SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯỚC
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯỚC
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Phước
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ........................................................................................6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam...............................................6
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm
1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................14
1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................19
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ
Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM....................................................................................26
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................26
2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác với một số tội phạm khác..................................................................................44
2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam....................................47
2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản...............................................52
CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG.......................................................................................................................61
3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .........61
3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác...................................66
3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.....................................................69
3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.......................71
KẾT LUẬN..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLHS Bộ luật hình sự
2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
3 CQĐT Cơ quan điều tra
4 CSHS Chính sách hình sự
5 LHS Luật hình sự
6 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
7 TNHS TNHS
8 THTT Tiến hành tố tụng
9 VAHS Vụ án hình sự
10 VKS Viện kiểm sát
11 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
12 XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1
Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn
2013-2018
48
2.2
Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai
đoạn 2013-2018
49
2.3
Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố
ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
giai đoạn 2013-2018
50
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói,
quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính
phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi
nhận và bảo đảm cho quyền con người.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và
quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều
có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị
xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền
được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao
nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy,
có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận và bảo vệ.
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực
đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho
thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu
thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị
2
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có
những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù
hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.
Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội
phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn
là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý
do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu
tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994.
Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm
1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy
Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm
tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa
bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này.
Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
3
người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện
hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn
áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc,
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính
thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan
trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy
định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong
BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy
định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội
phạm này trong BLHS năm 2015.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra
nguyên nhân.
- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS
và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định
BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này.
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được
thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định
pháp luật có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm
sáng tỏ các vấn đề tương ứng.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho
việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây
5
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội
dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía
cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự;
Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm
áp dụng.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con
người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về
thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất,
thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức
độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa
bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và
đâu không phải là tội phạm.
Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học
pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế
thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”
[22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về
7
tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để
phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau:
tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu
hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các
tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm.
Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành
các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu
chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng
có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành.
Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm
phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4,
tr.127].
Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất
rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì
ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm
khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
(Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu
hiệu đặc biệt.
Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội
8
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống,
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60].
Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi
phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu,
khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao
nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho
sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là
tội phạm.
Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành
vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở
lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm
tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả
năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo
của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang
bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt
buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc
9
gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối
với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146].
Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng
cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này.
Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì
vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu
được định nghĩa như sau:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là
là tội phạm trong BLHS.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn
thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy
các BLHS trước đó.
Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản
của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến
hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan
đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt
động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành
tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng
pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành
tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác
10
TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác
định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực
hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?...
Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và
quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định
pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố
gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của
nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự
phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của
hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống
lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người.
Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia
nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà
luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe
của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau:
Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con
người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế
Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính
phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc
tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng
điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như
11
nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể
hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần
được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn
trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con
người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49].
Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của
LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4,
Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3);
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ
và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt
một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ
hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50].
Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng
để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người
đó (Điều 7). [15, tr.220]
Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp
và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các
quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người
khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp
quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ
thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những
quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã
khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá
trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội
12
phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại
bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37].
Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe
được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt
Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con
người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ,
tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con
người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa
luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con
người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam
Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người
là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như
không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực
vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và
bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó
chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được
bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh.
Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo
đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm
tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ
quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm
về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về
13
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác.
Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và
quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải
bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người
nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người
khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ
muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến
quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người
phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh
của pháp luật và công bằng xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số
nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên
vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong
đó đề cập đến các tội phạm này.
Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những
nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy
định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong
BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật.
Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62]
Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là
nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người
có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội.
Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp
cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh
14
hưởng sâu sắc đến đời sống chung của cả cộng đồng. Cá nhân không khỏe thì cộng
đồng mất đi một thành viên tích cực. Mặt khác, nếu cá nhân đó rơi vào trạng thái
ốm đau, bệnh tật, thì Nhà nước, xã hội cũng phải đầu tư nhiều nguồn lực cho việc
chăm sóc y tế, trợ giúp cho cá nhân đó. Lúc này, vấn đề sức khỏe đã vượt ra ngoài
phạm vi của mỗi cá nhân mà nó thực sự trở thành đối tượng phải chăm lo chung của
cả cộng đồng. Cũng vì lẽ đó, Nhà nước ta đề ra Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong
đó xác định rõ: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của
mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các
cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
xã hội nghề nghiệp” [32].
Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe của nhân dân với ý
nghĩa là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà
nước ta đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ sức khỏe của con người, mà
trước hết là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, khi sức khỏe con người
bị tác động bởi hành vi nguy hiểm của xã hội thì với chức năng của mình, LHS phải
tạo ra các quy định, chế tài phù hợp để xử lý tội phạm xâm hại đến sức khỏe người
khác, đảm bảo sự công bằng của xã hội. Từ đó, các quy định này cũng góp phần
phòng ngừa tội phạm, giáo dục và nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho mọi
người, xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình cũng như của người
khác cho mọi cá nhân.
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng
tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1985
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ.
Vì vậy, đây là thời kì lập pháp nước ta bị gián đoạn. Bằng chính sách chia để trị,
thực dân Pháp đã dùng ba BLHS khác nhau để áp dụng trên ba miền đất nước. Ở
Bắc Kỳ, chúng ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt
15
hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Trong các Bộ luật này đều có
điều khoản quy định liên quan đến tội xâm phạm sức khỏe của người khác.[24, tr.66]
Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
kiểu mới được hình thành với những thay đổi về áp dụng pháp luật. Do bộ máy
chính quyền mới hình thành kèm theo đó là nhiều những biến động lịch sử nên
nước ta chưa có điều kiện để ban hành luật mới, do đó Nhà nước ta đã cho phép
áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc - phong kiến, cố nhiên là các quy
định trong đó không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân
chủ cộng hòa của nước ta.
Đến năm 1955, để mở đầu cho những thay đổi mạnh mẽ về pháp luật hình
sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích cho người khác nói riêng, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc
trừng trị một số tội phạm. Trong đó, điểm 3 của Thông tư có quy định hành vi
đánh bị thương: phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm; đánh bị thương có tổ chức hay
gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm... [26, tr.326].
Không những vậy, Điều 4 của Thông tư 442/TTg còn quy định: “Không
cẩn thận... mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 03 tháng
đến 03 năm. Nếu gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm”
[26, tr.356].
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, các văn
bản quy phạm pháp luật của thực dân và phong kiến lúc này không còn phù hợp.
Do đó, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 19/VHH-HS yêu cầu các
Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân - phong kiến nữa. Thông tư này ra đời
đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 và cùng với Chỉ thị số 772/TATC
được TANDTC ban hành ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ
của đế quốc và phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo
ra bước ngoặc đổi mới cho pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như quy
định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng.
Thời kỳ sau năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, đất nước được
16
thống nhất, Nhà nước ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ
hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong đó, các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định trong Sắc luật số 03-SL/76
của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và được áp
dụng trên cả nước. Cụ thể hơn, điểm b Điều 5 Sắc luật quy định rất rõ nếu ai
phạm tội cố ý gây thương tích, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Thậm chí,
trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm.
Bên cạnh đó, TANDTC hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các
cấp, trong đó có Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các
hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nhờ đó, có sự phân biệt
được một số trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác, các Tòa án tránh sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
Quá trình xây dựng đất nước đã tạo điều kiện để nước ta chú trọng hơn về
vấn đề lập pháp hình sự. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS đầu tiên
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt cột mốc vô cùng quan trọng trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và
quy định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng, trong
đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được
quy định tại Chương II với các tội phạm cụ thể bao gồm: Tội xâm phạm tính mạng
hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 109); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110); tội vô ý gây
thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 111) và tội
hành hạ người khác (Điều 103) [19]. Để các quy định này được thực thi, liên ngành
Trung ương bao gồm TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành một loạt
các văn bản hướng dẫn thi hành nhóm tội phạm này [13, tr.69]. Trong đó, phải kể
17
đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS đã hướng
dẫn cách thức phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại sức
khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe; mô tả một số tình tiết gây thương tích có tính
nguy hiểm cao, có tính côn đồ,... [9, tr.169-170]. Hay Nghị quyết số 01/1989/HĐTP
ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn tình tiết gây
thương tích dẫn đến chết người phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ
thương tật từ 31% trở lên, gây tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các
bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân. Mặt khác, vẫn coi là cố ý gây thương tích dẫn
đến chết người trường hợp không phải là thương tích nặng, nếu nạn nhân là người quá
già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho họ chết sớm hơn [9, tr.242-243].
Không dừng lại ở đó, BLHS năm 1985 được ban hành đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần đó, các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác được sửa đổi hai lần. Lần thứ nhất, ngày
28/12/1989, quy định bổ sung thêm trường hợp: “gây thương tích cho nhiều người
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người” tại khoản 2 Điều 109. Lần thứ hai,
sửa cụm từ “sử dụng vũ khí” thành “dùng vũ lực”; sửa cụm từ “Phạm tội làm chết
nhiều người...” thành “Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp
nghiêm trọng khác” tại khoản 1 Điều 103. Các bổ sung này ít nhiều đã góp phần rất
lớn trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sức khỏe.
Qua đó, tạo tiền đề phân định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với các tội xâm phạm sức khỏe khác.
Tuy nhiên, sau khi được ban hành, BLHS năm 1985 dù đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang chưa theo kịp tình hình kinh tế - xã hội trong
nước cũng như tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến
đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội. Đó là đòi hỏi phải có BLHS mới với các
quy định phù hợp hơn, đáp ứng các yêu cầu của thời đại.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2000.
Đến năm 2009, Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
18
một số điều của BLHS và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong BLHS
này, các nhà làm luật quy định tất cả bảy tội xâm phạm sức khỏe của người khác.
Có thể nói, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã phân hóa rõ ràng hơn các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác bằng việc tách nội dung một số điều luật để
quy định thành những tội danh [11, tr.15], cụ thể như sau:
Một là, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
(Điều 109 BLHS năm 1985) được tách làm ba tội riêng biệt: Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) [20];
Hai là, tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 110 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội khác nhau: Tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109);
Ba là, tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ (Điều 103 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội gồm: Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107).
Quá trình áp dụng BLHS năm 1999, để làm rõ thêm nội dung chưa rõ và tháo
gỡ các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã
ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong đó,
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS đã giải thích khá cụ thể và rõ ràng về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho
nạn nhân” ở điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS hướng dẫn cụ
thể việc áp dụng các tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội nhiều lần đối
với cùng một người hoặc đối với nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo của mình”
19
tại các điểm a, c, đ khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Qua đó, tránh các nhận thức
pháp luật khác nhau và thống nhất việc áp dụng, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả.[13, tr.83]
1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Quá trình lập pháp của Việt Nam đều có sự tiếp thu có chọn lọc các yếu tố
hợp lý của pháp luật một số nước trên thế giới. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng,
trong lĩnh vực hình sự, Việt Nam có sự học tập các nội dung, kỹ thuật lập pháp chủ
yếu là của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản.
Đối với Liên bang Nga (trước đây là Liên Xô), khoa học pháp lý hình sự của
Việt nam từ khi hình thành đến khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985 đã chịu ảnh
hưởng lớn của khoa học pháp lý hình sự của của nước này. Nhiều nhà khoa học
pháp lý hình sự của Việt Nam hiện nay đã từng được đào tạo tại các trường Đại học
hoặc cấp, bậc nghiên cứu khác nhau ở Liên Xô. Do đó, quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Việt
Nam cũng khá tương đồng về nội dung và kỹ thuật lập pháp với BLHS của Cộng
hoà Liên bang Nga. Đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, từ thời phong kiến thì
pháp luật Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến BLHS của Việt Nam. Hiện nay,
cùng là nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, giữa Trung Hoa và Việt Nam
luôn có sự giao thoa văn hóa – pháp luật. Vì vậy, quy định về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Trung Quốc
cũng có vài nét gần giống với BLHS của nước ta. Còn đối với Nhật Bản, đây là
nước có quy trình, kỹ thuật lập pháp vô cùng chặt chẽ, do đó, những quy định pháp
luật hình sự của họ luôn có những điểm đặc biệt cần học hỏi.
Nghiên cứu BLHS các nước trên là tiền đề để chúng ta tiếp tục hoàn thiện
quy định BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này tại Việt
Nam. Việc tìm hiểu các quy định tương tự trong BLHS Liên bang Nga, Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản đồng thời so sánh với quy định trong BLHS nước
ta giúp chúng ta tìm thấy và vận dụng các giá trị phù hợp vào điều kiện của Việt Nam.
20
1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Ngày 24/5/1996, BLHS Liên bang Nga được Hạ viện của Quốc hội Liên
bang thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau đó BLHS này được sửa đổi,
bổ sung nhiều lần, mới nhất là lần vào ngày 01/7/2010. Xuất phát từ nguyên nhân
lịch sử, ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có thể tìm thấy nhiều điểm
tương đồng nhau. Theo Điều 1 BLHS Liên bang Nga thì: “Pháp luật hình sự Liên
bang Nga bao gồm BLHS này và các luật mới ban hành xem xét TNHS sẽ trở thành
bộ phận của Bộ luật này” [27, tr.12].
Như vậy, từ quy định mang tính chất nguyên tắc nêu trên, có thể khẳng định
nguồn cơ bản của BLHS Liên bang Nga có phần giống Việt Nam. Trong BLHS của
họ, các tội xâm phạm sức khỏe người khác cũng được quy định đầy đủ, trong đó các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định tại Chương 16 với 11 điều
luật (từ Điều 111 đến Điều 119 và Điều 124, Điều 125). Trong đó, tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định ở 3 điều
luật cụ thể:
- Tội cố ý gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 111), thì bị phạt tù từ
02 năm đến 08 năm; khoản 3 là đến 15 năm [27, tr.166];
- Tội cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 112), thì bị phạt
tù đến 03 năm; khoản 2 là đến 05 năm [27, tr.168];
- Tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 115), thì bị phạt
giam giữ đến 04 tháng; khoản 2 là đến 02 năm [27, tr.172];
Qua nghiên cứu các quy định trên trong BLHS Liên bang Nga, đối chiếu với
quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS Việt Nam, có thể thấy rằng:
Một là, các nhà làm luật Liên bang Nga dành một sự quan tâm đặc biệt đối với
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi quy
định hành vi lên đầu Chương xâm phạm về sức khỏe của BLHS. Điều này cho thấy
sự ưu tiên trong tư tưởng lập pháp của Liên bang Nga đối với vấn đề quyền con
người nói chung và quyền bảo vệ sức khỏe của con người trong BLHS nói riêng.
21
Hai là, khác với BLHS Việt Nam, Liên bang Nga xem hành vi gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác đã bao hàm luôn hành vi cố ý gây thương tích. Vì vậy,
họ không chia ra thành hai hành vi cụ thể giống Việt Nam là cố ý gây thương tích
và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này có lẽ xuất phát từ
việc hành vi cố ý gây thương tích, xét đến cùng, là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe
con người, chỉ là khác nhau ở tính chất, mức độ.
Ba là, so với Việt Nam, BLHS của Liên bang Nga đã có sự đã phân hóa hành
vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thành ba dạng
cụ thể, thể hiện các tính chất, mức độ của hành vi và tương ứng với đó là các mức
hình phạt khác nhau. Theo đó, hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
bao gồm: cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe; cố ý gây tổn hại nghiêm
trọng đến sức khỏe và cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe.
Như vậy, mặc dù có những điểm chung về lập pháp, nhưng quy định tương tự
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
BLHS Liên bang Nga có nhiều điểm khác biệt so với Việt Nam. Khách quan mà nói,
các quy định của họ đơn giản hơn và phân hóa hành vi cũng như TNHS rõ ràng hơn
chúng ta. Vì vậy, thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cần phải có sự chọn lọc, tiếp thu đầy
đủ các nhân tố hợp lý trong lập pháp của Liên bang Nga để góp phần hoàn thiện thêm
quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS.
1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ban hành BLHS vào
ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Bộ luật này được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần, gần đây nhất là sửa đổi vào năm 2007.
Liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, BLHS Trung
Quốc quy định cụ thể tại Chương IV với 06 điều luật chính, bao gồm: hành vi cố ý
gây thương tích cho người khác (Điều 234); hành vi vô ý gây thương tích nặng cho
người khác (Điều 235); hành vi giam giữ trái pháp luật người khác hoặc bằng các
thủ đoạn khác tước đoạt phi pháp quyền tự do thân thể của người khác (Điều 238);
22
hành vi của nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc
dùng vũ lực bức cung nhân chứng (Điều 247); hành vi của nhân viên quản giáo của
nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị
giám quản, nếu có tình tiết nghiêm trọng (Điều 248) và hành vi ngược đãi thành viên
trong gia đình, có tình tiết xấu xa (Điều 260) [6; tr.156-168].
Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được quy định tại
Điều 234 BLHS Trung Quốc. Theo đó, người nào có hành vi cố ý gây thương tích cho
người khác, thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế [6, tr.156];
Trên cở sở nghiên cứu quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người
khác trong BLHS Trung Quốc, so sánh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác của BLHS Việt Nam, có thể đưa ra các nhận xét sau đây:
Thứ nhất, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác trong BLHS Trung
Quốc không được nêu thành tội danh mà chỉ mô tả hành vi phạm tội trong nội dung
của điều luật. Còn đối với Việt Nam, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được gọi tên rất cụ thể tại Điều 134 BLHS năm 2015.
Thứ hai, khác với Việt Nam, BLHS Trung Quốc chỉ đề cập đến hành vi cố ý
gây thương tích chứ không thể hiện hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Điều này khác với cả BLHS Liên bang Nga, nhưng nhìn ở góc độ kỹ thuật lập
pháp, thì dường như ở hai nước này lại có điểm chung là hành vi cố ý gây thương
tích đã bao hàm trong đó nội dung gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
ngược lại. Có thể thấy, các nhà làm luật của Việt Nam có sự tiếp thu quy định của
hai nước, đồng thời cho rằng, đây là hai loại hành vi cần có sự phân biệt để phân
hóa TNHS, vì vậy, Việt Nam quy định cả hai hành vi này trong cùng một điều luật.
Thứ ba, về hình phạt, BLHS Trung Quốc quy định chế tài đối với hành vi cố
ý gây thương tích cho người khác có sự đa dạng so với Việt Nam. Bên cạnh hình
phạt tù, BLHS còn mở rộng khi quy định các chế tài khác ngoài tù gồm lao động cải
tạo và quản chế. Có lẽ, trong tư duy của nhà làm luật Trung Quốc, đối với loại hành
vi phổ biến như cố ý gây thương tích thì việc quy định các chế tài ngoài tù là phù
hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, việc quy định này sẽ giảm được áp lực cho các cơ sở giam
23
giữ, hơn nữa đối với các hành vi cố ý gây thương tích có mức độ ít nghiêm trọng thì
việc quản chế hoặc lao động có lẽ mục đích cải tạo sẽ hữu hiệu hơn.
Như vậy, BLHS Trung Quốc chưa có sự phân hóa trong hành vi cố ý gây
thương tích cho người khác triệt để bằng Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về hành vi
cố ý gây thương tích cho người khác lại được tinh gọn. Đặc biệt, chế tài xử lý đối
với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được mở rộng sang các hình phạt
khác như lao động cải tạo, quản chế. Đây là điểm tiến bộ, thiết nghĩ, khi điều kiện
kinh tế - xã hội cho phép, Việt Nam chúng ta nên học hỏi để áp dụng cho phù hợp.
1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản
Nhật Bản ban hành BLHS vào năm 1908. Sau đó, BLHS này chỉnh lý nhiều
lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung vào năm 2011. Bộ luật có 40 chương và
264 điều. Các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định tại chương 27
và 28 bao gồm 10 điều bao gồm: tội gây thương tích (Điều 204); tội gây ra thương
tích dẫn đến chết người (Điều 205); tội vào hùa tại hiện trường (Điều 206); tội đặc
lệ của việc đồng thời gây ra thương tích (Điều 207); tội hành hung (Điều 208); tội
lái xe nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người (Điều 208-2); tội tập hợp và tụ
tập chuẩn bị hung khí (Điều 208-3); tội sơ ý gây ra thương tích (Điều 209); tội sơ ý
dẫn tới chết người (Điều 210); tội bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích
hoặc chết người (Điều 211). [10, tr.158-162].
Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích được quy định Điều 204 và đứng đầu
chương 27 BLHS Nhật Bản (nhóm tội gây thương tích với lỗi cố ý). Theo đó, người
nào phạm tội gây thương tích, thì bị phạt tù dưới 15 năm hoặc phạt tiền dưới 50 vạn
Yên [10, tr.158].
Qua nghiên cứu quy định nói trên của BLHS Nhật Bản, đối chiếu với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt
Nam, có thể đưa đến một số nhận định như sau:
Thứ nhất, BLHS Nhật Bản quy định tội danh về cố ý gây thương tích rất
ngắn gọn, súc tích (Tội gây thương tích). Điều này xuất phát từ việc BLHS của họ
đã chia nhóm tội xâm phạm sức khỏe thành hai chương riêng biệt: Chương 27 là
24
nhóm tội (cố ý) gây thương tích; Chương 28 là nhóm tội sơ ý gây thương tích.
Thứ hai, ngoài hình phạt tù, BLHS Nhật Bản còn cho phép áp dụng hình phạt
tiền đối với hành vi gây thương tích. Đây là điểm khác biệt với Việt Nam, việc áp
dụng hình phạt tiền của chúng ta chỉ mang tính chất là hình phạt bổ sung chứ không
phải là hình phạt chính. Đặc biệt, nhìn ở phương diện tư duy lập pháp, các nhà làm
luật Việt Nam rất coi trọng khách thể là sức khỏe con người nên việc áp dụng hình
phạt tiền là không thể. Điều này bắt nguồn từ cách nhìn nhận tầm quan trọng khách
thể xâm hại có sự khác nhau giữa hai nước. Song, ở tương lai, khi văn hóa - pháp lý
nước ta được nâng cao, có lẽ việc quy định thêm hình phạt tiền cần phải được xem
xét, học hỏi áp dụng.
Thứ ba, BLHS Nhật Bản đã tách tội gây thương tích và tội gây thương tích
dẫn tới chết người thành hai điều luật riêng biệt, còn Việt Nam lại quy định đó là
tình tiết tăng nặng TNHS ngay trong điều luật quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Như vậy, BLHS Nhật Bản cũng có những điểm gần với BLHS Việt Nam
trong việc quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, quy định về tội gây thương tích của Nhật Bản súc tích hơn.
Bên cạnh đó, các chế tài áp dụng đối với hành vi gây thương tích cũng đa dạng và
có phần nhẹ hơn. Đây là các điểm khác biệt mà nếu điều kiện cho phép, chúng ta
nên vận dụng vào lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng sau này.
25
Tiểu kết chương 1
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là bộ phận quan trọng của quyền con
người được pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng thừa nhận.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quy định
đã được hình thành, xây dựng, và hoàn thiện qua các thời kỳ của pháp luật hình sự
Việt Nam dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng mang nội hàm giống nhau nhằm bảo
vệ quyền chính đáng của con người. Do đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan
tâm làm rõ, đặc biệt trong sách báo pháp lý hình sự Việt Nam. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác đã được góp ý, sửa đổi để phù hợp với tình hình tội phạm.
Mặt khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
không chỉ được xem xét ở góc độ lịch sử lập pháp trong nước mà còn có sự đối
chiếu, so sánh với các quy định trong LHS một số nước trên thế giới. Qua đó,
Chương 1 đã khái quát những đặc điểm cơ bản, đặc điểm riêng của các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó tạo cơ sở lý luận
vững chắc để nghiên cứu sâu hơn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, từ đó tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam.
26
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS
năm 2015. Đây là BLHS mới đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập
pháp hình sự với nhiều thay đổi đáng kể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 và đứng
đầu trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Theo đó, tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có các dấu hiệu pháp lý
như sau:
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ
bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức
độ nhất định.
Theo đó, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xâm phạm đến quyền được tôn trọng, quyền được bảo vệ về
sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ.
Người khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống và tồn tại
theo quy luật tự nhiên mà không phải là chính bản thân người thực hiện hành vi
phạm tội. Nếu trong trường hợp một người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của chính bản thân mình để trốn tránh nghĩa vụ phải làm thì tùy trường
hợp cụ thể có thể bị xem xét TNHS theo quy định của pháp luật.
27
Ví dụ như Nguyễn Văn B đã đến tuổi đi nghĩa vụ quân sự nhưng do bản thân
không muốn thực hiện nghĩa vụ quân sự nên B đã có hành vi “tự gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Trong trường hợp này, B có thể bị truy cứu TNHS về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân
sự” theo quy định tại Điều 232 BLHS năm 2015.
Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan, bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả
của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội
phạm; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn; thời gian, không gian, nơi xảy
ra hành vi phạm tội....
Trong đó, hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con
người ra bên ngoài thế giới khách quan qua những hình thức cụ thể nhằm đạt được
những mục đích đã định trước.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã
hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được xem là nguyên nhân (hành
vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (hậu quả của tội phạm).
Như vậy, mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được biểu hiện qua các dấu hiệu sau:
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật sự, thể hiện mong
muốn của người phạm tội.
Người phạm tội phải có hành vi tác động trực tiếp lên thân thể của người
khác như đâm, chém, đấm đá, đầu độc,… bằng cách sử dụng tay, chân hoặc sử dụng
những công cụ, phương tiện, vũ khí đa dạng như gạch, đá, gậy gộc, dao, búa, súng,
mã tấu,… nhằm mục đích làm cho người này bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức
khỏe. Ngoài ra người phạm tội thực hiện hành vi tác động gián tiếp lên cơ thể người
28
khác thông qua hình thức sử dụng súc vật như chó, thú dữ,…
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội
nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc có ý thức để
mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thông thường hay để lại những thương tích, dấu tính nhất định
trên cơ thể như: vết rách trên da cho bị dao chém, vết bầm tím do bị đánh bằng gậy,
vết bỏng do bị tạt axit… Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp hành vi phạm tội
không để lại thương tích, dấu vết trên thân thể mà để lại những tổn hại cho sức khỏe
của người khác như: bị đầu độc bằng thuốc độc dẫn đến suy kiệt về sức khỏe trong
thời gian dài,…
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội
phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là hành vi phạm tội phải gây ra thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tội phạm mới hoàn thành, hay phải có
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe trên thực tế thì người thực hiện hành vi phạm
tội mới có khả năng bị truy cứu TNHS. Như vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải
có của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Theo đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác phải gây ra hậu quả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
biểu hiện qua tỷ lệ tổn thương cho cơ thể được đánh giá, xác định một cách kỹ càng
thông qua giám định của hội đồng giám định pháp y trong mọi trường hợp. Tỷ lệ
tổn thương cơ thể vừa là yếu tố định tội, vừa là yếu tố định khung tăng nặng TNHS.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể càng cao thì khung hình phạt quy định cũng như hình phạt
được áp dụng càng cao.
Kế thừa Điều 104 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác vẫn được cấu tạo theo hướng lấy tỷ lệ thương tật làm
căn cứ xác định TNHS đối với người phạm tội. Đồng thời, do yêu cầu của công
29
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật còn quy định thêm một số
trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới
mức quy định nhưng vẫn có thể bị truy cứu TNHS.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị
truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác khi gây ra hậu quả mà tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% đến 30%
hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng
gây nguy hại cho nhiều người:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ
và công cụ hỗ trợ năm 2017, vũ khí được hiểu là “thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp
những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại
cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí
quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác
dụng tương tự”.
Đồng thời, Khoản 7 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ năm 2017 hướng dẫn vật liệu nổ là “sản phẩm dưới tác động của xung
kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát
sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm: Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản
xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích; phụ kiện
nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng
tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có
chứa thuốc nổ”.
Tại tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
của TANDTC hướng dẫn dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc
phương tiện nguy hiểm để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Trong đó, vũ khí là gì đã được giải thích còn phương tiện nguy hiểm là
“công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người
(trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm
30
phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội
có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ
gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Về công cụ,
dụng cụ, ví dụ như búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn... Về vật mà người
phạm tội chế tạo ra, ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... Về vật có sẵn trong tự
nhiên, ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, thanh sắt...” (theo Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị
quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn).
Bên cạnh đó, dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là
trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội bằng cách dùng thủ đoạn
không chỉ nhằm xâm hại một người nào đó mà thủ đoạn này còn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người. Ví dụ đặt khúc gỗ ngang đường giao thông khuất tầm
nhìn trong đêm tối để gây tai nạn chp người đi xe máy, làm nhiều người bị thương
tích,…
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm:
A-xít nguy hiểm được hiểu là hợp chất hóa học có tính sát thương cao, khi
tiếp xúc với da, a-xít phá vỡ các mô liên kết và hút nước của tế bào dẫn đến bỏng và
hoại tử da; nếu không kịp thời sơ cứu, a-xít ăn sâu vào phần cơ và gân gây ra tình
trạng bỏng nặng co rút, nếu sâu hơn sẽ hủy hoại cả xương và khớp dẫn đến tàn phế
suốt đời.
Khoản 4 Điều 4 Luật hóa chất 2007 hướng dẫn, hóa chất nguy hiểm là “hóa
chất có một hoặc một số đặc tính nguy hiểm sau đây theo nguyên tắc phân loại của
Hệ thống hài hòa toàn cầu về phân loại và ghi nhãn hóa chất: Dễ nổ; ôxy hóa
mạnh; ăn mòn mạnh; dễ cháy; độc cấp tính; độc mãn tính; gây kích ứng với con
người; gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư; gây biến đổi gen; độc đối với sinh
sản; tích lũy sinh học; ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ; độc hại đến môi trường.”
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ:
Đối với người dưới 16 tuổi nghĩa là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
31
gây tổn hại cho sức khỏe của người dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào ý thức chủ
quan của người phạm tội có nhận biết được hay không nhận biết được nạn nhân là
người dưới 16 tuổi hay không.
Đối với phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe đối với người phụ nữ đang mang thai và người thực hiện
hành vi phạm tội nhận biết được nạn nhân là phụ nữ đang có thai.
Đối với người già yếu, ốm đau là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe đối với người già, sức khỏe yếu kém, thường xuyên ốm đau.
Đối với người khác không có khả năng tự vệ là trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người không có khả năng chống lại tự tấn
công của người phạm tội do hạn chế về thể chất hoặc tâm thần. Ví dụ gây thương
tích đối với người bệnh nằm liệt giường, không thể di chuyển được.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,
chữa bệnh cho mình:
Đối với ông, bà, cha, mẹ là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe đối với những người có quan hệ ruột thịt, huyết thống với người phạm tội.
Đối với thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên
chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy
nghề được cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép vì lý do thực hiện nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với người phạm tội, không phân biệt nhiệm
vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay
ngắn. (theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP)
Đối với người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là trường hợp cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đã và đang nuôi dưỡng, dạy
dỗ người phạm tội, người đã và đang chữa bệnh cho họ. Ví dụ gây thương tích cho
bác sĩ đang chữa bệnh cho người phạm tội.
32
- Có tổ chức:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được thực hiện do nhóm người từ 02 người trở lên, có sự bàn bạc, phân
công, câu kết với nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và họ sử dụng chức
vụ, quyền hại của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Đây là trường hợp người phạm tội đang bị cơ quan có thẩm quyền kiểm soát
và đang bị áp dụng các biện pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước mà thực hiện
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê:
Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
trường hợp người phạm tội không trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích mà
dùng tiền hoặc lợi ích khác để sai khiến người khác thực hiện hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê
là hành vi của người phạm tội được một người nào đó thuê gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vì tiền hoặc vì lợi ích vật chất khác.
Trong trường hợp này, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người thuê hoặc người được thuê được coi là nghiêm trọng hơn trường
hợp cố ý gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn
hại đến sức khỏe dưới 11% do hành vi của người thuê hoặc người được thuê gây ra
thì người phạm tội đã bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.
33
- Có tính chất côn đồ:
Tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công
tác ngành Tòa án năm 1995, TAND tối cao đã giải thích về tình tiết “có tính chất
côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi
thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích
(hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì
một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng
thường là xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung
người khác một cách vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt...
Như vậy, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe có tính chất côn đồ
là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
người phạm tội thể hiện tính hung hãn cao độ, coi thường sức khỏe của người khác,
sẵn sàng dùng vũ lực gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác vì
nguyên cớ nhỏ nhặt.
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân mà thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của chính nạn nhân.
Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:
34
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đảm bảo 02 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 11% đến 30%.
- Phạm tội 02 lần trở lên:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ 02 lần trở lên, có thể đối với một người hoặc đối với nhiều người và
trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu
TNHS và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu TNHS.
- Tái phạm nguy hiểm:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015, tái phạm nguy hiểm là
trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc người
phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do
cố ý.
Trong đó, tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý theo quy định tại Khoản 1
Điều 53 BLHS năm 2015.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các
trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
35
đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo
của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ;
đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản
4 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và không thuộc trường hợp gây
thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 31% đến 60%.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

More Related Content

What's hot

Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khácTình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khácDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khácTình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luậtLuận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luậtLuận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOTĐề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
 
Đề tài: Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo luật, HOT
Đề tài: Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo luật, HOTĐề tài: Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo luật, HOT
Đề tài: Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo luật, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 

Similar to Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khácTình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khácDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (20)

Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khácĐịnh tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
 
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con ngườiLuận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
 
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đángLuận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khácTình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAYTình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
 
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
 
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đTội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
 
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.docluanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAYNhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƯỚC TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƯỚC TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Phước
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ........................................................................................6 1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam...............................................6 1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................14 1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................19 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM....................................................................................26 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................26 2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác..................................................................................44 2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam....................................47 2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản...............................................52 CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG.......................................................................................................................61 3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .........61
  • 5. 3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác...................................66 3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.....................................................69 3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.......................71 KẾT LUẬN..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 BLHS Bộ luật hình sự 2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 3 CQĐT Cơ quan điều tra 4 CSHS Chính sách hình sự 5 LHS Luật hình sự 6 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 7 TNHS TNHS 8 THTT Tiến hành tố tụng 9 VAHS Vụ án hình sự 10 VKS Viện kiểm sát 11 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 12 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018 48 2.2 Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018 49 2.3 Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn 2013-2018 50
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói, quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi nhận và bảo đảm cho quyền con người. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy, có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị
  • 9. 2 xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994. Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm 1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
  • 10. 3 người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm này trong BLHS năm 2015. - Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra nguyên nhân. - Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
  • 11. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04 Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này. Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định pháp luật có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm sáng tỏ các vấn đề tương ứng. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây
  • 12. 5 thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự; Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm áp dụng.
  • 13. 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và đâu không phải là tội phạm. Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về
  • 14. 7 tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm. Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành. Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4, tr.127]. Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu hiệu đặc biệt. Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội
  • 15. 8 cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60]. Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu, khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là tội phạm. Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc
  • 16. 9 gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146]. Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này. Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là là tội phạm trong BLHS. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy các BLHS trước đó. Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác
  • 17. 10 TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?... Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau: Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như
  • 18. 11 nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49]. Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4, Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3); Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50]. Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó (Điều 7). [15, tr.220] Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội
  • 19. 12 phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37]. Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa. Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh. Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về
  • 20. 13 đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh của pháp luật và công bằng xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong đó đề cập đến các tội phạm này. Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật. Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62] Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội. Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh
  • 21. 14 hưởng sâu sắc đến đời sống chung của cả cộng đồng. Cá nhân không khỏe thì cộng đồng mất đi một thành viên tích cực. Mặt khác, nếu cá nhân đó rơi vào trạng thái ốm đau, bệnh tật, thì Nhà nước, xã hội cũng phải đầu tư nhiều nguồn lực cho việc chăm sóc y tế, trợ giúp cho cá nhân đó. Lúc này, vấn đề sức khỏe đã vượt ra ngoài phạm vi của mỗi cá nhân mà nó thực sự trở thành đối tượng phải chăm lo chung của cả cộng đồng. Cũng vì lẽ đó, Nhà nước ta đề ra Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó xác định rõ: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội nghề nghiệp” [32]. Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe của nhân dân với ý nghĩa là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ sức khỏe của con người, mà trước hết là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, khi sức khỏe con người bị tác động bởi hành vi nguy hiểm của xã hội thì với chức năng của mình, LHS phải tạo ra các quy định, chế tài phù hợp để xử lý tội phạm xâm hại đến sức khỏe người khác, đảm bảo sự công bằng của xã hội. Từ đó, các quy định này cũng góp phần phòng ngừa tội phạm, giáo dục và nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho mọi người, xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình cũng như của người khác cho mọi cá nhân. 1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1985 Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ. Vì vậy, đây là thời kì lập pháp nước ta bị gián đoạn. Bằng chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã dùng ba BLHS khác nhau để áp dụng trên ba miền đất nước. Ở Bắc Kỳ, chúng ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt
  • 22. 15 hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Trong các Bộ luật này đều có điều khoản quy định liên quan đến tội xâm phạm sức khỏe của người khác.[24, tr.66] Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam kiểu mới được hình thành với những thay đổi về áp dụng pháp luật. Do bộ máy chính quyền mới hình thành kèm theo đó là nhiều những biến động lịch sử nên nước ta chưa có điều kiện để ban hành luật mới, do đó Nhà nước ta đã cho phép áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc - phong kiến, cố nhiên là các quy định trong đó không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân chủ cộng hòa của nước ta. Đến năm 1955, để mở đầu cho những thay đổi mạnh mẽ về pháp luật hình sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích cho người khác nói riêng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc trừng trị một số tội phạm. Trong đó, điểm 3 của Thông tư có quy định hành vi đánh bị thương: phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm; đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm... [26, tr.326]. Không những vậy, Điều 4 của Thông tư 442/TTg còn quy định: “Không cẩn thận... mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Nếu gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm” [26, tr.356]. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, các văn bản quy phạm pháp luật của thực dân và phong kiến lúc này không còn phù hợp. Do đó, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 19/VHH-HS yêu cầu các Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân - phong kiến nữa. Thông tư này ra đời đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 và cùng với Chỉ thị số 772/TATC được TANDTC ban hành ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo ra bước ngoặc đổi mới cho pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng. Thời kỳ sau năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, đất nước được
  • 23. 16 thống nhất, Nhà nước ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong đó, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định trong Sắc luật số 03-SL/76 của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và được áp dụng trên cả nước. Cụ thể hơn, điểm b Điều 5 Sắc luật quy định rất rõ nếu ai phạm tội cố ý gây thương tích, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Thậm chí, trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm. Bên cạnh đó, TANDTC hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các cấp, trong đó có Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nhờ đó, có sự phân biệt được một số trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác, các Tòa án tránh sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 Quá trình xây dựng đất nước đã tạo điều kiện để nước ta chú trọng hơn về vấn đề lập pháp hình sự. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt cột mốc vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và quy định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định tại Chương II với các tội phạm cụ thể bao gồm: Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 109); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110); tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 111) và tội hành hạ người khác (Điều 103) [19]. Để các quy định này được thực thi, liên ngành Trung ương bao gồm TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành nhóm tội phạm này [13, tr.69]. Trong đó, phải kể
  • 24. 17 đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS đã hướng dẫn cách thức phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại sức khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe; mô tả một số tình tiết gây thương tích có tính nguy hiểm cao, có tính côn đồ,... [9, tr.169-170]. Hay Nghị quyết số 01/1989/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn tình tiết gây thương tích dẫn đến chết người phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, gây tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân. Mặt khác, vẫn coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trường hợp không phải là thương tích nặng, nếu nạn nhân là người quá già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho họ chết sớm hơn [9, tr.242-243]. Không dừng lại ở đó, BLHS năm 1985 được ban hành đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần đó, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được sửa đổi hai lần. Lần thứ nhất, ngày 28/12/1989, quy định bổ sung thêm trường hợp: “gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người” tại khoản 2 Điều 109. Lần thứ hai, sửa cụm từ “sử dụng vũ khí” thành “dùng vũ lực”; sửa cụm từ “Phạm tội làm chết nhiều người...” thành “Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp nghiêm trọng khác” tại khoản 1 Điều 103. Các bổ sung này ít nhiều đã góp phần rất lớn trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sức khỏe. Qua đó, tạo tiền đề phân định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội xâm phạm sức khỏe khác. Tuy nhiên, sau khi được ban hành, BLHS năm 1985 dù đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang chưa theo kịp tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội. Đó là đòi hỏi phải có BLHS mới với các quy định phù hợp hơn, đáp ứng các yêu cầu của thời đại. Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Đến năm 2009, Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
  • 25. 18 một số điều của BLHS và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong BLHS này, các nhà làm luật quy định tất cả bảy tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Có thể nói, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã phân hóa rõ ràng hơn các tội xâm phạm sức khỏe của người khác bằng việc tách nội dung một số điều luật để quy định thành những tội danh [11, tr.15], cụ thể như sau: Một là, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 109 BLHS năm 1985) được tách làm ba tội riêng biệt: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) [20]; Hai là, tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội khác nhau: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109); Ba là, tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội gồm: Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107). Quá trình áp dụng BLHS năm 1999, để làm rõ thêm nội dung chưa rõ và tháo gỡ các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong đó, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS đã giải thích khá cụ thể và rõ ràng về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” ở điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo của mình”
  • 26. 19 tại các điểm a, c, đ khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Qua đó, tránh các nhận thức pháp luật khác nhau và thống nhất việc áp dụng, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả.[13, tr.83] 1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Quá trình lập pháp của Việt Nam đều có sự tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hợp lý của pháp luật một số nước trên thế giới. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, trong lĩnh vực hình sự, Việt Nam có sự học tập các nội dung, kỹ thuật lập pháp chủ yếu là của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản. Đối với Liên bang Nga (trước đây là Liên Xô), khoa học pháp lý hình sự của Việt nam từ khi hình thành đến khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985 đã chịu ảnh hưởng lớn của khoa học pháp lý hình sự của của nước này. Nhiều nhà khoa học pháp lý hình sự của Việt Nam hiện nay đã từng được đào tạo tại các trường Đại học hoặc cấp, bậc nghiên cứu khác nhau ở Liên Xô. Do đó, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Việt Nam cũng khá tương đồng về nội dung và kỹ thuật lập pháp với BLHS của Cộng hoà Liên bang Nga. Đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, từ thời phong kiến thì pháp luật Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến BLHS của Việt Nam. Hiện nay, cùng là nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, giữa Trung Hoa và Việt Nam luôn có sự giao thoa văn hóa – pháp luật. Vì vậy, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Trung Quốc cũng có vài nét gần giống với BLHS của nước ta. Còn đối với Nhật Bản, đây là nước có quy trình, kỹ thuật lập pháp vô cùng chặt chẽ, do đó, những quy định pháp luật hình sự của họ luôn có những điểm đặc biệt cần học hỏi. Nghiên cứu BLHS các nước trên là tiền đề để chúng ta tiếp tục hoàn thiện quy định BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này tại Việt Nam. Việc tìm hiểu các quy định tương tự trong BLHS Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản đồng thời so sánh với quy định trong BLHS nước ta giúp chúng ta tìm thấy và vận dụng các giá trị phù hợp vào điều kiện của Việt Nam.
  • 27. 20 1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga Ngày 24/5/1996, BLHS Liên bang Nga được Hạ viện của Quốc hội Liên bang thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau đó BLHS này được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, mới nhất là lần vào ngày 01/7/2010. Xuất phát từ nguyên nhân lịch sử, ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có thể tìm thấy nhiều điểm tương đồng nhau. Theo Điều 1 BLHS Liên bang Nga thì: “Pháp luật hình sự Liên bang Nga bao gồm BLHS này và các luật mới ban hành xem xét TNHS sẽ trở thành bộ phận của Bộ luật này” [27, tr.12]. Như vậy, từ quy định mang tính chất nguyên tắc nêu trên, có thể khẳng định nguồn cơ bản của BLHS Liên bang Nga có phần giống Việt Nam. Trong BLHS của họ, các tội xâm phạm sức khỏe người khác cũng được quy định đầy đủ, trong đó các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định tại Chương 16 với 11 điều luật (từ Điều 111 đến Điều 119 và Điều 124, Điều 125). Trong đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định ở 3 điều luật cụ thể: - Tội cố ý gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 111), thì bị phạt tù từ 02 năm đến 08 năm; khoản 3 là đến 15 năm [27, tr.166]; - Tội cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 112), thì bị phạt tù đến 03 năm; khoản 2 là đến 05 năm [27, tr.168]; - Tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 115), thì bị phạt giam giữ đến 04 tháng; khoản 2 là đến 02 năm [27, tr.172]; Qua nghiên cứu các quy định trên trong BLHS Liên bang Nga, đối chiếu với quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam, có thể thấy rằng: Một là, các nhà làm luật Liên bang Nga dành một sự quan tâm đặc biệt đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi quy định hành vi lên đầu Chương xâm phạm về sức khỏe của BLHS. Điều này cho thấy sự ưu tiên trong tư tưởng lập pháp của Liên bang Nga đối với vấn đề quyền con người nói chung và quyền bảo vệ sức khỏe của con người trong BLHS nói riêng.
  • 28. 21 Hai là, khác với BLHS Việt Nam, Liên bang Nga xem hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã bao hàm luôn hành vi cố ý gây thương tích. Vì vậy, họ không chia ra thành hai hành vi cụ thể giống Việt Nam là cố ý gây thương tích và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này có lẽ xuất phát từ việc hành vi cố ý gây thương tích, xét đến cùng, là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe con người, chỉ là khác nhau ở tính chất, mức độ. Ba là, so với Việt Nam, BLHS của Liên bang Nga đã có sự đã phân hóa hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thành ba dạng cụ thể, thể hiện các tính chất, mức độ của hành vi và tương ứng với đó là các mức hình phạt khác nhau. Theo đó, hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao gồm: cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe; cố ý gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe và cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe. Như vậy, mặc dù có những điểm chung về lập pháp, nhưng quy định tương tự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Liên bang Nga có nhiều điểm khác biệt so với Việt Nam. Khách quan mà nói, các quy định của họ đơn giản hơn và phân hóa hành vi cũng như TNHS rõ ràng hơn chúng ta. Vì vậy, thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cần phải có sự chọn lọc, tiếp thu đầy đủ các nhân tố hợp lý trong lập pháp của Liên bang Nga để góp phần hoàn thiện thêm quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS. 1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ban hành BLHS vào ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, gần đây nhất là sửa đổi vào năm 2007. Liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, BLHS Trung Quốc quy định cụ thể tại Chương IV với 06 điều luật chính, bao gồm: hành vi cố ý gây thương tích cho người khác (Điều 234); hành vi vô ý gây thương tích nặng cho người khác (Điều 235); hành vi giam giữ trái pháp luật người khác hoặc bằng các thủ đoạn khác tước đoạt phi pháp quyền tự do thân thể của người khác (Điều 238);
  • 29. 22 hành vi của nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc dùng vũ lực bức cung nhân chứng (Điều 247); hành vi của nhân viên quản giáo của nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị giám quản, nếu có tình tiết nghiêm trọng (Điều 248) và hành vi ngược đãi thành viên trong gia đình, có tình tiết xấu xa (Điều 260) [6; tr.156-168]. Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được quy định tại Điều 234 BLHS Trung Quốc. Theo đó, người nào có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác, thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế [6, tr.156]; Trên cở sở nghiên cứu quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác trong BLHS Trung Quốc, so sánh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của BLHS Việt Nam, có thể đưa ra các nhận xét sau đây: Thứ nhất, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác trong BLHS Trung Quốc không được nêu thành tội danh mà chỉ mô tả hành vi phạm tội trong nội dung của điều luật. Còn đối với Việt Nam, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được gọi tên rất cụ thể tại Điều 134 BLHS năm 2015. Thứ hai, khác với Việt Nam, BLHS Trung Quốc chỉ đề cập đến hành vi cố ý gây thương tích chứ không thể hiện hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này khác với cả BLHS Liên bang Nga, nhưng nhìn ở góc độ kỹ thuật lập pháp, thì dường như ở hai nước này lại có điểm chung là hành vi cố ý gây thương tích đã bao hàm trong đó nội dung gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và ngược lại. Có thể thấy, các nhà làm luật của Việt Nam có sự tiếp thu quy định của hai nước, đồng thời cho rằng, đây là hai loại hành vi cần có sự phân biệt để phân hóa TNHS, vì vậy, Việt Nam quy định cả hai hành vi này trong cùng một điều luật. Thứ ba, về hình phạt, BLHS Trung Quốc quy định chế tài đối với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có sự đa dạng so với Việt Nam. Bên cạnh hình phạt tù, BLHS còn mở rộng khi quy định các chế tài khác ngoài tù gồm lao động cải tạo và quản chế. Có lẽ, trong tư duy của nhà làm luật Trung Quốc, đối với loại hành vi phổ biến như cố ý gây thương tích thì việc quy định các chế tài ngoài tù là phù hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, việc quy định này sẽ giảm được áp lực cho các cơ sở giam
  • 30. 23 giữ, hơn nữa đối với các hành vi cố ý gây thương tích có mức độ ít nghiêm trọng thì việc quản chế hoặc lao động có lẽ mục đích cải tạo sẽ hữu hiệu hơn. Như vậy, BLHS Trung Quốc chưa có sự phân hóa trong hành vi cố ý gây thương tích cho người khác triệt để bằng Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác lại được tinh gọn. Đặc biệt, chế tài xử lý đối với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được mở rộng sang các hình phạt khác như lao động cải tạo, quản chế. Đây là điểm tiến bộ, thiết nghĩ, khi điều kiện kinh tế - xã hội cho phép, Việt Nam chúng ta nên học hỏi để áp dụng cho phù hợp. 1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản Nhật Bản ban hành BLHS vào năm 1908. Sau đó, BLHS này chỉnh lý nhiều lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung vào năm 2011. Bộ luật có 40 chương và 264 điều. Các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định tại chương 27 và 28 bao gồm 10 điều bao gồm: tội gây thương tích (Điều 204); tội gây ra thương tích dẫn đến chết người (Điều 205); tội vào hùa tại hiện trường (Điều 206); tội đặc lệ của việc đồng thời gây ra thương tích (Điều 207); tội hành hung (Điều 208); tội lái xe nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người (Điều 208-2); tội tập hợp và tụ tập chuẩn bị hung khí (Điều 208-3); tội sơ ý gây ra thương tích (Điều 209); tội sơ ý dẫn tới chết người (Điều 210); tội bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích hoặc chết người (Điều 211). [10, tr.158-162]. Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích được quy định Điều 204 và đứng đầu chương 27 BLHS Nhật Bản (nhóm tội gây thương tích với lỗi cố ý). Theo đó, người nào phạm tội gây thương tích, thì bị phạt tù dưới 15 năm hoặc phạt tiền dưới 50 vạn Yên [10, tr.158]. Qua nghiên cứu quy định nói trên của BLHS Nhật Bản, đối chiếu với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam, có thể đưa đến một số nhận định như sau: Thứ nhất, BLHS Nhật Bản quy định tội danh về cố ý gây thương tích rất ngắn gọn, súc tích (Tội gây thương tích). Điều này xuất phát từ việc BLHS của họ đã chia nhóm tội xâm phạm sức khỏe thành hai chương riêng biệt: Chương 27 là
  • 31. 24 nhóm tội (cố ý) gây thương tích; Chương 28 là nhóm tội sơ ý gây thương tích. Thứ hai, ngoài hình phạt tù, BLHS Nhật Bản còn cho phép áp dụng hình phạt tiền đối với hành vi gây thương tích. Đây là điểm khác biệt với Việt Nam, việc áp dụng hình phạt tiền của chúng ta chỉ mang tính chất là hình phạt bổ sung chứ không phải là hình phạt chính. Đặc biệt, nhìn ở phương diện tư duy lập pháp, các nhà làm luật Việt Nam rất coi trọng khách thể là sức khỏe con người nên việc áp dụng hình phạt tiền là không thể. Điều này bắt nguồn từ cách nhìn nhận tầm quan trọng khách thể xâm hại có sự khác nhau giữa hai nước. Song, ở tương lai, khi văn hóa - pháp lý nước ta được nâng cao, có lẽ việc quy định thêm hình phạt tiền cần phải được xem xét, học hỏi áp dụng. Thứ ba, BLHS Nhật Bản đã tách tội gây thương tích và tội gây thương tích dẫn tới chết người thành hai điều luật riêng biệt, còn Việt Nam lại quy định đó là tình tiết tăng nặng TNHS ngay trong điều luật quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Như vậy, BLHS Nhật Bản cũng có những điểm gần với BLHS Việt Nam trong việc quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, quy định về tội gây thương tích của Nhật Bản súc tích hơn. Bên cạnh đó, các chế tài áp dụng đối với hành vi gây thương tích cũng đa dạng và có phần nhẹ hơn. Đây là các điểm khác biệt mà nếu điều kiện cho phép, chúng ta nên vận dụng vào lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng sau này.
  • 32. 25 Tiểu kết chương 1 Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là bộ phận quan trọng của quyền con người được pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng thừa nhận. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quy định đã được hình thành, xây dựng, và hoàn thiện qua các thời kỳ của pháp luật hình sự Việt Nam dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng mang nội hàm giống nhau nhằm bảo vệ quyền chính đáng của con người. Do đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm làm rõ, đặc biệt trong sách báo pháp lý hình sự Việt Nam. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được góp ý, sửa đổi để phù hợp với tình hình tội phạm. Mặt khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không chỉ được xem xét ở góc độ lịch sử lập pháp trong nước mà còn có sự đối chiếu, so sánh với các quy định trong LHS một số nước trên thế giới. Qua đó, Chương 1 đã khái quát những đặc điểm cơ bản, đặc điểm riêng của các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó tạo cơ sở lý luận vững chắc để nghiên cứu sâu hơn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam.
  • 33. 26 CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015. Đây là BLHS mới đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự với nhiều thay đổi đáng kể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 và đứng đầu trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Theo đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có các dấu hiệu pháp lý như sau: Thứ nhất, về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức độ nhất định. Theo đó, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm đến quyền được tôn trọng, quyền được bảo vệ về sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ. Người khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống và tồn tại theo quy luật tự nhiên mà không phải là chính bản thân người thực hiện hành vi phạm tội. Nếu trong trường hợp một người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của chính bản thân mình để trốn tránh nghĩa vụ phải làm thì tùy trường hợp cụ thể có thể bị xem xét TNHS theo quy định của pháp luật.
  • 34. 27 Ví dụ như Nguyễn Văn B đã đến tuổi đi nghĩa vụ quân sự nhưng do bản thân không muốn thực hiện nghĩa vụ quân sự nên B đã có hành vi “tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Trong trường hợp này, B có thể bị truy cứu TNHS về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự” theo quy định tại Điều 232 BLHS năm 2015. Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn; thời gian, không gian, nơi xảy ra hành vi phạm tội.... Trong đó, hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan qua những hình thức cụ thể nhằm đạt được những mục đích đã định trước. Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được xem là nguyên nhân (hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (hậu quả của tội phạm). Như vậy, mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được biểu hiện qua các dấu hiệu sau: Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật sự, thể hiện mong muốn của người phạm tội. Người phạm tội phải có hành vi tác động trực tiếp lên thân thể của người khác như đâm, chém, đấm đá, đầu độc,… bằng cách sử dụng tay, chân hoặc sử dụng những công cụ, phương tiện, vũ khí đa dạng như gạch, đá, gậy gộc, dao, búa, súng, mã tấu,… nhằm mục đích làm cho người này bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe. Ngoài ra người phạm tội thực hiện hành vi tác động gián tiếp lên cơ thể người
  • 35. 28 khác thông qua hình thức sử dụng súc vật như chó, thú dữ,… Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thông thường hay để lại những thương tích, dấu tính nhất định trên cơ thể như: vết rách trên da cho bị dao chém, vết bầm tím do bị đánh bằng gậy, vết bỏng do bị tạt axit… Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp hành vi phạm tội không để lại thương tích, dấu vết trên thân thể mà để lại những tổn hại cho sức khỏe của người khác như: bị đầu độc bằng thuốc độc dẫn đến suy kiệt về sức khỏe trong thời gian dài,… Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là hành vi phạm tội phải gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tội phạm mới hoàn thành, hay phải có thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe trên thực tế thì người thực hiện hành vi phạm tội mới có khả năng bị truy cứu TNHS. Như vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Theo đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải gây ra hậu quả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác biểu hiện qua tỷ lệ tổn thương cho cơ thể được đánh giá, xác định một cách kỹ càng thông qua giám định của hội đồng giám định pháp y trong mọi trường hợp. Tỷ lệ tổn thương cơ thể vừa là yếu tố định tội, vừa là yếu tố định khung tăng nặng TNHS. Tỷ lệ tổn thương cơ thể càng cao thì khung hình phạt quy định cũng như hình phạt được áp dụng càng cao. Kế thừa Điều 104 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn được cấu tạo theo hướng lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ xác định TNHS đối với người phạm tội. Đồng thời, do yêu cầu của công
  • 36. 29 cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật còn quy định thêm một số trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới mức quy định nhưng vẫn có thể bị truy cứu TNHS. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi gây ra hậu quả mà tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, vũ khí được hiểu là “thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự”. Đồng thời, Khoản 7 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 hướng dẫn vật liệu nổ là “sản phẩm dưới tác động của xung kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm: Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích; phụ kiện nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ”. Tại tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của TANDTC hướng dẫn dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong đó, vũ khí là gì đã được giải thích còn phương tiện nguy hiểm là “công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm
  • 37. 30 phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Về công cụ, dụng cụ, ví dụ như búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn... Về vật mà người phạm tội chế tạo ra, ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... Về vật có sẵn trong tự nhiên, ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, thanh sắt...” (theo Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn). Bên cạnh đó, dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội bằng cách dùng thủ đoạn không chỉ nhằm xâm hại một người nào đó mà thủ đoạn này còn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người. Ví dụ đặt khúc gỗ ngang đường giao thông khuất tầm nhìn trong đêm tối để gây tai nạn chp người đi xe máy, làm nhiều người bị thương tích,… - Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm: A-xít nguy hiểm được hiểu là hợp chất hóa học có tính sát thương cao, khi tiếp xúc với da, a-xít phá vỡ các mô liên kết và hút nước của tế bào dẫn đến bỏng và hoại tử da; nếu không kịp thời sơ cứu, a-xít ăn sâu vào phần cơ và gân gây ra tình trạng bỏng nặng co rút, nếu sâu hơn sẽ hủy hoại cả xương và khớp dẫn đến tàn phế suốt đời. Khoản 4 Điều 4 Luật hóa chất 2007 hướng dẫn, hóa chất nguy hiểm là “hóa chất có một hoặc một số đặc tính nguy hiểm sau đây theo nguyên tắc phân loại của Hệ thống hài hòa toàn cầu về phân loại và ghi nhãn hóa chất: Dễ nổ; ôxy hóa mạnh; ăn mòn mạnh; dễ cháy; độc cấp tính; độc mãn tính; gây kích ứng với con người; gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư; gây biến đổi gen; độc đối với sinh sản; tích lũy sinh học; ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ; độc hại đến môi trường.” - Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ: Đối với người dưới 16 tuổi nghĩa là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
  • 38. 31 gây tổn hại cho sức khỏe của người dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội có nhận biết được hay không nhận biết được nạn nhân là người dưới 16 tuổi hay không. Đối với phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người phụ nữ đang mang thai và người thực hiện hành vi phạm tội nhận biết được nạn nhân là phụ nữ đang có thai. Đối với người già yếu, ốm đau là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người già, sức khỏe yếu kém, thường xuyên ốm đau. Đối với người khác không có khả năng tự vệ là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người không có khả năng chống lại tự tấn công của người phạm tội do hạn chế về thể chất hoặc tâm thần. Ví dụ gây thương tích đối với người bệnh nằm liệt giường, không thể di chuyển được. - Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình: Đối với ông, bà, cha, mẹ là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với những người có quan hệ ruột thịt, huyết thống với người phạm tội. Đối với thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với người phạm tội, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn. (theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP) Đối với người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đã và đang nuôi dưỡng, dạy dỗ người phạm tội, người đã và đang chữa bệnh cho họ. Ví dụ gây thương tích cho bác sĩ đang chữa bệnh cho người phạm tội.
  • 39. 32 - Có tổ chức: Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện do nhóm người từ 02 người trở lên, có sự bàn bạc, phân công, câu kết với nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và họ sử dụng chức vụ, quyền hại của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. - Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Đây là trường hợp người phạm tội đang bị cơ quan có thẩm quyền kiểm soát và đang bị áp dụng các biện pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước mà thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. - Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê: Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trường hợp người phạm tội không trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích mà dùng tiền hoặc lợi ích khác để sai khiến người khác thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê là hành vi của người phạm tội được một người nào đó thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vì tiền hoặc vì lợi ích vật chất khác. Trong trường hợp này, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người thuê hoặc người được thuê được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp cố ý gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe dưới 11% do hành vi của người thuê hoặc người được thuê gây ra thì người phạm tội đã bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.
  • 40. 33 - Có tính chất côn đồ: Tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, TAND tối cao đã giải thích về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt... Như vậy, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe có tính chất côn đồ là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà người phạm tội thể hiện tính hung hãn cao độ, coi thường sức khỏe của người khác, sẵn sàng dùng vũ lực gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác vì nguyên cớ nhỏ nhặt. - Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân mà thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của chính nạn nhân. Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:
  • 41. 34 Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đảm bảo 02 điều kiện: + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong một lần hoặc nhiều lần đối với một người. + Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần từ 11% đến 30%. - Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ 02 lần trở lên, có thể đối với một người hoặc đối với nhiều người và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu TNHS. - Tái phạm nguy hiểm: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015, tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Trong đó, tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý theo quy định tại Khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS: Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
  • 42. 35 đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 134 BLHS: Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và không thuộc trường hợp gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện: + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong một lần hoặc nhiều lần đối với một người. + Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần từ 31% đến 60%. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại