SlideShare a Scribd company logo
1 of 119
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THỦY
NGHEÄ THUAÄT CHAÂM BIEÁM
TRONG TIEÅU THUYEÁT MOÄT TÆ SAÙU
CUÛA TRÖÔNG HIEÀN LÖÔÏNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thừa Thiên Huế, Năm 2016
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THỦY
NGHEÄ THUAÄT CHAÂM BIEÁM
TRONG TIEÅU THUYEÁT MOÄT TÆ SAÙU
CUÛA TRÖÔNG HIEÀN LÖÔÏNG
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. TRẦN THÁI HỌC
Thừa Thiên Huế, Năm 2016
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thủy
iii
Luận văn này là kết quả của một quá
trình học tập và nghiên cứu của tôi được
hoàn thành nhờ nỗ lực của bản thân và sự
giúp đỡ, động viên của quý thầy cô, gia
đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
thầy giáo PGS.TS Trần Thái Học, người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn phòng Đào tạo Sau đại học,
quý thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn và thư
viện trường ĐHSP Huế đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô
giáo trường THPT Trần Văn Kỷ đã tạo điều
kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn chân thành tới gia đình, người thân
và bạn bè đã luôn ở bên động viên, khích lệ
và tạo điều kiện thuận lợi để tôi an tâm
học tập, nghiên cứu và hoàn thành tốt luận
iv
văn này.
Huế, tháng 09 năm 2016
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thủy
iii
iii
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ...............................................................................................................i
Lời cam đoan.............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
Mục lục........................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................9
5. Đóng góp của luận văn .....................................................................................10
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................10
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................11
Chƣơng 1. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI ....................................................................11
1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học............................................................11
1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống..................................................11
1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại .............................................13
1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng .....15
1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc ..................................................................16
1.2.2. Châm biếm nhân vật lịch sử ...................................................................23
1.2.3. Châm biếm xã hội kim tiền, hãnh tiến ...................................................27
1.2.4. Châm biếm khoa học “giả cầy”..............................................................33
Chƣơng 2. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ..........................38
2.1. Cốt truyện Carnaval hoá trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...38
2.1.1. Tuyến cốt truyện Doanh nhân thành đạt ...............................................39
2
2.1.2. Tuyến cốt truyện Gái điếm thành đạt.....................................................42
2.2. Nhân vật.........................................................................................................44
2.2.1. Nhân vật carnaval hoá ............................................................................45
2.2.2. Nhân vật hãnh tiến..................................................................................53
2.2.3. Nhân vật đĩ thoã .....................................................................................56
2.2.4. Nhân vật “siêu thực” mang suy ngẫm của tác giả..................................59
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ THỦ PHÁP ............................66
3.1. Giọng điệu châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...66
3.2.1. Giọng điệu hài hước ...............................................................................66
3.2.2. Giọng điệu dung tục ...............................................................................74
3.2. Thủ pháp châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng78
3.2.1. Giễu nhại ................................................................................................79
3.2.2. Phóng đại................................................................................................85
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................95
PHỤ LỤC
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Trung Quốc sau Đại Cách mạng văn hóa đã có một sự phát triển
mạnh mẽ với diện mạo vô cùng phong phú và phức tạp. Những phần tử bị kết án
oan, bị quy chụp là “phái hữu” trong cuộc Cách mạng văn hóa đã được minh oan
và được nhìn nhận lại. Trải qua mấy chục năm tìm tòi và thử nghiệm trong sự va
đập giữa hiện đại và truyền thống, giữa Trung Quốc và thế giới thì văn học Trung
Quốc thời kì cải cách mở cửa đã có được tiếng nói riêng, đánh dấu sự phá vỡ trật
tự trong thủ pháp biểu hiện đơn nhất tạo nên một bức tranh văn học đương đại
phong phú, đa dạng, đủ màu sắc. Văn học đương đại Trung Quốc xuất hiện nhiều
trào lưu tiểu thuyết mới: dòng “văn học tiên phong”, dòng “văn học tả thực”, dòng
“siêu thực”, dòng “hiện đại chủ nghĩa”… nhưng đáng chú ý là dòng “văn học vết
thương” và “văn học phản tư” góp phần mở ra một thời kì nở rộ cho văn đàn
đương đại Trung Quốc.
Thế hệ nhà văn xuất hiện sau cuộc Đại cách mạng văn hóa làm nên diện mạo
nền văn học Trung Quốc. Hơn ai hết, thế hệ nhà văn này là những nạn nhân, chịu
nhiều đau khổ, bị bức hại tàn khốc trong những năm tháng rối ren, loạn lạc nhưng
họ là những người mẫn thế, dám nghĩ, dám làm. Họ không phủ định hiện thực bằng
những lí thuyết dối trá “tô hồng” hay chủ trương “hai kết hợp”, tức là kết hợp “Chủ
nghĩa hiện thực cách mạng” với “Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”. Những lớp nhà
văn này thẳng thắn nhìn thẳng vào hiện thực đau khổ, không né tránh, vạch trần tội
lỗi của bọn “bè lũ bốn tên”, vạch trần những tàn dư xấu xa trong xã hội. Thế hệ nhà
văn này rất đông đảo: Trương Hiền Lượng, Lưu Tâm Vũ, Mạc Ngôn, Lưu Hằng,
Giả Bình Ao, Phùng Kí Tài, Thẩm Dung…
Như vậy có thể thấy, cuộc Đại cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của
văn học đương đại đã tạo nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc với nhiều
phong cách mới lạ, độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu.
1.2. Trương Hiền Lượng là một tên tuổi được chú ý trên văn đàn Trung Quốc từ lâu.
Năm 2004, ông thuộc vào danh sách một trong mười người Trung Quốc được tôn
vinh là nhân vật văn hoá kiệt xuất. Cả cuộc đời ông là một pho sử liệu gắn liền với
những biến động của lịch sử Trung Quốc hiện đại.
4
Trương Hiền Lượng quê gốc ở tỉnh Giang Tô, sinh năm 1936 tại thành phố
Nam Kinh. Năm 1954, Trương Hiền Lượng chưa đầy 18 tuổi đã phải chia tay tuổi
học trò. Sau khi người cha qua đời, Trương Hiền Lượng tuy còn ít tuổi đã phải gánh
vác trọng trách gia đình. Sau đó, ông dẫn mẹ và em gái rời khỏi Nam Kinh, đến
chân núi Hạ Lan, Ninh Hạ. Mảnh đất này đã thu hút chàng trai trẻ Trương Hiền
Lượng, và viết văn đã trở thành phương thức tốt nhất để bày tỏ những ý nghĩ trong
nội tâm của ông. Năm 1957, Trương Hiền Lượng sáng tác bài thơ “Đại phong ca”
thể hiện lòng hăng hái tuổi thanh xuân, đăng trên nguyệt san văn học Diên Hà đã có
sức ảnh hưởng lớn và gây phản ứng mạnh mẽ. Nhưng cũng chính vì bài thơ này mà
Trương Hiền Lượng đã bị phê phán kịch liệt. Ông bị liệt vào danh sách phần tử phái
hữu phản động, bị đày đi lao động khổ sai suốt hai mươi hai năm trên một vùng đất
xa xôi, hoang vắng. Đó là Trấn Bắc Bảo thuộc địa phận tỉnh Ninh Hạ, nằm ở hướng
Tây – Bắc Trung Quốc. Chính ở đây, sự hoang vắng vô tận, sự cô đơn đến tái tê linh
hồn cũng như sự buồn thảm của lịch sử Trung Quốc đã đánh thức một tài năng văn
chương kiệt xuất. Ông đã đổ ra đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt
của mình để viết Một nửa đàn ông là đàn bà và Cây Lục hóa ngay trên vùng đất
màu vàng này giữa tiếng gió rầm rú đêm ngày.
Năm 1980, sau khi được phục hồi danh dự, Trương Hiền Lượng đã chối từ
mọi cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ở thành phố, mọi lời mời mọc đầy hứa hẹn
của bè bạn xa gần, ông quyết định trở lại sống lâu dài và có thể là vĩnh viễn ngay
trên mảnh đất mà ông đã lao động khổ sai hai mươi hai năm trước. Và ông đã trở
thành một nhà tư bản giàu có. Cái đáng quý ở Trương Hiền Lượng là dù ở hoàn
cảnh nào, văn chương vẫn là một thế giới cám dỗ cao quý và vẫn là một niềm
hoan lạc thanh khiết giữa vòng xoáy của số phận. Dù bước chân vào con đường
kinh doanh nhưng Trương Hiền Lượng không bao giờ quên thiên chức văn
chương của mình. Quá trình xây dựng thành phố điện ảnh Trấn Bắc Bảo đồng
thời cũng là quá trình thâm canh tác phẩm văn học của ông sau này. Chưa kể
nhiều tác phẩm nổi tiếng đã dịch ra gần 30 thứ tiếng khác nhau trước đây,
Trương Hiền Lượng liên tục cho ra mắt nhiều bộ tiểu thuyết lớn như: Cây Bồ đề,
Thời thanh xuân, Phiền muộn, Đó là trí tuệ...
Bằng những đóng góp nghệ thuật qua nửa thế kỉ, Trương Hiền Lượng đã
được xếp vào vị trí của những nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học Trung
Quốc. Sự mẫn cảm với những gì đang diễn ra hằng ngày, những vấn đề nóng
5
bỏng không riêng của Trung Quốc mà còn của cả nhân loại, đã khiến những
trang viết sắc sảo, đầy “chất tiểu thuyết” của Trương Hiền Lượng không chỉ thu
hút bao thế hệ độc giả mà còn gợi không ít những hứng thú tranh luận, trở thành
nơi “giao tiếp đối thoại” với đông đảo bạn đọc.
1.3. Một tỉ sáu của Trương Hiền Lượng phản ánh xã hội đương đại Trung Quốc
thông qua cuộc đời và số phận của một số người trong lớp “nhà giàu mới nổi” và
những bi - hài kịch mà họ là diễn viên chính. Tác giả đã mở ra cho bạn đọc hiểu hơn
về xã hội Trung Quốc đương đại trong sự phát triển của khoa học kĩ thuật tiên tiến,
đồng thời khám phá những góc khuất của xã hội.
Trong tác phẩm, Trương Hiền Lượng đã khéo léo đi sâu vào từng ngõ ngách
của đời sống con người trước guồng quay của thời đại mới, len lỏi vào tận sâu tâm
hồn của con người, những góc kín tưởng chừng như không mấy ai để mắt đến,
khám phá cái gọi là bản năng của con người. Ông giúp độc giả có cái nhìn thấu đáo
hơn về xã hội Trung Quốc đương đại.
Trong xã hội của Một tỉ sáu, trước sự biến đổi muôn màu của cuộc sống, xã
hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, các nền kinh tế - khoa học kĩ thuật tiên tiến, đời
sống vật chất của con người vì thế cũng được nâng cao. Nhưng trước sự phát triển
mạnh mẽ đó thì đời sống tinh thần của con người lại xuống cấp trầm trọng. Con
người chủ yếu coi trọng địa vị, danh lợi, những toan tính trong cuộc sống đua chen
mà quên đi cách phải sống như thế nào. Đồng tiền trở thành mục tiêu phấn đấu của
con người trong xã hội đương đại.
Qua tiểu thuyết Một tỉ sáu, tác giả còn đặt ra một vấn đề lớn cho xã hội Trung
Quốc đương đại: tương lai của dân tộc Trung Quốc sẽ đi về đâu khi mà có sự chênh
lệch rất lớn về đời sống vật chất và đạo đức, nhân cách của con người? Đời sống vật
chất ngày càng phát triển, trong khi con người thì ngày càng xuống cấp về đạo đức,
về nhân cách?
Đó là vấn đề riêng của đất nước Trung Quốc nhưng đó cũng là vấn đề, là câu
hỏi day dứt mà nhân loại đặt ra: sau này tương lai của con người sẽ như thế nào? Đó
là những câu hỏi mang tầm bản thể luận.
1.4. Một tỉ sáu cũng là tác phẩm có giá trị nghệ thuật độc đáo và đặc sắc với những
tình tiết giả tưởng đầy hấp dẫn, kịch tính cùng với giọng văn hài hước, châm biếm.
Trong đó, đáng chú ý nhất ở Một tỉ sáu là nhà văn Trương Hiền Lượng đã tạo nên
một đứa con tinh thần với nét đặc sắc nhất là nghệ thuật châm biếm. Trong hành
6
trình đi sâu vào khám phá các phương diện nghệ thuật của tác phẩm để lí giải thành
công của Một tỉ sáu bằng việc vận dụng lí thuyết châm biếm thì mới thấy hết được
những đóng góp của nhà văn Trương Hiền Lượng mà nếu tiếp cận ở góc độ khác thì
không thấy được.
Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghệ thuật châm biếm trong
tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Sách, báo nghiên cứu về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm
của nhà văn
Một số bài viết ở các báo, tạp chí, sau đó được PGS.TS Hồ Sỹ Hiệp tập hợp lại
trong công trình Một số vấn đề về văn học Trung Quốc đương đại – NXB tổng hợp
Đồng Nai (2007) và Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì đổi mới– NXB
ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn một số các công trình nghiên cứu
của PGS.TS Lê Huy Tiêu: Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa,(2011),
NXB Giáo dục ; Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì đổi mới (1976 – 2000), (2006),
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp
bộ Một số thành tựu và đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết Trung Quốc sau “Cách
mạng văn hóa” của PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hải, tác giả công trình nghiên cứu
này đã khái quát được những nội dung và thành tựu của văn học Trung Quốc thời kì
sau “Cách mạng văn hóa”.
Trong luận văn Tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng từ góc nhìn phân tâm học
(2014), Đinh Thị Hoàng Yến đã phần nào làm sáng rõ hành trình sáng tạo của nhà
văn Trương Hiền Lượng trong việc phân tích, nghiên cứu con người ở tầng sâu bí
ẩn của nó. Những giằng xé giữa ý thức và vô thức để khẳng định ý thức vươn lên
của con người, để thấy “Cách mạng văn hóa” tàn khốc kia có thể hủy diệt tất cả
song nó lại không thể tận diệt được khát vọng lí tưởng của con người.
Luận văn Thạc sĩ “Tính triết lí và trữ tình trong tiểu thuyết của Trương Hiền
Lượng” (Đại học KHXH và NV Hà Nội năm 2013), Hoàng Thị Lan làm rõ triết lí
về cái đói và sự tồn tại, triết lí giữa tự do và kìm kẹp, triết lí giữa sự sống và cái
chết. Tuy nhiên, luận văn này người viết chỉ tập trung đi vào nghiên cứu “tính triết
lí – trữ tình” qua hai tác phẩm Cây hợp hoan và Một nửa đàn ông là đàn bà. Người
viết chưa đi vào khai thác nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết của Trương Hiền
Lượng nói chung và Một tỉ sáu nói riêng.
7
Tác giả Lê Huy Tiêu đã cho rằng tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng gợi sự
suy ngẫm giàu triết lí: “Bất luận đó là những tác phẩm viết về “vết thương” trong
“Cách mạng văn hoá” hay những tác phẩm phản ánh công cuộc cải cách, hình
tượng nhân vật trong tác phẩm của Trương Hiền Lượng đều có những suy nghĩ
mang tính triết lí sâu sắc” [ 51, 244].
Nhà xuất bản Phụ nữ đã có những lời nhận xét về tác phẩm Một tỉ sáu của
Trương Hiền Lượng như sau: Cuốn tiểu thuyết về xã hội đương đại Trung Quốc với
những tình tiết giả tưởng đầy kịch tính và giọng văn hài hước, châm biếm một lần
nữa khẳng định Trương Hiền Lượng xứng đáng là một trong số 100 nhà văn có ảnh
hưởng rộng lớn đến thế kỉ XX do tạp chí Time bầu chọn.
Ngoài ra, chúng tôi đã tiến hành thu thập những tư liệu nghiên cứu có liên
quan đến nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung và nghệ thuật châm
biếm trong sáng tác của một số nhà văn, một số tác phẩm văn học nói riêng.
Trong báo cáo nghiên cứu khoa học Nghệ thuật châm biếm của Lỗ Tấn trong
truyện ngắn thời kì đầu đăng trên Tạp chí khoa học, tập XXXVIII – số 1B-
2009- ĐH Vinh, tác giả Mai Đức Hán viết:
Nói đến nghệ thuật châm biếm tức là chúng ta nói tới cách thức lựa chọn đối
tượng, tổ chức văn bản nghệ thuật để vạch trần mâu thuẫn giữa bản chất và hiện
tượng, phơi bày những đặc tính xấu xa của đủ mọi hạng người trong xã hội, từ đó
làm bật lên tiếng cười châm biếm, đả kích [61, 1].
2.2. Tài liệu trên website viết về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm
của nhà văn
Trên online http://vietnamese.cri.cn ngày 16 tháng 12 năm 2010, giới thiệu về
cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Trương Hiền Lượng. Ông đã bày tỏ những trăn trở:
“Tôi cảm thấy rất tự hào, vì tôi cùng vận mệnh với dân tộc Trung Hoa cũng đang
gặp trắc trở, hơn nữa lúc đó ngoài tôi ra nhiều công nhân, nông dân, cán bộ và tri thức
gặp phải chuyện tan cửa, nát nhà, lạc vợ, xa con, mất tự do, thậm chí mất tính mạng,
tôi vẫn phải coi là người may mắn sống sót”. Chính vì vậy, bằng ngòi bút tài hoa của
mình, ông đã ghi lại một cách chân thật một thời kì lịch sử để lại nhiều đau thương
không chỉ trên bản thân người thi sĩ mà còn cả dân tộc Trung Hoa.
Trên website: vietbao.vn/vi/van – hoa/ Nguoi..../181,1/3/2014, tác giả Hoài Vũ
trong mục Người đàn ông đi bán hoang vắng. Bài viết này đươc in trên báo Sài Gòn
Giải Phóng ngày 05 – 10- 2004. Tác giả có nhận xét:
8
Ngẩng đầu lên mênh mông/ Chỉ nghe ngọn gió mênh mông thổi về. Đúng như
câu hát dân gian, nơi đày ải Trương Hiền Lượng vô cùng hoang vắng, hiu quạnh,
chỉ có tiếng gió là còn chút sức sống. Gió như đoàn tàu tốc hành thổi ù ù suốt đêm
ngày, xới tung bụi cát màu vàng – màu sắc riêng biệt của vùng đất lưu vực sông
Hoàng Hà, xới tung những dằn vặt khổ đau của Trương Hiền Lượng và những
người chung số phận với ông trong thời kì cực kì buồn thảm của lịch sử Trung
Quốc. Ngay trên vùng đất màu vàng, giữa tiếng gió gầm rú đêm ngày, ông đã đổ ra
đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt của mình để viết nên “Một nửa
đàn ông là đàn bà” và “Cây lục hóa” làm chấn động văn học Trung Quốc.
Trang website: 4phuong.net/....../su-da-dang-ve-but-phap....tác giả Mai Hải
Oanh có nhận định:
Khi nói đến bút pháp tả thực mới cần thấy rằng đây là thủ pháp quan trọng
của khuynh hướng tiểu thuyết “nhận thức lại” lịch sử. Khuynh hướng này có phần
gần gũi với cảm hứng phản tư trong tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa
với “Một nửa đàn ông là đàn bà” của Trương Hiền Lượng, “Nôn nóng” của Giả
Bình Ao, “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn……..các nhà văn Trung Quốc đã nhìn
lại hàng loạt vấn đề đau lòng, những bi kịch đầy nước mắt trong thời kì cách mạng
văn hóa. Tác phẩm của họ được người đọc đón chào nồng nhiệt bởi từng trang viết
thấm đầy tinh thần phản tư.
Trên Website://Tiki.vn/review/……ngày 21/1/2013, người đọc Phạm Thành
Trung có nhận xét:
Tác giả đã sáng tạo nên một câu chuyện hết sức hấp dẫn với tất cả vẻ sinh
động và khác biệt cần có để tạo nên một tác phẩm giả tưởng đầy kì thú. Mỗi trang
sách đều có những chi tiết hay, những câu văn rất đắt, những miêu tả tinh tế làm
cho người đọc thích thú hấp dẫn một cách không ngờ.
Tài liệu nghiên cứu về Trương Hiền Lượng và sáng tác của nhà văn mà chúng
tôi tìm thấy ở trên mạng cũng không nhiều. Chủ yếu là các bài viết của Hoài Vũ,
Mai Hải Oanh và ý kiến của một số độc giả sau khi đọc tác phẩm Một tỉ sáu. Tác
giả Hoài Vũ đã nhận xét về Trương Hiền Lượng trong mối quan hệ với lịch sử dân
tộc; tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng chính là hiện thân của hiện thực cuộc sống
đau khổ ngoài kia.
Mai Hải Oanh đã đánh giá hàng loạt các nhà văn Trung Quốc trong khi nhìn
lại hầu khắp các vấn đề đau lòng cũng như những bi kịch thời đại trong thời kì “
9
Cách mạng văn hóa”. Và từ góc nhìn đó, Trương Hiền Lượng cũng đã đóng góp
một phần không nhỏ trong hành trình lịch sử của văn học dân tộc.
Ý kiến nhận xét của độc giả Phạm Thành Trung mới chỉ dừng lại ở cái nhìn
chung chung tổng quan nhất về đặc sắc trong ngòi bút nghệ thuật của Trương Hiền
Lượng, chưa đi sâu vào một phương diện nào cụ thể.
Nhìn chung, tài năng của Trương Hiền Lượng đến nay không còn gì nghi ngờ
và bàn cãi. Tuy nhiên ở Việt Nam, tên tuổi của ông vẫn còn khá xa lạ khi so sánh
với những cái tên như Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn, Sơn Táp… Mặc dù các nhà
nghiên cứu đã đề cập nhiều vấn đề trong từng tác phẩm của Trương Hiền Lượng,
nhưng trong phạm vi khảo sát tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay, hầu như chưa có
một đề tài nào chuyên sâu tìm hiểu về “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một
tỷ sáu của Trương Hiền Lượng”. Trên tinh thần tiếp thu, phát triển ý kiến của người
đi trước và một số ý kiến cá nhân, chúng tôi xin mạnh dạn góp phần làm sáng tỏ vấn
đề: “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng”
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết
Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng tập trung trên các bình diện: Đề tài, cốt truyện,
nhân vật, giọng điệu và thủ pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung khảo sát tác phẩm Một tỉ sáu của nhà văn Trương Hiền Lượng.
Ngoài ra, khảo sát các tác phẩm khác của ông cũng như của một số nhà văn khác để
đối sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Nghiên cứu nghệ thuật châm biếm thể hiện trên mọi phương diện nội dung và
hình thức trong quan hệ biện chứng và mang tính chỉnh thể trọn vẹn của tác phẩm.
4.2 Phương pháp liên ngành
Đặt tác phẩm dưới góc nhìn liên ngành như: Thi pháp học, Xã hội học, Tâm
lí học, Tiếp nhận văn học…..để thấy được sự đánh giá khác nhau về giá trị của
tác phẩm.
10
4.3 Phương pháp so sánh
Chúng tôi so sánh đối chiếu Một tỉ sáu với những sáng tác trước và sau đó để
thấy được sự tiếp biến của nhà văn.
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp và thủ pháp để nghiên
cứu như: phân tích tổng hợp, thống kê phân loại…..để giải quyết những vấn đề
do đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu đã đem lại những đóng góp sau:
- Luận văn góp phần giới thiệu nhà văn Trương Hiền Lượng đối với độc giả
Việt Nam và nêu bật thành công của tác phẩm Một tỉ sáu. Ông là một tác giả ưu tú,
xuất sắc của văn học Trung Quốc đương đại, với một giọng văn độc đáo: vừa giàu
tính triết lí, trữ tình, vừa mang màu sắc châm biếm sâu cay. Từ đó thấy được thế
giới quan và nhãn quan nghệ thuật của Trương Hiền Lượng.
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về nghệ thuật
châm biếm trong một tác phẩm nổi tiếng của Trương Hiền Lượng. Từ tác phẩm này,
luận văn đã góp phần làm rõ vấn đề lí thuyết, giúp người đọc hiểu được một cách
tường minh, đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung
và trong tác phẩm Một tỉ sáu nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Nghệ thuật
châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo quý báu cho những ai quan tâm đến đề tài nói chung và sáng tác của
Trương Hiền Lượng nói riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần nội dung
chính được triển khai gồm 3 chương:
Chương 1: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện đề tài.
Chương 2: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật.
Chương 3: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện giọng điệu và thủ pháp.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI
1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học
Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay
độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng
này hay đối tượng và hiện tượng khác trong xã hội.
1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống
Truyền thống văn học của mọi dân tộc đều có yếu tố/ cảm hứng humour (hài
hước) và Irony (châm biếm). Trong văn học dân gian, tính chất hài hước và châm
biếm đã tồn tại từ rất sớm ở những thể loại thơ ca dân gian, cách ngôn dân gian,
truyện ngụ ngôn và truyện cười với những biến thể của nó như giai thoại trào tiếu,
hý ngôn, hài kịch… Các nhà lí luận văn học Trung Hoa đầu thế kỷ XX cũng đồng
thời với nhà văn Nhất Linh ở Việt Nam đã dịch khái niệm humour trong nguyên
ngữ tiếng Pháp sang âm Hán (Việt) là u mặc (sau đó giữa thế kỷ XX ở Việt Nam
mới xuất hiện từ mượn kí âm là uy - mua).
Truyện cười và hài kịch dân gian là hai thể loại dồi dào sức châm biếm nhất
trong các thể loại của văn học dân gian. Bởi lẽ, ở hai thể loại này, so với các thể loại
khác đã có sự chuyển đổi về mặt đối tượng thẩm mỹ. Xuất hiện với vai trò mở đầu
cho loại hình ý thức xã hội, huyền thoại lấy cái kỳ ảo làm đối tượng thẩm mỹ.
Truyền thuyết và sử thi, tuy cũng chưa dứt được cái huyền ảo nhưng đã xác định cái
cao cả, cái hùng tráng là đối tượng thẩm mỹ của riêng mình. Truyện cổ tích lại lấy
cái đẹp, cái thiện để làm đối tượng thẩm mỹ. Bi kịch lấy cái bi kịch làm đối tượng
thẩm mỹ. Còn truyện cười và hài kịch dân gian lại lấy cái hài hước, dí dỏm để làm
đối tượng thẩm mỹ với tính độc đáo riêng biệt.
Xét về mặt tính chất của đối tượng thẩm mỹ, cái hài như cách nói của Voltare
là cái đẹp nhược căn trong hình thái sự lệch chuẩn của cái đẹp. Cho nên, cái độc đáo
12
của truyện cười và hài kịch dân gian là ở chỗ nhìn ra và nắm bắt nhanh nhạy những
yếu tố phi lý trong đời sống xã hội. Cũng chỉ có truyện cười và hài kịch dân gian,
theo S. Freud và C. Jung, đều sử dụng trạng thái cảm xúc sợ hãi làm vũ khí đấu
tranh. Bởi như đã nói, tiếng cười toát ra từ nỗi sợ hãi từ vị thế của kẻ yếu.
Xét về mặt động cơ tâm lý của thể loại thì nghệ thuật châm biếm trong thể loại
truyện cười và hài kịch dân gian gắn với vị thế của kẻ yếu như trên đã nói. Trong
khi đó, huyền thoại/ thần thoại ra đời trên vị thế của người cha. Cho nên cái kỳ ảo
gắn liền với tâm thế ngưỡng vọng, sùng bái, kính sợ. Truyền thuyết – sử thi vừa
được xây dựng trên vị thế người cha, nhưng cũng được xây dựng dựa trên vị thế của
đứa con trác tuyệt - kẻ tiệm cận đến gần với người cha thần thánh nên cái cao cả,
trác tuyệt, hùng tráng gắn liền với sự ngưỡng mộ, tôn kính. Trong xã hội phương
Đông lẫn xã hội phương Tây, truyền thuyết – sử thi đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc liên kết các thành viên của cộng đồng. Cho nên điểm nhìn xây dựng của
nó là điểm nhìn của sự cố kết để xây dựng xã hội. Truyện cổ tích được xây dựng
dựa trên vị thế của đứa con bình thường nên nó gắn liền với cái nhìn mộng tưởng về
sự công bằng. Truyện cổ tích trong sinh quyển văn hoá dân gian được tiếp nhận và
lưu truyền từ điểm nhìn cá nhân, thấp hơn sự phản ánh xã hội nên nó không có tính
đấu tranh xã hội. Bi kịch dân gian là sự phóng chiếu bi kịch cá nhân xã hội hơn
truyện cổ tích nhưng cũng chưa phải là sự đấu tranh xã hội mà chỉ dừng là sự phản
ánh xã hội. Ngược lại, truyện cười và hài kịch dân gian được xây dựng trên quan
điểm phản biện xã hội. Bởi vì nó hình thành trên động cơ tâm lý của kẻ yếu, muốn
tồn tại được phải dựa vào trí thông minh và sự tinh nhạy để đấu tranh với xã hội.
Cho nên nghệ thuật châm biếm của hai thể loại này có tính đấu tranh trực tiếp so với
truyện cổ tích (thế sự) và bi kịch.
Xét về mặt trình độ xã hội của đối tượng thẩm mỹ, cái hài hước và nghệ thuật
châm biếm rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển của xã hội dân chủ. Chính vì
vậy mà Platon đã rất công nhận cái hài và trào phúng, châm biếm. Nhưng ông cũng
lo sợ nó làm ảnh hưởng đến nhà nước lý tưởng của ông, vì nó làm con người thiếu
nghiêm túc khi nhận thức đối tượng qua cái đối lập. Những xã hội càng thiếu tính
dân chủ lại càng sợ cái hài hước và sự châm biếm. Và ngược lại, xã hội càng dân
13
chủ bao nhiêu thì tiếng cười châm biếm càng nở rộ và góp phần thúc đẩy văn minh
bấy nhiêu.
Với lý do như vậy, mà nghệ thuật châm biếm trong truyện cười và hài kịch
dân gian đã nhanh chóng hoà nhập vào xã hội hậu hiện đại. Nó vừa giữ nguyên
chính mình trong khuôn khổ thể loại chưa đông cứng của nó, lại vừa thâm nhập vào
các thể loại lẫn phương pháp sáng tác khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học của
cả nhân loại.
1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại
N. Frye trong công trình Giải phẫu phê bình đã nêu lên bốn kiểu nhân vật văn
học theo khả năng thực hiện hành động của nhân vật như sau:
(1) “Nhân vật có phẩm chất siêu việt hơn con người và hoàn cảnh chung
quanh thì đó là thần thánh, và câu chuyện kể về nhân vật sẽ là một huyền
thoại…, nghĩa là kể về thần thánh”. “Những câu chuyện như vậy có vị trí quan
trọng trong văn học, nhưng theo quy tắc, chúng không nằm trong bảng phân loại
văn học hiện đại” [57].
(2) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn con người và hoàn cảnh xung quanh
thì đó là nhân vật của những câu chuyện cổ tích” [57].
(3) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn những người khác, nhưng lệ thuộc vào
thực tại trần gian thì đấy là loại nhân vật cai trị” [57].
(4) “Nếu nhân vật không có gì vượt trội hơn mọi người và hoàn cảnh xung
quanh thì nhân vật đó là một trong số chúng ta: chúng ta thấy nhân vật là một người
bình thường, và đòi hỏi nhà văn phải thể hiện nhân vật đó theo quy tắc đảm bảo tính
chân thực, đúng như chúng ta cảm nhận được theo kinh nghiệm sống. Nhân vật đó
thuộc về các mô thức mô phỏng bậc thấp. Mà trước hết là nhân vật của hài kịch và
các tác phẩm văn học hiện thực” [57].
(5) “Nếu nhân vật có trí tuệ và sức mạnh thấp kém hơn chúng ta, bởi chúng ta
luôn có cảm giác đứng từ trên cao mà quan sát họ với lối sống nô lệ, đầy bất cập và
thất bại, thì đó là nhân vật của mô thức châm biếm, mỉa mai. Điều này cũng hợp lý
ngay cả khi độc giả hiểu rằng bản thân mình đang, hoặc có thể là đang ở vào hoàn
cảnh giống như nhân vật, nhưng mặt khác lại có thể độc lập phê phán nhân vật” [57].
14
Như vậy, mô thức nhân vật bậc (4) và bậc và (5) là thuộc về mô thức văn học
hài kịch – mô thức văn học châm biếm. Ông khẳng định rằng kể từ 100 năm sau khi
tiểu thuyết của Daniel Defoe xuất hiện, thì văn học càng ngày càng tiệm cận với các
mô thức cái hài.
Tiểu thuyết văn học từ thập niên 50 của thế kỷ XX cho đến nay, như quan
điểm của N. Frye, ngày càng thẩm thấu yếu tố của mô thức hài kịch, châm biếm.
Tiểu luận của Kundera sau những phần phát biểu về đặc trưng của tiểu thuyết hậu
hiện đại cũng có nhắc đến hiện tượng phát triển mô thức hài hước, châm biếm trong
tính bối cảnh của thời đại.
Theo Kundera, tiểu thuyết có khả năng chuyển hoá triệt để những cái thuộc
phạm trù nghiêm trang thành cái có tinh thần hài hước. Trong cuốn Tiểu luận này,
không phải ngẫu nhiên mà ông thường xuyên nhắc tới những tên tuổi bất hủ là
Cervantes, Rabelais và Kafka. Đó là những huyền thoại đã sáng tạo ra những huyền
thoại đậm đà tính chất humour. Kundera đưa ra lập luận rằng: “Tiểu thuyết sinh ra
không phải từ tinh thần lý thuyết mà từ tinh thần hài hước. […] Nghệ thuật bắt
nguồn cảm hứng từ cái cười của Thượng Đế” [22,167]. Đặc biệt, Kundera phát hiện
ra rằng Rabelais rất sợ những kẻ không bao giờ biết cười là gì. Và cũng trong Tiểu
luận này, ông đã tiến hành phân biệt cái hài hước với tư cách là một phát kiến của
tiểu thuyết với cái cười giễu nhại, châm biếm. Cái hài hước khác với sự châm
biếm, đả kích ở chỗ: hài hước khoác cho đối tượng một lớp áo khác khiến cho đối
tượng trở nên mơ hồ, khó định hình. Kundera nhắc lại phát biểu của Octavio Paz:
cái hài hước chỉ hình thành cùng sự ra đời của tiểu thuyết và Cervantes là người
đã đem lại cho tiểu thuyết sự hiền minh của hài hước. Cái hài có thể tạo ra tiếng
cười khoái hoạt nhưng cũng có thể gắn với nỗi sầu thảm muôn năm. Đọc Kafka,
Kundera đã thấy rõ “cái hài của nỗi buồn” như một định mệnh của tiểu thuyết
Kafka. Ông cho rằng những cảnh tình dục ở Kafka có sự song hành giữa tính hài
hước và nỗi buồn chất ngất.
Kundera cũng đặc biệt nhạy cảm với sự toàn trị. Bởi lẽ ông đã trải qua những
năm tháng sang chấn tinh thần khi sống trong bầu không khí sặc sụa mùi độc tài của
chủ nghĩa Stalin. Ông ủng hộ giả thiết rằng chủ nghĩa duy lý vô thần của châu Âu
15
thế kỷ XVIII, sự tuyệt đối hóa sức mạnh lý trí của CNCS đã đem lại tai hoạ là chủ
nghĩa toàn trị Nga. Sở dĩ ông liên hệ đến thế giới toàn trị là vì trong thế giới đó
không hề chấp nhận sự hài hước cũng như không chấp nhận tính chất song hành,
tính chất đa âm đa diện. Những gì tồn tại trong xã hội toàn trị thì hoàn toàn không
được tiểu thuyết dung nạp như một chất liệu sáng tác quý giá. Đó là sự phán xét,
quy kết – những thiết chế của xã hội toàn trị. Kundera nói: “Treo phán xét đạo đức
lại không phải là sự vô đạo đức của tiểu thuyết, đấy chính là đạo đức của tiểu
thuyết” [22, 180]. Đạo đức đó của tiểu thuyết nhằm “chống lại thói quen bất trị của
con người cứ muốn phán xét tức thì, lúc nào cũng phán xét, phán xét mọi người,
phán xét trước và chẳng cần hiểu” [22, 180]. Đó là sự phán xét lệch chuẩn và mang
tính khuôn mẫu của của định kiến. Và tiểu thuyết với sức mạnh của nó đã góp phần
xóa bỏ sự phán xét mà nói như ngôn ngữ của tác giả là một thói quen “ngu xuẩn”,
“đáng ghét”, “độc hại”. Kundera nhận định rằng sở dĩ xã hội phương Tây là một xã
hội tự do dân chủ, xã hội của dân quyền và nhân quyền là nhờ tác động giáo dục của
một nền nghệ thuật - mà trước tiên là tiểu thuyết. Nền nghệ thuật đó “dạy cho người
đọc biết tò mò về kẻ khác và cố gắng tìm hiểu những chân lý khác với chân lý của
mình” [22, 181]. Văn học và nghệ thuật châu Âu đã dạy cho con người tinh thần
tiếp thu và sự chấp nhận với những gì không giống mình.
Như vậy, sự văn minh, dân chủ tự do trong xã hội phương Tây có thể được coi
là thành quả của tiểu thuyết và nghệ thuật.
Rõ ràng, Kundera đã nhìn thấy được sức mạnh và sứ mệnh của cái hài hước,
sự châm biếm trong tiến trình hoàn thiện xã hội.
1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng
Đại Cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của văn học đương đại đã tạo
nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc, xuất hiện nhiều phong cách mới lạ,
độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu.
Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa đã bắt đầu bước vào thời kì
phát triển rực rỡ mà trước hết là sự bùng nổ của đề tài: đề tài “tình yêu đôi lứa”, đề
tài “thanh niên trí thức”, đề tài về “lịch sử và cách mạng từ Minh – Thanh đến trước
ngày dựng nước”. Ngoài những đề tài trên, tiểu thuyết thời kì cải cách mở cửa còn
16
viết về cuộc đời của người lính; phong tục tập quá của các dân tộc; cuộc sống của
thị dân, của giới trí thức, của thanh thiếu niên; các tệ nạn xã hội như quan liêu, tham
nhũng, ma túy, an ninh xã hội, tài tử giai nhân….Có thể nói, đề tài của tiểu thuyết
thời kì cải cách mở cửa được mở rộng hết mức độ, gần như không có một mảng nào
của cuộc sống mà không được phản ánh.
Tiểu thuyết “Một tỉ sáu” là một bước ngoặt trong lối viết của nhà văn Trương
Hiền Lượng. Màu sắc chủ đạo nổi bật trong nghệ thuật thể hiện Một tỉ sáu của
“người đàn ông đi bán hoang vắng” đã từng trải qua hai mươi năm bão táp cuộc đời
là một gam màu u-mua, châm biếm sâu cay. Nếu nói Một tỉ sáu là hành trình khoa
học giả tưởng đi tìm kiếm một con người hoàn hảo với kho hạt giống khổng lồ để
cứu cánh cho cả nhân loại nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng khỏi tấn bi
kịch bị diệt vong, thì bằng nghệ thuât châm biếm, Trương Hiền Lượng đã tạo tác
nên những con người tham gia hành trình tìm kiếm ấy cứ mải miết ngụp lặn trong
tấn kịch vưà bi vừa hài. Từ đó toát bật lên tư tưởng của nhà văn trước thực trạng xã
hội Trung Quốc đương đại. Và người ta dễ nhận thấy phương diện nghệ thuật đầu
tiên biểu hiện cho nghệ thuật châm biếm trong Một tỉ sáu chính là đề tài. Đề tài
châm biếm trong Một tỉ sáu được tập trung ở các bình diện: tương lai dân tộc, nhân
vật lịch sử, xã hội kim tiền- hãnh tiến, khoa học “giả cầy”.
1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc
Cái được gọi là “tương lai dân tộc” luôn trở đi trở lại trong xuyên suốt tác
phẩm Một tỷ sáu như một niềm ám ảnh cần phải được tri nhận.
Dân tộc Trung Hoa cũng như nhân loại luôn luôn đặt ra câu hỏi về tương lai
của loài người sẽ ra sao. Nhưng câu hỏi này đặc biệt là giấc mơ và sự khắc khoải
tột cùng của người Trung Hoa. Chính vì vậy tâm lý muốn giải đáp tương lai
chủng tộc sẽ như thế nào mà Trung Quốc sớm nổi danh là đất nước trọng sử. Và
người Trung Hoa luôn thường trực tâm lý lưu danh thanh sử và muốn phát triển
tộc người. Gánh nặng dân số của Trung Quốc hiện nay chính là từ tâm lý muốn
phát triển chủng tộc như vậy.
Phản đề về tương lai dân tộc Trung Hoa trong tiểu thuyết Một tỷ sáu được
Trương Hiền Lượng xây dựng trên hai thực tế:
17
Thứ nhất là tâm lý khuếch đại dân tộc để thống lĩnh thế giới. Lịch sử cổ đại và
trung đại Trung Quốc chính là câu trả lời chuẩn xác nhất và là thực tế hoàng kim
nhất. Giới thống trị Trung Quốc hiện đại từ Mao Trạch Đông cho tới Tập Cận Bình
đều muốn tiếp tục giấc mơ về chủng tộc siêu việt của các hoàng đế xa xưa. Lịch sử
đương đại thế giới đã phải ghi nhận cách ngôn mới từ dân tộc này là: Người Trung
Quốc đi đến đâu thì cương giới Trung Quốc mở rộng đến đó. Tâm lý này khá giống
tâm lý tự thôi miên của người Đức dưới chế độ toàn trị của Hitler về một chủng tộc
Đức thượng đẳng. Đây là một nguy hại lớn có tính lịch sử. Trương Hiền Lượng đã
nhìn thấy tính chất độc hại trong tư tưởng và giấc mơ mang màu sắc Trung Quốc
của giới lãnh đạo cộng sản toàn trị Trung Quốc.
Thứ hai là hiện tượng cưỡng chế đi ngược nhân văn của một nền pháp luật bất
cận nhân tình. Đó là chính sách cưỡng chế sinh đẻ một con mà chính quyền Trung
Quốc theo đuổi cho đến ngày nay. Vấn đề ngăn cấm này vừa tạo ra di hại lâu dài về
vấn đề dân tộc, vừa tạo ra cú sốc tâm lý – văn hoá trong tiềm thức của dân tộc có
truyền thống phát triển chủng tộc siêu việt. Bên cạnh đó, người ta còn dễ dàng nhận
ra hiện tượng vô sinh ở nam giới Trung Quốc và thế giới trong thời hiện đại càng
ngày càng cao.
Tuy nhiên, Một tỷ sáu không phải là một tiểu thuyết khoa học giả tưởng thuần
tuý mà đó là một tiểu thuyết có tính triết lý. Tính triết lí này lại được thể hiện bằng
thủ pháp châm biếm đặc trưng. Những sự kiện khoa học (có phần nào khoa học)
được ông sử dụng nhằm mục đích làm chi tiết hoá luận đề mà ông đưa ra đồng thời
để xây dựng không khí nghiên cứu khoa học nhằm làm nền cho tác phẩm. Bởi vậy,
phản đề lớn nhất vừa mang tầm quốc dân tính cực đoan đậm màu sắc tư tưởng
Trung Quốc vừa mang tầm nhân loại mà Trương Hiền Lượng đặt ra là phản đề về
chủng tộc (nhân loại) vô sinh và tuyệt diệt trong tương lai.
Qua tác phẩm của mình, nhà văn Trương Hiền Lượng đã vạch ra trước mắt
chúng ta một sơ đồ về xã hội và con người Trung Quốc đương đại. Tất cả đều được
phản ánh một cách sâu sắc. Đứng trước số phận “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc
trong tương lai, nhà văn Trương Hiền Lượng đã diễn tả được sự thật về xã hội
Trung Quốc thời hiện đại. Và hơn ai hết tác giả mong muốn sẽ có một con người
hoàn hảo đứng ra cứu giúp vận mệnh của dân tộc.
18
Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn đã hé mở về nhân vật bí ẩn hoàn hảo này - một
con người sẽ mang trong mình sứ mệnh của dân tộc, sứ mệnh làm thay đổi lịch sử
Trung Quốc tương lai. Tác phẩm xoay quanh những kiểu con người khác nhau
trong xã hội Trung Quốc đương đại. Mỗi kiểu con người có những số phận và cuộc
đời khác nhau. Nhà văn đã nói lên những nỗi lòng của mình khi đứng trước một xã
hội loài người mà vấn đề danh vọng luôn đặt lên hàng đầu. Một sự thất vọng về xã
hội chỉ đầy những “đại gia”, “tiểu thư”, “quan tham” và bên kia là bao số phận
của những đứa trẻ tội nghiệp. Cuộc sống muôn màu với những con người chỉ biết
sống theo bản năng, không có mục đích tiến tới, không tình yêu. Và càng tệ hại hơn
đó là khi xã hội ngày càng hiện đại con người ngày càng mất đi khả năng tạo ra một
thế hệ mới. Tác giả đã đặt ra một vấn đề bức thiết cho dân tộc: Trung Quốc có thể
sẽ bị diệt vong khi mà xã hội ngày càng phát triển đi lên thì đồng nghĩa với việc
bệnh viện liên tục nhận được những ca chữa bệnh vô sinh.
Nhà văn đã khéo léo tạo ra những biến cố của tác phẩm, từ đó xây dựng nên
những kiểu con người đặc trưng của xã hội. Đồng thời nói lên được mong muốn của
chính mình muốn gửi gắm trong tác phẩm: “một con người hoàn hảo” không phải
là một con người bình thường như bao nhiêu người khác, mà nhân vật đó phải là
một “nhân vật kiệt xuất” và “Nhân vật kiệt xuất sẽ có những cống hiến to lớn trong
lịch sử tương lai của Trung Quốc”. Nếu là một con người hoàn hảo thì tất yếu phải
được sinh ra từ những cặp vợ chồng hoàn hảo. Một người cha, người mẹ tốt về mọi
mặt thì mới có thể tạo ra được một thế hệ hoàn hảo chứ! Nhưng Trương Hiền
Lượng đã tạo ra những tình huống bất ngờ của tác phẩm. Vấn đề sinh ra một con
người hoàn hảo thực sự theo quan niệm của nhà văn liệu sẽ có không? Chính nhà
văn cũng chưa thể giải thích được, nhưng đó là chuyện của tương lai, của mấy chục
năm về sau. Và bây giờ tác giả đã vạch ra những bước tiến cho sự ra đời của nhân
vật mang sứ mệnh của nhân loại.
Trước hết trong xã hội đầy nhố nhăng này việc tìm kiếm một con người hoàn
hảo sẽ rất khó khăn. Nhìn con người đầy đường mà chỉ thấy chạnh lòng. Sự thất
vọng nặng nề đã giúp bác sĩ nhận ra rằng cái con người hoàn hảo kia sẽ được sinh ra
từ những con người có khiếm khuyết mang tên là Nhất Ức Lục. Anh là người bị
19
thiểu năng, dù rất khoẻ mạnh và thậm chí là một con người có kho hạt giống khổng
lồ. Một người cha ngờ nghệch sẽ gặp một người mẹ “đĩ điếm”. Từ một đứa trẻ gặp
cảnh đời bất hạnh, Nhị Bách Ngũ liên tiếp bị những kẻ lưu manh hãm hại, lợi dụng
thân xác của cô để kiếm tiền. Sự kết hợp như vậy rồi sẽ ra sao? Hai con người ấy
đều có một sự trong sáng, ngây thơ trong tâm hồn, không bị dòng đời đua chen tác
động. Họ đến với nhau bằng tình yêu thực sự, một tình yêu ngây thơ non nớt của
tâm hồn hai đứa trẻ tội nghiệp. Nhân vật hoàn hảo ấy sẽ được sinh ra và sẽ là người
kiệt xuất cứu giúp toàn dân tộc Trung Hoa.
Một bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại đang dần được phơi bày trong
hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo. Nhà văn đã thành công khi vạch trần bộ
mặt của nền kinh tế thị trường, biến tướng của những nhố nhăng trong vòng quay
của nền kinh tế ấy. Trên con đường tìm kiếm con người hoàn hảo, những dự báo về
một tương lai mờ mịt của con người thế hệ mai sau cũng được giãi bày.
Tác phẩm đặt ra những tình huống về bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại,
về tương lai của dân tộc, tương lai của con người trong xã hội ấy. Con người trong
xã hội hiện đại đang dần đánh mất đi chính bản thân mình. Sự xuống cấp về phẩm
chất, nhân cách của con người trong xã hội ấy báo hiệu cho một tương lai không
mấy sáng sủa. Từ đó có thể thấy được rằng khi nhìn nhận vấn đề của xã hội, nhà
văn Trương Hiền Lượng đã có những góc nhìn khác nhau trong tác phẩm của
mình. Đứng theo góc nhìn của chính nhà văn thì xã hội đang phát triển mạnh, nền
kinh tế đang ngày càng vững chắc. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, đời
sống vật chất của con người vì thế lại được chú trọng nhiều hơn. Vật chất trở
thành điều kiện tiên quyết trong cuộc sống của loài người, thì những mặt trái của
sự phát triển ấy đã nảy sinh.
Việc mở ra bệnh viện Chúng Sinh với mục đích phục vụ cho sức khoẻ của con
người và hơn thế là việc nghiên cứu thụ tinh nhân tạo cho con người. Bác sĩ Lưu là
người chịu trách nhiệm trong việc nghiên cứu tìm ra phương pháp thụ tinh nhân tạo
cho con người. Trong quá trình nghiên cứu ấy, ông đã chợt nhận ra những thứ
không đáng trong xã hội này “Từ lâu chủ nhiệm Lưu đã để ý tới, vấn đề lớn nhất
mà loài người phải đối mặt không chỉ là vấn đề mà người ta tranh cãi mãi không
20
thôi như chiến tranh, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố, thiếu hụt lương thực, sa mạc
hoá trái đất…mà là nhân loại sắp tuyệt chủng” [30, 96]. Thật vậy, những vấn đề
chiến tranh hay những vấn đề nghèo đói cũng không có gì đáng lo ngại. Những vấn
đề thực sự đáng bàn đến ở đây là con người, là sự diệt vong của dân tộc Trung Hoa.
“Cuối cùng, đời sống vật chất phong phú đấy nhưng tinh trùng trong tinh hoàn lại
thiếu hụt, hai cái đó tỉ lệ nghịch với nhau. Khi đời sống vật chất đạt tới mức độ cao
nhất của lịch sử thì tinh trùng trong tinh hoàn sẽ giảm tới mức số không, không thể
sinh đẻ được gì, và loài người chính thức bị tuyệt diệt” [30, 97]. Chủ nhiệm Lưu đã
có cuộc khảo sát về số lượng tinh trùng của nam giới những năm trước và những
năm gần đây, thì thấy một sự thật nghiệt ngã rằng, khi mà xã hội đang còn nghèo
đói, cuộc sống còn phải lo nhiều thứ thì số lượng tinh trùng của nam giới lại rất tốt
và khoẻ mạnh. Nhưng khi xã hội phát triển, mức sống của con người được nâng cao
thì số lượng tinh trùng của nam giới lại giảm rất mạnh và rất yếu:
“ Những năm ông học đại học vào cuối thập kỉ năm mươi đầu thập kỉ sáu
mươi của thế kỉ XX là những năm cung ứng vật chất của Trung Quốc thiếu hụt nhất,
mức sống của người dân yếu kém nhất, cả đến cà rốt dân cũng chẳng có mà ăn,
ngày nào cũng chỉ nhai rau muối và nuốt cháo khiến cho nhiều người dân bị phù
thủng vì thiếu dinh dưỡng. Nhưng lúc ấy tinh trùng của đàn ông Trung Quốc mỗi
miliit có khoảng sáu mươi triệu con. Những năm gần đây ông xét nghiệm tinh dịch
mấy ngàn đàn ông thì nói chung, trong mỗi millit tinh dịch của đàn ông Trung Quốc
bình quân chỉ còn khoảng ba mươi triệu, hơn nữa mỗi năm một giảm và có xu thế sa
sút về chất lượng, tức là tiến gần đến nhân chủng Trung Quốc tuyệt diệt” [30, 99].
Một cuộc khảo sát về tinh trùng của nam giới được các bác sĩ thực hiện thụ
tinh nhân tạo cho giám đốc Vương Thảo Căn theo yêu cầu của San San. Một loạt
nam giới được kiểm tra. Đầu tiên là những công nhân, nhưng không có ai đạt được
yêu cầu cả. Tuổi của họ còn trẻ nhưng phần lớn tinh trùng của họ không chết thì
cũng bị khiếm khuyết, không thể thích hợp cho việc chọn giống thụ tinh được. Âu
cũng bởi những người công nhân này đều làm những việc liên quan đến hoá học,
nên nó chịu ảnh hưởng nhiều từ những chất hoá học. Một loạt những người đàn ông
khác đăng kí qua mạng nhưng không ai có thể làm vừa lòng chủ nhiệm Lưu.
21
Một tỉ sáu cho thấy một sự tuyệt vọng về tương lai của dân tộc Trung Hoa“khi
mà đời sống vật chất đạt tới mức độ cao nhất của lịch sử thì tinh trùng trong tinh
hoàn lại giảm tới mức số không, không thể sinh đẻ gì được nữa, và loài người chính
thức bị tuyệt diệt” [30, 97]. Nhà văn cảm thấy bất lực trước nguy cơ diệt vong của
dân tộc mình. Một tương lai của dân tộc Trung Hoa đang đứng trên bờ vực thẳm.
Cũng trong chủ đề châm biếm về tương lai dân tộc, xét ở một góc độ khác, có
thể thấy rằng Trương Hiền Lượng rất sắc sảo và hài hước khi xây dựng một phép
giả tưởng độc đáo: đó là đàn ông Trung Quốc ngày càng mất khả năng giao hợp và
chất lượng tinh trùng càng ngày càng suy giảm cả chất lượng lẫn số lượng. Tuy
nhiên, con người trong xã hội dù có sự vênh lệch giữa ước muốn và thực tế nhưng
vẫn tìm mọi cách để phát triển nòi giống bằng cách đẻ con trai. Ước muốn này tự
thân nó không có gì buồn cười hay phi lý. Phi lý là ở chỗ, người ta tìm mọi cách để
phát triển nòi giống là để cho ra một thế hệ siêu việt nhằm để kéo dài tiếp dục vọng
của mình. Tiêu biểu cho ước muốn đó là nhân vật Vương Thảo Căn – một thảo dân
thôn dã đã leo lên địa vị tư bản gia sau một quá trình phấn đấu đầy khốc liệt. Nhân
vật Vương Thảo Căn chính là đại diện cho tinh thần Trung Quốc khi khao khát một
đứa con trai ưu việt. Cái nổi bật mà Trương Hiền Lượng thông qua chủ nhiệm Lưu
để khắc hoạ nhân vật là đặc điểm: “Vương Thảo Căn là người đàn ông rất kém, rất
kém về mặt sức sống nhưng ý chí thì cực mạnh” [30, 93]. Cái ý chí mãnh liệt của
người dân Trung Hoa có nhiều nét nghĩa nhưng trong đó, có một nét nghĩa có tính
tâm lý – văn hoá chủng loại là tính bành trướng và bá quyền. Nhân vật Vương Thảo
Căn vừa có nét của con người Trung Quốc truyền thống (xuất thân nông dân thôn
dã) lại vừa có nét của con người Trung Quốc thời đại mới (gia nhập tầng lớp tư bản
gia mới nổi, có sự liên đới với chính quyền). Cho nên, nhân vật này chính là biểu
trưng cho ý chí Trung Quốc về lòng tự tôn ưu việt chủng tộc và sự bá quyền.
Câu trả lời của Trương Hiền Lượng cho phản đề này không thể hiện trực tiếp
qua tác phẩm. Bằng tư duy quan hệ truyền thống của văn học Trung Hoa, chúng ta
có thể thấy rằng Trương Hiền Lượng đang cắt nghĩa tinh thần Trung Hoa hiện đại
dựa trên sự song trùng của tính nhược tiểu và não trạng tự tôn chủng tộc đặc thù.
22
Trương Hiền Lượng thông qua phản biện dân tộc cũng có phần châm biếm
tính bất cận nhân tình của pháp luật khi tiến hành cưỡng chế đối với sinh đẻ trên
một con. Những trường hợp như của Nhị Bách Ngũ (đứa con bị bỏ rơi do ra đời
“vượt chỉ tiêu”), Hoàng Tiểu Mai (mất khả năng sinh con do chịu thắt ống dẫn trứng
để lấy tiền chữa bệnh cho con) cho thấy sự bài xích đối với giới nữ của xã hội
Trung Quốc. Và đó là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội cũng như sự bất công đau
khổ của người phụ nữ:
“ Tóm lại, phương pháp sinh đẻ ưu việt trở thành giết người chuyên nghiệp.
Thay cải cách mở cửa, bất kể thai nhi là nam hay nữ, chỉ cần đẻ vượt tiêu chuẩn là
bỏ tuốt khỏi phải bàn. Sau cải cách mở cửa, do tâm lí theo phong tục cũ của dân
chúng tác quái nên lại chuyển sang đối phó với thai nhi nữ, cho cái thai ấy được
chết yên lành ngay trong bụng mẹ” [30, 42]
Có thể nói, Một tỉ sáu với hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo, bằng một
giọng văn châm biếm sâu cay, nhà văn đã có những khám phá mới mẻ về hiện
thực xã hội Trung Quốc đương đại. Trước một thực tại xuống cấp về đạo đức lẫn
nhân cách của con người Trung Quốc đương đại, Người đàn ông đi bán hoang
vắng đã có một hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo, với hi vọng sẽ cứu giúp
sự nguy vong của dân tộc Trung Hoa trong tương lai. Sự ra đời của con người
hoàn hảo ấy sẽ là một sự thay đổi lớn về vận mệnh lớn của dân tộc Trung Quốc.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là con người hoàn hảo ấy sẽ ra đời như thế nào, trong
khi xã hội Trung Quốc đương đại chỉ tồn tại đầy rẫy những con người băng hoại
về đạo đức lẫn nhân cách? Thực tế phũ phàng như một câu hỏi chát chúa, xoáy sâu
vào tâm thức của cuộc hành trình đi tìm kiếm lời giải đáp cho tương lai dân tộc ở
đây là: một người cha bị thiểu năng và một người mẹ “đĩ điếm” liệu có thể cho ra
đời một con người hoàn hảo như mong muốn của mọi người được không? Và trên
hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo ấy, dân tộc Trung Hoa sẽ đi về đâu trước
thực tại về con người đầy phũ phàng như vậy? Đó chính là vấn đề mà nhà văn
Trương Hiền Lượng muốn đặt ra trong tác phẩm Một tỉ sáu- nguy cơ tuyệt diệt của
dân tộc Trung Hoa trong tương lai, khi mà “Có những người được gọi là thiên tài
của thế kỉ 21 ở Trung Quốc lại không có tinh trùng, các nhà lịch sử học tương lai
23
ắt coi đó như truyện tiếu lâm có tính lịch sử để tha hồ viết, đấy là nếu trên trái đất
lúc ấy vẫn còn có loài người” [30, 98].
1.2.2. Châm biếm nhân vật lịch sử
Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, những nhân vật lịch sử đương đại được Trương
Hiền Lượng nhắc đi nhắc lại với cái nhìn ẩn ý và đa chiều, nhưng không giấu vẻ
châm biếm. Hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đương đại được nhà văn nhắc đi nhắc
lại là hai lãnh đạo cộng sản Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.
Cách nhìn, cái nhìn và tư tưởng của Trương Hiền Lượng bàng bạc khắp tác
phẩm. Nhưng tập trung rõ nhất là cảnh Lục Thư và cảnh sát Đào gặp mặt ông già bé
nhỏ - hiện thân cho tinh thần phong lưu khoái hoạt đúng nghĩa tinh thần Trung Hoa,
để nói về phương thức tồn tại của Độc Tú Cư.
Trên bề mặt lập ngôn của ông già, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình là hai
gương mặt lịch sử của Trung Quốc mang tầm vóc vĩ đại.
Đối với Mao Trạch Đông, ông già tóm tắt công cuộc thống nhất thiên hạ của
nhân vật này. Từ giai đoạn ông ta thực thi lý thuyết của Mác vào việc thiết kế con
đường cách mạng cho toàn dân tộc Trung Quốc đến khi ông ta đẩy lui quân Quốc
Dân đảng ra tới Đài Loan. Rồi tiếp nữa ông nói đến vai trò và vị thế của Mao Trạch
Đông trong cuộc Đại Cách mạng Văn hoá. Như vậy, Trương Hiền Lượng đang nói
về các chiến công của Mao Trạch Đông. Nhưng không nên hiểu đơn giản rằng, với
sự nhắc lại “lịch sử” đó là tác giả cuốn tiểu thuyết đang ca ngợi nhân vật. Thật ra
trong cái tóm tắt của ông già này có tồn tại cái nhìn châm biếm. Ông ta cho rằng
công cuộc cách mạng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông
không khác gì một cuộc nổi loạn của nông dân trong hình thái xã hội trước đó. Bởi
vậy mà ông dùng một cụm từ mang tính phản tư rất sắc sảo: “giành lấy thiên hạ,
thắng lợi vẻ vang” [30, 254].
“ Ông già lại ngồi dựa vào ghế, mỉm cười nói:
- Thật ra rất đơn giản! Theo một cách dễ hiểu thì đó có nghĩa là đầu óc linh
hoạt. Theo chủ nghĩa Mác thì sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản bắt đầu từ
các cuộc khởi nghĩa của công nhân thành thị, dựa vào giai cấp công nhân để lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản. Nhưng bởi Mao Trạch Đông đầu óc linh hoạt nên
24
đã dùng chiến thuật “nông thôn bao vậy thành thị” dựa vào nông dân mà giành cả
thiên hạ, thắng lợi vẻ vang” [30, 254].
Cũng với cái nhìn phản tư thâm trầm đó, ông già khi nhắc đến cuộc nội chiến
Quốc – Cộng trong lịch sử vừa trải qua không khác gì sự thôn tính lẫn nhau giữa
các tiểu quốc thời sơ kỳ lịch sử đất nước. Ông ta đã vạch trần bản chất Mao Trạch
Đông bằng cụm từ có sức nặng ngàn cân: “quyền lực tối cao” [30, 254]
“ Trong thời gian nội chiến giữa Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng, Stalin đã
dặn Mao Trạch Đông chỉ tiến công vào những vị trí chắc thắng, không tán thành
việc quân giải phóng vượt sông. Nhưng Mao Trạch Đông vốn là người phong lưu,
linh hoạt nên đã không tuân theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản, mà dùng quyền lực
tối cao lúc đó để đưa ra chủ trương “ thừa kế truy kích quân thù đến cùng”, nhất
định phải vượt sông tấn công. Kết quả là đã đánh cho Quốc dân Đảng phải rút chạy
đến tận Đài Loan, giải phóng hoàn toàn đất nước. Cho nên Mao Trạch Đông hoàn
toàn xứng đáng với hai chữ phong lưu, đầu óc linh hoạt bậc nhất” [30, 254].
Rồi trong thời Đại Cách mạng văn hoá, Mao Trạch Đông lại được xem là
người có quyền uy lớn nhất và “ngoài Mao Trạch Đông ra thì không còn một tiếng
nói quyền uy nào khác. Hôm qua đúng thì hôm nay sai, hôm qua sai thì hôm nay
đúng. Ông ta đảo lộn mọi giá trị trong năm ngàn năm của Trung Quốc chổng
ngược lên. Tất cả những truyền thống, những thứ cổ truyền trước đây đều hỏng bét!
Từ đó ông ta khuấy đảo nhân tâm Trung Quốc và cũng đã gieo mầm hoài nghi vào
lòng người Trung Quốc” [30, 255].
Rõ ràng, Mao Trạch Đông qua cái nhìn của ông già - tác giả- như một hoàng
đế mới nổi. Cái mà Trương Hiền Lượng muốn đối thoại với lịch sử ở đây chính là
chế độ toàn trị mới mà Mao Trạch Đông sáng lập với tư cách là một thiên tử đầy uy
quyền trong cái nhìn phản biện với cái gọi là cách mạng.
Đáng chú ý là ngoài thuật ngữ chuyên ngành không thể thay thế của chủ nghĩa
Mác, tên nhân vật Mao Trạch Động không được tác giả định danh với các yếu tố
mang tính định danh, định vị như “cách mạng” (kiểu như “lãnh đạo cách mạng”),
“dân tộc” (kiểu như “anh hùng dân tộc”, “cha già dân tộc”), “lịch sử” (kiểu như
“mở ra trang lịch sử mới”)… Mao Trạch Đông còn bị gọi tên đích danh tới tính
chiết trung hoàn toàn không gắn liền với kính ngữ như kiểu “Mao chủ tịch”.
25
Phần mà ông già và tác giả tâm đắc nhất khi đánh giá Mao Trạch Đông là ở
chỗ sự đảo lộn không thể định vị giá trị mà ông ta gây ra cho Trung Quốc. Ở đây, sự
châm biếm song song với đả kích:
“Một trong những công tích lịch sử của ông là mãi tới cuối đời mới phạm sai
lầm! Ông ta làm chuyện đó giống như việc tôi lộn ngược cái bình đựng hoa quả
vậy. Cái bình của Mao Trạch Đông đựng gì? Trong đó là năm nghìn năm lịch sử
Trung Quốc và người Trung Quốc chúng ta. Đó là sự vĩ đại của Mao Trạch Đông,
năm nghìn năm lịch sử Trung Quốc và tám trăm triệu người Trung Quốc được ông
nâng lên và lật xuống! Cú lật đó khiến người Trung Quốc biết được “cái lý của việc
tạo phản”, người dưới có thể phản đối người trên, nói thật nhé, có khi đó là bước
đầu của nền dân chủ đấy” [30, 255].
Đặng Tiểu Bình cũng là nhân vật “vĩ đại” khác. Công lao của ông ta là phá vỡ
cái hũ nút kín mít mà Mao Trạch Đông tạo nên: “ Đặng Tiểu Bình không những dằn
nó xuống mà còn mạnh dạn mở hẳn cái bình mà Mao Trạch Đông đã lật ngược,
khiến cho hoa quả trong bình văng tung tóe. …Nếu Đặng Tiểu Bình không mở nắp
bình rồi từ từ lật lại như cũ, đặt lại nghiêm chỉnh trên bàn thì thật là khốn khổ khốn
nạn. Như vậy thì sẽ không có Trung Quốc như ngày nay…..Cho nên tôi nói Đặng
Tiểu Bình còn vĩ đại hơn Mao Trach Đông là ở chỗ đó” [30, 255- 256].
Nhưng cái hành động “phá vỡ cái hũ nút kín mít mà Mao Trạch Đông tạo nên”
của Đặng Tiểu Bình không phải để tạo ra một vị thế mới. Hành động của ông ta đẩy
mọi thứ rơi vào chỗ “đại loạn” và “phải dò từng tảng đá qua sông”. Nếu như Mao
Trạch Đông đã tạo ra một chế độ toàn trị ngột ngạt trên toàn cõi Trung Quốc hiện
đại thì Đặng Tiểu Bình lại là người mở ra cho một thời đại loạn lạc trong thái bình:
“Hiện nay xã hội đang loạn không thể tưởng được! Nhưng cái loạn của ngày
hôm nay là cái loạn do mỗi người dân chúng ta đang từ trong bình hoa quả thì bị
đổ lăn lông lốc trên mặt đất, là cái loạn trong sự biến động cực lớn của lịch sử! Cái
loạn này là điều tất nhiên, không loạn mới là điều không bình thường. Hai người
nói xem như vậy có đúng không?
Đào không thể không khâm phục ông già, anh nói:
- Đúng thế, đúng thế! Xã hội chúng ta hiện nay quả thực là rất loạn! ban đầu tôi
nghe không hiểu, nay đươc lão tiền bối chỉ bảo tôi mới hiểu rõ vấn đề” [30, 257].
26
Đó là thời đại mà pháp luật bị vi phạm một cách trắng trợn và nghiêm trọng
“Cách đây ít ngày trên báo có đăng bài viết về cái “tội khởi đầu” của các công ty
tư nhân tức là hầu như công ty tư nhân nào cũng vi phạm pháp luật khi mới bắt đầu
làm ăn. Vi phạm pháp luật như thế nào? Đất nước gì mà ngay cả pháp luật cũng không
nghiêm thế?” [30, 258]. Thời đại mà con người sống với phương châm “được làm vua,
thua làm giặc” [30, 258] và mất phương hướng trầm trọng “người người đều đang
chạy đôn chạy đáo để kiếm tiền cứ rối tung rối mù hết cả lên” [30, 257].
Đối với hai nhân vật này, ông già và trước hết là tiểu thuyết gia đã đích danh gọi
tên của chế độ toàn trị Trung Quốc là bệnh “sùng bái cá nhân ghê gớm quá” [30, 258].
Cái châm biếm khoác áo cái nghiêm túc đến thế là tuyệt đỉnh. Trương Hiền
Lượng đã già tay khi tạo ra một bộ ba hô ứng trong màn đối thoại này: Đào –
LụcThư – ông già. Đó là sự phản ảnh ba chiều của: chính quyền – dân sinh – văn
hoá trong bối cảnh hiện thực của xã hội Trung Quốc đương đại. Qua đó, thể hiện cái
nhìn châm biếm của nhà văn Trương Hiền Lượng đối với những con người đã tạo
nên “sóng gió” một thời. Mao Trạch Đông là người đã ra chỉ thị cho hội nghị Bộ
Chính trị mở rộng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc chính thức phát động phong
trào “Đại Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản” vào năm 1966; người trí thức là đối tượng
bị bức hại trực tiếp và nhiều nhất trong cuộc vận động này: “Trong những năm đầu
thập kỉ 60, do sai lầm tả khuynh trong chỉ đạo, khoa học xã hội và nhân văn ở Trung
Quốc gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều tổn thất. Những mâu thuẫn trong nội bộ
lãnh đạo của Đàng Cộng Sản Trung Quốc đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
xã hội và đời sống văn nghệ Trung Quốc. Nhiều tác giả, tác phẩm bị quy chụp là cỏ
độc, là chống Đảng một cách vô căn cứ”. Đây là một sự kiện lịch sử lớn tác động
đến tất cả mọi giai tầng trong xã hội, đặc biệt trừng phạt và cô lập giới trí thức,
giam cầm họ trong một thứ tù không kì hạn, mất hẳn sự tự do. Cuộc Đại cách
mạng văn hóa đã làm đảo lộn mọi thang bậc, giá trị trong xã hội. Một xã hội tràn
ngập không khí khủng bố, thất điên bát đảo, một xã hội bao trùm sự ngột ngạt
lên mọi người, hiện lên từng khuôn mặt của người đi tố giác, kẻ bị tố giác, người
đi tù, kẻ coi tù, tù đàn ông, tù đàn bà, đi đâu cũng đấu tố, con người bị đọa đày với
những suy tư, vật vã và nhiều trăn trở.
27
Trong số những phần tử trí thức bị chụp mũ “phái hữu” lần này Trương Hiền
Lượng cũng có mặt, rất nhanh chóng ông trở thành “một người tù không án”, bị đưa
đi lao động cải tạo ở nông thôn. Mặc dù đến 1979 – 1980 ông đã được minh oan,
nhưng vết hằn lao cải vĩnh viễn là một sang chấn tinh thần không thể nào gột bỏ.
Đối với Trương Hiền Lượng, suy ngẫm về một thời kỳ lịch sử có lẽ là chủ đề xuyên
suốt cuộc đời của nhà văn, vì đây chính là số phận của chính nhà văn. Đối với thế
hệ cùng thời với Trương Hiền Lượng mà nói, dù bằng lòng hay không bằng lòng, xã
hội và chính trị đã tác động tới cá nhân, rồi trở thành một phần trong cuộc đời của
cá nhân. Trải qua nhiều đau khổ cay đắng của cuộc sống đã tạo nên khí chất tinh
thần độc đáo của Trương Hiền Lượng.
1.2.3. Châm biếm xã hội kim tiền, hãnh tiến
Thế giới kim tiền là một vấn đề muôn thuở của văn học. Mãnh lực đồng tiền
luôn có sức hấp dẫn với con người, có lẽ chính bởi sự cám dỗ và quyền năng ghê
gớm của đồng tiền “Trong tay đã sẵn đồng tiền. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì”
(Truyện Kiều- Nguyễn Du) nên mới có cái bi kịch sa ngã vì tiền, đau đớn vì tiền, thù
hận vì tiền, hạnh phúc vì tiền là thói thường của nhân gian. H. de Balzac đã phản ánh
vấn đề này rất xót xa trong bộ Tấn trò đời bất hủ như một bản án với xã hội trưởng
giả của chủ nghĩa tư bản. Nhưng thiên đường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc từ sau
Đại Cách mạng văn hoá cũng dựng nên một xã hội kim tiền khốc liệt không kém.
Trương Hiền Lượng với nhãn quan sâu sắc và sự trải nghiệm trực tiếp đã trưng bày
xã hội đó trong tiểu thuyết một cách chân thực với giọng văn châm biếm sâu cay.
Một tỉ sáu được xem là một bức tranh đa màu đa sắc về xã hội Trung Quốc
đương đại. Ở đó có sự phát triển của khoa học kĩ thuật, nhu cầu cuộc sống tăng
nhanh, con người chạy đua cùng với đồng tiền, với những lợi nhuận trong kinh
doanh. Đó là một xã hội với những vấn đề tồn tại trong những ngõ ngách khó có thể
nhận thấy. Các “đại gia” đang cố gắng củng cố lợi nhuận, củng cố vị trí của mình
trên thương trường. Những tên quan tham đang ra sức vơ vét cho đầy túi tham trên
sức lao động của người khác. Những quán bar, những vũ trường, những “tiểu thư”,
những sở cảnh sát, những bệnh viện thì liên tục mọc lên khắp nơi. Đội ngũ y, bác sĩ
kém cỏi cả về năng lực cũng như nhân cách…tất cả đều bị đồng tiền chi phối.
28
Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, một xã hội kim tiền được phơi bày ra toàn bộ
những ngóc ngách đen tối nhất. Trong xã hội đó, con người bất chấp tất cả vì tiền.
Tiền trở thành một đối tượng đáng trọng vọng, đáng tôn thờ nhất. Tiền là chuẩn
mực của tất cả mọi thứ. Đến với tiểu thuyết Một tỷ sáu chúng ta thấy rõ có một xã
hội đã vận hành theo quan điểm: cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được
bằng rất nhiều tiền.
Trong tiểu thuyết này, chúng ta bắt gặp rất nhiều cảnh mua bán, giao dịch,
nhiều phương sách và châm ngôn liên quan đến tiền được tác giả bố trí như một mê
hồn trận. Chẳng hạn như Vương Thảo Căn- một người từ lâu đã có dấu hiệu mất
khoái cảm với tiền nhưng ông ta vẫn ngày đêm miệt mài kiếm tiền. Khi mới đặt
chân lên thành phố, Vương Thảo Căn chỉ là một kẻ nhặt rác. Đương nhiên là ông ta
sẽ mang trong mình khoái cảm của một kẻ muốn kiếm được nhiều tiền. Rồi từ một
kẻ nhặt rác, ông mua lấy một trạm thu mua phế liệu để làm ăn. Đời sống kinh tế khá
hơn. Nhưng với chừng đó, với một con người vốn dĩ khát khao đổi đời, tất nhiên
vẫn còn chưa đủ. Rồi sau đó khi thu mua thêm nhiều nhà hàng, khu giải trí, nhiều
khu đất thì Vương Thảo Căn đã đạt đến vượt qua ngưỡng dư dật – mà nói theo
giọng giễu nhại là đã qua thời kỳ “tích luỹ tư bản”. Tức là ông đã vượt qua cơn
thèm khát tiền nhưng trong suy nghĩ của Vương Thảo Căn lúc nào cũng có nhiều
toan tính về tiền. Phong cách của Vương Thảo Căn từ từ chuyển từ căn tính nông
dân sang căn tính mại bản. Dù đã có nhiều tiền, không còn cảm giác thèm tiền
nhưng ông cũng tiếp tục kiếm tiền.
Ta thấy một thực tế của xã hội Trung Quốc đương đại là sự phát triển nhanh
mạnh của nền kinh tế. Đời sống vật chất ngày càng tăng, các lĩnh vực trong kinh
doanh ngày càng thu được nhiều lợi nhuận. Vương Thảo Căn trong việc kinh doanh
luôn đặt ra một chỉ tiêu lớn cho các đơn vị kinh doanh của mình, đòi hỏi lợi nhuận
thu về phải quá 100%. Từ một công việc nhặt rác, thu mua phế liệu mà ông đã lên
đến đỉnh cao trong giới doanh nhân, nghiễm nhiên trở thành một “đại gia” được
nhiều người coi trọng “Lông dê mọc trên thân dê, không vớt vát thu nhập ngoài
luồng của một số quan chức chính phủ và ngân hàng từ người tiêu dùng thì biết vớt
vát ở đâu? Đó là nguyên nhân khiến cho giá cả của rất nhiều hàng hoá, bao gồm cả
29
nhà đất Trung Quốc chúng ta vượt rất xa thực tế của chúng, đồng thời đẻ ra việc
bán hoá đơn giả để kiếm chác. Xí nghiệp mua hoá đơn giả để làm gì? Ngoài trốn
thuế, lậu thuế, hầu hết đều nhằm đưa những thu nhập ngoài luồng chính phủ và
ngân hàng kia vào sổ sách, chuyển chi phí ngoài luồng của xí nghiệp thành giá
thành sản xuất của xí nghiệp” [30, 33]. Kinh doanh dù ở dạng nào con người đều
tìm ra những lợi nhuận ngoài luồng. Muốn tăng thêm lợi nhuận cho bản thân mình,
người ta sẵn sàng bỏ ra một số tiền, thế là mọi chuyện đều được giải quyết ổn thoả.
Cuộc sống đôi khi chỉ cần có thế mà thôi. “Cho nên Vương Thảo Căn đều không
thích nghe người ta nói quan chức Trung Quốc tham ô. Ông cảm thấy những quan
chức đó thanh liêm đáo để, đưa cho họ một, hai chục ngàn tệ là họ trả lại gấp trăm
lần, đưa tận tay cho ông thứ đáng giá đến một, hai triệu tệ” [30, 15].
Xuất hiện trong tiểu thuyết còn có vị sư cụ trụ trì miếu thiêng. Hoà vào cái
không khí của cái xã hội kim tiền, vị hoà thượng trụ trì này lại một đại thiên tài
trong nghệ thuật móc hầu bao của tín khách từ thập phương. Qua lối kể chuyện dí
dỏm gây cười của Trương Hiền Lượng, chúng ta thấy ngay đây là kẻ buôn thánh
bán thần, lợi dụng và cổ xuý mê tín để trục lợi cho bản thân. Những nhà sư, người
được xem như hình mẫu cho sự từ bi cứu khổ cứu nạn cũng là một trong những
nhân vật biểu trưng cho kiểu xã hội kim tiền trong Một tỉ sáu. Lợi dụng lòng tin của
mọi người, sư cụ trụ trì nơi Vương Thảo Căn đến xin quẻ đã làm mọi cách để lấy
tiền của dân mà không bị ai ca thán. “Đặc biệt ông hoá duyên, dùng danh tiếng của
Phật mà làm điểm bán, lấy lịch sử miếu cổ làm thương hiệu, sản phẩm chủ yếu là thẻ.
Một tờ giấy xấu mỏng tang ít nhất cũng vài trăm tệ, nhiều hơn thì cả nghìn tệ, buôn
cổ phiếu cũng không kiếm được nhiều tiền bằng cái nghề này, hơn nữa lại không hề
có rủi ro…” [ 30, 19]. Vị sư này chủ yếu là tiếp các quan lớn. Bằng con mắt sỏi đời
của mình “nhà sư đáng kính” có thể nhận ra ai là đại gia thực sự: “Đừng tưởng
người xuất gia không để ý gì đến sự đời, hòa thượng này biết rất rõ về các loại xe
con. Xe của vị quan lớn chẳng qua là con Audi, lại là loại sản xuất trong nước, còn
xe mới đến là Benz Lớn. Tiểu thư của quan lớn nói “Bai bai” với hòa thượng nhưng
hòa thượng chẳng buồn để ý….vội vàng đến đón Benz Lớn” [30, 20].
30
Màn đối đáp của lão sư cụ hám tiền với kẻ thích chinh phục tiền và hám danh
như Vương Thảo Căn là một màn kịch đặc sắc tạo ấn tượng lớn với người đọc. Sư
cụ trụ trì vừa thuộc điển lễ giáo lý nhà Phật và thông thạo bộ môn kinh tế thị trường
của chủ nghĩa xã hội thì quả là phi phàm. Màn đối đáp của vị sư cụ với Vương Thảo
Căn có lẽ được lẫy ra từ vấn nạn hối lộ trên đất Phật trong Tây du ký lừng danh
thiên hạ
Thế là sư bèn giở những tích lũy hàng ngày về kiến thức kinh tế thị trường ra
gợi ý cho Vương Thảo Căn:
- A di đà Phật! Thí chủ, ông nghĩ xem nước Trung Quốc chúng ta thứ gì
nhiều nhất?
Vương Thảo Căn vuột nói luôn:
- Đương nhiên là người nhiều nhất.
- Đúng rồi, hòa thượng vỗ vào áo cà sa- Nhưng A di đà Phật, người ăn ngũ
cốc tạp lương thì ai mà không sinh bệnh chứ? Sinh bệnh thì thế nào? Phải vào bệnh
viện tìm bác sĩ. Dù làm quan lớn đến đâu, tài có phát nhiều đến đâu, hễ cứ vào bệnh
viện là người thấp hẳn ba gang (…)
- Chính là cái ý này đấy. Bất kể là người nào, địa vị cao đến đâu, đại gia lớn
đến mấy ….nhưng hễ ốm đau thì ngược lại mình phải cầu cạnh người ta. Cho nên
mới nói, mở một bệnh viện thì vạn sự chẳng phải cầu cạnh ai, mà ai ai cũng phải cầu
cạnh mình. Cầu cạnh mình làm gì? Để mình cứu người ta mà lị. Cho nên mới nói mở
một bệnh viện còn kiếm bộn tiền hơn mở một ngân hàng. Cần mạng hay cần tiền?
Nếu cần mạng thì phải xùy tiền ra. Nếu cần tiền thì đừng vào bệnh viện. A di đà Phật,
muốn bao nhiêu tiền chẳng phải thí chủ cứ việc phán hay sao? [ 30, 22-23]
Trong tiểu thuyết này, Trương Hiền Lượng còn lôi kéo quan chức với sự phủ
định của sự phủ định tham ô để khắc hoạ một xã hội kim tiền tràn lan. Trong tác
phầm, Trương Hiền Lượng không hề xây dựng một quan chức tham ô trực tiếp để
cho độc giả soi thấu vấn đề. Hình tượng quan chức tham ô được ông phiếm chỉ hoá
đi để giảm độ căng cho sự tồn tại của tác phẩm. Nhưng chúng ta có thể tập hợp rất
nhiều điều về giới chức này liên quan đến nạn chạy theo đồng tiền. Những hiện
31
tượng thuộc về cơ sở kinh tế đều được Trương Hiền Lượng nhắc đi nhắc lại có khi
này khi khắc và có khi ít khi nhiều. Có khi tác giả mạnh dạn so sánh và liên kết
ngầm giữa giới chức chính quyền với bọn đĩ bợm ma cô.
Sở cảnh sát mọc lên rất nhiều nhưng không có chút động tĩnh gì đến việc bảo
vệ trật tự xã hội. Cảnh sát còn bảo vệ cho “tiểu thư” trong khi họ là những người
đang thực hiện lệnh truy quét “gái mại dâm”. Chỉ là lệnh và nó chỉ diễn ra một ít
ngày rồi lắng xuống. Pháp luật không chặt chẽ nên không thể triệt tiêu được những
hoạt động mại dâm của các “tiểu thư”. Cảnh sát chỉ bắt giữ điều tra rồi thả những
cô gái bán dâm về. Những “tiểu thư” quay về quê hương nhưng làm gì có quê
hương nào nhìn họ như một con người nữa. Họ lại tiếp tục làm gái cho qua ngày.
Pháp luật hay giáo dục, bệnh viện hay chùa chiền, cảnh sát hay kinh doanh, tất cả
đều quy về trong một chữ tiền. Từ đây ta thấy Trương Hiền Lượng đã rất khéo léo
để phơi bày bộ mặt thật của Trung Quốc thời @. Một bức tranh chân thực về mọi
mặt, một xã hội tưởng chừng hoàn hảo nhưng chỉ là giả dối. Và con người trong xã
hội ấy đôi khi buộc phải tuân theo những thứ được gọi là quy luật, muốn tồn tại phải
có “tiền”, “quyền”. “Tiền” “quyền” là hai điều kiện cần và đủ để có thể tồn tại
trong xã hội này. Vì thế con người trong xã hội ấy cần phải tìm cho mình một lối
thoát, lối thoát đó là ngày càng dấn sâu, tham gia vào những cuộc làm ăn bất chính.
Và một thực trạng rất vô lý nhưng vẫn tồn tại trong cái xã hội hiện đại này:
bệnh viện là nơi chữa bệnh cứu người, là nơi tập trung những con người được xem
là tài đức của đất nước “lương y như từ mẫu”. Nhưng tất cả chỉ mang tính lí thuyết
mà thôi: “Bất kể người nào, địa vị cao đến đâu, đại gia lớn đến mấy, bình thường
người ta cầu cạnh mình, nhưng hễ ốm đau thì ngược lại mình phải cầu cạnh người
ta. Cho nên mới nói, mở ra một bệnh viện thì vạn sự chẳng cầu ai, mà ai ai cũng
cầu cạnh mình” [30, 23]. Đó là cái gì? Là điều quan trọng, là những triết lí mà nhà
sư đã nói với Vương Thảo Căn. Trên đời này không có điều gì là cho không cả, và
cũng không có điều gì khiến người ta phải bỏ cả tâm huyết ra cả.
Thế nên việc mở ra bệnh viện cũng thế. Mục đích không phải là để nghiên cứu
tìm ra những phương pháp cứu người mà chủ yếu là để kinh doanh. Nhiều khi một
32
bệnh viện còn kiếm được nhiều lợi nhuận hơn cả ngân hàng: “cần mạng hay cần
tiền? Nếu cần mạng thì xuỳ tiền ra”. Nói chung những lời của nhà sư rất thấu tình
đạt lý. Sự thật là nếu cứ có bệnh vào bệnh viện dù là ở địa vị nào cũng thấy mình
“thấp hẳn ba gang”. Các bác sĩ không quan tâm đến người bệnh bị gì, nặng hay
nhẹ. Cho dù ở trường hợp nào đi nữa, đều phải kiểm tra toàn thân, lấy máu để xét
nghiệm. Đó là thực trạng của các bệnh viện trong xã hội đương đại, trắng trợn moi
tiền người dân.
Trong tiểu thuyết này, xuất hiện cả những kẻ tán tận lương tâm chỉ vì tiền.
Tiêu biểu như cha của Lục Thư và Nhất Ức Lục. Từ việc hận thù đứa con trai mà
ông tin rằng nó là nguyên nhân làm ông mất đi người vợ, ông đã dùng Nhất Ức Lục
như một lá bài thần thánh để trục lợi chính tiền bạc mà đứa con gái duy nhất của
ông ta đánh đổi bằng tuổi thanh xuân, bằng ước mơ và bằng chính trinh tiết con gái.
Ông bắt Lục Thư hàng tháng phải gởi về 100 tệ để đứa em của cô được đến trường,
được thoát khỏi những trận đòn dữ dội. Ông đã vô tình đẩy Lục Thư đến con đường
làm tiểu thư để kiếm tiền bằng cách chôn trinh tiết của mình và phục vụ cho ông.
Dường như xã hội này chỉ quan tâm đến đồng tiền, đến lợi nhuận. Điều đó đã
khiến cho bao số phận con người đáng thương rơi vào bùn lầy của xã hội. Lục Thư
đã phải bỏ học để kiếm tiền nuôi em trai. Giữa vòng xoáy của xã hội, giữa những
khó khăn không thể giải quyết được buộc cô phải “bán trinh” để lấy tiền gửi về cho
gia đình, dấn thân vào con đường làm “tiểu thư”. Nhị Bách Ngũ đáng thương phải
rơi vào cảnh đầu đường xó chợ. Nền giáo dục của Trung Quốc chỉ quan tâm đến
việc đào tạo cho con người kiến thức học tập mà không quản lý chặt chẽ đến đời
sống giới tính của con người. Cô bé đã rơi từ tay kẻ lưu manh này đến bọn lưu
manh khác. Cuộc sống của Nhị Bách Ngũ giống như một nhành liễu rũ bên hồ,
không biết những tháng ngày về sau sẽ ra sao.
Có thể nói, trong văn học đương đại Trung Quốc sau Đại Cách mạng Văn hóa
chưa có tác phẩm nào mà nhà văn lại vận dụng lý thuyết về quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội nhiều như Trương Hiền Lượng trong tiểu thuyết Một tỷ sáu. Trong tiểu
thuyết này, bất kỳ nhân vật nào cũng là có thể mở lời ra nói những nguyên lý vận
hành đồng tiền như một nhà kinh tế học. Đây là cái nhìn phản biện tư tưởng về kinh
33
tế của chủ nghĩa Mác cũng là sự phê phán xã hội chạy theo đồng tiền. Xã hội đầy
rẫy những con người chỉ sống dựa vào “đồng tiền”, nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy
“danh lợi”, “địa vị”, “kinh doanh”, bệnh viện cũng kinh doanh…
Địa danh trong tác phẩm này cũng được Trương Hiền Lượng sử dụng châm
biếm xã hội kim tiền Trung Quốc. Những “Chí tôn vương phủ”, “phòng Tổng
thống”, “Đế vương phủ”, “Hồng Vận Lâu”, nhà hàng khách sạn cấp cao… càng tô
đậm thêm tính chất phù hoa ấy.
1.2.4. Châm biếm khoa học “giả cầy”
Một chủ đề châm biếm khác trong tiểu thuyết Một tỉ sáu mà Trường Hiền
Lượng đặt ra với xã hội đương đại Trung Quốc đó chính là khoa học và vai trò của
khoa học với xã hội.
Trong lịch sử văn học nhân loại, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng mang tính
chất dự báo cho sự phát triển văn minh công nghệ của Jules Verne được xem là định
đề đáng tin tưởng cho xã hội con người ở tương lai. Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu
này, hàm lượng khoa học không phải là điều mà Trương Hiền Lượng nhắm đến.
Tuy nhiên, cái mà ông tiếp thu được ở Jules Verne là tinh thần phản biện với sự tiến
bộ của khoa học.
Jules Verne chỉ nghi ngại rằng: sự tiến bộ khoa học có thể sẽ không hoàn toàn
đem lại sự khoái cảm cuộc sống cho con người. Trương Hiền Lượng đã tiếp thu và
nâng sự nghi ngại đó lên một tầm mới: con người sẽ ứng dụng công nghệ khoa học
theo mục đích xấu xa đồi bại. Và điều này đã được tác giả trình bày trong tiểu
thuyết Một tỷ sáu.
Ngoại trừ chủ nhiệm Lưu thì những con người còn lại như Vương Thảo Căn,
Đỗ Bì và tập thể y bác sĩ của phòng nghiên cứu chữa trị vô sinh tại bệnh viện Chúng
sinh, cũng như những y bác sĩ khác của thành phố đều là những con người tìm cách
trục lợi từ khoa học thụ tinh nhân tạo.
Vương Thảo Căn không phải là người chuyên môn khoa học, nên anh ta thấy
khoa học là một thứ siêu hàng hoá cần kinh doanh. Khi lập bộ môn nghiên cứu sinh đẻ
ưu việt, ông ta đã tuyên bố những tuyên bố bất hủ: “Này các ông, chúng ta nên chuyên
trị cái b. và cái l., tôi không tin mọi người lại không phát tài” [30, 35]. Và lời nói này
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng

More Related Content

What's hot

Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4
Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4
Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4
 
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana YoshimotoLuận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
 
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật ÁnhĐề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
Đề tài viết về thiếu niên qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
 
Ca dao dân ca
Ca dao dân caCa dao dân ca
Ca dao dân ca
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAYLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
 
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCDĐề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng

Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXTrữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng (20)

Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
 
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiLuận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XXTrữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Thế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình Giang
Thế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình GiangThế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình Giang
Thế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình Giang
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAYLuận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 

Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ THỦY NGHEÄ THUAÄT CHAÂM BIEÁM TRONG TIEÅU THUYEÁT MOÄT TÆ SAÙU CUÛA TRÖÔNG HIEÀN LÖÔÏNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thừa Thiên Huế, Năm 2016
  • 2. i ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ THỦY NGHEÄ THUAÄT CHAÂM BIEÁM TRONG TIEÅU THUYEÁT MOÄT TÆ SAÙU CUÛA TRÖÔNG HIEÀN LÖÔÏNG Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS. TRẦN THÁI HỌC Thừa Thiên Huế, Năm 2016
  • 3. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Thị Thủy
  • 4. iii Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu của tôi được hoàn thành nhờ nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ, động viên của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Trần Thái Học, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn phòng Đào tạo Sau đại học, quý thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn và thư viện trường ĐHSP Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường. Xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường THPT Trần Văn Kỷ đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ở bên động viên, khích lệ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi an tâm học tập, nghiên cứu và hoàn thành tốt luận
  • 5. iv văn này. Huế, tháng 09 năm 2016 Tác giả luận văn Phạm Thị Thủy iii iii
  • 6. 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa ...............................................................................................................i Lời cam đoan.............................................................................................................. ii Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii Mục lục........................................................................................................................1 PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................3 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................6 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................9 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................9 5. Đóng góp của luận văn .....................................................................................10 6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................10 PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................11 Chƣơng 1. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI ....................................................................11 1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học............................................................11 1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống..................................................11 1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại .............................................13 1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng .....15 1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc ..................................................................16 1.2.2. Châm biếm nhân vật lịch sử ...................................................................23 1.2.3. Châm biếm xã hội kim tiền, hãnh tiến ...................................................27 1.2.4. Châm biếm khoa học “giả cầy”..............................................................33 Chƣơng 2. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ..........................38 2.1. Cốt truyện Carnaval hoá trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...38 2.1.1. Tuyến cốt truyện Doanh nhân thành đạt ...............................................39
  • 7. 2 2.1.2. Tuyến cốt truyện Gái điếm thành đạt.....................................................42 2.2. Nhân vật.........................................................................................................44 2.2.1. Nhân vật carnaval hoá ............................................................................45 2.2.2. Nhân vật hãnh tiến..................................................................................53 2.2.3. Nhân vật đĩ thoã .....................................................................................56 2.2.4. Nhân vật “siêu thực” mang suy ngẫm của tác giả..................................59 Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ THỦ PHÁP ............................66 3.1. Giọng điệu châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...66 3.2.1. Giọng điệu hài hước ...............................................................................66 3.2.2. Giọng điệu dung tục ...............................................................................74 3.2. Thủ pháp châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng78 3.2.1. Giễu nhại ................................................................................................79 3.2.2. Phóng đại................................................................................................85 PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................95 PHỤ LỤC
  • 8. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học Trung Quốc sau Đại Cách mạng văn hóa đã có một sự phát triển mạnh mẽ với diện mạo vô cùng phong phú và phức tạp. Những phần tử bị kết án oan, bị quy chụp là “phái hữu” trong cuộc Cách mạng văn hóa đã được minh oan và được nhìn nhận lại. Trải qua mấy chục năm tìm tòi và thử nghiệm trong sự va đập giữa hiện đại và truyền thống, giữa Trung Quốc và thế giới thì văn học Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa đã có được tiếng nói riêng, đánh dấu sự phá vỡ trật tự trong thủ pháp biểu hiện đơn nhất tạo nên một bức tranh văn học đương đại phong phú, đa dạng, đủ màu sắc. Văn học đương đại Trung Quốc xuất hiện nhiều trào lưu tiểu thuyết mới: dòng “văn học tiên phong”, dòng “văn học tả thực”, dòng “siêu thực”, dòng “hiện đại chủ nghĩa”… nhưng đáng chú ý là dòng “văn học vết thương” và “văn học phản tư” góp phần mở ra một thời kì nở rộ cho văn đàn đương đại Trung Quốc. Thế hệ nhà văn xuất hiện sau cuộc Đại cách mạng văn hóa làm nên diện mạo nền văn học Trung Quốc. Hơn ai hết, thế hệ nhà văn này là những nạn nhân, chịu nhiều đau khổ, bị bức hại tàn khốc trong những năm tháng rối ren, loạn lạc nhưng họ là những người mẫn thế, dám nghĩ, dám làm. Họ không phủ định hiện thực bằng những lí thuyết dối trá “tô hồng” hay chủ trương “hai kết hợp”, tức là kết hợp “Chủ nghĩa hiện thực cách mạng” với “Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”. Những lớp nhà văn này thẳng thắn nhìn thẳng vào hiện thực đau khổ, không né tránh, vạch trần tội lỗi của bọn “bè lũ bốn tên”, vạch trần những tàn dư xấu xa trong xã hội. Thế hệ nhà văn này rất đông đảo: Trương Hiền Lượng, Lưu Tâm Vũ, Mạc Ngôn, Lưu Hằng, Giả Bình Ao, Phùng Kí Tài, Thẩm Dung… Như vậy có thể thấy, cuộc Đại cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của văn học đương đại đã tạo nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc với nhiều phong cách mới lạ, độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu. 1.2. Trương Hiền Lượng là một tên tuổi được chú ý trên văn đàn Trung Quốc từ lâu. Năm 2004, ông thuộc vào danh sách một trong mười người Trung Quốc được tôn vinh là nhân vật văn hoá kiệt xuất. Cả cuộc đời ông là một pho sử liệu gắn liền với những biến động của lịch sử Trung Quốc hiện đại.
  • 9. 4 Trương Hiền Lượng quê gốc ở tỉnh Giang Tô, sinh năm 1936 tại thành phố Nam Kinh. Năm 1954, Trương Hiền Lượng chưa đầy 18 tuổi đã phải chia tay tuổi học trò. Sau khi người cha qua đời, Trương Hiền Lượng tuy còn ít tuổi đã phải gánh vác trọng trách gia đình. Sau đó, ông dẫn mẹ và em gái rời khỏi Nam Kinh, đến chân núi Hạ Lan, Ninh Hạ. Mảnh đất này đã thu hút chàng trai trẻ Trương Hiền Lượng, và viết văn đã trở thành phương thức tốt nhất để bày tỏ những ý nghĩ trong nội tâm của ông. Năm 1957, Trương Hiền Lượng sáng tác bài thơ “Đại phong ca” thể hiện lòng hăng hái tuổi thanh xuân, đăng trên nguyệt san văn học Diên Hà đã có sức ảnh hưởng lớn và gây phản ứng mạnh mẽ. Nhưng cũng chính vì bài thơ này mà Trương Hiền Lượng đã bị phê phán kịch liệt. Ông bị liệt vào danh sách phần tử phái hữu phản động, bị đày đi lao động khổ sai suốt hai mươi hai năm trên một vùng đất xa xôi, hoang vắng. Đó là Trấn Bắc Bảo thuộc địa phận tỉnh Ninh Hạ, nằm ở hướng Tây – Bắc Trung Quốc. Chính ở đây, sự hoang vắng vô tận, sự cô đơn đến tái tê linh hồn cũng như sự buồn thảm của lịch sử Trung Quốc đã đánh thức một tài năng văn chương kiệt xuất. Ông đã đổ ra đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt của mình để viết Một nửa đàn ông là đàn bà và Cây Lục hóa ngay trên vùng đất màu vàng này giữa tiếng gió rầm rú đêm ngày. Năm 1980, sau khi được phục hồi danh dự, Trương Hiền Lượng đã chối từ mọi cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ở thành phố, mọi lời mời mọc đầy hứa hẹn của bè bạn xa gần, ông quyết định trở lại sống lâu dài và có thể là vĩnh viễn ngay trên mảnh đất mà ông đã lao động khổ sai hai mươi hai năm trước. Và ông đã trở thành một nhà tư bản giàu có. Cái đáng quý ở Trương Hiền Lượng là dù ở hoàn cảnh nào, văn chương vẫn là một thế giới cám dỗ cao quý và vẫn là một niềm hoan lạc thanh khiết giữa vòng xoáy của số phận. Dù bước chân vào con đường kinh doanh nhưng Trương Hiền Lượng không bao giờ quên thiên chức văn chương của mình. Quá trình xây dựng thành phố điện ảnh Trấn Bắc Bảo đồng thời cũng là quá trình thâm canh tác phẩm văn học của ông sau này. Chưa kể nhiều tác phẩm nổi tiếng đã dịch ra gần 30 thứ tiếng khác nhau trước đây, Trương Hiền Lượng liên tục cho ra mắt nhiều bộ tiểu thuyết lớn như: Cây Bồ đề, Thời thanh xuân, Phiền muộn, Đó là trí tuệ... Bằng những đóng góp nghệ thuật qua nửa thế kỉ, Trương Hiền Lượng đã được xếp vào vị trí của những nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học Trung Quốc. Sự mẫn cảm với những gì đang diễn ra hằng ngày, những vấn đề nóng
  • 10. 5 bỏng không riêng của Trung Quốc mà còn của cả nhân loại, đã khiến những trang viết sắc sảo, đầy “chất tiểu thuyết” của Trương Hiền Lượng không chỉ thu hút bao thế hệ độc giả mà còn gợi không ít những hứng thú tranh luận, trở thành nơi “giao tiếp đối thoại” với đông đảo bạn đọc. 1.3. Một tỉ sáu của Trương Hiền Lượng phản ánh xã hội đương đại Trung Quốc thông qua cuộc đời và số phận của một số người trong lớp “nhà giàu mới nổi” và những bi - hài kịch mà họ là diễn viên chính. Tác giả đã mở ra cho bạn đọc hiểu hơn về xã hội Trung Quốc đương đại trong sự phát triển của khoa học kĩ thuật tiên tiến, đồng thời khám phá những góc khuất của xã hội. Trong tác phẩm, Trương Hiền Lượng đã khéo léo đi sâu vào từng ngõ ngách của đời sống con người trước guồng quay của thời đại mới, len lỏi vào tận sâu tâm hồn của con người, những góc kín tưởng chừng như không mấy ai để mắt đến, khám phá cái gọi là bản năng của con người. Ông giúp độc giả có cái nhìn thấu đáo hơn về xã hội Trung Quốc đương đại. Trong xã hội của Một tỉ sáu, trước sự biến đổi muôn màu của cuộc sống, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, các nền kinh tế - khoa học kĩ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của con người vì thế cũng được nâng cao. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ đó thì đời sống tinh thần của con người lại xuống cấp trầm trọng. Con người chủ yếu coi trọng địa vị, danh lợi, những toan tính trong cuộc sống đua chen mà quên đi cách phải sống như thế nào. Đồng tiền trở thành mục tiêu phấn đấu của con người trong xã hội đương đại. Qua tiểu thuyết Một tỉ sáu, tác giả còn đặt ra một vấn đề lớn cho xã hội Trung Quốc đương đại: tương lai của dân tộc Trung Quốc sẽ đi về đâu khi mà có sự chênh lệch rất lớn về đời sống vật chất và đạo đức, nhân cách của con người? Đời sống vật chất ngày càng phát triển, trong khi con người thì ngày càng xuống cấp về đạo đức, về nhân cách? Đó là vấn đề riêng của đất nước Trung Quốc nhưng đó cũng là vấn đề, là câu hỏi day dứt mà nhân loại đặt ra: sau này tương lai của con người sẽ như thế nào? Đó là những câu hỏi mang tầm bản thể luận. 1.4. Một tỉ sáu cũng là tác phẩm có giá trị nghệ thuật độc đáo và đặc sắc với những tình tiết giả tưởng đầy hấp dẫn, kịch tính cùng với giọng văn hài hước, châm biếm. Trong đó, đáng chú ý nhất ở Một tỉ sáu là nhà văn Trương Hiền Lượng đã tạo nên một đứa con tinh thần với nét đặc sắc nhất là nghệ thuật châm biếm. Trong hành
  • 11. 6 trình đi sâu vào khám phá các phương diện nghệ thuật của tác phẩm để lí giải thành công của Một tỉ sáu bằng việc vận dụng lí thuyết châm biếm thì mới thấy hết được những đóng góp của nhà văn Trương Hiền Lượng mà nếu tiếp cận ở góc độ khác thì không thấy được. Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng” để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Sách, báo nghiên cứu về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm của nhà văn Một số bài viết ở các báo, tạp chí, sau đó được PGS.TS Hồ Sỹ Hiệp tập hợp lại trong công trình Một số vấn đề về văn học Trung Quốc đương đại – NXB tổng hợp Đồng Nai (2007) và Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì đổi mới– NXB ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn một số các công trình nghiên cứu của PGS.TS Lê Huy Tiêu: Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa,(2011), NXB Giáo dục ; Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì đổi mới (1976 – 2000), (2006), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp bộ Một số thành tựu và đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết Trung Quốc sau “Cách mạng văn hóa” của PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hải, tác giả công trình nghiên cứu này đã khái quát được những nội dung và thành tựu của văn học Trung Quốc thời kì sau “Cách mạng văn hóa”. Trong luận văn Tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng từ góc nhìn phân tâm học (2014), Đinh Thị Hoàng Yến đã phần nào làm sáng rõ hành trình sáng tạo của nhà văn Trương Hiền Lượng trong việc phân tích, nghiên cứu con người ở tầng sâu bí ẩn của nó. Những giằng xé giữa ý thức và vô thức để khẳng định ý thức vươn lên của con người, để thấy “Cách mạng văn hóa” tàn khốc kia có thể hủy diệt tất cả song nó lại không thể tận diệt được khát vọng lí tưởng của con người. Luận văn Thạc sĩ “Tính triết lí và trữ tình trong tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng” (Đại học KHXH và NV Hà Nội năm 2013), Hoàng Thị Lan làm rõ triết lí về cái đói và sự tồn tại, triết lí giữa tự do và kìm kẹp, triết lí giữa sự sống và cái chết. Tuy nhiên, luận văn này người viết chỉ tập trung đi vào nghiên cứu “tính triết lí – trữ tình” qua hai tác phẩm Cây hợp hoan và Một nửa đàn ông là đàn bà. Người viết chưa đi vào khai thác nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng nói chung và Một tỉ sáu nói riêng.
  • 12. 7 Tác giả Lê Huy Tiêu đã cho rằng tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng gợi sự suy ngẫm giàu triết lí: “Bất luận đó là những tác phẩm viết về “vết thương” trong “Cách mạng văn hoá” hay những tác phẩm phản ánh công cuộc cải cách, hình tượng nhân vật trong tác phẩm của Trương Hiền Lượng đều có những suy nghĩ mang tính triết lí sâu sắc” [ 51, 244]. Nhà xuất bản Phụ nữ đã có những lời nhận xét về tác phẩm Một tỉ sáu của Trương Hiền Lượng như sau: Cuốn tiểu thuyết về xã hội đương đại Trung Quốc với những tình tiết giả tưởng đầy kịch tính và giọng văn hài hước, châm biếm một lần nữa khẳng định Trương Hiền Lượng xứng đáng là một trong số 100 nhà văn có ảnh hưởng rộng lớn đến thế kỉ XX do tạp chí Time bầu chọn. Ngoài ra, chúng tôi đã tiến hành thu thập những tư liệu nghiên cứu có liên quan đến nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung và nghệ thuật châm biếm trong sáng tác của một số nhà văn, một số tác phẩm văn học nói riêng. Trong báo cáo nghiên cứu khoa học Nghệ thuật châm biếm của Lỗ Tấn trong truyện ngắn thời kì đầu đăng trên Tạp chí khoa học, tập XXXVIII – số 1B- 2009- ĐH Vinh, tác giả Mai Đức Hán viết: Nói đến nghệ thuật châm biếm tức là chúng ta nói tới cách thức lựa chọn đối tượng, tổ chức văn bản nghệ thuật để vạch trần mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, phơi bày những đặc tính xấu xa của đủ mọi hạng người trong xã hội, từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm, đả kích [61, 1]. 2.2. Tài liệu trên website viết về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm của nhà văn Trên online http://vietnamese.cri.cn ngày 16 tháng 12 năm 2010, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Trương Hiền Lượng. Ông đã bày tỏ những trăn trở: “Tôi cảm thấy rất tự hào, vì tôi cùng vận mệnh với dân tộc Trung Hoa cũng đang gặp trắc trở, hơn nữa lúc đó ngoài tôi ra nhiều công nhân, nông dân, cán bộ và tri thức gặp phải chuyện tan cửa, nát nhà, lạc vợ, xa con, mất tự do, thậm chí mất tính mạng, tôi vẫn phải coi là người may mắn sống sót”. Chính vì vậy, bằng ngòi bút tài hoa của mình, ông đã ghi lại một cách chân thật một thời kì lịch sử để lại nhiều đau thương không chỉ trên bản thân người thi sĩ mà còn cả dân tộc Trung Hoa. Trên website: vietbao.vn/vi/van – hoa/ Nguoi..../181,1/3/2014, tác giả Hoài Vũ trong mục Người đàn ông đi bán hoang vắng. Bài viết này đươc in trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 05 – 10- 2004. Tác giả có nhận xét:
  • 13. 8 Ngẩng đầu lên mênh mông/ Chỉ nghe ngọn gió mênh mông thổi về. Đúng như câu hát dân gian, nơi đày ải Trương Hiền Lượng vô cùng hoang vắng, hiu quạnh, chỉ có tiếng gió là còn chút sức sống. Gió như đoàn tàu tốc hành thổi ù ù suốt đêm ngày, xới tung bụi cát màu vàng – màu sắc riêng biệt của vùng đất lưu vực sông Hoàng Hà, xới tung những dằn vặt khổ đau của Trương Hiền Lượng và những người chung số phận với ông trong thời kì cực kì buồn thảm của lịch sử Trung Quốc. Ngay trên vùng đất màu vàng, giữa tiếng gió gầm rú đêm ngày, ông đã đổ ra đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt của mình để viết nên “Một nửa đàn ông là đàn bà” và “Cây lục hóa” làm chấn động văn học Trung Quốc. Trang website: 4phuong.net/....../su-da-dang-ve-but-phap....tác giả Mai Hải Oanh có nhận định: Khi nói đến bút pháp tả thực mới cần thấy rằng đây là thủ pháp quan trọng của khuynh hướng tiểu thuyết “nhận thức lại” lịch sử. Khuynh hướng này có phần gần gũi với cảm hứng phản tư trong tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa với “Một nửa đàn ông là đàn bà” của Trương Hiền Lượng, “Nôn nóng” của Giả Bình Ao, “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn……..các nhà văn Trung Quốc đã nhìn lại hàng loạt vấn đề đau lòng, những bi kịch đầy nước mắt trong thời kì cách mạng văn hóa. Tác phẩm của họ được người đọc đón chào nồng nhiệt bởi từng trang viết thấm đầy tinh thần phản tư. Trên Website://Tiki.vn/review/……ngày 21/1/2013, người đọc Phạm Thành Trung có nhận xét: Tác giả đã sáng tạo nên một câu chuyện hết sức hấp dẫn với tất cả vẻ sinh động và khác biệt cần có để tạo nên một tác phẩm giả tưởng đầy kì thú. Mỗi trang sách đều có những chi tiết hay, những câu văn rất đắt, những miêu tả tinh tế làm cho người đọc thích thú hấp dẫn một cách không ngờ. Tài liệu nghiên cứu về Trương Hiền Lượng và sáng tác của nhà văn mà chúng tôi tìm thấy ở trên mạng cũng không nhiều. Chủ yếu là các bài viết của Hoài Vũ, Mai Hải Oanh và ý kiến của một số độc giả sau khi đọc tác phẩm Một tỉ sáu. Tác giả Hoài Vũ đã nhận xét về Trương Hiền Lượng trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc; tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng chính là hiện thân của hiện thực cuộc sống đau khổ ngoài kia. Mai Hải Oanh đã đánh giá hàng loạt các nhà văn Trung Quốc trong khi nhìn lại hầu khắp các vấn đề đau lòng cũng như những bi kịch thời đại trong thời kì “
  • 14. 9 Cách mạng văn hóa”. Và từ góc nhìn đó, Trương Hiền Lượng cũng đã đóng góp một phần không nhỏ trong hành trình lịch sử của văn học dân tộc. Ý kiến nhận xét của độc giả Phạm Thành Trung mới chỉ dừng lại ở cái nhìn chung chung tổng quan nhất về đặc sắc trong ngòi bút nghệ thuật của Trương Hiền Lượng, chưa đi sâu vào một phương diện nào cụ thể. Nhìn chung, tài năng của Trương Hiền Lượng đến nay không còn gì nghi ngờ và bàn cãi. Tuy nhiên ở Việt Nam, tên tuổi của ông vẫn còn khá xa lạ khi so sánh với những cái tên như Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn, Sơn Táp… Mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập nhiều vấn đề trong từng tác phẩm của Trương Hiền Lượng, nhưng trong phạm vi khảo sát tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay, hầu như chưa có một đề tài nào chuyên sâu tìm hiểu về “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng”. Trên tinh thần tiếp thu, phát triển ý kiến của người đi trước và một số ý kiến cá nhân, chúng tôi xin mạnh dạn góp phần làm sáng tỏ vấn đề: “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng” 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng tập trung trên các bình diện: Đề tài, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu và thủ pháp. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tập trung khảo sát tác phẩm Một tỉ sáu của nhà văn Trương Hiền Lượng. Ngoài ra, khảo sát các tác phẩm khác của ông cũng như của một số nhà văn khác để đối sánh. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp cấu trúc - hệ thống Nghiên cứu nghệ thuật châm biếm thể hiện trên mọi phương diện nội dung và hình thức trong quan hệ biện chứng và mang tính chỉnh thể trọn vẹn của tác phẩm. 4.2 Phương pháp liên ngành Đặt tác phẩm dưới góc nhìn liên ngành như: Thi pháp học, Xã hội học, Tâm lí học, Tiếp nhận văn học…..để thấy được sự đánh giá khác nhau về giá trị của tác phẩm.
  • 15. 10 4.3 Phương pháp so sánh Chúng tôi so sánh đối chiếu Một tỉ sáu với những sáng tác trước và sau đó để thấy được sự tiếp biến của nhà văn. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp và thủ pháp để nghiên cứu như: phân tích tổng hợp, thống kê phân loại…..để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra. 5. Đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu đã đem lại những đóng góp sau: - Luận văn góp phần giới thiệu nhà văn Trương Hiền Lượng đối với độc giả Việt Nam và nêu bật thành công của tác phẩm Một tỉ sáu. Ông là một tác giả ưu tú, xuất sắc của văn học Trung Quốc đương đại, với một giọng văn độc đáo: vừa giàu tính triết lí, trữ tình, vừa mang màu sắc châm biếm sâu cay. Từ đó thấy được thế giới quan và nhãn quan nghệ thuật của Trương Hiền Lượng. - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về nghệ thuật châm biếm trong một tác phẩm nổi tiếng của Trương Hiền Lượng. Từ tác phẩm này, luận văn đã góp phần làm rõ vấn đề lí thuyết, giúp người đọc hiểu được một cách tường minh, đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung và trong tác phẩm Một tỉ sáu nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo quý báu cho những ai quan tâm đến đề tài nói chung và sáng tác của Trương Hiền Lượng nói riêng. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần nội dung chính được triển khai gồm 3 chương: Chương 1: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng nhìn từ phương diện đề tài. Chương 2: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật. Chương 3: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng nhìn từ phương diện giọng điệu và thủ pháp.
  • 16. 11 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI 1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng này hay đối tượng và hiện tượng khác trong xã hội. 1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống Truyền thống văn học của mọi dân tộc đều có yếu tố/ cảm hứng humour (hài hước) và Irony (châm biếm). Trong văn học dân gian, tính chất hài hước và châm biếm đã tồn tại từ rất sớm ở những thể loại thơ ca dân gian, cách ngôn dân gian, truyện ngụ ngôn và truyện cười với những biến thể của nó như giai thoại trào tiếu, hý ngôn, hài kịch… Các nhà lí luận văn học Trung Hoa đầu thế kỷ XX cũng đồng thời với nhà văn Nhất Linh ở Việt Nam đã dịch khái niệm humour trong nguyên ngữ tiếng Pháp sang âm Hán (Việt) là u mặc (sau đó giữa thế kỷ XX ở Việt Nam mới xuất hiện từ mượn kí âm là uy - mua). Truyện cười và hài kịch dân gian là hai thể loại dồi dào sức châm biếm nhất trong các thể loại của văn học dân gian. Bởi lẽ, ở hai thể loại này, so với các thể loại khác đã có sự chuyển đổi về mặt đối tượng thẩm mỹ. Xuất hiện với vai trò mở đầu cho loại hình ý thức xã hội, huyền thoại lấy cái kỳ ảo làm đối tượng thẩm mỹ. Truyền thuyết và sử thi, tuy cũng chưa dứt được cái huyền ảo nhưng đã xác định cái cao cả, cái hùng tráng là đối tượng thẩm mỹ của riêng mình. Truyện cổ tích lại lấy cái đẹp, cái thiện để làm đối tượng thẩm mỹ. Bi kịch lấy cái bi kịch làm đối tượng thẩm mỹ. Còn truyện cười và hài kịch dân gian lại lấy cái hài hước, dí dỏm để làm đối tượng thẩm mỹ với tính độc đáo riêng biệt. Xét về mặt tính chất của đối tượng thẩm mỹ, cái hài như cách nói của Voltare là cái đẹp nhược căn trong hình thái sự lệch chuẩn của cái đẹp. Cho nên, cái độc đáo
  • 17. 12 của truyện cười và hài kịch dân gian là ở chỗ nhìn ra và nắm bắt nhanh nhạy những yếu tố phi lý trong đời sống xã hội. Cũng chỉ có truyện cười và hài kịch dân gian, theo S. Freud và C. Jung, đều sử dụng trạng thái cảm xúc sợ hãi làm vũ khí đấu tranh. Bởi như đã nói, tiếng cười toát ra từ nỗi sợ hãi từ vị thế của kẻ yếu. Xét về mặt động cơ tâm lý của thể loại thì nghệ thuật châm biếm trong thể loại truyện cười và hài kịch dân gian gắn với vị thế của kẻ yếu như trên đã nói. Trong khi đó, huyền thoại/ thần thoại ra đời trên vị thế của người cha. Cho nên cái kỳ ảo gắn liền với tâm thế ngưỡng vọng, sùng bái, kính sợ. Truyền thuyết – sử thi vừa được xây dựng trên vị thế người cha, nhưng cũng được xây dựng dựa trên vị thế của đứa con trác tuyệt - kẻ tiệm cận đến gần với người cha thần thánh nên cái cao cả, trác tuyệt, hùng tráng gắn liền với sự ngưỡng mộ, tôn kính. Trong xã hội phương Đông lẫn xã hội phương Tây, truyền thuyết – sử thi đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc liên kết các thành viên của cộng đồng. Cho nên điểm nhìn xây dựng của nó là điểm nhìn của sự cố kết để xây dựng xã hội. Truyện cổ tích được xây dựng dựa trên vị thế của đứa con bình thường nên nó gắn liền với cái nhìn mộng tưởng về sự công bằng. Truyện cổ tích trong sinh quyển văn hoá dân gian được tiếp nhận và lưu truyền từ điểm nhìn cá nhân, thấp hơn sự phản ánh xã hội nên nó không có tính đấu tranh xã hội. Bi kịch dân gian là sự phóng chiếu bi kịch cá nhân xã hội hơn truyện cổ tích nhưng cũng chưa phải là sự đấu tranh xã hội mà chỉ dừng là sự phản ánh xã hội. Ngược lại, truyện cười và hài kịch dân gian được xây dựng trên quan điểm phản biện xã hội. Bởi vì nó hình thành trên động cơ tâm lý của kẻ yếu, muốn tồn tại được phải dựa vào trí thông minh và sự tinh nhạy để đấu tranh với xã hội. Cho nên nghệ thuật châm biếm của hai thể loại này có tính đấu tranh trực tiếp so với truyện cổ tích (thế sự) và bi kịch. Xét về mặt trình độ xã hội của đối tượng thẩm mỹ, cái hài hước và nghệ thuật châm biếm rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển của xã hội dân chủ. Chính vì vậy mà Platon đã rất công nhận cái hài và trào phúng, châm biếm. Nhưng ông cũng lo sợ nó làm ảnh hưởng đến nhà nước lý tưởng của ông, vì nó làm con người thiếu nghiêm túc khi nhận thức đối tượng qua cái đối lập. Những xã hội càng thiếu tính dân chủ lại càng sợ cái hài hước và sự châm biếm. Và ngược lại, xã hội càng dân
  • 18. 13 chủ bao nhiêu thì tiếng cười châm biếm càng nở rộ và góp phần thúc đẩy văn minh bấy nhiêu. Với lý do như vậy, mà nghệ thuật châm biếm trong truyện cười và hài kịch dân gian đã nhanh chóng hoà nhập vào xã hội hậu hiện đại. Nó vừa giữ nguyên chính mình trong khuôn khổ thể loại chưa đông cứng của nó, lại vừa thâm nhập vào các thể loại lẫn phương pháp sáng tác khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học của cả nhân loại. 1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại N. Frye trong công trình Giải phẫu phê bình đã nêu lên bốn kiểu nhân vật văn học theo khả năng thực hiện hành động của nhân vật như sau: (1) “Nhân vật có phẩm chất siêu việt hơn con người và hoàn cảnh chung quanh thì đó là thần thánh, và câu chuyện kể về nhân vật sẽ là một huyền thoại…, nghĩa là kể về thần thánh”. “Những câu chuyện như vậy có vị trí quan trọng trong văn học, nhưng theo quy tắc, chúng không nằm trong bảng phân loại văn học hiện đại” [57]. (2) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn con người và hoàn cảnh xung quanh thì đó là nhân vật của những câu chuyện cổ tích” [57]. (3) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn những người khác, nhưng lệ thuộc vào thực tại trần gian thì đấy là loại nhân vật cai trị” [57]. (4) “Nếu nhân vật không có gì vượt trội hơn mọi người và hoàn cảnh xung quanh thì nhân vật đó là một trong số chúng ta: chúng ta thấy nhân vật là một người bình thường, và đòi hỏi nhà văn phải thể hiện nhân vật đó theo quy tắc đảm bảo tính chân thực, đúng như chúng ta cảm nhận được theo kinh nghiệm sống. Nhân vật đó thuộc về các mô thức mô phỏng bậc thấp. Mà trước hết là nhân vật của hài kịch và các tác phẩm văn học hiện thực” [57]. (5) “Nếu nhân vật có trí tuệ và sức mạnh thấp kém hơn chúng ta, bởi chúng ta luôn có cảm giác đứng từ trên cao mà quan sát họ với lối sống nô lệ, đầy bất cập và thất bại, thì đó là nhân vật của mô thức châm biếm, mỉa mai. Điều này cũng hợp lý ngay cả khi độc giả hiểu rằng bản thân mình đang, hoặc có thể là đang ở vào hoàn cảnh giống như nhân vật, nhưng mặt khác lại có thể độc lập phê phán nhân vật” [57].
  • 19. 14 Như vậy, mô thức nhân vật bậc (4) và bậc và (5) là thuộc về mô thức văn học hài kịch – mô thức văn học châm biếm. Ông khẳng định rằng kể từ 100 năm sau khi tiểu thuyết của Daniel Defoe xuất hiện, thì văn học càng ngày càng tiệm cận với các mô thức cái hài. Tiểu thuyết văn học từ thập niên 50 của thế kỷ XX cho đến nay, như quan điểm của N. Frye, ngày càng thẩm thấu yếu tố của mô thức hài kịch, châm biếm. Tiểu luận của Kundera sau những phần phát biểu về đặc trưng của tiểu thuyết hậu hiện đại cũng có nhắc đến hiện tượng phát triển mô thức hài hước, châm biếm trong tính bối cảnh của thời đại. Theo Kundera, tiểu thuyết có khả năng chuyển hoá triệt để những cái thuộc phạm trù nghiêm trang thành cái có tinh thần hài hước. Trong cuốn Tiểu luận này, không phải ngẫu nhiên mà ông thường xuyên nhắc tới những tên tuổi bất hủ là Cervantes, Rabelais và Kafka. Đó là những huyền thoại đã sáng tạo ra những huyền thoại đậm đà tính chất humour. Kundera đưa ra lập luận rằng: “Tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần lý thuyết mà từ tinh thần hài hước. […] Nghệ thuật bắt nguồn cảm hứng từ cái cười của Thượng Đế” [22,167]. Đặc biệt, Kundera phát hiện ra rằng Rabelais rất sợ những kẻ không bao giờ biết cười là gì. Và cũng trong Tiểu luận này, ông đã tiến hành phân biệt cái hài hước với tư cách là một phát kiến của tiểu thuyết với cái cười giễu nhại, châm biếm. Cái hài hước khác với sự châm biếm, đả kích ở chỗ: hài hước khoác cho đối tượng một lớp áo khác khiến cho đối tượng trở nên mơ hồ, khó định hình. Kundera nhắc lại phát biểu của Octavio Paz: cái hài hước chỉ hình thành cùng sự ra đời của tiểu thuyết và Cervantes là người đã đem lại cho tiểu thuyết sự hiền minh của hài hước. Cái hài có thể tạo ra tiếng cười khoái hoạt nhưng cũng có thể gắn với nỗi sầu thảm muôn năm. Đọc Kafka, Kundera đã thấy rõ “cái hài của nỗi buồn” như một định mệnh của tiểu thuyết Kafka. Ông cho rằng những cảnh tình dục ở Kafka có sự song hành giữa tính hài hước và nỗi buồn chất ngất. Kundera cũng đặc biệt nhạy cảm với sự toàn trị. Bởi lẽ ông đã trải qua những năm tháng sang chấn tinh thần khi sống trong bầu không khí sặc sụa mùi độc tài của chủ nghĩa Stalin. Ông ủng hộ giả thiết rằng chủ nghĩa duy lý vô thần của châu Âu
  • 20. 15 thế kỷ XVIII, sự tuyệt đối hóa sức mạnh lý trí của CNCS đã đem lại tai hoạ là chủ nghĩa toàn trị Nga. Sở dĩ ông liên hệ đến thế giới toàn trị là vì trong thế giới đó không hề chấp nhận sự hài hước cũng như không chấp nhận tính chất song hành, tính chất đa âm đa diện. Những gì tồn tại trong xã hội toàn trị thì hoàn toàn không được tiểu thuyết dung nạp như một chất liệu sáng tác quý giá. Đó là sự phán xét, quy kết – những thiết chế của xã hội toàn trị. Kundera nói: “Treo phán xét đạo đức lại không phải là sự vô đạo đức của tiểu thuyết, đấy chính là đạo đức của tiểu thuyết” [22, 180]. Đạo đức đó của tiểu thuyết nhằm “chống lại thói quen bất trị của con người cứ muốn phán xét tức thì, lúc nào cũng phán xét, phán xét mọi người, phán xét trước và chẳng cần hiểu” [22, 180]. Đó là sự phán xét lệch chuẩn và mang tính khuôn mẫu của của định kiến. Và tiểu thuyết với sức mạnh của nó đã góp phần xóa bỏ sự phán xét mà nói như ngôn ngữ của tác giả là một thói quen “ngu xuẩn”, “đáng ghét”, “độc hại”. Kundera nhận định rằng sở dĩ xã hội phương Tây là một xã hội tự do dân chủ, xã hội của dân quyền và nhân quyền là nhờ tác động giáo dục của một nền nghệ thuật - mà trước tiên là tiểu thuyết. Nền nghệ thuật đó “dạy cho người đọc biết tò mò về kẻ khác và cố gắng tìm hiểu những chân lý khác với chân lý của mình” [22, 181]. Văn học và nghệ thuật châu Âu đã dạy cho con người tinh thần tiếp thu và sự chấp nhận với những gì không giống mình. Như vậy, sự văn minh, dân chủ tự do trong xã hội phương Tây có thể được coi là thành quả của tiểu thuyết và nghệ thuật. Rõ ràng, Kundera đã nhìn thấy được sức mạnh và sứ mệnh của cái hài hước, sự châm biếm trong tiến trình hoàn thiện xã hội. 1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng Đại Cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của văn học đương đại đã tạo nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc, xuất hiện nhiều phong cách mới lạ, độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu. Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa đã bắt đầu bước vào thời kì phát triển rực rỡ mà trước hết là sự bùng nổ của đề tài: đề tài “tình yêu đôi lứa”, đề tài “thanh niên trí thức”, đề tài về “lịch sử và cách mạng từ Minh – Thanh đến trước ngày dựng nước”. Ngoài những đề tài trên, tiểu thuyết thời kì cải cách mở cửa còn
  • 21. 16 viết về cuộc đời của người lính; phong tục tập quá của các dân tộc; cuộc sống của thị dân, của giới trí thức, của thanh thiếu niên; các tệ nạn xã hội như quan liêu, tham nhũng, ma túy, an ninh xã hội, tài tử giai nhân….Có thể nói, đề tài của tiểu thuyết thời kì cải cách mở cửa được mở rộng hết mức độ, gần như không có một mảng nào của cuộc sống mà không được phản ánh. Tiểu thuyết “Một tỉ sáu” là một bước ngoặt trong lối viết của nhà văn Trương Hiền Lượng. Màu sắc chủ đạo nổi bật trong nghệ thuật thể hiện Một tỉ sáu của “người đàn ông đi bán hoang vắng” đã từng trải qua hai mươi năm bão táp cuộc đời là một gam màu u-mua, châm biếm sâu cay. Nếu nói Một tỉ sáu là hành trình khoa học giả tưởng đi tìm kiếm một con người hoàn hảo với kho hạt giống khổng lồ để cứu cánh cho cả nhân loại nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng khỏi tấn bi kịch bị diệt vong, thì bằng nghệ thuât châm biếm, Trương Hiền Lượng đã tạo tác nên những con người tham gia hành trình tìm kiếm ấy cứ mải miết ngụp lặn trong tấn kịch vưà bi vừa hài. Từ đó toát bật lên tư tưởng của nhà văn trước thực trạng xã hội Trung Quốc đương đại. Và người ta dễ nhận thấy phương diện nghệ thuật đầu tiên biểu hiện cho nghệ thuật châm biếm trong Một tỉ sáu chính là đề tài. Đề tài châm biếm trong Một tỉ sáu được tập trung ở các bình diện: tương lai dân tộc, nhân vật lịch sử, xã hội kim tiền- hãnh tiến, khoa học “giả cầy”. 1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc Cái được gọi là “tương lai dân tộc” luôn trở đi trở lại trong xuyên suốt tác phẩm Một tỷ sáu như một niềm ám ảnh cần phải được tri nhận. Dân tộc Trung Hoa cũng như nhân loại luôn luôn đặt ra câu hỏi về tương lai của loài người sẽ ra sao. Nhưng câu hỏi này đặc biệt là giấc mơ và sự khắc khoải tột cùng của người Trung Hoa. Chính vì vậy tâm lý muốn giải đáp tương lai chủng tộc sẽ như thế nào mà Trung Quốc sớm nổi danh là đất nước trọng sử. Và người Trung Hoa luôn thường trực tâm lý lưu danh thanh sử và muốn phát triển tộc người. Gánh nặng dân số của Trung Quốc hiện nay chính là từ tâm lý muốn phát triển chủng tộc như vậy. Phản đề về tương lai dân tộc Trung Hoa trong tiểu thuyết Một tỷ sáu được Trương Hiền Lượng xây dựng trên hai thực tế:
  • 22. 17 Thứ nhất là tâm lý khuếch đại dân tộc để thống lĩnh thế giới. Lịch sử cổ đại và trung đại Trung Quốc chính là câu trả lời chuẩn xác nhất và là thực tế hoàng kim nhất. Giới thống trị Trung Quốc hiện đại từ Mao Trạch Đông cho tới Tập Cận Bình đều muốn tiếp tục giấc mơ về chủng tộc siêu việt của các hoàng đế xa xưa. Lịch sử đương đại thế giới đã phải ghi nhận cách ngôn mới từ dân tộc này là: Người Trung Quốc đi đến đâu thì cương giới Trung Quốc mở rộng đến đó. Tâm lý này khá giống tâm lý tự thôi miên của người Đức dưới chế độ toàn trị của Hitler về một chủng tộc Đức thượng đẳng. Đây là một nguy hại lớn có tính lịch sử. Trương Hiền Lượng đã nhìn thấy tính chất độc hại trong tư tưởng và giấc mơ mang màu sắc Trung Quốc của giới lãnh đạo cộng sản toàn trị Trung Quốc. Thứ hai là hiện tượng cưỡng chế đi ngược nhân văn của một nền pháp luật bất cận nhân tình. Đó là chính sách cưỡng chế sinh đẻ một con mà chính quyền Trung Quốc theo đuổi cho đến ngày nay. Vấn đề ngăn cấm này vừa tạo ra di hại lâu dài về vấn đề dân tộc, vừa tạo ra cú sốc tâm lý – văn hoá trong tiềm thức của dân tộc có truyền thống phát triển chủng tộc siêu việt. Bên cạnh đó, người ta còn dễ dàng nhận ra hiện tượng vô sinh ở nam giới Trung Quốc và thế giới trong thời hiện đại càng ngày càng cao. Tuy nhiên, Một tỷ sáu không phải là một tiểu thuyết khoa học giả tưởng thuần tuý mà đó là một tiểu thuyết có tính triết lý. Tính triết lí này lại được thể hiện bằng thủ pháp châm biếm đặc trưng. Những sự kiện khoa học (có phần nào khoa học) được ông sử dụng nhằm mục đích làm chi tiết hoá luận đề mà ông đưa ra đồng thời để xây dựng không khí nghiên cứu khoa học nhằm làm nền cho tác phẩm. Bởi vậy, phản đề lớn nhất vừa mang tầm quốc dân tính cực đoan đậm màu sắc tư tưởng Trung Quốc vừa mang tầm nhân loại mà Trương Hiền Lượng đặt ra là phản đề về chủng tộc (nhân loại) vô sinh và tuyệt diệt trong tương lai. Qua tác phẩm của mình, nhà văn Trương Hiền Lượng đã vạch ra trước mắt chúng ta một sơ đồ về xã hội và con người Trung Quốc đương đại. Tất cả đều được phản ánh một cách sâu sắc. Đứng trước số phận “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc trong tương lai, nhà văn Trương Hiền Lượng đã diễn tả được sự thật về xã hội Trung Quốc thời hiện đại. Và hơn ai hết tác giả mong muốn sẽ có một con người hoàn hảo đứng ra cứu giúp vận mệnh của dân tộc.
  • 23. 18 Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn đã hé mở về nhân vật bí ẩn hoàn hảo này - một con người sẽ mang trong mình sứ mệnh của dân tộc, sứ mệnh làm thay đổi lịch sử Trung Quốc tương lai. Tác phẩm xoay quanh những kiểu con người khác nhau trong xã hội Trung Quốc đương đại. Mỗi kiểu con người có những số phận và cuộc đời khác nhau. Nhà văn đã nói lên những nỗi lòng của mình khi đứng trước một xã hội loài người mà vấn đề danh vọng luôn đặt lên hàng đầu. Một sự thất vọng về xã hội chỉ đầy những “đại gia”, “tiểu thư”, “quan tham” và bên kia là bao số phận của những đứa trẻ tội nghiệp. Cuộc sống muôn màu với những con người chỉ biết sống theo bản năng, không có mục đích tiến tới, không tình yêu. Và càng tệ hại hơn đó là khi xã hội ngày càng hiện đại con người ngày càng mất đi khả năng tạo ra một thế hệ mới. Tác giả đã đặt ra một vấn đề bức thiết cho dân tộc: Trung Quốc có thể sẽ bị diệt vong khi mà xã hội ngày càng phát triển đi lên thì đồng nghĩa với việc bệnh viện liên tục nhận được những ca chữa bệnh vô sinh. Nhà văn đã khéo léo tạo ra những biến cố của tác phẩm, từ đó xây dựng nên những kiểu con người đặc trưng của xã hội. Đồng thời nói lên được mong muốn của chính mình muốn gửi gắm trong tác phẩm: “một con người hoàn hảo” không phải là một con người bình thường như bao nhiêu người khác, mà nhân vật đó phải là một “nhân vật kiệt xuất” và “Nhân vật kiệt xuất sẽ có những cống hiến to lớn trong lịch sử tương lai của Trung Quốc”. Nếu là một con người hoàn hảo thì tất yếu phải được sinh ra từ những cặp vợ chồng hoàn hảo. Một người cha, người mẹ tốt về mọi mặt thì mới có thể tạo ra được một thế hệ hoàn hảo chứ! Nhưng Trương Hiền Lượng đã tạo ra những tình huống bất ngờ của tác phẩm. Vấn đề sinh ra một con người hoàn hảo thực sự theo quan niệm của nhà văn liệu sẽ có không? Chính nhà văn cũng chưa thể giải thích được, nhưng đó là chuyện của tương lai, của mấy chục năm về sau. Và bây giờ tác giả đã vạch ra những bước tiến cho sự ra đời của nhân vật mang sứ mệnh của nhân loại. Trước hết trong xã hội đầy nhố nhăng này việc tìm kiếm một con người hoàn hảo sẽ rất khó khăn. Nhìn con người đầy đường mà chỉ thấy chạnh lòng. Sự thất vọng nặng nề đã giúp bác sĩ nhận ra rằng cái con người hoàn hảo kia sẽ được sinh ra từ những con người có khiếm khuyết mang tên là Nhất Ức Lục. Anh là người bị
  • 24. 19 thiểu năng, dù rất khoẻ mạnh và thậm chí là một con người có kho hạt giống khổng lồ. Một người cha ngờ nghệch sẽ gặp một người mẹ “đĩ điếm”. Từ một đứa trẻ gặp cảnh đời bất hạnh, Nhị Bách Ngũ liên tiếp bị những kẻ lưu manh hãm hại, lợi dụng thân xác của cô để kiếm tiền. Sự kết hợp như vậy rồi sẽ ra sao? Hai con người ấy đều có một sự trong sáng, ngây thơ trong tâm hồn, không bị dòng đời đua chen tác động. Họ đến với nhau bằng tình yêu thực sự, một tình yêu ngây thơ non nớt của tâm hồn hai đứa trẻ tội nghiệp. Nhân vật hoàn hảo ấy sẽ được sinh ra và sẽ là người kiệt xuất cứu giúp toàn dân tộc Trung Hoa. Một bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại đang dần được phơi bày trong hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo. Nhà văn đã thành công khi vạch trần bộ mặt của nền kinh tế thị trường, biến tướng của những nhố nhăng trong vòng quay của nền kinh tế ấy. Trên con đường tìm kiếm con người hoàn hảo, những dự báo về một tương lai mờ mịt của con người thế hệ mai sau cũng được giãi bày. Tác phẩm đặt ra những tình huống về bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại, về tương lai của dân tộc, tương lai của con người trong xã hội ấy. Con người trong xã hội hiện đại đang dần đánh mất đi chính bản thân mình. Sự xuống cấp về phẩm chất, nhân cách của con người trong xã hội ấy báo hiệu cho một tương lai không mấy sáng sủa. Từ đó có thể thấy được rằng khi nhìn nhận vấn đề của xã hội, nhà văn Trương Hiền Lượng đã có những góc nhìn khác nhau trong tác phẩm của mình. Đứng theo góc nhìn của chính nhà văn thì xã hội đang phát triển mạnh, nền kinh tế đang ngày càng vững chắc. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất của con người vì thế lại được chú trọng nhiều hơn. Vật chất trở thành điều kiện tiên quyết trong cuộc sống của loài người, thì những mặt trái của sự phát triển ấy đã nảy sinh. Việc mở ra bệnh viện Chúng Sinh với mục đích phục vụ cho sức khoẻ của con người và hơn thế là việc nghiên cứu thụ tinh nhân tạo cho con người. Bác sĩ Lưu là người chịu trách nhiệm trong việc nghiên cứu tìm ra phương pháp thụ tinh nhân tạo cho con người. Trong quá trình nghiên cứu ấy, ông đã chợt nhận ra những thứ không đáng trong xã hội này “Từ lâu chủ nhiệm Lưu đã để ý tới, vấn đề lớn nhất mà loài người phải đối mặt không chỉ là vấn đề mà người ta tranh cãi mãi không
  • 25. 20 thôi như chiến tranh, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố, thiếu hụt lương thực, sa mạc hoá trái đất…mà là nhân loại sắp tuyệt chủng” [30, 96]. Thật vậy, những vấn đề chiến tranh hay những vấn đề nghèo đói cũng không có gì đáng lo ngại. Những vấn đề thực sự đáng bàn đến ở đây là con người, là sự diệt vong của dân tộc Trung Hoa. “Cuối cùng, đời sống vật chất phong phú đấy nhưng tinh trùng trong tinh hoàn lại thiếu hụt, hai cái đó tỉ lệ nghịch với nhau. Khi đời sống vật chất đạt tới mức độ cao nhất của lịch sử thì tinh trùng trong tinh hoàn sẽ giảm tới mức số không, không thể sinh đẻ được gì, và loài người chính thức bị tuyệt diệt” [30, 97]. Chủ nhiệm Lưu đã có cuộc khảo sát về số lượng tinh trùng của nam giới những năm trước và những năm gần đây, thì thấy một sự thật nghiệt ngã rằng, khi mà xã hội đang còn nghèo đói, cuộc sống còn phải lo nhiều thứ thì số lượng tinh trùng của nam giới lại rất tốt và khoẻ mạnh. Nhưng khi xã hội phát triển, mức sống của con người được nâng cao thì số lượng tinh trùng của nam giới lại giảm rất mạnh và rất yếu: “ Những năm ông học đại học vào cuối thập kỉ năm mươi đầu thập kỉ sáu mươi của thế kỉ XX là những năm cung ứng vật chất của Trung Quốc thiếu hụt nhất, mức sống của người dân yếu kém nhất, cả đến cà rốt dân cũng chẳng có mà ăn, ngày nào cũng chỉ nhai rau muối và nuốt cháo khiến cho nhiều người dân bị phù thủng vì thiếu dinh dưỡng. Nhưng lúc ấy tinh trùng của đàn ông Trung Quốc mỗi miliit có khoảng sáu mươi triệu con. Những năm gần đây ông xét nghiệm tinh dịch mấy ngàn đàn ông thì nói chung, trong mỗi millit tinh dịch của đàn ông Trung Quốc bình quân chỉ còn khoảng ba mươi triệu, hơn nữa mỗi năm một giảm và có xu thế sa sút về chất lượng, tức là tiến gần đến nhân chủng Trung Quốc tuyệt diệt” [30, 99]. Một cuộc khảo sát về tinh trùng của nam giới được các bác sĩ thực hiện thụ tinh nhân tạo cho giám đốc Vương Thảo Căn theo yêu cầu của San San. Một loạt nam giới được kiểm tra. Đầu tiên là những công nhân, nhưng không có ai đạt được yêu cầu cả. Tuổi của họ còn trẻ nhưng phần lớn tinh trùng của họ không chết thì cũng bị khiếm khuyết, không thể thích hợp cho việc chọn giống thụ tinh được. Âu cũng bởi những người công nhân này đều làm những việc liên quan đến hoá học, nên nó chịu ảnh hưởng nhiều từ những chất hoá học. Một loạt những người đàn ông khác đăng kí qua mạng nhưng không ai có thể làm vừa lòng chủ nhiệm Lưu.
  • 26. 21 Một tỉ sáu cho thấy một sự tuyệt vọng về tương lai của dân tộc Trung Hoa“khi mà đời sống vật chất đạt tới mức độ cao nhất của lịch sử thì tinh trùng trong tinh hoàn lại giảm tới mức số không, không thể sinh đẻ gì được nữa, và loài người chính thức bị tuyệt diệt” [30, 97]. Nhà văn cảm thấy bất lực trước nguy cơ diệt vong của dân tộc mình. Một tương lai của dân tộc Trung Hoa đang đứng trên bờ vực thẳm. Cũng trong chủ đề châm biếm về tương lai dân tộc, xét ở một góc độ khác, có thể thấy rằng Trương Hiền Lượng rất sắc sảo và hài hước khi xây dựng một phép giả tưởng độc đáo: đó là đàn ông Trung Quốc ngày càng mất khả năng giao hợp và chất lượng tinh trùng càng ngày càng suy giảm cả chất lượng lẫn số lượng. Tuy nhiên, con người trong xã hội dù có sự vênh lệch giữa ước muốn và thực tế nhưng vẫn tìm mọi cách để phát triển nòi giống bằng cách đẻ con trai. Ước muốn này tự thân nó không có gì buồn cười hay phi lý. Phi lý là ở chỗ, người ta tìm mọi cách để phát triển nòi giống là để cho ra một thế hệ siêu việt nhằm để kéo dài tiếp dục vọng của mình. Tiêu biểu cho ước muốn đó là nhân vật Vương Thảo Căn – một thảo dân thôn dã đã leo lên địa vị tư bản gia sau một quá trình phấn đấu đầy khốc liệt. Nhân vật Vương Thảo Căn chính là đại diện cho tinh thần Trung Quốc khi khao khát một đứa con trai ưu việt. Cái nổi bật mà Trương Hiền Lượng thông qua chủ nhiệm Lưu để khắc hoạ nhân vật là đặc điểm: “Vương Thảo Căn là người đàn ông rất kém, rất kém về mặt sức sống nhưng ý chí thì cực mạnh” [30, 93]. Cái ý chí mãnh liệt của người dân Trung Hoa có nhiều nét nghĩa nhưng trong đó, có một nét nghĩa có tính tâm lý – văn hoá chủng loại là tính bành trướng và bá quyền. Nhân vật Vương Thảo Căn vừa có nét của con người Trung Quốc truyền thống (xuất thân nông dân thôn dã) lại vừa có nét của con người Trung Quốc thời đại mới (gia nhập tầng lớp tư bản gia mới nổi, có sự liên đới với chính quyền). Cho nên, nhân vật này chính là biểu trưng cho ý chí Trung Quốc về lòng tự tôn ưu việt chủng tộc và sự bá quyền. Câu trả lời của Trương Hiền Lượng cho phản đề này không thể hiện trực tiếp qua tác phẩm. Bằng tư duy quan hệ truyền thống của văn học Trung Hoa, chúng ta có thể thấy rằng Trương Hiền Lượng đang cắt nghĩa tinh thần Trung Hoa hiện đại dựa trên sự song trùng của tính nhược tiểu và não trạng tự tôn chủng tộc đặc thù.
  • 27. 22 Trương Hiền Lượng thông qua phản biện dân tộc cũng có phần châm biếm tính bất cận nhân tình của pháp luật khi tiến hành cưỡng chế đối với sinh đẻ trên một con. Những trường hợp như của Nhị Bách Ngũ (đứa con bị bỏ rơi do ra đời “vượt chỉ tiêu”), Hoàng Tiểu Mai (mất khả năng sinh con do chịu thắt ống dẫn trứng để lấy tiền chữa bệnh cho con) cho thấy sự bài xích đối với giới nữ của xã hội Trung Quốc. Và đó là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội cũng như sự bất công đau khổ của người phụ nữ: “ Tóm lại, phương pháp sinh đẻ ưu việt trở thành giết người chuyên nghiệp. Thay cải cách mở cửa, bất kể thai nhi là nam hay nữ, chỉ cần đẻ vượt tiêu chuẩn là bỏ tuốt khỏi phải bàn. Sau cải cách mở cửa, do tâm lí theo phong tục cũ của dân chúng tác quái nên lại chuyển sang đối phó với thai nhi nữ, cho cái thai ấy được chết yên lành ngay trong bụng mẹ” [30, 42] Có thể nói, Một tỉ sáu với hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo, bằng một giọng văn châm biếm sâu cay, nhà văn đã có những khám phá mới mẻ về hiện thực xã hội Trung Quốc đương đại. Trước một thực tại xuống cấp về đạo đức lẫn nhân cách của con người Trung Quốc đương đại, Người đàn ông đi bán hoang vắng đã có một hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo, với hi vọng sẽ cứu giúp sự nguy vong của dân tộc Trung Hoa trong tương lai. Sự ra đời của con người hoàn hảo ấy sẽ là một sự thay đổi lớn về vận mệnh lớn của dân tộc Trung Quốc. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là con người hoàn hảo ấy sẽ ra đời như thế nào, trong khi xã hội Trung Quốc đương đại chỉ tồn tại đầy rẫy những con người băng hoại về đạo đức lẫn nhân cách? Thực tế phũ phàng như một câu hỏi chát chúa, xoáy sâu vào tâm thức của cuộc hành trình đi tìm kiếm lời giải đáp cho tương lai dân tộc ở đây là: một người cha bị thiểu năng và một người mẹ “đĩ điếm” liệu có thể cho ra đời một con người hoàn hảo như mong muốn của mọi người được không? Và trên hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo ấy, dân tộc Trung Hoa sẽ đi về đâu trước thực tại về con người đầy phũ phàng như vậy? Đó chính là vấn đề mà nhà văn Trương Hiền Lượng muốn đặt ra trong tác phẩm Một tỉ sáu- nguy cơ tuyệt diệt của dân tộc Trung Hoa trong tương lai, khi mà “Có những người được gọi là thiên tài của thế kỉ 21 ở Trung Quốc lại không có tinh trùng, các nhà lịch sử học tương lai
  • 28. 23 ắt coi đó như truyện tiếu lâm có tính lịch sử để tha hồ viết, đấy là nếu trên trái đất lúc ấy vẫn còn có loài người” [30, 98]. 1.2.2. Châm biếm nhân vật lịch sử Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, những nhân vật lịch sử đương đại được Trương Hiền Lượng nhắc đi nhắc lại với cái nhìn ẩn ý và đa chiều, nhưng không giấu vẻ châm biếm. Hai nhân vật lịch sử Trung Quốc đương đại được nhà văn nhắc đi nhắc lại là hai lãnh đạo cộng sản Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Cách nhìn, cái nhìn và tư tưởng của Trương Hiền Lượng bàng bạc khắp tác phẩm. Nhưng tập trung rõ nhất là cảnh Lục Thư và cảnh sát Đào gặp mặt ông già bé nhỏ - hiện thân cho tinh thần phong lưu khoái hoạt đúng nghĩa tinh thần Trung Hoa, để nói về phương thức tồn tại của Độc Tú Cư. Trên bề mặt lập ngôn của ông già, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình là hai gương mặt lịch sử của Trung Quốc mang tầm vóc vĩ đại. Đối với Mao Trạch Đông, ông già tóm tắt công cuộc thống nhất thiên hạ của nhân vật này. Từ giai đoạn ông ta thực thi lý thuyết của Mác vào việc thiết kế con đường cách mạng cho toàn dân tộc Trung Quốc đến khi ông ta đẩy lui quân Quốc Dân đảng ra tới Đài Loan. Rồi tiếp nữa ông nói đến vai trò và vị thế của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại Cách mạng Văn hoá. Như vậy, Trương Hiền Lượng đang nói về các chiến công của Mao Trạch Đông. Nhưng không nên hiểu đơn giản rằng, với sự nhắc lại “lịch sử” đó là tác giả cuốn tiểu thuyết đang ca ngợi nhân vật. Thật ra trong cái tóm tắt của ông già này có tồn tại cái nhìn châm biếm. Ông ta cho rằng công cuộc cách mạng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông không khác gì một cuộc nổi loạn của nông dân trong hình thái xã hội trước đó. Bởi vậy mà ông dùng một cụm từ mang tính phản tư rất sắc sảo: “giành lấy thiên hạ, thắng lợi vẻ vang” [30, 254]. “ Ông già lại ngồi dựa vào ghế, mỉm cười nói: - Thật ra rất đơn giản! Theo một cách dễ hiểu thì đó có nghĩa là đầu óc linh hoạt. Theo chủ nghĩa Mác thì sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản bắt đầu từ các cuộc khởi nghĩa của công nhân thành thị, dựa vào giai cấp công nhân để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản. Nhưng bởi Mao Trạch Đông đầu óc linh hoạt nên
  • 29. 24 đã dùng chiến thuật “nông thôn bao vậy thành thị” dựa vào nông dân mà giành cả thiên hạ, thắng lợi vẻ vang” [30, 254]. Cũng với cái nhìn phản tư thâm trầm đó, ông già khi nhắc đến cuộc nội chiến Quốc – Cộng trong lịch sử vừa trải qua không khác gì sự thôn tính lẫn nhau giữa các tiểu quốc thời sơ kỳ lịch sử đất nước. Ông ta đã vạch trần bản chất Mao Trạch Đông bằng cụm từ có sức nặng ngàn cân: “quyền lực tối cao” [30, 254] “ Trong thời gian nội chiến giữa Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng, Stalin đã dặn Mao Trạch Đông chỉ tiến công vào những vị trí chắc thắng, không tán thành việc quân giải phóng vượt sông. Nhưng Mao Trạch Đông vốn là người phong lưu, linh hoạt nên đã không tuân theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản, mà dùng quyền lực tối cao lúc đó để đưa ra chủ trương “ thừa kế truy kích quân thù đến cùng”, nhất định phải vượt sông tấn công. Kết quả là đã đánh cho Quốc dân Đảng phải rút chạy đến tận Đài Loan, giải phóng hoàn toàn đất nước. Cho nên Mao Trạch Đông hoàn toàn xứng đáng với hai chữ phong lưu, đầu óc linh hoạt bậc nhất” [30, 254]. Rồi trong thời Đại Cách mạng văn hoá, Mao Trạch Đông lại được xem là người có quyền uy lớn nhất và “ngoài Mao Trạch Đông ra thì không còn một tiếng nói quyền uy nào khác. Hôm qua đúng thì hôm nay sai, hôm qua sai thì hôm nay đúng. Ông ta đảo lộn mọi giá trị trong năm ngàn năm của Trung Quốc chổng ngược lên. Tất cả những truyền thống, những thứ cổ truyền trước đây đều hỏng bét! Từ đó ông ta khuấy đảo nhân tâm Trung Quốc và cũng đã gieo mầm hoài nghi vào lòng người Trung Quốc” [30, 255]. Rõ ràng, Mao Trạch Đông qua cái nhìn của ông già - tác giả- như một hoàng đế mới nổi. Cái mà Trương Hiền Lượng muốn đối thoại với lịch sử ở đây chính là chế độ toàn trị mới mà Mao Trạch Đông sáng lập với tư cách là một thiên tử đầy uy quyền trong cái nhìn phản biện với cái gọi là cách mạng. Đáng chú ý là ngoài thuật ngữ chuyên ngành không thể thay thế của chủ nghĩa Mác, tên nhân vật Mao Trạch Động không được tác giả định danh với các yếu tố mang tính định danh, định vị như “cách mạng” (kiểu như “lãnh đạo cách mạng”), “dân tộc” (kiểu như “anh hùng dân tộc”, “cha già dân tộc”), “lịch sử” (kiểu như “mở ra trang lịch sử mới”)… Mao Trạch Đông còn bị gọi tên đích danh tới tính chiết trung hoàn toàn không gắn liền với kính ngữ như kiểu “Mao chủ tịch”.
  • 30. 25 Phần mà ông già và tác giả tâm đắc nhất khi đánh giá Mao Trạch Đông là ở chỗ sự đảo lộn không thể định vị giá trị mà ông ta gây ra cho Trung Quốc. Ở đây, sự châm biếm song song với đả kích: “Một trong những công tích lịch sử của ông là mãi tới cuối đời mới phạm sai lầm! Ông ta làm chuyện đó giống như việc tôi lộn ngược cái bình đựng hoa quả vậy. Cái bình của Mao Trạch Đông đựng gì? Trong đó là năm nghìn năm lịch sử Trung Quốc và người Trung Quốc chúng ta. Đó là sự vĩ đại của Mao Trạch Đông, năm nghìn năm lịch sử Trung Quốc và tám trăm triệu người Trung Quốc được ông nâng lên và lật xuống! Cú lật đó khiến người Trung Quốc biết được “cái lý của việc tạo phản”, người dưới có thể phản đối người trên, nói thật nhé, có khi đó là bước đầu của nền dân chủ đấy” [30, 255]. Đặng Tiểu Bình cũng là nhân vật “vĩ đại” khác. Công lao của ông ta là phá vỡ cái hũ nút kín mít mà Mao Trạch Đông tạo nên: “ Đặng Tiểu Bình không những dằn nó xuống mà còn mạnh dạn mở hẳn cái bình mà Mao Trạch Đông đã lật ngược, khiến cho hoa quả trong bình văng tung tóe. …Nếu Đặng Tiểu Bình không mở nắp bình rồi từ từ lật lại như cũ, đặt lại nghiêm chỉnh trên bàn thì thật là khốn khổ khốn nạn. Như vậy thì sẽ không có Trung Quốc như ngày nay…..Cho nên tôi nói Đặng Tiểu Bình còn vĩ đại hơn Mao Trach Đông là ở chỗ đó” [30, 255- 256]. Nhưng cái hành động “phá vỡ cái hũ nút kín mít mà Mao Trạch Đông tạo nên” của Đặng Tiểu Bình không phải để tạo ra một vị thế mới. Hành động của ông ta đẩy mọi thứ rơi vào chỗ “đại loạn” và “phải dò từng tảng đá qua sông”. Nếu như Mao Trạch Đông đã tạo ra một chế độ toàn trị ngột ngạt trên toàn cõi Trung Quốc hiện đại thì Đặng Tiểu Bình lại là người mở ra cho một thời đại loạn lạc trong thái bình: “Hiện nay xã hội đang loạn không thể tưởng được! Nhưng cái loạn của ngày hôm nay là cái loạn do mỗi người dân chúng ta đang từ trong bình hoa quả thì bị đổ lăn lông lốc trên mặt đất, là cái loạn trong sự biến động cực lớn của lịch sử! Cái loạn này là điều tất nhiên, không loạn mới là điều không bình thường. Hai người nói xem như vậy có đúng không? Đào không thể không khâm phục ông già, anh nói: - Đúng thế, đúng thế! Xã hội chúng ta hiện nay quả thực là rất loạn! ban đầu tôi nghe không hiểu, nay đươc lão tiền bối chỉ bảo tôi mới hiểu rõ vấn đề” [30, 257].
  • 31. 26 Đó là thời đại mà pháp luật bị vi phạm một cách trắng trợn và nghiêm trọng “Cách đây ít ngày trên báo có đăng bài viết về cái “tội khởi đầu” của các công ty tư nhân tức là hầu như công ty tư nhân nào cũng vi phạm pháp luật khi mới bắt đầu làm ăn. Vi phạm pháp luật như thế nào? Đất nước gì mà ngay cả pháp luật cũng không nghiêm thế?” [30, 258]. Thời đại mà con người sống với phương châm “được làm vua, thua làm giặc” [30, 258] và mất phương hướng trầm trọng “người người đều đang chạy đôn chạy đáo để kiếm tiền cứ rối tung rối mù hết cả lên” [30, 257]. Đối với hai nhân vật này, ông già và trước hết là tiểu thuyết gia đã đích danh gọi tên của chế độ toàn trị Trung Quốc là bệnh “sùng bái cá nhân ghê gớm quá” [30, 258]. Cái châm biếm khoác áo cái nghiêm túc đến thế là tuyệt đỉnh. Trương Hiền Lượng đã già tay khi tạo ra một bộ ba hô ứng trong màn đối thoại này: Đào – LụcThư – ông già. Đó là sự phản ảnh ba chiều của: chính quyền – dân sinh – văn hoá trong bối cảnh hiện thực của xã hội Trung Quốc đương đại. Qua đó, thể hiện cái nhìn châm biếm của nhà văn Trương Hiền Lượng đối với những con người đã tạo nên “sóng gió” một thời. Mao Trạch Đông là người đã ra chỉ thị cho hội nghị Bộ Chính trị mở rộng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc chính thức phát động phong trào “Đại Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản” vào năm 1966; người trí thức là đối tượng bị bức hại trực tiếp và nhiều nhất trong cuộc vận động này: “Trong những năm đầu thập kỉ 60, do sai lầm tả khuynh trong chỉ đạo, khoa học xã hội và nhân văn ở Trung Quốc gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều tổn thất. Những mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo của Đàng Cộng Sản Trung Quốc đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xã hội và đời sống văn nghệ Trung Quốc. Nhiều tác giả, tác phẩm bị quy chụp là cỏ độc, là chống Đảng một cách vô căn cứ”. Đây là một sự kiện lịch sử lớn tác động đến tất cả mọi giai tầng trong xã hội, đặc biệt trừng phạt và cô lập giới trí thức, giam cầm họ trong một thứ tù không kì hạn, mất hẳn sự tự do. Cuộc Đại cách mạng văn hóa đã làm đảo lộn mọi thang bậc, giá trị trong xã hội. Một xã hội tràn ngập không khí khủng bố, thất điên bát đảo, một xã hội bao trùm sự ngột ngạt lên mọi người, hiện lên từng khuôn mặt của người đi tố giác, kẻ bị tố giác, người đi tù, kẻ coi tù, tù đàn ông, tù đàn bà, đi đâu cũng đấu tố, con người bị đọa đày với những suy tư, vật vã và nhiều trăn trở.
  • 32. 27 Trong số những phần tử trí thức bị chụp mũ “phái hữu” lần này Trương Hiền Lượng cũng có mặt, rất nhanh chóng ông trở thành “một người tù không án”, bị đưa đi lao động cải tạo ở nông thôn. Mặc dù đến 1979 – 1980 ông đã được minh oan, nhưng vết hằn lao cải vĩnh viễn là một sang chấn tinh thần không thể nào gột bỏ. Đối với Trương Hiền Lượng, suy ngẫm về một thời kỳ lịch sử có lẽ là chủ đề xuyên suốt cuộc đời của nhà văn, vì đây chính là số phận của chính nhà văn. Đối với thế hệ cùng thời với Trương Hiền Lượng mà nói, dù bằng lòng hay không bằng lòng, xã hội và chính trị đã tác động tới cá nhân, rồi trở thành một phần trong cuộc đời của cá nhân. Trải qua nhiều đau khổ cay đắng của cuộc sống đã tạo nên khí chất tinh thần độc đáo của Trương Hiền Lượng. 1.2.3. Châm biếm xã hội kim tiền, hãnh tiến Thế giới kim tiền là một vấn đề muôn thuở của văn học. Mãnh lực đồng tiền luôn có sức hấp dẫn với con người, có lẽ chính bởi sự cám dỗ và quyền năng ghê gớm của đồng tiền “Trong tay đã sẵn đồng tiền. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” (Truyện Kiều- Nguyễn Du) nên mới có cái bi kịch sa ngã vì tiền, đau đớn vì tiền, thù hận vì tiền, hạnh phúc vì tiền là thói thường của nhân gian. H. de Balzac đã phản ánh vấn đề này rất xót xa trong bộ Tấn trò đời bất hủ như một bản án với xã hội trưởng giả của chủ nghĩa tư bản. Nhưng thiên đường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc từ sau Đại Cách mạng văn hoá cũng dựng nên một xã hội kim tiền khốc liệt không kém. Trương Hiền Lượng với nhãn quan sâu sắc và sự trải nghiệm trực tiếp đã trưng bày xã hội đó trong tiểu thuyết một cách chân thực với giọng văn châm biếm sâu cay. Một tỉ sáu được xem là một bức tranh đa màu đa sắc về xã hội Trung Quốc đương đại. Ở đó có sự phát triển của khoa học kĩ thuật, nhu cầu cuộc sống tăng nhanh, con người chạy đua cùng với đồng tiền, với những lợi nhuận trong kinh doanh. Đó là một xã hội với những vấn đề tồn tại trong những ngõ ngách khó có thể nhận thấy. Các “đại gia” đang cố gắng củng cố lợi nhuận, củng cố vị trí của mình trên thương trường. Những tên quan tham đang ra sức vơ vét cho đầy túi tham trên sức lao động của người khác. Những quán bar, những vũ trường, những “tiểu thư”, những sở cảnh sát, những bệnh viện thì liên tục mọc lên khắp nơi. Đội ngũ y, bác sĩ kém cỏi cả về năng lực cũng như nhân cách…tất cả đều bị đồng tiền chi phối.
  • 33. 28 Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, một xã hội kim tiền được phơi bày ra toàn bộ những ngóc ngách đen tối nhất. Trong xã hội đó, con người bất chấp tất cả vì tiền. Tiền trở thành một đối tượng đáng trọng vọng, đáng tôn thờ nhất. Tiền là chuẩn mực của tất cả mọi thứ. Đến với tiểu thuyết Một tỷ sáu chúng ta thấy rõ có một xã hội đã vận hành theo quan điểm: cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền. Trong tiểu thuyết này, chúng ta bắt gặp rất nhiều cảnh mua bán, giao dịch, nhiều phương sách và châm ngôn liên quan đến tiền được tác giả bố trí như một mê hồn trận. Chẳng hạn như Vương Thảo Căn- một người từ lâu đã có dấu hiệu mất khoái cảm với tiền nhưng ông ta vẫn ngày đêm miệt mài kiếm tiền. Khi mới đặt chân lên thành phố, Vương Thảo Căn chỉ là một kẻ nhặt rác. Đương nhiên là ông ta sẽ mang trong mình khoái cảm của một kẻ muốn kiếm được nhiều tiền. Rồi từ một kẻ nhặt rác, ông mua lấy một trạm thu mua phế liệu để làm ăn. Đời sống kinh tế khá hơn. Nhưng với chừng đó, với một con người vốn dĩ khát khao đổi đời, tất nhiên vẫn còn chưa đủ. Rồi sau đó khi thu mua thêm nhiều nhà hàng, khu giải trí, nhiều khu đất thì Vương Thảo Căn đã đạt đến vượt qua ngưỡng dư dật – mà nói theo giọng giễu nhại là đã qua thời kỳ “tích luỹ tư bản”. Tức là ông đã vượt qua cơn thèm khát tiền nhưng trong suy nghĩ của Vương Thảo Căn lúc nào cũng có nhiều toan tính về tiền. Phong cách của Vương Thảo Căn từ từ chuyển từ căn tính nông dân sang căn tính mại bản. Dù đã có nhiều tiền, không còn cảm giác thèm tiền nhưng ông cũng tiếp tục kiếm tiền. Ta thấy một thực tế của xã hội Trung Quốc đương đại là sự phát triển nhanh mạnh của nền kinh tế. Đời sống vật chất ngày càng tăng, các lĩnh vực trong kinh doanh ngày càng thu được nhiều lợi nhuận. Vương Thảo Căn trong việc kinh doanh luôn đặt ra một chỉ tiêu lớn cho các đơn vị kinh doanh của mình, đòi hỏi lợi nhuận thu về phải quá 100%. Từ một công việc nhặt rác, thu mua phế liệu mà ông đã lên đến đỉnh cao trong giới doanh nhân, nghiễm nhiên trở thành một “đại gia” được nhiều người coi trọng “Lông dê mọc trên thân dê, không vớt vát thu nhập ngoài luồng của một số quan chức chính phủ và ngân hàng từ người tiêu dùng thì biết vớt vát ở đâu? Đó là nguyên nhân khiến cho giá cả của rất nhiều hàng hoá, bao gồm cả
  • 34. 29 nhà đất Trung Quốc chúng ta vượt rất xa thực tế của chúng, đồng thời đẻ ra việc bán hoá đơn giả để kiếm chác. Xí nghiệp mua hoá đơn giả để làm gì? Ngoài trốn thuế, lậu thuế, hầu hết đều nhằm đưa những thu nhập ngoài luồng chính phủ và ngân hàng kia vào sổ sách, chuyển chi phí ngoài luồng của xí nghiệp thành giá thành sản xuất của xí nghiệp” [30, 33]. Kinh doanh dù ở dạng nào con người đều tìm ra những lợi nhuận ngoài luồng. Muốn tăng thêm lợi nhuận cho bản thân mình, người ta sẵn sàng bỏ ra một số tiền, thế là mọi chuyện đều được giải quyết ổn thoả. Cuộc sống đôi khi chỉ cần có thế mà thôi. “Cho nên Vương Thảo Căn đều không thích nghe người ta nói quan chức Trung Quốc tham ô. Ông cảm thấy những quan chức đó thanh liêm đáo để, đưa cho họ một, hai chục ngàn tệ là họ trả lại gấp trăm lần, đưa tận tay cho ông thứ đáng giá đến một, hai triệu tệ” [30, 15]. Xuất hiện trong tiểu thuyết còn có vị sư cụ trụ trì miếu thiêng. Hoà vào cái không khí của cái xã hội kim tiền, vị hoà thượng trụ trì này lại một đại thiên tài trong nghệ thuật móc hầu bao của tín khách từ thập phương. Qua lối kể chuyện dí dỏm gây cười của Trương Hiền Lượng, chúng ta thấy ngay đây là kẻ buôn thánh bán thần, lợi dụng và cổ xuý mê tín để trục lợi cho bản thân. Những nhà sư, người được xem như hình mẫu cho sự từ bi cứu khổ cứu nạn cũng là một trong những nhân vật biểu trưng cho kiểu xã hội kim tiền trong Một tỉ sáu. Lợi dụng lòng tin của mọi người, sư cụ trụ trì nơi Vương Thảo Căn đến xin quẻ đã làm mọi cách để lấy tiền của dân mà không bị ai ca thán. “Đặc biệt ông hoá duyên, dùng danh tiếng của Phật mà làm điểm bán, lấy lịch sử miếu cổ làm thương hiệu, sản phẩm chủ yếu là thẻ. Một tờ giấy xấu mỏng tang ít nhất cũng vài trăm tệ, nhiều hơn thì cả nghìn tệ, buôn cổ phiếu cũng không kiếm được nhiều tiền bằng cái nghề này, hơn nữa lại không hề có rủi ro…” [ 30, 19]. Vị sư này chủ yếu là tiếp các quan lớn. Bằng con mắt sỏi đời của mình “nhà sư đáng kính” có thể nhận ra ai là đại gia thực sự: “Đừng tưởng người xuất gia không để ý gì đến sự đời, hòa thượng này biết rất rõ về các loại xe con. Xe của vị quan lớn chẳng qua là con Audi, lại là loại sản xuất trong nước, còn xe mới đến là Benz Lớn. Tiểu thư của quan lớn nói “Bai bai” với hòa thượng nhưng hòa thượng chẳng buồn để ý….vội vàng đến đón Benz Lớn” [30, 20].
  • 35. 30 Màn đối đáp của lão sư cụ hám tiền với kẻ thích chinh phục tiền và hám danh như Vương Thảo Căn là một màn kịch đặc sắc tạo ấn tượng lớn với người đọc. Sư cụ trụ trì vừa thuộc điển lễ giáo lý nhà Phật và thông thạo bộ môn kinh tế thị trường của chủ nghĩa xã hội thì quả là phi phàm. Màn đối đáp của vị sư cụ với Vương Thảo Căn có lẽ được lẫy ra từ vấn nạn hối lộ trên đất Phật trong Tây du ký lừng danh thiên hạ Thế là sư bèn giở những tích lũy hàng ngày về kiến thức kinh tế thị trường ra gợi ý cho Vương Thảo Căn: - A di đà Phật! Thí chủ, ông nghĩ xem nước Trung Quốc chúng ta thứ gì nhiều nhất? Vương Thảo Căn vuột nói luôn: - Đương nhiên là người nhiều nhất. - Đúng rồi, hòa thượng vỗ vào áo cà sa- Nhưng A di đà Phật, người ăn ngũ cốc tạp lương thì ai mà không sinh bệnh chứ? Sinh bệnh thì thế nào? Phải vào bệnh viện tìm bác sĩ. Dù làm quan lớn đến đâu, tài có phát nhiều đến đâu, hễ cứ vào bệnh viện là người thấp hẳn ba gang (…) - Chính là cái ý này đấy. Bất kể là người nào, địa vị cao đến đâu, đại gia lớn đến mấy ….nhưng hễ ốm đau thì ngược lại mình phải cầu cạnh người ta. Cho nên mới nói, mở một bệnh viện thì vạn sự chẳng phải cầu cạnh ai, mà ai ai cũng phải cầu cạnh mình. Cầu cạnh mình làm gì? Để mình cứu người ta mà lị. Cho nên mới nói mở một bệnh viện còn kiếm bộn tiền hơn mở một ngân hàng. Cần mạng hay cần tiền? Nếu cần mạng thì phải xùy tiền ra. Nếu cần tiền thì đừng vào bệnh viện. A di đà Phật, muốn bao nhiêu tiền chẳng phải thí chủ cứ việc phán hay sao? [ 30, 22-23] Trong tiểu thuyết này, Trương Hiền Lượng còn lôi kéo quan chức với sự phủ định của sự phủ định tham ô để khắc hoạ một xã hội kim tiền tràn lan. Trong tác phầm, Trương Hiền Lượng không hề xây dựng một quan chức tham ô trực tiếp để cho độc giả soi thấu vấn đề. Hình tượng quan chức tham ô được ông phiếm chỉ hoá đi để giảm độ căng cho sự tồn tại của tác phẩm. Nhưng chúng ta có thể tập hợp rất nhiều điều về giới chức này liên quan đến nạn chạy theo đồng tiền. Những hiện
  • 36. 31 tượng thuộc về cơ sở kinh tế đều được Trương Hiền Lượng nhắc đi nhắc lại có khi này khi khắc và có khi ít khi nhiều. Có khi tác giả mạnh dạn so sánh và liên kết ngầm giữa giới chức chính quyền với bọn đĩ bợm ma cô. Sở cảnh sát mọc lên rất nhiều nhưng không có chút động tĩnh gì đến việc bảo vệ trật tự xã hội. Cảnh sát còn bảo vệ cho “tiểu thư” trong khi họ là những người đang thực hiện lệnh truy quét “gái mại dâm”. Chỉ là lệnh và nó chỉ diễn ra một ít ngày rồi lắng xuống. Pháp luật không chặt chẽ nên không thể triệt tiêu được những hoạt động mại dâm của các “tiểu thư”. Cảnh sát chỉ bắt giữ điều tra rồi thả những cô gái bán dâm về. Những “tiểu thư” quay về quê hương nhưng làm gì có quê hương nào nhìn họ như một con người nữa. Họ lại tiếp tục làm gái cho qua ngày. Pháp luật hay giáo dục, bệnh viện hay chùa chiền, cảnh sát hay kinh doanh, tất cả đều quy về trong một chữ tiền. Từ đây ta thấy Trương Hiền Lượng đã rất khéo léo để phơi bày bộ mặt thật của Trung Quốc thời @. Một bức tranh chân thực về mọi mặt, một xã hội tưởng chừng hoàn hảo nhưng chỉ là giả dối. Và con người trong xã hội ấy đôi khi buộc phải tuân theo những thứ được gọi là quy luật, muốn tồn tại phải có “tiền”, “quyền”. “Tiền” “quyền” là hai điều kiện cần và đủ để có thể tồn tại trong xã hội này. Vì thế con người trong xã hội ấy cần phải tìm cho mình một lối thoát, lối thoát đó là ngày càng dấn sâu, tham gia vào những cuộc làm ăn bất chính. Và một thực trạng rất vô lý nhưng vẫn tồn tại trong cái xã hội hiện đại này: bệnh viện là nơi chữa bệnh cứu người, là nơi tập trung những con người được xem là tài đức của đất nước “lương y như từ mẫu”. Nhưng tất cả chỉ mang tính lí thuyết mà thôi: “Bất kể người nào, địa vị cao đến đâu, đại gia lớn đến mấy, bình thường người ta cầu cạnh mình, nhưng hễ ốm đau thì ngược lại mình phải cầu cạnh người ta. Cho nên mới nói, mở ra một bệnh viện thì vạn sự chẳng cầu ai, mà ai ai cũng cầu cạnh mình” [30, 23]. Đó là cái gì? Là điều quan trọng, là những triết lí mà nhà sư đã nói với Vương Thảo Căn. Trên đời này không có điều gì là cho không cả, và cũng không có điều gì khiến người ta phải bỏ cả tâm huyết ra cả. Thế nên việc mở ra bệnh viện cũng thế. Mục đích không phải là để nghiên cứu tìm ra những phương pháp cứu người mà chủ yếu là để kinh doanh. Nhiều khi một
  • 37. 32 bệnh viện còn kiếm được nhiều lợi nhuận hơn cả ngân hàng: “cần mạng hay cần tiền? Nếu cần mạng thì xuỳ tiền ra”. Nói chung những lời của nhà sư rất thấu tình đạt lý. Sự thật là nếu cứ có bệnh vào bệnh viện dù là ở địa vị nào cũng thấy mình “thấp hẳn ba gang”. Các bác sĩ không quan tâm đến người bệnh bị gì, nặng hay nhẹ. Cho dù ở trường hợp nào đi nữa, đều phải kiểm tra toàn thân, lấy máu để xét nghiệm. Đó là thực trạng của các bệnh viện trong xã hội đương đại, trắng trợn moi tiền người dân. Trong tiểu thuyết này, xuất hiện cả những kẻ tán tận lương tâm chỉ vì tiền. Tiêu biểu như cha của Lục Thư và Nhất Ức Lục. Từ việc hận thù đứa con trai mà ông tin rằng nó là nguyên nhân làm ông mất đi người vợ, ông đã dùng Nhất Ức Lục như một lá bài thần thánh để trục lợi chính tiền bạc mà đứa con gái duy nhất của ông ta đánh đổi bằng tuổi thanh xuân, bằng ước mơ và bằng chính trinh tiết con gái. Ông bắt Lục Thư hàng tháng phải gởi về 100 tệ để đứa em của cô được đến trường, được thoát khỏi những trận đòn dữ dội. Ông đã vô tình đẩy Lục Thư đến con đường làm tiểu thư để kiếm tiền bằng cách chôn trinh tiết của mình và phục vụ cho ông. Dường như xã hội này chỉ quan tâm đến đồng tiền, đến lợi nhuận. Điều đó đã khiến cho bao số phận con người đáng thương rơi vào bùn lầy của xã hội. Lục Thư đã phải bỏ học để kiếm tiền nuôi em trai. Giữa vòng xoáy của xã hội, giữa những khó khăn không thể giải quyết được buộc cô phải “bán trinh” để lấy tiền gửi về cho gia đình, dấn thân vào con đường làm “tiểu thư”. Nhị Bách Ngũ đáng thương phải rơi vào cảnh đầu đường xó chợ. Nền giáo dục của Trung Quốc chỉ quan tâm đến việc đào tạo cho con người kiến thức học tập mà không quản lý chặt chẽ đến đời sống giới tính của con người. Cô bé đã rơi từ tay kẻ lưu manh này đến bọn lưu manh khác. Cuộc sống của Nhị Bách Ngũ giống như một nhành liễu rũ bên hồ, không biết những tháng ngày về sau sẽ ra sao. Có thể nói, trong văn học đương đại Trung Quốc sau Đại Cách mạng Văn hóa chưa có tác phẩm nào mà nhà văn lại vận dụng lý thuyết về quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội nhiều như Trương Hiền Lượng trong tiểu thuyết Một tỷ sáu. Trong tiểu thuyết này, bất kỳ nhân vật nào cũng là có thể mở lời ra nói những nguyên lý vận hành đồng tiền như một nhà kinh tế học. Đây là cái nhìn phản biện tư tưởng về kinh
  • 38. 33 tế của chủ nghĩa Mác cũng là sự phê phán xã hội chạy theo đồng tiền. Xã hội đầy rẫy những con người chỉ sống dựa vào “đồng tiền”, nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy “danh lợi”, “địa vị”, “kinh doanh”, bệnh viện cũng kinh doanh… Địa danh trong tác phẩm này cũng được Trương Hiền Lượng sử dụng châm biếm xã hội kim tiền Trung Quốc. Những “Chí tôn vương phủ”, “phòng Tổng thống”, “Đế vương phủ”, “Hồng Vận Lâu”, nhà hàng khách sạn cấp cao… càng tô đậm thêm tính chất phù hoa ấy. 1.2.4. Châm biếm khoa học “giả cầy” Một chủ đề châm biếm khác trong tiểu thuyết Một tỉ sáu mà Trường Hiền Lượng đặt ra với xã hội đương đại Trung Quốc đó chính là khoa học và vai trò của khoa học với xã hội. Trong lịch sử văn học nhân loại, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng mang tính chất dự báo cho sự phát triển văn minh công nghệ của Jules Verne được xem là định đề đáng tin tưởng cho xã hội con người ở tương lai. Trong tiểu thuyết Một tỷ sáu này, hàm lượng khoa học không phải là điều mà Trương Hiền Lượng nhắm đến. Tuy nhiên, cái mà ông tiếp thu được ở Jules Verne là tinh thần phản biện với sự tiến bộ của khoa học. Jules Verne chỉ nghi ngại rằng: sự tiến bộ khoa học có thể sẽ không hoàn toàn đem lại sự khoái cảm cuộc sống cho con người. Trương Hiền Lượng đã tiếp thu và nâng sự nghi ngại đó lên một tầm mới: con người sẽ ứng dụng công nghệ khoa học theo mục đích xấu xa đồi bại. Và điều này đã được tác giả trình bày trong tiểu thuyết Một tỷ sáu. Ngoại trừ chủ nhiệm Lưu thì những con người còn lại như Vương Thảo Căn, Đỗ Bì và tập thể y bác sĩ của phòng nghiên cứu chữa trị vô sinh tại bệnh viện Chúng sinh, cũng như những y bác sĩ khác của thành phố đều là những con người tìm cách trục lợi từ khoa học thụ tinh nhân tạo. Vương Thảo Căn không phải là người chuyên môn khoa học, nên anh ta thấy khoa học là một thứ siêu hàng hoá cần kinh doanh. Khi lập bộ môn nghiên cứu sinh đẻ ưu việt, ông ta đã tuyên bố những tuyên bố bất hủ: “Này các ông, chúng ta nên chuyên trị cái b. và cái l., tôi không tin mọi người lại không phát tài” [30, 35]. Và lời nói này