mọi trƣờng hợp bao giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa, để bảo đảm sự tƣơng xứng khi quyết định hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân ngƣời phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, hình phạt đƣợc quyết định đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do. Các căn cứ quyết định hình phạt đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính pháp chế, công bằng và nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng chƣa đúng, chƣa chính xác các căn cứ quyết định hình phạt vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, chƣa bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng nhƣ hiệu quả của hình phạt. Bên cạnh đó, trên phƣơng diện lý luận, các căn cứ quyết định hình phạt vẫn chƣa đƣợc đề cập sâu sắc và riêng rẽ. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng quyết định hình phạt không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết phục vụ yêu cầu cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên công tác tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)”. 2. Tình hình nghiên cứu Nhƣ đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt đã đƣợc đề
  • 11. 5 cập nhiều, nhƣng các căn cứ quyết định hình phạt còn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu. Vấn đề chủ yếu đƣợc đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt mà thôi, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau dƣới đây: * Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo ở nƣớc ngoài: 1) C.L.Ten, Tội phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2) P.J.Fizgerald, Luật hình sự và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 3) Doman J. Newman, Giới thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 4) Larry K. Gaines and Roger LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth Publishing, USA, 2006; v.v... * Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, đề tài trong nƣớc: 1) Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người bằng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; 2) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; 3) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007; 5) ThS. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v… * Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nƣớc: 1) Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 3) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 1997; 4) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc
  • 12. 6 sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; 5) Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v... * Còn về các công trình dƣới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Cảm, Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1989; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 5/2000; 3) PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) ThS. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2007; v.v... Nhƣ vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung, mà chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về vấn đề lý luận cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng quy định đó trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quyết định hình phạt. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc áp dụng căn cứ quyết định hình phạt đòi hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tƣợng nghiên cứu là: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở đối tƣợng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu nhƣ sau: - Phân tích khái niệm, nội dung, các nguyên tắc quyết định hình phạt, từ đó, chỉ ra xây dựng khái niệm (các) căn cứ quyết định hình phạt (lƣu ý, căn cứ quyết
  • 13. 7 định hình phạt đƣợc học viên sử dụng ở đây là theo nghĩa rộng và đúng theo tên gọi trong Bộ luật hình sự và nội dung bao gồm cả bốn căn cứ quyết định hình phạt); - Hệ thống hóa quy định về các căn cứ quyết định hình phạt trong lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong đó phân tích quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề này để rút ra nhận xét; - Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt để rút ra đánh giá; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản; - Luận chứng và đƣa ra những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả và chất lƣợng của việc quyết định hình phạt. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng XI, XII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định hình phạt; phân tích, đánh giá nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
  • 14. 8 hành về các căn cứ quyết định hình phạt, đồng thời đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn. Bên cạnh đó, về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến các căn cứ quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trƣờng hợp phức tạp của các căn cứu quyết định hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất phục vụ cho thực tiễn xét xử, tránh vi phạm trong việc áp dụng. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau: Chương 1: Những vấn đề chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt. Chương 3: Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những kiến nghị.
  • 15. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt Pháp luật là đại lƣợng công bằng áp dụng cho những trƣờng hợp khác nhau. Do đó, pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những ngƣời không giống nhau trong thực tế. Ttrong phạm vi đó, làm thế nào để đƣa ra một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của những cơ quan và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Ở đây, việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự đã đƣợc ban hành liên quan chặt chẽ với việc áp dụng có căn cứ và đúng đắn các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật hình sự với việc tuân thủ chính xác và nhất quán các quy định của pháp luật với việc xác định chân lý khách quan của vụ án hình sự. Lần đầu tiên, khái niệm hình phạt đƣợc quy định trong Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là một điểm mới so với Bộ luật hình sự năm 1985. Việc quy định này không những bảo đảm nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn có nhiều mục đích khác nhƣ: giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, bảo đảm tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật hình sự, cũng nhƣ yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bởi lẽ, đề cập tội phạm chúng ta không thể không nhắc đến hình phạt. Tội phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản trong luật hình sự của mọi quốc gia. Tội phạm và hình phạt luôn luôn đi liền với nhau, có nghĩa là giữa tội phạm và hình phạt luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau... [18, tr. 93]. Về nguyên tắc, khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự và thông thƣờng phải chịu hình phạt và ngƣợc lại hình phạt không thể đƣợc áp dụng khi không có tội phạm xảy ra và cũng không áp dụng đối với ai khác ngoài ngƣời đã phạm tội. Do đó, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã nhận định:
  • 16. 10 Chừng nào, Nhà nƣớc còn cần đến luật hình sự và hình phạt, thì hình phạt chỉ đƣợc áp dụng và chỉ cho phép đƣợc áp dụng với tính chất là sự phản ứng Nhà nƣớc và xã hội đối với tội phạm; nó là sự phủ định công khai, quyết liệt của Nhà nƣớc, là sự thể hiện không thể dung thứ của Nhà nƣớc và xã hội đối với các hành vi phạm tội... [35, tr. 37]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc áp dụng theo trình tự riêng biệt cho ngƣời phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện đƣợc mục đích của mình. Hình phạt với tƣ cách là sự hạn chế, tƣớc bỏ những quyền, lợi ích quan trọng nhất của ngƣời phạm tội có những tác động nhất định đến bản thân ngƣời phạm tội cũng nhƣ tác động đến xã hội theo những hƣớng khác nhau tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó đƣợc quyết định thế nào. Luật hình sự đòi hỏi những tác động đó của hình phạt phải đạt đƣợc những kết quả trực tiếp hay nói cách khác là đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết định hình phạt là gì ? Dƣới góc độ lý luận, quyết định hình phạt là một khái niệm hiện nay có nhiều quan điểm không giống nhau. ThS. Đinh Văn Quế đƣa ra định nghĩa mang tính khái quát về quyết định hình phạt nhƣ sau "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 3]. Định nghĩa này đã chỉ ra nội dung quan trọng của quyết định hình phạt là một hoạt động của Toà án đồng thời đó là việc toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ pháp lý của quyết định hình phạt đó chính là các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, định nghĩa này cho thấy chƣa bao quát đƣợc hết hoạt động quyết định hình phạt. Bởi lẽ, quyết định hình phạt là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều thao tác ngoài việc lựa chọn loại hình phạt còn xác định mức hình phạt.Bên cạnh đó, tác giả cho rằng hình phạt áp dụng với “người bị kết án” là chƣa chính xác. Bởi ngƣời bị kết là ngƣời đã có bản án kết tội của Tòa án. Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "Quyết định hình phạt là sự
  • 17. 11 lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [9, tr. 161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ thể hai thao tác quan trọng khi quyết định hình phạt là xác định loại hình phạt và xác định mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động quyết định hình phạt, đối tƣợng bị áp dụng hình phạt là ngƣời phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, ở đây chƣa cho thấy chủ thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là toà án Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm quyết định hình phạt còn đƣợc tiếp cận dƣới góc độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó: Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Bộ luật hình sự, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong luật hình sự tƣơng ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với ngƣời phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [40, tr. 73]. Trong định nghĩa này coi quyết định hình phạt là một giai đoạn trong hoạt động xét xử là chƣa chính xác. Bởi lẽ nói đến giai đoạn trong tố tụng cũng nhƣ trong quá trình xét xử của toà án là nói đến một bƣớc (một khoảng thời gian) độc lập để chủ thể thực hiện hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trƣớc khi lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể toà án còn phải dựa vào các căn cứ nhƣ tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân bị cáo… Những hoạt động này đƣợc thực hiện xuyên suốt quá trình xét xử chứ không phải là một giai đoạn độc lập. Định nghĩa này chỉ ra hình thức của việc quyết định hình phạt đó chính là bản án của Tòa án. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự thì chỉ có bản án kết tội chứ không có bản án buộc tội nếu hiểu theo đúng nghĩa của hoạt động buộc tội trong mối quan hệ với hoạt động gỡ tội, xét xử thì nó thuộc về bên buộc tội thể hiện bằng cáo trạng của Viện kiểm sát. Ngoài ra, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì "quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [20, tr. 317]. Bên cạnh đó, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà
  • 18. 12 Nội thì định nghĩa: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [36, tr. 211]; v.v... Do đó, để làm sáng tỏ một cách đầy đủ nội dung của khái niệm quyết định hình phạt, cần xác định vị trí của quyết định hình phạt trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp gồm nhiều mặt đƣợc tiến hành thông qua các giai đoạn nhất định nhƣ: giải thích quy phạm pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không gian và thời gian, định tội danh và quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và xoá án tích. Các quy phạm pháp luật hình sự cấm việc thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội trƣớc hết bằng sự tuân thủ các quy phạm đó. Bằng cách đó, mục đích của luật hình sự đã đƣợc và nhƣ vậy, quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thực hiện đƣợc chức năng chính, cơ bản của mình Tuy nhiên, bản chất của các quy phạm pháp luật hình sự không bị hạn chế bởi việc công bố các điều cấm nhất định. Mọi quy phạm pháp luật đều có tính chất bắt buộc và cho phép. Quy phạm pháp luật hình sự ngoài việc đƣa ra điều cấm đối với mọi ngƣời còn xác định cả quyền, nghĩa vụ của toà án trong việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự, tức là áp dụng hình phạt trong trƣờng hợp một ngƣời thực hiện hành vi tội phạm. Chức năng thứ hai của quy phạm pháp luật hình sự - quy định về hình phạt chỉ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp Toà án áp dụng quy phạm pháp luật hình sự. Liên quan đến khái niệm quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyết định hình phạt: Đó là quyết định hình phạt đƣợc hiêu theo nghĩa nghĩa hẹp của khái niệm quyết định hình phạt, nghĩa rộng của khái niệm quyết định hình phạt. Theo đó, quyết định hình phạt còn bao gồm cả các hoạt động: xác định ngƣời phạm tội có đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình
  • 19. 13 phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dƣới khung đó [14, tr.65 - 66]. Theo PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên trong sách "Định tội danh và quyết định hình phạt" thì nên coi miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự" [21, tr 62]. Nhƣ vậy, về nội dung pháp lý thì miễn hình phạt là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu hình phạt tức biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất về tội mà họ đã phạm. Miễn hình phạt phải thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt đƣợc thực hiện sau khi Tòa án đã xác định xong tội danh và là bƣớc đầu của quá trình xác định hình phạt. Tác giả Dƣơng Tuyết Miên cho rằng, đối với trƣờng hợp miễn trách nhiệm hình sự cũng nên coi thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi những lý do sau: Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự đƣợc thực hiện sau khi Tòa án đã xác định xong tội danh cho bị cáo nên không thể thuộc giai đoạn định tội danh. Trên cơ sở định tội danh bị cáo đã phạm, Tòa án sẽ xem xét, nếu thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà vẫn đảm bảo đƣợc các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo [21, tr. 62]. Tác giả chia sẽ với quan điểm coi miễn hình phạt là biện pháp xử lý trách nhiệm hình sự chỉ do Tòa án tiến hành trên cơ sở những căn cứ, quy định của Bộ luật hình sự. Miễn hình phạt cũng chỉ đƣợc tiến hành sau khi Tòa án đã định tội danh xong đối với bị cáo. Vì vậy, cần xác định miễn hình phạt phải thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt. Còn đối với quan điểm cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt thì tác giả không đồng ý, bởi lẽ, miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp xử lý hình sự do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành, tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau, nhƣ: Cơ quan điều tra ở giai đoạn điều tra,
  • 20. 14 Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố, hay Tòa án ở giai đoạn xét xử. Nhƣ vậy, ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ các điều kiện đƣợc miễn trách nhiệm hình sự thì vẫn đƣợc các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để miễn trách nhiệm hình sự cho ngƣời đó. Hơn nữa, quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự, do đó nếu cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt là chƣa chính xác ở cả khía cạnh nội dung lẫn khía cạnh chủ thể có thẩm quyền quyết định hình phạt. Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt hay không? Tác giả cho rằng, cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì, định khung hình phạt là việc làm đƣợc thực hiện sau khi định tội danh xong và là hoạt động đầu tiên xác định giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo khung hình phạt đƣợc phép áp dụng, trên cơ sở giới hạn luật định, hình phạt cụ thể sẽ đƣợc quyết định. Mặt khác, việc định tội danh phải đƣợc thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong các cơ quan tố tụng mới xác định khung hình phạt, trong trƣờng hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án đƣơng nhiên không phải xác định khung hình phạt. Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng định khung. Vì vậy, theo tác giả nên coi định khung hình phạt thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Từ những sự phân tích trên, kế thừa các quan điểm khoa học, học viên cho rằng nên định nghĩa khái niệm này nhƣ sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
  • 21. 15 hành vi phạm tội. Trên cơ sở định nghĩa về quyết định hình phạt, có thể rút ra một số đặc điểm của cơ bản của hoạt động quyết định hình phạt nhƣ sau: Một là, quyết định hình phạt là một hoạt động (thực tiễn) áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án sau khi Tòa án đã định tội danh. Ở đây, quyết định hình phạt tuân thủ theo các nguyên tắc, các yêu cầu cũng nhƣ các giai đoạn của áp dụng pháp luật nói chung. Tính đặc thù thể hiện ở chủ thể áp dụng là Toà án. Định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tƣ pháp hình sự. Ngƣợc lại, nếu định tội danh sai đƣơng nhiên sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực nhƣ: không bảo đảm đƣợc tính công minh và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định, dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời không có tội, bỏ lọt ngƣời phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm” [7, tr.17-18]. Do đó, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt Nam, tức là chỉ Tòa án mới có quyền tuyên một ngƣời có tội và áp dụng hình phạt với ngƣời đó. Quyết định hình phạt là hoạt động tƣ duy của các thành viên Hội đồng xét xử cân nhắc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng nhƣ các yếu tố khác để đƣa ra một quyết định hình phạt phù hợp, áp dụng hình phạt; nếu áp dụng hình phạt thì phải lựa chọn một hình phạt nào đó thể hiện sự lên án của nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội [29, Điều 102]. Ngoài ra, để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, chính xác, có hiệu quả, căn cứ quyết định hình phạt bắt buộc phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự và trở thành chuẩn mực chung cho việc quyết định hình phạt đối với mọi trƣờng hợp phạm tội. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình trạng áp dụng một cách tuỳ tiện và nhằm đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của
  • 22. 16 ngƣời phạm tội. Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính bắt buộc Hội đồng xét xử phải tuân thủ để hình phạt được quyết định một cách đúng đắn. Trong mối quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật của hoạt động quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Hội đồng xét xử phải tuân thủ triệt để các căn cứ đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định nhằm bảo đảm cho hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, đúng pháp luật, đáp ứng và phù hợp với đòi hỏi của lợi ích chung. Thứ ba, yêu cầu tuân thủ đúng căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để hình phạt được tuyên có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất. Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt không phải đƣợc thực hiện một cách ngẫu nhiên cũng có thể đạt đƣợc các mục đích của hình phạt mà nó phải đƣợc dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Đến lƣợt mình, với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, chính sự tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định đúng và quan trọng hơn còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó có khả năng đạt đƣợc các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất. 1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt Quyết định hình phạt đƣợc hiểu là việc Tòa án lựa chọn một loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với ngƣời phạm tội. Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn, một nội dung quan trọng của quá trình áp dụng luật hình sự. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật hình sự năm 1999 (sau là Bộ luật hình sự năm 2015) đều quy định chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt. Theo đó, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự tuyên bố áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Điều này thể hiện sự lên án của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội về việc thực hiện tội phạm.
  • 23. 17 Quyết định hình phạt có vai trò vô cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự trƣớc đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng tại phiên tòa) sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng). - Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Nói một cách khác, việc quy định các mục đích của hình phạt phải bảo đảm để: “thứ nhất, mục đích phản ánh một cách tƣơng xứng các lợi ích của nhân dân, thứ hai, mục đích đƣợc quy định trong quy phạm pháp luật cần phải phản ánh tính hiện thực; thứ ba, mục đích cần phải dựa trên những biện pháp mà việc áp dụng nó đƣợc lập luận về mặt đạo đức...” [44, tr. 221]. Ngoài ra, mục đích của hình phạt là kết quả mà Nhà nƣớc đặt ra và mong muốn đạt đƣợc khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, mục đích của hình phạt có đạt đƣợc hay không lại phụ thuộc vào việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử. Quyết định hình phạt bảo đảm tính công minh, đúng pháp luật, tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội là điều kiện bắt buộc để hình phạt đƣợc tuyên đạt đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội. Qua đó, hình phạt cũng phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung đối với các thành viên khác trong xã hội. - Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt [21, tr.64]. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: xây dựng pháp luật hình sự; quyết định hình phạt; tổ chức thi hành án và tái hoà nhập cộng đồng; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân. Trong tất cả các yếu tố này thì quyết định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan trọng nhất vì suy cho cùng, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đảm bảo cho các yếu tố còn lại thực sự có ý nghĩa và phát huy đƣợc tác dụng trong thực tiễn. - Quyết định hình phạt đúng là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt. Trong quyết định hình phạt, việc Hội đồng xét xử lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với ngƣời phạm tội, kết hợp đƣợc giữa trừng trị với giáo dục
  • 24. 18 ngƣời phạm tội, phù hợp với hoàn cảnh của ngƣời phạm tội chính là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt trong thực tiễn. Quyết định hình phạt đúng sẽ làm cho mỗi hình phạt nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung thực sự là công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. - Quyết định hình phạt đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định hình phạt đúng sẽ tác động đến ý thức của mỗi cá nhân để họ thấy sợ hình phạt mà không dám phạm tội và quan trọng hơn là nhận thức đƣợc tính nghiêm minh của pháp luật để tự giác chấp hành pháp luật. Từ đó xác định ý thức và trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo đảm pháp chế trong Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan trọng của của chế định quyết định hình phạt, bởi vì, việc quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý tuỳ thuộc vào nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn xét xử. Nghiên cứu các nguyên tắc quyết định hình phạt có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Về mặt lý luận, việc làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định hình phạt góp phần vào việc nhận thức đƣợc bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình phạt, phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình phạt, đƣa ra phƣơng án tối ƣu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm pháp luật hình sự. Về mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là quan điểm chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hoạt động của Tòa án khi lựa chọn và quyết định loại, mức hình phạt đối với từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể, là điều kiện cho việc cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết án đƣợc tốt, góp phần vào việc phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tƣ tƣởng đƣợc thể hiện trong luật hoặc đƣợc làm sáng tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật. F.Anghen viết: Nguyên tắc, không phải là đƣợc áp dụng vào thế giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời, mà là đƣợc rút ra trong giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời; không phải giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời thích ứng với các nguyên tắc mà trái ngƣợc, nguyên tắc chỉ đúng
  • 25. 19 nếu nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử [3, tr. 56]. Nhƣ vậy, các nguyên tắc có tính khách quan, không thể đƣợc đặt ra bởi ý chí chủ quan của ngƣời. Quyết định hình phạt phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: (i) Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; (ii) Nguyên tắc nhân đạo; (iii) Nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự; (iv) Nguyên tắc công bằng [47, tr. 409], [22, tr. 70], [10, tr. 163]. - Nguyên tắc pháp chế Tƣ tƣởng của nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật hình sự. Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quyết định hình phạt bởi lẽ chỉ khi tuân thủ nguyên tắc này thì mới đảm bảo đƣợc các nguyên tắc khác. Vi phạm nguyên tắc pháp chế sẽ vi phạm các nguyê tắc khác và dẫn đến quyết định hình phạt không đúng và sẽ làm mất đi ý nghĩa của quyết định hình phạt. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, chỉ áp dụng hình phạt đối với hành vi phạm tội đã đƣợc quy định cụ thể trong luật hình sự. Điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định: Chỉ ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc luật này quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này khẳng định cơ sở của trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở việc quyết định hình phạt là thẩm quyền của Toà án. Tại phiên toà sau khi xét hỏi, tranh luận Toà án sẽ đánh giá chứng cứ và đi đến kết luận hành vi của bị cáo có cấu thành tội phạm cụ thể hay không và quyết định một loại và mức hình phạt cụ thể. Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể chỉ tuyên những hình phạt đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có tính xác định, có căn cứ và lập luận. Tính xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ, hình phạt quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Về vấn đề này C. Mác viết: “Nếu như khái niệm phạm tội giả định phải có sự trừng phạt thì tội phạm thực tế lại giải định phải có mức độ trừng phạt nhất định” [3, tr.169]. Tính có lập luận và căn cứ của bản án đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và
  • 26. 20 làm sáng tỏ các tình tiết có trong vụ án và làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt. Những tình tiết đó phải là những tình tiết đƣợc thẩm vấn, đƣợc kiểm tra lại trong quá trình xét xử đã đƣợc Hội đồng xét xử đánh giá, nhận xét. Tính có căn cứ đòi hỏi phải chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt. Đòi hỏi khác của nguyên tắc pháp chế là tính hợp lý của việc quyết định hình phạt. Tính hợp lý của quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ trong các phƣơng án giải quyết khác nhau mà luật cho phép, Tòa án phải lựa chọn loại và mức hình phạt, một mặt, phải đúng luật. Mặt khác, phải phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. - Nguyên tắc nhân đạo Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Tòa án khi quyết định hình phạt phải xuất phát từ tƣ tƣởng nhân đạo để áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng nhƣ quyết định hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự thể hiện trƣớc hết thể hiện sự khoan hồng của Nhà nƣớc, là việc đặt mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội lên mục đích hàng đầu, là việc xem xét tất cả các đặc điểm tốt về nhân thân của ngƣời phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự, là việc xem xét kỹ lƣỡng những đặc điểm tâm, sinh lý cũng nhƣ hoàn cảnh cụ thể của ngƣời phạm tội để quyết định một loại hình phạt ở mức độ cần thiết thấp nhất, vừa đủ đảm bảo mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, vừa đủ đảm bảo đƣợc mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội cũng nhƣ mục đích răn đe, ngăn chặn ngƣời khác phạm tội và mục đích khuyến khích, động viên, giáo dục quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Với tƣ cách là một nội dung quan trọng, không thể thiếu đƣợc của họat động xét xử, quyết định hình phạt có vai trò hết sức quan trọng trong việc biến mục đích hình phạt thành hiện thực. Chỉ khi nào quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng, nhân đạo, đáp ứng đƣợc những yêu cầu, mong đợi của nhân dân và của bản thân ngƣời bị kết án thì khi đó nó mới có thể trở thành tiền đề, điều kiện để đạt
  • 27. 21 đƣợc mục đích của hình phạt, đó là: Mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, răn đe, ngăn ngừa ngƣời khác phạm tội và khuyến khích, giáo dục, động viên quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Ngƣợc lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng, không nhân đạo thì mục đích trên đây của hình phạt cũng không thể đạt đƣợc. Trong quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo thể hiện một cách tập trung nhất ở chỗ khi quyết dịnh hình phạt tòa án phải cân nhắc và có thái độ đúng đắn đối với cả lợi ích của Nhà nƣớc, của cộng đồng lẫn với lợi ích của bị cáo trong một tổng thể thống nhất, biện chứng, hài hòa và hợp lý. Không thể nói đến nhân đạo đƣợc khi mà Tòa án quyết định hình phạt quá đề cao lợi ích của Nhà nƣớc, của cộng đồng, rồi hạ thấp, xem thƣờng lợi ích, vai trò, giá trị của bị cáo hoặc ngƣợc lại. Một hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa, bởi nó làm nảy sinh ở chính ngƣời phạm tội và những ngƣời khác, đặc biệt là những ngƣời đang có ý định phạm tội, thái độ, cảm giác vô trách nhiệm, coi thƣờng pháp luật. Một hình phạt nhƣ vậy chắc chắn không đảm bảo việc đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Ngƣợc lại, một hình phạt quá nặng sẽ làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác cảm giác là không nhân đạo, không hợp lý, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ tƣởng phải chịu một hình phạt không tƣơng xứng với hành vi phạm tội của họ, dễ oán hờn, không tin tƣởng chân lý của pháp luật và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Đến lƣợt mình, trong trƣờng hợp này hình phạt cũng không đạt đƣợc mục đích của nó. Nói cách khác, trong quyết định hình phạt, tòa án phải giải quyết một cách hợp lý mối tƣơng quan giữa cƣỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục, cải tạo của hình phạt. Lê-nin từng nói: “Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt hoàn toàn không phải hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ là đã phạm tội thì không thóat khỏi bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ là tội phạm phải bị trừng phạt nặng, mà ở chỗ không một tội phạm nào không bị phát hiện ra” [39, tr.120]. - Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt Đây là nguyên tắc quan trọng trong quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ: khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, ý
  • 28. 22 thức pháp luật, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định cho bị cáo một loại và một mức hình phạt cụ thể, phù hợp, tạo điều kiện cho việc đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Nguyên tắc này đòi hỏi, khi quyết định hình phạt, Toà án phải nhận thức rằng hình phạt đƣợc áp dụng đối với một con ngƣời cụ thể với hoàn cảnh sống cụ thể, một tâm sinh lý cụ thể. Do đó, mọi sự bình quân về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và cào bằng về mặt nhân thân trong khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội đều biểu hiện của của sự vi phạm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt có liên quan đến nhiều chế định khác của Bộ luật hình sự, vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội cụ thể, Tòa án phải xem xét một cách đầy đủ tất cả các tình tiết liên quan đến các chế định khác mà Bộ luật hình sự quy định có liên quan đến việc quyết định hình phạt nhƣ: tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt... Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đƣợc thể hiện trong những quy định của phần chung Bộ luật hình sự về phân loại tội phạm với các mức cao nhất của khung hình phạt dành cho tội đó. Bên cạnh đó, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt còn đƣợc thể hiện trong các quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, các loại hình phạt các điều kiện áp dụng chúng. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt còn thể hiện trong các chế tài của quy phạm pháp luật hình sự đối với các tội cụ thể. Các quy định về hình phạt trong phần chung của Bộ luật hình sự không chỉ là cơ sở cho việc quyết định hình phạt mà là còn là cơ sở để để quy định phần chế tài ở phần các tội phạm cụ thể. Đó là quy định chế tài ở phần các tội phạm cụ thể phải tƣơng xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đối với các tội phạm cùng loại có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội giống nhau thì quy định chế tài nghiêm khắc giống nhau. Đối với các tội khác loại có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau thì quy định chế tài có độ nghiêm khắc khác nhau. Ngoài ra, tƣ tƣởng của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt còn thể hiện ở việc quy
  • 29. 23 định chế tài tƣơng đối và chế tài tuỳ nghi. Các chế tài của quy phạm phần tội phạm quy định khung hình phạt có hoảng cách khá rộng và với nhiều loại khác nhau cho phép toà án lựa chọn khi quyết định hình phạt đối với từng ngƣời phạm tội cụ thể. - Nguyên tắc công bằng Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc của luật hình sự và nó thể hiện trong việc Quyết định hình phạt. Nguyên tắc công bằng đòi hỏi có sự tƣơng xứng giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc công bằng đƣợc hiểu ở các phƣơng diện sau: Ở mức độ lập pháp hình sự, mức độ chế tài của quy phạm pháp luật và mức độ của việc quyết định hình phạt. Một hình phạt đƣợc coi là công bằng khi nó xác định đƣợc sự tƣơng xứng giữa loại và mức hình phạt với mức độ nghiêm trọng của hành vi với nhân thân ngƣời phạm tội và tất cả các tình tiết khách quan và chủ quan liên quan đến trƣờng hợp phạm tội này. Hình phạt đã tuyên phải tƣơng xứng với tội phạm đã thực hiện, nghĩa là tội phạm càng nghiêm trọng và trong những điều kiện khác tƣơng tự nhau thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngƣợc lại. Bên cạnh đó, khi quyết định hình phạt cần cân nhắc cả nhân thân ngƣời phạm tội bởi vì mục đích của hình phạt là để tác động đến ý thức ngƣời phạm tội cụ thể với những đặc điểm nhân cách khác nhau trong xã hội. Tất cả các yếu tố tính chất mức độ nguy hiểm, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết khác đều phải đƣợc cân nhắc một cách biện chứng khi quyết định hình phạt. Nếu khi quyết định hình phạt mà quá coi trọng yếu tố này mà bỏ qua yếu tố kia thì không thể có một hình phạt công bằng. Nhƣ vậy, để làm căn cứ cho việc quyết định một hình phạt công bằng, Tòa án cần phải cân nhắc tổng thể tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm của tội phạm đã thực hiện (trong đó có chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt), nhân thân ngƣời phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự; ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa [46, tr. 194]. Tóm lại, để áp dụng các nguyên tắc trong quyết định hình phạt đạt hiệu quả cao cần đáp ứng các yếu tố khách quan và chủ quan nêu trên. Những đảm bảo đó càng tốt thì hiệu quả áp dụng chúng trên thực tế càng cao, góp phần vào quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý.
  • 30. 24 1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt Căn cứ, nếu định nghĩa dƣới góc độ triết học, đó là những hiện tƣợng thể hiện ra nhƣ một điều kiện cần thiết, một điều kiện để tồn tại một hiện tƣợng khác nào đó (kết quả) và dùng để giải thích hiện tƣợng này. Nhƣ vậy, căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện cần thiết, là tiền đề tồn tại của nguyên tắc quyết định hình phạt và đƣợc dùng để giải thích làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định hình phạt và cả chế định quyết định hình phạt nói chung. Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Toà án phải tuân theo khi Quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm [42, tr.237]. Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm. Trƣớc khi Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc ban hành, thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt ” không đƣợc dùng trong các văn bản pháp luật hình sự mà nó chỉ đƣợc dùng trong các bài viết, các công trình khoa học của các tác giả hoặc các luật gia; các giáo trình trong các trƣờng đại học, cao đẳng; các thông tƣ, chỉ thị, các báo cáo tổng kết hoặc sơ kết của Tòa án nhân dân tối cao. Bộ luật hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt” để nêu các nội dung mà các nội dung đó chính là căn cứ quyết định hình phạt. Nhận rõ tính thiếu chính xác, không có cơ sở khoa học của việc đồng nhất hai khái niệm “nguyên tắc” và “căn cứ” quyết định hình phạt nhƣ quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985, nên Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự 2015 đã dùng thuật ngữ “căn cứ quyết định hình phạt” (Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999) thay cho thuật ngữ “nguyên tắc quyết định hình phạt” (Điều 37 Bộ luật hình sự năm 1985). Theo Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 50 Bộ luật hình sự 2015), thì khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách hiệm hình sự.
  • 31. 25 Nếu các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tƣ tƣởng chỉ đạo mang tính chất chung thì các căn cứ quyết định hình phạt là những quy định cụ thể, đƣợc luật thực định ghi nhận một cách rõ ràng để Tòa án áp dụng trong quá trình áp dụng hình phạt. Các căn cứ quyết định hình phạt chính là những biểu hiện cụ thể của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án đối với ngƣời phạm tội, quyết định hình phạt đúng, công bằng và hợp lý là tiền đề, là điều kiện để đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Để quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với ngƣời phạm tội, Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt. Hiện nay, có quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh về khái niệm này tƣơng đối hợp lý nhƣ sau: “Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm” [45, tr.272-273]. Trên cơ sở này, dƣới góc độ khoa học, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ luật hình sự quy định mà Hội đồng xét xử bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội. Các căn cứ quyết định hình phạt có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi đƣợc luật hình sự quy định một cách rõ ràng, đầy đủ. Đó là những quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015) bao gồm các quy định của Bộ luật hình sự; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân ngƣời phạm tội; các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, chính xác, có hiệu quả, căn cứ quyết định hình phạt bắt buộc phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự và trở thành chuân mực chung cho việc quyết định hình phạt đối với mọi trƣờng hợp phạm tội. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình trạng áp dụng một cách tuỳ tiện và
  • 32. 26 nhằm đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội Thứ hai, các căn cứ quyết định hình phạt mang tính bắt buộc đối với Tòa án, tức là trong mọi trƣờng hợp, khi quyết định hình phạt, Toà án phải dựa vào các đòi hỏi đó của pháp luật hình sự để lựa chọn loại và ấn định mức hình phạt cụ thể Trong mối quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật của hoạt động quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Hội đồng xét xử phải tuân thủ triệt để các căn cứ đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định nhằm đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, đúng pháp luật, phù hợp với đòi hỏi và lợi ích chung của xã hội. Thứ ba, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi có tính nguyên tắc vì đó là những biểu hiện, đòi hỏi của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Trên cơ sở nguyên tắc quyết định hình phạt, nhà làm luật quy định những đòi hỏi cơ bản buộc Tòa án phải tuân theo. Tính có nguyên tắc của các căn cứ quyết định hình phạt thể hiện tính thống nhất, mối quan hệ chặt chẽ của các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án một mặt phải tuân theo các tƣ tƣởng chỉ đạo (nguyên tắc) nhất định và mặt khác, phải dựa vào những đòi hỏi (căn cứ) nhất định mới có đủ điều kiện để quyết định ở mức độ lớn nhất, một hình phạt có khả năng đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. Thứ tư, tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để hình phạt đƣợc tuyên có khả năng đạt đƣợc các mục đích ở mức cao nhất. Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt không phải đƣợc thực hiện một cách ngẫu nhiên cũng có thể đạt đƣợc các mục đích của hình phạt mà nó phải đƣợc dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, chính sự tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định đúng và quan trọng hơn còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó có khả năng đạt đƣợc các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất các nguyên tắc quyết định hình phạt.
  • 33. 27 1.2.2. Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt Từ khái niệm trên cho thấy ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt nhƣ sau: Một là, các căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt, Hội đồng xét xử phải lựa chọn và quyết định đƣợc loại hình phạt với mức độ cụ thể trong giới hạn luật định, tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Để làm đƣợc điều đó, việc quyết định hình phạt phải tuân thủ những quy định của pháp luật hình sự, trong đó, bắt buộc phải dựa vào căn cứ quyết định hình phạt. Căn cứ quyết định hình phạt là chuẩn mực chung, là cơ sở pháp lý giúp cho Hội đồng xét xử xác định đúng loại và mức hình phạt cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt mà điều luật về tội phạm đã quy định. Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện cần thiết để khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt, đồng thời bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt. Căn cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự và có tính bắt buộc tuân thủ khi quyết định hình phạt đã loại bỏ việc áp dụng tƣơng tự pháp luật và hạn chế tình trạng áp dụng căn cứ quyết định hình phạt một cách tuỳ tiện. Đồng thời, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải viện dẫn đầy đủ các căn cứ quyết định hình phạt trong bản án hình sự. Chỉ nhƣ vậy, bản án đƣợc tuyên mới đƣợc coi là hợp pháp và có căn cứ. Đây cũng còn là cơ sở để Tòa án cấp trên kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm tính minh bạch, đúng pháp luật trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án cấp dƣới. Ba là, việc tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện tiên quyết để đạt mục đích của hình phạt. Mục đích của hình phạt chỉ có thể đạt đƣợc trong thực tiễn khi ngƣời phạm tội bị kết án thừa nhận việc áp dụng loại và mức hình phạt đối với mình là đúng và
  • 34. 28 tự giác thi hành hình phạt đó. Một hình phạt với mức độ nghiêm khắc không cần thiết sẽ là yếu tố cản trở ngƣời phạm tội tự giác chấp hành hình phạt, làm nảy sinh thái độ chống đối pháp luật ở ngƣời phạm tội. Ngƣợc lại, một hình phạt nhẹ hơn mức độ cần thiết của nó sẽ làm cho ngƣời phạm tội không những không sợ mà còn coi thƣờng pháp luật, không quyết tâm cải tạo để từ bỏ con đƣờng phạm tội. Vì vậy, để hình phạt vừa đạt đƣợc mục đích trừng trị, vừa giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội và đáp ứng đƣợc yêu cầu phòng ngừa chung thì hình phạt đƣợc tuyên phải tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục và hoàn cảnh thực tế của ngƣời phạm tội. Một hình phạt nhƣ vậy chỉ có thể có đƣợc khi hình phạt đó là sản phẩm của sự tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác, khoa học các căn cứ quyết định hình phạt. Tóm lại, quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử), nhân danh Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trƣờng hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (các hình phạt chính và bổ sung), mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định áp dụng cho chính cá nhân ngƣời phạm tội, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho ngƣời phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự. Để bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoạt động quyết định hình phạt phải đƣợc thực hiện dựa trên các căn cứ luật định. Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ luật hình sự quy định mà Hội đồng xét xử bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt đƣợc các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với ngƣời phạm tội bị kết án. Việc tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt sẽ đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, khắc phục tình trạng tuỳ tiện,
  • 35. 29 thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, việc tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện tiên quyết để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu một bƣớc quan trọng về mọi mặt của Nhà nƣớc ta, trong đó pháp luật giai đoạn này cũng đánh dấu một thời kỳ mới. Thời gian này, bƣớc đầu Nhà nƣớc mới thành lập đã cho ra đời các qui định, pháp luật nhằm bảo vệ và duy trì ổn định một Nhà nƣớc còn non trẻ, mang tính sáng tạo, nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc. Bản tổng kết về thảo luận báo cáo công tác ngành Tòa án nhân dân năm 1959 của Tòa án nhân dân tối cao đã hƣớng dẫn: Định tội phải cho đúng chính sách, cho đúng pháp luật.... Trƣớc hết, chúng ta phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hại của hành vi phạm pháp để phân biệt phạm pháp nặng hay phạm pháp nhẹ (Ví dụ: ăn cắp của công nguy hại hơn đụng đến quyền tƣ hữu, giết ngƣời nguy hại hơn đánh ngƣời...). Chúng ta cũng cần căn cứ vào ngƣời phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...) và trƣờng hợp tăng hoặc giảm tội... Chúng ta chƣa có một bộ hình pháp đầy đủ, mà căn cứ vào pháp luật hiện có, vào đƣờng lối chính sách chung vào án lệ, kinh nghiệm của chúng ta để xác định tính chất về mức độ nguy hại của pháp pháp cho đúng. Cân nhắc hình phạt phải cho đúng chính sách, pháp luật. Hình phạt phải phù hợp với chính sách, phải có tính chính trị, sách lƣợc. Đây rõ ràng hông phải là vấn đề nửa cân tám lạng nghĩa là không phải là có số mức hình phạt cố định tỉ mỉ có thể áp dụng cho bất cứ mọi trƣờng hợp nào xảy ra trong thực tế. Trong thực tế, có rất nhiều tình tiết phức tạp. Trong trƣờng hợp đó, thì phải tùy tình hình cụ thể, tùy yêu cầu chính trị từng nơi, từng lúc mà xử lý cho có lợi về chính trị. Kiên quyết xử nặng
  • 36. 30 khi cần thiết và kiên quyết không bỏ tù khi cần thiết, hai cái đó không mâu thuẫn với nhau. Trái lại đó chính là chính sách xử lý có phần phân biệt của chúng ta. Có phân biệt xử lý thì quần chúng mới đồng tình mới có lợi về chính trị [33, tr.76]. Nhƣ vậy, có thể nói trong các hƣớng dẫn trên cho thấy các nguyên tắc pháp chế, cá thể hoá hình phạt, nhân đạo các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc thể hiện và là đòi hỏi bắt buộc đối với hoạt động quyết định hình phạt. Các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc ghi nhận rõ hơn trong Báo cáo tổng kết công tác năm 1962 của Tòa án nhân dân tối cao: Khi xét xử các vụ án hình sự các Tòa án đã dựa vào ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, chú trọng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đến nhân thân của bị cáo, đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đồng thời vận dụng đúng đắn chính sách trừng trị kết hợp với giáo dục [33, tr.76]. Có thể nói, hƣớng dẫn trong Báo cáo này là một bƣớc tiến bộ về khoa học luật hình sự và là tiền đề cho việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 sau này. Trong Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) của Tòa án nhân dân tối cao (trang 35) trong đoạn nói về đƣờng lỗi xét xử đối với các tội chống lại hoặc phá hoại việc thực hiện chính sách pháp luật của nhà nƣớc, những sai lầm thiếu sót trong Quyết định hình phạt đã đƣợc chỉ ra, đặc biệt là việc vận dụng yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội và tình hình thực tế đã đƣợc đề cập khi Quyết định hình phạt. Báo cáo này viết: Nhƣng trong lĩnh vực Quyết định hình phạt cần kiên quyết khắc phục các hiện tƣợng lệch lạc hoặc quá nhấn một chiều vào tình hình thời chiến và yêu cầu chính trị của địa phƣơng để lên án một cách tuỳ tiện. Cần thấy rằng nhân thân “tốt” hay “xấu” cũng chỉ là một căn cứ để lƣợng hình mà căn cứ chủ yếu là tính chất, mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp” [33, tr.77]. Mặc dù, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào quy định những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhƣng sự ra đời của Công văn số 38-NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao đã đánh dấu một bƣớc tiến bộ rõ rệt về việc việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong công tác xét xử. Công văn này là sự tổng kết việc áp dụng các tình tiết tăng
  • 37. 31 nặng, giảm nhẹ trong thực tiễn xét xử, đã có tác dụng hạn chế sự tùy tiện trong vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các Tòa án và là tiền đề cho việc xây dựng điều luật quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 sau này. Nội dung chủ yếu trong Công văn này nhƣ sau: a) Về các tình tiết tăng nặng: Những tình tiết tăng nặng thuộc phƣơng diện khách quan của tội phạm: - Cộng phạm: cộng phạm có nhiều hình thức, với mức độ nguy hiểm khác nhau, do đó mà mức độ tăng nặng của tình tiết này cũng khác nhau. Hình thức nguy hiểm ở mức độ thấp nhất là hình thức cộng phạm thông thƣờng: có nhiều ngƣời cùng tham gia phạm tội, nhƣng không có thông mƣu trƣớc, hay tuy có thông mƣu trƣớc, nhƣng chỉ là việc bàn bạc thƣờng có trong các vụ cộng phạm, và không có vai trò cầm đầu hoặc chủ chốt. Hình thức nguy hiểm ở mức độ cao là hình thức cộng phạm có tổ chức. - Xúi giục, lôi kéo ngƣời chƣa thành niên phạm tội. Đây là một tội ác đối với lớp ngƣời còn non trẻ, trong trắng, đƣa họ vào con đƣờng lƣu manh hóa, trụy lạc hóa, nên phải coi đây là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. - Lợi dụng một số hoàn cảnh, tình hình để phạm tội. Đó là việc lợi dụng thiên tai, địch họa, hoàn cảnh chiến tranh, nơi có chiến sự, lợi dụng lũ lụt, hỏa hoạn; lợi dụng tình hình trật tự trị an diễn biến phức tạp, lợi dụng tình hình quản lý kinh tế thiếu chặt chẽ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chuyên môn, nghề nghiệp để phạm tội. - Sử dụng những phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội có tính chất táo bạo, xảo quyệt, bỉ ổi, tàn ác, nguy hiểm chung đến tính mạng, sức khỏe nhiều ngƣời. - Phạm tội đối với những ngƣời cần chú ý bảo vệ về lý do đạo đức, nhân đạo: trẻ em, ngƣời già, ngƣời ốm đau... - Phạm tội chống cán bộ đang thi hành công vụ. - Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc phƣơng diện chủ quan
  • 38. 32 của tội phạm: phạm tội với động cơ đê hèn; phạm tội với động cơ hƣởng lạc; có quyết tâm thực hiện tội phạm cao; có lỗi vô ý nặng. Những tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội: ngƣời phạm tội là lƣu manh chuyên nghiệp; tái phạm; ngƣời phạm tội là phần tử ngoan cố không chịu cải tạo; ngƣời phạm tội là phần tử xấu; ngƣời phạm tội đã có tiền án: đây là trƣờng hợp trƣớc kia đã bị kết án về một tội nay lại phạm tội nữa, mà không phải là tái phạm; phạm tội nhiều lần hoặc phạm nhiều tội; ngƣời phạm tội có thái độ xấu sau khi phạm tội. b) Các tình tiết giảm nhẹ: - Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về phƣơng diện khách quan của tội phạm: kẻ phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; tự nguyện bồi thƣờng hoặc sửa chữa thiệt hại đã gây ra; chƣa gây tác hại hay tác hại không lớn; phạm tội do ảnh hƣởng một phần của hoàn cảnh khách quan. - Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về phƣơng diện chủ quan của tội phạm: vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong khi ngăn ngừa một hành vi nguy hại cho xã hội; phạm tội vì bị kích động do hành vi bất hợp pháp của ngƣời bị hại gây ra; phạm tội vì bị ảnh hƣởng của sự đe dọa hoặc sự cƣỡng bức, vì bị phụ thuộc về mặt vật chất, công tác hay một mặt nào khác; phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay gia đình. - Những tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân ngƣời phạm tội: ngƣời phạm tội là ngƣời chƣa thành niên; ngƣời phạm tội là phụ nữ có thai; trình độ lạc hậu của ngƣời phạm tội; trình độ nghiệp vụ tay nghề non kém; phạm tội nhẹ lần đầu; ngƣời phạm tội tự thú; ngƣời phạm tội thành khẩn khai báo; ngƣời phạm tội lập công chuộc tội hoặc cải tạo tốt; ngƣời phạm tội là ngƣời có quá trình tốt hoặc là ngƣời có công; hoàn cảnh khó khăn đáng kể hiện nay của bản thân ngƣời phạm tội hay gia đình họ; gia đình ngƣời phạm tội là gia đình tốt, gia đình có công. 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V, nhân dân