SlideShare a Scribd company logo
1 of 115
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------
Phạm Thụy Ngọc Quỳnh
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM
VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------
Phạm Thụy Ngọc Quỳnh
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM
VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
1
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đánh dấu việc hoàn thành hai năm học Cao học của tôi. Đây
thật sự là một công việc mất nhiều thời gian và công sức; tuy nhiên, nó mang
lại cho tôi những kinh nghiệm quý báu. Trong quá trình thực hiện luận văn,
bên cạnh tôi luôn có sự hướng dẫn, động viên của thầy cô, gia đình và bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn -
GS.TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG. Thầy vừa là người đã gợi ý cho tôi đề tài:
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU để tôi tìm hiểu;
vừa là người hướng dẫn đầy tận tình, trách nhiệm suốt quá trình tôi thực hiện
luận văn này. Từ tận đáy lòng, tôi kính gửi đến Thầy lời chúc sức khỏe để
Thầy tiếp tục dẫn dắt và truyền đạt cho chúng tôi kiến thức cũng như kinh
nghiệm của Thầy trên con đường giảng dạy và nghiên cứu.
Mặt khác, tôi kính gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy cô khoa Ngữ văn, phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm TP.HCM đã cùng đồng hành, dạy dỗ,
dìu dắt tôi trong suốt hai năm học qua từ việc học tập cho đến các công tác hỗ
trợ khác. Kiến thức, kinh nghiệm cùng sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy cô là
hành trang và nền tảng để tôi hoàn thành việc học tập của mình, mà luận văn
này là một dấu mốc quan trọng của quá trình đó.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình tôi vì đã
luôn là chỗ dựa vững chắc cho tôi ở mọi thời điểm. Cuối cùng, tôi muốn gửi
lời cảm ơn và lời chúc thành công đến tập thể lớp Lý luận văn học K21 cũng
như những người bạn khác vì đã đồng hành, chia sẻ cùng tôi nhiều khó khăn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn này được hình thành và phát
triển từ những quan điểm, ý kiến của cá nhân tôi, xuất phát từ nguyện vọng,
nhu cầu tìm hiểu việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu
(khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng) để
hình thành hướng nghiên cứu. Các kết quả được trình bày trong luận án là
trung thực. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Phạm Thụy Ngọc Quỳnh
1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ...............................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................7
5. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu ......................................................8
6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................8
7. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................8
8. Cấu trúc của luận văn....................................................................................9
Chương 1: VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU
1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu.............................10
1.2. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu .............19
1.2.1. Nguyên tắc chuyển thể..............................................................19
1.2.2. Phương thức chuyển thể ...........................................................22
1.2.3.Việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sang tác
phẩm sân khấu.................................................................................................31
Chương 2: XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
2.1. Xung đột trong tác phẩm văn học.........................................................39
2
2.1.1. Số đỏ - Xung đột giữa cái vô nghĩa lý và cái nghĩa lý..............40
2.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây - Xung đột giữa dục vọng và những khát khao
chân chính .......................................................................................................45
2.2. Xung đột trong tác phẩm sân khấu ......................................................49
2.2.1. Xung đột qua hành động và cốt truyện kịch.............................50
2.2.2. Xung đột nội tâm nhân vật........................................................54
Chương 3: NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU
3.1. Thế giới nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng ..........................60
3.1.1. Số đỏ – những chân dung biếm họa..........................................61
3.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây – những kẻ khốn cùng tha hóa.......................68
3.2. Nhân vật trong tác phẩm sân khấu ......................................................71
Chương 4: NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
4.1. Ngôn ngữ trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng........................................80
4.1.1. Ngôn từ đa dạng phong phú......................................................80
4.1.2. Ngôn ngữ giàu chất khẩu ngữ, giàu hàm ẩn.............................88
4.2. Ngôn ngữ kịch.........................................................................................91
4.2.1. Độc thoại, đối thoại chân thực, nhiều ngụ ý, sâu sắc................91
4.2.2. Ngôn ngữ “cá tính hóa” ............................................................94
KẾT LUẬN....................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................103
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐH & THCN : Đại học và Trung học chuyên nghiệp
HN : Thủ đô Hà Nội
NLĐ : Người lao động (báo)
NS : Nghệ sĩ
NSND : Nghệ sĩ nhân dân
NSƯT : Nghệ sĩ ưu tú
Nxb : Nhà xuất bản
SK : Sân khấu
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
tr : Trang
TT&VH : Thể thao và Văn hóa (báo)
VH : Văn hóa (báo)
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghệ thuật là thành quả kì diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn
nhân loại. Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng thỏa
mãn được những yêu cầu đa dạng phong phú của đời sống con người, đồng
thời, khẳng định tính độc lập của nó trước thực tiễn. Sở dĩ, nghệ thuật cần
thiết bởi vì chính trong nghệ thuật, con người tìm thấy sự biểu hiện cao nhất
và đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn học, âm nhạc,
hội họa, kiến trúc, điêu khắc…và sau này là sân khấu.
Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm
nhập lẫn nhau. Trong đó, mối quan hệ giữa văn học và sân khấu được xem là
“duyên phận”. Văn học trở thành nguồn “nguyên liệu” quan trọng cho sự phát
triển của sân khấu, đặc biệt là nghệ thuật sân khấu kịch . Rất nhiều các tác
phẩm kịch trên thế giới và cả ở Việt Nam đã được chuyển thể từ các tác phẩm
văn học nổi tiếng. Ngay từ ngày đầu phát triển, sân khấu đã coi văn học là
một “nguồn tài nguyên” lớn, trong đó có thể kể ra hai lý do chính yếu sau:
+ Thứ nhất, sân khấu luôn cần có những ý tưởng mới mẻ, những cốt
truyện hấp dẫn để thu hút khán giả. Vậy nên ngoài việc tự viết ra kịch bản thì
văn học chính là một nguồn cảm hứng lớn để các nhà biên kịch dựa vào đó để
làm ra những kịch bản chất lượng.
+ Thứ hai, những tác phẩm văn học, đặc biệt những tác phẩm văn học
nổi tiếng luôn có một số lượng lớn độc giả. Số lượng độc giả này đương nhiên
muốn nhìn những nhân vật của mình vốn từ trước đến nay chỉ hiển hiện trong
trí tưởng tượng bước khỏi trang giấy và hiện diện trên sàn diễn sân khấu.
2
Vậy nên một tác phẩm sân khấu dựa trên một tác phẩm văn học sẽ có
một lượng người hâm mộ sẵn có. Đây là lợi thế lớn về kinh tế đối với sân
khấu. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân
khấu, hàng loạt tác phẩm văn chương đã được dựng thành tác phẩm sân khấu,
đem đến “món ăn tinh thần” mới mẻ, “lạ miệng” cho sân khấu. Sân khấu kịch
đã biết khai thác mảnh đất màu mỡ của văn học để làm tiền đề cho sự phát
triển của mình. Thông qua kịch, tác phẩm văn học được tiếp nhận dưới góc
nhìn khác hơn và qua đó, dễ dàng đi vào đời sống. Đặc biệt, trong vài năm trở
lại đây nhiều sân khấu kịch ở TP.HCM đồng loạt đưa các tác phẩm văn học
lên sân khấu. Hàng loạt các vở kịch ăn khách trên các sân khấu kịch TP.HCM
hiện nay hầu hết là các tác phẩm chuyển thể từ văn học và trong số đó, chúng
ta phải kể đến trường hợp Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác
phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào
năm 1930, nhưng ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30
truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở
kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm
bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Điều này chứng tỏ ông
có một sức lao động phi thường mà ẩn náu trong đó là một tài năng lớn, đúng
như lời nhận xét của nhà phê bình Trần Hữu Tá trong dịp kỉ niệm 100 năm
sinh của Vũ Trọng Phụng (1912 – 2012): “Cũng như rượu, một khi được
chưng cất bằng chất liệu tốt và bởi những nghệ nhân lão luyện, nó bất chấp
thời gian, thậm chí càng lâu năm càng quí. Sản phẩm văn hóa tinh thần của
loài người cũng vậy, một khi đã là kiệt tác, ắt sẽ bất hủ. Không phải người
nghệ sĩ nào cũng nào cũng có hạnh phúc bất tử với thời gian. Số này hiếm
3
lắm. Nhưng ta có căn cứ để tin Vũ Trọng Phụng sẽ có chỗ đứng xứng đáng,
rất bền vững lâu dài trong lâu đài văn học dân tộc.” [53]
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng dù ra đời cách nay hàng chục năm
nhưng vẫn còn gần gũi với thời đại chúng ta. Nếu quan sát cuộc sống xung
quanh, ta thấy những vấn đề mà Vũ Trọng Phụng đưa ra vẫn rất thời sự, các
nhân vật của ông vẫn rất “thật”, rất “đời”... Các tác phẩm của ông được sân
khấu chuyển thể rất thành công, được khán giả đón nhận nồng nhiệt, tạo thành
một “dòng chảy văn học trên sân khấu”. Tuy nhiên từ tác phẩm văn học đến
vở diễn không phải là một con đường bằng phẳng, dễ dàng mà đầy khó khăn,
thử thách. Vậy khi tác phẩm văn học được chuyển thể sang tác phẩm sân khấu
kịch, nó đã khai thác và chuyển hóa những gì? Nó có những biến đổi ra sao và
có bảo toàn được tính văn học nữa không? Ngược lại, nghệ thuật sân khấu
kịch đã tác động vào văn học như thế nào?
Với việc lựa chọn đề tài:“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC
PHẨM SÂN KHẤU, tôi mong tìm hiểu và lí giải được phần nào mối quan hệ
đa chiều, phức tạp đó.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học và nghệ thuật sân khấu kịch đều là các hình thái nghệ thuật
mang ý thức thẩm mĩ, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau.
Tác giả Lí Hoài Thu nhận định : “Kịch nói là một loại hình sân khấu mang
tính đặc thù rõ rệt. Chất liệu để nhà văn xây dựng nên các tác phẩm kịch nói
là ngôn ngữ văn học. Vì lẽ đó, kịch bản văn học là một trong những thể loại
chính của văn học, tiêu biểu cho một phương thức phản ánh – phương thức
kịch. Là một thể loại văn học nằm trong loại hình nghệ thuật kịch, tác phẩm
kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu.
Bằng những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí…nội
4
dung của kịch bản văn học được tái hiện lại một cách trực tiếp, sinh động
trên sàn diễn” [13, tr. 200].
Về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu nói
chung, hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây nói riêng, trong các công trình
nghiên cứu, trên các báo, tạp chí, các website, diễn đàn, mạng xã hội.... đã có
không ít ý kiến trình bày, nhận xét:
Trong công trình Cơ sở lý luận văn học Lê Bá Hán nhận xét: “Nhắc
đến tên một bộ tiểu thuyết, một truyện vừa, một truyện ngắn hoặc một kịch
bản văn học quen biết, chúng ta liền nghĩ đến câu chuyện và những con người
được thể hiện trong đó...” [14, tr. 74]
Tác giả Huỳnh Như Phương cho rằng: “Những tác phẩm văn học
được chuyển thể thành công thường là những truyện kể có tính sân khấu theo
cách gọi của Otto Luwig. Đó là những truyện kể mà đối thoại của các nhân
vật được đưa lên hàng đầu và phần trần thuật được giản lược thành các chú
thích cho những câu đối thoại...” [46, tr. 112 – 113]
Nói về việc tác phẩm văn học trở thành “nguồn nguyên liệu” cho điện
ảnh, sân khấu, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Phương tiện kể cũng
là một phương diện của tự sự học (...) đề tài tiểu thuyết có thể đưa lên sân
khấu hay màn ảnh, cũng có thể dùng từ ngữ để kể cái đã xem trên màn bạc.
Tất nhiên cái xem trong phương tiện cụ thể là khác nhau, nhưng chúng ta
cũng chỉ xem cùng một truyện” [51, tr. 5]
Tác giả Đức Thành trong bài Những quyết định nhạy cảm viết: “Văn
học - Điện ảnh - Sân khấu mặc dù khác nhau về ngôn ngữ thể hiện nhưng xét
chung lại "họ" vẫn là những người hàng xóm thân thiết và lâu năm của nhau.
Những cuộc viếng thăm bao giờ cũng đáng quý và chờ đợi những "nồng nàn"
từ những cuộc "giao tiếp" đó sẽ được thể hiện...” [61].
5
Trên báo Đại đoàn kết, nhà báo Hiền Thư viết: “Việc chuyển thể các
tác phẩm văn học nổi tiếng không chỉ đơn thuần nhằm mục đích khắc phục
tình trạng khan hiến kịch bản hay hiện nay mà quan trọng hơn là góp phần
lưu giữ những cái hay, cái đẹp của văn học, cũng như quảng bá những giá trị
đó đến với thế hệ khán giả trẻ” [64]
Cụ thể hơn, khi đánh giá về diễn xuất của diễn viên trong việc thể hiện
các nhân vật ở vở diễn Số đỏ, nhà báo Cát Vũ trong bài viết Kịch Bắc ở Sài
Gòn đã viết: “Vở đã tạo cho hầu hết diễn viên tham gia một vai diễn mới để
đời: Minh Béo với vai cậu Phước “em chã”, Thúy Nga gây ấn tượng mạnh
với vai bà cố Hồng, Minh Hoàng - Cát Phượng trong vai ông bà Văn Minh,
Hồng Vân khẳng định đẳng cấp trong vai bà phó Đoan. [69]
Tác giả Trần Thanh Quang trong bài Đưa văn học đến với học sinh
qua sân khấu kịch, trên báo Giáo dục TP.HCM, đã tổng hợp một số ý kiến
đánh giá của giáo viên, học sinh khi xem xong vở diễn Số đỏ: “Vở kịch
chuyển tải được tinh thần cơ bản của tác phẩm. Những nội dung thể hiện trên
sân khấu đã lồng được những đoạn khác nhau trong tác phẩm mà văn bản tác
phẩm bị dàn trải”. [49]
“Diễn viên sử dụng ngôn ngữ bằng nhiều từ hiện đại chưa phù hợp
với tác phẩm. Về tính cách nhân vật, diễn viên đã lột tả được phần lớn tính
cách nhân vật như tác phẩm thể hiện nhưng chưa hoàn toàn. Giá như nhân
vật Xuân Tóc Đỏ láu cá hơn một chút, tinh ranh hơn một chút sẽ phù hợp với
nhân vật trong tác phẩm.” [49]
Nói về thành công của vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây, tác giả Khôi Nguyên
nhận xét: “Với nội dung hấp dẫn, cách dàn dựng độc đáo cùng sự tham gia
của một “dàn sao” quen thuộc, Kỹ nghệ lấy Tây đã thu hút khán giả ngay từ
những xuất diễn đầu tiên” [41]
6
Bài Kỹ nghệ lấy Tây, “bàn thắng đúp” của Hồng Vân đưa ra nhận
định: “Bằng việc khai thác triệt để những yếu tố đối lập, từ ngoại cảnh cho
đến tâm lý nhân vật, Kỹ nghệ lấy Tây đã làm bật lên những bi hài trong xã
hội đương thời. Tiếng cười qua đi nhưng nỗi niềm chua xót cho những kiếp
người vẫn đọng lại trong lòng khán giả sau khi màn nhung khép lại” [74]
Tác giả Văn Bảy nhìn nhận: “Như là một tác phẩm phái sinh từ phóng
sự, trừ nhân vật Vũ Trọng Phụng còn khá lạc lõng, nói chung đây là một vở
kịch đáng xem...” [7]
Bài Khóc, cười cùng Kỹ nghệ lấy Tây của Thanh Hiệp đánh giá: “Kịch
Phú Nhuận không làm việc minh họa cho tác phẩm văn học, mà có những
sáng tạo để người xem cùng cười, cùng khóc với các nhân vật khi so sánh với
phóng sự mà mình đã đọc.” [19]
Trên báo Thế giới văn hóa, bài viết Đi xem Kỹ nghệ lấy Tây cho rằng:
“Với Kỹ nghệ lấy Tây, thực trạng xã hội của miền Bắc Việt Nam trước những
năm 1945 được tái hiện chân thật qua từng số phận. Chuyển thể tác phẩm
cùng tên của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Lê Chí Trung giữ lại hầu hết nội dung
của nguyên tác văn học.” [73]
Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài viết như: Kịch Phú Nhuận tăng tốc
“hiện thực phê phán” (H.H) trên báo Tuổi trẻ [17], , Chính kịch hồi sinh
(Hiệp Thanh) [59], Cuộc “thay máu” thành công của sân khấu kịch Phú
Nhuận (Mai Trí) đăng trên báo Thanh niên [66], Thêm một Xuân Tóc Đỏ cho
Số đỏ (Nhật Lam) [31], bài Từ trang văn bước ra sân khấu (Song Minh) của
báo Giáo dục [39]...Hầu hết các bài báo này đều đưa ra những ý kiến xoay
quanh việc chuyển thể tác phẩm văn học – những khó khăn và khúc mắc,
đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về hai vở diễn Số đỏ và Kỹ nghệ
lấy Tây trên sân khấu.
7
Những bài viết, nhận định trên đã gợi ý, giúp người viết thực hiện việc
tìm hiểu những nét khái quát cho đến việc khảo sát chi tiết, cụ thể và có hệ
thống việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu (khảo sát
hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây). Để từ đó thấy rõ vai trò, sự gắn kết
của văn học và sân khấu trong việc sáng tạo vở diễn trên sân khấu.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài:
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU, tôi nhằm:
- Tìm hiểu hiện tượng chuyển thể các tác phẩm văn học sang tác phẩm
sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm : Số đỏ và Kỹ
nghệ lấy Tây)
- Mặt khác, việc thực hiện đề tài này sẽ giúp tôi hiểu biết thêm về văn
học và nghệ thuật sân khấu kịch, thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn
học và nghệ thuật sân khấu (nghệ thuật trình diễn).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa vào kết quả tìm hiểu sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và
Kỹ nghệ lấy Tây), tôi nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu mục đích và tiêu chí lựa chọn các tác phẩm văn học để
chuyển thể thành kịch bản – phục vụ cho nghệ thuật sân khấu kịch.
- Tìm hiểu các nguyên tắc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm sân khấu.
- Xem xét việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng (hai tác
phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) sang tác phẩm sân khấu
- So sánh mối tương quan giữa tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể
8
5. Đối tượng, giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu, điều kiện nghiên cứu có hạn, để tìm hiểu về
sự chuyển thể từ tác phẩm văn học đến tác phẩm sân khấu, đối tượng tìm hiểu
của đề tài là hai tác phẩm của Vũ Trọng Phụng : Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây.
Hai tác phẩm này là những tác phẩm ít nhiều đã có vị trí nhất định trong dòng
chảy của văn học, sau đó được chuyển thể, công diễn trên sân khấu và đã
nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả trên sân khấu kịch. Điều này
sẽ tạo những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu sự chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu kịch của người thực hiện đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên,
trong luận văn tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp liên ngành: nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại
hình nghệ thuật (nói chung), mối quan hệ tác động qua lại giữa văn học và
nghệ thuật sân khấu (nói riêng)
- Nhóm các phương pháp phân loại, phân tích, so sánh: Nhóm các
phương pháp này giúp tôi hệ thống các cứ liệu để có thể đánh giá, nhận xét,
phân tích và rút ra kết luận, một số đề nghị cần thiết.
- Phương pháp hệ thống và tổng hợp: nhằm giúp người nghiên cứu
làm rõ một cách hệ thống, đầy đủ những tương đồng và khác biệt của tác
phẩm văn học gốc và tác phẩm sân khấu trong quá trình thực hiện việc
chuyển thể, để từ đó nhận thấy rõ mối quan hệ giữa văn học và sân khấu.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Phần nghiên cứu quá trình sáng tạo vở diễn (kịch) trên sân khấu từ tác
phẩm văn học (khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) chủ yếu kế
9
thừa những kết quả nghiên cứu đã có trước đây. Tuy nhiên, luận văn đã cố
gắng tìm hiểu thêm một số khía cạnh mới chưa được các nhà nghiên cứu đề
cập, hoặc đã có đề cập nhưng chưa đi sâu. Sau đây, là một số đóng góp mới
của đề tài:
- Bước đầu thấy được những thuận lợi và khó khăn khi chuyển thể
một tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu
- Thấy được những tương đồng, khác biệt trong việc xây dựng xung
đột, nhân vật, ngôn ngữ từ văn học đến sân khấu
8. Cấu trúc của luận văn
Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU (9 trang)
Gồm: Lí do chọn đề tài, Lịch sử vấn đề, Mục đích nghiên cứu, Nhiệm vụ
nghiên cứu, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Phương pháp nghiên cứu,
Những đóng góp mới của đề tài, Cấu trúc của luận văn.
Phần thứ hai : NỘI DUNG (88 trang) gồm bốn chương:
Chương 1 : VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU (29 trang)
Chương 2 : XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (21 trang)
Chương 3 : NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” :
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU (20 trang)
Chương 4 : NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (18 trang)
Phần thứ ba : KẾT LUẬN (5 trang)
Danh mục tài liệu tham khảo.
10
Chương 1
VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU
1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu
Mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của
mĩ học và nghệ thuật học. Đây là mối quan hệ giữa các loại hình cùng gắn bó
trong một hệ thống và quan hệ giữa loại hình này với loại hình khác. thường
diễn ra ở dạng động và dạng tĩnh. “Ở dạng tĩnh, đó là quan hệ so sánh để tìm
ra những điểm giống nhau (tương đồng) hoặc khác nhau (sự tương dị). Ở
dạng động, đó là quan hệ có sự hợp tác liên kết trong quá trình sáng tạo
(quan hệ tương tác)” [68, tr. 10]
Văn học và sân khấu vốn dĩ đều là hình thái ý thức xã hội ý thức thẩm
mĩ – nghệ thuật, cùng có đặc tính chung, chức năng chung và cùng chịu sự chi
phối, quyết định của đời sống xã hội. Giữa chúng có mối liên hệ khá mật
thiết, chặt chẽ. Hai loại hình nghệ thuật này đều có chung đối tượng, đề tài,
chủ đề... Nếu văn học lấy cuộc sống làm đối tượng để phản ánh, thì sân khấu
cũng thế. Xét cho cùng, cả văn học và sân khấu đều là “tấm gương phản
chiếu” thực tiễn xã hội. Chúng cùng hướng đến những giá trị Chân – Thiện –
Mĩ, giá trị nhân văn của cuộc sống.
Chẳng hạn, khi khán giả xem vở kịch Làm..., vốn được chuyển thể từ
tiểu thuyết Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, vẫn được thấy một câu chuyện còn
vẹn nguyên tính thời sự như thuở nào. Vẫn là những tên nhà giàu, quan chức
đạo đức giả thao túng xã hội. Vẫn là bi kịch của những cô gái mất trinh tiết
trước khi lập gia đình. Vẫn là những bậc làm cha, làm mẹ giấu giếm, bưng bít
chuyện giới tính để những cô, cậu bé khi bước vào tuổi dậy thì hoang mang
đến lạc lối lúc nào không biết, và cũng tương tự như vậy ở những vở kịch
11
chuyển thể khác. Đó là thông điệp cố gắng níu giữ hạnh phúc gia đình để
những đứa trẻ còn có cha có mẹ, đừng để chúng rơi vào hoàn cảnh côi cút
không đáng như đôi vợ chồng Út Vũ đã làm. Tình yêu thương tuy có vẻ bình
thường nhưng nếu cuộc sống không có yêu thương, nó sẽ không tồn tại trong
vở Cánh đồng bất tận. Là chuyện kể về thân phận bọt bèo của những tá điền
thuở trước, không chỉ cực nhọc vì gánh nặng tô thuế mà còn bị đám nhà giàu
hiếp đáp cả trong đời sống tình cảm trong vở Con nhà nghèo. Còn với vở Nửa
đời ngơ ngác chuyển thể từ truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn Ngọc Tư lại
là câu chuyện tình trái ngang vì người mẹ trọng giàu sang mà ép duyên con
gái, khiến hư thai, người tình cũ ở tù oan trở về với lòng thù hận và sống
trong hận thù (nhưng không trả) gần 20 năm...
Giữa văn học và nghệ thuật sân khấu luôn có sự giao thoa nhuần
nhuyễn. Bởi lẽ, nhà văn, nhà biên kịch đều là những người nghệ sĩ có cùng sự
đa cảm, trí tưởng tượng, sự tinh nhạy điêu luyện, cảm quan nghệ thuật .... Tư
duy của người nghệ sĩ sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật (nhà văn, nhà biên
kịch) là tư duy nghệ thuật. Họ phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính của
nghệ thuật, phản ánh hiện thực theo quy luật của cái đẹp, cái thẩm mĩ nhằm
thể hiện và tái tạo một cách sinh động hiện thực cuộc sống với những nhu
cầu, khát vọng của con người. Cách nhìn, cách cảm nhận, suy nghĩ của nhà
biên kịch gần gũi với nhà văn cho nên khi tiếp cận tác phẩm văn học, nhà biên
kịch dễ dàng tiếp nhận, đồng cảm với những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn
gửi gắm trong tác phẩm văn học. Chính sự “giao lưu” này đã làm nên tiếng
nói chung, sự đồng điệu trong việc sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Nhà
văn khi viết tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...không hề nghĩ “đứa con tinh
thần” của mình sẽ có “đời sống thứ hai” trên sân khấu. Nhưng nghệ thuật là
lĩnh vực của cảm xúc, của tình cảm nên tâm hồn người nghệ sĩ bao giờ cũng
gặp nhau qua tác phẩm. Vì lẽ đó, rất nhiều tác phẩm văn học đã trở thành
12
niềm cảm hứng thôi thúc các tác giả sân khấu viết nên những vở diễn mang
đầy tính nhân văn, truyền tải những thông điệp đầy ý nghĩa. Các nhà biên kịch
đã tìm thấy sự đồng điệu qua các tác phẩm văn học và họ mong muốn rằng
những tác phẩm văn học sẽ được cụ thể hóa và hiện hữu trên sân khấu.
Nhà biên kịch Minh Nguyệt, khi chuyển thể truyện ngắn Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đã chia sẻ : “Ngay khi mới bắt đầu tôi đã nghĩ
để viết một kịch bản độc lập là rất khó, nên phải dựa vào văn học. Thế nhưng,
để tìm chất liệu trong văn học cũng không dễ, vì truyện nhiều, nhưng không
phải tác giả nào mình cũng thích, nên khi gặp được Tư, tôi rất hạnh phúc,
truyện của bạn ấy mới và có cách xử lý thông minh. Truyện nào cũng rõ cái
tứ, cách khai thác thân phận hay, thấm đẫm tình người… đọc xong thấy xốn
xang và luôn buộc mình nhớ lại. Dù viết đề tài gì, Tư cũng có cách nhìn mới
lạ và sang trọng về mặt ý tưởng, không chỉ có éo le, đau khổ, bần cùng...” 1
.
Đạo diễn Doãn Hoàng Giang, người dựng vở kịch Số đỏ (chuyển thể từ tiểu
thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng) lại cho biết : “Từ ngày còn đi học, tôi
đã bị hấp dẫn bởi Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, một tác phẩm văn học có cốt
truyện hay. Các nhân vật được mô tả một cách cường điệu, khoa trương mà
vô cùng duyên dáng. Sự nhố nhăng của xã hội hiện lên một cách tài hoa....” 2
Tác phẩm sân khấu được bắt đầu từ kịch bản văn học. Thiếu kịch bản
văn học sẽ không thể hình thành vở diễn trên sân khấu. Đó là yếu tố đầu tiên
đảm bảo chất lượng, sự thành công cho vở diễn trong tương lai. Trong quá
trình “sáng tạo” ra tác phẩm để diễn trên sân khấu, giai đoạn sáng tác ra kịch
bản văn học là giai đoạn thể hiện tập trung nhất mối quan hệ mật thiết giữa
hai loại hình nghệ thuật – văn học và sân khấu (ở đây là sân khấu kịch nói).
Kịch bản văn học sân khấu là biểu hiện cụ thể của của tính văn học trong sân
1
Theo báo TT & VH, ngày 07/04/2012
2
Theo báo NLĐ, ngày 18/01/2002
13
khấu. Kịch bản trước hết tự nó phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập,
thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác phẩm văn học. Kịch bản là bước
đầu tiên để hiện thực hóa những con chữ thành một câu chuyện trên sân khấu.
Trần Đình Sử trong Lý luận văn học – Tập 2: Tác phẩm và thể loại
văn học cho rằng: “Kịch bản là bản kịch gốc mà người ta dựa vào để dựng
thành vở diễn trên sân khấu. Kịch bản văn học là nền tảng, là bộ phận quan
trọng nhất làm nên một vở diễn. Kịch bản văn học là một bộ phận hợp thành
của nghệ thuật sân khấu và những điều kiện của sân khấu góp phần quyết
định đặc điểm riêng của kịch bản văn học” [52, tr. 323]. Cho nên, một vở
kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học muốn có chất lượng, muốn thành công,
tất nhiên phải có kịch bản chuyển thể đáp ứng được những yêu cầu đặc trưng
của ngôn ngữ sân khấu. Những yếu tố cơ bản trong văn học cũng là những
yếu tố cơ bản trong kịch bản sân khấu như : xung đột, nhân vật, ngôn
ngữ...Các yếu tố trên được định hình trên giấy trước khi được chuyển thể
thành vở diễn trên sân khấu. Điều này lại càng đúng với những vở diễn được
cải biên, chuyển thể từ tác phẩm văn học.
Một vở diễn trên sân khấu cũng như một tác phẩm văn học, bao giờ
cũng phải có tính xung đột. Tác phẩm văn học và sân khấu chỉ có thể hình
thành, phát triển thông qua các xung đột. Việc lựa chọn, giải quyết các xung
đột sẽ giúp chúng ta thấy được tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn, nhà biên kịch
gửi gắm trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Cả văn học và kịch nếu không
có xung đột thì chỉ là những hoạt cảnh nhạt nhẽo mà thôi!
Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cách đây hàng chục năm ta thấy được
sự xâm nhập của phong trào Âu hóa, những biến đổi đến không ngờ của con
người trong xã hội thành thị; thì nay ở vở diễn trên sân khấu, cũng vẫn là
những xung đột đó – xung đột giữa những Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, ông
bà Văn Minh...với cái xã hội thành thị “nửa vời”, đồng thời đó còn là xung
14
đột của chính nội tâm nhân vật! Những xung đột đó cứ như xoay vần, âm ỉ,
kéo dài mãi không thôi. Giống như thế, vở kịch Làm... (chuyển thể từ tiểu
thuyết Làm đĩ) nhằm tái hiện bi kịch của Huyền. Chính cuộc hôn nhân gặp
nhiều tan vỡ trong đời sống gia đình với người chồng ăn chơi nổi tiếng đất Hà
Thành là Tham Kim, đã đẩy Huyền đến bi kịch “làm đĩ” như bà mẹ kế. Còn
vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây (chuyển thể từ phóng sự cùng tên) lại là câu chuyện
chuyện bi hài của các me hành nghề lấy Tây. Bi kịch của những người phụ nữ
này là ở chỗ, họ “được tiếng” là “lấy Tây” nhưng lại chẳng sung sướng gì cho
cam mà ngược lại, phải chịu sự dè bỉu, khinh khi, cái nhìn soi mói của người
đời. Không những thế, bi kịch đó được thực thi bằng “bản án” được truyền
đến cả đời con, đời cháu họ!
Tuy vậy, một tác phẩm và một vở diễn, tất nhiên không thể nào giống
nhau hoàn toàn. Nếu trong tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...xung đột được
thể hiện thông qua ngòi bút của tác giả, qua cách sử dụng ngôn từ của nhà
văn, được hiện thực hóa, hữu hình trên trang sách; thì vở diễn, do đặc trưng,
chịu sự chi phối của nghệ thuật sân khấu, xung đột lại được cụ thể hóa thông
qua hành động kịch, mà ở đây, chủ yếu là thông qua diễn xuất, cử chỉ, điệu
bộ, ngôn ngữ của nhân vật, của diễn viên...Văn học nói bằng ngôn ngữ hay
ngôn từ. Đây là một dạng chất liệu đặc biệt bởi nó mang tính phi vật thể,
trong khi đó, chất liệu của nghệ thuật sân khấu lại là âm thanh, sân khấu, diễn
xuất của diễn viên... Nếu chất liệu của văn học là phi vật thể; thì ngược lại, ở
sân khấu, đó lại là chất liệu vật thể. Đọc một tác phẩm văn học, người đọc
cảm nhận vẻ đẹp, giá trị của tác phẩm thông qua ngôn từ, qua cách sử dụng từ
ngữ của tác giả. Còn vở diễn trên sân khấu, lẽ dĩ nhiên, cũng sử dụng ngôn
ngữ, nhưng lại theo một cách khác – ngôn ngữ của hiệu ứng âm thanh, ánh
sáng, của sân khấu và quan trọng đó là ngôn ngữ diễn xuất của diễn viên. Ở
đó, ngôn ngữ diễn xuất của người diễn viên hóa thân thành ngôn ngữ nhân
15
vật. Đó là ngôn ngữ mang tính hành động, tính khẩu ngữ, tính hàm súc và tính
tổng hợp cao.
Có thể nói, trên sân khấu, người diễn viên đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Một kịch bản trở nên sống động, được khắc họa vào không gian - thời
gian bằng đời sống tâm hồn, bằng trái tim nóng với nhịp đập đời sống tươi
mới của những con người chỉ có thể dựa vào nghệ thuật diễn xuất của diễn
viên trên sân khấu. Một ý tưởng, một hình tượng nghệ thuật trong cấu tứ của
tác giả và đạo diễn cũng chỉ có thể được thể hiện và biểu đạt bằng nghệ thuật
diễn xuất của người diễn viên. Nghệ thuật diễn xuất của người diễn viên sân
khấu được biểu đạt bằng hành động sân khấu trong một không gian - thời gian
sân khấu. “Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật của hành động. Hành động sân
khấu chính là cơ sở sáng tạo, là phương tiện nghệ thuật của người diễn viên”
[ 48, tr.18]. Cuộc sống sân khấu là quá trình hành động của các nhân vật, từ
sự khởi đầu cho đến kết thúc. Sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống thông
qua hành động, bằng diễn xuất của người diễn viên.
Đọc một tác phẩm văn học, người đọc có thể hình dung ra hình ảnh
của một Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cô Tuyết, vợ chồng Văn Minh...trong Số
đỏ; hình ảnh của “đội quân” hành nghề “lấy Tây” trong Kỹ nghệ lấy
Tây....thông qua ngòi bút tài hoa, nhạy bén và sắc sảo của Vũ Trọng Phụng.
Bằng tài năng của mình, nhà văn đã dựng nên những nhân vật mang tính điển
hình, khái quát cao. Những vở diễn trên sân khấu (với tư cách là những tác
phẩm chuyển thể), lẽ dĩ nhiên, với những ưu thế riêng, đã giúp những nhân
vật từ trang sách được “tái tạo” lần nữa, để các nhân vật có “đời sống thứ hai”
trên sân khấu. Xem một vở diễn, khán giả có thể nhìn thấy nhân vật (vốn đã
được tái hiện trong tác phẩm văn học) “bằng xương bằng thịt”, để từ đó họ có
cái nhìn gần gũi, mới mẻ hơn về chính nhân vật văn học, về tác phẩm văn học
mà mình đã được đọc, được xem. Để làm được điều này, bên cạnh sự hỗ trợ
16
của cả một ê – kip thì vai trò của người diễn viên là vai trò trung tâm. Bởi lẽ,
hơn ai hết, họ hiểu rằng, một nhân vật văn học từ tác phẩm văn học bước ra
sàn diễn xem như được “khai sinh lần nữa”. Chẳng phải vì thế mà ta đã bắt
gặp một lần nữa hình ảnh của một Xuân Tóc Đỏ láu cá, xỏ xiên qua diễn xuất
của nghệ sĩ Đức Hải (vở Số đỏ), một bà Ách vừa đáng thương vừa đáng trách
qua tài nghệ diễn xuất của nghệ sĩ Hồng Vân, một me Tây Kiểm Lâm gai góc,
bất cần đời của diễn viên Trịnh Kim Chi...(vở Kỹ nghệ lấy Tây)....
Không chỉ vậy, nhờ lợi thế riêng của mình, đôi khi, tác phẩm sân
khấu, với tài diễn xuất của người diễn viên còn giúp làm đầy đặn hơn những
nhân vật – vốn chỉ được xem là nhân vật phụ, nhân vật làm nền cho sự xuất
hiện của nhân vật chính. Nói về điều này, có thể kể đến trường hợp của cậu
Phước (Minh Béo), thầy bói (Quyền Linh), vợ chồng Văn Minh (Minh Hoàng
– Cát Phượng)...trong Số đỏ; Duyên (Thúy Nga), Bond (Minh Nhí)...trong Kỹ
nghệ lấy Tây hay Lan dẹo (Như Phúc), Hết (Quang Thảo), Hoài (Kim Phước)
trong vở Nửa đời ngơ ngác....Chính sự xuất hiện của những nhân vật như thế
đã làm cho vở diễn thêm phần sinh động, nhiều màu sắc. Và cũng nhờ thế mà
kịch tính của tác phẩm sân khấu được tăng lên.
Nếu tác phẩm văn học miêu tả nhân vật bằng ngôn từ thì sân khấu là
nghệ thuật miêu tả hành động của con người bằng động tác. Hệ thống hành
động sân khấu được coi là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật diễn xuất, biểu hiện
ngữ nghĩa của sân khấu. Hệ thống hành động sân khấu (tương tự như tác
phẩm văn học) bao gồm hành động hình thể, hành động ngôn ngữ và hành
động tâm lý v.v... của người diễn viên sân khấu. Hành động hình thể gồm
những động tác tạo nên từ hình thể người diễn viên. Hành động ngôn ngữ là
đối thoại, độc thoại, lời nói riêng. Hành động tâm lý chỉ những trạng thái có
thể ngừng lặng về ngôn từ của diễn viên, song cũng là lúc diễn viên hoàn toàn
dùng hành động biểu đạt thể hiện trạng thái sóng gió trong nội tâm nhân vật.
17
Chẳng hạn, trong phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, nhân vật Duyên (trước
khi lấy Tây) đã được miêu tả thế này qua lời kể của bà Cẩm: “Sao không ở
làng ấy mà lấy thằng cổ cầy vai bừa nào thì lấy có được không? Thân phận
đã thế lại còn chê chồng! Không biết bố mẹ mày ăn uống gì mà đẻ ra mày
như thế chứ? Sào một xanh rau thì bắc lên hai con đỉa! Một tháng chưa tắm,
rận chấy lúc nào cũng như sung! Ngồi ăn cơm, ho một cái bắn vung cơm ở
mồm ra như mưa ấy! Chồng nó không chê thì thôi chưa lại còn chê chồng!
Tưởng ta...vàng...ngọc lắm đấy!” [45, tr.43 – 44]. Ấy vậy mà, Duyên đã thay
đổi. Cô đã biết “đánh phấn, bôi môi, kẻ lông mày” [45, tr. 47], lại còn biết
“liếc mắt một cái rồi cười” [45, tr. 47].... Lẽ dĩ nhiên, khi viết như thế, Vũ
Trọng Phụng muốn ta hình dung được một cô Duyên đã thay đổi như thế nào
trước và sau khi được “xung vào đội quân kỹ nghệ lấy Tây”, nhưng tính tổng
hợp của văn học diễn ra thông qua trí tưởng tượng của mỗi người đọc, được
miêu tả qua ngữ nghĩa. Sự hình dung đó đúng hay không đúng với sự vật
được miêu tả còn tùy thuộc ở trình độ hiểu biết và sự từng trải, kinh nghiệm
sống của mỗi người đọc. Chính vì vậy, đôi khi, người đọc không thể nào
mường tượng được hết những “ẩn chứa sâu kín” do ngôn từ mang lại và như
thế, nhân vật sẽ chỉ là nhân vật tồn tại, hiển hiện trên trang sách mà thôi!
Thế rồi, nhân vật sân khấu ra đời, khán giả lại có dịp thấy được một
nhân vật Duyên có đời sống, hành động, ngôn ngữ, điệu bộ...một Duyên
“người thật việc thật” hẳn hoi! Khác với ngôn từ phi vật thể của văn học,
nghệ thuật sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những hình ảnh cụ
thể, bằng diễn xuất của người diễn viên, thông qua hiệu ứng sân khấu, âm
thanh, ánh sáng...khiến cho người xem tưởng như mình đang nhập cuộc vào
câu chuyện. Để rồi, từ đó, khán giả có thêm cái nhìn đồng cảm với nhân vật,
với những gì đang diễn ra trên sân khấu, ngay trước mắt mình. Tác phẩm văn
học, nhờ thế, cũng được thẩm thấu dễ dàng, gần gũi hơn.
18
Duyên trong Kỹ nghệ lấy Tây trên sân khấu là một cô Duyên đầy biến
hóa. Khi mới xuất hiện, trông Duyên thật quê mùa, xấu xí đến kinh ngạc với
bộ răng vẩu, tóc tai bù xù, quần áo thì “lôi thôi lếch thếch”. Thế nhưng, khi
“ngấm” được những bài học “xương máu” từ dạo lấy chồng Tây, Duyên đã
thay đổi hẳn. Cô ăn mặc diêm dúa và sành điệu trong bộ quần áo “hoa hòe
hoa sói”, đến nỗi chính bà Ách – người “huấn luyện” cô cũng phải thốt lên:
“Mày đấy hả Duyên. Hết hồn...Sao mày lạ thế?”[76]. Và chính Duyên đã trả
lời với bà Ách thế này: “Cám ơn cô nhé. Ngày xưa đấy, cô nhìn thấy không,
cháu lúc nào cũng như là con chuột chù, hôi hoa tỏi. Nhưng từ ngày lấy Tây
bây giờ, nó cho một loại nước hoa gì, xịt vào...xịt con chuột chết nó cũng
thơm, huống gì là con...”, hay “Xin lỗi cô, con Duyên này bây giờ đã khác
xưa rồi!” [76]. Câu nói mang đầy sự chua chát đến không ngờ, sự thay đổi
của thành thị đã làm thay đổi cả số phận, tính cách của cả một con người!
Văn học nói chung sâu sắc và tinh tế hơn sân khấu, nhưng đọc một
cuốn truyện, nghe một bài thơ ta không thể thấy con người, cảnh vật...hiện ra
một cách hiện hữu, cụ thể như trên sân khấu mà chỉ có thể mường tượng, cảm
nhận chúng qua thông qua trí tưởng tượng mà thôi. Sự hình dung, tưởng
tượng đó đúng hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, vốn sống
cũng như sự từng trải của từng đối tượng độc giả. Sân khấu, với tư cách là
nghệ thuật tổng hợp, tái hiện cuộc sống bằng những hình ảnh, điệu bộ cụ thể
của người diễn viên. Đến với một vở kịch, khán giả có thể xem lại một cốt
truyện cũ, tình tiết vốn đã được viết trong tác phẩm văn học; thấy được những
nhân vật, vốn trước đây, chỉ được hình dung qua trang giấy, thì nay, bước ra
sân khấu, hiện diện trước mắt họ một cách đường hoàng, hẳn hoi!
Tóm lại, không thể phủ nhận rằng chính văn học là “mảnh đất màu
mỡ” cho sân khấu, còn sân khấu là nơi giúp văn học thăng hoa, đưa văn học
đến gần với độc giả, khán giả hơn
19
1.2. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu
1.2.1. Nguyên tắc chuyển thể
Chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản là yếu tố quyết định đến
sự thành công của vở diễn trên sân khấu. Khi chuyển thể người chuyển thể
(tác giả) cần chú ý tới các đặc trưng của kịch bản để tuân thủ và đảm bảo tính
kịch trong kịch bản. Cốt truyện của kịch bản phải mạch lạc rõ ràng, có các
nhân vật với tính cách, hành động, ngôn ngữ của kịch....Một kịch bản hấp dẫn
phải khởi nguồn từ những tác phẩm văn học có chiều sâu, chứa đựng những
giá trị văn hóa, lịch sử, con người, xã hội... – là thành quả lao động sáng tạo
của những nhà văn tài năng. Chỉ những tác phẩm như thế mới có thể tạo nên
hồn cốt của một tác phẩm sân khấu vừa có chất, vừa có sức sống mãnh liệt
qua thời gian.
Chuyển thể là tác giả kịch bản kể lại câu chuyện của nhà văn bằng
ngôn ngữ sân khấu và quan niệm riêng của họ; là sáng tác lần thứ hai dựa trên
tác phẩm của người khác. Tác giả kịch bản bao giờ cũng muốn giữ nguyên tác
phẩm văn học nhưng điều đó rất khó. Tất nhiên, chuyển thể không có nghĩa là
minh họa bằng hình ảnh cho tác phẩm văn học. Điều quan trọng nhất là phải
nắm bắt được tư tưởng của tác phẩm, làm sống dậy tính thời sự, đồng điệu,
đồng cảm với nguyên tác nhưng phải đảm bảo gần gũi với đời sống hiện tại.
Đó chính là chìa khóa!
Lợi thế của những vở diễn được chuyển thể từ tác phẩm văn học là có
sẵn tính văn học vì hầu hết các tác giả đều chọn những tác phẩm hay, có tiếng
vang trong văn đàn và được độc giả yêu thích. Tuy nhiên, đây cũng là một áp
lực không nhỏ đối với người chuyển thể vì vừa phải đảm bảo được tính văn
học vừa phải có tính sân khấu.
20
Mặt khác, sức hấp dẫn của những tác phẩm văn học là gợi lên trí
tưởng tượng, liên tưởng vô cùng phong phú đối với người đọc về thế giới
nhân vật trong tác phẩm. Đưa lên sân khấu, bằng những hình tượng cụ thể,
nếu tác giả không chắc tay, diễn viên diễn không sâu sắc sẽ khiến cho khán
giả rơi vào cảm giác hụt hẫng do không đúng với trí tưởng tượng, cảm nhận
của họ.Về cơ bản, việc cải biên, chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm sân khấu có thể chia ra thành hai loại:
+ Cải biên, chuyển thể sát nguyên bản - nghĩa là trung thành với
đường dây của cốt truyện, tôn trọng thậm chí cả hình thức của tác phẩm.
Trường hợp này nhà biên kịch thường cố gắng bám sát cốt truyện
của tác phẩm văn học, tôn trọng tính nguyên bản của tác phẩm (cả về mặt
hình thức).
+ Cải biên, chuyển thể tự do - nghĩa là chỉ chọn những gì thích hợp,
tùy theo ý đồ của tác giả và đạo diễn sân khấu. Cần lưu ý rằng, 60, 70% kịch
bản cải biên là thuộc loại này.
Trường hợp này được gọi là “phỏng theo”. Nhà biên kịch lựa chọn
trong tác phẩm gốc những yếu tố thích hợp theo cách riêng của mình, hoặc
theo ý đồ của đạo diễn để dựng thành vở diễn trên sân khấu. Tùy theo từng
trường hợp, nhà biên kịch có thể thay đổi từng phần trong tác phẩm. Hầu hết,
các vở diễn trên sân khấu TP.HCM hiện nay đều được cải biên, chuyển thể
theo hình thức này. Có thể kể đến một số trường hợp như : Số đỏ, Kỹ nghệ lấy
Tây phỏng theo những tác phẩm cùng tên của Vũ Trọng Phụng, Làm... dựa
trên tiểu thuyết Làm đĩ, Con nhà nghèo làm theo tiểu thuyết cùng tên của Hồ
Biểu Chánh, Nửa đời ngơ ngác cải biên từ truyện ngắn Chiều vắng – Nguyễn
21
Ngọc Tư, Hãy khóc đi em chuyển thể từ truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của
nhà văn Trần Thùy Mai....
Việc cải biên, chuyển thể một tác phẩm văn học sang sân khấu, về
nguyên tắc, không được đặt ra một vấn đề gì, cả về kích thước câu chuyện, cả
về bình diện các nhân vật... Việc đó giản đơn là một cuộc lựa chọn. Nếu tác
phẩm văn học được tạo nên bởi “quyền lựa chọn” của riêng cá nhân nhà văn,
thì ở tác phẩm sân khấu, “quyền chọn lựa” tình tiết, chi tiết lại thuộc về nhà
biên kịch. Một tác phẩm có sẵn, dù có đặc sắc tới mấy, cũng cần phải nhào
nặn lại. Sự chuyển thể ấy đôi khi có thể chỉ tập trung khắc họa một cảnh,
hay một nhân vật, nhưng căn bản là nhà biên kịch phải đánh giá được cái gì
hấp dẫn đối với họ. Và nhiệm vụ của họ là phải thay đổi “cách nào” của sự lý
giải... Chính lẽ đó, khi chuyển thể cần chú ý một số nguyên tắc:
+ Phải nghiên cứu, đọc kĩ tác phẩm văn học. Nắm vững nội dung tư
tưởng, các chi tiết, tình tiết cơ bản, các nhân vật chính phụ trong tác phẩm, lời
nói, giọng điệu của nhân vật, tình huống xảy ra trong tác phẩm.......
+ Chuyển thể kịch nhưng phải tuyệt đối tôn trọng nội dung tư tưởng
của tác phẩm văn học.
+ Không bê nguyên xi tác phẩm văn học, mà phải có sự sáng tạo.
Sáng tạo nhưng không làm thay đổi nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Khi đưa tác phẩm Vũ Trọng Phụng lên sân khấu, người đạo diễn
không nô lệ quá khứ, mà thể hiện bằng cái nhìn của ngày hôm nay. Chuyển
thể không phải là cách né tránh hiện thực mà là thổi thêm hơi thở ngày nay
vào những giá trị văn học trong quá khứ. Nói cách khác, vở diễn trên sân
khấu thổi vào tinh hoa của văn học quá khứ bằng hơi thở, nhịp điệu của đời
22
sống chúng ta đang sống. “Chuyển thể” không có nghĩa là bê tất tần tật những
gì đã có trong một tác phẩm văn học ra mà là “quá trình sáng tạo lần thứ hai”.
Điều quan trọng nhất khi chuyển thể văn học lên sân khấu là phải nắm
bắt được tư tưởng của tác phẩm, cách thức để chuyển thể tư tưởng ấy lên sân
khấu một cách hiện đại, tạo được sự đồng cảm, đồng điệu với nguyên tác của
tác phẩm văn học. Sau đó, lựa chọn trong những vấn đề của tác phẩm, vấn đề
nào là vấn đề cập nhật với thời đại nhất, từ đó tìm cách tái hiện câu chuyện
lên sân khấu. Người ta có thể lược bớt những chi tiết rườm rà, không cần
thiết, những nhân vật phụ trong tác phẩm tránh cho sân khấu kịch “quá tải”,
tản mạn, thiếu tập trung trong việc khắc họa chủ đề, tư tưởng. Với quan niệm
đó, kịch trên sân khấu có đôi chỗ khác với nguyên bản tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, tác phẩm sân khấu chỉ làm “khác”
chứ không làm “méo mó” tác phẩm văn học của Vũ Trọng Phụng.
1.2.2. Phương thức chuyển thể
Hiện nay, phương thức chuyển thể các tác phẩm văn học sang kịch
bản là phương thức rất phổ biến trong việc xây dựng kịch bản sân khấu. Đó
được xem như là giải pháp cho tình trạng khan hiếm, “khủng hoảng” kịch bản
hay như hiện nay.
+ Yêu cầu đầu tiên để những tác phẩm văn học được chọn chuyển thể
là câu chuyện phải có kịch tính cao, vì khi lên sân khấu không thể đem lên cả
cái thế mạnh của văn học là nghệ thuật ngôn từ qua việc tả tình, tả cảnh. Thời
lượng vở diễn chỉ chưa đầy 120 phút nhưng có khi là cả một đời người, với
bao xung đột, sự kiện. Cảm xúc văn học được lấy ra từ ngôn ngữ viết, trong
khi sân khấu lấy cảm xúc khán giả bằng hình ảnh mà khán giả đang trực tiếp
nhìn và nghe. Điều đó đòi hỏi tác giả phải cân nhắc từng lời thoại, tính toán
từng hành động của nhân vật, không thể thả nổi cảm xúc như người viết văn.
23
Nói về tiểu thuyết Số đỏ, Đỗ Đức Hiểu đã có nhận định: “Số đỏ là một
cuốn phim đầy cú vấp, khấp khểnh, với nhịp độ khẩn cấp của một bút pháp
phóng sự loang loáng, sắc nhọn mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời
mang tính vĩnh trị...” [ 22, tr. 191]. Những khía cạnh mà tiểu thuyết Số đỏ đề
cập như chuyện cái anh Xuân chỉ đủ tài nhặt bóng trong “sân quần” nhưng
được đẩy lên vị trí cao nhất, được tán tụng, tung hô đến không ngờ nay lại
hiện diện trên sàn diễn thông qua cái nhìn của sân khấu làm cho khán giả vô
cùng thích thú, tán thưởng. Cuộc đời của Xuân trong tác phẩm văn học được
miêu tả, tường thuật khá chi tiết, tỉ mỉ, xoay quanh hơn 60 nhân vật...được thể
hiện với dung lượng khoảng hơn 200 trang giấy, gồm rất nhiều chương, nhiều
tình tiết hài hước, trào lộng. Khi lên sàn diễn, do đặc trưng riêng của loại hình
nghệ thuật, lẽ dĩ nhiên, sân khấu không thể nào đảm đương hết được. Vì thế,
khi đưa lên kịch, vở diễn chỉ gói gọn trong khoảng hơn 120 phút. Các tình
huống, hành động trong vở diễn chủ yếu minh họa cho hai nhân vật chính,
vốn được xem là những nhân vật “linh hồn” của vở diễn - Xuân và bà Phó
Đoan. Các nhân vật khác cũng được đề cập, khắc họa, song cũng chỉ là những
nét điểm xuyết.
Còn phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây trong nguyên tác vốn khắc họa một
“kỹ nghệ” của các me mang tên “kỹ nghệ lấy Tây”, nhưng khi chuyển sang
tác phẩm sân khấu bên cạnh việc tái hiện “nghề” lấy Tây, vở diễn chủ yếu tập
trung thể hiện bi kịch của một đứa con Tây – nhân vật Suzanne. Vở diễn
chuyển tải thông điệp mang đầy tính nhân văn : xã hội cần có cái nhìn nhân ái
hơn với hạng người “bán trôn nuôi miệng”, ẩn bên trong những con người
tưởng chừng như nhơ nhớp, đáng khinh lại là những số phận vô cùng đáng
thương. Ở họ - những phụ nữ làm nghề me Tây, vẫn là những khát khao vô
cùng chân chính . Về điểm này, có lẽ tác phẩm sân khấu đã làm “tròn vai”
hơn so với phóng sự của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
24
Hay như vở Nửa đời ngơ ngác (SK Hoàng Thái Thanh) chuyển thể từ
truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh câu chuyện về đi
tìm tình yêu của những người trẻ tuổi Lê – Tư Nhớ - Út Lý – Hết – Hoài. Câu
chuyện đi tìm tình yêu vẫn lẩn quẩn trong họ, để rồi đi nửa cuộc đời họ mới
nhận ra...Toàn bộ câu chuyện được thể hiện logic, dẫn dắt người xem đi từ
cảm xúc này đến cảm xúc khác. Đọc tác phẩm văn học, người ta chỉ cảm nhận
được một phần nỗi đau của Tư Nhớ, sự vô vọng của Út Lý...thì trong kịch, cái
giằng xé, đau đớn lẫn những mối hận của các nhân vật được thể hiện rất rõ.
Khán giả có cảm giác như đang chứng kiến một câu chuyện thật đang diễn ra.
+ Song song đó, tính thời đại của tác phẩm cũng là điều vô cùng quan
trọng. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng thành công của những nhà
văn nổi tiếng: “là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã
biết đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của
con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi âu lo
bực bội, tủi hổ và những ước mơ tha thiết nhất của loài người. Đó chính là
cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại” [70, tr. 84]. Chính họ đã
sáng tạo nên những tác phẩm có ý nghĩa, làm phong phú cho đời sống tinh
thần của con người. Có những vấn đề rất nhân văn như ước nguyện bước tiếp
của phụ nữ góa chồng (nhân vật bà Phó Đoan trong tiểu thuyết Số đỏ, bà Ách
trong Kỹ nghệ lấy Tây...), trong thời kỳ trước, xã hội lên án họ với những định
kiến rất nghiệt ngã. Nhưng khi lên sân khấu, nhà biên kịch lại có cái nhìn
rộng lượng, bao dung hơn. Họ hy vọng khán giả ngày nay không chỉ hiểu mà
phải thực sự cảm được điều này.
Kịch Hãy khóc đi em dựa trên nền truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng
của Trần Thùy Mai bàng bạc, buồn như sương khói. Sân khấu đã vẽ nên
khung cảnh dị biệt của một gia đình sống tại Huế, với cảnh đời éo le, được
khắc họa rõ nét. Cái dấm dứt của nỗi đau thân phận con người, thân phận
25
người đàn bà, có chút gì đó cứ chìm trôi, xoáy vào da thịt với nỗi niềm và nỗi
buồn thấm thía.
+ Chúng ta cũng nhận thấy rằng các tác phẩm văn học được chuyển
thể thành tác phẩm sân khấu đều là những tác phẩm có cấu trúc dưới dạng
thức của một vở kịch. Rõ ràng ở một mặt nào đó, tính kịch này góp phần chi
phối và quyết định mức độ thành công của tác phẩm. Nhiều tác phẩm văn học
được đưa lên sân khấu chính kịch và trở nên ăn khách tại thị trường TP.
HCM, đó là, ngoài nội dung sâu sắc, nhân văn... thì chính yếu là phải có kịch
tính và nội dung gây xúc động. Một cốt truyện hay đến đâu, đặc sắc và ẩn ý
đến đâu nhưng khó lòng phù hợp để chuyển thành kịch nếu không có yếu tố
tạo hiệu ứng về cảm xúc, và thực tế cho thấy các tác phẩm kịch đã nói ở trên
đều làm rất tốt ở khâu này.
Hình thức hài kịch khái quát của tiểu thuyết Số đỏ gợi nhớ cái khôi hài
pha trò trên màn bạc. Kết cấu của Số đỏ gần giống với các vở hài kịch châm
biếm của Molière. Điển hình như trong đoạn bác sĩ Trực Ngôn lên diễn
thuyết, Vũ Trọng Phụng đã viết: “...Không! Không! Vì điều ấy thuộc quyền
tạo vật, chứ không còn thuộc cái ý chí của bọn phạm trần chúng ta! (vỗ tay)”
[44, tr. 224], hay như đoạn: “Bàn về sự khủng hoảng tình dục của đám phụ nữ
nạ dòng (bà Phó Đoan hắt hơi) bác sĩ Vachet đã có những kinh nghiệm rất
đúng thật” [44, tr.224]. Khi viết tác phẩm, với việc thêm vào những phần chữ
in nghiêng trong ngoặc đơn, Vũ Trọng Phụng đã làm cho tác phẩm của mình
trở thành một quyển “tiểu thuyết kịch”. Tác phẩm có dạng thức rất gần với
hình thức của sân khấu, vốn dĩ luôn có những lời chỉ dẫn hành động, diễn
xuất cho người diễn viên.
Tính kịch trong Số đỏ khởi nguồn từ những tình huống vô nghĩa lý.
Chuỗi cười dài Số đỏ cũng là chuỗi những tình huống ngược đời kế tiếp nhau.
Do nạn khủng hoáng kinh tế, chính phủ buộc sở cảnh sát phạt dân thành phố
26
bốn vạn đồng, Sở cảnh sát trung ương chia cho ty cảnh sát chi nhánh phạt
năm ngàn đồng, thế là màn bi hài kịch diễn ra với hai cái ngược đời. Một là
cảnh sát bảo vệ pháp luật mà lại đau khổ vì dân ta văn minh mất rồi, không ai
chịu đánh chửi nhau, không ai chịu phóng uế, đái bậy ra đường, tức là không
ai chịu phạm luật. Thế là họ phải nghĩ ra một diệu kế: Cảnh sát phải nhè chính
mình ra mà phạt lẫn nhau để đủ tiền giao nộp cho đúng chỉ tiêu trên giao.
Hay một cảnh ngược đời nữa diễn ra ở chương 5 cũng không kém
phần hay. Ông Typn – nhà cải cách y phục đã sáng chế ra đủ mốt lẳng lơ
(Ngây thơ, Lưỡng lự, Hãy chờ một chút, Dậy thì, Lời hứa…) để cổ động
phong trào ăn mặc theo lối Âu hoá. Thế nhưng khi bắt gặp vợ mình ăn mặc
theo lối ấy thì nổi cơn lôi đình, mắng vợ là “đồ đĩ”, “đồ khốn nạn”. Đám ma
là chuyện buồn rầu, chuyện tang tóc nhưng đám ma cụ Tổ thì rất ngược đời
và bỗng trở thành ngày hội, đám rước linh đình: “Bọn con cháu vô tâm ai
cũng sung sướng thoả thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo
phó…” [44, tr.176] thật đúng là “hạnh phúc của một tang gia”…Lại một tình
huống nữa khi Xuân Tóc Đỏ thua quần vợt. Dù thua nhưng hắn diễn thuyết
rất hùng hồn trước quần chúng, gọi quần chúng là “mi”, là kẻ “nông nổi”…
thế mà thiên hạ vẫn sốt sắng tung hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sự đại bại vạn
tuế” [44, tr. 234]…Xây dựng kiểu tình huống ngược đời như vậy một mặt Vũ
Trọng Phụng muốn bóc trần cái xã hội đang suy đồi về đạo lý, nhân phẩm,
một mặt muốn phanh phui cuộc đời như một trò hề trong đó con người cũng
như những con rối, sắm một vai hề lố lăng múa may, cười khóc rất vô nghĩa
lý.
Không chỉ có thế, khi nhìn từ phương diện bố cục, ta dễ nhận thấy
rằng tiểu thuyết Số đỏ có sự sắp xếp kiểu kịch trong kịch. Mỗi chương, mỗi
đoạn là một vở kịch nhỏ, các mối mâu thuẫn thống nhất, tiếp nối nhau theo
hình xoáy trôn ốc, dồn nén, vận động tới đỉnh điểm. Trong tác phẩm, ở
27
chương I khi nhân vật chính là Xuân Tóc Đỏ trình làng, bằng hành động lưu
manh trêu chọc cô nàng hàng mía, tính hài của tác phẩm đã bắt đầu bộc lộ.
Lần trải theo các chương tiếp theo, Số đỏ lần lượt đưa ra hàng loạt các sự kiện
và vụ việc có hàm chứa đầy ắp tính bi – hài: những hành vi nhố nhăng, quái
gở, ma cô của Xuân Tóc Đỏ; xoay quanh nhân vật này là sự quay cuồng, ngụp
lặn của cả một nhân loại hỗn tạp. Cái bi, cái hài cứ tiếp tục dồn nén tới đỉnh
cao. Đó là con đường phủ đầy hoa và vòng nguyệt quế để bước lên thang
danh vọng, trở thành “vĩ nhân”, “anh hùng cứu quốc” của Xuân. Khi cái nút
mâu thuẫn được giải tỏa cũng là lúc vở kịch tiểu thuyết được kết thúc.
Ở Kỹ nghệ lấy Tây, tính kịch lại xuất phát từ một tình huống éo le, trắc
trở mang tính hài hước. Đó là tình huống khó xử của anh phóng viên: suýt bị
một gã lê dương hành hung, vì cho rằng anh ta đến làng me để “ăn trộm ái
tình”, làm cho ngay từ đầu tác phẩm đã rất hài hước. Và chính nhờ tình huống
hài hước đó đã tạo nên “một cái cớ” khá hợp lý để anh chàng nhật trình xâm
nhập, tìm hiểu thế giới của me Tây, của cái “kỹ nghệ” được gọi bằng cái
tên...lấy Tây! Ở làng Thị Cầu, mỗi me Tây mỗi một số phận, bên cạnh vẻ lọc
lừa, sõi đời của “đám đàn bà ma bùn” vẫn là những khát khao, ước mơ vô
cùng chính đáng của họ – khát vọng muốn được yêu thương, được lấy một
người chồng An Nam!
Bằng ngòi bút của mình, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và thể hiện
một cách sâu sắc những mâu thuẫn và xung đột có tính quy luật, tác động đến
toàn bộ xu hướng phát triển của cuộc sống ấy. Những xung đột và mâu thuẫn
được dồn nén và tích tụ lại thành những tấn đại bi kịch, đại hài kịch. Ông nhìn
thấy các yếu tố bi – hài cả hai mặt thống nhất, chi phối mọi hoạt động trên
tầm vĩ mô (toàn xã hội) cho đến tầm vi mô (đời sống của mỗi cá nhân). Nhà
văn, thông qua cảm quan nghệ thuật nhạy bén của mình đã nhìn thấu bản chất
xấu xa của xã hội, với tất cả những bi kịch lớn lao đang đè nặng lên cuộc
28
sống. Ông nhận rõ những mâu thuẫn và xung đột cơ bản đang bành trướng
trên phạm vi quốc gia, toàn dân tộc...Chính con mắt nhanh nhạy và sắc bén đã
giúp nhà văn có cái nhìn bao quát và chân xác, phát hiện ra những mâu thuẫn
điển hình, đang tích tụ và dồn nén ở những đỉnh cao của xung đột. Đó chính
là nguồn cảm hứng dẫn đến những tác phẩm đầy kịch tích.
Vở Dòng nhớ chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Ngọc
Tư là câu chuyện của sông nước miền Tây Nam Bộ, có ngọt ngào, có cả nỗi
buồn thăm thẳm...Những dòng sông đã trôi mênh mang suốt những đời người,
vừa chở che, vừa làm nguồn sống, cũng vừa bạo liệt, tàn phá.Trên dòng sông
và dòng đời ấy, bao nhiêu phận người cam chịu, vừa cao thượng, vừa cay
nghiệt. Đôi khi họ vùng vẫy như dòng sông những mùa bão lũ, nhưng rồi đâu
lại vào đấy, lại chảy quanh, nhẫn nhịn.
+ Ngoài ra, khi chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản sân khấu,
một điểm rất dễ nhận thấy là sự kết hợp của hai yếu tố xung đột và trữ tình
trong một tác phẩm nào đó được lựa chọn. Khi lựa chọn chuyển thể một tác
phẩm nào đó, các nhà biên kịch đều chú ý đến yếu tố xung đột và trữ tình là
vì sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp nên bên cạnh yếu tố kịch tính còn
có những giai điệu của âm nhạc, lời thoại. Đây là hai yếu tố góp phần tạo nên
thành công cho một vở kịch. Một vở kịch khi diễn trên sân khấu bao giờ xen
kẽ giữa các màn kịch cao trào cũng là những bản nhạc, đoạn nhạc, âm thanh...
Sự xuất hiện của âm thanh đã tạo nên hiệu ứng rất lớn cho vở diễn. Bởi lẽ, tác
phẩm sân khấu vốn dĩ là loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp. Tác phẩm
sân khấu chính là kết quả của sự cộng hưởng từ rất nhiều yếu tố: kịch bản,
diễn viên cho đến âm thanh, ánh sáng, hiệu ứng của sân khấu...
Trong vở kịch Số đỏ, sân khấu được trang trí theo hai màu đỏ - đen,
tượng trưng cho những tình huống nghịch lý trong cuộc đời. Từ đó, tạo ra
tiếng cười trên sân khấu. Các nhân vật trong vở diễn cũng ăn vận những trang
29
phục mang phong cách Âu hóa ; quần áo trong tiệm may Văn Minh cũng
được đặt tên là bộ Hãy chờ, bộ Chiến công, bộ Tàn phá...Tất cả đã góp phần
tạo nên ngụ ý, truyền tải thông điệp của vở diễn.
Với Kỹ nghệ lấy Tây, tính xung đột – trữ tình của vở diễn là ngôn ngữ
đối thoại xen kẽ với những bài ca trù , bản tình ca La vie en rose. Là một xã
hội đậm chất Bắc thời Pháp thuộc vừa cổ điển vừa lai căng trong thiết kế sân
khấu, phục trang đến điệu bộ, cách thoại của diễn viên. Những điều đó đều
nhằm khắc họa những lố bịch trong xã hội Tây Ta nửa mùa, gợi lên nỗi chua
chát của những phận người bị xoay vần trong đó. Tương tự như vậy, trong vở
Hãy khóc đi em, lời ca của Trịnh Công Sơn được chọn làm ca khúc chủ đề,
Hướng đã khuyên Hạnh: “Hãy khóc đi em, cuối cuộc tình, còn đâu những
mặn nồng”. Và Hạnh khóc, khóc nức nở, nên người xem có thể nhận ra cô sẽ
có được bình yên.
Còn câu chuyện Cô gái ăn cắp trên sân khấu lại là không khí của một
vùng đất Bắc thời Pháp thuộc được tái hiện bằng cây cầu sắt, bến tàu, xe kéo,
đám phu khuân vác, những gã quan Tây và lính Việt “nói như chim hót”, ả
đào hát mặc áo dài nhung trong nhà thổ...Giữa không gian ấy, số phận của
những con người như Tám Bính, Năm Sài Gòn, Tư Lập Lơ... cứ thăng trầm
như một trò đùa dai dẳng của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Vở Dòng nhớ khai thác triệt để các yếu tố về âm thanh, ánh sáng để
tăng kịch tính cho câu chuyện. Trong vở kịch này, đạo diễn huy động tối đa
tất cả các loại âm thanh: tiếng xào xạc khi múc nước từ thuyền đổ ra sông,
tiếng côm cốp khi giã lá sống đời, tiếng đục đẽo khô khan… Nhưng có lẽ, ám
ảnh nhất vẫn là tiếng nước réo rắt, xào xạc trong mỗi đêm khuya. Nó vô hình
nhưng đầy sức gợi. Ở đây, âm thanh của tiếng nước trở thành một nhân vật
phụ có sức mạnh thâu tóm tất cả các nhân vật chính, buộc họ phải đồng hành
với mình trong một tâm trạng vật vã đầy khổ sở.
30
+ Bên cạnh đó, hầu hết các tác phẩm được nhà biên kịch lựa chọn và
chuyển thể đều là những tác phẩm nổi tiếng, có một vị trí nhất định trong lịch
sử văn học. Việc lựa chọn những tác phẩm này sẽ thu hút rất nhiều khán giả
đến rạp vì sự tò mò. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, do ít nhiều họ đã biết
đến tác phẩm khi ở dạng nguyên bản nên khán giả muốn xem rằng tác phẩm
văn học sẽ ra sao, như thế nào khi được trình diễn trên sân khấu. Chính vì vậy
mà những Chị Dậu, Chí Phèo – Thị Nở, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Cô gái ăn
cắp (Bỉ vỏ), Dòng nhớ, Cánh đồng bất tận... có dịp “sống lại” trên sàn diễn,
giúp sân khấu sáng đèn hàng đêm.
Khi chuyển thể một loại hình nghệ thuật khác sang kịch bản sân khấu,
điều dễ nhận thấy là dù tác phẩm văn học thuộc thể loại nào: truyện thơ,
truyện kể dân gian, tiểu thuyết…cũng đều có sự thay đổi, sắp xếp lại nội dung
cho phù hợp với ý đồ của tác giả, của biên kịch, đạo diễn… làm cho tác
phẩm được chuyển thể có tính sân khấu hơn: tức là có xung đột, có hành
động, có tình huống thúc đẩy kịch bản và phải có cách giải quyết tình huống
hợp lý. Không phải cứ là tác phẩm văn học nổi tiếng khi đưa lên sân khấu đều
thành công. Khi tay nghề của đạo diễn “non”, diễn chưa tới…đều có tác dụng
ngược lại. Đưa một tác phẩm văn học nổi tiếng lên sân khấu, mỗi đạo diễn
luôn phải đảm bảo được chất văn học mà vẫn thể hiện đầy đủ các yếu tố của
tác phẩm trên sân khấu. Các nhân vật đi đứng trên sân khấu không chỉ khóc,
cười mà quan trọng hơn, diễn xuất của diễn viên phải thể hiện được chi tiết
“đắt” nhất mà đạo diễn muốn chuyển tải. Phải đưa những gì của riêng đạo
diễn ngoài chất của tác phẩm, bởi có những cái rất hay trong văn học nhưng
lại không thể đưa lên sân khấu. Nhà biên kịch muốn chuyển thể thành công
tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu thì bản thân họ phải đọc nhiều, cảm
nhiều. Có như thế mới đảm bảo cho việc dàn dựng một vở kịch thành công
trên sàn diễn. Một vở diễn nếu không có cách giải quyết tình huống hợp lý sẽ
31
không thể nào làm thỏa mãn, hài lòng khán giả. Tất nhiên, khi khán giả quay
lưng với tác phẩm sân khấu thì có thể xem đó là thất bại của nhà biên kịch.
1.2.3. Việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sang tác
phẩm sân khấu
Sân khấu từ xưa đến nay là loại hình nghệ thuật quen thuộc của mọi
người. Việc xem, thưởng thức các tác phẩm sân khấu nói chung, các vở kịch
nói riêng đã trở thành một “món ăn tinh thần” quen thuộc trong đời sống văn
hóa của người dân. Trong vài năm trở lại đây nhiều sân khấu kịch ở TP.HCM
đồng loạt đưa các tác phẩm văn học lên sân khấu. Hàng loạt các vở kịch ăn
khách trên các sân khấu kịch TP.HCM hiện nay như : Cánh đồng bất tận,
Nửa đời ngơ ngác, Cô gái ăn cắp, Nỏ thần… hầu hết là các tác phẩm chuyển
thể từ văn học. Sự nở rộ “kịch văn học” ở các sân khấu cho thấy các nhà làm
sân khấu hiện nay đã nhạy bén khi tiếp cận những giá trị văn học và những
hình tượng nhân vật có “tiềm năng sân khấu” trên những trang giấy.
Không thể phủ nhận “kịch văn học” – những truyện ngắn, tiểu thuyết,
phóng sự... đã được các tác giả, đạo diễn và diễn viên sáng tạo, chăm chút
thành một tác phẩm sân khấu hoàn thiện đã thực sự làm cho đời sống sân
khấu càng trở nên phong phú, đa dạng với những hiệu quả tích cực - góp phần
giáo dục tình cảm, suy nghĩ hướng thiện cho công chúng, đặc biệt là công
chúng trẻ. Từ đó cho công chúng có cái nhìn khác hơn về một nền văn học
Việt Nam lành mạnh, đau đáu suy tư về thế thái nhân tình, đặc biệt là về tình
yêu và những con người tiêu biểu của thời đại hôm qua, hôm nay. Trong số
ấy, chúng ta phải kể đến trường hợp Vũ Trọng Phụng. Việc chuyển thể những
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lên sân khấu là quá trình tất yếu, dài lâu. Bởi
vì, văn của ông đầy tính kịch, đầy xung đột và có khả năng tạo nên sự bùng
nổ của hàng chuỗi tiếng cười. Tất nhiên, việc chuyển tải các tác phẩm của Vũ
32
Trọng Phụng lên sân khấu là cả vấn đề đặt ra đối với những nhà đạo diễn,
những người làm nghề. Mỗi một nhà đạo diễn, mỗi một người chuyển thể
kịch bản phải tìm ra trong đó đâu là yếu tố mình cần khai thác, đâu là những ý
tưởng của đạo diễn trên nền của tác phẩm Vũ Trọng Phụng để tạo nên sự
cộng hưởng giữa tác giả văn học, tác giả kịch bản và đạo diễn trên sân khấu.
Các tác phẩm của ông như : Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây… khi chuyển thể thành
kịch bản, công diễn trên sân khấu đã nhận được sự đón nhận của khán giả. Có
nhiều nguyên nhân đưa đến sự kết hợp này :
+ Đầu tiên, dễ nhận thấy rằng sự kết nối tác phẩm văn học của Vũ
Trọng Phụng và sân khấu là một biện pháp “ứng phó” với tình trạng khan
hiếm kịch bản hay hiện nay tại sân khấu TP.HCM. Việc chuyển thể tác phẩm
văn học lên sân khấu không phải là điều mới mẻ. Vào thập niên 20 - 30 của
thế kỷ trước, các soạn giả sân khấu cải lương đã chuyển thể rất nhiều tác
phẩm văn học của Pháp và trở thành một xu hướng rất phổ biến trong thời kì
đó. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn giữa hai xu hướng này. Trước đây, các
soạn giả chủ yếu “ăn theo” văn học, vì lúc đó, tiểu thuyết Pháp rất được các
cô chiêu cậu ấm ưa thích, là món ăn tinh thần không thể thiếu của họ trong
buổi giao thời. Còn bây giờ, văn học không phải là loại hình thời thượng được
ưa thích. Việc chuyển sang kịch văn học là dấu hiệu khủng hoảng nguồn kịch
bản. Trong tình hình khan hiếm kịch bản hay thì việc “dựa” vào những tác
phẩm văn học nói chung là một cách làm sân khấu khôn ngoan. Bởi các tác
giả đã có sẵn cái nền nhân vật và một câu chuyện kịch với những quan hệ có
thể phát triển thành vở kịch diễn trên sân khấu. Nhiều ý kiến cho rằng, chính
việc thiếu và yếu những kịch bản hay nên các sân khấu chọn giải pháp chuyển
thể tác phẩm văn học. Tuy vậy, điều cốt lõi là làm sao để có ngày càng nhiều
các tác phẩm văn học hay, thể hiện các vấn đề gai góc của xã hội lên sàn diễn.
33
Đây vừa là tín hiệu vui, đồng thời cũng là một thử thách với chính những nhà
làm sân khấu trong thời buổi khó khăn về kịch bản hay như hiện nay.
+ Không chỉ vậy, một số đạo diễn cho biết, bản thân họ vốn thích tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng, chính những thông điệp nhân văn mỗi tác phẩm
chuyển tải đã làm họ“mê” nên đưa sang kịch. Nhiều đạo diễn sân khấu cho
rằng, đưa tác phẩm văn học lên sân khấu là một lợi thế khi tác phẩm đã được
thẩm định bởi thời gian và độc giả. Nhưng cũng lại là sự trải nghiệm mạo
hiểm nếu đạo diễn non nghề không chuyển tải được cái “thần” của tác phẩm,
đặc biệt không làm nổi bật được nhân vật điển hình trong truyện.
Nhà biên kịch Lê Chí Trung – người chuyển thể các tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng cho biết : “Trong số mấy chục tác phẩm của tôi, tôi chỉ chọn
chuyển thể ba tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng: Số đỏ, Kỹ nghệ lấy
Tây, Giông tố. Trước hết, tôi yêu cách nhìn đời và con người - nhân vật trong
các tác phẩm của ông. Thứ hai, trong thế hệ các nhà văn thời lãng mạn, hiện
thực phê phán... theo cảm nhận của riêng tôi, Vũ Trọng Phụng là người gần
chúng ta nhất” 1
. Trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước
1945, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng vẫn còn gần gũi với thời đại chúng ta.
Xã hội xoay vần như... “mốt”, cứ sau một thời gian lại trở về với cái cũ.
Không ít những con người Số đỏ vẫn hiện diện trong cuộc sống hiện nay.
Không ít kẻ đang chạy theo những trào lưu nhố nhăng. Đề tài như cái mắc áo,
trên đó, ta có thể treo chiếc áo cổ lỗ, chiếc áo hiện đại... Thử thách đối với
người làm vở là làm sao để người xem tìm thấy những vấn đề hiện tại trong
một cốt truyện quá khứ. Loại người như Xuân Tóc Đỏ, ông bà Văn Minh, cô
Duyên, cô Ái, tú bà Ách Nhoáng... chẳng phải còn đầy rẫy trong xã hội chúng
ta ngày nay? Vẫn còn đó cái thói rởm đời, “trưởng giả học làm sang”, cái nhố
1
Theo báo NLĐ, ngày 06/04/2010
34
nhăng của kẻ “thừa tiền lắm bạc”, cái lưu manh đóng vai trí thức của những
Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, Nghị Hách... Nhìn lại những “siêu” nhân vật
trong tác phẩm của ông, từ những năm 30 của thế kỉ trước, những nhân vật
trong xã hội thời đó, từ thượng lưu trí thức Tây học đến hạ lưu dưới đáy xã
hội, thấy hình như vẫn đang tồn tại một cách sống động trong thời đại hiện
nay. Họ là những chân dung biếm họa đã trở thành “thành ngữ” khái quát cho
những tính cách đại diện cho một lớp người trong xã hội hiện tại. Lớp người
hàm chứa tất cả sự lố lăng, kệch cỡm và hài hước của một xã hội đầy nhiễu
nhương. Nơi mọi thứ chuẩn mực của đạo đức truyền thống, quan hệ tôn ti trật
tự bị đảo lộn bởi trào lưu Tây hóa, bởi sức mạnh đồng tiền và sự tha hóa nhân
cách. Khi xây dựng những nhân vật điển hình này, do còn kiếm sống bằng
nghề viết báo nên nhân vật của nhà văn họ Vũ rất đời, rất thật chứ không hoàn
toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng. Vì thế, các nhà làm kịch càng muốn đưa
những nhân vật đó lên sân khấu.
Đến với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, bao giờ độc giả, khán giả
cũng tìm thấy ở đấy sự đan xen giữa hai yếu tố bi – hài lẫn lộn. Tác phẩm của
nhà văn họ Vũ đem đến nhiều điều đáng suy nghĩ. Cười đấy mà nước mắt
trào, thương cho thân phận con người dù ở nấc thang nào của xã hội. Cuộc
đời như một sân khấu lớn, ở đó mỗi người sắm một vai và trong mắt của
người đời ai cũng có cái đáng để cười, nhưng quan trọng là tùy vào thái độ
quan sát của mỗi người mà thôi. Điều ấy cũng góp phần lý giải tại sao các tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng lại được nhà biên kịch ưa thích, chọn lựa để
chuyển thể sang kịch nói.
Tuy vậy, mỗi tác phẩm văn học khi đưa lên sân khấu đòi hỏi phải
dựng cho được bối cảnh diễn ra câu chuyện của thời đó. Nếu chỉ tượng trưng,
ước lệ thì xem ra vở kịch đã không chuyển tải hết cái “thần” của tác phẩm văn
35
học. Để vượt ra ngoài cái “thần” vốn có của văn học thì người đạo diễn phải
biết tìm tòi sáng tạo những cái mới mà không làm mất đi cái vẻ đẹp ban đầu
của tác phẩm. Cái khó mà các đạo diễn sân khấu thường gặp phải, đó là làm
thế nào để một tác phẩm văn học với dung lượng khoảng mấy trăm trang giấy
chỉ gói gọn chừng hai tiếng đồng hồ trên sân khấu. Chính vì vậy, cho dù kịch
chuyển thể có ưu thế nội dung hấp dẫn thì vẫn rất cần bản lĩnh của đạo diễn.
Đạo diễn Ái Như chia sẻ: “Một tác phẩm văn học khi đã chuyển thể sang kịch
thì nó đã là sản phẩm của sân khấu. Đạo diễn phải biết chọn lọc những tình
tiết đắc địa và phải sáng tạo để nó thực sự mang ngôn ngữ kịch chứ không
phải minh họa cho tác phẩm văn học bằng hình thức sân khấu. Đó là lý do vì
sao có vở chuyển thể thành công và có vở thì thất bại” 1
+ Cũng cần nói thêm rằng, trong tác phẩm của mình thì các nhân vật
của Vũ Trọng Phụng thường có tính cách, sự gai góc rõ rệt. Vì vậy, khi
chuyển thể từ tác phẩm văn học thành kịch bản sân khấu, các nhân vật của Vũ
Trọng Phụng sẽ giúp diễn viên có nhiều đất diễn hơn so với tác phẩm của các
nhà văn khác. Vở Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây nhờ thế đều có hiệu quả khán giả
tốt. Chúng tạo nên những vai diễn gây được ấn tượng sâu sắc với khán giả
như: Xuân Tóc Đỏ (Đức Hải), bà Phó Đoan (Hồng Vân), vợ chồng Văn Minh
(Cát Phượng – Minh Hoàng), cậu Phước “em chã” (Minh Béo), Duyên (Thúy
Nga), Suzanne (Lan Phương), Kiểm Lâm (Trịnh Kim Chi)...
+ Bên cạnh đó, việc chuyển thể các tác phẩm văn học nói chung, các
tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói riêng đã mở ra một hướng đi mới cho việc
dạy – học Ngữ văn. Nhiều năm qua, đội ngũ thầy cô giáo dạy văn đã sử dụng
hình thức biểu diễn với mong muốn truyền đến học sinh sự cảm thụ tác phẩm
thông qua những hoạt cảnh. Hình thức này ít nhiều có hiệu quả và làm cho
1
Theo báo Đất Việt, ngày 15/06/2012
36
người thầy hài lòng. Tuy nhiên, để thực hiện được, người thầy phải tốn rất
nhiều công sức và tiền bạc cho kịch bản và trang phục. Hầu hết thầy cô giáo
dạy văn đều mong muốn được thường xuyên dạy văn qua sân khấu hóa nhằm
hạn chế việc học sinh ít mặn mà với bộ môn văn; do đặc thù của bộ môn này
nặng về tư duy và cảm thụ. Từ lâu nay, giáo viên rất khó để truyền đạt cho
các em học sinh hết cái hay cái đẹp ẩn chứa trong từng tác phẩm văn chương,
nếu các em không trực tiếp đọc, cảm nhận và đối chiếu với thực tế cuộc sống.
Khán giả trẻ bây giờ lười đọc sách. Họ có quá nhiều thú vui như chat, như
lướt web, xem truyền hình công nghệ cao, đến rạp xem phim 3D… Nhiều
khán giả trẻ chẳng còn nhớ đến những tác phẩm văn học nổi tiếng - vốn là
niềm tự hào của văn học Việt Nam.
Văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm có giá trị nhưng giữa sự
bùng nổ của vô số các hình thức giải trí như hiện nay thì những tác phẩm dày
đặc chữ, kéo dài mấy mươi chương không còn là sự lựa chọn của lớp trẻ.
Điều đó tạo ra trở ngại vô cùng lớn, góp phần hình thành nên thực trạng “sợ”
đọc văn, “sợ” học văn ở học sinh hiện nay. Bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm văn học hoàn toàn xa lạ với các em. Chính điều đó đã làm mất
đi giá trị sâu sắc của tác phẩm văn học mà chỉ được đặt trong bối cảnh lịch sử
nó ra đời mới thấy trọn vẹn. Và trong một tiết học, nếu học sinh cứ nghe mãi
những lời giảng như mọi lần và không có gì mới dễ dẫn đến sự nhàm chán.
Nhằm khắc phục và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn văn học, các tác phẩm
sân khấu được chuyển thể từ tác phẩm văn học đã được ra đời. Mục đích của
việc này là nhằm giúp học sinh đến gần hơn với bộ môn văn. Đây là một
trong những lối dẫn học sinh đến với văn học bằng sự yêu thích. Sân khấu hóa
sẽ giúp học sinh hình tượng cụ thể hơn tác phẩm đã học. Thông qua hình thức
sân khấu hóa, những cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
sẽ được lưu truyền, để từ đó đưa văn học đến gần với công chúng hơn. Đã có
37
một sự thay đổi lớn trong cảm nhận của độc giả khi đi từ ngôn ngữ văn
chương sang ngôn ngữ sân khấu trong việc tiếp cận một tác phẩm văn học
Việt Nam hiện đại. Những nhà làm sân khấu với việc lần lượt đưa lên sàn
diễn những tác phẩm văn học nổi tiếng, hy vọng, khi tác phẩm sân khấu thành
công, nhiều khán giả sẽ nhớ mãi, hoặc sẽ tìm đọc lại những tác phẩm văn học
nổi tiếng này . Quả thực, đó là một lối đi hoàn toàn mới, một luồng gió mới
đã làm thay đổi tư duy văn học của một bộ phận không nhỏ thế hệ bạn trẻ
đang ngồi trên ghế nhà trường. Tất nhiên, việc chuyển thể kịch bản vẫn phải
toát được cái “hồn” trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
 Tiểu kết:
Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, văn học là loại hình nghệ thuật
ra đời sớm và là nghệ thuật làm cơ sở, nền tảng cho các ngành nghệ thuật
khác kế thừa, trong đó có sân khấu. Nghệ thuật văn học và sân khấu có mối
quan hệ đặc biệt với nhau. Cả văn học và sân khấu cùng là nghệ thuật nên có
cùng ý thức thẩm mĩ nghệ thuật, cùng có đặc tính, chức năng chung và đều
chịu sự tác động, chi phối của đời sống xã hội. Chúng cùng phản ánh hiện
thực cuộc sống thông qua hình tượng nghệ thuật, cùng hướng đến những giá
trị nhân văn, mang tính Chân – Thiện – Mĩ của cuộc sống.
Mặc dù vậy, vì là hai loại hình nghệ thuật độc lập nên văn học và sân
khấu cũng có những khác biệt cơ bản. Nếu văn học xây dựng hình tượng nghệ
thuật thông qua chất liệu phi vật thể - ngôn từ, thì ngôn ngữ của sân khấu lại
là ngôn ngữ mang tính vật thể. Đó là những gì mà ta có thể xem thấy, nghe
được. Câu chuyện trong tác phẩm văn học hiện hữu trên sân khấu thông qua
hành động, ngôn ngữ, diễn xuất... của diễn viên. Mặt khác, tác phẩm văn học
vốn dĩ là kết quả của quá trình lao động , sáng tạo của cá nhân nhà văn. Còn
vở diễn trên sân khấu lại là quá trình lao động miệt mài của cả một tập thể tác
38
giả (nhà văn, nhà biên kịch), thông qua sự chỉ huy của đạo diễn, diễn xuất của
diễn viên, đội ngũ ê – kíp, cộng sự...để biến những câu chữ trong kịch bản
văn học thành một câu chuyện trên sân khấu! Một câu chuyện không còn đơn
thuần là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một câu chuyện có “người thật
việc thật” hẳn hoi, hiện hữu ngay trước mắt khán giả. Đặc biệt, điều này lại
càng đúng với những vở diễn được chuyển thể từ tác phẩm văn học nói chung
và với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói riêng, mà điển hình là hai tác
phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, cần nhận thấy rằng, văn học và sân
khấu với những tương đồng và khác biệt đã làm thành điểm tựa vững chắc
cho nhau. Chính văn học là “nguồn nguyên liệu” quý giá cho sân khấu, đặc
biệt là trong tình hình khó khăn kịch bản như hiện nay. Song song đó, việc
chuyển thể các tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu đã đem lại một
“luồng gió mới”, tạo thành một “dòng chảy văn học” trên sân khấu, đem lại
một góc nhìn mới cho tác phẩm văn học - góc nhìn trong mối quan hệ liên
ngành với sân khấu.
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ

More Related Content

What's hot

Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAYLuận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người TàyThi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
Thi pháp thơ Tum Tiêu của người Khơme với Vượt biển của người Tày
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc GiaoLuận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 

Similar to Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ

Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXTrữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945anh hieu
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ (20)

Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
 
Luận án: Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - truyền thống và biến đổi
Luận án: Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - truyền thống và biến đổiLuận án: Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - truyền thống và biến đổi
Luận án: Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - truyền thống và biến đổi
 
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXTrữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAYLuận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
 
Văn xuôi Trương Tửu trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, HAY
Văn xuôi Trương Tửu trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, HAYVăn xuôi Trương Tửu trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, HAY
Văn xuôi Trương Tửu trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, HAY
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- Phạm Thụy Ngọc Quỳnh “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 2. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- Phạm Thụy Ngọc Quỳnh “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU Chuyên ngành : Lý luận văn học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 3. 1 LỜI CẢM ƠN Luận văn này đánh dấu việc hoàn thành hai năm học Cao học của tôi. Đây thật sự là một công việc mất nhiều thời gian và công sức; tuy nhiên, nó mang lại cho tôi những kinh nghiệm quý báu. Trong quá trình thực hiện luận văn, bên cạnh tôi luôn có sự hướng dẫn, động viên của thầy cô, gia đình và bạn bè. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn - GS.TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG. Thầy vừa là người đã gợi ý cho tôi đề tài: “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU để tôi tìm hiểu; vừa là người hướng dẫn đầy tận tình, trách nhiệm suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này. Từ tận đáy lòng, tôi kính gửi đến Thầy lời chúc sức khỏe để Thầy tiếp tục dẫn dắt và truyền đạt cho chúng tôi kiến thức cũng như kinh nghiệm của Thầy trên con đường giảng dạy và nghiên cứu. Mặt khác, tôi kính gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy cô khoa Ngữ văn, phòng Sau Đại học trường Đại học Sư phạm TP.HCM đã cùng đồng hành, dạy dỗ, dìu dắt tôi trong suốt hai năm học qua từ việc học tập cho đến các công tác hỗ trợ khác. Kiến thức, kinh nghiệm cùng sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy cô là hành trang và nền tảng để tôi hoàn thành việc học tập của mình, mà luận văn này là một dấu mốc quan trọng của quá trình đó. Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình tôi vì đã luôn là chỗ dựa vững chắc cho tôi ở mọi thời điểm. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn và lời chúc thành công đến tập thể lớp Lý luận văn học K21 cũng như những người bạn khác vì đã đồng hành, chia sẻ cùng tôi nhiều khó khăn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012
  • 4. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn này được hình thành và phát triển từ những quan điểm, ý kiến của cá nhân tôi, xuất phát từ nguyện vọng, nhu cầu tìm hiểu việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu (khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng) để hình thành hướng nghiên cứu. Các kết quả được trình bày trong luận án là trung thực. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Phạm Thụy Ngọc Quỳnh
  • 5. 1 MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ...............................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................7 5. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu ......................................................8 6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................8 7. Những đóng góp mới của đề tài....................................................................8 8. Cấu trúc của luận văn....................................................................................9 Chương 1: VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU 1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu.............................10 1.2. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu .............19 1.2.1. Nguyên tắc chuyển thể..............................................................19 1.2.2. Phương thức chuyển thể ...........................................................22 1.2.3.Việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sang tác phẩm sân khấu.................................................................................................31 Chương 2: XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU 2.1. Xung đột trong tác phẩm văn học.........................................................39
  • 6. 2 2.1.1. Số đỏ - Xung đột giữa cái vô nghĩa lý và cái nghĩa lý..............40 2.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây - Xung đột giữa dục vọng và những khát khao chân chính .......................................................................................................45 2.2. Xung đột trong tác phẩm sân khấu ......................................................49 2.2.1. Xung đột qua hành động và cốt truyện kịch.............................50 2.2.2. Xung đột nội tâm nhân vật........................................................54 Chương 3: NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU 3.1. Thế giới nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng ..........................60 3.1.1. Số đỏ – những chân dung biếm họa..........................................61 3.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây – những kẻ khốn cùng tha hóa.......................68 3.2. Nhân vật trong tác phẩm sân khấu ......................................................71 Chương 4: NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU 4.1. Ngôn ngữ trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng........................................80 4.1.1. Ngôn từ đa dạng phong phú......................................................80 4.1.2. Ngôn ngữ giàu chất khẩu ngữ, giàu hàm ẩn.............................88 4.2. Ngôn ngữ kịch.........................................................................................91 4.2.1. Độc thoại, đối thoại chân thực, nhiều ngụ ý, sâu sắc................91 4.2.2. Ngôn ngữ “cá tính hóa” ............................................................94 KẾT LUẬN....................................................................................................98 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................103
  • 7. 1 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐH & THCN : Đại học và Trung học chuyên nghiệp HN : Thủ đô Hà Nội NLĐ : Người lao động (báo) NS : Nghệ sĩ NSND : Nghệ sĩ nhân dân NSƯT : Nghệ sĩ ưu tú Nxb : Nhà xuất bản SK : Sân khấu TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh tr : Trang TT&VH : Thể thao và Văn hóa (báo) VH : Văn hóa (báo)
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghệ thuật là thành quả kì diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn nhân loại. Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng thỏa mãn được những yêu cầu đa dạng phong phú của đời sống con người, đồng thời, khẳng định tính độc lập của nó trước thực tiễn. Sở dĩ, nghệ thuật cần thiết bởi vì chính trong nghệ thuật, con người tìm thấy sự biểu hiện cao nhất và đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc…và sau này là sân khấu. Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm nhập lẫn nhau. Trong đó, mối quan hệ giữa văn học và sân khấu được xem là “duyên phận”. Văn học trở thành nguồn “nguyên liệu” quan trọng cho sự phát triển của sân khấu, đặc biệt là nghệ thuật sân khấu kịch . Rất nhiều các tác phẩm kịch trên thế giới và cả ở Việt Nam đã được chuyển thể từ các tác phẩm văn học nổi tiếng. Ngay từ ngày đầu phát triển, sân khấu đã coi văn học là một “nguồn tài nguyên” lớn, trong đó có thể kể ra hai lý do chính yếu sau: + Thứ nhất, sân khấu luôn cần có những ý tưởng mới mẻ, những cốt truyện hấp dẫn để thu hút khán giả. Vậy nên ngoài việc tự viết ra kịch bản thì văn học chính là một nguồn cảm hứng lớn để các nhà biên kịch dựa vào đó để làm ra những kịch bản chất lượng. + Thứ hai, những tác phẩm văn học, đặc biệt những tác phẩm văn học nổi tiếng luôn có một số lượng lớn độc giả. Số lượng độc giả này đương nhiên muốn nhìn những nhân vật của mình vốn từ trước đến nay chỉ hiển hiện trong trí tưởng tượng bước khỏi trang giấy và hiện diện trên sàn diễn sân khấu.
  • 9. 2 Vậy nên một tác phẩm sân khấu dựa trên một tác phẩm văn học sẽ có một lượng người hâm mộ sẵn có. Đây là lợi thế lớn về kinh tế đối với sân khấu. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu, hàng loạt tác phẩm văn chương đã được dựng thành tác phẩm sân khấu, đem đến “món ăn tinh thần” mới mẻ, “lạ miệng” cho sân khấu. Sân khấu kịch đã biết khai thác mảnh đất màu mỡ của văn học để làm tiền đề cho sự phát triển của mình. Thông qua kịch, tác phẩm văn học được tiếp nhận dưới góc nhìn khác hơn và qua đó, dễ dàng đi vào đời sống. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây nhiều sân khấu kịch ở TP.HCM đồng loạt đưa các tác phẩm văn học lên sân khấu. Hàng loạt các vở kịch ăn khách trên các sân khấu kịch TP.HCM hiện nay hầu hết là các tác phẩm chuyển thể từ văn học và trong số đó, chúng ta phải kể đến trường hợp Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, nhưng ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Điều này chứng tỏ ông có một sức lao động phi thường mà ẩn náu trong đó là một tài năng lớn, đúng như lời nhận xét của nhà phê bình Trần Hữu Tá trong dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Vũ Trọng Phụng (1912 – 2012): “Cũng như rượu, một khi được chưng cất bằng chất liệu tốt và bởi những nghệ nhân lão luyện, nó bất chấp thời gian, thậm chí càng lâu năm càng quí. Sản phẩm văn hóa tinh thần của loài người cũng vậy, một khi đã là kiệt tác, ắt sẽ bất hủ. Không phải người nghệ sĩ nào cũng nào cũng có hạnh phúc bất tử với thời gian. Số này hiếm
  • 10. 3 lắm. Nhưng ta có căn cứ để tin Vũ Trọng Phụng sẽ có chỗ đứng xứng đáng, rất bền vững lâu dài trong lâu đài văn học dân tộc.” [53] Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng dù ra đời cách nay hàng chục năm nhưng vẫn còn gần gũi với thời đại chúng ta. Nếu quan sát cuộc sống xung quanh, ta thấy những vấn đề mà Vũ Trọng Phụng đưa ra vẫn rất thời sự, các nhân vật của ông vẫn rất “thật”, rất “đời”... Các tác phẩm của ông được sân khấu chuyển thể rất thành công, được khán giả đón nhận nồng nhiệt, tạo thành một “dòng chảy văn học trên sân khấu”. Tuy nhiên từ tác phẩm văn học đến vở diễn không phải là một con đường bằng phẳng, dễ dàng mà đầy khó khăn, thử thách. Vậy khi tác phẩm văn học được chuyển thể sang tác phẩm sân khấu kịch, nó đã khai thác và chuyển hóa những gì? Nó có những biến đổi ra sao và có bảo toàn được tính văn học nữa không? Ngược lại, nghệ thuật sân khấu kịch đã tác động vào văn học như thế nào? Với việc lựa chọn đề tài:“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU, tôi mong tìm hiểu và lí giải được phần nào mối quan hệ đa chiều, phức tạp đó. 2. Lịch sử vấn đề Văn học và nghệ thuật sân khấu kịch đều là các hình thái nghệ thuật mang ý thức thẩm mĩ, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Tác giả Lí Hoài Thu nhận định : “Kịch nói là một loại hình sân khấu mang tính đặc thù rõ rệt. Chất liệu để nhà văn xây dựng nên các tác phẩm kịch nói là ngôn ngữ văn học. Vì lẽ đó, kịch bản văn học là một trong những thể loại chính của văn học, tiêu biểu cho một phương thức phản ánh – phương thức kịch. Là một thể loại văn học nằm trong loại hình nghệ thuật kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu. Bằng những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí…nội
  • 11. 4 dung của kịch bản văn học được tái hiện lại một cách trực tiếp, sinh động trên sàn diễn” [13, tr. 200]. Về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu nói chung, hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây nói riêng, trong các công trình nghiên cứu, trên các báo, tạp chí, các website, diễn đàn, mạng xã hội.... đã có không ít ý kiến trình bày, nhận xét: Trong công trình Cơ sở lý luận văn học Lê Bá Hán nhận xét: “Nhắc đến tên một bộ tiểu thuyết, một truyện vừa, một truyện ngắn hoặc một kịch bản văn học quen biết, chúng ta liền nghĩ đến câu chuyện và những con người được thể hiện trong đó...” [14, tr. 74] Tác giả Huỳnh Như Phương cho rằng: “Những tác phẩm văn học được chuyển thể thành công thường là những truyện kể có tính sân khấu theo cách gọi của Otto Luwig. Đó là những truyện kể mà đối thoại của các nhân vật được đưa lên hàng đầu và phần trần thuật được giản lược thành các chú thích cho những câu đối thoại...” [46, tr. 112 – 113] Nói về việc tác phẩm văn học trở thành “nguồn nguyên liệu” cho điện ảnh, sân khấu, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Phương tiện kể cũng là một phương diện của tự sự học (...) đề tài tiểu thuyết có thể đưa lên sân khấu hay màn ảnh, cũng có thể dùng từ ngữ để kể cái đã xem trên màn bạc. Tất nhiên cái xem trong phương tiện cụ thể là khác nhau, nhưng chúng ta cũng chỉ xem cùng một truyện” [51, tr. 5] Tác giả Đức Thành trong bài Những quyết định nhạy cảm viết: “Văn học - Điện ảnh - Sân khấu mặc dù khác nhau về ngôn ngữ thể hiện nhưng xét chung lại "họ" vẫn là những người hàng xóm thân thiết và lâu năm của nhau. Những cuộc viếng thăm bao giờ cũng đáng quý và chờ đợi những "nồng nàn" từ những cuộc "giao tiếp" đó sẽ được thể hiện...” [61].
  • 12. 5 Trên báo Đại đoàn kết, nhà báo Hiền Thư viết: “Việc chuyển thể các tác phẩm văn học nổi tiếng không chỉ đơn thuần nhằm mục đích khắc phục tình trạng khan hiến kịch bản hay hiện nay mà quan trọng hơn là góp phần lưu giữ những cái hay, cái đẹp của văn học, cũng như quảng bá những giá trị đó đến với thế hệ khán giả trẻ” [64] Cụ thể hơn, khi đánh giá về diễn xuất của diễn viên trong việc thể hiện các nhân vật ở vở diễn Số đỏ, nhà báo Cát Vũ trong bài viết Kịch Bắc ở Sài Gòn đã viết: “Vở đã tạo cho hầu hết diễn viên tham gia một vai diễn mới để đời: Minh Béo với vai cậu Phước “em chã”, Thúy Nga gây ấn tượng mạnh với vai bà cố Hồng, Minh Hoàng - Cát Phượng trong vai ông bà Văn Minh, Hồng Vân khẳng định đẳng cấp trong vai bà phó Đoan. [69] Tác giả Trần Thanh Quang trong bài Đưa văn học đến với học sinh qua sân khấu kịch, trên báo Giáo dục TP.HCM, đã tổng hợp một số ý kiến đánh giá của giáo viên, học sinh khi xem xong vở diễn Số đỏ: “Vở kịch chuyển tải được tinh thần cơ bản của tác phẩm. Những nội dung thể hiện trên sân khấu đã lồng được những đoạn khác nhau trong tác phẩm mà văn bản tác phẩm bị dàn trải”. [49] “Diễn viên sử dụng ngôn ngữ bằng nhiều từ hiện đại chưa phù hợp với tác phẩm. Về tính cách nhân vật, diễn viên đã lột tả được phần lớn tính cách nhân vật như tác phẩm thể hiện nhưng chưa hoàn toàn. Giá như nhân vật Xuân Tóc Đỏ láu cá hơn một chút, tinh ranh hơn một chút sẽ phù hợp với nhân vật trong tác phẩm.” [49] Nói về thành công của vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây, tác giả Khôi Nguyên nhận xét: “Với nội dung hấp dẫn, cách dàn dựng độc đáo cùng sự tham gia của một “dàn sao” quen thuộc, Kỹ nghệ lấy Tây đã thu hút khán giả ngay từ những xuất diễn đầu tiên” [41]
  • 13. 6 Bài Kỹ nghệ lấy Tây, “bàn thắng đúp” của Hồng Vân đưa ra nhận định: “Bằng việc khai thác triệt để những yếu tố đối lập, từ ngoại cảnh cho đến tâm lý nhân vật, Kỹ nghệ lấy Tây đã làm bật lên những bi hài trong xã hội đương thời. Tiếng cười qua đi nhưng nỗi niềm chua xót cho những kiếp người vẫn đọng lại trong lòng khán giả sau khi màn nhung khép lại” [74] Tác giả Văn Bảy nhìn nhận: “Như là một tác phẩm phái sinh từ phóng sự, trừ nhân vật Vũ Trọng Phụng còn khá lạc lõng, nói chung đây là một vở kịch đáng xem...” [7] Bài Khóc, cười cùng Kỹ nghệ lấy Tây của Thanh Hiệp đánh giá: “Kịch Phú Nhuận không làm việc minh họa cho tác phẩm văn học, mà có những sáng tạo để người xem cùng cười, cùng khóc với các nhân vật khi so sánh với phóng sự mà mình đã đọc.” [19] Trên báo Thế giới văn hóa, bài viết Đi xem Kỹ nghệ lấy Tây cho rằng: “Với Kỹ nghệ lấy Tây, thực trạng xã hội của miền Bắc Việt Nam trước những năm 1945 được tái hiện chân thật qua từng số phận. Chuyển thể tác phẩm cùng tên của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Lê Chí Trung giữ lại hầu hết nội dung của nguyên tác văn học.” [73] Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài viết như: Kịch Phú Nhuận tăng tốc “hiện thực phê phán” (H.H) trên báo Tuổi trẻ [17], , Chính kịch hồi sinh (Hiệp Thanh) [59], Cuộc “thay máu” thành công của sân khấu kịch Phú Nhuận (Mai Trí) đăng trên báo Thanh niên [66], Thêm một Xuân Tóc Đỏ cho Số đỏ (Nhật Lam) [31], bài Từ trang văn bước ra sân khấu (Song Minh) của báo Giáo dục [39]...Hầu hết các bài báo này đều đưa ra những ý kiến xoay quanh việc chuyển thể tác phẩm văn học – những khó khăn và khúc mắc, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về hai vở diễn Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây trên sân khấu.
  • 14. 7 Những bài viết, nhận định trên đã gợi ý, giúp người viết thực hiện việc tìm hiểu những nét khái quát cho đến việc khảo sát chi tiết, cụ thể và có hệ thống việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu (khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây). Để từ đó thấy rõ vai trò, sự gắn kết của văn học và sân khấu trong việc sáng tạo vở diễn trên sân khấu. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài: “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU, tôi nhằm: - Tìm hiểu hiện tượng chuyển thể các tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm : Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) - Mặt khác, việc thực hiện đề tài này sẽ giúp tôi hiểu biết thêm về văn học và nghệ thuật sân khấu kịch, thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và nghệ thuật sân khấu (nghệ thuật trình diễn). 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Dựa vào kết quả tìm hiểu sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây), tôi nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu mục đích và tiêu chí lựa chọn các tác phẩm văn học để chuyển thể thành kịch bản – phục vụ cho nghệ thuật sân khấu kịch. - Tìm hiểu các nguyên tắc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu. - Xem xét việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng (hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) sang tác phẩm sân khấu - So sánh mối tương quan giữa tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể
  • 15. 8 5. Đối tượng, giới hạn, phạm vi nghiên cứu Do thời gian nghiên cứu, điều kiện nghiên cứu có hạn, để tìm hiểu về sự chuyển thể từ tác phẩm văn học đến tác phẩm sân khấu, đối tượng tìm hiểu của đề tài là hai tác phẩm của Vũ Trọng Phụng : Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây. Hai tác phẩm này là những tác phẩm ít nhiều đã có vị trí nhất định trong dòng chảy của văn học, sau đó được chuyển thể, công diễn trên sân khấu và đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả trên sân khấu kịch. Điều này sẽ tạo những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu kịch của người thực hiện đề tài. 6. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên, trong luận văn tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp liên ngành: nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật (nói chung), mối quan hệ tác động qua lại giữa văn học và nghệ thuật sân khấu (nói riêng) - Nhóm các phương pháp phân loại, phân tích, so sánh: Nhóm các phương pháp này giúp tôi hệ thống các cứ liệu để có thể đánh giá, nhận xét, phân tích và rút ra kết luận, một số đề nghị cần thiết. - Phương pháp hệ thống và tổng hợp: nhằm giúp người nghiên cứu làm rõ một cách hệ thống, đầy đủ những tương đồng và khác biệt của tác phẩm văn học gốc và tác phẩm sân khấu trong quá trình thực hiện việc chuyển thể, để từ đó nhận thấy rõ mối quan hệ giữa văn học và sân khấu. 7. Những đóng góp mới của đề tài Phần nghiên cứu quá trình sáng tạo vở diễn (kịch) trên sân khấu từ tác phẩm văn học (khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) chủ yếu kế
  • 16. 9 thừa những kết quả nghiên cứu đã có trước đây. Tuy nhiên, luận văn đã cố gắng tìm hiểu thêm một số khía cạnh mới chưa được các nhà nghiên cứu đề cập, hoặc đã có đề cập nhưng chưa đi sâu. Sau đây, là một số đóng góp mới của đề tài: - Bước đầu thấy được những thuận lợi và khó khăn khi chuyển thể một tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu - Thấy được những tương đồng, khác biệt trong việc xây dựng xung đột, nhân vật, ngôn ngữ từ văn học đến sân khấu 8. Cấu trúc của luận văn Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU (9 trang) Gồm: Lí do chọn đề tài, Lịch sử vấn đề, Mục đích nghiên cứu, Nhiệm vụ nghiên cứu, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Phương pháp nghiên cứu, Những đóng góp mới của đề tài, Cấu trúc của luận văn. Phần thứ hai : NỘI DUNG (88 trang) gồm bốn chương: Chương 1 : VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU (29 trang) Chương 2 : XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (21 trang) Chương 3 : NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” : TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU (20 trang) Chương 4 : NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (18 trang) Phần thứ ba : KẾT LUẬN (5 trang) Danh mục tài liệu tham khảo.
  • 17. 10 Chương 1 VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU 1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu Mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mĩ học và nghệ thuật học. Đây là mối quan hệ giữa các loại hình cùng gắn bó trong một hệ thống và quan hệ giữa loại hình này với loại hình khác. thường diễn ra ở dạng động và dạng tĩnh. “Ở dạng tĩnh, đó là quan hệ so sánh để tìm ra những điểm giống nhau (tương đồng) hoặc khác nhau (sự tương dị). Ở dạng động, đó là quan hệ có sự hợp tác liên kết trong quá trình sáng tạo (quan hệ tương tác)” [68, tr. 10] Văn học và sân khấu vốn dĩ đều là hình thái ý thức xã hội ý thức thẩm mĩ – nghệ thuật, cùng có đặc tính chung, chức năng chung và cùng chịu sự chi phối, quyết định của đời sống xã hội. Giữa chúng có mối liên hệ khá mật thiết, chặt chẽ. Hai loại hình nghệ thuật này đều có chung đối tượng, đề tài, chủ đề... Nếu văn học lấy cuộc sống làm đối tượng để phản ánh, thì sân khấu cũng thế. Xét cho cùng, cả văn học và sân khấu đều là “tấm gương phản chiếu” thực tiễn xã hội. Chúng cùng hướng đến những giá trị Chân – Thiện – Mĩ, giá trị nhân văn của cuộc sống. Chẳng hạn, khi khán giả xem vở kịch Làm..., vốn được chuyển thể từ tiểu thuyết Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, vẫn được thấy một câu chuyện còn vẹn nguyên tính thời sự như thuở nào. Vẫn là những tên nhà giàu, quan chức đạo đức giả thao túng xã hội. Vẫn là bi kịch của những cô gái mất trinh tiết trước khi lập gia đình. Vẫn là những bậc làm cha, làm mẹ giấu giếm, bưng bít chuyện giới tính để những cô, cậu bé khi bước vào tuổi dậy thì hoang mang đến lạc lối lúc nào không biết, và cũng tương tự như vậy ở những vở kịch
  • 18. 11 chuyển thể khác. Đó là thông điệp cố gắng níu giữ hạnh phúc gia đình để những đứa trẻ còn có cha có mẹ, đừng để chúng rơi vào hoàn cảnh côi cút không đáng như đôi vợ chồng Út Vũ đã làm. Tình yêu thương tuy có vẻ bình thường nhưng nếu cuộc sống không có yêu thương, nó sẽ không tồn tại trong vở Cánh đồng bất tận. Là chuyện kể về thân phận bọt bèo của những tá điền thuở trước, không chỉ cực nhọc vì gánh nặng tô thuế mà còn bị đám nhà giàu hiếp đáp cả trong đời sống tình cảm trong vở Con nhà nghèo. Còn với vở Nửa đời ngơ ngác chuyển thể từ truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn Ngọc Tư lại là câu chuyện tình trái ngang vì người mẹ trọng giàu sang mà ép duyên con gái, khiến hư thai, người tình cũ ở tù oan trở về với lòng thù hận và sống trong hận thù (nhưng không trả) gần 20 năm... Giữa văn học và nghệ thuật sân khấu luôn có sự giao thoa nhuần nhuyễn. Bởi lẽ, nhà văn, nhà biên kịch đều là những người nghệ sĩ có cùng sự đa cảm, trí tưởng tượng, sự tinh nhạy điêu luyện, cảm quan nghệ thuật .... Tư duy của người nghệ sĩ sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật (nhà văn, nhà biên kịch) là tư duy nghệ thuật. Họ phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính của nghệ thuật, phản ánh hiện thực theo quy luật của cái đẹp, cái thẩm mĩ nhằm thể hiện và tái tạo một cách sinh động hiện thực cuộc sống với những nhu cầu, khát vọng của con người. Cách nhìn, cách cảm nhận, suy nghĩ của nhà biên kịch gần gũi với nhà văn cho nên khi tiếp cận tác phẩm văn học, nhà biên kịch dễ dàng tiếp nhận, đồng cảm với những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm văn học. Chính sự “giao lưu” này đã làm nên tiếng nói chung, sự đồng điệu trong việc sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Nhà văn khi viết tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...không hề nghĩ “đứa con tinh thần” của mình sẽ có “đời sống thứ hai” trên sân khấu. Nhưng nghệ thuật là lĩnh vực của cảm xúc, của tình cảm nên tâm hồn người nghệ sĩ bao giờ cũng gặp nhau qua tác phẩm. Vì lẽ đó, rất nhiều tác phẩm văn học đã trở thành
  • 19. 12 niềm cảm hứng thôi thúc các tác giả sân khấu viết nên những vở diễn mang đầy tính nhân văn, truyền tải những thông điệp đầy ý nghĩa. Các nhà biên kịch đã tìm thấy sự đồng điệu qua các tác phẩm văn học và họ mong muốn rằng những tác phẩm văn học sẽ được cụ thể hóa và hiện hữu trên sân khấu. Nhà biên kịch Minh Nguyệt, khi chuyển thể truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đã chia sẻ : “Ngay khi mới bắt đầu tôi đã nghĩ để viết một kịch bản độc lập là rất khó, nên phải dựa vào văn học. Thế nhưng, để tìm chất liệu trong văn học cũng không dễ, vì truyện nhiều, nhưng không phải tác giả nào mình cũng thích, nên khi gặp được Tư, tôi rất hạnh phúc, truyện của bạn ấy mới và có cách xử lý thông minh. Truyện nào cũng rõ cái tứ, cách khai thác thân phận hay, thấm đẫm tình người… đọc xong thấy xốn xang và luôn buộc mình nhớ lại. Dù viết đề tài gì, Tư cũng có cách nhìn mới lạ và sang trọng về mặt ý tưởng, không chỉ có éo le, đau khổ, bần cùng...” 1 . Đạo diễn Doãn Hoàng Giang, người dựng vở kịch Số đỏ (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng) lại cho biết : “Từ ngày còn đi học, tôi đã bị hấp dẫn bởi Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, một tác phẩm văn học có cốt truyện hay. Các nhân vật được mô tả một cách cường điệu, khoa trương mà vô cùng duyên dáng. Sự nhố nhăng của xã hội hiện lên một cách tài hoa....” 2 Tác phẩm sân khấu được bắt đầu từ kịch bản văn học. Thiếu kịch bản văn học sẽ không thể hình thành vở diễn trên sân khấu. Đó là yếu tố đầu tiên đảm bảo chất lượng, sự thành công cho vở diễn trong tương lai. Trong quá trình “sáng tạo” ra tác phẩm để diễn trên sân khấu, giai đoạn sáng tác ra kịch bản văn học là giai đoạn thể hiện tập trung nhất mối quan hệ mật thiết giữa hai loại hình nghệ thuật – văn học và sân khấu (ở đây là sân khấu kịch nói). Kịch bản văn học sân khấu là biểu hiện cụ thể của của tính văn học trong sân 1 Theo báo TT & VH, ngày 07/04/2012 2 Theo báo NLĐ, ngày 18/01/2002
  • 20. 13 khấu. Kịch bản trước hết tự nó phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác phẩm văn học. Kịch bản là bước đầu tiên để hiện thực hóa những con chữ thành một câu chuyện trên sân khấu. Trần Đình Sử trong Lý luận văn học – Tập 2: Tác phẩm và thể loại văn học cho rằng: “Kịch bản là bản kịch gốc mà người ta dựa vào để dựng thành vở diễn trên sân khấu. Kịch bản văn học là nền tảng, là bộ phận quan trọng nhất làm nên một vở diễn. Kịch bản văn học là một bộ phận hợp thành của nghệ thuật sân khấu và những điều kiện của sân khấu góp phần quyết định đặc điểm riêng của kịch bản văn học” [52, tr. 323]. Cho nên, một vở kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học muốn có chất lượng, muốn thành công, tất nhiên phải có kịch bản chuyển thể đáp ứng được những yêu cầu đặc trưng của ngôn ngữ sân khấu. Những yếu tố cơ bản trong văn học cũng là những yếu tố cơ bản trong kịch bản sân khấu như : xung đột, nhân vật, ngôn ngữ...Các yếu tố trên được định hình trên giấy trước khi được chuyển thể thành vở diễn trên sân khấu. Điều này lại càng đúng với những vở diễn được cải biên, chuyển thể từ tác phẩm văn học. Một vở diễn trên sân khấu cũng như một tác phẩm văn học, bao giờ cũng phải có tính xung đột. Tác phẩm văn học và sân khấu chỉ có thể hình thành, phát triển thông qua các xung đột. Việc lựa chọn, giải quyết các xung đột sẽ giúp chúng ta thấy được tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn, nhà biên kịch gửi gắm trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Cả văn học và kịch nếu không có xung đột thì chỉ là những hoạt cảnh nhạt nhẽo mà thôi! Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cách đây hàng chục năm ta thấy được sự xâm nhập của phong trào Âu hóa, những biến đổi đến không ngờ của con người trong xã hội thành thị; thì nay ở vở diễn trên sân khấu, cũng vẫn là những xung đột đó – xung đột giữa những Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, ông bà Văn Minh...với cái xã hội thành thị “nửa vời”, đồng thời đó còn là xung
  • 21. 14 đột của chính nội tâm nhân vật! Những xung đột đó cứ như xoay vần, âm ỉ, kéo dài mãi không thôi. Giống như thế, vở kịch Làm... (chuyển thể từ tiểu thuyết Làm đĩ) nhằm tái hiện bi kịch của Huyền. Chính cuộc hôn nhân gặp nhiều tan vỡ trong đời sống gia đình với người chồng ăn chơi nổi tiếng đất Hà Thành là Tham Kim, đã đẩy Huyền đến bi kịch “làm đĩ” như bà mẹ kế. Còn vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây (chuyển thể từ phóng sự cùng tên) lại là câu chuyện chuyện bi hài của các me hành nghề lấy Tây. Bi kịch của những người phụ nữ này là ở chỗ, họ “được tiếng” là “lấy Tây” nhưng lại chẳng sung sướng gì cho cam mà ngược lại, phải chịu sự dè bỉu, khinh khi, cái nhìn soi mói của người đời. Không những thế, bi kịch đó được thực thi bằng “bản án” được truyền đến cả đời con, đời cháu họ! Tuy vậy, một tác phẩm và một vở diễn, tất nhiên không thể nào giống nhau hoàn toàn. Nếu trong tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...xung đột được thể hiện thông qua ngòi bút của tác giả, qua cách sử dụng ngôn từ của nhà văn, được hiện thực hóa, hữu hình trên trang sách; thì vở diễn, do đặc trưng, chịu sự chi phối của nghệ thuật sân khấu, xung đột lại được cụ thể hóa thông qua hành động kịch, mà ở đây, chủ yếu là thông qua diễn xuất, cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ của nhân vật, của diễn viên...Văn học nói bằng ngôn ngữ hay ngôn từ. Đây là một dạng chất liệu đặc biệt bởi nó mang tính phi vật thể, trong khi đó, chất liệu của nghệ thuật sân khấu lại là âm thanh, sân khấu, diễn xuất của diễn viên... Nếu chất liệu của văn học là phi vật thể; thì ngược lại, ở sân khấu, đó lại là chất liệu vật thể. Đọc một tác phẩm văn học, người đọc cảm nhận vẻ đẹp, giá trị của tác phẩm thông qua ngôn từ, qua cách sử dụng từ ngữ của tác giả. Còn vở diễn trên sân khấu, lẽ dĩ nhiên, cũng sử dụng ngôn ngữ, nhưng lại theo một cách khác – ngôn ngữ của hiệu ứng âm thanh, ánh sáng, của sân khấu và quan trọng đó là ngôn ngữ diễn xuất của diễn viên. Ở đó, ngôn ngữ diễn xuất của người diễn viên hóa thân thành ngôn ngữ nhân
  • 22. 15 vật. Đó là ngôn ngữ mang tính hành động, tính khẩu ngữ, tính hàm súc và tính tổng hợp cao. Có thể nói, trên sân khấu, người diễn viên đóng vai trò vô cùng quan trọng. Một kịch bản trở nên sống động, được khắc họa vào không gian - thời gian bằng đời sống tâm hồn, bằng trái tim nóng với nhịp đập đời sống tươi mới của những con người chỉ có thể dựa vào nghệ thuật diễn xuất của diễn viên trên sân khấu. Một ý tưởng, một hình tượng nghệ thuật trong cấu tứ của tác giả và đạo diễn cũng chỉ có thể được thể hiện và biểu đạt bằng nghệ thuật diễn xuất của người diễn viên. Nghệ thuật diễn xuất của người diễn viên sân khấu được biểu đạt bằng hành động sân khấu trong một không gian - thời gian sân khấu. “Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật của hành động. Hành động sân khấu chính là cơ sở sáng tạo, là phương tiện nghệ thuật của người diễn viên” [ 48, tr.18]. Cuộc sống sân khấu là quá trình hành động của các nhân vật, từ sự khởi đầu cho đến kết thúc. Sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua hành động, bằng diễn xuất của người diễn viên. Đọc một tác phẩm văn học, người đọc có thể hình dung ra hình ảnh của một Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cô Tuyết, vợ chồng Văn Minh...trong Số đỏ; hình ảnh của “đội quân” hành nghề “lấy Tây” trong Kỹ nghệ lấy Tây....thông qua ngòi bút tài hoa, nhạy bén và sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Bằng tài năng của mình, nhà văn đã dựng nên những nhân vật mang tính điển hình, khái quát cao. Những vở diễn trên sân khấu (với tư cách là những tác phẩm chuyển thể), lẽ dĩ nhiên, với những ưu thế riêng, đã giúp những nhân vật từ trang sách được “tái tạo” lần nữa, để các nhân vật có “đời sống thứ hai” trên sân khấu. Xem một vở diễn, khán giả có thể nhìn thấy nhân vật (vốn đã được tái hiện trong tác phẩm văn học) “bằng xương bằng thịt”, để từ đó họ có cái nhìn gần gũi, mới mẻ hơn về chính nhân vật văn học, về tác phẩm văn học mà mình đã được đọc, được xem. Để làm được điều này, bên cạnh sự hỗ trợ
  • 23. 16 của cả một ê – kip thì vai trò của người diễn viên là vai trò trung tâm. Bởi lẽ, hơn ai hết, họ hiểu rằng, một nhân vật văn học từ tác phẩm văn học bước ra sàn diễn xem như được “khai sinh lần nữa”. Chẳng phải vì thế mà ta đã bắt gặp một lần nữa hình ảnh của một Xuân Tóc Đỏ láu cá, xỏ xiên qua diễn xuất của nghệ sĩ Đức Hải (vở Số đỏ), một bà Ách vừa đáng thương vừa đáng trách qua tài nghệ diễn xuất của nghệ sĩ Hồng Vân, một me Tây Kiểm Lâm gai góc, bất cần đời của diễn viên Trịnh Kim Chi...(vở Kỹ nghệ lấy Tây).... Không chỉ vậy, nhờ lợi thế riêng của mình, đôi khi, tác phẩm sân khấu, với tài diễn xuất của người diễn viên còn giúp làm đầy đặn hơn những nhân vật – vốn chỉ được xem là nhân vật phụ, nhân vật làm nền cho sự xuất hiện của nhân vật chính. Nói về điều này, có thể kể đến trường hợp của cậu Phước (Minh Béo), thầy bói (Quyền Linh), vợ chồng Văn Minh (Minh Hoàng – Cát Phượng)...trong Số đỏ; Duyên (Thúy Nga), Bond (Minh Nhí)...trong Kỹ nghệ lấy Tây hay Lan dẹo (Như Phúc), Hết (Quang Thảo), Hoài (Kim Phước) trong vở Nửa đời ngơ ngác....Chính sự xuất hiện của những nhân vật như thế đã làm cho vở diễn thêm phần sinh động, nhiều màu sắc. Và cũng nhờ thế mà kịch tính của tác phẩm sân khấu được tăng lên. Nếu tác phẩm văn học miêu tả nhân vật bằng ngôn từ thì sân khấu là nghệ thuật miêu tả hành động của con người bằng động tác. Hệ thống hành động sân khấu được coi là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật diễn xuất, biểu hiện ngữ nghĩa của sân khấu. Hệ thống hành động sân khấu (tương tự như tác phẩm văn học) bao gồm hành động hình thể, hành động ngôn ngữ và hành động tâm lý v.v... của người diễn viên sân khấu. Hành động hình thể gồm những động tác tạo nên từ hình thể người diễn viên. Hành động ngôn ngữ là đối thoại, độc thoại, lời nói riêng. Hành động tâm lý chỉ những trạng thái có thể ngừng lặng về ngôn từ của diễn viên, song cũng là lúc diễn viên hoàn toàn dùng hành động biểu đạt thể hiện trạng thái sóng gió trong nội tâm nhân vật.
  • 24. 17 Chẳng hạn, trong phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, nhân vật Duyên (trước khi lấy Tây) đã được miêu tả thế này qua lời kể của bà Cẩm: “Sao không ở làng ấy mà lấy thằng cổ cầy vai bừa nào thì lấy có được không? Thân phận đã thế lại còn chê chồng! Không biết bố mẹ mày ăn uống gì mà đẻ ra mày như thế chứ? Sào một xanh rau thì bắc lên hai con đỉa! Một tháng chưa tắm, rận chấy lúc nào cũng như sung! Ngồi ăn cơm, ho một cái bắn vung cơm ở mồm ra như mưa ấy! Chồng nó không chê thì thôi chưa lại còn chê chồng! Tưởng ta...vàng...ngọc lắm đấy!” [45, tr.43 – 44]. Ấy vậy mà, Duyên đã thay đổi. Cô đã biết “đánh phấn, bôi môi, kẻ lông mày” [45, tr. 47], lại còn biết “liếc mắt một cái rồi cười” [45, tr. 47].... Lẽ dĩ nhiên, khi viết như thế, Vũ Trọng Phụng muốn ta hình dung được một cô Duyên đã thay đổi như thế nào trước và sau khi được “xung vào đội quân kỹ nghệ lấy Tây”, nhưng tính tổng hợp của văn học diễn ra thông qua trí tưởng tượng của mỗi người đọc, được miêu tả qua ngữ nghĩa. Sự hình dung đó đúng hay không đúng với sự vật được miêu tả còn tùy thuộc ở trình độ hiểu biết và sự từng trải, kinh nghiệm sống của mỗi người đọc. Chính vì vậy, đôi khi, người đọc không thể nào mường tượng được hết những “ẩn chứa sâu kín” do ngôn từ mang lại và như thế, nhân vật sẽ chỉ là nhân vật tồn tại, hiển hiện trên trang sách mà thôi! Thế rồi, nhân vật sân khấu ra đời, khán giả lại có dịp thấy được một nhân vật Duyên có đời sống, hành động, ngôn ngữ, điệu bộ...một Duyên “người thật việc thật” hẳn hoi! Khác với ngôn từ phi vật thể của văn học, nghệ thuật sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những hình ảnh cụ thể, bằng diễn xuất của người diễn viên, thông qua hiệu ứng sân khấu, âm thanh, ánh sáng...khiến cho người xem tưởng như mình đang nhập cuộc vào câu chuyện. Để rồi, từ đó, khán giả có thêm cái nhìn đồng cảm với nhân vật, với những gì đang diễn ra trên sân khấu, ngay trước mắt mình. Tác phẩm văn học, nhờ thế, cũng được thẩm thấu dễ dàng, gần gũi hơn.
  • 25. 18 Duyên trong Kỹ nghệ lấy Tây trên sân khấu là một cô Duyên đầy biến hóa. Khi mới xuất hiện, trông Duyên thật quê mùa, xấu xí đến kinh ngạc với bộ răng vẩu, tóc tai bù xù, quần áo thì “lôi thôi lếch thếch”. Thế nhưng, khi “ngấm” được những bài học “xương máu” từ dạo lấy chồng Tây, Duyên đã thay đổi hẳn. Cô ăn mặc diêm dúa và sành điệu trong bộ quần áo “hoa hòe hoa sói”, đến nỗi chính bà Ách – người “huấn luyện” cô cũng phải thốt lên: “Mày đấy hả Duyên. Hết hồn...Sao mày lạ thế?”[76]. Và chính Duyên đã trả lời với bà Ách thế này: “Cám ơn cô nhé. Ngày xưa đấy, cô nhìn thấy không, cháu lúc nào cũng như là con chuột chù, hôi hoa tỏi. Nhưng từ ngày lấy Tây bây giờ, nó cho một loại nước hoa gì, xịt vào...xịt con chuột chết nó cũng thơm, huống gì là con...”, hay “Xin lỗi cô, con Duyên này bây giờ đã khác xưa rồi!” [76]. Câu nói mang đầy sự chua chát đến không ngờ, sự thay đổi của thành thị đã làm thay đổi cả số phận, tính cách của cả một con người! Văn học nói chung sâu sắc và tinh tế hơn sân khấu, nhưng đọc một cuốn truyện, nghe một bài thơ ta không thể thấy con người, cảnh vật...hiện ra một cách hiện hữu, cụ thể như trên sân khấu mà chỉ có thể mường tượng, cảm nhận chúng qua thông qua trí tưởng tượng mà thôi. Sự hình dung, tưởng tượng đó đúng hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, vốn sống cũng như sự từng trải của từng đối tượng độc giả. Sân khấu, với tư cách là nghệ thuật tổng hợp, tái hiện cuộc sống bằng những hình ảnh, điệu bộ cụ thể của người diễn viên. Đến với một vở kịch, khán giả có thể xem lại một cốt truyện cũ, tình tiết vốn đã được viết trong tác phẩm văn học; thấy được những nhân vật, vốn trước đây, chỉ được hình dung qua trang giấy, thì nay, bước ra sân khấu, hiện diện trước mắt họ một cách đường hoàng, hẳn hoi! Tóm lại, không thể phủ nhận rằng chính văn học là “mảnh đất màu mỡ” cho sân khấu, còn sân khấu là nơi giúp văn học thăng hoa, đưa văn học đến gần với độc giả, khán giả hơn
  • 26. 19 1.2. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu 1.2.1. Nguyên tắc chuyển thể Chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản là yếu tố quyết định đến sự thành công của vở diễn trên sân khấu. Khi chuyển thể người chuyển thể (tác giả) cần chú ý tới các đặc trưng của kịch bản để tuân thủ và đảm bảo tính kịch trong kịch bản. Cốt truyện của kịch bản phải mạch lạc rõ ràng, có các nhân vật với tính cách, hành động, ngôn ngữ của kịch....Một kịch bản hấp dẫn phải khởi nguồn từ những tác phẩm văn học có chiều sâu, chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử, con người, xã hội... – là thành quả lao động sáng tạo của những nhà văn tài năng. Chỉ những tác phẩm như thế mới có thể tạo nên hồn cốt của một tác phẩm sân khấu vừa có chất, vừa có sức sống mãnh liệt qua thời gian. Chuyển thể là tác giả kịch bản kể lại câu chuyện của nhà văn bằng ngôn ngữ sân khấu và quan niệm riêng của họ; là sáng tác lần thứ hai dựa trên tác phẩm của người khác. Tác giả kịch bản bao giờ cũng muốn giữ nguyên tác phẩm văn học nhưng điều đó rất khó. Tất nhiên, chuyển thể không có nghĩa là minh họa bằng hình ảnh cho tác phẩm văn học. Điều quan trọng nhất là phải nắm bắt được tư tưởng của tác phẩm, làm sống dậy tính thời sự, đồng điệu, đồng cảm với nguyên tác nhưng phải đảm bảo gần gũi với đời sống hiện tại. Đó chính là chìa khóa! Lợi thế của những vở diễn được chuyển thể từ tác phẩm văn học là có sẵn tính văn học vì hầu hết các tác giả đều chọn những tác phẩm hay, có tiếng vang trong văn đàn và được độc giả yêu thích. Tuy nhiên, đây cũng là một áp lực không nhỏ đối với người chuyển thể vì vừa phải đảm bảo được tính văn học vừa phải có tính sân khấu.
  • 27. 20 Mặt khác, sức hấp dẫn của những tác phẩm văn học là gợi lên trí tưởng tượng, liên tưởng vô cùng phong phú đối với người đọc về thế giới nhân vật trong tác phẩm. Đưa lên sân khấu, bằng những hình tượng cụ thể, nếu tác giả không chắc tay, diễn viên diễn không sâu sắc sẽ khiến cho khán giả rơi vào cảm giác hụt hẫng do không đúng với trí tưởng tượng, cảm nhận của họ.Về cơ bản, việc cải biên, chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu có thể chia ra thành hai loại: + Cải biên, chuyển thể sát nguyên bản - nghĩa là trung thành với đường dây của cốt truyện, tôn trọng thậm chí cả hình thức của tác phẩm. Trường hợp này nhà biên kịch thường cố gắng bám sát cốt truyện của tác phẩm văn học, tôn trọng tính nguyên bản của tác phẩm (cả về mặt hình thức). + Cải biên, chuyển thể tự do - nghĩa là chỉ chọn những gì thích hợp, tùy theo ý đồ của tác giả và đạo diễn sân khấu. Cần lưu ý rằng, 60, 70% kịch bản cải biên là thuộc loại này. Trường hợp này được gọi là “phỏng theo”. Nhà biên kịch lựa chọn trong tác phẩm gốc những yếu tố thích hợp theo cách riêng của mình, hoặc theo ý đồ của đạo diễn để dựng thành vở diễn trên sân khấu. Tùy theo từng trường hợp, nhà biên kịch có thể thay đổi từng phần trong tác phẩm. Hầu hết, các vở diễn trên sân khấu TP.HCM hiện nay đều được cải biên, chuyển thể theo hình thức này. Có thể kể đến một số trường hợp như : Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây phỏng theo những tác phẩm cùng tên của Vũ Trọng Phụng, Làm... dựa trên tiểu thuyết Làm đĩ, Con nhà nghèo làm theo tiểu thuyết cùng tên của Hồ Biểu Chánh, Nửa đời ngơ ngác cải biên từ truyện ngắn Chiều vắng – Nguyễn
  • 28. 21 Ngọc Tư, Hãy khóc đi em chuyển thể từ truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của nhà văn Trần Thùy Mai.... Việc cải biên, chuyển thể một tác phẩm văn học sang sân khấu, về nguyên tắc, không được đặt ra một vấn đề gì, cả về kích thước câu chuyện, cả về bình diện các nhân vật... Việc đó giản đơn là một cuộc lựa chọn. Nếu tác phẩm văn học được tạo nên bởi “quyền lựa chọn” của riêng cá nhân nhà văn, thì ở tác phẩm sân khấu, “quyền chọn lựa” tình tiết, chi tiết lại thuộc về nhà biên kịch. Một tác phẩm có sẵn, dù có đặc sắc tới mấy, cũng cần phải nhào nặn lại. Sự chuyển thể ấy đôi khi có thể chỉ tập trung khắc họa một cảnh, hay một nhân vật, nhưng căn bản là nhà biên kịch phải đánh giá được cái gì hấp dẫn đối với họ. Và nhiệm vụ của họ là phải thay đổi “cách nào” của sự lý giải... Chính lẽ đó, khi chuyển thể cần chú ý một số nguyên tắc: + Phải nghiên cứu, đọc kĩ tác phẩm văn học. Nắm vững nội dung tư tưởng, các chi tiết, tình tiết cơ bản, các nhân vật chính phụ trong tác phẩm, lời nói, giọng điệu của nhân vật, tình huống xảy ra trong tác phẩm....... + Chuyển thể kịch nhưng phải tuyệt đối tôn trọng nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học. + Không bê nguyên xi tác phẩm văn học, mà phải có sự sáng tạo. Sáng tạo nhưng không làm thay đổi nội dung tư tưởng của tác phẩm. Khi đưa tác phẩm Vũ Trọng Phụng lên sân khấu, người đạo diễn không nô lệ quá khứ, mà thể hiện bằng cái nhìn của ngày hôm nay. Chuyển thể không phải là cách né tránh hiện thực mà là thổi thêm hơi thở ngày nay vào những giá trị văn học trong quá khứ. Nói cách khác, vở diễn trên sân khấu thổi vào tinh hoa của văn học quá khứ bằng hơi thở, nhịp điệu của đời
  • 29. 22 sống chúng ta đang sống. “Chuyển thể” không có nghĩa là bê tất tần tật những gì đã có trong một tác phẩm văn học ra mà là “quá trình sáng tạo lần thứ hai”. Điều quan trọng nhất khi chuyển thể văn học lên sân khấu là phải nắm bắt được tư tưởng của tác phẩm, cách thức để chuyển thể tư tưởng ấy lên sân khấu một cách hiện đại, tạo được sự đồng cảm, đồng điệu với nguyên tác của tác phẩm văn học. Sau đó, lựa chọn trong những vấn đề của tác phẩm, vấn đề nào là vấn đề cập nhật với thời đại nhất, từ đó tìm cách tái hiện câu chuyện lên sân khấu. Người ta có thể lược bớt những chi tiết rườm rà, không cần thiết, những nhân vật phụ trong tác phẩm tránh cho sân khấu kịch “quá tải”, tản mạn, thiếu tập trung trong việc khắc họa chủ đề, tư tưởng. Với quan niệm đó, kịch trên sân khấu có đôi chỗ khác với nguyên bản tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, tác phẩm sân khấu chỉ làm “khác” chứ không làm “méo mó” tác phẩm văn học của Vũ Trọng Phụng. 1.2.2. Phương thức chuyển thể Hiện nay, phương thức chuyển thể các tác phẩm văn học sang kịch bản là phương thức rất phổ biến trong việc xây dựng kịch bản sân khấu. Đó được xem như là giải pháp cho tình trạng khan hiếm, “khủng hoảng” kịch bản hay như hiện nay. + Yêu cầu đầu tiên để những tác phẩm văn học được chọn chuyển thể là câu chuyện phải có kịch tính cao, vì khi lên sân khấu không thể đem lên cả cái thế mạnh của văn học là nghệ thuật ngôn từ qua việc tả tình, tả cảnh. Thời lượng vở diễn chỉ chưa đầy 120 phút nhưng có khi là cả một đời người, với bao xung đột, sự kiện. Cảm xúc văn học được lấy ra từ ngôn ngữ viết, trong khi sân khấu lấy cảm xúc khán giả bằng hình ảnh mà khán giả đang trực tiếp nhìn và nghe. Điều đó đòi hỏi tác giả phải cân nhắc từng lời thoại, tính toán từng hành động của nhân vật, không thể thả nổi cảm xúc như người viết văn.
  • 30. 23 Nói về tiểu thuyết Số đỏ, Đỗ Đức Hiểu đã có nhận định: “Số đỏ là một cuốn phim đầy cú vấp, khấp khểnh, với nhịp độ khẩn cấp của một bút pháp phóng sự loang loáng, sắc nhọn mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời mang tính vĩnh trị...” [ 22, tr. 191]. Những khía cạnh mà tiểu thuyết Số đỏ đề cập như chuyện cái anh Xuân chỉ đủ tài nhặt bóng trong “sân quần” nhưng được đẩy lên vị trí cao nhất, được tán tụng, tung hô đến không ngờ nay lại hiện diện trên sàn diễn thông qua cái nhìn của sân khấu làm cho khán giả vô cùng thích thú, tán thưởng. Cuộc đời của Xuân trong tác phẩm văn học được miêu tả, tường thuật khá chi tiết, tỉ mỉ, xoay quanh hơn 60 nhân vật...được thể hiện với dung lượng khoảng hơn 200 trang giấy, gồm rất nhiều chương, nhiều tình tiết hài hước, trào lộng. Khi lên sàn diễn, do đặc trưng riêng của loại hình nghệ thuật, lẽ dĩ nhiên, sân khấu không thể nào đảm đương hết được. Vì thế, khi đưa lên kịch, vở diễn chỉ gói gọn trong khoảng hơn 120 phút. Các tình huống, hành động trong vở diễn chủ yếu minh họa cho hai nhân vật chính, vốn được xem là những nhân vật “linh hồn” của vở diễn - Xuân và bà Phó Đoan. Các nhân vật khác cũng được đề cập, khắc họa, song cũng chỉ là những nét điểm xuyết. Còn phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây trong nguyên tác vốn khắc họa một “kỹ nghệ” của các me mang tên “kỹ nghệ lấy Tây”, nhưng khi chuyển sang tác phẩm sân khấu bên cạnh việc tái hiện “nghề” lấy Tây, vở diễn chủ yếu tập trung thể hiện bi kịch của một đứa con Tây – nhân vật Suzanne. Vở diễn chuyển tải thông điệp mang đầy tính nhân văn : xã hội cần có cái nhìn nhân ái hơn với hạng người “bán trôn nuôi miệng”, ẩn bên trong những con người tưởng chừng như nhơ nhớp, đáng khinh lại là những số phận vô cùng đáng thương. Ở họ - những phụ nữ làm nghề me Tây, vẫn là những khát khao vô cùng chân chính . Về điểm này, có lẽ tác phẩm sân khấu đã làm “tròn vai” hơn so với phóng sự của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
  • 31. 24 Hay như vở Nửa đời ngơ ngác (SK Hoàng Thái Thanh) chuyển thể từ truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh câu chuyện về đi tìm tình yêu của những người trẻ tuổi Lê – Tư Nhớ - Út Lý – Hết – Hoài. Câu chuyện đi tìm tình yêu vẫn lẩn quẩn trong họ, để rồi đi nửa cuộc đời họ mới nhận ra...Toàn bộ câu chuyện được thể hiện logic, dẫn dắt người xem đi từ cảm xúc này đến cảm xúc khác. Đọc tác phẩm văn học, người ta chỉ cảm nhận được một phần nỗi đau của Tư Nhớ, sự vô vọng của Út Lý...thì trong kịch, cái giằng xé, đau đớn lẫn những mối hận của các nhân vật được thể hiện rất rõ. Khán giả có cảm giác như đang chứng kiến một câu chuyện thật đang diễn ra. + Song song đó, tính thời đại của tác phẩm cũng là điều vô cùng quan trọng. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng thành công của những nhà văn nổi tiếng: “là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi âu lo bực bội, tủi hổ và những ước mơ tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại” [70, tr. 84]. Chính họ đã sáng tạo nên những tác phẩm có ý nghĩa, làm phong phú cho đời sống tinh thần của con người. Có những vấn đề rất nhân văn như ước nguyện bước tiếp của phụ nữ góa chồng (nhân vật bà Phó Đoan trong tiểu thuyết Số đỏ, bà Ách trong Kỹ nghệ lấy Tây...), trong thời kỳ trước, xã hội lên án họ với những định kiến rất nghiệt ngã. Nhưng khi lên sân khấu, nhà biên kịch lại có cái nhìn rộng lượng, bao dung hơn. Họ hy vọng khán giả ngày nay không chỉ hiểu mà phải thực sự cảm được điều này. Kịch Hãy khóc đi em dựa trên nền truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai bàng bạc, buồn như sương khói. Sân khấu đã vẽ nên khung cảnh dị biệt của một gia đình sống tại Huế, với cảnh đời éo le, được khắc họa rõ nét. Cái dấm dứt của nỗi đau thân phận con người, thân phận
  • 32. 25 người đàn bà, có chút gì đó cứ chìm trôi, xoáy vào da thịt với nỗi niềm và nỗi buồn thấm thía. + Chúng ta cũng nhận thấy rằng các tác phẩm văn học được chuyển thể thành tác phẩm sân khấu đều là những tác phẩm có cấu trúc dưới dạng thức của một vở kịch. Rõ ràng ở một mặt nào đó, tính kịch này góp phần chi phối và quyết định mức độ thành công của tác phẩm. Nhiều tác phẩm văn học được đưa lên sân khấu chính kịch và trở nên ăn khách tại thị trường TP. HCM, đó là, ngoài nội dung sâu sắc, nhân văn... thì chính yếu là phải có kịch tính và nội dung gây xúc động. Một cốt truyện hay đến đâu, đặc sắc và ẩn ý đến đâu nhưng khó lòng phù hợp để chuyển thành kịch nếu không có yếu tố tạo hiệu ứng về cảm xúc, và thực tế cho thấy các tác phẩm kịch đã nói ở trên đều làm rất tốt ở khâu này. Hình thức hài kịch khái quát của tiểu thuyết Số đỏ gợi nhớ cái khôi hài pha trò trên màn bạc. Kết cấu của Số đỏ gần giống với các vở hài kịch châm biếm của Molière. Điển hình như trong đoạn bác sĩ Trực Ngôn lên diễn thuyết, Vũ Trọng Phụng đã viết: “...Không! Không! Vì điều ấy thuộc quyền tạo vật, chứ không còn thuộc cái ý chí của bọn phạm trần chúng ta! (vỗ tay)” [44, tr. 224], hay như đoạn: “Bàn về sự khủng hoảng tình dục của đám phụ nữ nạ dòng (bà Phó Đoan hắt hơi) bác sĩ Vachet đã có những kinh nghiệm rất đúng thật” [44, tr.224]. Khi viết tác phẩm, với việc thêm vào những phần chữ in nghiêng trong ngoặc đơn, Vũ Trọng Phụng đã làm cho tác phẩm của mình trở thành một quyển “tiểu thuyết kịch”. Tác phẩm có dạng thức rất gần với hình thức của sân khấu, vốn dĩ luôn có những lời chỉ dẫn hành động, diễn xuất cho người diễn viên. Tính kịch trong Số đỏ khởi nguồn từ những tình huống vô nghĩa lý. Chuỗi cười dài Số đỏ cũng là chuỗi những tình huống ngược đời kế tiếp nhau. Do nạn khủng hoáng kinh tế, chính phủ buộc sở cảnh sát phạt dân thành phố
  • 33. 26 bốn vạn đồng, Sở cảnh sát trung ương chia cho ty cảnh sát chi nhánh phạt năm ngàn đồng, thế là màn bi hài kịch diễn ra với hai cái ngược đời. Một là cảnh sát bảo vệ pháp luật mà lại đau khổ vì dân ta văn minh mất rồi, không ai chịu đánh chửi nhau, không ai chịu phóng uế, đái bậy ra đường, tức là không ai chịu phạm luật. Thế là họ phải nghĩ ra một diệu kế: Cảnh sát phải nhè chính mình ra mà phạt lẫn nhau để đủ tiền giao nộp cho đúng chỉ tiêu trên giao. Hay một cảnh ngược đời nữa diễn ra ở chương 5 cũng không kém phần hay. Ông Typn – nhà cải cách y phục đã sáng chế ra đủ mốt lẳng lơ (Ngây thơ, Lưỡng lự, Hãy chờ một chút, Dậy thì, Lời hứa…) để cổ động phong trào ăn mặc theo lối Âu hoá. Thế nhưng khi bắt gặp vợ mình ăn mặc theo lối ấy thì nổi cơn lôi đình, mắng vợ là “đồ đĩ”, “đồ khốn nạn”. Đám ma là chuyện buồn rầu, chuyện tang tóc nhưng đám ma cụ Tổ thì rất ngược đời và bỗng trở thành ngày hội, đám rước linh đình: “Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thoả thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó…” [44, tr.176] thật đúng là “hạnh phúc của một tang gia”…Lại một tình huống nữa khi Xuân Tóc Đỏ thua quần vợt. Dù thua nhưng hắn diễn thuyết rất hùng hồn trước quần chúng, gọi quần chúng là “mi”, là kẻ “nông nổi”… thế mà thiên hạ vẫn sốt sắng tung hô: “Xuân Tóc Đỏ vạn tuế! Sự đại bại vạn tuế” [44, tr. 234]…Xây dựng kiểu tình huống ngược đời như vậy một mặt Vũ Trọng Phụng muốn bóc trần cái xã hội đang suy đồi về đạo lý, nhân phẩm, một mặt muốn phanh phui cuộc đời như một trò hề trong đó con người cũng như những con rối, sắm một vai hề lố lăng múa may, cười khóc rất vô nghĩa lý. Không chỉ có thế, khi nhìn từ phương diện bố cục, ta dễ nhận thấy rằng tiểu thuyết Số đỏ có sự sắp xếp kiểu kịch trong kịch. Mỗi chương, mỗi đoạn là một vở kịch nhỏ, các mối mâu thuẫn thống nhất, tiếp nối nhau theo hình xoáy trôn ốc, dồn nén, vận động tới đỉnh điểm. Trong tác phẩm, ở
  • 34. 27 chương I khi nhân vật chính là Xuân Tóc Đỏ trình làng, bằng hành động lưu manh trêu chọc cô nàng hàng mía, tính hài của tác phẩm đã bắt đầu bộc lộ. Lần trải theo các chương tiếp theo, Số đỏ lần lượt đưa ra hàng loạt các sự kiện và vụ việc có hàm chứa đầy ắp tính bi – hài: những hành vi nhố nhăng, quái gở, ma cô của Xuân Tóc Đỏ; xoay quanh nhân vật này là sự quay cuồng, ngụp lặn của cả một nhân loại hỗn tạp. Cái bi, cái hài cứ tiếp tục dồn nén tới đỉnh cao. Đó là con đường phủ đầy hoa và vòng nguyệt quế để bước lên thang danh vọng, trở thành “vĩ nhân”, “anh hùng cứu quốc” của Xuân. Khi cái nút mâu thuẫn được giải tỏa cũng là lúc vở kịch tiểu thuyết được kết thúc. Ở Kỹ nghệ lấy Tây, tính kịch lại xuất phát từ một tình huống éo le, trắc trở mang tính hài hước. Đó là tình huống khó xử của anh phóng viên: suýt bị một gã lê dương hành hung, vì cho rằng anh ta đến làng me để “ăn trộm ái tình”, làm cho ngay từ đầu tác phẩm đã rất hài hước. Và chính nhờ tình huống hài hước đó đã tạo nên “một cái cớ” khá hợp lý để anh chàng nhật trình xâm nhập, tìm hiểu thế giới của me Tây, của cái “kỹ nghệ” được gọi bằng cái tên...lấy Tây! Ở làng Thị Cầu, mỗi me Tây mỗi một số phận, bên cạnh vẻ lọc lừa, sõi đời của “đám đàn bà ma bùn” vẫn là những khát khao, ước mơ vô cùng chính đáng của họ – khát vọng muốn được yêu thương, được lấy một người chồng An Nam! Bằng ngòi bút của mình, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và thể hiện một cách sâu sắc những mâu thuẫn và xung đột có tính quy luật, tác động đến toàn bộ xu hướng phát triển của cuộc sống ấy. Những xung đột và mâu thuẫn được dồn nén và tích tụ lại thành những tấn đại bi kịch, đại hài kịch. Ông nhìn thấy các yếu tố bi – hài cả hai mặt thống nhất, chi phối mọi hoạt động trên tầm vĩ mô (toàn xã hội) cho đến tầm vi mô (đời sống của mỗi cá nhân). Nhà văn, thông qua cảm quan nghệ thuật nhạy bén của mình đã nhìn thấu bản chất xấu xa của xã hội, với tất cả những bi kịch lớn lao đang đè nặng lên cuộc
  • 35. 28 sống. Ông nhận rõ những mâu thuẫn và xung đột cơ bản đang bành trướng trên phạm vi quốc gia, toàn dân tộc...Chính con mắt nhanh nhạy và sắc bén đã giúp nhà văn có cái nhìn bao quát và chân xác, phát hiện ra những mâu thuẫn điển hình, đang tích tụ và dồn nén ở những đỉnh cao của xung đột. Đó chính là nguồn cảm hứng dẫn đến những tác phẩm đầy kịch tích. Vở Dòng nhớ chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư là câu chuyện của sông nước miền Tây Nam Bộ, có ngọt ngào, có cả nỗi buồn thăm thẳm...Những dòng sông đã trôi mênh mang suốt những đời người, vừa chở che, vừa làm nguồn sống, cũng vừa bạo liệt, tàn phá.Trên dòng sông và dòng đời ấy, bao nhiêu phận người cam chịu, vừa cao thượng, vừa cay nghiệt. Đôi khi họ vùng vẫy như dòng sông những mùa bão lũ, nhưng rồi đâu lại vào đấy, lại chảy quanh, nhẫn nhịn. + Ngoài ra, khi chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản sân khấu, một điểm rất dễ nhận thấy là sự kết hợp của hai yếu tố xung đột và trữ tình trong một tác phẩm nào đó được lựa chọn. Khi lựa chọn chuyển thể một tác phẩm nào đó, các nhà biên kịch đều chú ý đến yếu tố xung đột và trữ tình là vì sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp nên bên cạnh yếu tố kịch tính còn có những giai điệu của âm nhạc, lời thoại. Đây là hai yếu tố góp phần tạo nên thành công cho một vở kịch. Một vở kịch khi diễn trên sân khấu bao giờ xen kẽ giữa các màn kịch cao trào cũng là những bản nhạc, đoạn nhạc, âm thanh... Sự xuất hiện của âm thanh đã tạo nên hiệu ứng rất lớn cho vở diễn. Bởi lẽ, tác phẩm sân khấu vốn dĩ là loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp. Tác phẩm sân khấu chính là kết quả của sự cộng hưởng từ rất nhiều yếu tố: kịch bản, diễn viên cho đến âm thanh, ánh sáng, hiệu ứng của sân khấu... Trong vở kịch Số đỏ, sân khấu được trang trí theo hai màu đỏ - đen, tượng trưng cho những tình huống nghịch lý trong cuộc đời. Từ đó, tạo ra tiếng cười trên sân khấu. Các nhân vật trong vở diễn cũng ăn vận những trang
  • 36. 29 phục mang phong cách Âu hóa ; quần áo trong tiệm may Văn Minh cũng được đặt tên là bộ Hãy chờ, bộ Chiến công, bộ Tàn phá...Tất cả đã góp phần tạo nên ngụ ý, truyền tải thông điệp của vở diễn. Với Kỹ nghệ lấy Tây, tính xung đột – trữ tình của vở diễn là ngôn ngữ đối thoại xen kẽ với những bài ca trù , bản tình ca La vie en rose. Là một xã hội đậm chất Bắc thời Pháp thuộc vừa cổ điển vừa lai căng trong thiết kế sân khấu, phục trang đến điệu bộ, cách thoại của diễn viên. Những điều đó đều nhằm khắc họa những lố bịch trong xã hội Tây Ta nửa mùa, gợi lên nỗi chua chát của những phận người bị xoay vần trong đó. Tương tự như vậy, trong vở Hãy khóc đi em, lời ca của Trịnh Công Sơn được chọn làm ca khúc chủ đề, Hướng đã khuyên Hạnh: “Hãy khóc đi em, cuối cuộc tình, còn đâu những mặn nồng”. Và Hạnh khóc, khóc nức nở, nên người xem có thể nhận ra cô sẽ có được bình yên. Còn câu chuyện Cô gái ăn cắp trên sân khấu lại là không khí của một vùng đất Bắc thời Pháp thuộc được tái hiện bằng cây cầu sắt, bến tàu, xe kéo, đám phu khuân vác, những gã quan Tây và lính Việt “nói như chim hót”, ả đào hát mặc áo dài nhung trong nhà thổ...Giữa không gian ấy, số phận của những con người như Tám Bính, Năm Sài Gòn, Tư Lập Lơ... cứ thăng trầm như một trò đùa dai dẳng của xã hội thực dân nửa phong kiến. Vở Dòng nhớ khai thác triệt để các yếu tố về âm thanh, ánh sáng để tăng kịch tính cho câu chuyện. Trong vở kịch này, đạo diễn huy động tối đa tất cả các loại âm thanh: tiếng xào xạc khi múc nước từ thuyền đổ ra sông, tiếng côm cốp khi giã lá sống đời, tiếng đục đẽo khô khan… Nhưng có lẽ, ám ảnh nhất vẫn là tiếng nước réo rắt, xào xạc trong mỗi đêm khuya. Nó vô hình nhưng đầy sức gợi. Ở đây, âm thanh của tiếng nước trở thành một nhân vật phụ có sức mạnh thâu tóm tất cả các nhân vật chính, buộc họ phải đồng hành với mình trong một tâm trạng vật vã đầy khổ sở.
  • 37. 30 + Bên cạnh đó, hầu hết các tác phẩm được nhà biên kịch lựa chọn và chuyển thể đều là những tác phẩm nổi tiếng, có một vị trí nhất định trong lịch sử văn học. Việc lựa chọn những tác phẩm này sẽ thu hút rất nhiều khán giả đến rạp vì sự tò mò. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, do ít nhiều họ đã biết đến tác phẩm khi ở dạng nguyên bản nên khán giả muốn xem rằng tác phẩm văn học sẽ ra sao, như thế nào khi được trình diễn trên sân khấu. Chính vì vậy mà những Chị Dậu, Chí Phèo – Thị Nở, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Cô gái ăn cắp (Bỉ vỏ), Dòng nhớ, Cánh đồng bất tận... có dịp “sống lại” trên sàn diễn, giúp sân khấu sáng đèn hàng đêm. Khi chuyển thể một loại hình nghệ thuật khác sang kịch bản sân khấu, điều dễ nhận thấy là dù tác phẩm văn học thuộc thể loại nào: truyện thơ, truyện kể dân gian, tiểu thuyết…cũng đều có sự thay đổi, sắp xếp lại nội dung cho phù hợp với ý đồ của tác giả, của biên kịch, đạo diễn… làm cho tác phẩm được chuyển thể có tính sân khấu hơn: tức là có xung đột, có hành động, có tình huống thúc đẩy kịch bản và phải có cách giải quyết tình huống hợp lý. Không phải cứ là tác phẩm văn học nổi tiếng khi đưa lên sân khấu đều thành công. Khi tay nghề của đạo diễn “non”, diễn chưa tới…đều có tác dụng ngược lại. Đưa một tác phẩm văn học nổi tiếng lên sân khấu, mỗi đạo diễn luôn phải đảm bảo được chất văn học mà vẫn thể hiện đầy đủ các yếu tố của tác phẩm trên sân khấu. Các nhân vật đi đứng trên sân khấu không chỉ khóc, cười mà quan trọng hơn, diễn xuất của diễn viên phải thể hiện được chi tiết “đắt” nhất mà đạo diễn muốn chuyển tải. Phải đưa những gì của riêng đạo diễn ngoài chất của tác phẩm, bởi có những cái rất hay trong văn học nhưng lại không thể đưa lên sân khấu. Nhà biên kịch muốn chuyển thể thành công tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu thì bản thân họ phải đọc nhiều, cảm nhiều. Có như thế mới đảm bảo cho việc dàn dựng một vở kịch thành công trên sàn diễn. Một vở diễn nếu không có cách giải quyết tình huống hợp lý sẽ
  • 38. 31 không thể nào làm thỏa mãn, hài lòng khán giả. Tất nhiên, khi khán giả quay lưng với tác phẩm sân khấu thì có thể xem đó là thất bại của nhà biên kịch. 1.2.3. Việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sang tác phẩm sân khấu Sân khấu từ xưa đến nay là loại hình nghệ thuật quen thuộc của mọi người. Việc xem, thưởng thức các tác phẩm sân khấu nói chung, các vở kịch nói riêng đã trở thành một “món ăn tinh thần” quen thuộc trong đời sống văn hóa của người dân. Trong vài năm trở lại đây nhiều sân khấu kịch ở TP.HCM đồng loạt đưa các tác phẩm văn học lên sân khấu. Hàng loạt các vở kịch ăn khách trên các sân khấu kịch TP.HCM hiện nay như : Cánh đồng bất tận, Nửa đời ngơ ngác, Cô gái ăn cắp, Nỏ thần… hầu hết là các tác phẩm chuyển thể từ văn học. Sự nở rộ “kịch văn học” ở các sân khấu cho thấy các nhà làm sân khấu hiện nay đã nhạy bén khi tiếp cận những giá trị văn học và những hình tượng nhân vật có “tiềm năng sân khấu” trên những trang giấy. Không thể phủ nhận “kịch văn học” – những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự... đã được các tác giả, đạo diễn và diễn viên sáng tạo, chăm chút thành một tác phẩm sân khấu hoàn thiện đã thực sự làm cho đời sống sân khấu càng trở nên phong phú, đa dạng với những hiệu quả tích cực - góp phần giáo dục tình cảm, suy nghĩ hướng thiện cho công chúng, đặc biệt là công chúng trẻ. Từ đó cho công chúng có cái nhìn khác hơn về một nền văn học Việt Nam lành mạnh, đau đáu suy tư về thế thái nhân tình, đặc biệt là về tình yêu và những con người tiêu biểu của thời đại hôm qua, hôm nay. Trong số ấy, chúng ta phải kể đến trường hợp Vũ Trọng Phụng. Việc chuyển thể những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lên sân khấu là quá trình tất yếu, dài lâu. Bởi vì, văn của ông đầy tính kịch, đầy xung đột và có khả năng tạo nên sự bùng nổ của hàng chuỗi tiếng cười. Tất nhiên, việc chuyển tải các tác phẩm của Vũ
  • 39. 32 Trọng Phụng lên sân khấu là cả vấn đề đặt ra đối với những nhà đạo diễn, những người làm nghề. Mỗi một nhà đạo diễn, mỗi một người chuyển thể kịch bản phải tìm ra trong đó đâu là yếu tố mình cần khai thác, đâu là những ý tưởng của đạo diễn trên nền của tác phẩm Vũ Trọng Phụng để tạo nên sự cộng hưởng giữa tác giả văn học, tác giả kịch bản và đạo diễn trên sân khấu. Các tác phẩm của ông như : Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây… khi chuyển thể thành kịch bản, công diễn trên sân khấu đã nhận được sự đón nhận của khán giả. Có nhiều nguyên nhân đưa đến sự kết hợp này : + Đầu tiên, dễ nhận thấy rằng sự kết nối tác phẩm văn học của Vũ Trọng Phụng và sân khấu là một biện pháp “ứng phó” với tình trạng khan hiếm kịch bản hay hiện nay tại sân khấu TP.HCM. Việc chuyển thể tác phẩm văn học lên sân khấu không phải là điều mới mẻ. Vào thập niên 20 - 30 của thế kỷ trước, các soạn giả sân khấu cải lương đã chuyển thể rất nhiều tác phẩm văn học của Pháp và trở thành một xu hướng rất phổ biến trong thời kì đó. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn giữa hai xu hướng này. Trước đây, các soạn giả chủ yếu “ăn theo” văn học, vì lúc đó, tiểu thuyết Pháp rất được các cô chiêu cậu ấm ưa thích, là món ăn tinh thần không thể thiếu của họ trong buổi giao thời. Còn bây giờ, văn học không phải là loại hình thời thượng được ưa thích. Việc chuyển sang kịch văn học là dấu hiệu khủng hoảng nguồn kịch bản. Trong tình hình khan hiếm kịch bản hay thì việc “dựa” vào những tác phẩm văn học nói chung là một cách làm sân khấu khôn ngoan. Bởi các tác giả đã có sẵn cái nền nhân vật và một câu chuyện kịch với những quan hệ có thể phát triển thành vở kịch diễn trên sân khấu. Nhiều ý kiến cho rằng, chính việc thiếu và yếu những kịch bản hay nên các sân khấu chọn giải pháp chuyển thể tác phẩm văn học. Tuy vậy, điều cốt lõi là làm sao để có ngày càng nhiều các tác phẩm văn học hay, thể hiện các vấn đề gai góc của xã hội lên sàn diễn.
  • 40. 33 Đây vừa là tín hiệu vui, đồng thời cũng là một thử thách với chính những nhà làm sân khấu trong thời buổi khó khăn về kịch bản hay như hiện nay. + Không chỉ vậy, một số đạo diễn cho biết, bản thân họ vốn thích tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, chính những thông điệp nhân văn mỗi tác phẩm chuyển tải đã làm họ“mê” nên đưa sang kịch. Nhiều đạo diễn sân khấu cho rằng, đưa tác phẩm văn học lên sân khấu là một lợi thế khi tác phẩm đã được thẩm định bởi thời gian và độc giả. Nhưng cũng lại là sự trải nghiệm mạo hiểm nếu đạo diễn non nghề không chuyển tải được cái “thần” của tác phẩm, đặc biệt không làm nổi bật được nhân vật điển hình trong truyện. Nhà biên kịch Lê Chí Trung – người chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng cho biết : “Trong số mấy chục tác phẩm của tôi, tôi chỉ chọn chuyển thể ba tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng: Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Giông tố. Trước hết, tôi yêu cách nhìn đời và con người - nhân vật trong các tác phẩm của ông. Thứ hai, trong thế hệ các nhà văn thời lãng mạn, hiện thực phê phán... theo cảm nhận của riêng tôi, Vũ Trọng Phụng là người gần chúng ta nhất” 1 . Trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng vẫn còn gần gũi với thời đại chúng ta. Xã hội xoay vần như... “mốt”, cứ sau một thời gian lại trở về với cái cũ. Không ít những con người Số đỏ vẫn hiện diện trong cuộc sống hiện nay. Không ít kẻ đang chạy theo những trào lưu nhố nhăng. Đề tài như cái mắc áo, trên đó, ta có thể treo chiếc áo cổ lỗ, chiếc áo hiện đại... Thử thách đối với người làm vở là làm sao để người xem tìm thấy những vấn đề hiện tại trong một cốt truyện quá khứ. Loại người như Xuân Tóc Đỏ, ông bà Văn Minh, cô Duyên, cô Ái, tú bà Ách Nhoáng... chẳng phải còn đầy rẫy trong xã hội chúng ta ngày nay? Vẫn còn đó cái thói rởm đời, “trưởng giả học làm sang”, cái nhố 1 Theo báo NLĐ, ngày 06/04/2010
  • 41. 34 nhăng của kẻ “thừa tiền lắm bạc”, cái lưu manh đóng vai trí thức của những Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, Nghị Hách... Nhìn lại những “siêu” nhân vật trong tác phẩm của ông, từ những năm 30 của thế kỉ trước, những nhân vật trong xã hội thời đó, từ thượng lưu trí thức Tây học đến hạ lưu dưới đáy xã hội, thấy hình như vẫn đang tồn tại một cách sống động trong thời đại hiện nay. Họ là những chân dung biếm họa đã trở thành “thành ngữ” khái quát cho những tính cách đại diện cho một lớp người trong xã hội hiện tại. Lớp người hàm chứa tất cả sự lố lăng, kệch cỡm và hài hước của một xã hội đầy nhiễu nhương. Nơi mọi thứ chuẩn mực của đạo đức truyền thống, quan hệ tôn ti trật tự bị đảo lộn bởi trào lưu Tây hóa, bởi sức mạnh đồng tiền và sự tha hóa nhân cách. Khi xây dựng những nhân vật điển hình này, do còn kiếm sống bằng nghề viết báo nên nhân vật của nhà văn họ Vũ rất đời, rất thật chứ không hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng. Vì thế, các nhà làm kịch càng muốn đưa những nhân vật đó lên sân khấu. Đến với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, bao giờ độc giả, khán giả cũng tìm thấy ở đấy sự đan xen giữa hai yếu tố bi – hài lẫn lộn. Tác phẩm của nhà văn họ Vũ đem đến nhiều điều đáng suy nghĩ. Cười đấy mà nước mắt trào, thương cho thân phận con người dù ở nấc thang nào của xã hội. Cuộc đời như một sân khấu lớn, ở đó mỗi người sắm một vai và trong mắt của người đời ai cũng có cái đáng để cười, nhưng quan trọng là tùy vào thái độ quan sát của mỗi người mà thôi. Điều ấy cũng góp phần lý giải tại sao các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lại được nhà biên kịch ưa thích, chọn lựa để chuyển thể sang kịch nói. Tuy vậy, mỗi tác phẩm văn học khi đưa lên sân khấu đòi hỏi phải dựng cho được bối cảnh diễn ra câu chuyện của thời đó. Nếu chỉ tượng trưng, ước lệ thì xem ra vở kịch đã không chuyển tải hết cái “thần” của tác phẩm văn
  • 42. 35 học. Để vượt ra ngoài cái “thần” vốn có của văn học thì người đạo diễn phải biết tìm tòi sáng tạo những cái mới mà không làm mất đi cái vẻ đẹp ban đầu của tác phẩm. Cái khó mà các đạo diễn sân khấu thường gặp phải, đó là làm thế nào để một tác phẩm văn học với dung lượng khoảng mấy trăm trang giấy chỉ gói gọn chừng hai tiếng đồng hồ trên sân khấu. Chính vì vậy, cho dù kịch chuyển thể có ưu thế nội dung hấp dẫn thì vẫn rất cần bản lĩnh của đạo diễn. Đạo diễn Ái Như chia sẻ: “Một tác phẩm văn học khi đã chuyển thể sang kịch thì nó đã là sản phẩm của sân khấu. Đạo diễn phải biết chọn lọc những tình tiết đắc địa và phải sáng tạo để nó thực sự mang ngôn ngữ kịch chứ không phải minh họa cho tác phẩm văn học bằng hình thức sân khấu. Đó là lý do vì sao có vở chuyển thể thành công và có vở thì thất bại” 1 + Cũng cần nói thêm rằng, trong tác phẩm của mình thì các nhân vật của Vũ Trọng Phụng thường có tính cách, sự gai góc rõ rệt. Vì vậy, khi chuyển thể từ tác phẩm văn học thành kịch bản sân khấu, các nhân vật của Vũ Trọng Phụng sẽ giúp diễn viên có nhiều đất diễn hơn so với tác phẩm của các nhà văn khác. Vở Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây nhờ thế đều có hiệu quả khán giả tốt. Chúng tạo nên những vai diễn gây được ấn tượng sâu sắc với khán giả như: Xuân Tóc Đỏ (Đức Hải), bà Phó Đoan (Hồng Vân), vợ chồng Văn Minh (Cát Phượng – Minh Hoàng), cậu Phước “em chã” (Minh Béo), Duyên (Thúy Nga), Suzanne (Lan Phương), Kiểm Lâm (Trịnh Kim Chi)... + Bên cạnh đó, việc chuyển thể các tác phẩm văn học nói chung, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói riêng đã mở ra một hướng đi mới cho việc dạy – học Ngữ văn. Nhiều năm qua, đội ngũ thầy cô giáo dạy văn đã sử dụng hình thức biểu diễn với mong muốn truyền đến học sinh sự cảm thụ tác phẩm thông qua những hoạt cảnh. Hình thức này ít nhiều có hiệu quả và làm cho 1 Theo báo Đất Việt, ngày 15/06/2012
  • 43. 36 người thầy hài lòng. Tuy nhiên, để thực hiện được, người thầy phải tốn rất nhiều công sức và tiền bạc cho kịch bản và trang phục. Hầu hết thầy cô giáo dạy văn đều mong muốn được thường xuyên dạy văn qua sân khấu hóa nhằm hạn chế việc học sinh ít mặn mà với bộ môn văn; do đặc thù của bộ môn này nặng về tư duy và cảm thụ. Từ lâu nay, giáo viên rất khó để truyền đạt cho các em học sinh hết cái hay cái đẹp ẩn chứa trong từng tác phẩm văn chương, nếu các em không trực tiếp đọc, cảm nhận và đối chiếu với thực tế cuộc sống. Khán giả trẻ bây giờ lười đọc sách. Họ có quá nhiều thú vui như chat, như lướt web, xem truyền hình công nghệ cao, đến rạp xem phim 3D… Nhiều khán giả trẻ chẳng còn nhớ đến những tác phẩm văn học nổi tiếng - vốn là niềm tự hào của văn học Việt Nam. Văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm có giá trị nhưng giữa sự bùng nổ của vô số các hình thức giải trí như hiện nay thì những tác phẩm dày đặc chữ, kéo dài mấy mươi chương không còn là sự lựa chọn của lớp trẻ. Điều đó tạo ra trở ngại vô cùng lớn, góp phần hình thành nên thực trạng “sợ” đọc văn, “sợ” học văn ở học sinh hiện nay. Bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học hoàn toàn xa lạ với các em. Chính điều đó đã làm mất đi giá trị sâu sắc của tác phẩm văn học mà chỉ được đặt trong bối cảnh lịch sử nó ra đời mới thấy trọn vẹn. Và trong một tiết học, nếu học sinh cứ nghe mãi những lời giảng như mọi lần và không có gì mới dễ dẫn đến sự nhàm chán. Nhằm khắc phục và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn văn học, các tác phẩm sân khấu được chuyển thể từ tác phẩm văn học đã được ra đời. Mục đích của việc này là nhằm giúp học sinh đến gần hơn với bộ môn văn. Đây là một trong những lối dẫn học sinh đến với văn học bằng sự yêu thích. Sân khấu hóa sẽ giúp học sinh hình tượng cụ thể hơn tác phẩm đã học. Thông qua hình thức sân khấu hóa, những cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sẽ được lưu truyền, để từ đó đưa văn học đến gần với công chúng hơn. Đã có
  • 44. 37 một sự thay đổi lớn trong cảm nhận của độc giả khi đi từ ngôn ngữ văn chương sang ngôn ngữ sân khấu trong việc tiếp cận một tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại. Những nhà làm sân khấu với việc lần lượt đưa lên sàn diễn những tác phẩm văn học nổi tiếng, hy vọng, khi tác phẩm sân khấu thành công, nhiều khán giả sẽ nhớ mãi, hoặc sẽ tìm đọc lại những tác phẩm văn học nổi tiếng này . Quả thực, đó là một lối đi hoàn toàn mới, một luồng gió mới đã làm thay đổi tư duy văn học của một bộ phận không nhỏ thế hệ bạn trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Tất nhiên, việc chuyển thể kịch bản vẫn phải toát được cái “hồn” trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.  Tiểu kết: Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, văn học là loại hình nghệ thuật ra đời sớm và là nghệ thuật làm cơ sở, nền tảng cho các ngành nghệ thuật khác kế thừa, trong đó có sân khấu. Nghệ thuật văn học và sân khấu có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Cả văn học và sân khấu cùng là nghệ thuật nên có cùng ý thức thẩm mĩ nghệ thuật, cùng có đặc tính, chức năng chung và đều chịu sự tác động, chi phối của đời sống xã hội. Chúng cùng phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua hình tượng nghệ thuật, cùng hướng đến những giá trị nhân văn, mang tính Chân – Thiện – Mĩ của cuộc sống. Mặc dù vậy, vì là hai loại hình nghệ thuật độc lập nên văn học và sân khấu cũng có những khác biệt cơ bản. Nếu văn học xây dựng hình tượng nghệ thuật thông qua chất liệu phi vật thể - ngôn từ, thì ngôn ngữ của sân khấu lại là ngôn ngữ mang tính vật thể. Đó là những gì mà ta có thể xem thấy, nghe được. Câu chuyện trong tác phẩm văn học hiện hữu trên sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ, diễn xuất... của diễn viên. Mặt khác, tác phẩm văn học vốn dĩ là kết quả của quá trình lao động , sáng tạo của cá nhân nhà văn. Còn vở diễn trên sân khấu lại là quá trình lao động miệt mài của cả một tập thể tác
  • 45. 38 giả (nhà văn, nhà biên kịch), thông qua sự chỉ huy của đạo diễn, diễn xuất của diễn viên, đội ngũ ê – kíp, cộng sự...để biến những câu chữ trong kịch bản văn học thành một câu chuyện trên sân khấu! Một câu chuyện không còn đơn thuần là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một câu chuyện có “người thật việc thật” hẳn hoi, hiện hữu ngay trước mắt khán giả. Đặc biệt, điều này lại càng đúng với những vở diễn được chuyển thể từ tác phẩm văn học nói chung và với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói riêng, mà điển hình là hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, cần nhận thấy rằng, văn học và sân khấu với những tương đồng và khác biệt đã làm thành điểm tựa vững chắc cho nhau. Chính văn học là “nguồn nguyên liệu” quý giá cho sân khấu, đặc biệt là trong tình hình khó khăn kịch bản như hiện nay. Song song đó, việc chuyển thể các tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu đã đem lại một “luồng gió mới”, tạo thành một “dòng chảy văn học” trên sân khấu, đem lại một góc nhìn mới cho tác phẩm văn học - góc nhìn trong mối quan hệ liên ngành với sân khấu.