SlideShare a Scribd company logo
1 of 116
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Téi tham « tµi s¶n
trong luËt h×nh sù ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Téi tham « tµi s¶n
trong luËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Cường
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN.............6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy
định tội tham ô tài sản trong luật hình sự.................................................6
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản..........................................................................6
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản .......................................................9
1.1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác................................17
1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự.................20
1.2. Tội tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế.............................................22
1.2.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng...................................22
1.2.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô tài sản ......24
1.3. Tội tham ô tài sản trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam...............27
1.3.1. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến...............27
1.3.2. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam từ Cách mạng Tháng
tám năm 1945 đến nay ................................................................................30
Kết luận Chương 1..................................................................................................36
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM
Ô TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ.....................................................37
2.1. Tội tham ô tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999..........37
2.2. Thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản trong những năm gần đây...............50
2.3. Những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội tham ô tài sản và nguyên nhân .........................................61
2.3.1. Những ưu điểm trong vận dụng quy định của pháp luật hình sự trong
xử lý tội tham ô tài sản................................................................................61
2.3.2. Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình
sự về tội tham ô tài sản trong điều tra, truy tố, xét xử.................................63
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................77
Kết luận Chương 2..................................................................................................83
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI
THAM Ô TÀI SẢN ...................................................................................84
3.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự.............................................84
3.1.1. Những định hướng chung về chính sách hình sự........................................84
3.1.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định quy phạm pháp luật
về tội tham ô tài sản.....................................................................................87
3.2. Các giải pháp khác ....................................................................................95
3.2.1. Nâng cao năng lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra,
xử lý tội phạm tham ô tài sản ......................................................................95
3.2.2. Nâng cao vai trò của các cơ quan kiểm toán, thanh tra nội bộ, thanh
tra chuyên ngành trong phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng.................97
3.2.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị, vai trò giám sát của cơ quan
dân cử, của dư luận xã hội và quần chúng nhân dân ....................................98
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài sản để hạn chế nguyên
nhân điều kiện phạm tội ............................................................................100
Kết luận Chương 3................................................................................................103
KẾT LUẬN............................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................106
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CSĐT: Cảnh sát điều tra
HĐXX: Hội đồng xét xử
PCTN: Phòng chống tham nhũng
TAND: Tòa án nhân dân
TP: Thành phố
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1. Hình phạt áp dụng đối với tội tham ô tài sản 2010 – 2014 55
Biểu đồ 2.1: Số lượng vụ án và bị cáo của tội tham ô tài sản trong giai
đoạn 2010 – 2014 51
Biểu đồ 2.2: Số án tham ô tài sản trong nhóm tội danh tham nhũng
giai đoạn 2010 – 2014 52
Biểu đồ 2.3: Số lượng án tham ô tài sản bị tòa án trả lại hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung 54
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân và thật sự
trong sạch, vững mạnh, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một
căn bệnh, là hành động xấu xa nhất. Người cho rằng: “Tham ô là lấy của công làm
của tư. Là gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là lấy của công làm của tư; đục khoét của
Nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của chính
phủ làm quỹ riêng cho địa phương, đơn vị mình cũng là tham ô. Đứng về phía nhân
dân mà nói, tham ô là “ăn cắp của công, khai gian lậu thuế” [21, tr.488]. Thấm
nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn coi tham nhũng là một trong bốn nguy cơ
lớn của nước ta và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham
nhũng. Tiếp nối tư tưởng này của Đảng từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, IX, X, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng
định: “Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này”. Hiến pháp năm 2013, tại
khoản 2 Điều 8 đòi hỏi: “... Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức
phải thực sự tôn trọng nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” [26, Điều 8].
Trong cơ chế thị trường hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng
tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ
hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô, tham ngày càng gia
tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán
bộ, công chức cố tạo cho mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách
nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Hiện nay, tình hình
tội phạm tham ô ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều rộng, lẫn chiều sâu và
sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, xã
2
hội. Trong khi đó, BLHS năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật gần 15 năm, nhiều quy
định của Bộ luật hình sự (BLHS) không còn phù hợp nhưng chưa được giải thích
hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các vụ
án tham ô tài sản có tính chất nổi cộm, quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi,
phức tạp và tổ chức chặt chẽ như Tham ô tài sản ở Vinashin, Vinaline, Tham ô tại
Công ty cho thuê tài chính 2 ALC – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn…; thực tế điều tra những vụ án tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói
riêng hiệu quả còn hạn chế đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá
trình hoàn thiện pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều tra xét xử tội
phạm tham ô tài sản. Do vậy học viên lựa chọn vấn đề: “Tội tham ô tài sản trong
luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, đã có không ít công trình nghiên cứu về tội phạm tham ô tài
sản. Tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo
như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003) của tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên; Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam (tập II) của tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ
biên (Nxb Công an nhân dân, 2010)… hoặc được đề cập trong một số bài viết trên
các Tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản” của tác giả
Trương Thị Hằng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; “Việc xác định tội tham ô tài
sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Khắc Tiến đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 6/2006; “Những vấn đề lý luận & thực tiễn về tội tham ô tài sản trong cơ chế thị
trường” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22/2006.
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khác ít nhiều có liên
quan đến loại tội phạm này từ phương diện tội phạm học hoặc phương diện chính trị
- xã hội học như:
- “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới” của GS,TS Nguyễn
Xuân Yêm, PGS.TS Nguyễn Hoà Bình, TS Bùi Minh Thanh, NXB Công an
nhân dân, 2007.
3
- Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng
phí được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn ngừa tham
nhũng trong đầu tư xây dựng ở nước ta, Phạm Ngọc Đản, Đề tài nghiên cứu khoa
học, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, 2006.
- Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia năm 2010 của tác giả Phan Xuân Sơn.
Ngoài ra nghiên cứu về đề tài này còn có Luận văn thạc sĩ “Tội tham ô tài
sản xã hội chủ nghĩa và đấu tranh phòng, chống tội tham ô tài sản xã hội chủ
nghĩa” của Nguyễn Văn Tiến và “Tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt
Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Quang Sơn năm 2004. Những
nghiên cứu trên đây của các tác giả hoặc mới chỉ dừng lại dưới dạng các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình,
sách tham khảo mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình
sự hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học, khoa học thanh tra... hoặc đã
nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập nhật những vấn đề
mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật hình sự và tố tụng
hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện, sâu sắc hơn đối với loại tội phạm này, bổ sung các thông tin mới về lý luận và
thực tiễn, nhất là trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi năm 2015
nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những tồn tại trước đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội tham ô tài sản trong luật hình sự
Việt Nam với pha ̣m vi nghiên cứ u thực tiễn áp dụng quy đi ̣nh của BLHS về tội
phạm này từ năm 2010-2014 (5 năm) ở nước ta.
4. Mục đích và nhiê ̣m vụnghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ nghiên cứ u các vấn đề lý luâ ̣n , các vấn đề về luâ ̣t thực đi ̣nh và thực tiễn
áp dụng quy định của luật thực định để xử lý tội tham ô tài sản , luâ ̣n văn mong
muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao
hiệu quả đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản.
4
4.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứu của luận văn
- Luâ ̣n văn đưa ra khái niệm , làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài
sản, nghiên cứu so sánh, quá trình lập pháp hình sự đối với tội tham ô tài sản trong
pháp luật của một số quốc gia thế giới và trong các giai đoạn phát triển của pháp
luật hình sự nước ta;
- Luận văn phân tích tình hình áp dụng pháp luật , xác định những khó khăn ,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội tham ô tài sản trong
thực tiễn 5 năm gần đây, chỉ ra những ha ̣n chế và nguyên nhân trong quá trình áp
dụng quy định về tội tham ô tài sản.
- Luâ ̣n văn đưa ra được một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp
luật về tội tham ô tài sản và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trong thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh
giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong các công trình của
một số nhà nghiên cứu khoa học.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm các tri thức lý luâ ̣n về tội tham ô tài
sản: Luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản, phân biệt với các tội danh khác,
luận giải các dấu hiệu pháp lý về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan
của tội phạm này theo quy định của BLHS năm 1999, nhận định, đánh giá những
bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam quy định về tội tham ô tài sản từ
năm 1945 cho đến nay.
- Luận văn đưa ra bức tranh tổng quan về thực tiễn vận dụng pháp luật trong
điều tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2014.
- Luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp
luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp hữu quan khác.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan
5
chức năng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hình sự
đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng và tội phạm tham nhũng nói chung
trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương 8 mục.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy
định tội tham ô tài sản trong luật hình sự
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản
Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các
Nhà nước và thời kỳ lịch sử - khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Theo
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International Organisation- TIO), tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân; tham
ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là
một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá nhân, đặc biệt trong điều kiện nền
kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở
cho các hành vi tiêu cực, tham nhũng, tham ô có điều kiện phát triển và một phần
quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng, tham ô làm
thâm hụt công quỹ, rút ruột công trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Ở tầm khái
quát cao hơn, có thể nói tham nhũng, tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội,
làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất
ổn định chính trị, kinh tế - xã hội, thậm chí sụp đổ cả một cơ quan, tổ chức, sụp đổ
một thể chế chính trị.
Theo các tài liệu truyền thông của Liên hợp quốc về đấu tranh quốc tế chống
tham nhũng thì tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng bao
gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của
Nhà nước; lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng hoặc thông qua việc sử dụng
không chính thức địa vị chính thức của mình; hay tạo ra xung đột về thứ tự quan
tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Khoa học luật hình sự và pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới
mô tả tham ô trước hết là hành vi của người có thẩm quyền quản lý tài sản của cơ
quan tổ chức, chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đó bằng chính vị trí, chức vụ
7
của mình sau đó mới phân tách hành vi tham ô diễn ra trong cơ quan tổ chức nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước và thuộc khu vực tư nhân để phân hóa trong các cấu
thành của tội tham ô tài sản. Theo Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống
tham nhũng thì tham ô được hiểu là “… hành vi của công chức tham ô, biển thủ
hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức
khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công
chức này được giao quản lý do địa vị của mình”. Quan điểm này nêu rất khái quát
về tham ô nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của công chức. Ở nước ta
hiện nay thuật ngữ tham ô được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, nhưng
vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm. Theo Từ điển Tiếng Việt, "tham ô là
lợi dụng quyền hành để ăn cắp của công" [45, tr.910].
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về tội tham ô tài sản nhưng nhìn
chung, có hai quan niệm khá phổ biến:
Một, coi tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ
người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm
dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ô có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên
chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài
sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước.
Hai, hiểu tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá
nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở
việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị - xã hội và doanh
nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội
tham ô tài sản ở nhiều nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, chưa có quan niệm thống nhất
về tham ô với 2 dấu hiệu cơ bản của hành vi này còn đang gây tranh cãi: thứ nhất,
tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh vực công
và lĩnh vực tư), và từ đặc điểm này phái sinh đặc điểm thứ hai - chủ thể tham ô tài
sản là người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ - là cán bộ, công chức, viên
chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ chức.
8
Tôi cho rằng: Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ
chức thành của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có trách
nhiệm quản lý xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm
hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức.
Sở dĩ Tôi quan niệm như vậy vì những lý do sau: mặc dù theo cách hiểu
truyền thống thì hành vi tham ô là chiếm đoạt tài sản của nhà nước, nói cách khác là
chiếm đoạt tài sản của cả xã hội thông qua tổ chức đại diện cho xã hội là nhà nước;
khác với hành vi chiếm đoạt tài sản của một nhóm người hay của tổ chức tư nhân
không đại diện cho xã hội. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm
là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng với
sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệm
quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc các
thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (công – tư kết hợp)
và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính
phủ. Trong một xã hội mà nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực kinh tế chủ chốt mà
không thể không tư nhân hóa, trong xu thế cổ phần hóa đang được thực hiện với tinh
thần chỉ đạo không thể trì hoãn của Chính phủ hiện nay thì rõ ràng tài sản của các cơ
quan, tổ chức khác trong xã hội cũng cần được bảo vệ trước hành vi của những người
có thẩm quyền quản lý trong các cơ quan này lợi dụng vị trí, chức vụ của mình để
chiếm đoạt trái phép… Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc
thẩm quyền quản lý của Nhà nước hay không thì các chủ sở hữu đều phải được bình
đẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ô vẫn là
dùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng.
Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do
những quy định trong luật hình sự về tội tham ô tài sản nói riêng và tội phạm về
chức vụ nói chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy Bộ luật
Hình sự sửa đổi năm 2015 có sự thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội tham
ô tài sản vẫn nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm
về chức vụ đã có sự mở rộng:
9
Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do
người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ” và “người có
chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,
có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [31, tr.413].
Tiếp cận từ góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm tội tham ô
tài sản như sau: Tội tham ô tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, có trách nhiệm quản lý
tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý thành của riêng cho mình hay người khác.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm
tội phạm và tội phạm cụ thể, khoa học luật hình sự phân loại thành khách thể chung,
khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được
hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm
xâm hại. Khách thể loại của tội phạm được hiểu là nhóm các quan hệ xã hội cùng
hoặc gần tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm các
tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 có 14 nhóm quan hệ xã hội
như vậy như: nhóm an ninh quốc gia; nhóm quan hệ sở hữu; nhóm quan hệ hôn nhân,
gia đình... Khách thể trực tiếp của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội cụ thể được
quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ và bị tội phạm cụ thể xâm hại. Một tội
phạm có thể xâm hại nhiều quan hệ xã hội khác nhau nhưng trong đó chỉ có một hoặc
một số quan hệ xã hội bị xâm hại có tính chất của khách thể trực tiếp.
Tội tham ô tài sản có khách thể của là quan hệ sở hữu về tài sản, đây là
khách thể trực tiếp của hành vi này. Khách thể trực tiếp này bao hàm đối tượng
chính cụ thể bị chủ thể phạm pháp xâm hại, bởi quan hệ sở hữu luôn tồn tại ở nhiều
kiểu quan hệ khác nhau: quan hệ sở hữu tập thể, quan hệ sở hữu cá nhân; quan hệ sở
hữu công và sở hữu tư...
10
Trước đây nhiều ý kiến cho rằng khách thể của tội tham ô tài sản là chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sở hữu tài sản công (nhà nước) là quan hệ sở hữu tài
sản công của các tổ chức cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội; tổ chức
kinh tế - xã hội mà nhà nước góp vốn... Đồng thời, tội tham ô tài sản còn xâm phạm
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế
độ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác ảnh hưởng hiệu quả hoạt động, tính minh
bạch trong cơ quan nhà nước. Trong mối quan hệ sở hữu này, đối tượng cụ thể là tài
sản chung của toàn xã hội mà cơ quan nhà nước đại diện quản lý, do vậy mức độ tác
động đến khách thể rộng và ảnh hưởng rộng hơn, tức là mức độ nghiêm trọng của
hành vi tham ô cao hơn và mức độ thiệt hại của khách thể cũng lớn hơn. Tuy nhiên,
trong thực tiễn hiện nay, sở hữu nhà nước có nhiều hình thức đa dạng và phong phú
hơn ở trong cơ quan hành chính, các tổ chức tài chính, kinh doanh cổ phần khác.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một loại hình doanh nghiệp, hoạt
động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp Nhà nước là
doanh nghiệp mà nhà nước cũng chỉ sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Như vậy, doanh
nghiệp nhà nước cũng không còn là một tổ chức kinh tế riêng biệt của nhà nước mà
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chung về doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
khác với tư cách là các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận nhưng cũng đóng thuế một cách bình đẳng và cũng bình đẳng trong việc
tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế. Do đó, họ cũng cần được pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ trước các hành vi xâm hại quyền sở hữu và hoạt
động bình thường của họ.
Hiện nay có nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, với nhiều tổ chức, đơn vị
kinh tế, xã hội, văn hóa... Các tập đoàn kinh tế có sự tham gia của hàng nghìn cổ
đông góp vốn. Sở hữu tư nhân không có nghĩa là hình thức sở hữu của một cá nhân
mà của nhiều người, trong nhiều trường hợp thiệt hại của khách thể có quan hệ sở
hữu tư cũng đặc biệt nghiêm trọng bởi tài sản bị chiếm đoạt về bản chất thuộc sở
hữu của nhiều người, có liên quan tới quyền lợi của cộng đồng; mặt khác hành vi
tham ô đối với sở hữu tư nhân cũng đồng thời xâm phạm vào hoạt động của tổ chức
11
tư nhân này, ví dụ: hoạt động của công ty, doanh nghiệp... Trong xu thế phát triển
kinh tế toàn cầu, vai trò của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức ngoài Nhà nước
ngày càng tác động mạnh mẽ tới đời sống, đặc biệt các quan hệ này đại diện cho lực
lượng đông đảo người lao động trong cộng đồng.
Tóm lại, khi nghiên cứu về khách thể của tội tham ô tài sản, có thể thấy có
nhiều quan niệm khác nhau và sự thừa nhận khách thể của loại tội phạm này, có
quan niệm chỉ thừa nhận khách thể là quan hệ sở hữu tài sản công do các cơ quan
nhà nước quản lý mà không thừa nhận khách thể của hành vi tham ô là quan hệ sở
hữu tư, những người theo quan niệm này cho rằng: xác định khách thể là dấu hiệu
cơ bản quy định hành vi phạm tội, vì thế cần căn cứ vào tầm quan trọng của khách
thể của tội phạm mà luật hình sự cần bảo vệ. Tội tham ô tài sản cùng một lúc xâm
phạm đến hai khách thể rất quan trọng là sở hữu (chế độ công hữu) và hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức, là khách thể đặc biệt quan trọng mà luật hình sự cần
ưu tiên bảo vệ. Bản chất của cách hiểu này là không thừa nhận hành vi tham ô trong
lĩnh vực tư. Ở khía cạnh khác, tội tham ô tài sản là một trong những tội phạm về
tham nhũng, do đó chủ thể của tội phạm này chủ thể đặc biệt, chứ không phải là bất
kỳ ai, chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định
và có trách nhiệm quản lý tài sản; dẫn tới khách thể của tội tham ô chính là sở hữu
của nhà nước, các tài sản sở hữu cá nhân không thuộc vào tội tham ô bởi họ không
phải công chức trong cơ quan nhà nước.
Ngược lại, quan điểm thừa nhận tội tham ô tài sản trong lĩnh vực tư cho rằng,
xét về bản chất là chiếm đoạt tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản thì đồng thời
tác động tới hoạt động của cơ quan tổ chức, bởi tài sản tư nhân không tồn tại độc
lập mà gắn liền với tài sản của tổ chức tư nhân và tác động tới hoạt động của các tổ
chức này. Vì thế, về tác động và tổn thương của khách thể do hành vi tham ô gây ra
đối với lĩnh vực tư tương đương với lĩnh vực công, mức độ nghiêm trọng của hành
vi này cũng không thấp nên cần thừa nhận tham ô trong lĩnh vực tư để có căn cứ xử
lý các hành vi này. Hơn nữa, người thực hiện hành vi tham ô tại lĩnh vực tư tuy
không phải công chức nhưng là người được giao trách nhiệm quản lý tài sản và có
12
chức vụ trong đơn vị tư nhân đó; họ sử dụng vị trí và trách nhiệm của mình để
chiếm đoạt tài sản.
* Mặt khách quan của tội phạm
- Về hành vi khách quan. Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản mà
chủ thể phạm tội có trách nhiệm quản lý được thực hiện bằng thủ đoạn lợi dụng
chức vụ quyền hạn. Hành vi chiếm đoạt là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản
từ chủ sở hữu thành tài sản của mình. Đối tượng bị chiếm đoạt là những tài sản mà
người phạm tội được giao quản lý. Người phạm tội đã lợi dụng trách nhiệm quản lý
tài sản được giao, chiếm đoạt tài sản mà mình đang quản lý. Thủ đoạn lợi dụng
trách nhiệm quản lý tài sản này có thể khác nhau nhưng thực chất đều là sử dụng
chức vụ quyền hạn được giao như điều kiện, phương tiện để có thể thực hiện hành
vi tham ô tài sản, biến tài sản được giao quản lý thành tài sản của mình.
Có thể thấy, chức vụ, quyền hạn là yếu tố tạo điều kiện để chủ thể của tội
phạm này thực hiện hành vi phạm tội, bởi khi có quyền quản lý tài sản người ta có
thể tự quyết định điều khiển, sử dụng tài sản đó theo mục đích của họ làm nảy sinh
nhu cầu chiếm hữu để sử dụng cá nhân. Hơn nữa, mặt trái quyền lực làm cho con
người nảy sinh ham muốn biến quyền lực thành lợi ích cho cá nhân. Thực tiễn
nghiên cứu qua nhiều vụ án tham ô đã chứng minh điều đó, dù trong lĩnh vực công
hay lĩnh vực tư thì hành vi tham ô được thực hiện bởi người có chức vụ; nếu không
có chức vụ hoặc có quyền quản lý tài sản thì cá nhân không có điều kiện thực hiện
hành vi phạm tội của mình; đây chính là điều kiện khách quan của hành vi này.
Từ những phân tích trên có thể thấy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô
tài sản phải do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản do
tài sản đó đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; có nghĩa người
phạm tội phải lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản
lý thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện nhưng hành vi đó không liên quan gì đến chức vụ, quyền
hạn của họ; tức là họ không dựa vào điều kiện khách quan của mình để chiếm đoạt
tài sản thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị quy vào tội tham ô tài sản.
13
Về bản chất, tội phạm sử dụng chính quyền hạn và trách nhiệm của mình để chiếm
đoạt tài sản nên tham ô tài sản thực chất là chiếm đoạt tài sản của người khác. Dấu
hiệu này là đặc trưng cơ bản của tội tham ô tài sản để phân biệt với các tội chiếm
đoạt tài sản khác.
- Về đối tượng tài sản bị chiếm đoạt
Đối tượng của hành vi tham ô tài sản chính là tài sản mà chủ thể được giao
quản lý. Trong trường hợp này, đối tượng tác động của tội phạm chính là tài sản mà
người có chức vụ, quyền hạn đang trực tiếp quản lý và thông qua việc tác động đến
tài sản này, họ mới có thể xâm hại đến khách thể của tội phạm.
Đối tượng của hành vi tham ô có những điểm khác nhất định so với đối
tượng của các hành vi phạm tội khác trong nhóm tội tham nhũng, bởi các tội tham
nhũng khác tác động vào đối tượng không phải chỉ là tài sản mà còn có các yếu tố
phi vật chất khác, hay các quyền lợi khác. Ví dụ: Tội nhận hối lộ thì có thể là tài sản
nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng nhận hối lộ còn có thể là nhận các lợi ích tình
dục, giải trí... và đối tượng của hành vi hối lộ không phải tài sản của khách thể là cơ
quan nhà nước.
Tài sản bị chiếm đoạt này bao gồm cả hai dạng tài sản công và tư; trong lĩnh
vực tư tài sản của các đơn vị và tổ chức tư nhân được các thành viên đóng góp
chung hoặc sở hữu của cá nhân đã tin tưởng giao cho chủ thể phạm tội quản lý,
nhưng chủ thể đã chuyển dịch đối tượng để chiếm đoạt. Việc chuyển dịch đối tượng
trái phép, trái với qui định của pháp luật dân sự về cơ sở thiết lập quyền sở hữu tài
sản nên mặc dù dịch chuyển được tài sản nhưng người phạm tội không thiết lập
được quyền sở hữu đối với tài sản. Chính dựa trên cơ sở này mà luật hình sự quy
định các biện pháp tư pháp như: Tịch thu tiền, bạc, tài sản do phạm tội mà có để thu
lại tài sản mà người phạm tội chiếm giữ bất hợp pháp. Đồng thời với việc dịch
chuyển trái phép tài sản của người phạm tội thì chủ sở hữu tài sản bị mất quyền
kiểm soát đối với tài sản trên cả ba phương diện: quyền chiếm giữ, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản. Quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp chỉ được
khôi phục khi tội phạm bị phát hiện, xử lý và tài sản được thu hồi. Mặt khác, đối
14
tượng bị tác động của hành vi tham ô thường diễn ra trong thời gian dài và chỉ dừng
lại khi bị phát hiện, cho nên tài sản bị chiếm đoạt rất lớn; có thể nói là lớn nhất
trong nhóm tội xâm phạm về quan hệ sở hữu, bởi điều kiện khách quan giúp chủ thể
chiếm đoạt tài sản khó bị phát hiện.
Đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản nhưng cũng có nhiều điểm
khác với các tội chiếm đoạt tài sản khác, bởi tài sản ở đây là của nhiều người được
đại diện bằng sở hữu chung mà chủ thể có trách nhiệm quản lý, các tội chiếm đoạt tài
sản như: lừa đảo, trộm cắp... thì tài sản bị chiếm đoạt tồn tại ở nhiều dạng sở hữu
khác nhau.
Như vậy, có thể thấy đặc trưng cơ bản ở đối tượng bị chiếm đoạt trong tội
tham ô tài sản là tài sản của tập thể bị chủ thể tác động để chuyển sở hữu tài sản.
Việc nhận diện đúng hành vi phạm tội tham ô nhằm phân biệt với các tội tham
nhũng và các tội chiếm đoạt tài sản khác.
- Về thủ đoạn của hành vi tham ô tài sản
Thủ đoạn thực chất là phương thức mà chủ thể phạm tội sử dụng để tham ô tài
sản, trong phương thức bao gồm phương pháp, công cụ và phương tiện thực hiện
hành vi; các yếu tố này được kết hợp và vận dụng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tội tham ô tài sản có dấu hiệu cấu thành là vật chất, người phạm tội phải chiếm đoạt
được tài sản thì tội phạm mới ở giai đoạn hoàn thành; nhưng hậu quả của tội phạm
không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của tội tham ô mà chỉ có ý nghĩa
xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm và xác định khung, mức hình phạt.
Xuất phát từ điều kiện khách quan, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn
chiếm đoạt tài sản do mình quản lý được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: lén lút,
gian dối, công nhiên.... Các thủ đoạn được tội phạm tham ô hay sử dụng là lợi dụng
quyền quản lý tài sản lén lút chiếm đoạt tài sản đó. Ví dụ: thủ quỹ A của một cơ
quan được giao quản lý tài sản của đơn vị, nhưng trong thời gian dài thủ quỹ này đã
lén lút lấy tiền của cơ quan để chi tiêu cá nhân, sau khi bị phát hiện thì không có
khả năng hoàn trả. Hành vi này được thực hiện dựa trên điều kiện khách quan được
giao trách nhiệm giữ tài chính cho đơn vị, hành vi lén lút này là phương thức khá
15
phổ biến mà tội phạm thường xuyên sử dụng. Ngoài thủ đoạn lén lút, thủ đoạn “gian
dối” cũng là hình thức mà tội phạm tham ô thường sử dụng, ví dụ: Nhân viên của
ngân hàng nhà nước đã thực hiện hành vi gian dối là lập chứng từ khống để rút tiền
của người gửi, thủ đoạn này đã giúp chủ thể chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng, gây thiệt
hại lớn cho ngân hàng. Xét ở khía cạnh thủ đoạn thì hành vi gian dối là phương thức
được thực hiện với tính xảo quyệt hơn các thủ đoạn khác và khó bị phát hiện hơn
nên thường gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thì
cách thức chiếm đoạt tài sản không phải là “lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt
tài sản do mình quản lý” mà bằng cách thức “gian dối”, “lạm dụng tín nhiệm”...
Dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” chỉ là tình tiết tăng nặng định khung hoặc
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi tham ô, người phạm
tội có thể có những thủ đoạn gian dối; đương nhiên những thủ đoạn này không phải
là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội tham ô tài sản.
Tuy nhiên, các thủ đoạn gian dối có ý nghĩa trong việc xác định tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham ô, ý nghĩa trong việc quyết định
hình phạt, bởi lẽ thủ đoạn càng tinh vi, xảo quyệt thì càng phản ảnh rõ hơn mức độ
lỗi (mặt chủ quan), và cũng tạo điều kiện cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản với
số lượng nhiều hoặc có giá trị lớn hơn (mặt khách quan).
* Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan là nhân tố bên trong điều khiển hoạt động của con người, mặt
chủ quan của tội tham ô tài sản chính là các yếu tố bên trong thuộc về chủ thể chỉ
đạo chủ thể thực hiện hành vi phạm tội của họ.
Do chủ thể thực hiện hành vi tham ô là chủ thể đặc biệt, họ có quyền và trách
nhiệm quản lý tài sản, để có được quyền đó họ phải có khả năng sử dụng, tự quyết
về tài sản đó; tức là họ có đầy đủ năng lực nhận thức bình thường; ý thức được vai
trò trách nhiệm của bản thân trong sử dụng tài sản đó; ý thức được tính chất, rủi ro
khi bị thất thoát tài sản và hậu quả mà bản thân phải gánh chịu khi vi phạm các quy
định trong quản lý tài sản.
16
Ở khía cạnh cá nhân, chủ thể thực hiện các hành vi tham ô là những người
được giao quyền tức là họ có năng lực nhận thức pháp luật đầy đủ, có đủ khả năng
đánh giá được hành vi và những quy định của luật pháp về tội danh này. Tuy nhiên,
do tư lợi cá nhân hay những ham muốn trước mắt mà bản thân chủ thể vẫn thực hiện
hành vi tham ô tài sản nhằm chiếm đoạt cho bản thân hoặc cho những người có mối
quan hệ thân thích như: vợ, con.. Vì vậy, đây là hành vi cố ý mà cá nhân chủ định từ
trước và nhận thức đầy đủ về hậu quả phải chịu trước pháp luật; chính đặc điểm này
nói lên tính chất nghiêm trọng của tội danh tham ô vì đó không phải là hành vi sơ ý
không chủ định của người thực hiện hành vi phạm tội. Việc đánh giá đúng nhân tố
chủ quan tham gia trong hành vi phạm tội của tội phạm tham ô có ý nghĩa tích cực
trong việc xây dựng cơ chế pháp lý để đấu tranh với loại tội phạm này.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể là cá nhân hoặc nhóm người thực hiện một hoạt động nhất định, bất
kỳ hoạt động nào cũng được thực hiện bằng chủ thể nhất định. Do tội tham ô tài sản
thuộc nhóm tội liên quan tới chức vụ nên chủ thể của tội danh này phải là chủ thể
đặc biệt đó là người được giao trách nhiệm về quản lý tài sản, tức là họ là người có
chức vụ và quyền hạn trong cơ quan, tổ chức. Chủ thể của tội tham ô tài sản được
chia thành hai dạng chủ thể trực tiếp và đồng phạm
Chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi tham ô tài sản phải là người có trách
nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không
được xem là chủ thể của tội tham ô tài sản; vì họ có thể là chủ mưu của hành vi
tham ô khi phạm tội có tổ chức hoặc là người thực hiện hành vi khi phạm tội không
có tổ chức. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt một người có thể trở thành chủ
thể của tội tham ô tài sản hay là chủ thể của số tội phạm khác có tính chất chiếm
đoạt. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp
quản lý tài sản như: kế toán, thủ quỹ, thủ kho, người được giao vận chuyển tài sản
cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình… Ngoài ra, còn những người tuy không được
giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc
thu, chi, xuất, nhập, mua bán, trao đổi tài sản như: người đứng đầu trong các cơ
17
quan, tổ chức, giám đốc công ty là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định
về tài sản của cơ quan, tổ chức.
Dạng chủ thể thứ hai là đồng phạm, những người này không có chức vụ,
không được giao trách nhiệm quản lý, bảo quản tài sản, không phải người thuộc tổ
chức của khách thể bị xâm phạm nhưng họ giữ vai trò giúp sức, tiếp tay cho chủ thể
trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thì họ vẫn là chủ thể nhưng ở dạng đồng phạm.
Trong thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản việc xác định chủ thể chủ mưu và chủ thể ở
dạng đồng phạm; việc làm rõ tính chất của từng chủ thể giúp đưa ra các biện pháp
xử lý phù hợp, tránh sai sót trong hoạt động xét xử.
1.1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác
Trong nhóm tội phạm liên quan đến chức vụ, tham ô là loại tội phạm có tỉ
lệ phạm tội cao, do đặc trưng về mục tiêu phạm tội cũng như khách thể bị tác
động tới. Do vậy, tham ô tài sản và các tội danh khác cũng có nhiều điểm tương
đồng nhưng cũng tồn tại những đặc trưng riêng nên cần làm rõ các điểm này để
xác định rõ hơn các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản, qua đó đánh giá
đúng thực tiễn vận dụng pháp luật và làm cơ sở xây dựng chế tài pháp lý trong
giải quyết các vụ án tham nhũng.
* Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội trong nhóm tội liên quan tới
chức vụ
Tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” là tội phạm khá đặc trưng trong nhóm tội liên quan đến chức vụ, bởi chủ thể
trong tội này cũng giống như tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn và
sử dụng yếu tố khách quan này để phạm tội và gây thiệt hại về kinh tế cho cơ quan,
tổ chức. Tuy nhiên, khác biệt giữa hai tội danh này là tính chiếm đoạt về mặt tài sản
ở tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” không xảy ra như trong tội tham ô; ví dụ: Giám đốc của công ty X vi phạm
quy định về sử dụng vốn của đơn vị trong đầu tư kinh doanh dẫn tới làm ăn thua lỗ
gây thiệt hại cho đơn vị, nhưng bản thân vị giám đốc này không chiếm đoạt số tài
sản đó; nhờ căn cứ này mà giám đốc không phạm tội tham ô tài sản
18
Đối với tội nhận hối lộ, chủ thể thực hiện cũng là người có chức vụ, quyền
hạn và lợi dụng chức vụ để thực hiện hành vi phạm tội; nhưng khách thể phạm tội
không hẳn là tài sản mà là những sản phẩm vật chất hoặc thậm chí là theo pháp luật
của nhiều nước, bao gồm cả các sản phẩm phi vật chất khác nên đối tượng bị tác
động trong hành vi hối lộ có phạm vi rộng hơn so với tội tham ô tài sản. Mặt khác,
chủ thể nhận hối lộ không phải quản lý trực tiếp tài sản, tức tài sản đó không thuộc
quan hệ công việc mà chủ thể đang thực hiện. Cho nên khách thể chịu sự tác động
của hối lộ rất đa dạng trong quan hệ sở hữu về tài sản hay nguyên tắc hoạt động của
cơ quan, tổ chức. Ví dụ: Giám đốc một cơ quan đã nhận “quà” hối lộ là “tình” và
“tiền” của nhân viên sau đó sắp xếp vị trí làm việc thuận lợi hơn cho nhân viên này.
Ngoài ra có thể phân biệt tội tham ô tài sản với một tội danh khác trong nhóm
tội phạm liên quan tới chức vụ là “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản”. Do đặc trưng nhóm tội liên quan tới chức vụ nên cả hai tội danh này đều có
điểm chung là có dấu hiệu lợi dụng chức vụ quyền hạn nhưng tội tham ô tài sản tác
động tới đối tượng mà chủ thể quản lý trực tiếp và có thể có những thủ đoạn gian dối
trước, trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt như lập chứng từ giả, sửa
chữa sổ sách… để hợp thức hóa che dấu hành vi chiếm đoạt. Nhưng thủ đoạn gian
dối không phải là dấu hiệu bắt buộc mà trong những trường hợp nhất định có thể có ý
nghĩa trong việc quyết định hình phạt như là tình tiết tăng nặng: dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm. Nhưng “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, chủ
thể thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà họ không có trách nhiệm quản lý và bằng
thủ đoạn gian dối và thủ đoạn này là dấu hiệu bắt buộc, được tiến hành trước hoặc
liền ngay với hành vi chiếm đoạt; là cơ sở, nguyên nhân trực tiếp của việc chiếm
đoạt. Ví dụ: Một trưởng phòng T trong đơn vị nhà nước đã lợi dụng chức vụ của
mình lập phiếu chi có chữ ký giả của thủ trưởng cơ quan đưa cho thủ quỹ để rút tiền,
thủ quỹ vì tin tưởng là người cùng cơ quan có chức vụ nên không kiểm tra mà chi
tiền dẫn tới thiệt hại về tài sản. Trong trường hợp này, vị trưởng phòng không có
trách nhiệm quản lý tài sản trực tiếp nhưng lợi dụng vị trí của mình, thực hiện hành vi
gian dối để chiếm đoạt tài sản. Đây chính là biểu hiện lạm dụng chức vụ, quyền hạn,
đồng thời là dấu hiệu cơ bản để phân biệt với tội tham ô.
19
* Phân biệt tội tham ô tài sản với nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội tham ô tài sản và các tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản đều có điểm chung
là tác động vào khách thể chiếm đoạt tài sản, trong đó chủ yếu là tài sản vật chất để
thỏa mãn nhu cầu cá nhân và gây tổn hại tới khách thể chịu sự tác động. Tuy nhiên,
giữa hai tội danh này có nhiều điểm khác biệt về chủ thể và khách thể.
Đối với tội tham ô tài sản, chủ thể của hành vi này là chủ thể đặc biệt là
người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản bị chiếm đoạt.
Ngược lại các tội danh liên quan tới trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm có chủ
thể đa dạng, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và trong đó người
phạm tội hoặc là hoàn toàn không liên quan gì đến tài sản và không có chức vụ,
quyền hạn và không có trách nhiệm quản lý tài sản và do đó, không có quyền định
đoạt, chiếm hữu, sử dụng tài sản bị chiếm đoạt. Ví dụ: Một tên trộm trèo vào nhà
hàng xóm để trộm cắp tài sản thì bản thân hắn không liên quan đến quản lý, định
đoạt về tài sản trộm cắp và không chức vụ, hay quyền hạn gì liên quan... Vì chủ thể
khác nhau nên điều kiện khách quan của các hành vi phạm tội này khác nhau, người
tham ô thì sử dụng công cụ để chiếm đoạt tài sản là địa vị, chức vụ và quyền hạn
của mình, các hành vi khác thì sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau.
Tội tham ô tài sản ngoài tác động đến quan hệ sở hữu còn tác động tới hoạt
động bình thường của cơ quan tổ chức, gây ra những thiệt hại về uy tín chính trị,
gây hoang mang dư luận, gây xói mòn lòng tin vào sự minh bạch và hiệu quả quản
lý kinh tế của nhà nước... nhưng trong nhóm tội trộm cắp, lừa đảo thì khách thể thiệt
hại về tài sản còn có thể bị thiệt hại về tính mạng, thân thể, vì vậy hậu quả của hai
hành vi này khác nhau.
Tóm lại, để xác định đặc trưng về tội tham ô tài sản thì việc phân tích dấu
hiệu pháp lý của tội danh này cũng cần làm rõ những điểm chung và điểm khác biệt
với các tội danh tương tự là cần thiết; nhằm nhận thức đầy đủ về dấu hiệu tội phạm,
qua đó giúp các nhà làm luật xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, phù hợp, tiến bộ
để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hiện nay.
20
1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự
Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguồn gốc sâu xa
của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham của
cá nhân. Trong xã hội còn phân chia giai cấp hiện hữu những cơ quan quyền lực có
chức năng điều hòa những lợi ích của những nhóm người khác nhau, thậm chí đối
lập nhau để hình thành một trạng thái cân bằng chung. Tuy nhiên, quyền lực của
những cơ quan đó lại chỉ có thể hiện và được thực thi thông qua hành động của
những con người cụ thể nắm quyền lực trong các cơ quan đó. Trong khi đó mỗi con
người đều hành động dưới sự hướng dẫn của nhu cầu cá nhân mà nhu cầu cá nhân
lại lớn hơn khả năng có thể tự thỏa mãn của họ. Vì thế, một số người nắm quyền lực
nảy sinh động cơ tận dụng đến mức cao nhất quyền lực do địa vị xã hội, chức vụ
nhà nước giao để thỏa mãn một cách không chính đáng nhu cầu của họ. C. Mác nói
rằng: "Lịch sử loài người là lịch sử của những con người hành động nhằm theo
đuổi những mục đích của mình, nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình". Sự lạm
dụng quyền lực công cho để thỏa mãn nhu cầu cá nhân là tham nhũng.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, tệ nạn tham
nhũng cũng đang trở thành thách thức cơ bản của đất nước. Nguyên nhân do tàn dư
của thói xấu trong xã hội cũ chưa xóa được như: tham ô, hách dịch, cửa quyền…
Việc quy định tội tham ô tài sản trong luật Hình sự có ý nghĩa quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng và khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và
Nhà nước ta trong phòng, chống tham nhũng nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo
và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ
sự sống còn của chế độ chính trị cũng như góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước ta.
Từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành
pháp và tư pháp đã tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm tham ô
tài sản. Trong những năm gần đây, mặc dù tội phạm đang ngày càng sử dụng các thủ
đoạn tinh vi nhưng công tác đấu tranh với tội phạm tham nhũng đã dành được nhiều
kết quả tích cực về chất lượng; bao gồm quá trình đấu tranh ngăn ngừa phạm tội, kết
21
quả thi hành án, thu hồi tài sản tham ô; nhiều vụ án lớn như: Vinaline, Vinashin đã
được đưa ra xét xử đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đem lại niềm tin cho
nhân dân. Thực tiễn tình hình tội phạm thì tội tham ô tài sản là tội phạm có tỉ lệ phạm
tội khá cao. Theo Báo cáo phòng chống tham nhũng của Chính phủ năm 2010 tội
tham ô tài sản chiếm 51.5% trong nhóm tội phạm tham nhũng cho thấy tội phạm
tham ô tài sản chiếm tỉ lệ lớn trong tội tham nhũng; việc đấu tranh ngăn chặn loại tội
phạm này sẽ đẩy mạnh hiệu quả trong cuộc chiến với tội phạm tham nhũng.
Mặt khác, đi liền với quy định về tội phạm là quy định về hình phạt trong
luật hình sự. Việc luật hình sự quy định mức hình phạt rất nghiêm khắc (cao nhất là
tử hình) cho thấy tính răn đe mạnh mẽ của nhà nước đối với loại tội phạm tham
nhũng. Trong xu hướng sửa đổi luật hiện nay vẫn có nhiều ý kiến cho rằng cần tiếp
tục có chế tài mạnh để hạn chế tội phạm này.
Việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự còn là căn cứ để xây dựng
hệ thống các văn bản hướng dẫn khác trong phòng chống tội phạm tham nhũng,
đồng thời đây cũng là minh chứng về mặt thể chế trong triển khai thực hiện Kế
hoạch thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế chính trị của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Thực tiễn trong những năm gần đây công cuộc đấu tranh chống tội phạm
tham nhũng đã có những bước tiến nhất định và đi vào quy củ hơn; Đảng và nhà
nước đã xây dựng được hệ thống tổ chức và hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức
chính trị để chống tham nhũng. Sau khi ban hành BLHS 1999 Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành 03 Nghị quyết có liên quan; trong đó Nghị quyết
số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự với nội dung sửa đổi tại điều 278; Hội đồng
thẩm phán cũng đã ban hành 07 nghị quyết; Chính phủ ban hành 06 nghị định; các
cơ quan có liên quan đã ban hành 17 thông tư liên tịch liên quan đến việc thi hành
Bộ Luật Hình sự năm 1999. Từ những quy định về tội tham ô trong BLHS 1999,
Quốc Hội khóa 12 đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, đây là
22
bước tiến tích cực trong cuộc đấu tranh, chống tham nhũng của nước ta. Để có được
kết quả trên thì quy định về tội tham ô tài sản, hình phạt đối với tội danh này trong
luật Hình sự là căn cứ có tính quyết định cơ bản đối với hệ thống văn bản pháp luật
liên quan sau này.
Do vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản về chủ thể và khách thể của tội
danh này cũng như mức hình phạt được áp dụng là căn cứ để ban hành các văn bản
hướng dẫn thực hiện luật như: Nghị quyết, thông tư, nghị định… và từ những quy
định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành pháp và tư pháp đã
tiến hành hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham ô tài sản.
Như vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự - đạo luật có
vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong hệ thống pháp luật và trong đời sống xã hội, cần tích
cực củng cố kiện toàn hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả
của pháp luật nói chung và hệ thống luật pháp đối với tội danh tham nhũng. Đây là
nhân tố quyết định cơ bản dẫn tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng hiện nay.
1.2. Tội tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế
1.2.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (United Nations Convention
against Corruption – UNCAC, được thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 31 tháng 10 năm 2003 tại Nghị quyết 58/4) là một điều ước quốc tế đa
phương do các quốc gia và các tổ chức quốc tế thoả thuận xây dựng nên qua quá
trình đàm phán, với mục tiêu là hình thành một khuôn khổ pháp lý toàn cầu cho sự
hợp tác giữa các quốc gia nhằm phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tình trạng
tham nhũng. Công ước gồm 8 Chương và 71 Điều, cụ thể: Chương I: Những quy
định chung, từ Điều 1 đến Điều 4, quy định mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của
Công ước. Chương II: Các biện pháp phòng ngừa, từ Điều 5 đến Điều 14, quy định
chính sách và hành động chống tham nhũng của quốc gia; cơ quan phòng, chống
tham nhũng; khu vực công; quy tắc ứng xử cho công chức; báo cáo công khai; khu
vực tư; mua sắm tài sản công; quản lý tài chính công; sự tham gia của xã hội trong
23
phòng, chống tham nhũng; các biện pháp liên quan đến truy tố và xét xử hành vi
tham nhũng. Chương III: Hình sự hoá và thực thi pháp luật, từ Điều 15 đến Điều 42,
quy định thành tội phạm các hành vi tham nhũng và các biện pháp hỗ trợ, tăng
cường hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với các hành vi đó. Chương IV: Hợp
tác quốc tế, từ Điều 43 đến Điều 50, quy định hợp tác quốc tế về dẫn độ, chuyển
giao người bị kết án, tương trợ pháp lý, chuyển giao vụ án hình sự, hợp tác thực thi
pháp luật, liên kết điều tra và kỹ thuật điều tra đặc biệt đối với hành vi tham nhũng.
Chương V: Thu hồi tài sản, từ Điều 51 đến Điều 59, quy định việc phòng ngừa và
phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; các biện pháp và cơ chế hợp tác quốc tế
vì mục đích thu hồi, hoàn trả và định đoạt tài sản tham nhũng. Chương VI: Hỗ trợ
kỹ thuật và trao đổi thông tin, từ Điều 60 đến Điều 62, quy định về đào tạo và hỗ trợ
kỹ thuật; thu thập, trao đổi và phân tích thông tin về tham nhũng; các biện pháp
khác thi hành Công ước thông qua phát triển kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật. Chương
VII: Các cơ chế thi hành Công ước, từ Điều 63 đến Điều 64, quy định cơ chế thi
hành Công ước. Chương VIII: Các điều khoản cuối cùng, từ Điều 65 đến Điều 71.
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định tham ô là “hành vi của
công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân
hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất
cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do địa vị của mình
Công ước đặt ra việc phòng, chống tham nhũng ở cả khu vực công và khu
vực tư. Cụ thể, ở khu vực công, các quốc gia thành viên cần nỗ lực ban hành, duy trì
và củng cố các chính sách nhằm tăng cường minh bạch, hiệu quả hoạt động của khu
vực công, bao gồm: cải cách chế độ tuyển dụng, thuê, sử dụng, đề bạt và hưu trí đối
với công chức; thúc đẩy sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong đội ngũ
công chức, trong đó có việc nghiên cứu ban hành và tổ chức thực hiện những quy
tắc hoặc chuẩn mực xử sự đối với công chức; xây dựng các cơ chế mua sắm công
phù hợp, cạnh tranh và khách quan; áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm tăng
cường minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài chính công; tăng cường minh
bạch trong quản lý hành chính công cùng với các hoạt động tổ chức, thực hiện chức
24
năng và ra quyết định. Ở khu vực tư, Điều 12 của Công ước quy định các quốc gia
thành viên Công ước, trên cơ sở luật pháp quốc gia, áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các chuẩn mực kế toán,
kiểm toán liên quan đến khu vực tư; ban hành các chế tài dân sự, hành chính hoặc
hình sự có hiệu lực đối với các hành vi vi phạm.
Từ cách đặt vấn đề nêu trên, UNCAC đặt ra nghĩa vụ cho các Quốc gia thành
viên phải hình sự hoá các hành vi quy định từ Điều 15 đến Điều 25 của Công ước,
gồm: hối lộ công chức quốc gia; hối lộ công chức nước ngoài hoặc của tổ chức quốc
tế công; tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công chức; Lạm
dụng ảnh hưởng để trục lợi; Lạm dụng chức năng; Hối lộ trong khu vực tư; Biển thủ
tài sản trong khu vực tư; Che dấu tài sản; Cản trở hoạt động tư pháp. Đối với việc
hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20) và hành vi tẩy rửa tiền và tài
sản do phạm tội mà có (Điều 23), các quốc gia thực hiện dựa trên cơ sở phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên thực hiện sáng quyền lập pháp,
với việc tham gia chủ động và đầy đủ 07 vòng đàm phán xây dựng Công ước và là
một trong những quốc gia đầu tiên ký Công ước. Ngày 30-6-2009, Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN về
việc phê chuẩn Công ước về chống tham nhũng. Trên cơ sở quyết định phê chuẩn
của Chủ tịch nước và thực hiện đồng bộ với Chiến lược quốc gia phòng, chống
tham nhũng đến năm 2020, ngày 7-4-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt
Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Việc hình
sự hóa tội tham ô tài sản đã được pháp luật hình sự Việt Nam hình sự từ trước khi
phê chuẩn Công ước, thể hiện quan điểm về chống tham nhũng và chính sách hình
sự của của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng phản ánh quá trình hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật của Việt Nam trong những năm gần đây.
1.2.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô
tài sản
* Tội tham ô tài sản trong luật hình sự của Trung Quốc
Trung Quốc, một trong những đất nước được đánh giá có mức độ tham
25
nhũng cao trên thế giới, nên hệ thống luật pháp của nước này đã quy định khá rõ về
nhóm tội tham nhũng; Bộ luật Hình sự của nước này năm 1997 quy định tham
nhũng bao gồm các tội: tham ô, hối lộ, lừa đảo, đồng thời còn xác định thêm một số
hành vi khác cũng bị truy cứu về tội tham nhũng như chiếm đoạt công quỹ, che giấu
các khoản tiền gửi ở ngân hàng, nhận các loại quà tặng có giá trị lớn.
Tội tham ô được quy định tại Chương VIII của Bộ luật hình sự nước này và
thể hiện ở hai Điều 382 và 383 [12, tr.228]. Trong cách hiểu về hành vi tham ô tài
sản được quy định tại đây, thì khách thể của hành vi tham ô là tài sản công quỹ của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước và tài sản của
công dân; cho thấy trong luật hình sự của Trung Quốc quy định rõ tội tham ô trong
lĩnh vực tư. Cũng trong nội dung luật chỉ rõ chủ thể thực hiện hành vi tham ô phải là
“nhân viên nhà nước”, tức là cán bộ công chức được giao quyền và trách nhiệm
công vụ mà có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Đối với quy định về hình phạt, Bộ luật hình sự của Trung Quốc quy định 4
mức độ khác nhau với các mức độ từ phạt cải tạo không giam giữ đến tử hình; mức
hình phạt này thể hiện sự cương quyết trong chống tham ô, tham nhũng của Trung
Quốc. Như vậy, quy định của Bộ luật Hình sự Trung Quốc về tội tham ô có nhiều
điểm tương đồng với Việt Nam về chủ thể phạm pháp và mức hình phạt. Trung
Quốc cũng đi trước Việt Nam với việc quy định cả tham ô trong lĩnh vực tư.
* Tội tham ô tài sản trong quy định trong Bộ luật hình sự Thủy Điển
Nội dung này được quy định tại Chương 10 và thể hiện ở 3 điều (từ điều 1
đến điều 3 thuộc chương này). Theo quy định của Thụy Điển thì:
Người nào thay mặt người khác quản lý tài sản và chịu trách nhiệm chuyển
giao hoặc giải trình đối với tài sản thông qua một hợp đồng hoặc dịch vụ công cộng
hoặc tư nhân hoặc các hoàn cảnh tương tự, mà chiếm đoạt tài sản đó hoặc có hành
vi khác không tuân thủ các quy định trong việc thực hiện trách nhiệm của mình và
nếu hành vi đó mang lại lợi ích của mình và gây thiệt hại cho chủ sở hữu thì bị phạt
tù đến hai năm về tội tham ô [37, tr.84]
Với quy định này, luật Hình sự của Thụy Điển coi hành vi tham ô trong cả
26
lĩnh vực tư và công, chủ thể của tội phạm này là người có trách nhiệm quản lý; cho
thấy quan niệm về khách thể của tội này rộng hơn quan niệm trong pháp luật của
nước ta hiện nay nhưng chủ thể thì có sự tương đồng với quy định trong luật của
nước ta. Về mặt hình phạt, đối với tội này thì Luật Hình sự của Thụy Điển có mức
hình phạt thấp hơn, chỉ có hình phạt tù có thời hạn chứ không có hình phạt chung
thân và tử hình.
* Tội tham ô tài sản quy định trong Bộ luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật Hình sự của Nhật Bản bao gồm 264 điều, tội tham ô được quy định
tại Điều 253 “tham ô trong công việc” với quy định cụ thể “người nào tham nhũng
chiếm đoạt tài sản của người khác mà mình đang chiếm hữu vì lý do công việc thì bị
phạt tù dưới 10 năm” [14, tr.190] Như vậy quan niệm về tham ô trong luật Hình sự
Nhật Bản rất chung mà không tách biệt về mặt khách thể thuộc quan hệ sở hữu nào,
nhưng theo cách gọi này thì mọi quan hệ sở hữu tài sản nếu bị xâm hại thì đều bị
quy vào tội tham ô với chủ thể thực hiện hành vi trong khi giải quyết công việc.
Cách quy định chung như vậy cho thấy trong luật của Nhật Bản không phân biệt
tham ô trong lĩnh vực công hay tư mà chỉ căn cứ vào chủ thể thực hiện hành vi có
liên quan đến công vụ. Tuy cách quy định chung khiến cho việc xác định tính
nghiêm trọng của tội danh nhưng cũng tạo thuận lợi cho việc vận dụng các hành vi
phạm tội. Về mức hình phạt trong tội này ở Nhật Bản quy định dưới 10 năm, đây có
thể là hình phạt khá nhẹ cho hành vi này.
* Tội tham ô tài sản trong quy định trong Bộ Luật Hình sự của Liên Bang Nga
Nước Nga là đất nước có thể chế và quy định pháp luật khá nghiêm ngặt,
mang tính hệ thống và chặt chẽ. Bộ luật Hình sự nước này có 360 điều và không
quy định riêng về tội tham ô mà quy định thành “Tội chiếm hữu và biển thủ tài sản”
được quy định tại Điều 160, nội dung của điều luật này được sửa đổi vào năm 2003;
theo đó cách hiểu về tham ô tài sản là “chiếm đoạt tài sản mà người khác đã giao
phó”. Như vậy, cũng giống như Nhật Bản luật pháp nước Nga không phân khách
thể chịu sự tác động của hành vi tham ô mà quy định chung với tên gọi và hình thức
xử lý, đây cũng là quan niệm phù hợp của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hành
27
vi chiếm hữu và biển thủ tài sản nếu như lợi dụng chức vụ sẽ bị phạt nặng hơn các
mức độ khác [39, tr. 260]
Về hình phạt, Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga quy định 4 mức hình phạt
tương ứng với độ vi phạm của hành vi; trong quy định này có hai hình phạt được
thực hiện đồng thời phạt tiền và phạt tù. Đối với hình phạt tù pháp luật Liên Bang
Nga chỉ quy định tù có thời hạn mà không có các mức hình phạt cao hơn như chung
thân hoặc tử hình, khác với quy định về luật pháp của nước ta hiện nay về mức hình
phạt và quan niệm về tội tham ô tài sản.
Ở Singapo, tội tham ô tài sản được quy định trong Luật Hình sự của nước
này khá chặt chẽ với các mức độ khác nhau; luật pháp nước này sử dụng các hình
phạt tổng hợp, nhưng chú trọng các hình phạt đến tài chính và không quy định các
hình phạt tử hình đối với tội phạm này. Bên cạnh việc sử dụng hệ thống hình phạt
hỗ trợ, pháp luật Singapo có nhiều chính sách nhằm giảm tỉ lệ tội phạm này bằng
chế độ lao động và phúc lợi đảm bảo quyền cho cán bộ, công chức.
Tóm lại, qua nghiên cứu tội tham ô tài sản trong luật Hình sự một số nước
trên thế giới chúng tôi thấy rằng, phần lớn các nước đã quy định rõ về tội này, trong
đó quy định về khách thể của hành vi tham ô bao gồm cả lĩnh vực tư; đặc điểm này
khác với luật pháp hiện hành của nước ta trong những năm vừa qua mới chỉ thừa
nhận hành vi tham ô trong lĩnh vực công. Sự khác biệt thứ hai thể hiện ở hình phạt
các nước trên không áp dụng hình phạt chung thân và tử hình đối với loại tội phạm
này (trừ Trung Quốc), cho thấy quan điểm chính trị - pháp lý của họ đối với tội
phạm chức vụ và cách giải quyết đối với hành vi tham ô, tham nhũng tương đối đa
dạng và tồn tại ít nhiều các điểm khác biệt. Việc nghiên cứu quy định trong luật của
các nước giúp chúng ta có cách nhìn đầy đủ về tội tham nhũng, từ đó có thể tham
khảo để vận dụng vào nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật nước ta.
1.3. Tội tham ô tài sản trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến
Lịch sử dựng nước của dân tộc ta đã trải qua nhiều năm ở giai đoạn lịch sử
phong kiến với nhiều triều đại khác nhau, mỗi triều đại phong kiến đều đưa ra các
quy định chống nạn tham nhũng trong hệ thống bộ máy nhà nước. Các quy định của
28
từng vương triều được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có Bộ luật
Hình thư (Nhà Lý), Bộ Quốc triều hình luật (Nhà Trần), Bộ Quốc triều Hình luật –
Bộ luật Hồng Đức (Nhà Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ - Bộ luật Gia Long (Nhà
Nguyễn) đều có ghi nhận và trừng trị những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội của những người có chức vụ, quyền hạn trong xã hội thời bấy giờ; trong
đó hai bộ luật lớn Bộ luật Hồng Đức của triều hậu Lê và Hoàng Việt luật lệ của
triều Nguyễn, đây là hai bộ luật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử lập pháp ở nước ta
với những quy định khá đầy đủ về xử lý tội phạm trong đó có tội tham ô tài sản.
Nghiên cứu 2 bộ luật trên cho thấy, ông cha ta đã có những quy định rõ ràng
về tội tham ô, tham nhũng và có những hình phạt nghiêm khắc với loại tội phạm
này. Bộ luật Hồng Đức có một chương “vi chế” quy định về các hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, do yếu tố quan điểm và trình độ lập pháp ở thời điểm lịch sử này nên hệ
thống văn bản pháp luật trong các triều đại không có quy định riêng cho tội phạm
này mà tội tham ô được quy định bằng các hành vi cụ thể được liệt kê ở các dạng tình
huống khác nhau. Ví dụ Điều 110 Luật Hồng Đức quy định “quan thu thuế nếu dấu
bớt thuế thì coi như tội dấu đồ vật công, thu thêm thuế làm của riêng thì tội như thế
và phải bồi thường gấp đôi số tiền đó trả cho dân [47, tr.121]; Điều 392 Hoàng Việt
luật lệ (Luật Gia Long) quy định “người nào dùng thủ đoạn biển thủ, lấy trộm tiền
lương, vật tư kho cũng như mạo phá vật liệu để đem về nhà nếu tang vật thu được
trên 40 lượng thì bị chém” [46, tr.113]. Các quy định về tội tham ô tài sản được trình
bày ở nhiều chương khác nhau với những biểu hiện phạm tội lĩnh vực tương ứng.
Điều 9 (Chương I - Hộ dịch, Quyển VI) quy định:
Phàm các quan ty sai khiến dân sở tại làm việc riêng cho mình và quan giám
công sai dân thợ làm việc riêng cho mình ở nơi xa ngoài 100 dặm hoặc sai khiến lâu
ngày ở nhà mình, thì đối với quan ti cứ sai khiến 1 tên dân là bị xử đánh 40 roi, cứ 5
tên lại tăng thêm một mức, tội nặng nhất cũng chỉ đánh 80 trượng… [46, tr.406].
Tiếp đến, cả việc gây khó dễ ở cửa quan, bến đò cũng bị xử lý nghiêm khắc.
Điều 3 (Chương III - Quan ải, Quyển XI) quy định:
Người và thuyền bè qua lại nơi cửa quan, bến đò mà thủ bá không lập tức xét
29
hỏi, kiểm tra rồi quan đi qua mà vô cớ gây cản trở, thì cứ chậm một ngày bị xử phạt
20 roi, thêm một ngày thì xử tăng một mức, tội chỉ tới mức 50 roi. Nếu nhận hối lộ
thì chiếu theo lệ quan lại làm việc nhận hối lộ thì người hữu sự, luận tội uổng pháp,
tính theo số tang vật mà xử tội... [46, tr.501].
Đặc biệt, đề phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tham ô, Bộ luật còn quy định
tại Điều 5 - Tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản (Chương II - Ruộng
đất, Quyển VI) nêu rõ: “Phàm quan lại đương chức không được mua tậu ruộng đất,
nhà cửa ở khu vực mình cai quản. Nếu vi phạm, xử phạt 50 roi, bãi nhiệm, ruộng
đất nhà cửa đem sung công” [46, tr.417]; Điều 7 - Vay mượn riêng tiền lương của
công (Chương IV - Kho tàng, Quyển VIII) quy định:
Phàm giám thủ, chủ thủ đem các loại tiền lương của Nhà nước mượn riêng
hoặc chuyển cho người khác vay mượn, tuy có văn tự, đều bị tính theo tang vật
mà xử vào tội giám thủ tự lấy trộm... Nếu đem đồ vật của mình thay thế đổi lấy
đồ vật của Nhà nước thì cũng xử tội như thế. Đồ vật của riêng đó đem sung
công... [46, tr.461]; v.v...
Từ nghiên cứu những quy định trong luật của các triều đại phong kiến thấy
rằng; Các biểu hiện của tội tham ô được quy định khá đầy đủ và cụ thể; Hình phạt
được áp dụng cho tội này khá nặng, cho thấy sự nghiêm khắc của luật đối với hành
vi này, bao gồm cả hình thức phạt tù, tịch thu tài sản và hình phạt kèm theo như: bãi
miễn chức vụ. Tuy nhiên, cả hai bộ luật trên chưa phân các dạng tội phạm riêng và
tội tham ô tài sản cũng không có tên gọi riêng mà được quy định bằng các hành vi
phạm tội cụ thể.
Tóm lại, dù không được quy định thành mục riêng nhưng hành vi tham ô tài
sản là biểu hiện phạm tội đã được quy định ở nhiều dạng hình phạt khác nhau;
khẳng định sự chú trọng về mặt lập pháp trong đấu tranh với tội tham ô tài sản,
tham nhũng của nhà nước phong kiến. Những quy định này là tiền đề giáo dục nhận
thức cho thế hệ sau về phòng chống tệ tham ô, tham nhũng cũng như kinh nghiệm
quý báu trong xây dựng pháp luật đấu tranh với loại tội phạm này.
30
1.3.2. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam từ Cách mạng Tháng
tám năm 1945 đến nay
Trong quá trình lập pháp của nước ta, tội tham ô tài sản được quy định từ rất
sớm và được thay đổi điều chỉnh phù hợp với thực tiễn xây dựng của đất nước.
Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, những quy định về hành vi tham
ô tài sản đã được đặt ra trong mục tiêu chung là giữ gìn sự trong sạch của chính
quyền non trẻ, đồng thời khẳng định bản chất cách mạng, lợi ích quốc dân là mục
tiêu chính của chính quyền cách mạng.
Cụ thể, nhằm đề cao trách nhiệm của cán bộ đồng thời nghiêm trị các hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt của công, Sắc lệnh số 223 - SL ngày 27
tháng 11 năm 1946 quy định về tội biển thủ công quỹ đã được ban hành, trong đó
quy định "Tội công chức biển thủ công quỹ... bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm
và phạt bạc gấp đôi tang vật... biển thủ. Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu
nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt
như trên". Với một số tài sản nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực
an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản để
bảo vệ như Sắc lệnh số 12 ngày 12 tháng 3 năm 1949 về việc phạt tội ăn cắp, lấy
trộm tài sản của nhà binh...
Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 -1975 Thời kỳ này, tình
hình xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa có những diễn biến phức tạp, đáng chú ý là
có nhiều kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa, làm rối loạn chế độ quản lý, ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường của
cơ quan Nhà nước, đến tư tưởng đạo đức của cán bộ, nhân viên và nhân dân. Do
vậy, vấn đề quản lý tài sản nhà nước cũng đòi hỏi phải tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, phải bổ sung Luật và có biện pháp bảo đảm cho những Luật đó được thi
hành một cách có hiệu quả.
Trước tình hình thực tiễn đặt ra, Nhà nước ta đã ban hành các quy định khá
đẩy đủ về các tội có liên quan đến chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các văn bản luật
được ban hành trong giai đoạn này đã quy định rõ về một số tội như: “chiếm đoạt,
31
trộm cắp” tài sản của nhà nước… nhưng còn tồn tại bất cấp: chưa quy định rõ về
chủ thể của các hành vi phạm tội; các biện pháp và chế tài xử phạt chưa được rõ
ràng nên khi áp dụng vào thực tiễn còn nhiều lúng túng. Do vậy, các cơ quan thực
thi pháp luật gặp nhiều khó khăn khi vận dụng, không thống nhất về đường lối xử
lý. Để khắc phục tình trạng này, ngày 21 tháng 10 năm 1970, Nhà nước ta đã ban
hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm xã hội chủ nghĩa nhằm thể hiện thái độ
kiên quyết đấu tranh của Nhà nước ta đối với hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa đồng thời tạo thuận lợi hơn trong quản lý xã hội và trấn áp tội phạm.
Quy định của Pháp lệnh thể hiện bằng 3 chương, 25 điều, gồm nhiều tội danh
và mức hình phạt, trong đó có tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa. Nội dung quy
định về Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa được thể hiện tại Điều 8: "Kẻ nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6
tháng đến 7 năm. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm
đến 15 năm: Tái phạm nguy hiểm; Có tổ chức; Có móc ngoặc; dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm; tham ô tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
Dùng tài sản tham ô vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những
việc phạm tội khác. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc
có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt
tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình".
Trong quy định tại Pháp lệnh này thì tội tham ô không quy định chủ thể là
người có chức vụ, quyền hạn quản lý tài sản; mặt khác chưa định lượng cụ thể giá
trị tài sản phạm tội mà chỉ quy định chung chung về tham ô tài sản có số lượng lớn,
rất lớn, giá trị đặc biệt khiến nên khi vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó
khăn, lúng túng. Giá trị của các quy định của tội tham ô trong Pháp lệnh là đã làm
rõ khách thể của tội danh này, cũng như đưa ra các hình phạt có tính răn đe. Qua đó
thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về những hành vi xâm phạm tài sản
của nhân dân cần phải được trừng trị nghiêm minh và kịp thời, nhất là đối với
những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa. Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm xã hội chủ nghĩa đã cụ thể hoá
trách nhiệm của mọi người đối với việc tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
32
Mặt khác, ngày 15 tháng 3 năm 1976, Chính phủ cách mạng lâm thời miền
Nam đã ban hành Sắc lệnh 03-SLT ở miền Nam trước ngày chính thức thống nhất
tổ quốc, tội tham ô được quy định Điều 4 - Tội xâm phạm tài sản công cộng. Tài
sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của các tổ chức xã hội
và của tập thể nhân dân. Tài sản công cộng là thiêng liêng, tuyệt đối không được ai
xâm phạm. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, tham ô... thì bị phạt tù từ 6
tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội
trộm cắp, tham ô... mà tài sản chiếm đoạt rất lớn, hoặc có nhiều tình tiết nghiêm
trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung
thân hoặc bị xử tử hình." Sắc lệnh này ra đời do đòi hỏi
Sắc lệnh 03 - SLT không miêu tả các dấu hiệu tội phạm, và tồn tại Pháp lệnh
được ra đời vào năm 1970. Để đảm bảo tính thống nhất, tạo thuận lợi cho các cơ
quan thực thi luật pháp, ngày 8 tháng 3 năm 1978, Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên bộ số 61 hướng
dẫn thi hành pháp luật thống nhất, nhằm tiến tới vận dụng thống nhất Pháp lệnh
ngày 21/10/1970 trong cả nước.
Với sự phát triển của đất nước và đòi hỏi thực tiễn tội phạm cũng như tính
thống nhất và hoàn thiện pháp luật, năm 1985 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình
sự đầu tiên với 12 chương, 280 điều. Tại Điều 133, tội tham ô tài sản xã hội chủ
nghĩa được quy định:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
mà mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp say đây thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười lăm năm: Thông đồng với người khác ở trong hoặc ngoài cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Chiếm đoạt tài sản có giá trị
lớn; Tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì
bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Trong quy định về tội danh tham ô tài sản trong Bộ Luật Hình sự 1985 đã
quy định rõ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội tham ô tài sản phải là: Do người có
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04jackjohn45
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 

Similar to Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY

Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...HanaTiti
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY (20)

Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.docTội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
 
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAYLuận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải DươngLuận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOTLuận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
 
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
 
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCMLuận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
 
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAYTội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
 
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOTTội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN CƯỜNG Téi tham « tµi s¶n trong luËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN CƯỜNG Téi tham « tµi s¶n trong luËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Văn Cường
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN.............6 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự.................................................6 1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản..........................................................................6 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản .......................................................9 1.1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác................................17 1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự.................20 1.2. Tội tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế.............................................22 1.2.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng...................................22 1.2.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô tài sản ......24 1.3. Tội tham ô tài sản trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam...............27 1.3.1. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến...............27 1.3.2. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến nay ................................................................................30 Kết luận Chương 1..................................................................................................36 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ.....................................................37 2.1. Tội tham ô tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999..........37 2.2. Thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản trong những năm gần đây...............50 2.3. Những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội tham ô tài sản và nguyên nhân .........................................61
  • 5. 2.3.1. Những ưu điểm trong vận dụng quy định của pháp luật hình sự trong xử lý tội tham ô tài sản................................................................................61 2.3.2. Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản trong điều tra, truy tố, xét xử.................................63 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................77 Kết luận Chương 2..................................................................................................83 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ...................................................................................84 3.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự.............................................84 3.1.1. Những định hướng chung về chính sách hình sự........................................84 3.1.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định quy phạm pháp luật về tội tham ô tài sản.....................................................................................87 3.2. Các giải pháp khác ....................................................................................95 3.2.1. Nâng cao năng lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra, xử lý tội phạm tham ô tài sản ......................................................................95 3.2.2. Nâng cao vai trò của các cơ quan kiểm toán, thanh tra nội bộ, thanh tra chuyên ngành trong phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng.................97 3.2.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị, vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của dư luận xã hội và quần chúng nhân dân ....................................98 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài sản để hạn chế nguyên nhân điều kiện phạm tội ............................................................................100 Kết luận Chương 3................................................................................................103 KẾT LUẬN............................................................................................................104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................106
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CSĐT: Cảnh sát điều tra HĐXX: Hội đồng xét xử PCTN: Phòng chống tham nhũng TAND: Tòa án nhân dân TP: Thành phố VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 2.1. Hình phạt áp dụng đối với tội tham ô tài sản 2010 – 2014 55 Biểu đồ 2.1: Số lượng vụ án và bị cáo của tội tham ô tài sản trong giai đoạn 2010 – 2014 51 Biểu đồ 2.2: Số án tham ô tài sản trong nhóm tội danh tham nhũng giai đoạn 2010 – 2014 52 Biểu đồ 2.3: Số lượng án tham ô tài sản bị tòa án trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 54
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân và thật sự trong sạch, vững mạnh, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một căn bệnh, là hành động xấu xa nhất. Người cho rằng: “Tham ô là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là lấy của công làm của tư; đục khoét của Nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của chính phủ làm quỹ riêng cho địa phương, đơn vị mình cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là “ăn cắp của công, khai gian lậu thuế” [21, tr.488]. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn coi tham nhũng là một trong bốn nguy cơ lớn của nước ta và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng. Tiếp nối tư tưởng này của Đảng từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này”. Hiến pháp năm 2013, tại khoản 2 Điều 8 đòi hỏi: “... Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải thực sự tôn trọng nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” [26, Điều 8]. Trong cơ chế thị trường hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô, tham ngày càng gia tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán bộ, công chức cố tạo cho mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Hiện nay, tình hình tội phạm tham ô ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều rộng, lẫn chiều sâu và sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, xã
  • 9. 2 hội. Trong khi đó, BLHS năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật gần 15 năm, nhiều quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) không còn phù hợp nhưng chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các vụ án tham ô tài sản có tính chất nổi cộm, quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi, phức tạp và tổ chức chặt chẽ như Tham ô tài sản ở Vinashin, Vinaline, Tham ô tại Công ty cho thuê tài chính 2 ALC – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…; thực tế điều tra những vụ án tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng hiệu quả còn hạn chế đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều tra xét xử tội phạm tham ô tài sản. Do vậy học viên lựa chọn vấn đề: “Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Thời gian qua, đã có không ít công trình nghiên cứu về tội phạm tham ô tài sản. Tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003) của tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (tập II) của tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên (Nxb Công an nhân dân, 2010)… hoặc được đề cập trong một số bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản” của tác giả Trương Thị Hằng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; “Việc xác định tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Khắc Tiến đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; “Những vấn đề lý luận & thực tiễn về tội tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22/2006. Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khác ít nhiều có liên quan đến loại tội phạm này từ phương diện tội phạm học hoặc phương diện chính trị - xã hội học như: - “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới” của GS,TS Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS Nguyễn Hoà Bình, TS Bùi Minh Thanh, NXB Công an nhân dân, 2007.
  • 10. 3 - Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng phí được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn ngừa tham nhũng trong đầu tư xây dựng ở nước ta, Phạm Ngọc Đản, Đề tài nghiên cứu khoa học, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, 2006. - Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia năm 2010 của tác giả Phan Xuân Sơn. Ngoài ra nghiên cứu về đề tài này còn có Luận văn thạc sĩ “Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa và đấu tranh phòng, chống tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Văn Tiến và “Tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Quang Sơn năm 2004. Những nghiên cứu trên đây của các tác giả hoặc mới chỉ dừng lại dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học, khoa học thanh tra... hoặc đã nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập nhật những vấn đề mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc hơn đối với loại tội phạm này, bổ sung các thông tin mới về lý luận và thực tiễn, nhất là trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi năm 2015 nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những tồn tại trước đây. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam với pha ̣m vi nghiên cứ u thực tiễn áp dụng quy đi ̣nh của BLHS về tội phạm này từ năm 2010-2014 (5 năm) ở nước ta. 4. Mục đích và nhiê ̣m vụnghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Từ nghiên cứ u các vấn đề lý luâ ̣n , các vấn đề về luâ ̣t thực đi ̣nh và thực tiễn áp dụng quy định của luật thực định để xử lý tội tham ô tài sản , luâ ̣n văn mong muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản.
  • 11. 4 4.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứu của luận văn - Luâ ̣n văn đưa ra khái niệm , làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản, nghiên cứu so sánh, quá trình lập pháp hình sự đối với tội tham ô tài sản trong pháp luật của một số quốc gia thế giới và trong các giai đoạn phát triển của pháp luật hình sự nước ta; - Luận văn phân tích tình hình áp dụng pháp luật , xác định những khó khăn , vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội tham ô tài sản trong thực tiễn 5 năm gần đây, chỉ ra những ha ̣n chế và nguyên nhân trong quá trình áp dụng quy định về tội tham ô tài sản. - Luâ ̣n văn đưa ra được một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội tham ô tài sản và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trong thực tiễn. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong các công trình của một số nhà nghiên cứu khoa học. 6. Những điểm mới của luận văn - Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm các tri thức lý luâ ̣n về tội tham ô tài sản: Luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản, phân biệt với các tội danh khác, luận giải các dấu hiệu pháp lý về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm này theo quy định của BLHS năm 1999, nhận định, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam quy định về tội tham ô tài sản từ năm 1945 cho đến nay. - Luận văn đưa ra bức tranh tổng quan về thực tiễn vận dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2014. - Luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp hữu quan khác. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan
  • 12. 5 chức năng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hình sự đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng và tội phạm tham nhũng nói chung trong thời gian tới. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương 8 mục.
  • 13. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự 1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các Nhà nước và thời kỳ lịch sử - khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International Organisation- TIO), tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân; tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá nhân, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, tham nhũng, tham ô có điều kiện phát triển và một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng, tham ô làm thâm hụt công quỹ, rút ruột công trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Ở tầm khái quát cao hơn, có thể nói tham nhũng, tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội, thậm chí sụp đổ cả một cơ quan, tổ chức, sụp đổ một thể chế chính trị. Theo các tài liệu truyền thông của Liên hợp quốc về đấu tranh quốc tế chống tham nhũng thì tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước; lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng hoặc thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình; hay tạo ra xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Khoa học luật hình sự và pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới mô tả tham ô trước hết là hành vi của người có thẩm quyền quản lý tài sản của cơ quan tổ chức, chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đó bằng chính vị trí, chức vụ
  • 14. 7 của mình sau đó mới phân tách hành vi tham ô diễn ra trong cơ quan tổ chức nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và thuộc khu vực tư nhân để phân hóa trong các cấu thành của tội tham ô tài sản. Theo Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì tham ô được hiểu là “… hành vi của công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do địa vị của mình”. Quan điểm này nêu rất khái quát về tham ô nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của công chức. Ở nước ta hiện nay thuật ngữ tham ô được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, nhưng vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm. Theo Từ điển Tiếng Việt, "tham ô là lợi dụng quyền hành để ăn cắp của công" [45, tr.910]. Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về tội tham ô tài sản nhưng nhìn chung, có hai quan niệm khá phổ biến: Một, coi tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ô có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước. Hai, hiểu tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị - xã hội và doanh nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội tham ô tài sản ở nhiều nước trên thế giới. Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, chưa có quan niệm thống nhất về tham ô với 2 dấu hiệu cơ bản của hành vi này còn đang gây tranh cãi: thứ nhất, tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư), và từ đặc điểm này phái sinh đặc điểm thứ hai - chủ thể tham ô tài sản là người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ - là cán bộ, công chức, viên chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ chức.
  • 15. 8 Tôi cho rằng: Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thành của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có trách nhiệm quản lý xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức. Sở dĩ Tôi quan niệm như vậy vì những lý do sau: mặc dù theo cách hiểu truyền thống thì hành vi tham ô là chiếm đoạt tài sản của nhà nước, nói cách khác là chiếm đoạt tài sản của cả xã hội thông qua tổ chức đại diện cho xã hội là nhà nước; khác với hành vi chiếm đoạt tài sản của một nhóm người hay của tổ chức tư nhân không đại diện cho xã hội. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng với sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệm quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (công – tư kết hợp) và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ. Trong một xã hội mà nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực kinh tế chủ chốt mà không thể không tư nhân hóa, trong xu thế cổ phần hóa đang được thực hiện với tinh thần chỉ đạo không thể trì hoãn của Chính phủ hiện nay thì rõ ràng tài sản của các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội cũng cần được bảo vệ trước hành vi của những người có thẩm quyền quản lý trong các cơ quan này lợi dụng vị trí, chức vụ của mình để chiếm đoạt trái phép… Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước hay không thì các chủ sở hữu đều phải được bình đẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ô vẫn là dùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng. Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do những quy định trong luật hình sự về tội tham ô tài sản nói riêng và tội phạm về chức vụ nói chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2015 có sự thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội tham ô tài sản vẫn nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm về chức vụ đã có sự mở rộng:
  • 16. 9 Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ” và “người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [31, tr.413]. Tiếp cận từ góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản như sau: Tội tham ô tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, có trách nhiệm quản lý tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thành của riêng cho mình hay người khác. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản * Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể, khoa học luật hình sự phân loại thành khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Khách thể loại của tội phạm được hiểu là nhóm các quan hệ xã hội cùng hoặc gần tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm các tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 có 14 nhóm quan hệ xã hội như vậy như: nhóm an ninh quốc gia; nhóm quan hệ sở hữu; nhóm quan hệ hôn nhân, gia đình... Khách thể trực tiếp của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ và bị tội phạm cụ thể xâm hại. Một tội phạm có thể xâm hại nhiều quan hệ xã hội khác nhau nhưng trong đó chỉ có một hoặc một số quan hệ xã hội bị xâm hại có tính chất của khách thể trực tiếp. Tội tham ô tài sản có khách thể của là quan hệ sở hữu về tài sản, đây là khách thể trực tiếp của hành vi này. Khách thể trực tiếp này bao hàm đối tượng chính cụ thể bị chủ thể phạm pháp xâm hại, bởi quan hệ sở hữu luôn tồn tại ở nhiều kiểu quan hệ khác nhau: quan hệ sở hữu tập thể, quan hệ sở hữu cá nhân; quan hệ sở hữu công và sở hữu tư...
  • 17. 10 Trước đây nhiều ý kiến cho rằng khách thể của tội tham ô tài sản là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sở hữu tài sản công (nhà nước) là quan hệ sở hữu tài sản công của các tổ chức cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội; tổ chức kinh tế - xã hội mà nhà nước góp vốn... Đồng thời, tội tham ô tài sản còn xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác ảnh hưởng hiệu quả hoạt động, tính minh bạch trong cơ quan nhà nước. Trong mối quan hệ sở hữu này, đối tượng cụ thể là tài sản chung của toàn xã hội mà cơ quan nhà nước đại diện quản lý, do vậy mức độ tác động đến khách thể rộng và ảnh hưởng rộng hơn, tức là mức độ nghiêm trọng của hành vi tham ô cao hơn và mức độ thiệt hại của khách thể cũng lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, sở hữu nhà nước có nhiều hình thức đa dạng và phong phú hơn ở trong cơ quan hành chính, các tổ chức tài chính, kinh doanh cổ phần khác. Trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một loại hình doanh nghiệp, hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp mà nhà nước cũng chỉ sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước cũng không còn là một tổ chức kinh tế riêng biệt của nhà nước mà hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chung về doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khác với tư cách là các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng đóng thuế một cách bình đẳng và cũng bình đẳng trong việc tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế. Do đó, họ cũng cần được pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ trước các hành vi xâm hại quyền sở hữu và hoạt động bình thường của họ. Hiện nay có nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, với nhiều tổ chức, đơn vị kinh tế, xã hội, văn hóa... Các tập đoàn kinh tế có sự tham gia của hàng nghìn cổ đông góp vốn. Sở hữu tư nhân không có nghĩa là hình thức sở hữu của một cá nhân mà của nhiều người, trong nhiều trường hợp thiệt hại của khách thể có quan hệ sở hữu tư cũng đặc biệt nghiêm trọng bởi tài sản bị chiếm đoạt về bản chất thuộc sở hữu của nhiều người, có liên quan tới quyền lợi của cộng đồng; mặt khác hành vi tham ô đối với sở hữu tư nhân cũng đồng thời xâm phạm vào hoạt động của tổ chức
  • 18. 11 tư nhân này, ví dụ: hoạt động của công ty, doanh nghiệp... Trong xu thế phát triển kinh tế toàn cầu, vai trò của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức ngoài Nhà nước ngày càng tác động mạnh mẽ tới đời sống, đặc biệt các quan hệ này đại diện cho lực lượng đông đảo người lao động trong cộng đồng. Tóm lại, khi nghiên cứu về khách thể của tội tham ô tài sản, có thể thấy có nhiều quan niệm khác nhau và sự thừa nhận khách thể của loại tội phạm này, có quan niệm chỉ thừa nhận khách thể là quan hệ sở hữu tài sản công do các cơ quan nhà nước quản lý mà không thừa nhận khách thể của hành vi tham ô là quan hệ sở hữu tư, những người theo quan niệm này cho rằng: xác định khách thể là dấu hiệu cơ bản quy định hành vi phạm tội, vì thế cần căn cứ vào tầm quan trọng của khách thể của tội phạm mà luật hình sự cần bảo vệ. Tội tham ô tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể rất quan trọng là sở hữu (chế độ công hữu) và hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, là khách thể đặc biệt quan trọng mà luật hình sự cần ưu tiên bảo vệ. Bản chất của cách hiểu này là không thừa nhận hành vi tham ô trong lĩnh vực tư. Ở khía cạnh khác, tội tham ô tài sản là một trong những tội phạm về tham nhũng, do đó chủ thể của tội phạm này chủ thể đặc biệt, chứ không phải là bất kỳ ai, chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định và có trách nhiệm quản lý tài sản; dẫn tới khách thể của tội tham ô chính là sở hữu của nhà nước, các tài sản sở hữu cá nhân không thuộc vào tội tham ô bởi họ không phải công chức trong cơ quan nhà nước. Ngược lại, quan điểm thừa nhận tội tham ô tài sản trong lĩnh vực tư cho rằng, xét về bản chất là chiếm đoạt tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản thì đồng thời tác động tới hoạt động của cơ quan tổ chức, bởi tài sản tư nhân không tồn tại độc lập mà gắn liền với tài sản của tổ chức tư nhân và tác động tới hoạt động của các tổ chức này. Vì thế, về tác động và tổn thương của khách thể do hành vi tham ô gây ra đối với lĩnh vực tư tương đương với lĩnh vực công, mức độ nghiêm trọng của hành vi này cũng không thấp nên cần thừa nhận tham ô trong lĩnh vực tư để có căn cứ xử lý các hành vi này. Hơn nữa, người thực hiện hành vi tham ô tại lĩnh vực tư tuy không phải công chức nhưng là người được giao trách nhiệm quản lý tài sản và có
  • 19. 12 chức vụ trong đơn vị tư nhân đó; họ sử dụng vị trí và trách nhiệm của mình để chiếm đoạt tài sản. * Mặt khách quan của tội phạm - Về hành vi khách quan. Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản mà chủ thể phạm tội có trách nhiệm quản lý được thực hiện bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ quyền hạn. Hành vi chiếm đoạt là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu thành tài sản của mình. Đối tượng bị chiếm đoạt là những tài sản mà người phạm tội được giao quản lý. Người phạm tội đã lợi dụng trách nhiệm quản lý tài sản được giao, chiếm đoạt tài sản mà mình đang quản lý. Thủ đoạn lợi dụng trách nhiệm quản lý tài sản này có thể khác nhau nhưng thực chất đều là sử dụng chức vụ quyền hạn được giao như điều kiện, phương tiện để có thể thực hiện hành vi tham ô tài sản, biến tài sản được giao quản lý thành tài sản của mình. Có thể thấy, chức vụ, quyền hạn là yếu tố tạo điều kiện để chủ thể của tội phạm này thực hiện hành vi phạm tội, bởi khi có quyền quản lý tài sản người ta có thể tự quyết định điều khiển, sử dụng tài sản đó theo mục đích của họ làm nảy sinh nhu cầu chiếm hữu để sử dụng cá nhân. Hơn nữa, mặt trái quyền lực làm cho con người nảy sinh ham muốn biến quyền lực thành lợi ích cho cá nhân. Thực tiễn nghiên cứu qua nhiều vụ án tham ô đã chứng minh điều đó, dù trong lĩnh vực công hay lĩnh vực tư thì hành vi tham ô được thực hiện bởi người có chức vụ; nếu không có chức vụ hoặc có quyền quản lý tài sản thì cá nhân không có điều kiện thực hiện hành vi phạm tội của mình; đây chính là điều kiện khách quan của hành vi này. Từ những phân tích trên có thể thấy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô tài sản phải do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản do tài sản đó đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; có nghĩa người phạm tội phải lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện nhưng hành vi đó không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ; tức là họ không dựa vào điều kiện khách quan của mình để chiếm đoạt tài sản thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị quy vào tội tham ô tài sản.
  • 20. 13 Về bản chất, tội phạm sử dụng chính quyền hạn và trách nhiệm của mình để chiếm đoạt tài sản nên tham ô tài sản thực chất là chiếm đoạt tài sản của người khác. Dấu hiệu này là đặc trưng cơ bản của tội tham ô tài sản để phân biệt với các tội chiếm đoạt tài sản khác. - Về đối tượng tài sản bị chiếm đoạt Đối tượng của hành vi tham ô tài sản chính là tài sản mà chủ thể được giao quản lý. Trong trường hợp này, đối tượng tác động của tội phạm chính là tài sản mà người có chức vụ, quyền hạn đang trực tiếp quản lý và thông qua việc tác động đến tài sản này, họ mới có thể xâm hại đến khách thể của tội phạm. Đối tượng của hành vi tham ô có những điểm khác nhất định so với đối tượng của các hành vi phạm tội khác trong nhóm tội tham nhũng, bởi các tội tham nhũng khác tác động vào đối tượng không phải chỉ là tài sản mà còn có các yếu tố phi vật chất khác, hay các quyền lợi khác. Ví dụ: Tội nhận hối lộ thì có thể là tài sản nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng nhận hối lộ còn có thể là nhận các lợi ích tình dục, giải trí... và đối tượng của hành vi hối lộ không phải tài sản của khách thể là cơ quan nhà nước. Tài sản bị chiếm đoạt này bao gồm cả hai dạng tài sản công và tư; trong lĩnh vực tư tài sản của các đơn vị và tổ chức tư nhân được các thành viên đóng góp chung hoặc sở hữu của cá nhân đã tin tưởng giao cho chủ thể phạm tội quản lý, nhưng chủ thể đã chuyển dịch đối tượng để chiếm đoạt. Việc chuyển dịch đối tượng trái phép, trái với qui định của pháp luật dân sự về cơ sở thiết lập quyền sở hữu tài sản nên mặc dù dịch chuyển được tài sản nhưng người phạm tội không thiết lập được quyền sở hữu đối với tài sản. Chính dựa trên cơ sở này mà luật hình sự quy định các biện pháp tư pháp như: Tịch thu tiền, bạc, tài sản do phạm tội mà có để thu lại tài sản mà người phạm tội chiếm giữ bất hợp pháp. Đồng thời với việc dịch chuyển trái phép tài sản của người phạm tội thì chủ sở hữu tài sản bị mất quyền kiểm soát đối với tài sản trên cả ba phương diện: quyền chiếm giữ, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp chỉ được khôi phục khi tội phạm bị phát hiện, xử lý và tài sản được thu hồi. Mặt khác, đối
  • 21. 14 tượng bị tác động của hành vi tham ô thường diễn ra trong thời gian dài và chỉ dừng lại khi bị phát hiện, cho nên tài sản bị chiếm đoạt rất lớn; có thể nói là lớn nhất trong nhóm tội xâm phạm về quan hệ sở hữu, bởi điều kiện khách quan giúp chủ thể chiếm đoạt tài sản khó bị phát hiện. Đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản nhưng cũng có nhiều điểm khác với các tội chiếm đoạt tài sản khác, bởi tài sản ở đây là của nhiều người được đại diện bằng sở hữu chung mà chủ thể có trách nhiệm quản lý, các tội chiếm đoạt tài sản như: lừa đảo, trộm cắp... thì tài sản bị chiếm đoạt tồn tại ở nhiều dạng sở hữu khác nhau. Như vậy, có thể thấy đặc trưng cơ bản ở đối tượng bị chiếm đoạt trong tội tham ô tài sản là tài sản của tập thể bị chủ thể tác động để chuyển sở hữu tài sản. Việc nhận diện đúng hành vi phạm tội tham ô nhằm phân biệt với các tội tham nhũng và các tội chiếm đoạt tài sản khác. - Về thủ đoạn của hành vi tham ô tài sản Thủ đoạn thực chất là phương thức mà chủ thể phạm tội sử dụng để tham ô tài sản, trong phương thức bao gồm phương pháp, công cụ và phương tiện thực hiện hành vi; các yếu tố này được kết hợp và vận dụng bằng nhiều hình thức khác nhau. Tội tham ô tài sản có dấu hiệu cấu thành là vật chất, người phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản thì tội phạm mới ở giai đoạn hoàn thành; nhưng hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của tội tham ô mà chỉ có ý nghĩa xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm và xác định khung, mức hình phạt. Xuất phát từ điều kiện khách quan, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: lén lút, gian dối, công nhiên.... Các thủ đoạn được tội phạm tham ô hay sử dụng là lợi dụng quyền quản lý tài sản lén lút chiếm đoạt tài sản đó. Ví dụ: thủ quỹ A của một cơ quan được giao quản lý tài sản của đơn vị, nhưng trong thời gian dài thủ quỹ này đã lén lút lấy tiền của cơ quan để chi tiêu cá nhân, sau khi bị phát hiện thì không có khả năng hoàn trả. Hành vi này được thực hiện dựa trên điều kiện khách quan được giao trách nhiệm giữ tài chính cho đơn vị, hành vi lén lút này là phương thức khá
  • 22. 15 phổ biến mà tội phạm thường xuyên sử dụng. Ngoài thủ đoạn lén lút, thủ đoạn “gian dối” cũng là hình thức mà tội phạm tham ô thường sử dụng, ví dụ: Nhân viên của ngân hàng nhà nước đã thực hiện hành vi gian dối là lập chứng từ khống để rút tiền của người gửi, thủ đoạn này đã giúp chủ thể chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Xét ở khía cạnh thủ đoạn thì hành vi gian dối là phương thức được thực hiện với tính xảo quyệt hơn các thủ đoạn khác và khó bị phát hiện hơn nên thường gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thì cách thức chiếm đoạt tài sản không phải là “lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình quản lý” mà bằng cách thức “gian dối”, “lạm dụng tín nhiệm”... Dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” chỉ là tình tiết tăng nặng định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi tham ô, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối; đương nhiên những thủ đoạn này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, các thủ đoạn gian dối có ý nghĩa trong việc xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham ô, ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt, bởi lẽ thủ đoạn càng tinh vi, xảo quyệt thì càng phản ảnh rõ hơn mức độ lỗi (mặt chủ quan), và cũng tạo điều kiện cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản với số lượng nhiều hoặc có giá trị lớn hơn (mặt khách quan). * Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan là nhân tố bên trong điều khiển hoạt động của con người, mặt chủ quan của tội tham ô tài sản chính là các yếu tố bên trong thuộc về chủ thể chỉ đạo chủ thể thực hiện hành vi phạm tội của họ. Do chủ thể thực hiện hành vi tham ô là chủ thể đặc biệt, họ có quyền và trách nhiệm quản lý tài sản, để có được quyền đó họ phải có khả năng sử dụng, tự quyết về tài sản đó; tức là họ có đầy đủ năng lực nhận thức bình thường; ý thức được vai trò trách nhiệm của bản thân trong sử dụng tài sản đó; ý thức được tính chất, rủi ro khi bị thất thoát tài sản và hậu quả mà bản thân phải gánh chịu khi vi phạm các quy định trong quản lý tài sản.
  • 23. 16 Ở khía cạnh cá nhân, chủ thể thực hiện các hành vi tham ô là những người được giao quyền tức là họ có năng lực nhận thức pháp luật đầy đủ, có đủ khả năng đánh giá được hành vi và những quy định của luật pháp về tội danh này. Tuy nhiên, do tư lợi cá nhân hay những ham muốn trước mắt mà bản thân chủ thể vẫn thực hiện hành vi tham ô tài sản nhằm chiếm đoạt cho bản thân hoặc cho những người có mối quan hệ thân thích như: vợ, con.. Vì vậy, đây là hành vi cố ý mà cá nhân chủ định từ trước và nhận thức đầy đủ về hậu quả phải chịu trước pháp luật; chính đặc điểm này nói lên tính chất nghiêm trọng của tội danh tham ô vì đó không phải là hành vi sơ ý không chủ định của người thực hiện hành vi phạm tội. Việc đánh giá đúng nhân tố chủ quan tham gia trong hành vi phạm tội của tội phạm tham ô có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng cơ chế pháp lý để đấu tranh với loại tội phạm này. * Chủ thể của tội phạm Chủ thể là cá nhân hoặc nhóm người thực hiện một hoạt động nhất định, bất kỳ hoạt động nào cũng được thực hiện bằng chủ thể nhất định. Do tội tham ô tài sản thuộc nhóm tội liên quan tới chức vụ nên chủ thể của tội danh này phải là chủ thể đặc biệt đó là người được giao trách nhiệm về quản lý tài sản, tức là họ là người có chức vụ và quyền hạn trong cơ quan, tổ chức. Chủ thể của tội tham ô tài sản được chia thành hai dạng chủ thể trực tiếp và đồng phạm Chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi tham ô tài sản phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không được xem là chủ thể của tội tham ô tài sản; vì họ có thể là chủ mưu của hành vi tham ô khi phạm tội có tổ chức hoặc là người thực hiện hành vi khi phạm tội không có tổ chức. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt một người có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản hay là chủ thể của số tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như: kế toán, thủ quỹ, thủ kho, người được giao vận chuyển tài sản cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình… Ngoài ra, còn những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc thu, chi, xuất, nhập, mua bán, trao đổi tài sản như: người đứng đầu trong các cơ
  • 24. 17 quan, tổ chức, giám đốc công ty là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức. Dạng chủ thể thứ hai là đồng phạm, những người này không có chức vụ, không được giao trách nhiệm quản lý, bảo quản tài sản, không phải người thuộc tổ chức của khách thể bị xâm phạm nhưng họ giữ vai trò giúp sức, tiếp tay cho chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thì họ vẫn là chủ thể nhưng ở dạng đồng phạm. Trong thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản việc xác định chủ thể chủ mưu và chủ thể ở dạng đồng phạm; việc làm rõ tính chất của từng chủ thể giúp đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, tránh sai sót trong hoạt động xét xử. 1.1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác Trong nhóm tội phạm liên quan đến chức vụ, tham ô là loại tội phạm có tỉ lệ phạm tội cao, do đặc trưng về mục tiêu phạm tội cũng như khách thể bị tác động tới. Do vậy, tham ô tài sản và các tội danh khác cũng có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng tồn tại những đặc trưng riêng nên cần làm rõ các điểm này để xác định rõ hơn các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản, qua đó đánh giá đúng thực tiễn vận dụng pháp luật và làm cơ sở xây dựng chế tài pháp lý trong giải quyết các vụ án tham nhũng. * Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội trong nhóm tội liên quan tới chức vụ Tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” là tội phạm khá đặc trưng trong nhóm tội liên quan đến chức vụ, bởi chủ thể trong tội này cũng giống như tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn và sử dụng yếu tố khách quan này để phạm tội và gây thiệt hại về kinh tế cho cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, khác biệt giữa hai tội danh này là tính chiếm đoạt về mặt tài sản ở tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” không xảy ra như trong tội tham ô; ví dụ: Giám đốc của công ty X vi phạm quy định về sử dụng vốn của đơn vị trong đầu tư kinh doanh dẫn tới làm ăn thua lỗ gây thiệt hại cho đơn vị, nhưng bản thân vị giám đốc này không chiếm đoạt số tài sản đó; nhờ căn cứ này mà giám đốc không phạm tội tham ô tài sản
  • 25. 18 Đối với tội nhận hối lộ, chủ thể thực hiện cũng là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ để thực hiện hành vi phạm tội; nhưng khách thể phạm tội không hẳn là tài sản mà là những sản phẩm vật chất hoặc thậm chí là theo pháp luật của nhiều nước, bao gồm cả các sản phẩm phi vật chất khác nên đối tượng bị tác động trong hành vi hối lộ có phạm vi rộng hơn so với tội tham ô tài sản. Mặt khác, chủ thể nhận hối lộ không phải quản lý trực tiếp tài sản, tức tài sản đó không thuộc quan hệ công việc mà chủ thể đang thực hiện. Cho nên khách thể chịu sự tác động của hối lộ rất đa dạng trong quan hệ sở hữu về tài sản hay nguyên tắc hoạt động của cơ quan, tổ chức. Ví dụ: Giám đốc một cơ quan đã nhận “quà” hối lộ là “tình” và “tiền” của nhân viên sau đó sắp xếp vị trí làm việc thuận lợi hơn cho nhân viên này. Ngoài ra có thể phân biệt tội tham ô tài sản với một tội danh khác trong nhóm tội phạm liên quan tới chức vụ là “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Do đặc trưng nhóm tội liên quan tới chức vụ nên cả hai tội danh này đều có điểm chung là có dấu hiệu lợi dụng chức vụ quyền hạn nhưng tội tham ô tài sản tác động tới đối tượng mà chủ thể quản lý trực tiếp và có thể có những thủ đoạn gian dối trước, trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt như lập chứng từ giả, sửa chữa sổ sách… để hợp thức hóa che dấu hành vi chiếm đoạt. Nhưng thủ đoạn gian dối không phải là dấu hiệu bắt buộc mà trong những trường hợp nhất định có thể có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt như là tình tiết tăng nặng: dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Nhưng “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, chủ thể thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà họ không có trách nhiệm quản lý và bằng thủ đoạn gian dối và thủ đoạn này là dấu hiệu bắt buộc, được tiến hành trước hoặc liền ngay với hành vi chiếm đoạt; là cơ sở, nguyên nhân trực tiếp của việc chiếm đoạt. Ví dụ: Một trưởng phòng T trong đơn vị nhà nước đã lợi dụng chức vụ của mình lập phiếu chi có chữ ký giả của thủ trưởng cơ quan đưa cho thủ quỹ để rút tiền, thủ quỹ vì tin tưởng là người cùng cơ quan có chức vụ nên không kiểm tra mà chi tiền dẫn tới thiệt hại về tài sản. Trong trường hợp này, vị trưởng phòng không có trách nhiệm quản lý tài sản trực tiếp nhưng lợi dụng vị trí của mình, thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản. Đây chính là biểu hiện lạm dụng chức vụ, quyền hạn, đồng thời là dấu hiệu cơ bản để phân biệt với tội tham ô.
  • 26. 19 * Phân biệt tội tham ô tài sản với nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội tham ô tài sản và các tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản đều có điểm chung là tác động vào khách thể chiếm đoạt tài sản, trong đó chủ yếu là tài sản vật chất để thỏa mãn nhu cầu cá nhân và gây tổn hại tới khách thể chịu sự tác động. Tuy nhiên, giữa hai tội danh này có nhiều điểm khác biệt về chủ thể và khách thể. Đối với tội tham ô tài sản, chủ thể của hành vi này là chủ thể đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản bị chiếm đoạt. Ngược lại các tội danh liên quan tới trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm có chủ thể đa dạng, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và trong đó người phạm tội hoặc là hoàn toàn không liên quan gì đến tài sản và không có chức vụ, quyền hạn và không có trách nhiệm quản lý tài sản và do đó, không có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tài sản bị chiếm đoạt. Ví dụ: Một tên trộm trèo vào nhà hàng xóm để trộm cắp tài sản thì bản thân hắn không liên quan đến quản lý, định đoạt về tài sản trộm cắp và không chức vụ, hay quyền hạn gì liên quan... Vì chủ thể khác nhau nên điều kiện khách quan của các hành vi phạm tội này khác nhau, người tham ô thì sử dụng công cụ để chiếm đoạt tài sản là địa vị, chức vụ và quyền hạn của mình, các hành vi khác thì sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau. Tội tham ô tài sản ngoài tác động đến quan hệ sở hữu còn tác động tới hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, gây ra những thiệt hại về uy tín chính trị, gây hoang mang dư luận, gây xói mòn lòng tin vào sự minh bạch và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước... nhưng trong nhóm tội trộm cắp, lừa đảo thì khách thể thiệt hại về tài sản còn có thể bị thiệt hại về tính mạng, thân thể, vì vậy hậu quả của hai hành vi này khác nhau. Tóm lại, để xác định đặc trưng về tội tham ô tài sản thì việc phân tích dấu hiệu pháp lý của tội danh này cũng cần làm rõ những điểm chung và điểm khác biệt với các tội danh tương tự là cần thiết; nhằm nhận thức đầy đủ về dấu hiệu tội phạm, qua đó giúp các nhà làm luật xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, phù hợp, tiến bộ để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hiện nay.
  • 27. 20 1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham của cá nhân. Trong xã hội còn phân chia giai cấp hiện hữu những cơ quan quyền lực có chức năng điều hòa những lợi ích của những nhóm người khác nhau, thậm chí đối lập nhau để hình thành một trạng thái cân bằng chung. Tuy nhiên, quyền lực của những cơ quan đó lại chỉ có thể hiện và được thực thi thông qua hành động của những con người cụ thể nắm quyền lực trong các cơ quan đó. Trong khi đó mỗi con người đều hành động dưới sự hướng dẫn của nhu cầu cá nhân mà nhu cầu cá nhân lại lớn hơn khả năng có thể tự thỏa mãn của họ. Vì thế, một số người nắm quyền lực nảy sinh động cơ tận dụng đến mức cao nhất quyền lực do địa vị xã hội, chức vụ nhà nước giao để thỏa mãn một cách không chính đáng nhu cầu của họ. C. Mác nói rằng: "Lịch sử loài người là lịch sử của những con người hành động nhằm theo đuổi những mục đích của mình, nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình". Sự lạm dụng quyền lực công cho để thỏa mãn nhu cầu cá nhân là tham nhũng. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, tệ nạn tham nhũng cũng đang trở thành thách thức cơ bản của đất nước. Nguyên nhân do tàn dư của thói xấu trong xã hội cũ chưa xóa được như: tham ô, hách dịch, cửa quyền… Việc quy định tội tham ô tài sản trong luật Hình sự có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong phòng, chống tham nhũng nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ chính trị cũng như góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành pháp và tư pháp đã tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm tham ô tài sản. Trong những năm gần đây, mặc dù tội phạm đang ngày càng sử dụng các thủ đoạn tinh vi nhưng công tác đấu tranh với tội phạm tham nhũng đã dành được nhiều kết quả tích cực về chất lượng; bao gồm quá trình đấu tranh ngăn ngừa phạm tội, kết
  • 28. 21 quả thi hành án, thu hồi tài sản tham ô; nhiều vụ án lớn như: Vinaline, Vinashin đã được đưa ra xét xử đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đem lại niềm tin cho nhân dân. Thực tiễn tình hình tội phạm thì tội tham ô tài sản là tội phạm có tỉ lệ phạm tội khá cao. Theo Báo cáo phòng chống tham nhũng của Chính phủ năm 2010 tội tham ô tài sản chiếm 51.5% trong nhóm tội phạm tham nhũng cho thấy tội phạm tham ô tài sản chiếm tỉ lệ lớn trong tội tham nhũng; việc đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này sẽ đẩy mạnh hiệu quả trong cuộc chiến với tội phạm tham nhũng. Mặt khác, đi liền với quy định về tội phạm là quy định về hình phạt trong luật hình sự. Việc luật hình sự quy định mức hình phạt rất nghiêm khắc (cao nhất là tử hình) cho thấy tính răn đe mạnh mẽ của nhà nước đối với loại tội phạm tham nhũng. Trong xu hướng sửa đổi luật hiện nay vẫn có nhiều ý kiến cho rằng cần tiếp tục có chế tài mạnh để hạn chế tội phạm này. Việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự còn là căn cứ để xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn khác trong phòng chống tội phạm tham nhũng, đồng thời đây cũng là minh chứng về mặt thể chế trong triển khai thực hiện Kế hoạch thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tiễn trong những năm gần đây công cuộc đấu tranh chống tội phạm tham nhũng đã có những bước tiến nhất định và đi vào quy củ hơn; Đảng và nhà nước đã xây dựng được hệ thống tổ chức và hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức chính trị để chống tham nhũng. Sau khi ban hành BLHS 1999 Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành 03 Nghị quyết có liên quan; trong đó Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự với nội dung sửa đổi tại điều 278; Hội đồng thẩm phán cũng đã ban hành 07 nghị quyết; Chính phủ ban hành 06 nghị định; các cơ quan có liên quan đã ban hành 17 thông tư liên tịch liên quan đến việc thi hành Bộ Luật Hình sự năm 1999. Từ những quy định về tội tham ô trong BLHS 1999, Quốc Hội khóa 12 đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, đây là
  • 29. 22 bước tiến tích cực trong cuộc đấu tranh, chống tham nhũng của nước ta. Để có được kết quả trên thì quy định về tội tham ô tài sản, hình phạt đối với tội danh này trong luật Hình sự là căn cứ có tính quyết định cơ bản đối với hệ thống văn bản pháp luật liên quan sau này. Do vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản về chủ thể và khách thể của tội danh này cũng như mức hình phạt được áp dụng là căn cứ để ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện luật như: Nghị quyết, thông tư, nghị định… và từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan hành pháp và tư pháp đã tiến hành hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham ô tài sản. Như vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự - đạo luật có vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong hệ thống pháp luật và trong đời sống xã hội, cần tích cực củng cố kiện toàn hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả của pháp luật nói chung và hệ thống luật pháp đối với tội danh tham nhũng. Đây là nhân tố quyết định cơ bản dẫn tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng hiện nay. 1.2. Tội tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế 1.2.1. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (United Nations Convention against Corruption – UNCAC, được thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 31 tháng 10 năm 2003 tại Nghị quyết 58/4) là một điều ước quốc tế đa phương do các quốc gia và các tổ chức quốc tế thoả thuận xây dựng nên qua quá trình đàm phán, với mục tiêu là hình thành một khuôn khổ pháp lý toàn cầu cho sự hợp tác giữa các quốc gia nhằm phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tình trạng tham nhũng. Công ước gồm 8 Chương và 71 Điều, cụ thể: Chương I: Những quy định chung, từ Điều 1 đến Điều 4, quy định mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Công ước. Chương II: Các biện pháp phòng ngừa, từ Điều 5 đến Điều 14, quy định chính sách và hành động chống tham nhũng của quốc gia; cơ quan phòng, chống tham nhũng; khu vực công; quy tắc ứng xử cho công chức; báo cáo công khai; khu vực tư; mua sắm tài sản công; quản lý tài chính công; sự tham gia của xã hội trong
  • 30. 23 phòng, chống tham nhũng; các biện pháp liên quan đến truy tố và xét xử hành vi tham nhũng. Chương III: Hình sự hoá và thực thi pháp luật, từ Điều 15 đến Điều 42, quy định thành tội phạm các hành vi tham nhũng và các biện pháp hỗ trợ, tăng cường hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với các hành vi đó. Chương IV: Hợp tác quốc tế, từ Điều 43 đến Điều 50, quy định hợp tác quốc tế về dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, tương trợ pháp lý, chuyển giao vụ án hình sự, hợp tác thực thi pháp luật, liên kết điều tra và kỹ thuật điều tra đặc biệt đối với hành vi tham nhũng. Chương V: Thu hồi tài sản, từ Điều 51 đến Điều 59, quy định việc phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; các biện pháp và cơ chế hợp tác quốc tế vì mục đích thu hồi, hoàn trả và định đoạt tài sản tham nhũng. Chương VI: Hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin, từ Điều 60 đến Điều 62, quy định về đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật; thu thập, trao đổi và phân tích thông tin về tham nhũng; các biện pháp khác thi hành Công ước thông qua phát triển kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật. Chương VII: Các cơ chế thi hành Công ước, từ Điều 63 đến Điều 64, quy định cơ chế thi hành Công ước. Chương VIII: Các điều khoản cuối cùng, từ Điều 65 đến Điều 71. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định tham ô là “hành vi của công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do địa vị của mình Công ước đặt ra việc phòng, chống tham nhũng ở cả khu vực công và khu vực tư. Cụ thể, ở khu vực công, các quốc gia thành viên cần nỗ lực ban hành, duy trì và củng cố các chính sách nhằm tăng cường minh bạch, hiệu quả hoạt động của khu vực công, bao gồm: cải cách chế độ tuyển dụng, thuê, sử dụng, đề bạt và hưu trí đối với công chức; thúc đẩy sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong đội ngũ công chức, trong đó có việc nghiên cứu ban hành và tổ chức thực hiện những quy tắc hoặc chuẩn mực xử sự đối với công chức; xây dựng các cơ chế mua sắm công phù hợp, cạnh tranh và khách quan; áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm tăng cường minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài chính công; tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công cùng với các hoạt động tổ chức, thực hiện chức
  • 31. 24 năng và ra quyết định. Ở khu vực tư, Điều 12 của Công ước quy định các quốc gia thành viên Công ước, trên cơ sở luật pháp quốc gia, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các chuẩn mực kế toán, kiểm toán liên quan đến khu vực tư; ban hành các chế tài dân sự, hành chính hoặc hình sự có hiệu lực đối với các hành vi vi phạm. Từ cách đặt vấn đề nêu trên, UNCAC đặt ra nghĩa vụ cho các Quốc gia thành viên phải hình sự hoá các hành vi quy định từ Điều 15 đến Điều 25 của Công ước, gồm: hối lộ công chức quốc gia; hối lộ công chức nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế công; tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công chức; Lạm dụng ảnh hưởng để trục lợi; Lạm dụng chức năng; Hối lộ trong khu vực tư; Biển thủ tài sản trong khu vực tư; Che dấu tài sản; Cản trở hoạt động tư pháp. Đối với việc hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20) và hành vi tẩy rửa tiền và tài sản do phạm tội mà có (Điều 23), các quốc gia thực hiện dựa trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên thực hiện sáng quyền lập pháp, với việc tham gia chủ động và đầy đủ 07 vòng đàm phán xây dựng Công ước và là một trong những quốc gia đầu tiên ký Công ước. Ngày 30-6-2009, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước về chống tham nhũng. Trên cơ sở quyết định phê chuẩn của Chủ tịch nước và thực hiện đồng bộ với Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, ngày 7-4-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Việc hình sự hóa tội tham ô tài sản đã được pháp luật hình sự Việt Nam hình sự từ trước khi phê chuẩn Công ước, thể hiện quan điểm về chống tham nhũng và chính sách hình sự của của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng phản ánh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật của Việt Nam trong những năm gần đây. 1.2.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô tài sản * Tội tham ô tài sản trong luật hình sự của Trung Quốc Trung Quốc, một trong những đất nước được đánh giá có mức độ tham
  • 32. 25 nhũng cao trên thế giới, nên hệ thống luật pháp của nước này đã quy định khá rõ về nhóm tội tham nhũng; Bộ luật Hình sự của nước này năm 1997 quy định tham nhũng bao gồm các tội: tham ô, hối lộ, lừa đảo, đồng thời còn xác định thêm một số hành vi khác cũng bị truy cứu về tội tham nhũng như chiếm đoạt công quỹ, che giấu các khoản tiền gửi ở ngân hàng, nhận các loại quà tặng có giá trị lớn. Tội tham ô được quy định tại Chương VIII của Bộ luật hình sự nước này và thể hiện ở hai Điều 382 và 383 [12, tr.228]. Trong cách hiểu về hành vi tham ô tài sản được quy định tại đây, thì khách thể của hành vi tham ô là tài sản công quỹ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước và tài sản của công dân; cho thấy trong luật hình sự của Trung Quốc quy định rõ tội tham ô trong lĩnh vực tư. Cũng trong nội dung luật chỉ rõ chủ thể thực hiện hành vi tham ô phải là “nhân viên nhà nước”, tức là cán bộ công chức được giao quyền và trách nhiệm công vụ mà có hành vi chiếm đoạt tài sản. Đối với quy định về hình phạt, Bộ luật hình sự của Trung Quốc quy định 4 mức độ khác nhau với các mức độ từ phạt cải tạo không giam giữ đến tử hình; mức hình phạt này thể hiện sự cương quyết trong chống tham ô, tham nhũng của Trung Quốc. Như vậy, quy định của Bộ luật Hình sự Trung Quốc về tội tham ô có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về chủ thể phạm pháp và mức hình phạt. Trung Quốc cũng đi trước Việt Nam với việc quy định cả tham ô trong lĩnh vực tư. * Tội tham ô tài sản trong quy định trong Bộ luật hình sự Thủy Điển Nội dung này được quy định tại Chương 10 và thể hiện ở 3 điều (từ điều 1 đến điều 3 thuộc chương này). Theo quy định của Thụy Điển thì: Người nào thay mặt người khác quản lý tài sản và chịu trách nhiệm chuyển giao hoặc giải trình đối với tài sản thông qua một hợp đồng hoặc dịch vụ công cộng hoặc tư nhân hoặc các hoàn cảnh tương tự, mà chiếm đoạt tài sản đó hoặc có hành vi khác không tuân thủ các quy định trong việc thực hiện trách nhiệm của mình và nếu hành vi đó mang lại lợi ích của mình và gây thiệt hại cho chủ sở hữu thì bị phạt tù đến hai năm về tội tham ô [37, tr.84] Với quy định này, luật Hình sự của Thụy Điển coi hành vi tham ô trong cả
  • 33. 26 lĩnh vực tư và công, chủ thể của tội phạm này là người có trách nhiệm quản lý; cho thấy quan niệm về khách thể của tội này rộng hơn quan niệm trong pháp luật của nước ta hiện nay nhưng chủ thể thì có sự tương đồng với quy định trong luật của nước ta. Về mặt hình phạt, đối với tội này thì Luật Hình sự của Thụy Điển có mức hình phạt thấp hơn, chỉ có hình phạt tù có thời hạn chứ không có hình phạt chung thân và tử hình. * Tội tham ô tài sản quy định trong Bộ luật hình sự Nhật Bản Bộ luật Hình sự của Nhật Bản bao gồm 264 điều, tội tham ô được quy định tại Điều 253 “tham ô trong công việc” với quy định cụ thể “người nào tham nhũng chiếm đoạt tài sản của người khác mà mình đang chiếm hữu vì lý do công việc thì bị phạt tù dưới 10 năm” [14, tr.190] Như vậy quan niệm về tham ô trong luật Hình sự Nhật Bản rất chung mà không tách biệt về mặt khách thể thuộc quan hệ sở hữu nào, nhưng theo cách gọi này thì mọi quan hệ sở hữu tài sản nếu bị xâm hại thì đều bị quy vào tội tham ô với chủ thể thực hiện hành vi trong khi giải quyết công việc. Cách quy định chung như vậy cho thấy trong luật của Nhật Bản không phân biệt tham ô trong lĩnh vực công hay tư mà chỉ căn cứ vào chủ thể thực hiện hành vi có liên quan đến công vụ. Tuy cách quy định chung khiến cho việc xác định tính nghiêm trọng của tội danh nhưng cũng tạo thuận lợi cho việc vận dụng các hành vi phạm tội. Về mức hình phạt trong tội này ở Nhật Bản quy định dưới 10 năm, đây có thể là hình phạt khá nhẹ cho hành vi này. * Tội tham ô tài sản trong quy định trong Bộ Luật Hình sự của Liên Bang Nga Nước Nga là đất nước có thể chế và quy định pháp luật khá nghiêm ngặt, mang tính hệ thống và chặt chẽ. Bộ luật Hình sự nước này có 360 điều và không quy định riêng về tội tham ô mà quy định thành “Tội chiếm hữu và biển thủ tài sản” được quy định tại Điều 160, nội dung của điều luật này được sửa đổi vào năm 2003; theo đó cách hiểu về tham ô tài sản là “chiếm đoạt tài sản mà người khác đã giao phó”. Như vậy, cũng giống như Nhật Bản luật pháp nước Nga không phân khách thể chịu sự tác động của hành vi tham ô mà quy định chung với tên gọi và hình thức xử lý, đây cũng là quan niệm phù hợp của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, hành
  • 34. 27 vi chiếm hữu và biển thủ tài sản nếu như lợi dụng chức vụ sẽ bị phạt nặng hơn các mức độ khác [39, tr. 260] Về hình phạt, Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga quy định 4 mức hình phạt tương ứng với độ vi phạm của hành vi; trong quy định này có hai hình phạt được thực hiện đồng thời phạt tiền và phạt tù. Đối với hình phạt tù pháp luật Liên Bang Nga chỉ quy định tù có thời hạn mà không có các mức hình phạt cao hơn như chung thân hoặc tử hình, khác với quy định về luật pháp của nước ta hiện nay về mức hình phạt và quan niệm về tội tham ô tài sản. Ở Singapo, tội tham ô tài sản được quy định trong Luật Hình sự của nước này khá chặt chẽ với các mức độ khác nhau; luật pháp nước này sử dụng các hình phạt tổng hợp, nhưng chú trọng các hình phạt đến tài chính và không quy định các hình phạt tử hình đối với tội phạm này. Bên cạnh việc sử dụng hệ thống hình phạt hỗ trợ, pháp luật Singapo có nhiều chính sách nhằm giảm tỉ lệ tội phạm này bằng chế độ lao động và phúc lợi đảm bảo quyền cho cán bộ, công chức. Tóm lại, qua nghiên cứu tội tham ô tài sản trong luật Hình sự một số nước trên thế giới chúng tôi thấy rằng, phần lớn các nước đã quy định rõ về tội này, trong đó quy định về khách thể của hành vi tham ô bao gồm cả lĩnh vực tư; đặc điểm này khác với luật pháp hiện hành của nước ta trong những năm vừa qua mới chỉ thừa nhận hành vi tham ô trong lĩnh vực công. Sự khác biệt thứ hai thể hiện ở hình phạt các nước trên không áp dụng hình phạt chung thân và tử hình đối với loại tội phạm này (trừ Trung Quốc), cho thấy quan điểm chính trị - pháp lý của họ đối với tội phạm chức vụ và cách giải quyết đối với hành vi tham ô, tham nhũng tương đối đa dạng và tồn tại ít nhiều các điểm khác biệt. Việc nghiên cứu quy định trong luật của các nước giúp chúng ta có cách nhìn đầy đủ về tội tham nhũng, từ đó có thể tham khảo để vận dụng vào nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật nước ta. 1.3. Tội tham ô tài sản trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến Lịch sử dựng nước của dân tộc ta đã trải qua nhiều năm ở giai đoạn lịch sử phong kiến với nhiều triều đại khác nhau, mỗi triều đại phong kiến đều đưa ra các quy định chống nạn tham nhũng trong hệ thống bộ máy nhà nước. Các quy định của
  • 35. 28 từng vương triều được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có Bộ luật Hình thư (Nhà Lý), Bộ Quốc triều hình luật (Nhà Trần), Bộ Quốc triều Hình luật – Bộ luật Hồng Đức (Nhà Lê), Bộ Hoàng Việt luật lệ - Bộ luật Gia Long (Nhà Nguyễn) đều có ghi nhận và trừng trị những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội của những người có chức vụ, quyền hạn trong xã hội thời bấy giờ; trong đó hai bộ luật lớn Bộ luật Hồng Đức của triều hậu Lê và Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn, đây là hai bộ luật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử lập pháp ở nước ta với những quy định khá đầy đủ về xử lý tội phạm trong đó có tội tham ô tài sản. Nghiên cứu 2 bộ luật trên cho thấy, ông cha ta đã có những quy định rõ ràng về tội tham ô, tham nhũng và có những hình phạt nghiêm khắc với loại tội phạm này. Bộ luật Hồng Đức có một chương “vi chế” quy định về các hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do yếu tố quan điểm và trình độ lập pháp ở thời điểm lịch sử này nên hệ thống văn bản pháp luật trong các triều đại không có quy định riêng cho tội phạm này mà tội tham ô được quy định bằng các hành vi cụ thể được liệt kê ở các dạng tình huống khác nhau. Ví dụ Điều 110 Luật Hồng Đức quy định “quan thu thuế nếu dấu bớt thuế thì coi như tội dấu đồ vật công, thu thêm thuế làm của riêng thì tội như thế và phải bồi thường gấp đôi số tiền đó trả cho dân [47, tr.121]; Điều 392 Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) quy định “người nào dùng thủ đoạn biển thủ, lấy trộm tiền lương, vật tư kho cũng như mạo phá vật liệu để đem về nhà nếu tang vật thu được trên 40 lượng thì bị chém” [46, tr.113]. Các quy định về tội tham ô tài sản được trình bày ở nhiều chương khác nhau với những biểu hiện phạm tội lĩnh vực tương ứng. Điều 9 (Chương I - Hộ dịch, Quyển VI) quy định: Phàm các quan ty sai khiến dân sở tại làm việc riêng cho mình và quan giám công sai dân thợ làm việc riêng cho mình ở nơi xa ngoài 100 dặm hoặc sai khiến lâu ngày ở nhà mình, thì đối với quan ti cứ sai khiến 1 tên dân là bị xử đánh 40 roi, cứ 5 tên lại tăng thêm một mức, tội nặng nhất cũng chỉ đánh 80 trượng… [46, tr.406]. Tiếp đến, cả việc gây khó dễ ở cửa quan, bến đò cũng bị xử lý nghiêm khắc. Điều 3 (Chương III - Quan ải, Quyển XI) quy định: Người và thuyền bè qua lại nơi cửa quan, bến đò mà thủ bá không lập tức xét
  • 36. 29 hỏi, kiểm tra rồi quan đi qua mà vô cớ gây cản trở, thì cứ chậm một ngày bị xử phạt 20 roi, thêm một ngày thì xử tăng một mức, tội chỉ tới mức 50 roi. Nếu nhận hối lộ thì chiếu theo lệ quan lại làm việc nhận hối lộ thì người hữu sự, luận tội uổng pháp, tính theo số tang vật mà xử tội... [46, tr.501]. Đặc biệt, đề phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tham ô, Bộ luật còn quy định tại Điều 5 - Tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản (Chương II - Ruộng đất, Quyển VI) nêu rõ: “Phàm quan lại đương chức không được mua tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản. Nếu vi phạm, xử phạt 50 roi, bãi nhiệm, ruộng đất nhà cửa đem sung công” [46, tr.417]; Điều 7 - Vay mượn riêng tiền lương của công (Chương IV - Kho tàng, Quyển VIII) quy định: Phàm giám thủ, chủ thủ đem các loại tiền lương của Nhà nước mượn riêng hoặc chuyển cho người khác vay mượn, tuy có văn tự, đều bị tính theo tang vật mà xử vào tội giám thủ tự lấy trộm... Nếu đem đồ vật của mình thay thế đổi lấy đồ vật của Nhà nước thì cũng xử tội như thế. Đồ vật của riêng đó đem sung công... [46, tr.461]; v.v... Từ nghiên cứu những quy định trong luật của các triều đại phong kiến thấy rằng; Các biểu hiện của tội tham ô được quy định khá đầy đủ và cụ thể; Hình phạt được áp dụng cho tội này khá nặng, cho thấy sự nghiêm khắc của luật đối với hành vi này, bao gồm cả hình thức phạt tù, tịch thu tài sản và hình phạt kèm theo như: bãi miễn chức vụ. Tuy nhiên, cả hai bộ luật trên chưa phân các dạng tội phạm riêng và tội tham ô tài sản cũng không có tên gọi riêng mà được quy định bằng các hành vi phạm tội cụ thể. Tóm lại, dù không được quy định thành mục riêng nhưng hành vi tham ô tài sản là biểu hiện phạm tội đã được quy định ở nhiều dạng hình phạt khác nhau; khẳng định sự chú trọng về mặt lập pháp trong đấu tranh với tội tham ô tài sản, tham nhũng của nhà nước phong kiến. Những quy định này là tiền đề giáo dục nhận thức cho thế hệ sau về phòng chống tệ tham ô, tham nhũng cũng như kinh nghiệm quý báu trong xây dựng pháp luật đấu tranh với loại tội phạm này.
  • 37. 30 1.3.2. Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến nay Trong quá trình lập pháp của nước ta, tội tham ô tài sản được quy định từ rất sớm và được thay đổi điều chỉnh phù hợp với thực tiễn xây dựng của đất nước. Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, những quy định về hành vi tham ô tài sản đã được đặt ra trong mục tiêu chung là giữ gìn sự trong sạch của chính quyền non trẻ, đồng thời khẳng định bản chất cách mạng, lợi ích quốc dân là mục tiêu chính của chính quyền cách mạng. Cụ thể, nhằm đề cao trách nhiệm của cán bộ đồng thời nghiêm trị các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt của công, Sắc lệnh số 223 - SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về tội biển thủ công quỹ đã được ban hành, trong đó quy định "Tội công chức biển thủ công quỹ... bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật... biển thủ. Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên". Với một số tài sản nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản để bảo vệ như Sắc lệnh số 12 ngày 12 tháng 3 năm 1949 về việc phạt tội ăn cắp, lấy trộm tài sản của nhà binh... Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 -1975 Thời kỳ này, tình hình xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa có những diễn biến phức tạp, đáng chú ý là có nhiều kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, làm rối loạn chế độ quản lý, ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước, đến tư tưởng đạo đức của cán bộ, nhân viên và nhân dân. Do vậy, vấn đề quản lý tài sản nhà nước cũng đòi hỏi phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải bổ sung Luật và có biện pháp bảo đảm cho những Luật đó được thi hành một cách có hiệu quả. Trước tình hình thực tiễn đặt ra, Nhà nước ta đã ban hành các quy định khá đẩy đủ về các tội có liên quan đến chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các văn bản luật được ban hành trong giai đoạn này đã quy định rõ về một số tội như: “chiếm đoạt,
  • 38. 31 trộm cắp” tài sản của nhà nước… nhưng còn tồn tại bất cấp: chưa quy định rõ về chủ thể của các hành vi phạm tội; các biện pháp và chế tài xử phạt chưa được rõ ràng nên khi áp dụng vào thực tiễn còn nhiều lúng túng. Do vậy, các cơ quan thực thi pháp luật gặp nhiều khó khăn khi vận dụng, không thống nhất về đường lối xử lý. Để khắc phục tình trạng này, ngày 21 tháng 10 năm 1970, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm xã hội chủ nghĩa nhằm thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh của Nhà nước ta đối với hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đồng thời tạo thuận lợi hơn trong quản lý xã hội và trấn áp tội phạm. Quy định của Pháp lệnh thể hiện bằng 3 chương, 25 điều, gồm nhiều tội danh và mức hình phạt, trong đó có tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa. Nội dung quy định về Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa được thể hiện tại Điều 8: "Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm: Tái phạm nguy hiểm; Có tổ chức; Có móc ngoặc; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; tham ô tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt; Dùng tài sản tham ô vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình". Trong quy định tại Pháp lệnh này thì tội tham ô không quy định chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn quản lý tài sản; mặt khác chưa định lượng cụ thể giá trị tài sản phạm tội mà chỉ quy định chung chung về tham ô tài sản có số lượng lớn, rất lớn, giá trị đặc biệt khiến nên khi vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Giá trị của các quy định của tội tham ô trong Pháp lệnh là đã làm rõ khách thể của tội danh này, cũng như đưa ra các hình phạt có tính răn đe. Qua đó thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về những hành vi xâm phạm tài sản của nhân dân cần phải được trừng trị nghiêm minh và kịp thời, nhất là đối với những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm xã hội chủ nghĩa đã cụ thể hoá trách nhiệm của mọi người đối với việc tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
  • 39. 32 Mặt khác, ngày 15 tháng 3 năm 1976, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam đã ban hành Sắc lệnh 03-SLT ở miền Nam trước ngày chính thức thống nhất tổ quốc, tội tham ô được quy định Điều 4 - Tội xâm phạm tài sản công cộng. Tài sản công cộng bao gồm tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của các tổ chức xã hội và của tập thể nhân dân. Tài sản công cộng là thiêng liêng, tuyệt đối không được ai xâm phạm. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, tham ô... thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô... mà tài sản chiếm đoạt rất lớn, hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình." Sắc lệnh này ra đời do đòi hỏi Sắc lệnh 03 - SLT không miêu tả các dấu hiệu tội phạm, và tồn tại Pháp lệnh được ra đời vào năm 1970. Để đảm bảo tính thống nhất, tạo thuận lợi cho các cơ quan thực thi luật pháp, ngày 8 tháng 3 năm 1978, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên bộ số 61 hướng dẫn thi hành pháp luật thống nhất, nhằm tiến tới vận dụng thống nhất Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trong cả nước. Với sự phát triển của đất nước và đòi hỏi thực tiễn tội phạm cũng như tính thống nhất và hoàn thiện pháp luật, năm 1985 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự đầu tiên với 12 chương, 280 điều. Tại Điều 133, tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa mà mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp say đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm: Thông đồng với người khác ở trong hoặc ngoài cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; Tái phạm nguy hiểm. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Trong quy định về tội danh tham ô tài sản trong Bộ Luật Hình sự 1985 đã quy định rõ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội tham ô tài sản phải là: Do người có