SlideShare a Scribd company logo
1 of 79
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
------
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT
HỒ BIỂU CHÁNH 30 NĂM ĐẦU
THẾ KỈ XX
Dịch Vụ Làm Khóa Luận Tốt nghiệp
Luanvantrithuc.com
Tải tài liệu nhanh qua hotline 0936885877
Zalo/tele/viber
dichvuluanvantrithuc@gmail.com
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành Sư phạm Văn
CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT HỒ
BIỂU CHÁNH 30 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX
Người thực hiện: NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
MSSV: K38. 601. 085
Người hướng dẫn khoa học: ThS. LÊ VĂN LỰC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2016
2
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được khoá luận này, đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
gia đình, vì đã luôn bên cạnh, yêu thương, động viên và tạo điều kiện cho em học tập,
phát triển. Tiếp theo, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, quý thầy cô,
các cô chú cán bộ công nhân viên nhà trường, đặc biệt là quý thầy cô khoa Ngữ văn vì đã
nhiệt tình, tận tâm dạy dỗ, quan tâm, giúp đỡ chúng em trong suốt 4 năm học vừa qua,
cung cấp cho chúng em chìa khoá để mở cánh cửa tri thức, truyền cho chúng em tình yêu
và nhiệt huyết với nghề và trò. Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Lê Văn
Lực, người thầy đã hướng dẫn em từ những bước đi chập chững đầu tiên khi đến với con
đường khoa học đầy khó khăn, thử thách và đưa ra những nhận xét, định hướng để em có
thể hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp.
3
MỤC LỤC
PHẦN DẪN NHẬP............................................................................................................. 6
I. LÝ DO CHỌN ĐÈ TÀI............................................................................................. 6
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ...................................................................... 8
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU................................................................................ 11
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU..................................................... 11
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................... 12
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.................................................................. 13
VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN .......................................................................... 13
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................ 14
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN...................................................................... 14
1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của
văn hoá Nam bộ .......................................................................................................... 14
1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người ............................................... 14
1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí – giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh . 18
1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn .................................................. 20
1.3 Mảnh đất Nam Bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
24
1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ ..................................................................................... 24
1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ ............................................................................ 26
1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ ........................................................................ 27
CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG
TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH ............................................................................. 29
2.1. Tình cảm gia đình ............................................................................................. 29
2.1.1. Tình phụ tử ....................................................................................................... 29
2.1.2. Tình mẫu tử ....................................................................................................... 35
2.1.3. Tình cảm anh em .............................................................................................. 40
2.1.4. Tình cảm ông cháu ............................................................................................ 41
2.1.5. Tình cảm vợ chồng ........................................................................................ 43
2.2. Tình người trong cuộc sống ................................................................................. 47
4
CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỮ “TÌNH” TRONG TIỂU THUYẾT
HỒ BIỂU CHÁNH ........................................................................................................52
3.1. Cốt truyện..........................................................................................................52
3.2. Nghệ thuật kết cấu ............................................................................................56
3.2.1. Kết cấu trần thuật...........................................................................................56
3.2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập ........................................................60
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ..........................................................................63
3.4. Ngôn ngữ...........................................................................................................70
PHẦN KẾT LUẬN ...........................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................77
5
PHẦN DẪN NHẬP
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học hiện đại Việt Nam trong quá trình hình thành và vận động bằng chữ quốc
ngữ đã có những biến chuyển mạnh mẽ vào giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trong quá trình phát triển ấy, văn xuôi được chú ý và đón nhận là một bộ phận quan
trọng của nền văn học dân tộc. Sở dĩ nói thế là vì trong văn xuôi người ta tìm thấy một
thể loại mới mang những yếu tố, những khả năng có thể làm mới nền văn học thời bấy
giờ cả về hình thức lẫn nội dung, hứa hẹn một sự đổi thay mang tính chất toàn diện, đó là
tiểu thuyết.
1.1. Hình thành trong giai đoạn văn học mang tính chất giao thời từ 1900 đến 1930,
tiểu thuyết dù chưa phải là chặng hoàn tất và đạt nhiều thành tựu nổi bật như giai đoạn sau
(1930 -1945) nhưng nó đã mang đến một luồng gió mới khi cảm hứng đạo lí nổi lên thành
một đặc điểm tiêu biểu về nội dung có sức ảnh hưởng đối với nền văn học nước nhà thời bấy
giờ. Nội dung đạo lí xuất hiện khi bối cảnh văn hoá, xã hội của nước ta biến đổi. Quá trình
đô thị hoá, tư sản hoá đã dần hình thành nên lối sống tư sản. Dù đã mang đến những đổi thay
tích cực nhưng lối sống này lại bộc lộ nhiều mặt trái đáng phê phán. Văn hoá, xã hội bắt đầu
biến thoái khi những giá trị văn hoá truyền thống dù đã tồn tại hàng nghìn năm trước cuộc
“mưa Âu gió Mỹ” lại có nguy cơ lung lay. Lần đầu tiên, chúng ta cảm thấy mất niềm tin và
khiếp sợ với chính mình, với cuộc sống và văn hoá xã hội khi mà nhiều giá trị đạo đức truyền
thống bị đảo lộn hoặc bị đo bằng thước đo phi đạo đức. Trong bối cảnh đó, cảm hứng đạo lí
– nguồn cảm hứng đã có cơ sở vững chắc từ văn học trung đại vẫn tiếp tục dòng chảy của
mình, phát huy mạnh mẽ trong việc vạch trần, phê phán đạo đức, lối sống tư sản. Thật vậy,
tiểu thuyết từ khi xuất hiện với nội dung đạo lí đã tác động mạnh mẽ khi nó gắn với chức
năng giáo dục, cảnh tỉnh của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng được hình thành chủ
yếu từ bối cảnh văn hoá, xã hội. Nó là tấm gương phản chiếu hiện thực đời sống trong cơn
lốc Âu hoá đang biến chất một cách ghê gớm, là nấc thang quan trọng đánh dấu sự đổi mới
của nền văn học Việt Nam.
1.2. Vào buổi bình minh của văn xuôi quốc ngữ, các tác giả Nam bộ đã có công
đầu trong việc hiện đại hoá tiểu thuyết và tạo nên những bước đột phá mới khi thể loại
6
này còn khá mới mẻ, chưa hoà nhập vào sự vận động chung của nền văn học nước nhà.
Trong đó, có thể kể đến là Hồ Biểu Chánh_cây bút sáng giá nhất của Nam Bộ. Trên con
đường hiện đại hoá, ông đã có nhiều thử nghiệm khi mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam
một diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trên cái nền của truyền thống, kết hợp
thêm chất xúc tác của văn học phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã đạt được những thành
công đáng kể khi tập trung khai thác những vấn đề, quan niệm về cuộc sống và con người
thông qua lăng kính đạo đức. Nổi bật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là cảm hứng đạo lí
chi phối toàn bộ tác phẩm của ông từ nội dung, nghệ thuật đến những giá trị tinh thần mà
nhà văn muốn hướng đến độc giả. Và hơn hết, thông qua các tiểu thuyết của ông, độc giả
tìm thấy một nhà văn luôn tìm về và khát khao gìn giữ những giá trị truyền thống văn
hoá, đạo đức của dân tộc, luôn phát hiện ra những nét đẹp chân chất, mộc mạc của con
người Nam Bộ cũng như cái tình người, tình đời cao đẹp, chân thành luôn hiện hữu trong
tâm hồn họ. Khi nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, chúng ta không khỏi nể
phục bởi sức sáng tạo vô tận của ông. Hồ Biểu Chánh đã dành trọn trái tim và khối óc
cho văn chương, cho kho tiểu thuyết đồ sộ của mình – kho tiểu thuyết chất chứa tình
người Nam Bộ.
Tìm thấy cảm hứng sáng tác từ cuộc sống đầy biến động trong buổi giao thời, Hồ
Biểu Chánh tập trung miêu tả, khắc hoạ những đổi thay của xã hội trên con đường tư sản
hoá. Nhìn thấy những mặt trái mà cơn gió Âu hoá mang tới, ông đau xót nhận ra những
biến dạng đầy méo mó, lệch lạc trong tâm hồn, nhân cách và đạo đức của con người.
Trong khi các nhà văn khác tập trung đi vào vấn đề hiện thực hoá thì Hồ Biểu Chánh dù
vẫn phản ánh sự suy hoá trong đạo đức, nhân cách của con người để người đọc khi đau
xót khi rùng mình khiếp sợ nhưng điều mà nhà văn muốn hướng đến đó là những giá trị
tốt đẹp trong tâm hồn của con người. Có thể thấy trong các tiểu thuyết của ông, bên cạnh
những hiện thực đen tối, những hạng người bị cuộc sống tư sản tha hoá thì vẫn còn có
những con người của đạo đức, vẫn còn cái tình luôn hiện hữu trong cuộc sống.
1.3. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã thẩm định vị trí, công lao cũng như các giá
trị về tinh thần và văn hoá truyền thống mà các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh để lại cho
nền văn xuôi Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu phần lớn chỉ mới đánh
7
giá một cách khái quát chứ chưa đi sâu để làm rõ cảm hứng đạo lí thể hiện qua chữ tình
trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, chúng tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ba mươi năm đầu thế kỉ
XX” để hiểu rõ hơn về cuộc đời và con người của Hồ Biểu Chánh. Bên cạnh đó, đề tài
cũng làm rõ hơn những giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật biểu hiện của chữ tình trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong công trình nghiên cứu “Phê bình và cảo luận”, Thiếu Sơn là người đầu tiên
đã đánh giá cao những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại khi nhận xét rằng: “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đủ sức hấp dẫn để lôi
cuốn độc giả Việt Nam ham đọc truyện tàu trở về đọc truyện ta để nhớ tới thân phận con
người Việt Nam đương sống trong xã hội Việt Nam và đương là nạn nhân của chế độ,
một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến mà bọn người được ưu đãi là những ông quận,
những ông làng, những ông cử con quan và những ông nhà giàu địa chủ, đặc biệt là tác
giả lại về phe những người nghèo hèn, yếu thế, những tá điền và nông dân” [46, 40]
Trong quyển Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã giới thiệu sơ nét những đặc
điểm về nội dung và nghệ thuật qua một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như Cha con
nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình, Khóc thầm…Đồng thời Vũ Ngọc Phan còn đánh giá cao về
giá trị, những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình phát triển của nền
văn học nước nhà “Điều đáng quí là có lúc Hồ Biểu Chánh đã đề cao được tinh thần
phản kháng của người lao động (…) Hồ Biểu Chánh đã tập trung mũi dùi đả kích vào
bọn địa chủ, quan lại phong kiến” và “Dù sao, nếu đã đọc những tiểu thuyết của các nhà
văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận ra từ Hoàng Ngọc Phạc
và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới
ngày nay là lúc có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [43, 336]
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã nghiên cứu khá
toàn diện về tiểu thuyết Việt Nam và ông đã ghi nhận một điều mà trước đó giới nghiên
cứu chưa lưu tâm chú ý về sự hình thành của tiểu thuyết miền Nam “Dù sao ta cũng phải
công nhận là ở một phương diện nào, thể tiểu thuyết đã đi bước trước ở miền Nam” [41,
8
377]. Song song đó, Phạm Thế Ngũ cũng dành sự quan tâm của mình vào việc phân tích
một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm 30 của thế kỉ XX để chỉ ra những nét
đặc trưng tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật cùng con người và vùng đất Nam Bộ. Ông
xem đây là một yếu tố quan trọng hình thành nên tư tưởng, chủ đề đạo lí trong các sáng
tác văn xuôi của Hồ Biểu Chánh. Công trình nghiên cứu của Phạm Thế Ngũ được nhìn
nhận là sâu sắc hơn hẳn các công trình nghiên cứu trước đó của Vũ Ngọc Phan, Thiếu
Sơn.
Trong Bản lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhìn nhận Hồ Biểu Chánh là
một nhà văn kì cựu nhất của làng văn Việt Nam và dành phần nhiều trang viết để làm nổi
bật những giá trị về nội dung và nghệ thuật qua việc phân tích một số tác phẩm tiêu biểu
của nhà văn Nam Bộ này. Thanh Lãng đã khẳng định vị thế và ý hướng văn chương của
một nhà tiểu thuyết Nam bộ luôn kiên định với con đường mà mình đã lựa chọn “Nhưng
Hồ Biểu Chánh không phải là con người của các trào lưu mà là của truyền thống. Mặc
cho thiên hạ khen chê, ông cứ thẳng băng đường của ông, ông tiến” [35, 74].
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến công trình nghiên cứu Chân dung Hồ
Biểu Chánh của Nguyễn Khuê. Bằng việc tập hợp, thống kê đầy đủ các sáng tác của Hồ
Biểu Chánh, Nguyễn Khuê đã giúp người đọc hiểu được cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của nhà văn Nam bộ này. Ngoài ra, Nguyễn Khuê còn chỉ ra ý hướng chủ yếu trong tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí và nhìn nhận giá trị tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh cũng như địa vị tác giả trong văn học sử “Cái tên HỒ BIỂU CHÁNH rất quen
thuộc đối với văn học. Quen thuộc vì ông là một tác giả lớn ở miền Nam đã có tác phẩm
hành thế từ đầu thế kỉ nay và vẫn tiếp tục sáng tác đều đặn đến những ngày cuối cùng
của đời ông” [30, 8].
Trong Bình minh của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quyết Thắng đã khái
quát sơ lược về cuộc đời của Hồ Biểu Chánh, thu thập, thống kê một số tiểu thuyết tiêu
biểu của ông. Đánh giá những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Quyết Thắng còn so sánh, trích dẫn thêm những nhận xét của
các nhà nghiên cứu phê bình văn học khác như Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan để mang đến
cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về những đóng góp của Hồ Biểu Chánh cho nền văn
9
học nước nhà “Phần đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào nền học thuật Việt Nam quả thật
vô cùng phong phú. Điều này không một nhà nghiên cứu nào có thể phủ nhận được. Phủ
nhận chỉ làm cho văn học thêm nghèo hơn trong một nền văn học còn thiếu vắng nhiều
khuôn mặt như Hồ Biểu Chánh” [33, 146].
Với công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phan Cự Đệ đã trình bày về những
khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930 và những mầm mống đầu tiên của một nền tiểu
thuyết mới. Ông đã dành nhiều trang nhận xét những mặt tích cực và chỉ ra một số hạn
chế của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phan Cự Đệ khẳng định tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh đã ghi lại những nét khá điển hình của hiện thực Nam Bộ sau chiến tranh thế giới
lần thứ nhất và khuynh hướng đạo lý giúp cho Hồ Biểu Chánh giữ được nhiều truyền
thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt Nam cổ điển: giàu tính lý tưởng, giàu tinh thần dân chủ
chống phong kiến.
Tóm lại, khảo sát những tài liệu chúng tôi ghi nhận được, chữ tình trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là một đề tài mới mẻ, chưa từng có công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, hệ thống trong mối quan hệ biện chứng với quan niệm sáng tác của tác giả
và các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Có thể thấy các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
đều nghiên cứu theo hướng đánh giá vị trí và sự đóng góp của ông trên văn đàn văn học
dân tộc. Hồ Biểu Chánh được xem là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
- Ngoài ra, một số các công trình nghiên cứu khác tập trung vào việc phân
tích nội dung tư tưởng, khuynh hướng đạo lí, phản ánh hiện thực và đặc trưng ngôn ngữ
trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh như khoá luận Đặc điểm khẩu ngữ Nam bộ trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Châu Minh Hiền, khoá luận Vị trí của tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900 – 1930) của Huỳnh Thị
Lành và công trinhg khảo cứu khảo cứu Hồ sơ về Lục châu học – Tìm hiểu con người ở
vùng đất mới của Nguyễn Văn Trung. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào thật sự quan tâm đầy đủ và đúng mức về việc khẳng định chữ tình trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, một đóng góp tích cực về ý thức sáng tạo trong việc định
hướng ngòi bút của mình để gìn giữ, ca ngợi những giá trị văn hoá truyền thống của dân
10
tộc. Bên cạnh đó còn là một kênh hiệu quả để hiểu thêm về hiện thực đời sống văn hoá xã
hội, tính cách con người của vùng đất mới trong các sáng tác của tác giả sau này.
Như vậy, đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu trên,
đi sâu vào tìm hiểu chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh qua một số tiểu thuyết trong
30 năm đầu thế kỉ XX.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Về khoa học cơ bản: Chúng tôi khảo sát, trích lọc và phân tích những yếu
tố, cơ sở hình thành nên một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trong 30 năm đầu thế kỉ
XX trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật cụ thể: hiện thực đời sống qua
bức tranh thiên nhiên và xã hội Nam bộ, số phận con người, truyền thống đạo lí dân tộc,
ngôn ngữ sinh hoạt mang nét đặc trưng vùng miền.
2. Về thực tiễn: Chúng tôi nhận thấy một số đoạn trích từ tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh được lựa chọn giảng dạy trong chương trình phổ thông đề cao chữ tình của
con người Nam bộ qua tiểu thuyết Con nhà nghèo, Cha con nghĩa nặng. Thực hiện đề tài
này sẽ giúp chúng tôi có thêm kiến thức bao quát, kĩ lưỡng hơn về cuộc đời, quan niệm
sáng tác của tác giả với hiện thực cuộc sống và con người Nam bộ. Từ đó, giảng dạy tốt
hơn những tác phẩm của ông trong chương trình phổ thông các cấp. Đồng thời, nghiên
cứu đề tài này cũng giúp chúng tôi hiểu biết thêm về vùng đất và con người nơi đây, thêm
yêu và trân trọng những đạo lí truyền thống ngàn đời được gìn giữ của dân tộc.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu thuyết của tác giả Hồ Biểu Chánh
2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ tập trung trích lọc và phân tích chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh qua 17 sáng tác trong 30 năm đầu thế kỉ XX:
1. Ai làm được sáng tác năm 1912, nhuận sắc năm 1922
2. Chúa tàu Kim Quy, 1922
3. Cay đắng mùi đời, 1923
4. Tỉnh mộng, 1923
11
5. Một chữ tình, 1923
6. Nam cực tinh huy, 1924
7. Nhơn tình ấm lạnh, 1925
8. Tiền bạc, bạc tiền, 1925
9. Thầy Thông ngôn, 1926
10. Ngọn cỏ gió đùa, 1926
11. Chút phận linh đinh, 1928
12. Kẻ làm người chịu, 1928
13. Vì nghĩa vì tình, 1929
14. Cha con nghĩa nặng, 1929
15. Khóc thầm, 1929
16. Nặng gánh cang thường, 1930
17. Con nhà nghèo, 1930
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết những vấn đề trên, trong khoá luận chúng tôi sẽ sử dụng những
phương pháp sau đây:
a. Phương pháp nghiên cứu hệ thống (nghiên cứu văn học với tư cách là một
chỉnh thể như một cấu trúc phức hợp những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau và tác
động lẫn nhau) như hệ thống đề tài, chủ đề, hệ thống hình tượng nhân vật, tính cách nhân
vật, các yếu tố ngôn ngữ,…trong một hoặc một số tác phẩm.
Vận dụng phương pháp hệ thống chúng tôi trình bày, lí giải, khái quát, tổng hợp
những vấn đề liên quan đến đề tài được thấu đáo, trọn vẹn hơn.
b. Phương pháp phân tích đối chiếu: đây là phương pháp nhằm tìm hiểu, phát
hiện những đặc điểm của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó tìm ra sự đóng góp tích cực
của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình hình thành tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam
đầu thế kỉ XX và những tư tưởng, đạo lí truyền thống của dân tộc qua các thời kì lịch sử.
c. Phương pháp thống kê – so sánh: phương pháp này nhằm khảo sát những
yếu tố mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kế thừa tác phẩm tự sự truyền thống, những yếu tố
cách tân để đánh giá vị trí, vai trò của ông trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế
12
kỉ XX. Đó là mối quan hệ tiếp thu – chuyển biến – sáng tạo giữa thi pháp trung đại và thi
pháp hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Có cái nhìn tổng quát về vị trí của Hồ Biểu Chánh trong sự phát triển của
văn xuôi quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX
- Chỉ ra được những tiếp biến văn học phương Tây trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh
- Góp phần khắc đậm những tính cách, đặc điểm của con người và vùng đất
Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã được người đi trước đề cập
- Sức hấp dẫn của Hồ Biểu Chánh đối với công chúng Nam bộ
VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Những cơ sở của chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, gồm 3 nội
dung chính. Thứ nhất, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét
đặc trưng của văn hoá Nam bộ. Thứ hai, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm “đạo” trong văn.
Thứ ba, mảnh đất Nam bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Chương 2: Chữ tình thể hiện qua phương diện nội dung trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh với 2 vấn đề lớn: tình cảm gia đình và tình người trong cuộc sống.
Chương 3: Chữ tình thể hiện qua phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh, gồm 4 đặc điểm nổi bật: cốt truyện, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật xây dựng
nhân vật, ngôn ngữ.
13
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc
trưng của văn hoá Nam bộ
1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người
Nhìn từ sự phát triển của văn học và văn hoá Nam Bộ đầu thế kỉ XX, Hồ Biểu
Chánh được xem là một nhân vật hết sức đặc biệt trong số các tác gia có đóng góp quan
trọng cho nền văn học dân tộc: nhà văn gắn bó với số phận và những thăng trầm của văn
học quốc ngữ miền Nam. Khi đã mang cả cuộc đời mình gắn bó với vùng đất này, Hồ
Biểu Chánh say mê sáng tác, khai thác, tìm tòi những giá trị văn hoá, tinh thần của vùng
đất Nam bộ trong lịch sử văn học dân tộc. Đọc tiểu thuyết của ông, người đọc đôi lúc
thấy nồng nhiệt, lúc thấy sục sôi bởi hiện thực cuộc sống mà ông phản ánh nhưng giá trị
đặc sắc và có ý nghĩa mà tiểu thuyết của ông mang đến chính là cái cốt lõi của truyền
thống dân tộc: quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người.
Trước hết, đó là sự kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận
vị. Với Hồ Biểu Chánh, ông quan niệm cái ta chung của một cộng đồng là sự tổng hoà
của nhiều cái tôi cá nhân mà những cá thể ấy phải có mối quan hệ mật thiết, có trách
nhiệm với cộng đồng, tập thể và có một bổn phận nhất định. Con người cá nhân trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chưa thể tồn tại một cách độc lập, không thể tách khỏi gia
đình, xã hội và càng không có tiếng nói cá nhân: “Ta là Một, là Riêng là Thứ
Nhất”(Xuân Diệu).
Kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận vị nhưng Hồ Biểu
Chánh lại có sự thay đổi khi đặt chức năng phận vị trong quan hệ với gia đình, xã hội mà
không phải là quan hệ với vua, với nước như các nhà Nho xưa. Con người trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là con người đời tư, con người của nhịp sống đời thường. Họ sống
và ý thức cao độ về trách nhiệm, bổn phận của một thành viên trong gia đình, một cá
nhân trong cộng đồng. Không chỉ thuộc tầng lớp trí thức, con người chức năng phận vị
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có cả hàng ngũ người lao động, đặc biệt là mô típ
các nhân vật độc thân. Thay đổi quan niệm về con người chức năng phận vị, Hồ Biểu
14
Chánh để cho các nhân vật độc thân của mình có những biểu hiện chán ghét hoặc cương
quyết từ chối chuyện lập gia thất, muốn thoát khỏi chức năng phận vị trong gia đình: làm
cha, làm mẹ, làm vợ, làm chồng,…nhưng lại tự gắn mình vào một bổn phận khác, bổn
phận với đời, với xã hội. Chẳng ai tìm được lí do vì sao họ lại lựa chọn con đường ấy
nhưng với họ làm tốt bổn phận của chính mình đã là một hạnh phúc to lớn, có ý nghĩa
hơn cả hạnh phúc cá nhân. Đó là những con người có ý thức rất cao về bổn phận, trách
nhiệm với gia đình, xã hội và có khi còn quên cả chính mình để làm tròn bổn phận với
người, với đời và phong hoá của xã hội. Con người chức năng phận vị trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh từ chối ràng buộc với những ham muốn tầm thường, từ chối cả việc thực
hiện trách nhiệm, bổn phận ở một giới hạn nhỏ hẹp. Họ mong muốn vươn tới những giá
trị to lớn, cao cả thông qua việc khẳng định ý thức bổn phận giữa xã hội rộng lớn. Qua
hàng loạt các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, có thể thấy, con người theo quan niệm của
Hồ Biểu Chánh ít nhiều mang nét tương đồng với quan niệm con người tự do trong văn
học thời Lý Trần nhưng tuyệt nhiên không thể thoát ra khỏi chức năng phận vị dù là trong
hoàn cảnh nào và tuyệt đối phải sống đúng với chức năng phận vị của mình. Xuyên suốt
các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã chỉ ra một thực tế: những ai không làm tốt
hoặc cố thoát ra khỏi chức năng phận vị của mình đều sẽ gặp một kết cục thảm hại.
Không như các nhà văn khác hướng ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực để lên
án hay tố cáo xã hội, Hồ Biểu Chánh lấy việc phản ánh hiện thực như là một công cụ, bàn
đạp để nhà văn bóc trần những mặt trái trong đạo đức của con người được nảy sinh từ
hiện thực xấu xa, tàn bạo đó. Hiện lên trong các sáng tác ấy là một Hồ Biểu Chánh đang
xót xa, đau đớn trước sự băng hoại, méo mó trong nhân cách, đạo đức của con người.
Thật vậy, dù là một nhà văn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học phương Tây nhưng
Hồ Biểu Chánh luôn tìm về với những phong hoá, những giá trị tinh thần, truyền thống
của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà trong mỗi tác phẩm của ông ta đều
thấy được sự trân trọng, đề cao của nhà văn với những giá trị đạo đức. Với Hồ Biểu
Chánh, sống theo đạo đức là bổn phận và chức năng của con người. Đạo đức ấy không
chỉ phục vụ riêng cho mỗi con người mà còn cho phong hoá của xã hội. Không cần phải
mang những lý tưởng hay phẩm chất cao đẹp, con người theo quan niệm cuả Hồ Biểu
15
Chánh là con người đạo đức, sống theo đạo đức và sống vì đạo đức. Với ông, đạo đức là
thước đo nhân cách, phẩm giá của con người. Chỉ khi con người có thể dẹp bỏ tất cả
những ham muốn và quyền lợi cá nhân để thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức thì con
người ấy chính là con người lí tưởng.
Quan niệm con người lí tưởng là con người làm tốt chức năng phận vị, sống theo
những chuẩn mực đạo đức nhưng với Hồ Biểu Chánh con người lí tưởng còn phải mang
vẻ đẹp tâm hồn. Đây là nguyên tắc tư duy kiểu nhà Nho khi thể hiện con người được Hồ
Biểu Chánh vận dụng cho các nhân vật của mình. Là một nhà văn luôn đi tìm những giá
trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm
đến việc tạo nên các giá trị tinh thần cho nhân vật trong tác phẩm của mình, nhất là các
nhân vật chính diện, tiêu biểu cho loại người có đạo đức. Nhân vật mang vẻ đẹp của đạo
đức trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là những con người có vẻ đẹp ngoại hình vừa
thanh khiết, tinh anh lại vừa gần gũi, giản dị. Nhưng nét đặc biệt để phân biệt Hồ Biểu
Chánh với các nhà Nho khác là khi miêu tả nhân vật của mình ông không sử dụng yếu tố
thiên nhiên để tô vẽ bức chân dung nhân vật chính diện. Hồ Biểu Chánh đã đưa các yếu
tố cụ thể và chân thật của đời thường, những cái vốn có của con người để khắc hoạ hình
dáng bên ngoài của nhân vật. Thế nên, những tình, những cảnh, những con người cùng
bao nhiêu sự việc trong tiểu thuyết của ông thật gần gũi, quen thuộc với quần chúng. Tất
cả hiện lên như một bức tranh sinh hoạt hiện thực sống động mà người đọc có thể mắt
thấy tai nghe, có khi chính là bản thân của họ hoặc đã từng đóng một vai tham dự.
Cả cuộc đời sống hết mình cho nghiệp văn và tấm lòng chỉ hướng về mảnh đất
Nam bộ thương yêu, Hồ Biểu Chánh đã gửi vào những nhân vật của mình hơi thở của
cuộc sống giản dị, của những khát khao hạnh phúc đời thường hoặc những ham muốn
lầm lạc. Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ý thức được nỗi đau, hạnh phúc. Thế
nhưng Hồ Biểu Chánh lại rất có ý thức về tính độc lập tự do của đạo đức. Xây dựng các
hình tượng nhân vật biểu trưng cho cuộc sống đời thường đa dạng, phức tạp như thế
nhưng ông cho rằng dù người ta có theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ thì vẫn cần phải
giữ cho được đạo đức truyền thống, tức đạo lí làm người của dân tộc. Do đó những ai dù
mang khát vọng cá nhân mạnh mẽ đến dường nào đều sẽ bị đạo đức, luân lí kéo trở lại
16
với chức năng phận vị. Dù muốn hay không con người cũng cần phải sống có trách
nhiệm, làm tròn bổn phận và tự ý thức về vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ
gia đình, xã hội. Con người đạo đức, luân lí theo quan niệm của Hồ Biểu Chánh đôi lúc
phải chấp nhận hi sinh tất cả những gì của cá nhân, chấp nhận đau khổ riêng mình mà
chăm lo, vun đắp hạnh phúc cho gia đình, cho những mối quan hệ cộng đồng thân thiết
dù có phải nhận lấy sự thiệt thòi hay nỗi sầu não cả một đời.
Kế thừa, tiếp thu truyền thống văn hoá về con người đạo lí của văn học trung đại,
văn chương Việt Nam thực sự đã có những bước chuyển biến mới đầy hứa hẹn. Trong
lớp các nhà văn mới đang trên đường tìm kiếm một mô hình cho tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, Hồ Biểu Chánh có thể nói là người đã mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam khi
sớm gặt hái được nhiều thành công. Sớm mang một tình yêu chân thành, nồng thắm với
vùng đất, con người Nam bộ, Hồ Biểu Chánh đã lựa chọn thể loại truyện thơ để mang
đến hơi thở sức sống mới cho tiểu thuyết hiện thực của mình. Và hơn hết có thể thấy
chính những truyền thống đạo lí, tinh thần nghĩa hiệp của văn chương miền Nam được
hun đúc nên từ tinh thần đạo nghĩa phương Đông và nó đã trở thành tiền đề cho quan
niệm đạo đức của Hồ Biểu Chánh về cuộc sống, con người. Niềm tin và mong ước về
một xã hội có luân lí, đạo đức tốt đẹp được Hồ Biểu Chánh thể hiện đậm nét trong các tác
phẩm của mình với những người thanh niên trọng lễ nghĩa và trung trực, những con
người từ tâm giàu lòng thương người, những người phụ nữ trọng đạo nghĩa và sự trung
trinh, thuỷ chung, son sắt. Một phiên bản của những Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Kiều
Nguyệt Nga trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu. Vì tin vào sức mạnh trường tồn
của truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, Hồ Biểu Chánh tin vào sự hiền lương trong
tâm tính của con người. Với cái nhìn chủ đích luân lí, ông tin vào chân lí “ác giả ác báo”,
thiện bao giờ cũng thắng ác, người tốt, ngay thẳng dù bị vùi dập, phải trải qua bao nhiêu
gian truân khổ ải cũng sẽ có ngày được đáp đền xứng đáng, người bị hàm oan được thoát
tội còn kẻ gian ác phải bị trừng trị, sống nhục chết thảm không chốn dung thân. Đó là nét
đặc biệt tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Trong thời kì hiện đại hóa văn học, đổi mới bao giờ cũng khởi phát từ cái nền của
truyền thống. Từ những phân tích trên có thể thấy quan niệm về con người của Hồ Biểu
17
Chánh luôn có sự đan cài, kết nối giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, giữa cái nhìn cuộc
sống và con người theo quan niệm chức năng phận vị và cái nhìn mới mẻ, phóng khoáng
để làm nên giá trị phù hợp với thời đại. Dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền Hán học
và Tây học nhưng quan niệm của Hồ Biểu Chánh vẫn thể hiện những biến đổi nghệ thuật
về cuộc sống và con người trong giai đoạn văn học giao thời. Và khi có được cái nhìn
mới mẻ, Hồ Biểu Chánh lại là người tỏ ra rất tình nghĩa với truyền thống. Với ông nếu
con người biết sống theo bản ngã trong chừng mực nhất định và không quên chức năng
phận vị thì đó là con người lý tưởng nhất. Hạnh phúc sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và
cái tôi. Chính quan niệm trên đã tạo cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng và
có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đây cũng là nét đặc trưng dễ nhận ra trong văn
học đầu thế kỉ XX.
1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí_giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh
Trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là cây bút tiên phong sáng giá
nhất của giai đoạn 1913 – 1932 bởi lẽ ông đã đạt được nhiều tiến bộ về kĩ thuật dựng
truyện, nội dung cũng như văn từ và sáng tác nhiều hơn hết so với các nhà văn cùng thời.
Tuy nhiên, người đời sau nhớ về Hồ Biểu Chánh không chỉ ở vị trí là người mở đường
cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại mà ông còn là một nhà văn có khuynh hướng bảo thủ,
nhà văn kiên trì dành cả cuộc đời của mình để tìm kiếm những giá trị đạo đức, luân lí
trong nét đẹp cổ xưa của truyền thống văn hoá dân tộc. Đó là sứ mạng văn chương cao cả
được Hồ Biểu Chánh suốt đời tôn sùng, đề cao và trân trọng. Người đời có thể tha hồ chỉ
trích lập trường chính trị của ông quan Hồ Văn Trung nhưng không ai có thể phủ nhận
được địa vị của nhà văn Hồ Biểu Chánh trong lòng người đọc cũng như trong lịch sử văn
học Việt Nam thời cận hiện đại và cả mãi về sau: Hồ Biểu Chánh – cây cầu nối liền
những giá trị cổ truyền với con người hiện đại.
Như vậy, đạo lí trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã khẳng định vị trí của ông
trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua các tác phẩm của mình, dù trong Đời của tôi
về văn nghệ ông đã từng thú nhận ngay từ lúc mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố tâm
viết loại tả chân về phong tục nhưng nếu xếp Hồ Biểu Chánh vào nhà văn có ý hướng
18
phong tục thì đó là một sự nhầm lẫn đáng tiếc. Khi phân tích, nghiên cứu ý hướng chủ
đích trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ta cần phải cân nhắc, đánh giá xem khi ghi
nhận các phong tục và mô tả hình ảnh xã hội đương thời thì Hồ Biểu Chánh đã có thái độ
như thế nào. Và trong quyển “Chân dung Hồ Biểu Chánh”, Nguyễn Khuê viết: “Có thể
nói, tính chất luân lí bao trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục
cũng chỉ nhằm đạt chủ đích luân lí. Thế nên, nếu cần phải xác định một ý hướng làm nền
tảng cho sự sáng tác của Hồ Biểu Chánh thì đó chính là ý hướng luân lí và ông là một
nhà đạo lí” [28, 260]. Nghĩa là thông qua việc ghi nhận và mô tả hình ảnh xã hội đương
thời, Hồ Biểu Chánh phơi bày thực trạng gia đình và xã hội. Phơi bày nhưng không đả
phá những cái cũ và hô hào cho những cái mới. Trong thời đại nền văn minh phương Tây
phát triển ồ ạt và có những ảnh hưởng nhất định đến nền văn hoá nước ta, Hồ Biểu Chánh
chủ trương cái cũ và cái mới đều có những hay dở riêng và việc của mỗi con người chúng
ta là phải tỉnh táo lựa chọn và hành xử một cách đúng đắn nhất, phù hợp với đạo đức,
luân lí tốt đẹp của dân tộc. Miêu tả phong tục, tập quán nhưng chủ đích lại muốn hướng
con người vào một lối sống lành mạnh, tốt đẹp, ngay thẳng. Hồ Biểu Chánh chủ trương
nền văn hoá truyền thống của dân tộc chỉ có thể bền vững khi con người muốn duy trì và
bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền. Đó chính là một vẻ đẹp bất biến trong nhân cách,
tâm hồn của Hồ Biểu Chánh thông qua các tác phẩm của ông.
Điều thứ hai cần phải cân nhắc và xem xét đó là dù các tiểu thuyết của ông chủ
yếu mô tả phong tục nhưng thường nặng tính chất luân lí. Biểu hiện rõ rệt của ý hướng
luân lí trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh thể hiện qua cốt truyện và cách trình bày
nhân vật. Dù trong phạm vi gia đình hay xã hội, dù là vấn đề hôn nhân hay mê tín dị
đoan,…đều có thể thấy khi xây dựng cốt truyện, công thức phổ biến là những nhân vật –
nạn nhân của số phận bị xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, những con người bé nhỏ bị
thực tại và cả chính những ham muốn, lầm lạc của mình xô đẩy và dẫn đến kết cục bi
thảm. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một thế giới đa dạng và phong phú về các nhân
vật và đặc biệt hơn khi họ lại là những nhân vật điển hình cho cuộc sống của hiện thực.
Mỗi nhân vật của ông có một hoàn cảnh, số phận riêng nhưng họ gặp nhau ở một điểm
chung: đều bị cái nghèo đói làm cho khổ sở, chật vật. Có người bị vùi dập và biến chất
19
nhưng cũng có những nhân vật vượt qua được nghịch cảnh ấy mà giữ được những khí
tiết, phẩm chất cao đẹp. Nhưng ý hướng luân lí không chỉ dừng lại ở đó. Nó bộc lộ qua
những kết cục có hậu theo sự tin tưởng của nhiều người rằng “ở hiền gặp lành” hay
“thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Để rồi hoá giải tất cả, cái bất biến trường tồn đến
cuối cùng chính là lòng thương người, lòng trung trinh, sự hiếu hạnh, cải tà quy chánh, tu
thân lập chí và những lời giảng giải luân lí của chính tác giả. Có thể thấy các tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh vừa là sự tố cáo hiện thực xã hội lại vừa là giấc mơ, đạo lí sống được
chính tác giả đề cao và trân trọng. Đồng thời, đó còn là một thứ cảm quan đặc trưng của
những cư dân trên một miền đất mới mà những đạo đức, luân lí tốt đẹp ấy như một điểm
tựa vững chắc của niềm tin giúp họ bảo tồn những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc
khi phải thường trực đối diện với một thực tại không nhiều hứa hẹn.
Tiếu thuyết là tác phẩm văn chương cũng là một công trình nghệ thuật và thông
qua đó ít nhiều người đọc bị ảnh hưởng tốt hoặc xấu. Một lần nữa có thể khẳng định ý
hướng chủ yếu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí, ý hướng phong
tục chỉ là thứ yếu. Thông qua các tiểu thuyết luân lí của mình Hồ Biểu Chánh muốn
tuyên truyền và bồi đắp thế đạo nhân tâm khi mạnh dạn lên án những tác nhân, những
mầm mống gieo rắc tai hoạ, gây bao cảnh lầm than và cảm thông chia sẻ nỗi đau của
những số phận, những con người trong xã hội.
1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn
Có nhiều người hay nói đến việc đi tìm cảm hứng sáng tác. Dù là trong lao động
nghệ thuật nói chung hay sáng tác văn chương nói riêng, dù là nhà văn hay nhà thơ đều
cần phải có cảm hứng. Nhà thơ Nguyễn Khuyến thì nói: “Nhân hứng cũng vừa toan cất
bút…” hay như Tố Hữu cũng viết: “Tưởng đâu quên mất thơ rồi/ Tạm ngừng công việc
lại ngồi với thơ…” Cảm hứng sáng tác tạo nên tác phẩm. Cảm hứng theo Bêlinxki là
“trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc
sống mà họ miêu tả”, cảm hứng là “sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một
tư tưởng nào đó” và “cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở
thành lòng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng
nhiệt” [24, 208 – 209]. Còn trong quyển Lý luận văn học thì cho rằng: “cảm hứng là một
20
trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí
tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hoà, kết tinh sẽ cháy bùng trong tư duy
nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như
trực giác, bản năng”[39, 315]. Có rất nhiều cách định nghĩa thế nào là cảm hứng nhưng
chắc chắn nó không tự có mà cũng không thể đi tìm bởi lẽ cảm hứng là một cái gì đó rất
vô hình, không thể định dạng cũng không thể định vị. Cái nền, cái gốc để nảy sinh cảm
hứng sáng tác chính là từ cuộc sống giàu có và phong phú của người nghệ sĩ. Cảm hứng
sáng tác đến thưa thớt hay dồn dập không quan trọng. Cách tốt nhất để nảy sinh cảm
hứng sáng tác là chăm bón tốt cho tâm hồn bằng cách sống tích cực, sống hết mình, gắn
bó với cuộc đời, con người. Không có cảm hứng thì không thể có sáng tác văn chương
đích thực. Rất nhiều đỉnh cao của văn chương nhân loại cả đời chỉ sáng tác một tác phẩm
duy nhất.
Hồ Biểu Chánh là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại không chỉ
để lại cho văn chương nhân loại một sáng tác mà là cả một kho tiểu thuyết đồ sộ khi cả
cuộc đời chỉ dành để sống và gắn bó với con người, vùng đất Nam bộ, cả cuộc đời viết
văn chỉ để đi tìm cảm hứng sáng tác trong những giá trị văn hoá truyền thống đạo đức của
dân tộc và gìn giữ chúng một cách cẩn thận, trân trọng. Đọc tiểu thuyết của ông ta thấy
rằng cảm hứng chủ đạo là biểu dương, khẳng định đạo lý bình dân truyền thống. Không
chỉ bộc lộ qua những sáng tác mà cảm hứng ấy còn thể hiện sâu sắc trong ý thức nghệ
thuật của Hồ Biểu Chánh. Dễ dàng nhận thấy qua các sáng tác của mình, Hồ Biểu Chánh
gần như đã dành trọn đời văn, dành trọn tâm huyết để thực hiện tuyên ngôn nghệ thuật
ấy. Qua kho tiểu thuyết khá lớn, Hồ Biểu Chánh đã chứng tỏ được điều ấy khi ngòi bút
của ông chỉ tỏ ra sở trường khi viết về phong tục, luân lí và “tính chất luân lí bao trùm
mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt chủ định luân
lí” [30, 260].
Trước sự du nhập ồ ạt của văn hoá phương Tây, xã hội Việt Nam nói chung và
vùng đất Nam bộ nói riêng chịu sự cai trị trực tiếp của thực dân Pháp đã có những chuyển
biến mạnh mẽ, diễn ra liên tục, lan toả sâu rộng đến các giềng mối xã hội Việt Nam từ
thành thị đến nông thôn và ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học nước nhà. Nhưng cũng từ
21
những năm đầu của thế kỉ XX, trải qua hơn một nửa thế kỉ cho đến nay, trong khi nhiều
tác phẩm của một số không ít các nhà văn nổi tiếng cùng thời với ông gần như đã bị đẩy
lùi vào quá khứ thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn còn được ưa chuộng, trở thành
món ăn tinh thần quen thuộc của đa số quần chúng trên vùng đất phương Nam tổ quốc.
Vậy điều gì đã làm nên một Hồ Biểu Chánh mang tầm ảnh hưởng sâu sắc đến thế trong
lòng đông đảo bạn đọc yêu văn chương?
Phần lớn các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn ở Nam bộ thời kì này thường
hay đề cập đến vấn đề luân thường đạo lí tạo nên nét đặc trưng của tiểu thuyết miền Nam.
Họ thường hay bàn đến “nhân tình thế thái”, “đạo lí làm người”, thái độ và cách cư xử
trong đời sống hằng ngày để hướng đến vấn đề đó là bảo tồn những giá trị tinh thần trong
truyền thống đạo lí của dân tộc. Cảm hứng chủ đạo của họ là cảm hứng “vì nghĩa”, “xả
thân thủ nghĩa” đã chi phối từ cách xây dựng nội dung cốt truyện , bố cục đến tính cách,
ngôn ngữ của nhân vật tạo nên tính chất đặc thù của tiểu thuyết miền Nam. Lớn lên giữa
lúc xã hội Việt Nam trở mình sực tỉnh giấc ngủ ngót mười chín thế kỉ trong nền văn hoá
cổ truyền chịu ảnh hưởng Trung Hoa một cách sâu đậm để tiếp thu nền văn hoá phương
Tây do người Pháp đem lại, Hồ Biểu Chánh vừa hấp thụ tân học vừa am tường cổ học.
Và phần đông những người trí thức thuộc thế hệ này cũng thế, họ chủ trương dung hoà
Đông – Tây, cũ – mới với ước muốn xây dựng nền quốc học bằng cách một mặt bảo tồn
những đặc sắc của văn hoá phương Đông, mặt khác tiếp thu có chọn lọc những cái hay
của văn hoá phương Tây. Hoà trong mạch chảy đó nhưng Hồ Biểu Chánh lại là một
người bảo thủ sáng suốt nên tuy xuất thân từ Tây học ông vẫn đề cao những tư tưởng
truyền thống của dân tộc vốn thấm nhuần Nho, Phật, Lão giáo. Tư tưởng chính trong con
người của Hồ Biểu Chánh chi phối nội dung tác phẩm của ông là tư tưởng “văn dĩ tải
đạo”, viết văn là để truyền tải giáo huấn đạo đức ở đời. Trong “Đời của tôi về văn nghệ”
ông đã thú nhận rằng: “Viết tiểu thuyết để cảm hoá đặng lần lần dắt quần chúng trở về
đường chánh đại quang minh” [30, 259]. Đạo lí làm người đặt căn bản trên sự nhân ái
hiếu nghĩa, trong sạch thẳng ngay luôn được Hồ Biểu Chánh đề cao khi đưa vào tiểu
thuyết của mình thông qua thuyết nhân quả. Điều đó được thể hiện rất rõ khi ông viết
22
trong Tâm hồn tôi: “Tôi chắc con cháu của tôi ngày sau chúng nó sẽ tìm hiểu coi tôi là
người nuôi tâm chí thế nào.
Nếu chúng nó đọc đủ mấy chục bộ tiểu thuyết của tôi, tự nhiên chúng nó sẽ nhận
thấy bình sanh tôi là thẳng ngay, ghét gian trá, thương yêu nghèo khổ, khinh rẻ giàu
sang. Nhưng chúng chưa biết được ý của tôi với quốc gia và đối với chưởng tộc.
Vậy hôm nay tôi lục những thi văn của tôi có ảnh hưởng với quê hương và xã hội
mà góp thành tập này để con cháu tôi ngày sau được biết rõ tâm hồn của tôi với thời
cuộc…” [30, 100]
Bằng cả cuộc đời sáng tác mà tiêu biểu qua 64 tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã
chứng minh được những lời ông nói. Hơn thế nữa, tiểu thuyết với ông không chỉ là tác
phẩm văn chương, là công trình nghệ thuật mà bên cạnh đó nó còn có thể ảnh hưởng tốt
hoặc xấu đến người đọc. Nghĩa là tiểu thuyết còn phải là tác phẩm mang khuynh hướng
đạo lí trong văn chương. Thế nên các nhân vật mà ông yêu quý, trân trọng luôn sống và
hành động theo một mục đích cao đẹp duy nhất là “thành nhân với thủ nghĩa”. Trong bức
thư gởi cho Ban Trị sự Khổng tử Tế tự hội tỉnh Gò Công để xin từ chức hội trưởng, ông
viết: “…Sản xuất cả mấy chục pho tiểu thuyết, viết kịch bản, làm phú thi, hay lập báo chí,
luôn luôn tôi vẫn đuổi theo cái mục đích duy nhất là: “Thành nhân với Thủ nghĩa”. Tôi
cặm cụi cứ đi tới, đi với một tâm hồn chơn thành, một đức tin mạnh mẽ” [30, 265].
“Thành nhân với Thủ nghĩa” đã trở thành một tư tưởng, một mục đích sống cao đẹp được
Hồ Biểu Chánh đề cao và trân trọng. Đó cũng là truyền thống văn học Nam Bộ đã được
Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rất thành công trong các sáng tác của mình. Nhìn lại chặng
đường sáng tác của hai nhà văn Nam Bộ có thể thấy rằng cả Nguyễn Đình Chiểu và Hồ
Biểu Chánh gặp nhau ở một điểm tương đồng trong tư tưởng sáng tác: đạo đức đã thành
đạo lí, hạt giống nhân nghĩa Khổng Mạnh đã mất đi màu sắc thánh hiền, trở thành cách
sống, cách cư xử ở đời, thành đạo lí nhân dân, đạo đức bình dân.
Càng đề cao đạo lí, càng muốn gìn giữ những giá trị tốt đẹp trong truyền thống
văn hoá của dân tộc, Hồ Biểu Chánh càng đau xót trước những đổi thay của xã hội, của
nhân cách con người. Chứng kiến sự tấn công mạnh mẽ của nền văn hoá phương Tây
cũng như sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc, ông lo sợ xã hội băng hoại, văn hoá dân
23
tộc bị thui chột dù trước đây ông cho rằng luân lí bao giờ cũng là luân lí, con người dù
tiến bộ văn minh đến đâu, dù có bị ảnh hưởng ít nhiều phong tục Âu Tây cũng không thể
đánh mất hoặc đạp đổ các luân lí mà ông cha để lại. Mất đi cái gốc, cái rễ của đạo đức
luân lí thì sợi dây vô hình liên hệ giữa con người với nhau cũng không còn tồn tại. Sống
và viết, Hồ Biểu Chánh luôn mang cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn duy trì nhân tâm
thế đạo chứ không phải cái băn khoăn của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm và đổi mới
cách viết. Ông thao thức và trăn trở trước sự đổi thay chóng vánh của thời cuộc và nhận
thức của con người nhưng ông luôn tin rằng những giá trị bắt nguồn từ đạo lí dân tộc,
mang tính chất nhân dân và có cơ sở từ ngàn đời sẽ luôn bất biến. Các tác phẩm của ông
như là một thứ thuốc đề kháng, một phép vệ sinh tinh thần cho con người Việt Nam trước
bầu không khí ô nhiễm của văn minh vật chất từ văn hoá phương Tây “Phải viết đặng ghi
cái hay cái dở của nhơn tình thế thái về khoảng đời truỵ lạc mà để lại cho em cháu đời
sau được biết chỗ thấp, chỗ cao. Phải viết đặng giải nỗi u sầu của mình và luôn dịp đặng
chỉ đường vạch nẻo cho con cháu trong nhà ngó thấy…” [30, 259 – 260].
Trong văn học Nam bộ, khuynh hướng đạo lí đã được thể hiện từ thời Nguyễn
Đình Chiểu cho đến các nhà văn lớp sau như Phú Đức, Hồ Biểu Chánh. Với Hồ Biểu
Chánh – nhà văn dành cả một đời đi tìm “đạo” trong văn đã giúp cho nền tiểu thuyết Việt
Nam giữ được những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Điều đó đã giúp Hồ Biểu
Chánh cùng các tác phẩm của mình sống mãi trong lòng người đọc và người ta biết đến
ông không chỉ là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết mà còn là người nối liền những giá
trị cổ truyền với con người hiện đại “…hồi làm quan thì ta chăm nom giúp đỡ người
nghèo nên ta được tiếng thương dân, mà viết tiểu thuyết ta cũng cố giữ vẹn đạo hiếu
nghĩa và luôn luôn binh vực hạng bình dân nghèo hèn, nên ta được thiện cảm của quần
chúng” [30, 260].
1.3 Mảnh đất Nam Bộ_nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh
1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ
“Nam bộ” là một cách gọi nghe thật thân thương và quen thuộc. Hình ảnh thiên
nhiên Nam bộ với sông nước, miệt vườn qua những trang văn của Hồ Biểu Chánh lại
24
càng thân thương và tha thiết, chân thành hơn. Không gian trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh trải rộng khắp Lục tỉnh Nam Kì từ các tỉnh miền Đông sang các tỉnh miền Tây ra
tận các đảo ngoài khơi như Kim Quy, Phú Quốc. Thiên nhiên Nam Bộ trong các tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh gần gũi, thơ mộng với quang cảnh miền Nam từ thành thị đến
nông thôn, từ những giồng trảng ở các tỉnh miền Đông đến những kênh rạch ở các tỉnh
miền Tây. Đó là Xóm Tre được lấy làm bối cảnh cho tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, là
Đập Ông Canh ở làng Vĩnh Thạnh phía bắc, Ụ Giữa ở làng Vĩnh Trị phía Nam, là sông
Bao Ngược, chợ Mỹ Lợi, lộ Cây Dương,…Miêu tả thiên nhiên Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh
đã mở rộng tất cả các giác quan của mình để quan sát, cảm nhận và từ đó đưa người đọc
quay về vùng nông thôn sông nước, ngắm nhìn đồng ruộng, con cò,…nơi thôn dã bình dị.
Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người đọc như có một chuyến du ngoạn đầy hứng thú
khi được về với miệt vườn sông nước thân thương, thấm đẫm dư vị ngọt ngào của bao
điệu hò, câu hát mộc mạc, chân tình.
Do cả cuộc đời gắn bó với vùng đất Nam bộ thế nên tình yêu với mảnh đất này
cũng lớn dần theo năm tháng và càng mãnh liệt, nồng nàn hơn trong các tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh. Qua 64 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên
không chỉ có đường nét, hình ảnh, màu sắc mà còn có cái hữu tình riêng. Chính mảnh đất
này là nơi vun đắp tình cảm trong tâm hồn của nhà văn. Bởi yêu quý, trân trọng mảnh đất
Nam bộ này nên Hồ Biểu Chánh đã đau xót khi cuộc sống, con người Nam bộ nói riêng
và xã hội Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị ô nhiễm bởi những đổi thay của làn
sóng Âu hoá mang đến. Liệu Nam bộ có còn là thỏi nam châm thu hút những bước chân
không mỏi tìm về khung cảnh trời nước mênh mang, chất hào sảng phóng khoáng của
người đồng bằng Nam bộ? Liệu có ai còn nhớ đến Nam bộ với những vùng miệt vườn trù
phú đong đầy trái thơm, quả ngọt? Và khi những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình
tưởng chừng bất biến ấy không còn tồn tại, hiện hữu nữa thì tình đời, tình người, những
giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc có còn vững bền, bảo tồn được nữa hay không?
Thật vậy, đó là những trăn trở của một con người hoài cổ, mong muốn và khát khao được
gìn giữ những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Một lần nữa có thể khẳng định rằng
những trang viết về thiên nhiên là những trang đẹp nhất của Hồ Biểu Chánh. Qua đó, nhà
25
văn đã làm nổi bật những nét quen thuộc nhất, đặc trưng nhất của thiên nhiên vùng sông
nước Nam Bộ.
1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều bạn đọc lại rất thích đọc tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh. Không những độc giả cùng thời với ông mà những độc giả thời sau này vẫn thích.
Sở dĩ có sự thành công như thế là do giọng điệu tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hoàn toàn
thích hợp với tâm hồn người dân miền Nam. Đọc tiểu thuyết của ông, người ta thấy cả
con người và xã hội miền Nam vào các thập niên 1920 – 1940.
Như đã nói, trong Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh đã cho biết ngay từ lúc
mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố viết loại tả chân về phong tục. Thế nên khi khắc
hoạ nên bức chân dung đời sống văn hoá của con người Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt
quan tâm đến những phong tục dần đổi mới ở miền Nam trong gia đình cũng như ngoài
xã hội, từ thành thị đến nông thôn. Ông chú trọng đến các vấn đề nhức nhối của xã hội đi
ngược lại với những chuẩn mực truyền thống của dân tộc để từ đó khuyên răn, dạy bảo
con người phải biết trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hoá đó: vấn đề tiền dâm hậu
thú, môn đăng hộ đối, tục “nôm”, đa thê, sinh con trai nối dõi, tranh giành gia tài,…Ông
phơi bày những hiện trạng xã hội cốt để duy trì và bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh cũng không quên đề cập đến tư tưởng tam giáo : Nho, Phật,
Lão giáo trong đời sống văn hoá của con người nơi đây. Với ông, dù là đạo nào thì ông
luôn đề cao lối sống biết tôn trọng, gìn giữ những giá trị đạo đức của con người như:
trung nghĩa, hiếu thuận, tiết hạnh, trọng nghĩa khinh tài,… Con người có thể theo chủ
nghĩa này hay chủ nghĩa nọ nhưng vẫn cần phải giữ cho được đạo đức truyền thống, tức
đạo lí làm người của dân tộc. Đó là cơ sở, tiền đề để làm nổi bật luận đề đạo đức về con
người xã hội mà Hồ Biểu Chánh muốn hướng đến người đọc.
Thật vậy, qua các tác phẩm của mình, đời sống văn hoá Nam Bộ hiện lên sống
động, chân thực, ngòi bút của Hồ Biểu Chánh hướng vào việc khai thác từng ngóc ngách
sâu kín nhất trong suy nghĩ, hành động, nhận thức của con người nơi đây để từ đó ông
cho thấy những sự đổi thay trong lối sống của họ nhưng quan trọng nhất vẫn là việc gìn
giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của một dân tộc.
26
1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ
Phản ánh hiện thực vốn là yếu tố mang tính đặc trưng của văn xuôi tự sự. Thông
qua việc phản ánh hiện thực ấy, nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một ý nghĩa, một
thông điệp sâu sắc. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng là một sự phản ánh hiện thực,
đó là hiện thực của đời sống con người Nam bộ. Cuộc sống sinh hoạt của con người Nam
bộ được hiện lên trên nền của bức tranh thiên nhiên Nam bộ. Quan sát, miêu tả và phản
ánh, Hồ Biểu Chánh đã dụng công, tinh tế khi phác hoạ một cách chi tiết, cụ thể, sinh
động sự nghèo nàn của con người nơi đây sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới và trồng
lúa nước. Cuộc sống nơi đây hiện ra cảnh sống lam lũ, cực nhọc của người dân nghèo và
nổi bật là cuộc sống của tầng lớp thống trị, những kẻ tham lam, độc ác luôn tìm mọi cách
để ức hiếp, bóc lột dân nghèo.
Bên cạnh việc phản ánh những nét đẹp trong phong tục tập quán của vùng đất
Nam bộ, Hồ Biểu Chánh còn rất tinh tế khi bắt đầu có những chuyển biến đáng kể trong
việc quan sát những mối quan hệ của con người vùng đất này. Theo đó, ông thấy rằng,
bên cạnh những gia đình vẫn giữ được những truyền thống đẹp đẽ thì vẫn còn một số mặt
tiêu cực đang tồn tại và làm mất đi giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đi
sâu khai thác triệt để những vấn đề đó, Hồ Biểu Chánh nêu lên những luân lí, quan niệm
đạo đức, hướng người đọc đến những chuẩn mực đạo lí cao đẹp ngàn đời của dân tộc.
Xuyên suốt các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có thể thấy, đề tài chính hay vấn đề
mà nhà văn quan tâm nhất đó là xã hội, cuộc sống và con người Nam bộ, là đạo đức
truyền thống và mối quan hệ gia đình. Cảm hứng xuyên suốt trong tác phẩm của ông là
đạo lí và bảo vệ đạo lí. Thật không khó để nhận ra chủ trương của nhà văn Hồ Biểu
Chánh trong việc duy trì, bồi đắp và phát huy những mặt tích cực trong nền luân lí cổ
truyền của dân tộc cũng như tiếp nhận những mặt tiến bộ của lối sống tự do.
Tóm lại, có thể thấy, trong các tác phẩm của mình, đạo lí truyền thống được Hồ
Biểu Chánh phản ánh một mặt vừa tiếp nối truyền thống đạo đức của các nhà văn đi trước
mà phải kể đến đó là Nguyễn Đình Chiểu với sự ảnh hưởng từ giọng văn cho đến tính
cách con người đầy chất Nam bộ, mặt khác tiếp tục đặt nền móng cho tiểu thuyết Nam bộ
đầu thế kỉ XX. Chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc và mang giá trị đạo đức cao, tiểu
27
thuyết Hồ Biểu Chánh đã thật sự gần gũi, thân thuộc với đời sống con người Nam bộ.
Đây là tiền đề để làm nên chữ tình sâu sắc trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Chữ
tình ấy vừa là nét đẹp của văn chương Nam bộ, vừa là đạo lí truyền thống và lối sống của
người dân Nam bộ, góp phần giữ mãi nét đẹp cổ kính nhưng bình dân của văn chương
một vùng đất mới. Và Hồ Biểu Chánh trong suốt gần 50 năm cầm bút ông vẫn giữ một
cảm hứng xuyên suốt là đạo lí truyền thống với những biến động của xã hội qua các giai
đoạn lịch sử.
28
CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
2.1. Tình cảm gia đình
Vào những năm đầu thế kỉ XX, với sự tấn công mạnh mẽ của lối sống phương Tây
vào đời sống của nước ta cùng sức mạnh của đồng tiền lên ngôi đã làm đảo lộn những giá
trị truyền thống của dân tộc. Vẫn tưởng tất cả sẽ bị mai một nhưng qua các tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh, chúng ta vững tin hơn khi thấy rằng những giá trị, những nét đẹp
truyền thống trong những mối quan hệ gia đình vẫn còn tồn tại và được gìn giữ ở xã hội
Nam bộ. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề gia đình, qua các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu
Chánh đã cho người đọc nhận thấy vai trò của gia đình, nơi hình thành , chứa đựng và hội
tụ những tình cảm cao quý nhất của con người. Gia đình bao gồm các mối quan hệ tốt
đẹp, gắn bó giữa cha mẹ - con cái, anh em, ông bà – cháu với những cung bậc tình cảm
đa dạng, đa sắc thái.
2.1.1. Tình phụ tử
Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói:”Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết
là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ
không phải là các tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người
viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn” [29,
61]. Thật vậy, tư tưởng trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải là tư tưởng nằm
thẳng đơ trên trang giấy. Đó là tư tưởng đã được đúc rút từ hiện thực cuộc sống, từ cuộc
đời, số phận của những con người nhỏ bé trong xã hội, từ chính những trải nghiệm của
nhà văn trong cuộc sống. Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những hình ảnh đẹp của cảnh sống
hạnh phúc trong gia đình Nam bộ ở nông thôn lẫn thành thị. Còn có gì đẹp đẽ và cao quý
hơn tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, ta bắt gặp hình
ảnh những người cha hết lòng yêu thương, hy sinh vì con của mình và những đứa con
luôn một lòng yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha. Tình cảm ấy vốn dĩ đã rất thiêng
thiêng nhưng lại còn cao quý hơn khi nó xuất hiện ở nơi mà lối sống tư sản đang tấn công
mạnh mẽ vào truyền thống gia đình Việt Nam.
29
Nếu mẹ là người có công mang nặng đẻ đau, ẵm bồng, dạy dỗ cho con cái nên vóc
nên người thì với đứa con, người cha lại có công sinh thành, nuôi dưỡng, là trụ cột vững
chắc của gia đình. Thế nên, ngoài tình mẫu tử cao quý thì tình cha con cũng là một tình
cảm thiêng liêng và đáng quý của con người.Trong gia đình truyền thống của người Việt,
người cha có quyền tuyệt đối với con cái. Tuy không có sự quy định chặt chẽ của pháp
luật nhưng theo đạo đức, luân lí của nước ta thì người cha trong gia đình đối với con cái
phải làm tròn trách nhiệm, phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái trưởng thành và người
làm con cũng phải giữ đạo hiếu, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Qua tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh, người đọc dễ dàng nhận thấy rằng, ngoài tình cảm mẫu tử thiêng liêng và
gắn bó của con người thì tình phụ tử cũng sâu nặng, thiết tha không thua kém. Nếu chúng
ta xúc động với hình ảnh những bà mẹ yêu thương con dịu dàng, sẵn sàng hy sinh tất cả
cho con thì ta lại càng nể phục hơn với những người cha hết mực thương con và nhận
chịu mọi đau khổ để con mình được hạnh phúc.
Nhân vật Vương Thể Hùng trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa là một người cha
như thế. Tình yêu thương con sâu nặng của Thể Hùng làm người đọc phải nghẹn ngào,
xúc động. Là một người nghĩa sĩ, chàng phải đau đớn chấp nhận rời xa vợ con để thực
hiện nghĩa vụ của một người làm trai. Có nỗi đau nào lớn hơn khi một người cha phải rời
xa con mình khi nó vẫn còn thơ dại. Thế nên, việc Thể Hùng không làm tròn trách nhiệm
của một người cha, không nuôi dưỡng dạy bảo cho con khôn lớn thành người đáng
thương hơn là đáng trách. Bởi lẽ, sự lỗi đạo làm cha, việc không làm tròn nghĩa vụ, trách
nhiệm của Thể Hùng là một việc bất đắc dĩ và chàng buộc phải hy sinh tình cảm gia đình
vì nghĩa vụ đối với nước nhà. Nhưng không phải vì thế mà Thể Hùng lãng quên hay giũ
bỏ trách nhiệm của người làm cha. Chàng vẫn luôn yêu thương Thể Phụng và tình cảm ấy
làm người đọc phải xúc động rơi nước mắt bởi Thể Hùng phải chịu đựng việc yêu thương
con trong thầm lặng với tất cả tấm lòng. Người cha đau đớn chấp nhận xa lìa con của
mình một lần nữa khi chinh chiến đã chấm dứt vì muốn con có một cuộc sống êm ấm,
hạnh phúc, có điều kiện học hành đỗ đạt và không phải lo lắng về cuộc sống sau này với
gia tài rộng lớn của ông ngoại là Đàm Tự Chấn. Khi đứa con mà Thể Hùng yêu thương là
Thể Phụng tìm đến gặp, chàng đã nghẹn ngào xúc động. Lời nói của Thể Hùng làm người
30
đọc cảm động vì đó là những lời nói, lời tâm tình chân thành, xuất phát từ chính trái tim
của người làm cha đối với con mình: “Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con.
Cha thương con lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con
nên biết rằng vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con mà cha
phải giấu, không dám cho con biết, thuở nay đi thăm con hoài, chừng vài ba tháng cha đi
thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường con đi học, rồi ngồi
xuống ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng chi, hoặc làm điều chi cho con biết. Vậy
con đừng có tưởng cha không thương con” [14, 150]. Thật vậy, dù không tận tay nuôi
dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ con nên vóc nên người nhưng người cha đáng thương ấy luôn
dõi theo từng bước đi của con. Và dù không thể đem lại cuộc sống êm ấm, hạnh phúc cho
con nhưng có thể nói Thể Hùng đã gián tiếp giúp con có một cuộc sống đầy đủ về vật
chất thông qua sự hy sinh tình phụ tử. Có người sẽ nói việc làm của Thể Hùng là sai
nhưng cũng có người cho là đúng. Sự đánh giá đúng sai ấy tuỳ thuộc vào sự nhìn nhận
của mỗi người. Nhưng có một điều mà không ai có thể phủ nhận đó chính là tình yêu con,
sự hy sinh cao cả xuất phát từ tấm lòng của người cha đối với con: “Nghĩ vì thương con
thì phải làm cho con nên, chớ không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn
lòng mà ưng chịu, thà là cha vì con mà ảo não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì
cha mà hạ tiện bần cùng” [14, 152]. Yêu con nên người cha chấp nhận chịu đựng mọi
khổ đau, sầu não và chính tình yêu thương con lớn lao ấy là sợi dây gắn kết tình cảm cha
con ruột thịt của Thể Hùng và Thể Phụng. Cũng chính tình yêu thương đó đã khơi dậy
tình yêu thương với cha, xoá bỏ mọi nghi hoặc và những ấn tượng không tốt, sự xem
thường, oán hận về cha mà từ lúc nhỏ đã bị ông ngoại và dì dạy bảo. Từ đó giúp người
đọc tin rằng tình phụ tử vốn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý nên sẽ không có bất kì
một thế lực nào có thể chia cắt được. Thế nên, ngay khi biết tin cha mình vẫn còn sống,
Thể Phụng đã mang một khao khát, ước muốn được gặp cha. Dù xa cách mười mấy năm,
không có sự dạy dỗ, chở che nhưng khi hiểu rõ tình cảm của cha dành cho mình thì Thể
Phụng đã xúc động trước cha. Đứa con ấy thấy kính trọng và tự hào về cha mình, lòng
yêu thương cha càng trở nên da diết, sâu sắc hơn: “Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì
đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận làm con của cha, thì con phải nuôi dưỡng cha,
31
nếu con không làm như vậy, dầu con học thi đậu tới trạng nguyên, dầu con có giàu như
Thạch Sùng đi nữa, con cũng không đáng làm người” [14, 149]. Để một lòng chăm sóc,
hiếu thảo với cha, Thể Phụng đã phải chịu tội bất nghĩa với ông ngoại và chấp nhận từ bỏ
cuộc sống giàu sang của mình: “Cha tưởng gia tài đó quý cho bằng cha hay sao. Con
không màng đâu. Thử đem mười cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay
không mà” [14, 152]. Tình phụ tử thiêng liêng ấy đã xoá tan mọi khoảng cách của sự chia
xa trong mười mấy năm và những hiểu lầm trước đó để cho người đọc thấy rằng không
có gì quý giá hơn tình cảm cha con, một thứ tình cảm chân thành và sâu sắc của con
người.
Hay trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng cũng có tình cảm cha con làm người
đọc xúc động giữa Trần Văn Sửu và thằng Tý, con Quyên. Vợ của Trần Văn Sửu là Thị
Lựu lén chồng để ngoại tình và trong một lần tức giận, Trần Văn Sửu đã sơ ý làm vợ
mình ngã chết nên phải trốn đi. Dù biết có thể bị bắt hoặc nặng hơn là bị bỏ tù vì tội giết
người nhưng trong lúc nguy cấp, Trần Văn Sửu vẫn chỉ nghĩ đến những đứa con mà
không hề lo lắng cho bản thân: “Trời ơi! Tôi đánh vợ tôi chết rồi, bây giờ làm sao? Bị
đày, chắc không khỏi bị đày chung thân. Mấy đứa con tôi, ai nuôi nó?” [18, 13]. Sợ rằng
con mình còn quá nhỏ không hiểu chuyện sẽ trở nên oán hận mình nên người cha với tấm
lòng yêu thương con vô bờ lại càng lo lắng và day dứt hơn. Qua những lời than vãn của
Trần Văn Sửu, người đọc nhận ra được hình ảnh một người cha hết mực thương con:
“Con tôi còn nhỏ quá, tội nghiệp lắm trời ôi! Bên nội không có ai hết, còn bên ngoại, thì
có một mình ông ngoại, mà ông ngoại nó nghèo quá, lại già yếu rồi, làm sao có đủ cơm
mà nuôi ba đứa cho nổi. Ý hị!... Khổ lắm!... Còn một nỗi không biết sắp con tôi nó có
hiểu bụng tôi hay không. Sợ e chừng nó khôn lớn, chúng nó không hiểu chi hết, tưởng tôi
hung dữ, làm điều chi không phải rồi còn đạp chết vợ nữa, chúng nó thương mẹ trở lại
oán tôi, thì còn khổ cho tôi biết chừng nào” [18, 14]. Trốn chạy, bôn ba xứ người, chịu
đựng cuộc sống vất vả, đau khổ suốt mười một năm chỉ để mong có một ngày được gặp
lại mấy đứa con thơ dại và bộc bạch để chúng hiểu được nỗi lòng của cha: “Mười một
năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày gặp được mặt
con. Nay về đến đây, chưa gặp được con mà phải đi, thì đi làm sao được, trời đất ơi!”
32
[18, 47]. Tình yêu đối với những đứa con, ước muốn và niềm hy vọng một ngày được
đoàn tụ với con là niềm tin và động lực giúp Trần Văn Sửu vượt qua bao khó khăn, đau
khổ và bao nỗi nhớ dày vò. Nhưng đau đớn thay những ước mơ, hy vọng ấy lại không
thực hiện được vì người cha ấy thương con và không muốn con mình phải khó xử nên đã
chấp nhận hy sinh tất cả để cả hai đứa được hạnh phúc. Mong muốn được gặp con, được
sống gần gũi bù đắp lại những tháng ngày con thiếu vắng tình thương của một người cha
nhưng Trần Văn Sửu lại một lần nữa đau đớn chọn cách ra đi, xót xa khi phải xa lìa con
lần nữa: “Tôi phải chịu đau đớn cực khổ buồn rầu, con tôi mới nên được. Tôi vui lòng mà
lãnh các sự đau đớn buồn rầu đó, miễn là con tôi được giàu có sung sướng thì thôi” [18,
47]. Biết tìm đâu một người cha như thế, người cha vừa đáng thương nhưng cũng đáng
kính trọng biết bao. Trần Văn Sửu đã yêu thương con mình hết lòng bằng tình yêu tha
thiết, sâu nặng và bằng cả những nỗi đau của sự hy sinh vì con. Miễn sao con được hạnh
phúc, miễn sao con có một cuộc sống ấm êm thì cha sẵn sàng chịu mọi khổ đau, buồn rầu
cho riêng mình. Xem hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình, yêu thương con
bằng cả tấm lòng nên người cha ấy đã được đền bù xứng đáng bằng lòng yêu thương, sự
kính trọng và hiếu thảo của Tý và Quyên. Còn gì hạnh phúc và sung sướng hơn khi hay
tin cha vẫn còn sống. Cả thằng Tý và con Quyên đã vui mừng còn hơn được người ta cho
tiền cho bạc: “Đi riết, anh Hai. Em nghe nói em mừng quá. Cha về hồi nào? Làm sao
anh gặp được? Ông ngoại hay rồi hay chưa?” [18, 51]. Những câu hỏi xuất phát từ tình
yêu thương và lòng nhớ mong cha trong suốt mười một năm xa cách. Và hơn cả nhớ
mong, cả Tý và Quyên đều mong muốn được sống cùng cha, ở cạnh cha dù cuộc sống có
nghèo khổ: “Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chớ”
[18, 49], “Tính sao cũng được miễn là con có thể gần cha thì thôi. Mà cha ở với Thổ, thì
cực khổ tội nghiệp thân cha lắm” [18, 49]. Thật may mắn khi những đứa trẻ ấy hiểu
chuyện, không hề oán trách cha về cái chết của mẹ mà còn nhận Trần Văn Sửu là cha
mình và tìm đủ mọi cách để giữ cha ở bên cạnh mình. Đó là tình cảm cha con gây nên
bao xúc động bởi lẽ nó xuất phát từ tình cảm chân thành, sâu sắc của con người. Điều đó
đã minh chứng rằng người cha dù không mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày nhưng
lại có ơn sinh thành, tạo nên hình hài, vóc dáng và nuôi dưỡng, dạy bảo con cái nên
33
người. Tình yêu thương vô bờ bến và sẵn sàng hy sinh tất cả vì con của tình cha ấy chính
là những giá trị cao đẹp tạo nên đạo đức, luân lí trong gia đình Việt Nam.
Không những thế, Hồ Biểu Chánh còn xây dựng hình ảnh của những người cha
mặc dù chỉ là cha nuôi nhưng lại yêu thương con mình bằng tất cả tình yêu chân thành
của một người cha thật sự. Tiểu thuyết Con nhà nghèo đã để lại một dấu ấn khó phai mờ
trong lòng người đọc về một người cha nuôi hết lòng tận tuỵ, tận tâm vì con của mình, đó
chính là Hương sư Cu. Tình yêu thương ấy không phải được tính bằng công lao sinh
thành hay dưỡng dục mà bằng tình thương của sự lo lắng, hy sinh hết lòng vì con mà
không hề có sự phân biệt. Dù biết Tư Lựu đã thất tiết với cậu Hai Nghĩa nhưng ông vẫn
không chê bai cô mà còn thương cả con của Tư Lựu như tình yêu với mẹ của nó. Hương
sư Cu tuy là một anh nông dân ít học nhưng đối với con của Tư Lựu lại biết trước biết
sau và làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người làm cha: “Con nào cũng là con, hễ
mình kêu nó bằng con thì mình phải thương yêu, nuôi dưỡng nó hết lòng. Hễ nó gọi mình
bằng cha thì mình phải ăn ở cho xứng phận làm cha” [21, 54]. Thương con và không hề
có sự phân biệt đối xử giữa con ruột và con nuôi: “Thưa, con gì cũng vậy, hễ đặt con thì
tự nhiên mình thương. Mà thằng Hai đây tôi thương nó không biết chừng hơn con ruột
của tôi nữa, bởi vì cha nó không nhìn, tôi ra nhìn thế, nên tôi phải thương nó bằng hai”
[21, 48]. Dù không phải là mối quan hệ ruột thịt nhưng Hương sư Cu lại xem đứa con
chính là sinh mạng của mình: “Nếu thằng Hai có bề nào, thì tôi cũng chết, chớ tôi không
sống được” [21, 52]. Dù không phải máu thịt của mình, dù hình hài ấy không do mình
tạo ra nhưng qua lời nói đầy chân thành xuất phát từ trái tim của người làm cha đã giúp
cho độc giả cảm nhận một cách sâu sắc tình cảm cha con mà Hương sư Cu đã dành cho
đứa con mà mình yêu quý: “Nhà giàu thương con, nhà nghèo cũng biết thương con vậy
chớ. Ai nỡ cắt thịt mà trao cho người khác được. Vợ chồng tôi nghèo thì nuôi con theo
phận nghèo. Cái tình thương con là quý, chớ giàu nghèo nghĩa gì đâu” [21, 48]. Tình
yêu con của Hương sư Cu thật cao cả, thiêng liêng, không chỉ xuất phát từ tình yêu với
Tư Lựu mà còn vì đó là tình yêu thương con chân thật và trách nhiệm của một người cha
đối với con mình. Người đọc đã thật sự xúc động khi chứng kiến được tình phụ tử sâu
nặng này. Tuy bề ngoài nhìn thật khó hiểu nhưng tình cảm này phù hợp với luân lí gia
34
đình và đáng được trân trọng. Đó là một tình yêu sâu nặng, mãnh liệt và thật chân thành
được khơi nguồn từ tình phụ tử thiêng liêng của con người. Trời không phụ người có
lòng và lại rất mực thương con như Hương sư Cu. Khi Kinh lý Hai biết được sự thật,
cũng là tình yêu kính đối với Hương sư Cu như trước nhưng nay lại càng yêu thương và
kính trọng hơn, đó là tấm lòng biết ơn của một đứa con dành cho cha mình: “Thưa cha,
con biết được căn nguyên của con rồi thì con càng thương má, kính cha bằng mười hồi
trước nữa. Người như cha má mà con không thương yêu kính trọng thì con có phải là
loài người đâu. Chẳng nói tới công sanh thành của má, công dưỡng dục của cha làm chi,
nội một sự cha má cản hôn nhơn của con đây thì cũng đủ cho con thương yêu kính trọng
đời đời kiếp kiếp” [21, 90]. Thật vậy, khi nhìn lại những biến đổi của xã hội Việt Nam
thời đó, chúng ta càng thấy trân trọng tình phụ tử thiêng liêng của những những nhân vật
trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Đó là tình phụ tử mà làm cho những người tận mắt
chứng kiến hoặc nghe thấy cũng đều phải xúc động, nghẹn ngào. Qua đó đã minh chứng
một điều rằng, người cha không chỉ làm tròn trách nhiệm của mình mà còn yêu thương
con với tình yêu chân thành, sâu sắc, không kém phần mãnh liệt như những người mẹ. Có
đôi lúc âm thầm, lặng lẽ, kín đáo nhưng đến khi có thế lực nào đó có nguy cơ làm tan vỡ
tình phụ tử thiêng thiêng thì những người cha ấy sẵn sàng bộc lộ, hy sinh tất cả để bảo vệ
con của mình. Con là xương thịt, là giọt máu, là tất cả cuộc sống của cha và khi càng có
nhiều thử thách, gian truân thì những tình cảm thiêng liêng của con người như tình phụ tử
lại càng trở nên cao đẹp, ngời sáng hơn trong cuộc sống.
2.1.2. Tình mẫu tử
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ mãi theo con
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”
(Con cò – Chế Lan Viên)
Ai lớn lên mà không có mẹ, không được mẹ yêu thương, chăm sóc. Niềm hạnh
phúc và sung sướng của mỗi con người trên cuộc đời này là được gọi hai tiếng thân
thương nhưng thiêng liêng, cao quý “Mẹ ơi”. Tình mẹ con tồn tại ở mỗi con người chúng
35
ta, không phân biệt giai cấp hay giàu nghèo. Đâu phải người giàu sang mới biết yêu
thương con mình, dành cho con những điều đầy đủ và tốt đẹp nhất. Có rất nhiều cách mà
mẹ thể hiện tình cảm với con, dù là người giàu sang, có địa vị hay nghèo hèn, thấp cổ bé
họng thì vẫn yêu thương con bằng nhiều cách khác nhau. Và khi nói đến tình cảm mẹ
con, chúng ta thường nghĩ ngay đến thứ tình cảm cao quý, vốn có trong mối quan hệ ruột
thịt. Nói về sự hy sinh của mẹ cha dành cho con cái, dân gian ta có câu “Mồ côi cha ăn
cơm với cá, mồi côi má lót lá mà nằm”. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tình cảm
thiêng liêng, cao quý ấy được nhà văn thể hiện một cách rất sâu sắc, rất Nam bộ. Trong
tiểu thuyết Cay đắng mùi đời được phóng tác từ tiểu thuyết Không gia đình của Hector
Malot, bà Hội đồng Nhàn do sơ ý không đề phòng sự độc ác, toan tính, tham lam của
người thân nên đã đánh mất con mình là Phan Thanh Nhã suốt mười lăm năm trời. Mất
con là một nỗi đau quá lớn, một sự mất mát về tình cảm bởi lẽ bà yêu con bà, yêu hơn cả
bạc tiền: “Chú nó ráng kiếm dùm con tôi, kẻo tội nghiệp tôi quá…Ai mà ăn ở bất nhơn
thất đức lắm như vậy không biết…Cha chả! Ai có khuấy chơi xin trả con tôi lại cho tôi,
muốn xin một hai ngàn gì tôi cũng cho hết” [7, 65]. Ai làm mẹ mà không thương con
nhất là đối với bà Hội đồng Nhàn – người mẹ với tình yêu thương con thật sâu nặng, tha
thiết, dám làm tất cả, hy sinh tất cả vì con của mình. Mất con nên phải xa con, bà luôn
thương nhớ con mình day dứt “Bà Hội đồng nhớ con ăn ngủ không được ngày đêm cứ
ngồi khoanh tay mà khóc hoài. Ông Hội đồng an ủi hết sức, tuy bề ngoài bà gượng làm
khuây song trong lòng bà chẳng giây phút nào mà quên con được” [7, 65]. Nỗi nhớ
mong, day dứt khôn nguôi ấy xuất phát từ chính trái tim nhạy cảm, đong đầy yêu thương
của người làm mẹ, từ sợi dây tình cảm thiêng liêng của con người. Mẹ mang nặng đẻ đau
con suốt chín tháng mười ngày, xa con một ngày đã dài đằng đẵng nhớ mong khôn nguôi.
Còn đằng này, suốt mười lăm năm xa con, nỗi nhớ thương càng làm nỗi đau mất con
nhân lên gấp trăm lần, lòng mẹ càng quặn đau. Bà Hội đồng trăm phương ngàn kế để tìm
kiếm con không ngại gian nan, khó khăn. Dù có tốn kém bao nhiêu bạc tiền mẹ cũng
không tiếc. Thế nên, khi gặp nhau sau bao năm xa cách, người mẹ vui mừng khôn xiết,
nỗi vui ngẹn ngào khó tả “Phải rồi, phải rồi, đồ của con tôi đây mà, đây cái áo đầm nầy
tôi may, đường kim mũi chỉ làm sao tôi quên được, đôi vớ nầy nữa đây, còn cái mền nầy
36
của chồng mua dưới chợ Cần Thơ nữa đây; con ôi, con, mấy năm nay con xiêu lạc làm
cho mẹ phiền não đêm ngày” [7, 69]. Người mẹ được gặp lại đứa con yêu thương của
mình, bà nhìn con với cái nhìn dịu dàng, trìu mến, thân thương, chứa chan tình cảm. Nỗi
nhớ thương con da diết trong mười lăm năm được gửi gắm qua những nụ hôn yêu
thương, ngọt ngào. Thật vậy, tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng của con
người mà không có một thế lực nào chia cắt được bởi đối với người mẹ đứa con là núm
ruột dính liền.
Tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp còn được thể hiện sâu sắc trong tiểu thuyết
Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh thông qua nhân vật Lý Ánh Nguyệt. Nàng đại diện
cho những người phụ nữ Nam bộ với sự hy sinh, tấm lòng thương con vô bờ bến nhưng
lại chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có câu thơ
“Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” quả thật không sai
chút nào. Ánh Nguyệt là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời chịu nhiều truân
chuyên, bất hạnh. Cuộc sống nghèo khổ, cha mất sớm, một thân côi cút lại là người có
bản chất thật thà nên Ánh Nguyệt đã bị Hải Yến – một thanh niên có học thức lừa gạt tình
cảm làm cho thất tiết. Bị phụ tình, đau khổ và cảm thấy nhục nhã vì không giữ trọn tiết
hạnh, phẩm giá nên nàng có ý định tự tử. Thế nhưng, Ánh Nguyệt không phải là người
chỉ nghĩ chỉ biết cho riêng mình. Nàng còn là một người mẹ yêu con tha thiết. Dù đau
khổ nhưng nàng phải cố sống dù cuộc sống vất vả, khổ cực, nhục nhã trăm bề, vì con
nàng sẵn sàng chấp nhận tất cả: “Nàng mới nghĩ lại nếu mình chết thì phận mình đã yên
rồi còn con mình bỏ lại cho ai nuôi? Con là máu thịt của mình, lỗi tại nơi ai chớ nó có tội
gì mà mình bỏ nó” [14, 66]. Ánh Nguyệt thương con với tình yêu của người mẹ vô bờ
bến. Miễn sao Thu Vân_con gái của nàng được hạnh phúc, sung sướng thì dẫu có đau
đớn, tủi hổ thế nào nàng cũng cam tâm chấp nhận, hy sinh tất cả vì con: “Cháu đã
nguyền với Trời Phật thà là bán cái thân của cháu mà nuôi con, chớ cháu không nỡ để
cho con cực khổ nữa” [14, 99]. Tình mẹ con còn thể hiện qua ước muốn chuộc lại con,
được sống gần bên con của Ánh Nguyệt. Nàng bôn ba, vất vả, phải làm rất nhiều việc đến
nỗi rơi vào hoàn cảnh tủi nhục bị người đời trêu ghẹo, khinh khi xem là phường con gái
buôn hương bán phấn. Yêu thương và nhớ con khôn xiết nàng đã gạt bỏ cả lòng tự trọng,
37
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX
Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX

More Related Content

What's hot

Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...
Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...
Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...tcoco3199
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doc
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.docLuận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doc
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doctcoco3199
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI nataliej4
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ nataliej4
 

What's hot (20)

Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...
Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...
Luận Văn Cái Nhìn Nhân Bản Về Hiện Thực Của Nguyễn Minh Châu Trong Truyện Ngắ...
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doc
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.docLuận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doc
Luận Văn Tính Triết Lý Trong Thơ Chế Lan Viên Sau 1975.doc
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
 
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, 9đ
 

Similar to Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX

Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945anh hieu
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...KhoTi1
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX (20)

Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn duLuận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Chuyển Đổi Của Loại Hình Tác Giả Văn Học Việt Nam Trư...
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAYLuận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Recently uploaded

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 

Trữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 30 năm đầu thế kỷ XX

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN ------ NGUYỄN THỊ KIM NGÂN CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH 30 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX Dịch Vụ Làm Khóa Luận Tốt nghiệp Luanvantrithuc.com Tải tài liệu nhanh qua hotline 0936885877 Zalo/tele/viber dichvuluanvantrithuc@gmail.com KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2016 1
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN ------ KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sư phạm Văn CHỮ TÌNH TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH 30 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX Người thực hiện: NGUYỄN THỊ KIM NGÂN MSSV: K38. 601. 085 Người hướng dẫn khoa học: ThS. LÊ VĂN LỰC Thành phố Hồ Chí Minh – 2016 2
  • 3. LỜI CẢM ƠN Để thực hiện được khoá luận này, đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, vì đã luôn bên cạnh, yêu thương, động viên và tạo điều kiện cho em học tập, phát triển. Tiếp theo, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, quý thầy cô, các cô chú cán bộ công nhân viên nhà trường, đặc biệt là quý thầy cô khoa Ngữ văn vì đã nhiệt tình, tận tâm dạy dỗ, quan tâm, giúp đỡ chúng em trong suốt 4 năm học vừa qua, cung cấp cho chúng em chìa khoá để mở cánh cửa tri thức, truyền cho chúng em tình yêu và nhiệt huyết với nghề và trò. Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Lê Văn Lực, người thầy đã hướng dẫn em từ những bước đi chập chững đầu tiên khi đến với con đường khoa học đầy khó khăn, thử thách và đưa ra những nhận xét, định hướng để em có thể hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp. 3
  • 4. MỤC LỤC PHẦN DẪN NHẬP............................................................................................................. 6 I. LÝ DO CHỌN ĐÈ TÀI............................................................................................. 6 II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ...................................................................... 8 III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU................................................................................ 11 IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU..................................................... 11 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................... 12 VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.................................................................. 13 VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN .......................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................ 14 CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN...................................................................... 14 1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam bộ .......................................................................................................... 14 1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người ............................................... 14 1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí – giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh . 18 1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn .................................................. 20 1.3 Mảnh đất Nam Bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 24 1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ ..................................................................................... 24 1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ ............................................................................ 26 1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ ........................................................................ 27 CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH ............................................................................. 29 2.1. Tình cảm gia đình ............................................................................................. 29 2.1.1. Tình phụ tử ....................................................................................................... 29 2.1.2. Tình mẫu tử ....................................................................................................... 35 2.1.3. Tình cảm anh em .............................................................................................. 40 2.1.4. Tình cảm ông cháu ............................................................................................ 41 2.1.5. Tình cảm vợ chồng ........................................................................................ 43 2.2. Tình người trong cuộc sống ................................................................................. 47 4
  • 5. CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỮ “TÌNH” TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH ........................................................................................................52 3.1. Cốt truyện..........................................................................................................52 3.2. Nghệ thuật kết cấu ............................................................................................56 3.2.1. Kết cấu trần thuật...........................................................................................56 3.2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập ........................................................60 3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ..........................................................................63 3.4. Ngôn ngữ...........................................................................................................70 PHẦN KẾT LUẬN ...........................................................................................................74 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................77 5
  • 6. PHẦN DẪN NHẬP I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học hiện đại Việt Nam trong quá trình hình thành và vận động bằng chữ quốc ngữ đã có những biến chuyển mạnh mẽ vào giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Trong quá trình phát triển ấy, văn xuôi được chú ý và đón nhận là một bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc. Sở dĩ nói thế là vì trong văn xuôi người ta tìm thấy một thể loại mới mang những yếu tố, những khả năng có thể làm mới nền văn học thời bấy giờ cả về hình thức lẫn nội dung, hứa hẹn một sự đổi thay mang tính chất toàn diện, đó là tiểu thuyết. 1.1. Hình thành trong giai đoạn văn học mang tính chất giao thời từ 1900 đến 1930, tiểu thuyết dù chưa phải là chặng hoàn tất và đạt nhiều thành tựu nổi bật như giai đoạn sau (1930 -1945) nhưng nó đã mang đến một luồng gió mới khi cảm hứng đạo lí nổi lên thành một đặc điểm tiêu biểu về nội dung có sức ảnh hưởng đối với nền văn học nước nhà thời bấy giờ. Nội dung đạo lí xuất hiện khi bối cảnh văn hoá, xã hội của nước ta biến đổi. Quá trình đô thị hoá, tư sản hoá đã dần hình thành nên lối sống tư sản. Dù đã mang đến những đổi thay tích cực nhưng lối sống này lại bộc lộ nhiều mặt trái đáng phê phán. Văn hoá, xã hội bắt đầu biến thoái khi những giá trị văn hoá truyền thống dù đã tồn tại hàng nghìn năm trước cuộc “mưa Âu gió Mỹ” lại có nguy cơ lung lay. Lần đầu tiên, chúng ta cảm thấy mất niềm tin và khiếp sợ với chính mình, với cuộc sống và văn hoá xã hội khi mà nhiều giá trị đạo đức truyền thống bị đảo lộn hoặc bị đo bằng thước đo phi đạo đức. Trong bối cảnh đó, cảm hứng đạo lí – nguồn cảm hứng đã có cơ sở vững chắc từ văn học trung đại vẫn tiếp tục dòng chảy của mình, phát huy mạnh mẽ trong việc vạch trần, phê phán đạo đức, lối sống tư sản. Thật vậy, tiểu thuyết từ khi xuất hiện với nội dung đạo lí đã tác động mạnh mẽ khi nó gắn với chức năng giáo dục, cảnh tỉnh của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng được hình thành chủ yếu từ bối cảnh văn hoá, xã hội. Nó là tấm gương phản chiếu hiện thực đời sống trong cơn lốc Âu hoá đang biến chất một cách ghê gớm, là nấc thang quan trọng đánh dấu sự đổi mới của nền văn học Việt Nam. 1.2. Vào buổi bình minh của văn xuôi quốc ngữ, các tác giả Nam bộ đã có công đầu trong việc hiện đại hoá tiểu thuyết và tạo nên những bước đột phá mới khi thể loại 6
  • 7. này còn khá mới mẻ, chưa hoà nhập vào sự vận động chung của nền văn học nước nhà. Trong đó, có thể kể đến là Hồ Biểu Chánh_cây bút sáng giá nhất của Nam Bộ. Trên con đường hiện đại hoá, ông đã có nhiều thử nghiệm khi mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam một diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trên cái nền của truyền thống, kết hợp thêm chất xúc tác của văn học phương Tây, Hồ Biểu Chánh đã đạt được những thành công đáng kể khi tập trung khai thác những vấn đề, quan niệm về cuộc sống và con người thông qua lăng kính đạo đức. Nổi bật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là cảm hứng đạo lí chi phối toàn bộ tác phẩm của ông từ nội dung, nghệ thuật đến những giá trị tinh thần mà nhà văn muốn hướng đến độc giả. Và hơn hết, thông qua các tiểu thuyết của ông, độc giả tìm thấy một nhà văn luôn tìm về và khát khao gìn giữ những giá trị truyền thống văn hoá, đạo đức của dân tộc, luôn phát hiện ra những nét đẹp chân chất, mộc mạc của con người Nam Bộ cũng như cái tình người, tình đời cao đẹp, chân thành luôn hiện hữu trong tâm hồn họ. Khi nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh, chúng ta không khỏi nể phục bởi sức sáng tạo vô tận của ông. Hồ Biểu Chánh đã dành trọn trái tim và khối óc cho văn chương, cho kho tiểu thuyết đồ sộ của mình – kho tiểu thuyết chất chứa tình người Nam Bộ. Tìm thấy cảm hứng sáng tác từ cuộc sống đầy biến động trong buổi giao thời, Hồ Biểu Chánh tập trung miêu tả, khắc hoạ những đổi thay của xã hội trên con đường tư sản hoá. Nhìn thấy những mặt trái mà cơn gió Âu hoá mang tới, ông đau xót nhận ra những biến dạng đầy méo mó, lệch lạc trong tâm hồn, nhân cách và đạo đức của con người. Trong khi các nhà văn khác tập trung đi vào vấn đề hiện thực hoá thì Hồ Biểu Chánh dù vẫn phản ánh sự suy hoá trong đạo đức, nhân cách của con người để người đọc khi đau xót khi rùng mình khiếp sợ nhưng điều mà nhà văn muốn hướng đến đó là những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn của con người. Có thể thấy trong các tiểu thuyết của ông, bên cạnh những hiện thực đen tối, những hạng người bị cuộc sống tư sản tha hoá thì vẫn còn có những con người của đạo đức, vẫn còn cái tình luôn hiện hữu trong cuộc sống. 1.3. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã thẩm định vị trí, công lao cũng như các giá trị về tinh thần và văn hoá truyền thống mà các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh để lại cho nền văn xuôi Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu phần lớn chỉ mới đánh 7
  • 8. giá một cách khái quát chứ chưa đi sâu để làm rõ cảm hứng đạo lí thể hiện qua chữ tình trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm đầu thế kỉ XX. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ba mươi năm đầu thế kỉ XX” để hiểu rõ hơn về cuộc đời và con người của Hồ Biểu Chánh. Bên cạnh đó, đề tài cũng làm rõ hơn những giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật biểu hiện của chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trong công trình nghiên cứu “Phê bình và cảo luận”, Thiếu Sơn là người đầu tiên đã đánh giá cao những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại khi nhận xét rằng: “Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đủ sức hấp dẫn để lôi cuốn độc giả Việt Nam ham đọc truyện tàu trở về đọc truyện ta để nhớ tới thân phận con người Việt Nam đương sống trong xã hội Việt Nam và đương là nạn nhân của chế độ, một chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến mà bọn người được ưu đãi là những ông quận, những ông làng, những ông cử con quan và những ông nhà giàu địa chủ, đặc biệt là tác giả lại về phe những người nghèo hèn, yếu thế, những tá điền và nông dân” [46, 40] Trong quyển Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã giới thiệu sơ nét những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật qua một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như Cha con nghĩa nặng, Vì nghĩa vì tình, Khóc thầm…Đồng thời Vũ Ngọc Phan còn đánh giá cao về giá trị, những đóng góp của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình phát triển của nền văn học nước nhà “Điều đáng quí là có lúc Hồ Biểu Chánh đã đề cao được tinh thần phản kháng của người lao động (…) Hồ Biểu Chánh đã tập trung mũi dùi đả kích vào bọn địa chủ, quan lại phong kiến” và “Dù sao, nếu đã đọc những tiểu thuyết của các nhà văn đi tiên phong từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận ra từ Hoàng Ngọc Phạc và Hồ Biểu Chánh tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đếm bước vững vàng để dần dần đi tới ngày nay là lúc có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [43, 336] Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã nghiên cứu khá toàn diện về tiểu thuyết Việt Nam và ông đã ghi nhận một điều mà trước đó giới nghiên cứu chưa lưu tâm chú ý về sự hình thành của tiểu thuyết miền Nam “Dù sao ta cũng phải công nhận là ở một phương diện nào, thể tiểu thuyết đã đi bước trước ở miền Nam” [41, 8
  • 9. 377]. Song song đó, Phạm Thế Ngũ cũng dành sự quan tâm của mình vào việc phân tích một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh những năm 30 của thế kỉ XX để chỉ ra những nét đặc trưng tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật cùng con người và vùng đất Nam Bộ. Ông xem đây là một yếu tố quan trọng hình thành nên tư tưởng, chủ đề đạo lí trong các sáng tác văn xuôi của Hồ Biểu Chánh. Công trình nghiên cứu của Phạm Thế Ngũ được nhìn nhận là sâu sắc hơn hẳn các công trình nghiên cứu trước đó của Vũ Ngọc Phan, Thiếu Sơn. Trong Bản lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhìn nhận Hồ Biểu Chánh là một nhà văn kì cựu nhất của làng văn Việt Nam và dành phần nhiều trang viết để làm nổi bật những giá trị về nội dung và nghệ thuật qua việc phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Bộ này. Thanh Lãng đã khẳng định vị thế và ý hướng văn chương của một nhà tiểu thuyết Nam bộ luôn kiên định với con đường mà mình đã lựa chọn “Nhưng Hồ Biểu Chánh không phải là con người của các trào lưu mà là của truyền thống. Mặc cho thiên hạ khen chê, ông cứ thẳng băng đường của ông, ông tiến” [35, 74]. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến công trình nghiên cứu Chân dung Hồ Biểu Chánh của Nguyễn Khuê. Bằng việc tập hợp, thống kê đầy đủ các sáng tác của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khuê đã giúp người đọc hiểu được cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam bộ này. Ngoài ra, Nguyễn Khuê còn chỉ ra ý hướng chủ yếu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí và nhìn nhận giá trị tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng như địa vị tác giả trong văn học sử “Cái tên HỒ BIỂU CHÁNH rất quen thuộc đối với văn học. Quen thuộc vì ông là một tác giả lớn ở miền Nam đã có tác phẩm hành thế từ đầu thế kỉ nay và vẫn tiếp tục sáng tác đều đặn đến những ngày cuối cùng của đời ông” [30, 8]. Trong Bình minh của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quyết Thắng đã khái quát sơ lược về cuộc đời của Hồ Biểu Chánh, thu thập, thống kê một số tiểu thuyết tiêu biểu của ông. Đánh giá những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Quyết Thắng còn so sánh, trích dẫn thêm những nhận xét của các nhà nghiên cứu phê bình văn học khác như Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan để mang đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về những đóng góp của Hồ Biểu Chánh cho nền văn 9
  • 10. học nước nhà “Phần đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào nền học thuật Việt Nam quả thật vô cùng phong phú. Điều này không một nhà nghiên cứu nào có thể phủ nhận được. Phủ nhận chỉ làm cho văn học thêm nghèo hơn trong một nền văn học còn thiếu vắng nhiều khuôn mặt như Hồ Biểu Chánh” [33, 146]. Với công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phan Cự Đệ đã trình bày về những khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930 và những mầm mống đầu tiên của một nền tiểu thuyết mới. Ông đã dành nhiều trang nhận xét những mặt tích cực và chỉ ra một số hạn chế của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phan Cự Đệ khẳng định tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những nét khá điển hình của hiện thực Nam Bộ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và khuynh hướng đạo lý giúp cho Hồ Biểu Chánh giữ được nhiều truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt Nam cổ điển: giàu tính lý tưởng, giàu tinh thần dân chủ chống phong kiến. Tóm lại, khảo sát những tài liệu chúng tôi ghi nhận được, chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một đề tài mới mẻ, chưa từng có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống trong mối quan hệ biện chứng với quan niệm sáng tác của tác giả và các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. - Có thể thấy các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đều nghiên cứu theo hướng đánh giá vị trí và sự đóng góp của ông trên văn đàn văn học dân tộc. Hồ Biểu Chánh được xem là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. - Ngoài ra, một số các công trình nghiên cứu khác tập trung vào việc phân tích nội dung tư tưởng, khuynh hướng đạo lí, phản ánh hiện thực và đặc trưng ngôn ngữ trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh như khoá luận Đặc điểm khẩu ngữ Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Châu Minh Hiền, khoá luận Vị trí của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900 – 1930) của Huỳnh Thị Lành và công trinhg khảo cứu khảo cứu Hồ sơ về Lục châu học – Tìm hiểu con người ở vùng đất mới của Nguyễn Văn Trung. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào thật sự quan tâm đầy đủ và đúng mức về việc khẳng định chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, một đóng góp tích cực về ý thức sáng tạo trong việc định hướng ngòi bút của mình để gìn giữ, ca ngợi những giá trị văn hoá truyền thống của dân 10
  • 11. tộc. Bên cạnh đó còn là một kênh hiệu quả để hiểu thêm về hiện thực đời sống văn hoá xã hội, tính cách con người của vùng đất mới trong các sáng tác của tác giả sau này. Như vậy, đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu trên, đi sâu vào tìm hiểu chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh qua một số tiểu thuyết trong 30 năm đầu thế kỉ XX. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 1. Về khoa học cơ bản: Chúng tôi khảo sát, trích lọc và phân tích những yếu tố, cơ sở hình thành nên một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trong 30 năm đầu thế kỉ XX trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật cụ thể: hiện thực đời sống qua bức tranh thiên nhiên và xã hội Nam bộ, số phận con người, truyền thống đạo lí dân tộc, ngôn ngữ sinh hoạt mang nét đặc trưng vùng miền. 2. Về thực tiễn: Chúng tôi nhận thấy một số đoạn trích từ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được lựa chọn giảng dạy trong chương trình phổ thông đề cao chữ tình của con người Nam bộ qua tiểu thuyết Con nhà nghèo, Cha con nghĩa nặng. Thực hiện đề tài này sẽ giúp chúng tôi có thêm kiến thức bao quát, kĩ lưỡng hơn về cuộc đời, quan niệm sáng tác của tác giả với hiện thực cuộc sống và con người Nam bộ. Từ đó, giảng dạy tốt hơn những tác phẩm của ông trong chương trình phổ thông các cấp. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này cũng giúp chúng tôi hiểu biết thêm về vùng đất và con người nơi đây, thêm yêu và trân trọng những đạo lí truyền thống ngàn đời được gìn giữ của dân tộc. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Tiểu thuyết của tác giả Hồ Biểu Chánh 2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi chỉ tập trung trích lọc và phân tích chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh qua 17 sáng tác trong 30 năm đầu thế kỉ XX: 1. Ai làm được sáng tác năm 1912, nhuận sắc năm 1922 2. Chúa tàu Kim Quy, 1922 3. Cay đắng mùi đời, 1923 4. Tỉnh mộng, 1923 11
  • 12. 5. Một chữ tình, 1923 6. Nam cực tinh huy, 1924 7. Nhơn tình ấm lạnh, 1925 8. Tiền bạc, bạc tiền, 1925 9. Thầy Thông ngôn, 1926 10. Ngọn cỏ gió đùa, 1926 11. Chút phận linh đinh, 1928 12. Kẻ làm người chịu, 1928 13. Vì nghĩa vì tình, 1929 14. Cha con nghĩa nặng, 1929 15. Khóc thầm, 1929 16. Nặng gánh cang thường, 1930 17. Con nhà nghèo, 1930 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết những vấn đề trên, trong khoá luận chúng tôi sẽ sử dụng những phương pháp sau đây: a. Phương pháp nghiên cứu hệ thống (nghiên cứu văn học với tư cách là một chỉnh thể như một cấu trúc phức hợp những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau và tác động lẫn nhau) như hệ thống đề tài, chủ đề, hệ thống hình tượng nhân vật, tính cách nhân vật, các yếu tố ngôn ngữ,…trong một hoặc một số tác phẩm. Vận dụng phương pháp hệ thống chúng tôi trình bày, lí giải, khái quát, tổng hợp những vấn đề liên quan đến đề tài được thấu đáo, trọn vẹn hơn. b. Phương pháp phân tích đối chiếu: đây là phương pháp nhằm tìm hiểu, phát hiện những đặc điểm của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó tìm ra sự đóng góp tích cực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trong quá trình hình thành tiểu thuyết quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX và những tư tưởng, đạo lí truyền thống của dân tộc qua các thời kì lịch sử. c. Phương pháp thống kê – so sánh: phương pháp này nhằm khảo sát những yếu tố mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh kế thừa tác phẩm tự sự truyền thống, những yếu tố cách tân để đánh giá vị trí, vai trò của ông trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế 12
  • 13. kỉ XX. Đó là mối quan hệ tiếp thu – chuyển biến – sáng tạo giữa thi pháp trung đại và thi pháp hiện đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI - Có cái nhìn tổng quát về vị trí của Hồ Biểu Chánh trong sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX - Chỉ ra được những tiếp biến văn học phương Tây trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh - Góp phần khắc đậm những tính cách, đặc điểm của con người và vùng đất Nam bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã được người đi trước đề cập - Sức hấp dẫn của Hồ Biểu Chánh đối với công chúng Nam bộ VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, nội dung của khoá luận gồm ba chương: Chương I: Những cơ sở của chữ tình trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, gồm 3 nội dung chính. Thứ nhất, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam bộ. Thứ hai, Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm “đạo” trong văn. Thứ ba, mảnh đất Nam bộ – nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Chương 2: Chữ tình thể hiện qua phương diện nội dung trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với 2 vấn đề lớn: tình cảm gia đình và tình người trong cuộc sống. Chương 3: Chữ tình thể hiện qua phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, gồm 4 đặc điểm nổi bật: cốt truyện, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ. 13
  • 14. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Hồ Biểu Chánh – Người đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam bộ 1.1.1. Quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người Nhìn từ sự phát triển của văn học và văn hoá Nam Bộ đầu thế kỉ XX, Hồ Biểu Chánh được xem là một nhân vật hết sức đặc biệt trong số các tác gia có đóng góp quan trọng cho nền văn học dân tộc: nhà văn gắn bó với số phận và những thăng trầm của văn học quốc ngữ miền Nam. Khi đã mang cả cuộc đời mình gắn bó với vùng đất này, Hồ Biểu Chánh say mê sáng tác, khai thác, tìm tòi những giá trị văn hoá, tinh thần của vùng đất Nam bộ trong lịch sử văn học dân tộc. Đọc tiểu thuyết của ông, người đọc đôi lúc thấy nồng nhiệt, lúc thấy sục sôi bởi hiện thực cuộc sống mà ông phản ánh nhưng giá trị đặc sắc và có ý nghĩa mà tiểu thuyết của ông mang đến chính là cái cốt lõi của truyền thống dân tộc: quan niệm đạo đức về cuộc sống, con người. Trước hết, đó là sự kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận vị. Với Hồ Biểu Chánh, ông quan niệm cái ta chung của một cộng đồng là sự tổng hoà của nhiều cái tôi cá nhân mà những cá thể ấy phải có mối quan hệ mật thiết, có trách nhiệm với cộng đồng, tập thể và có một bổn phận nhất định. Con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chưa thể tồn tại một cách độc lập, không thể tách khỏi gia đình, xã hội và càng không có tiếng nói cá nhân: “Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất”(Xuân Diệu). Kế thừa quan niệm của nhà Nho về con người chức năng phận vị nhưng Hồ Biểu Chánh lại có sự thay đổi khi đặt chức năng phận vị trong quan hệ với gia đình, xã hội mà không phải là quan hệ với vua, với nước như các nhà Nho xưa. Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là con người đời tư, con người của nhịp sống đời thường. Họ sống và ý thức cao độ về trách nhiệm, bổn phận của một thành viên trong gia đình, một cá nhân trong cộng đồng. Không chỉ thuộc tầng lớp trí thức, con người chức năng phận vị trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có cả hàng ngũ người lao động, đặc biệt là mô típ các nhân vật độc thân. Thay đổi quan niệm về con người chức năng phận vị, Hồ Biểu 14
  • 15. Chánh để cho các nhân vật độc thân của mình có những biểu hiện chán ghét hoặc cương quyết từ chối chuyện lập gia thất, muốn thoát khỏi chức năng phận vị trong gia đình: làm cha, làm mẹ, làm vợ, làm chồng,…nhưng lại tự gắn mình vào một bổn phận khác, bổn phận với đời, với xã hội. Chẳng ai tìm được lí do vì sao họ lại lựa chọn con đường ấy nhưng với họ làm tốt bổn phận của chính mình đã là một hạnh phúc to lớn, có ý nghĩa hơn cả hạnh phúc cá nhân. Đó là những con người có ý thức rất cao về bổn phận, trách nhiệm với gia đình, xã hội và có khi còn quên cả chính mình để làm tròn bổn phận với người, với đời và phong hoá của xã hội. Con người chức năng phận vị trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh từ chối ràng buộc với những ham muốn tầm thường, từ chối cả việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận ở một giới hạn nhỏ hẹp. Họ mong muốn vươn tới những giá trị to lớn, cao cả thông qua việc khẳng định ý thức bổn phận giữa xã hội rộng lớn. Qua hàng loạt các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, có thể thấy, con người theo quan niệm của Hồ Biểu Chánh ít nhiều mang nét tương đồng với quan niệm con người tự do trong văn học thời Lý Trần nhưng tuyệt nhiên không thể thoát ra khỏi chức năng phận vị dù là trong hoàn cảnh nào và tuyệt đối phải sống đúng với chức năng phận vị của mình. Xuyên suốt các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã chỉ ra một thực tế: những ai không làm tốt hoặc cố thoát ra khỏi chức năng phận vị của mình đều sẽ gặp một kết cục thảm hại. Không như các nhà văn khác hướng ngòi bút vào việc phản ánh hiện thực để lên án hay tố cáo xã hội, Hồ Biểu Chánh lấy việc phản ánh hiện thực như là một công cụ, bàn đạp để nhà văn bóc trần những mặt trái trong đạo đức của con người được nảy sinh từ hiện thực xấu xa, tàn bạo đó. Hiện lên trong các sáng tác ấy là một Hồ Biểu Chánh đang xót xa, đau đớn trước sự băng hoại, méo mó trong nhân cách, đạo đức của con người. Thật vậy, dù là một nhà văn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học phương Tây nhưng Hồ Biểu Chánh luôn tìm về với những phong hoá, những giá trị tinh thần, truyền thống của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà trong mỗi tác phẩm của ông ta đều thấy được sự trân trọng, đề cao của nhà văn với những giá trị đạo đức. Với Hồ Biểu Chánh, sống theo đạo đức là bổn phận và chức năng của con người. Đạo đức ấy không chỉ phục vụ riêng cho mỗi con người mà còn cho phong hoá của xã hội. Không cần phải mang những lý tưởng hay phẩm chất cao đẹp, con người theo quan niệm cuả Hồ Biểu 15
  • 16. Chánh là con người đạo đức, sống theo đạo đức và sống vì đạo đức. Với ông, đạo đức là thước đo nhân cách, phẩm giá của con người. Chỉ khi con người có thể dẹp bỏ tất cả những ham muốn và quyền lợi cá nhân để thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức thì con người ấy chính là con người lí tưởng. Quan niệm con người lí tưởng là con người làm tốt chức năng phận vị, sống theo những chuẩn mực đạo đức nhưng với Hồ Biểu Chánh con người lí tưởng còn phải mang vẻ đẹp tâm hồn. Đây là nguyên tắc tư duy kiểu nhà Nho khi thể hiện con người được Hồ Biểu Chánh vận dụng cho các nhân vật của mình. Là một nhà văn luôn đi tìm những giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của văn hoá Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm đến việc tạo nên các giá trị tinh thần cho nhân vật trong tác phẩm của mình, nhất là các nhân vật chính diện, tiêu biểu cho loại người có đạo đức. Nhân vật mang vẻ đẹp của đạo đức trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là những con người có vẻ đẹp ngoại hình vừa thanh khiết, tinh anh lại vừa gần gũi, giản dị. Nhưng nét đặc biệt để phân biệt Hồ Biểu Chánh với các nhà Nho khác là khi miêu tả nhân vật của mình ông không sử dụng yếu tố thiên nhiên để tô vẽ bức chân dung nhân vật chính diện. Hồ Biểu Chánh đã đưa các yếu tố cụ thể và chân thật của đời thường, những cái vốn có của con người để khắc hoạ hình dáng bên ngoài của nhân vật. Thế nên, những tình, những cảnh, những con người cùng bao nhiêu sự việc trong tiểu thuyết của ông thật gần gũi, quen thuộc với quần chúng. Tất cả hiện lên như một bức tranh sinh hoạt hiện thực sống động mà người đọc có thể mắt thấy tai nghe, có khi chính là bản thân của họ hoặc đã từng đóng một vai tham dự. Cả cuộc đời sống hết mình cho nghiệp văn và tấm lòng chỉ hướng về mảnh đất Nam bộ thương yêu, Hồ Biểu Chánh đã gửi vào những nhân vật của mình hơi thở của cuộc sống giản dị, của những khát khao hạnh phúc đời thường hoặc những ham muốn lầm lạc. Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ý thức được nỗi đau, hạnh phúc. Thế nhưng Hồ Biểu Chánh lại rất có ý thức về tính độc lập tự do của đạo đức. Xây dựng các hình tượng nhân vật biểu trưng cho cuộc sống đời thường đa dạng, phức tạp như thế nhưng ông cho rằng dù người ta có theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ thì vẫn cần phải giữ cho được đạo đức truyền thống, tức đạo lí làm người của dân tộc. Do đó những ai dù mang khát vọng cá nhân mạnh mẽ đến dường nào đều sẽ bị đạo đức, luân lí kéo trở lại 16
  • 17. với chức năng phận vị. Dù muốn hay không con người cũng cần phải sống có trách nhiệm, làm tròn bổn phận và tự ý thức về vị trí, vai trò của mình trong các mối quan hệ gia đình, xã hội. Con người đạo đức, luân lí theo quan niệm của Hồ Biểu Chánh đôi lúc phải chấp nhận hi sinh tất cả những gì của cá nhân, chấp nhận đau khổ riêng mình mà chăm lo, vun đắp hạnh phúc cho gia đình, cho những mối quan hệ cộng đồng thân thiết dù có phải nhận lấy sự thiệt thòi hay nỗi sầu não cả một đời. Kế thừa, tiếp thu truyền thống văn hoá về con người đạo lí của văn học trung đại, văn chương Việt Nam thực sự đã có những bước chuyển biến mới đầy hứa hẹn. Trong lớp các nhà văn mới đang trên đường tìm kiếm một mô hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Hồ Biểu Chánh có thể nói là người đã mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam khi sớm gặt hái được nhiều thành công. Sớm mang một tình yêu chân thành, nồng thắm với vùng đất, con người Nam bộ, Hồ Biểu Chánh đã lựa chọn thể loại truyện thơ để mang đến hơi thở sức sống mới cho tiểu thuyết hiện thực của mình. Và hơn hết có thể thấy chính những truyền thống đạo lí, tinh thần nghĩa hiệp của văn chương miền Nam được hun đúc nên từ tinh thần đạo nghĩa phương Đông và nó đã trở thành tiền đề cho quan niệm đạo đức của Hồ Biểu Chánh về cuộc sống, con người. Niềm tin và mong ước về một xã hội có luân lí, đạo đức tốt đẹp được Hồ Biểu Chánh thể hiện đậm nét trong các tác phẩm của mình với những người thanh niên trọng lễ nghĩa và trung trực, những con người từ tâm giàu lòng thương người, những người phụ nữ trọng đạo nghĩa và sự trung trinh, thuỷ chung, son sắt. Một phiên bản của những Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Kiều Nguyệt Nga trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu. Vì tin vào sức mạnh trường tồn của truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, Hồ Biểu Chánh tin vào sự hiền lương trong tâm tính của con người. Với cái nhìn chủ đích luân lí, ông tin vào chân lí “ác giả ác báo”, thiện bao giờ cũng thắng ác, người tốt, ngay thẳng dù bị vùi dập, phải trải qua bao nhiêu gian truân khổ ải cũng sẽ có ngày được đáp đền xứng đáng, người bị hàm oan được thoát tội còn kẻ gian ác phải bị trừng trị, sống nhục chết thảm không chốn dung thân. Đó là nét đặc biệt tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Trong thời kì hiện đại hóa văn học, đổi mới bao giờ cũng khởi phát từ cái nền của truyền thống. Từ những phân tích trên có thể thấy quan niệm về con người của Hồ Biểu 17
  • 18. Chánh luôn có sự đan cài, kết nối giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, giữa cái nhìn cuộc sống và con người theo quan niệm chức năng phận vị và cái nhìn mới mẻ, phóng khoáng để làm nên giá trị phù hợp với thời đại. Dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền Hán học và Tây học nhưng quan niệm của Hồ Biểu Chánh vẫn thể hiện những biến đổi nghệ thuật về cuộc sống và con người trong giai đoạn văn học giao thời. Và khi có được cái nhìn mới mẻ, Hồ Biểu Chánh lại là người tỏ ra rất tình nghĩa với truyền thống. Với ông nếu con người biết sống theo bản ngã trong chừng mực nhất định và không quên chức năng phận vị thì đó là con người lý tưởng nhất. Hạnh phúc sẽ đến với ai biết dung hoà cái ta và cái tôi. Chính quan niệm trên đã tạo cho tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có những nét riêng và có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đây cũng là nét đặc trưng dễ nhận ra trong văn học đầu thế kỉ XX. 1.1.2. Ý hướng đạo đức, luân lí_giá trị cốt lõi trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là cây bút tiên phong sáng giá nhất của giai đoạn 1913 – 1932 bởi lẽ ông đã đạt được nhiều tiến bộ về kĩ thuật dựng truyện, nội dung cũng như văn từ và sáng tác nhiều hơn hết so với các nhà văn cùng thời. Tuy nhiên, người đời sau nhớ về Hồ Biểu Chánh không chỉ ở vị trí là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại mà ông còn là một nhà văn có khuynh hướng bảo thủ, nhà văn kiên trì dành cả cuộc đời của mình để tìm kiếm những giá trị đạo đức, luân lí trong nét đẹp cổ xưa của truyền thống văn hoá dân tộc. Đó là sứ mạng văn chương cao cả được Hồ Biểu Chánh suốt đời tôn sùng, đề cao và trân trọng. Người đời có thể tha hồ chỉ trích lập trường chính trị của ông quan Hồ Văn Trung nhưng không ai có thể phủ nhận được địa vị của nhà văn Hồ Biểu Chánh trong lòng người đọc cũng như trong lịch sử văn học Việt Nam thời cận hiện đại và cả mãi về sau: Hồ Biểu Chánh – cây cầu nối liền những giá trị cổ truyền với con người hiện đại. Như vậy, đạo lí trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã khẳng định vị trí của ông trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua các tác phẩm của mình, dù trong Đời của tôi về văn nghệ ông đã từng thú nhận ngay từ lúc mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố tâm viết loại tả chân về phong tục nhưng nếu xếp Hồ Biểu Chánh vào nhà văn có ý hướng 18
  • 19. phong tục thì đó là một sự nhầm lẫn đáng tiếc. Khi phân tích, nghiên cứu ý hướng chủ đích trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ta cần phải cân nhắc, đánh giá xem khi ghi nhận các phong tục và mô tả hình ảnh xã hội đương thời thì Hồ Biểu Chánh đã có thái độ như thế nào. Và trong quyển “Chân dung Hồ Biểu Chánh”, Nguyễn Khuê viết: “Có thể nói, tính chất luân lí bao trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt chủ đích luân lí. Thế nên, nếu cần phải xác định một ý hướng làm nền tảng cho sự sáng tác của Hồ Biểu Chánh thì đó chính là ý hướng luân lí và ông là một nhà đạo lí” [28, 260]. Nghĩa là thông qua việc ghi nhận và mô tả hình ảnh xã hội đương thời, Hồ Biểu Chánh phơi bày thực trạng gia đình và xã hội. Phơi bày nhưng không đả phá những cái cũ và hô hào cho những cái mới. Trong thời đại nền văn minh phương Tây phát triển ồ ạt và có những ảnh hưởng nhất định đến nền văn hoá nước ta, Hồ Biểu Chánh chủ trương cái cũ và cái mới đều có những hay dở riêng và việc của mỗi con người chúng ta là phải tỉnh táo lựa chọn và hành xử một cách đúng đắn nhất, phù hợp với đạo đức, luân lí tốt đẹp của dân tộc. Miêu tả phong tục, tập quán nhưng chủ đích lại muốn hướng con người vào một lối sống lành mạnh, tốt đẹp, ngay thẳng. Hồ Biểu Chánh chủ trương nền văn hoá truyền thống của dân tộc chỉ có thể bền vững khi con người muốn duy trì và bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền. Đó chính là một vẻ đẹp bất biến trong nhân cách, tâm hồn của Hồ Biểu Chánh thông qua các tác phẩm của ông. Điều thứ hai cần phải cân nhắc và xem xét đó là dù các tiểu thuyết của ông chủ yếu mô tả phong tục nhưng thường nặng tính chất luân lí. Biểu hiện rõ rệt của ý hướng luân lí trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh thể hiện qua cốt truyện và cách trình bày nhân vật. Dù trong phạm vi gia đình hay xã hội, dù là vấn đề hôn nhân hay mê tín dị đoan,…đều có thể thấy khi xây dựng cốt truyện, công thức phổ biến là những nhân vật – nạn nhân của số phận bị xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, những con người bé nhỏ bị thực tại và cả chính những ham muốn, lầm lạc của mình xô đẩy và dẫn đến kết cục bi thảm. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một thế giới đa dạng và phong phú về các nhân vật và đặc biệt hơn khi họ lại là những nhân vật điển hình cho cuộc sống của hiện thực. Mỗi nhân vật của ông có một hoàn cảnh, số phận riêng nhưng họ gặp nhau ở một điểm chung: đều bị cái nghèo đói làm cho khổ sở, chật vật. Có người bị vùi dập và biến chất 19
  • 20. nhưng cũng có những nhân vật vượt qua được nghịch cảnh ấy mà giữ được những khí tiết, phẩm chất cao đẹp. Nhưng ý hướng luân lí không chỉ dừng lại ở đó. Nó bộc lộ qua những kết cục có hậu theo sự tin tưởng của nhiều người rằng “ở hiền gặp lành” hay “thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Để rồi hoá giải tất cả, cái bất biến trường tồn đến cuối cùng chính là lòng thương người, lòng trung trinh, sự hiếu hạnh, cải tà quy chánh, tu thân lập chí và những lời giảng giải luân lí của chính tác giả. Có thể thấy các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vừa là sự tố cáo hiện thực xã hội lại vừa là giấc mơ, đạo lí sống được chính tác giả đề cao và trân trọng. Đồng thời, đó còn là một thứ cảm quan đặc trưng của những cư dân trên một miền đất mới mà những đạo đức, luân lí tốt đẹp ấy như một điểm tựa vững chắc của niềm tin giúp họ bảo tồn những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc khi phải thường trực đối diện với một thực tại không nhiều hứa hẹn. Tiếu thuyết là tác phẩm văn chương cũng là một công trình nghệ thuật và thông qua đó ít nhiều người đọc bị ảnh hưởng tốt hoặc xấu. Một lần nữa có thể khẳng định ý hướng chủ yếu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là ý hướng luân lí, ý hướng phong tục chỉ là thứ yếu. Thông qua các tiểu thuyết luân lí của mình Hồ Biểu Chánh muốn tuyên truyền và bồi đắp thế đạo nhân tâm khi mạnh dạn lên án những tác nhân, những mầm mống gieo rắc tai hoạ, gây bao cảnh lầm than và cảm thông chia sẻ nỗi đau của những số phận, những con người trong xã hội. 1.2 Hồ Biểu Chánh – Người gửi “đạo” trong văn Có nhiều người hay nói đến việc đi tìm cảm hứng sáng tác. Dù là trong lao động nghệ thuật nói chung hay sáng tác văn chương nói riêng, dù là nhà văn hay nhà thơ đều cần phải có cảm hứng. Nhà thơ Nguyễn Khuyến thì nói: “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút…” hay như Tố Hữu cũng viết: “Tưởng đâu quên mất thơ rồi/ Tạm ngừng công việc lại ngồi với thơ…” Cảm hứng sáng tác tạo nên tác phẩm. Cảm hứng theo Bêlinxki là “trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả”, cảm hứng là “sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó” và “cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở thành lòng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt” [24, 208 – 209]. Còn trong quyển Lý luận văn học thì cho rằng: “cảm hứng là một 20
  • 21. trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hoà, kết tinh sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản năng”[39, 315]. Có rất nhiều cách định nghĩa thế nào là cảm hứng nhưng chắc chắn nó không tự có mà cũng không thể đi tìm bởi lẽ cảm hứng là một cái gì đó rất vô hình, không thể định dạng cũng không thể định vị. Cái nền, cái gốc để nảy sinh cảm hứng sáng tác chính là từ cuộc sống giàu có và phong phú của người nghệ sĩ. Cảm hứng sáng tác đến thưa thớt hay dồn dập không quan trọng. Cách tốt nhất để nảy sinh cảm hứng sáng tác là chăm bón tốt cho tâm hồn bằng cách sống tích cực, sống hết mình, gắn bó với cuộc đời, con người. Không có cảm hứng thì không thể có sáng tác văn chương đích thực. Rất nhiều đỉnh cao của văn chương nhân loại cả đời chỉ sáng tác một tác phẩm duy nhất. Hồ Biểu Chánh là người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại không chỉ để lại cho văn chương nhân loại một sáng tác mà là cả một kho tiểu thuyết đồ sộ khi cả cuộc đời chỉ dành để sống và gắn bó với con người, vùng đất Nam bộ, cả cuộc đời viết văn chỉ để đi tìm cảm hứng sáng tác trong những giá trị văn hoá truyền thống đạo đức của dân tộc và gìn giữ chúng một cách cẩn thận, trân trọng. Đọc tiểu thuyết của ông ta thấy rằng cảm hứng chủ đạo là biểu dương, khẳng định đạo lý bình dân truyền thống. Không chỉ bộc lộ qua những sáng tác mà cảm hứng ấy còn thể hiện sâu sắc trong ý thức nghệ thuật của Hồ Biểu Chánh. Dễ dàng nhận thấy qua các sáng tác của mình, Hồ Biểu Chánh gần như đã dành trọn đời văn, dành trọn tâm huyết để thực hiện tuyên ngôn nghệ thuật ấy. Qua kho tiểu thuyết khá lớn, Hồ Biểu Chánh đã chứng tỏ được điều ấy khi ngòi bút của ông chỉ tỏ ra sở trường khi viết về phong tục, luân lí và “tính chất luân lí bao trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt chủ định luân lí” [30, 260]. Trước sự du nhập ồ ạt của văn hoá phương Tây, xã hội Việt Nam nói chung và vùng đất Nam bộ nói riêng chịu sự cai trị trực tiếp của thực dân Pháp đã có những chuyển biến mạnh mẽ, diễn ra liên tục, lan toả sâu rộng đến các giềng mối xã hội Việt Nam từ thành thị đến nông thôn và ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học nước nhà. Nhưng cũng từ 21
  • 22. những năm đầu của thế kỉ XX, trải qua hơn một nửa thế kỉ cho đến nay, trong khi nhiều tác phẩm của một số không ít các nhà văn nổi tiếng cùng thời với ông gần như đã bị đẩy lùi vào quá khứ thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vẫn còn được ưa chuộng, trở thành món ăn tinh thần quen thuộc của đa số quần chúng trên vùng đất phương Nam tổ quốc. Vậy điều gì đã làm nên một Hồ Biểu Chánh mang tầm ảnh hưởng sâu sắc đến thế trong lòng đông đảo bạn đọc yêu văn chương? Phần lớn các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn ở Nam bộ thời kì này thường hay đề cập đến vấn đề luân thường đạo lí tạo nên nét đặc trưng của tiểu thuyết miền Nam. Họ thường hay bàn đến “nhân tình thế thái”, “đạo lí làm người”, thái độ và cách cư xử trong đời sống hằng ngày để hướng đến vấn đề đó là bảo tồn những giá trị tinh thần trong truyền thống đạo lí của dân tộc. Cảm hứng chủ đạo của họ là cảm hứng “vì nghĩa”, “xả thân thủ nghĩa” đã chi phối từ cách xây dựng nội dung cốt truyện , bố cục đến tính cách, ngôn ngữ của nhân vật tạo nên tính chất đặc thù của tiểu thuyết miền Nam. Lớn lên giữa lúc xã hội Việt Nam trở mình sực tỉnh giấc ngủ ngót mười chín thế kỉ trong nền văn hoá cổ truyền chịu ảnh hưởng Trung Hoa một cách sâu đậm để tiếp thu nền văn hoá phương Tây do người Pháp đem lại, Hồ Biểu Chánh vừa hấp thụ tân học vừa am tường cổ học. Và phần đông những người trí thức thuộc thế hệ này cũng thế, họ chủ trương dung hoà Đông – Tây, cũ – mới với ước muốn xây dựng nền quốc học bằng cách một mặt bảo tồn những đặc sắc của văn hoá phương Đông, mặt khác tiếp thu có chọn lọc những cái hay của văn hoá phương Tây. Hoà trong mạch chảy đó nhưng Hồ Biểu Chánh lại là một người bảo thủ sáng suốt nên tuy xuất thân từ Tây học ông vẫn đề cao những tư tưởng truyền thống của dân tộc vốn thấm nhuần Nho, Phật, Lão giáo. Tư tưởng chính trong con người của Hồ Biểu Chánh chi phối nội dung tác phẩm của ông là tư tưởng “văn dĩ tải đạo”, viết văn là để truyền tải giáo huấn đạo đức ở đời. Trong “Đời của tôi về văn nghệ” ông đã thú nhận rằng: “Viết tiểu thuyết để cảm hoá đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh” [30, 259]. Đạo lí làm người đặt căn bản trên sự nhân ái hiếu nghĩa, trong sạch thẳng ngay luôn được Hồ Biểu Chánh đề cao khi đưa vào tiểu thuyết của mình thông qua thuyết nhân quả. Điều đó được thể hiện rất rõ khi ông viết 22
  • 23. trong Tâm hồn tôi: “Tôi chắc con cháu của tôi ngày sau chúng nó sẽ tìm hiểu coi tôi là người nuôi tâm chí thế nào. Nếu chúng nó đọc đủ mấy chục bộ tiểu thuyết của tôi, tự nhiên chúng nó sẽ nhận thấy bình sanh tôi là thẳng ngay, ghét gian trá, thương yêu nghèo khổ, khinh rẻ giàu sang. Nhưng chúng chưa biết được ý của tôi với quốc gia và đối với chưởng tộc. Vậy hôm nay tôi lục những thi văn của tôi có ảnh hưởng với quê hương và xã hội mà góp thành tập này để con cháu tôi ngày sau được biết rõ tâm hồn của tôi với thời cuộc…” [30, 100] Bằng cả cuộc đời sáng tác mà tiêu biểu qua 64 tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã chứng minh được những lời ông nói. Hơn thế nữa, tiểu thuyết với ông không chỉ là tác phẩm văn chương, là công trình nghệ thuật mà bên cạnh đó nó còn có thể ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến người đọc. Nghĩa là tiểu thuyết còn phải là tác phẩm mang khuynh hướng đạo lí trong văn chương. Thế nên các nhân vật mà ông yêu quý, trân trọng luôn sống và hành động theo một mục đích cao đẹp duy nhất là “thành nhân với thủ nghĩa”. Trong bức thư gởi cho Ban Trị sự Khổng tử Tế tự hội tỉnh Gò Công để xin từ chức hội trưởng, ông viết: “…Sản xuất cả mấy chục pho tiểu thuyết, viết kịch bản, làm phú thi, hay lập báo chí, luôn luôn tôi vẫn đuổi theo cái mục đích duy nhất là: “Thành nhân với Thủ nghĩa”. Tôi cặm cụi cứ đi tới, đi với một tâm hồn chơn thành, một đức tin mạnh mẽ” [30, 265]. “Thành nhân với Thủ nghĩa” đã trở thành một tư tưởng, một mục đích sống cao đẹp được Hồ Biểu Chánh đề cao và trân trọng. Đó cũng là truyền thống văn học Nam Bộ đã được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rất thành công trong các sáng tác của mình. Nhìn lại chặng đường sáng tác của hai nhà văn Nam Bộ có thể thấy rằng cả Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Biểu Chánh gặp nhau ở một điểm tương đồng trong tư tưởng sáng tác: đạo đức đã thành đạo lí, hạt giống nhân nghĩa Khổng Mạnh đã mất đi màu sắc thánh hiền, trở thành cách sống, cách cư xử ở đời, thành đạo lí nhân dân, đạo đức bình dân. Càng đề cao đạo lí, càng muốn gìn giữ những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc, Hồ Biểu Chánh càng đau xót trước những đổi thay của xã hội, của nhân cách con người. Chứng kiến sự tấn công mạnh mẽ của nền văn hoá phương Tây cũng như sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc, ông lo sợ xã hội băng hoại, văn hoá dân 23
  • 24. tộc bị thui chột dù trước đây ông cho rằng luân lí bao giờ cũng là luân lí, con người dù tiến bộ văn minh đến đâu, dù có bị ảnh hưởng ít nhiều phong tục Âu Tây cũng không thể đánh mất hoặc đạp đổ các luân lí mà ông cha để lại. Mất đi cái gốc, cái rễ của đạo đức luân lí thì sợi dây vô hình liên hệ giữa con người với nhau cũng không còn tồn tại. Sống và viết, Hồ Biểu Chánh luôn mang cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn duy trì nhân tâm thế đạo chứ không phải cái băn khoăn của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm và đổi mới cách viết. Ông thao thức và trăn trở trước sự đổi thay chóng vánh của thời cuộc và nhận thức của con người nhưng ông luôn tin rằng những giá trị bắt nguồn từ đạo lí dân tộc, mang tính chất nhân dân và có cơ sở từ ngàn đời sẽ luôn bất biến. Các tác phẩm của ông như là một thứ thuốc đề kháng, một phép vệ sinh tinh thần cho con người Việt Nam trước bầu không khí ô nhiễm của văn minh vật chất từ văn hoá phương Tây “Phải viết đặng ghi cái hay cái dở của nhơn tình thế thái về khoảng đời truỵ lạc mà để lại cho em cháu đời sau được biết chỗ thấp, chỗ cao. Phải viết đặng giải nỗi u sầu của mình và luôn dịp đặng chỉ đường vạch nẻo cho con cháu trong nhà ngó thấy…” [30, 259 – 260]. Trong văn học Nam bộ, khuynh hướng đạo lí đã được thể hiện từ thời Nguyễn Đình Chiểu cho đến các nhà văn lớp sau như Phú Đức, Hồ Biểu Chánh. Với Hồ Biểu Chánh – nhà văn dành cả một đời đi tìm “đạo” trong văn đã giúp cho nền tiểu thuyết Việt Nam giữ được những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Điều đó đã giúp Hồ Biểu Chánh cùng các tác phẩm của mình sống mãi trong lòng người đọc và người ta biết đến ông không chỉ là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết mà còn là người nối liền những giá trị cổ truyền với con người hiện đại “…hồi làm quan thì ta chăm nom giúp đỡ người nghèo nên ta được tiếng thương dân, mà viết tiểu thuyết ta cũng cố giữ vẹn đạo hiếu nghĩa và luôn luôn binh vực hạng bình dân nghèo hèn, nên ta được thiện cảm của quần chúng” [30, 260]. 1.3 Mảnh đất Nam Bộ_nơi vun đắp tình người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 1.3.1 Thiên nhiên Nam Bộ “Nam bộ” là một cách gọi nghe thật thân thương và quen thuộc. Hình ảnh thiên nhiên Nam bộ với sông nước, miệt vườn qua những trang văn của Hồ Biểu Chánh lại 24
  • 25. càng thân thương và tha thiết, chân thành hơn. Không gian trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trải rộng khắp Lục tỉnh Nam Kì từ các tỉnh miền Đông sang các tỉnh miền Tây ra tận các đảo ngoài khơi như Kim Quy, Phú Quốc. Thiên nhiên Nam Bộ trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh gần gũi, thơ mộng với quang cảnh miền Nam từ thành thị đến nông thôn, từ những giồng trảng ở các tỉnh miền Đông đến những kênh rạch ở các tỉnh miền Tây. Đó là Xóm Tre được lấy làm bối cảnh cho tiểu thuyết Cay đắng mùi đời, là Đập Ông Canh ở làng Vĩnh Thạnh phía bắc, Ụ Giữa ở làng Vĩnh Trị phía Nam, là sông Bao Ngược, chợ Mỹ Lợi, lộ Cây Dương,…Miêu tả thiên nhiên Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đã mở rộng tất cả các giác quan của mình để quan sát, cảm nhận và từ đó đưa người đọc quay về vùng nông thôn sông nước, ngắm nhìn đồng ruộng, con cò,…nơi thôn dã bình dị. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, người đọc như có một chuyến du ngoạn đầy hứng thú khi được về với miệt vườn sông nước thân thương, thấm đẫm dư vị ngọt ngào của bao điệu hò, câu hát mộc mạc, chân tình. Do cả cuộc đời gắn bó với vùng đất Nam bộ thế nên tình yêu với mảnh đất này cũng lớn dần theo năm tháng và càng mãnh liệt, nồng nàn hơn trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Qua 64 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thiên nhiên Nam Bộ hiện lên không chỉ có đường nét, hình ảnh, màu sắc mà còn có cái hữu tình riêng. Chính mảnh đất này là nơi vun đắp tình cảm trong tâm hồn của nhà văn. Bởi yêu quý, trân trọng mảnh đất Nam bộ này nên Hồ Biểu Chánh đã đau xót khi cuộc sống, con người Nam bộ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị ô nhiễm bởi những đổi thay của làn sóng Âu hoá mang đến. Liệu Nam bộ có còn là thỏi nam châm thu hút những bước chân không mỏi tìm về khung cảnh trời nước mênh mang, chất hào sảng phóng khoáng của người đồng bằng Nam bộ? Liệu có ai còn nhớ đến Nam bộ với những vùng miệt vườn trù phú đong đầy trái thơm, quả ngọt? Và khi những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình tưởng chừng bất biến ấy không còn tồn tại, hiện hữu nữa thì tình đời, tình người, những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc có còn vững bền, bảo tồn được nữa hay không? Thật vậy, đó là những trăn trở của một con người hoài cổ, mong muốn và khát khao được gìn giữ những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Một lần nữa có thể khẳng định rằng những trang viết về thiên nhiên là những trang đẹp nhất của Hồ Biểu Chánh. Qua đó, nhà 25
  • 26. văn đã làm nổi bật những nét quen thuộc nhất, đặc trưng nhất của thiên nhiên vùng sông nước Nam Bộ. 1.3.2 Đời sống văn hoá Nam Bộ Không phải ngẫu nhiên mà nhiều bạn đọc lại rất thích đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Không những độc giả cùng thời với ông mà những độc giả thời sau này vẫn thích. Sở dĩ có sự thành công như thế là do giọng điệu tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hoàn toàn thích hợp với tâm hồn người dân miền Nam. Đọc tiểu thuyết của ông, người ta thấy cả con người và xã hội miền Nam vào các thập niên 1920 – 1940. Như đã nói, trong Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh đã cho biết ngay từ lúc mới bắt đầu viết tiểu thuyết ông đã cố viết loại tả chân về phong tục. Thế nên khi khắc hoạ nên bức chân dung đời sống văn hoá của con người Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đặc biệt quan tâm đến những phong tục dần đổi mới ở miền Nam trong gia đình cũng như ngoài xã hội, từ thành thị đến nông thôn. Ông chú trọng đến các vấn đề nhức nhối của xã hội đi ngược lại với những chuẩn mực truyền thống của dân tộc để từ đó khuyên răn, dạy bảo con người phải biết trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hoá đó: vấn đề tiền dâm hậu thú, môn đăng hộ đối, tục “nôm”, đa thê, sinh con trai nối dõi, tranh giành gia tài,…Ông phơi bày những hiện trạng xã hội cốt để duy trì và bồi đắp nền luân lí đạo đức cổ truyền. Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh cũng không quên đề cập đến tư tưởng tam giáo : Nho, Phật, Lão giáo trong đời sống văn hoá của con người nơi đây. Với ông, dù là đạo nào thì ông luôn đề cao lối sống biết tôn trọng, gìn giữ những giá trị đạo đức của con người như: trung nghĩa, hiếu thuận, tiết hạnh, trọng nghĩa khinh tài,… Con người có thể theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ nhưng vẫn cần phải giữ cho được đạo đức truyền thống, tức đạo lí làm người của dân tộc. Đó là cơ sở, tiền đề để làm nổi bật luận đề đạo đức về con người xã hội mà Hồ Biểu Chánh muốn hướng đến người đọc. Thật vậy, qua các tác phẩm của mình, đời sống văn hoá Nam Bộ hiện lên sống động, chân thực, ngòi bút của Hồ Biểu Chánh hướng vào việc khai thác từng ngóc ngách sâu kín nhất trong suy nghĩ, hành động, nhận thức của con người nơi đây để từ đó ông cho thấy những sự đổi thay trong lối sống của họ nhưng quan trọng nhất vẫn là việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của một dân tộc. 26
  • 27. 1.3.3 Đời sống con người Nam Bộ Phản ánh hiện thực vốn là yếu tố mang tính đặc trưng của văn xuôi tự sự. Thông qua việc phản ánh hiện thực ấy, nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc một ý nghĩa, một thông điệp sâu sắc. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng là một sự phản ánh hiện thực, đó là hiện thực của đời sống con người Nam bộ. Cuộc sống sinh hoạt của con người Nam bộ được hiện lên trên nền của bức tranh thiên nhiên Nam bộ. Quan sát, miêu tả và phản ánh, Hồ Biểu Chánh đã dụng công, tinh tế khi phác hoạ một cách chi tiết, cụ thể, sinh động sự nghèo nàn của con người nơi đây sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới và trồng lúa nước. Cuộc sống nơi đây hiện ra cảnh sống lam lũ, cực nhọc của người dân nghèo và nổi bật là cuộc sống của tầng lớp thống trị, những kẻ tham lam, độc ác luôn tìm mọi cách để ức hiếp, bóc lột dân nghèo. Bên cạnh việc phản ánh những nét đẹp trong phong tục tập quán của vùng đất Nam bộ, Hồ Biểu Chánh còn rất tinh tế khi bắt đầu có những chuyển biến đáng kể trong việc quan sát những mối quan hệ của con người vùng đất này. Theo đó, ông thấy rằng, bên cạnh những gia đình vẫn giữ được những truyền thống đẹp đẽ thì vẫn còn một số mặt tiêu cực đang tồn tại và làm mất đi giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đi sâu khai thác triệt để những vấn đề đó, Hồ Biểu Chánh nêu lên những luân lí, quan niệm đạo đức, hướng người đọc đến những chuẩn mực đạo lí cao đẹp ngàn đời của dân tộc. Xuyên suốt các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có thể thấy, đề tài chính hay vấn đề mà nhà văn quan tâm nhất đó là xã hội, cuộc sống và con người Nam bộ, là đạo đức truyền thống và mối quan hệ gia đình. Cảm hứng xuyên suốt trong tác phẩm của ông là đạo lí và bảo vệ đạo lí. Thật không khó để nhận ra chủ trương của nhà văn Hồ Biểu Chánh trong việc duy trì, bồi đắp và phát huy những mặt tích cực trong nền luân lí cổ truyền của dân tộc cũng như tiếp nhận những mặt tiến bộ của lối sống tự do. Tóm lại, có thể thấy, trong các tác phẩm của mình, đạo lí truyền thống được Hồ Biểu Chánh phản ánh một mặt vừa tiếp nối truyền thống đạo đức của các nhà văn đi trước mà phải kể đến đó là Nguyễn Đình Chiểu với sự ảnh hưởng từ giọng văn cho đến tính cách con người đầy chất Nam bộ, mặt khác tiếp tục đặt nền móng cho tiểu thuyết Nam bộ đầu thế kỉ XX. Chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc và mang giá trị đạo đức cao, tiểu 27
  • 28. thuyết Hồ Biểu Chánh đã thật sự gần gũi, thân thuộc với đời sống con người Nam bộ. Đây là tiền đề để làm nên chữ tình sâu sắc trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Chữ tình ấy vừa là nét đẹp của văn chương Nam bộ, vừa là đạo lí truyền thống và lối sống của người dân Nam bộ, góp phần giữ mãi nét đẹp cổ kính nhưng bình dân của văn chương một vùng đất mới. Và Hồ Biểu Chánh trong suốt gần 50 năm cầm bút ông vẫn giữ một cảm hứng xuyên suốt là đạo lí truyền thống với những biến động của xã hội qua các giai đoạn lịch sử. 28
  • 29. CHƯƠNG II: CHỮ “TÌNH” THỂ HIỆN QUA PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH 2.1. Tình cảm gia đình Vào những năm đầu thế kỉ XX, với sự tấn công mạnh mẽ của lối sống phương Tây vào đời sống của nước ta cùng sức mạnh của đồng tiền lên ngôi đã làm đảo lộn những giá trị truyền thống của dân tộc. Vẫn tưởng tất cả sẽ bị mai một nhưng qua các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chúng ta vững tin hơn khi thấy rằng những giá trị, những nét đẹp truyền thống trong những mối quan hệ gia đình vẫn còn tồn tại và được gìn giữ ở xã hội Nam bộ. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề gia đình, qua các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh đã cho người đọc nhận thấy vai trò của gia đình, nơi hình thành , chứa đựng và hội tụ những tình cảm cao quý nhất của con người. Gia đình bao gồm các mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa cha mẹ - con cái, anh em, ông bà – cháu với những cung bậc tình cảm đa dạng, đa sắc thái. 2.1.1. Tình phụ tử Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói:”Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là các tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn” [29, 61]. Thật vậy, tư tưởng trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Đó là tư tưởng đã được đúc rút từ hiện thực cuộc sống, từ cuộc đời, số phận của những con người nhỏ bé trong xã hội, từ chính những trải nghiệm của nhà văn trong cuộc sống. Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những hình ảnh đẹp của cảnh sống hạnh phúc trong gia đình Nam bộ ở nông thôn lẫn thành thị. Còn có gì đẹp đẽ và cao quý hơn tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, ta bắt gặp hình ảnh những người cha hết lòng yêu thương, hy sinh vì con của mình và những đứa con luôn một lòng yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với cha. Tình cảm ấy vốn dĩ đã rất thiêng thiêng nhưng lại còn cao quý hơn khi nó xuất hiện ở nơi mà lối sống tư sản đang tấn công mạnh mẽ vào truyền thống gia đình Việt Nam. 29
  • 30. Nếu mẹ là người có công mang nặng đẻ đau, ẵm bồng, dạy dỗ cho con cái nên vóc nên người thì với đứa con, người cha lại có công sinh thành, nuôi dưỡng, là trụ cột vững chắc của gia đình. Thế nên, ngoài tình mẫu tử cao quý thì tình cha con cũng là một tình cảm thiêng liêng và đáng quý của con người.Trong gia đình truyền thống của người Việt, người cha có quyền tuyệt đối với con cái. Tuy không có sự quy định chặt chẽ của pháp luật nhưng theo đạo đức, luân lí của nước ta thì người cha trong gia đình đối với con cái phải làm tròn trách nhiệm, phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái trưởng thành và người làm con cũng phải giữ đạo hiếu, chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Qua tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, người đọc dễ dàng nhận thấy rằng, ngoài tình cảm mẫu tử thiêng liêng và gắn bó của con người thì tình phụ tử cũng sâu nặng, thiết tha không thua kém. Nếu chúng ta xúc động với hình ảnh những bà mẹ yêu thương con dịu dàng, sẵn sàng hy sinh tất cả cho con thì ta lại càng nể phục hơn với những người cha hết mực thương con và nhận chịu mọi đau khổ để con mình được hạnh phúc. Nhân vật Vương Thể Hùng trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa là một người cha như thế. Tình yêu thương con sâu nặng của Thể Hùng làm người đọc phải nghẹn ngào, xúc động. Là một người nghĩa sĩ, chàng phải đau đớn chấp nhận rời xa vợ con để thực hiện nghĩa vụ của một người làm trai. Có nỗi đau nào lớn hơn khi một người cha phải rời xa con mình khi nó vẫn còn thơ dại. Thế nên, việc Thể Hùng không làm tròn trách nhiệm của một người cha, không nuôi dưỡng dạy bảo cho con khôn lớn thành người đáng thương hơn là đáng trách. Bởi lẽ, sự lỗi đạo làm cha, việc không làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm của Thể Hùng là một việc bất đắc dĩ và chàng buộc phải hy sinh tình cảm gia đình vì nghĩa vụ đối với nước nhà. Nhưng không phải vì thế mà Thể Hùng lãng quên hay giũ bỏ trách nhiệm của người làm cha. Chàng vẫn luôn yêu thương Thể Phụng và tình cảm ấy làm người đọc phải xúc động rơi nước mắt bởi Thể Hùng phải chịu đựng việc yêu thương con trong thầm lặng với tất cả tấm lòng. Người cha đau đớn chấp nhận xa lìa con của mình một lần nữa khi chinh chiến đã chấm dứt vì muốn con có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc, có điều kiện học hành đỗ đạt và không phải lo lắng về cuộc sống sau này với gia tài rộng lớn của ông ngoại là Đàm Tự Chấn. Khi đứa con mà Thể Hùng yêu thương là Thể Phụng tìm đến gặp, chàng đã nghẹn ngào xúc động. Lời nói của Thể Hùng làm người 30
  • 31. đọc cảm động vì đó là những lời nói, lời tâm tình chân thành, xuất phát từ chính trái tim của người làm cha đối với con mình: “Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con. Cha thương con lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con nên biết rằng vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con mà cha phải giấu, không dám cho con biết, thuở nay đi thăm con hoài, chừng vài ba tháng cha đi thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường con đi học, rồi ngồi xuống ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng chi, hoặc làm điều chi cho con biết. Vậy con đừng có tưởng cha không thương con” [14, 150]. Thật vậy, dù không tận tay nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ con nên vóc nên người nhưng người cha đáng thương ấy luôn dõi theo từng bước đi của con. Và dù không thể đem lại cuộc sống êm ấm, hạnh phúc cho con nhưng có thể nói Thể Hùng đã gián tiếp giúp con có một cuộc sống đầy đủ về vật chất thông qua sự hy sinh tình phụ tử. Có người sẽ nói việc làm của Thể Hùng là sai nhưng cũng có người cho là đúng. Sự đánh giá đúng sai ấy tuỳ thuộc vào sự nhìn nhận của mỗi người. Nhưng có một điều mà không ai có thể phủ nhận đó chính là tình yêu con, sự hy sinh cao cả xuất phát từ tấm lòng của người cha đối với con: “Nghĩ vì thương con thì phải làm cho con nên, chớ không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn lòng mà ưng chịu, thà là cha vì con mà ảo não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì cha mà hạ tiện bần cùng” [14, 152]. Yêu con nên người cha chấp nhận chịu đựng mọi khổ đau, sầu não và chính tình yêu thương con lớn lao ấy là sợi dây gắn kết tình cảm cha con ruột thịt của Thể Hùng và Thể Phụng. Cũng chính tình yêu thương đó đã khơi dậy tình yêu thương với cha, xoá bỏ mọi nghi hoặc và những ấn tượng không tốt, sự xem thường, oán hận về cha mà từ lúc nhỏ đã bị ông ngoại và dì dạy bảo. Từ đó giúp người đọc tin rằng tình phụ tử vốn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý nên sẽ không có bất kì một thế lực nào có thể chia cắt được. Thế nên, ngay khi biết tin cha mình vẫn còn sống, Thể Phụng đã mang một khao khát, ước muốn được gặp cha. Dù xa cách mười mấy năm, không có sự dạy dỗ, chở che nhưng khi hiểu rõ tình cảm của cha dành cho mình thì Thể Phụng đã xúc động trước cha. Đứa con ấy thấy kính trọng và tự hào về cha mình, lòng yêu thương cha càng trở nên da diết, sâu sắc hơn: “Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận làm con của cha, thì con phải nuôi dưỡng cha, 31
  • 32. nếu con không làm như vậy, dầu con học thi đậu tới trạng nguyên, dầu con có giàu như Thạch Sùng đi nữa, con cũng không đáng làm người” [14, 149]. Để một lòng chăm sóc, hiếu thảo với cha, Thể Phụng đã phải chịu tội bất nghĩa với ông ngoại và chấp nhận từ bỏ cuộc sống giàu sang của mình: “Cha tưởng gia tài đó quý cho bằng cha hay sao. Con không màng đâu. Thử đem mười cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay không mà” [14, 152]. Tình phụ tử thiêng liêng ấy đã xoá tan mọi khoảng cách của sự chia xa trong mười mấy năm và những hiểu lầm trước đó để cho người đọc thấy rằng không có gì quý giá hơn tình cảm cha con, một thứ tình cảm chân thành và sâu sắc của con người. Hay trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng cũng có tình cảm cha con làm người đọc xúc động giữa Trần Văn Sửu và thằng Tý, con Quyên. Vợ của Trần Văn Sửu là Thị Lựu lén chồng để ngoại tình và trong một lần tức giận, Trần Văn Sửu đã sơ ý làm vợ mình ngã chết nên phải trốn đi. Dù biết có thể bị bắt hoặc nặng hơn là bị bỏ tù vì tội giết người nhưng trong lúc nguy cấp, Trần Văn Sửu vẫn chỉ nghĩ đến những đứa con mà không hề lo lắng cho bản thân: “Trời ơi! Tôi đánh vợ tôi chết rồi, bây giờ làm sao? Bị đày, chắc không khỏi bị đày chung thân. Mấy đứa con tôi, ai nuôi nó?” [18, 13]. Sợ rằng con mình còn quá nhỏ không hiểu chuyện sẽ trở nên oán hận mình nên người cha với tấm lòng yêu thương con vô bờ lại càng lo lắng và day dứt hơn. Qua những lời than vãn của Trần Văn Sửu, người đọc nhận ra được hình ảnh một người cha hết mực thương con: “Con tôi còn nhỏ quá, tội nghiệp lắm trời ôi! Bên nội không có ai hết, còn bên ngoại, thì có một mình ông ngoại, mà ông ngoại nó nghèo quá, lại già yếu rồi, làm sao có đủ cơm mà nuôi ba đứa cho nổi. Ý hị!... Khổ lắm!... Còn một nỗi không biết sắp con tôi nó có hiểu bụng tôi hay không. Sợ e chừng nó khôn lớn, chúng nó không hiểu chi hết, tưởng tôi hung dữ, làm điều chi không phải rồi còn đạp chết vợ nữa, chúng nó thương mẹ trở lại oán tôi, thì còn khổ cho tôi biết chừng nào” [18, 14]. Trốn chạy, bôn ba xứ người, chịu đựng cuộc sống vất vả, đau khổ suốt mười một năm chỉ để mong có một ngày được gặp lại mấy đứa con thơ dại và bộc bạch để chúng hiểu được nỗi lòng của cha: “Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày gặp được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp được con mà phải đi, thì đi làm sao được, trời đất ơi!” 32
  • 33. [18, 47]. Tình yêu đối với những đứa con, ước muốn và niềm hy vọng một ngày được đoàn tụ với con là niềm tin và động lực giúp Trần Văn Sửu vượt qua bao khó khăn, đau khổ và bao nỗi nhớ dày vò. Nhưng đau đớn thay những ước mơ, hy vọng ấy lại không thực hiện được vì người cha ấy thương con và không muốn con mình phải khó xử nên đã chấp nhận hy sinh tất cả để cả hai đứa được hạnh phúc. Mong muốn được gặp con, được sống gần gũi bù đắp lại những tháng ngày con thiếu vắng tình thương của một người cha nhưng Trần Văn Sửu lại một lần nữa đau đớn chọn cách ra đi, xót xa khi phải xa lìa con lần nữa: “Tôi phải chịu đau đớn cực khổ buồn rầu, con tôi mới nên được. Tôi vui lòng mà lãnh các sự đau đớn buồn rầu đó, miễn là con tôi được giàu có sung sướng thì thôi” [18, 47]. Biết tìm đâu một người cha như thế, người cha vừa đáng thương nhưng cũng đáng kính trọng biết bao. Trần Văn Sửu đã yêu thương con mình hết lòng bằng tình yêu tha thiết, sâu nặng và bằng cả những nỗi đau của sự hy sinh vì con. Miễn sao con được hạnh phúc, miễn sao con có một cuộc sống ấm êm thì cha sẵn sàng chịu mọi khổ đau, buồn rầu cho riêng mình. Xem hạnh phúc của con là hạnh phúc của chính mình, yêu thương con bằng cả tấm lòng nên người cha ấy đã được đền bù xứng đáng bằng lòng yêu thương, sự kính trọng và hiếu thảo của Tý và Quyên. Còn gì hạnh phúc và sung sướng hơn khi hay tin cha vẫn còn sống. Cả thằng Tý và con Quyên đã vui mừng còn hơn được người ta cho tiền cho bạc: “Đi riết, anh Hai. Em nghe nói em mừng quá. Cha về hồi nào? Làm sao anh gặp được? Ông ngoại hay rồi hay chưa?” [18, 51]. Những câu hỏi xuất phát từ tình yêu thương và lòng nhớ mong cha trong suốt mười một năm xa cách. Và hơn cả nhớ mong, cả Tý và Quyên đều mong muốn được sống cùng cha, ở cạnh cha dù cuộc sống có nghèo khổ: “Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chớ” [18, 49], “Tính sao cũng được miễn là con có thể gần cha thì thôi. Mà cha ở với Thổ, thì cực khổ tội nghiệp thân cha lắm” [18, 49]. Thật may mắn khi những đứa trẻ ấy hiểu chuyện, không hề oán trách cha về cái chết của mẹ mà còn nhận Trần Văn Sửu là cha mình và tìm đủ mọi cách để giữ cha ở bên cạnh mình. Đó là tình cảm cha con gây nên bao xúc động bởi lẽ nó xuất phát từ tình cảm chân thành, sâu sắc của con người. Điều đó đã minh chứng rằng người cha dù không mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày nhưng lại có ơn sinh thành, tạo nên hình hài, vóc dáng và nuôi dưỡng, dạy bảo con cái nên 33
  • 34. người. Tình yêu thương vô bờ bến và sẵn sàng hy sinh tất cả vì con của tình cha ấy chính là những giá trị cao đẹp tạo nên đạo đức, luân lí trong gia đình Việt Nam. Không những thế, Hồ Biểu Chánh còn xây dựng hình ảnh của những người cha mặc dù chỉ là cha nuôi nhưng lại yêu thương con mình bằng tất cả tình yêu chân thành của một người cha thật sự. Tiểu thuyết Con nhà nghèo đã để lại một dấu ấn khó phai mờ trong lòng người đọc về một người cha nuôi hết lòng tận tuỵ, tận tâm vì con của mình, đó chính là Hương sư Cu. Tình yêu thương ấy không phải được tính bằng công lao sinh thành hay dưỡng dục mà bằng tình thương của sự lo lắng, hy sinh hết lòng vì con mà không hề có sự phân biệt. Dù biết Tư Lựu đã thất tiết với cậu Hai Nghĩa nhưng ông vẫn không chê bai cô mà còn thương cả con của Tư Lựu như tình yêu với mẹ của nó. Hương sư Cu tuy là một anh nông dân ít học nhưng đối với con của Tư Lựu lại biết trước biết sau và làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người làm cha: “Con nào cũng là con, hễ mình kêu nó bằng con thì mình phải thương yêu, nuôi dưỡng nó hết lòng. Hễ nó gọi mình bằng cha thì mình phải ăn ở cho xứng phận làm cha” [21, 54]. Thương con và không hề có sự phân biệt đối xử giữa con ruột và con nuôi: “Thưa, con gì cũng vậy, hễ đặt con thì tự nhiên mình thương. Mà thằng Hai đây tôi thương nó không biết chừng hơn con ruột của tôi nữa, bởi vì cha nó không nhìn, tôi ra nhìn thế, nên tôi phải thương nó bằng hai” [21, 48]. Dù không phải là mối quan hệ ruột thịt nhưng Hương sư Cu lại xem đứa con chính là sinh mạng của mình: “Nếu thằng Hai có bề nào, thì tôi cũng chết, chớ tôi không sống được” [21, 52]. Dù không phải máu thịt của mình, dù hình hài ấy không do mình tạo ra nhưng qua lời nói đầy chân thành xuất phát từ trái tim của người làm cha đã giúp cho độc giả cảm nhận một cách sâu sắc tình cảm cha con mà Hương sư Cu đã dành cho đứa con mà mình yêu quý: “Nhà giàu thương con, nhà nghèo cũng biết thương con vậy chớ. Ai nỡ cắt thịt mà trao cho người khác được. Vợ chồng tôi nghèo thì nuôi con theo phận nghèo. Cái tình thương con là quý, chớ giàu nghèo nghĩa gì đâu” [21, 48]. Tình yêu con của Hương sư Cu thật cao cả, thiêng liêng, không chỉ xuất phát từ tình yêu với Tư Lựu mà còn vì đó là tình yêu thương con chân thật và trách nhiệm của một người cha đối với con mình. Người đọc đã thật sự xúc động khi chứng kiến được tình phụ tử sâu nặng này. Tuy bề ngoài nhìn thật khó hiểu nhưng tình cảm này phù hợp với luân lí gia 34
  • 35. đình và đáng được trân trọng. Đó là một tình yêu sâu nặng, mãnh liệt và thật chân thành được khơi nguồn từ tình phụ tử thiêng liêng của con người. Trời không phụ người có lòng và lại rất mực thương con như Hương sư Cu. Khi Kinh lý Hai biết được sự thật, cũng là tình yêu kính đối với Hương sư Cu như trước nhưng nay lại càng yêu thương và kính trọng hơn, đó là tấm lòng biết ơn của một đứa con dành cho cha mình: “Thưa cha, con biết được căn nguyên của con rồi thì con càng thương má, kính cha bằng mười hồi trước nữa. Người như cha má mà con không thương yêu kính trọng thì con có phải là loài người đâu. Chẳng nói tới công sanh thành của má, công dưỡng dục của cha làm chi, nội một sự cha má cản hôn nhơn của con đây thì cũng đủ cho con thương yêu kính trọng đời đời kiếp kiếp” [21, 90]. Thật vậy, khi nhìn lại những biến đổi của xã hội Việt Nam thời đó, chúng ta càng thấy trân trọng tình phụ tử thiêng liêng của những những nhân vật trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Đó là tình phụ tử mà làm cho những người tận mắt chứng kiến hoặc nghe thấy cũng đều phải xúc động, nghẹn ngào. Qua đó đã minh chứng một điều rằng, người cha không chỉ làm tròn trách nhiệm của mình mà còn yêu thương con với tình yêu chân thành, sâu sắc, không kém phần mãnh liệt như những người mẹ. Có đôi lúc âm thầm, lặng lẽ, kín đáo nhưng đến khi có thế lực nào đó có nguy cơ làm tan vỡ tình phụ tử thiêng thiêng thì những người cha ấy sẵn sàng bộc lộ, hy sinh tất cả để bảo vệ con của mình. Con là xương thịt, là giọt máu, là tất cả cuộc sống của cha và khi càng có nhiều thử thách, gian truân thì những tình cảm thiêng liêng của con người như tình phụ tử lại càng trở nên cao đẹp, ngời sáng hơn trong cuộc sống. 2.1.2. Tình mẫu tử “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt đời lòng mẹ mãi theo con Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” (Con cò – Chế Lan Viên) Ai lớn lên mà không có mẹ, không được mẹ yêu thương, chăm sóc. Niềm hạnh phúc và sung sướng của mỗi con người trên cuộc đời này là được gọi hai tiếng thân thương nhưng thiêng liêng, cao quý “Mẹ ơi”. Tình mẹ con tồn tại ở mỗi con người chúng 35
  • 36. ta, không phân biệt giai cấp hay giàu nghèo. Đâu phải người giàu sang mới biết yêu thương con mình, dành cho con những điều đầy đủ và tốt đẹp nhất. Có rất nhiều cách mà mẹ thể hiện tình cảm với con, dù là người giàu sang, có địa vị hay nghèo hèn, thấp cổ bé họng thì vẫn yêu thương con bằng nhiều cách khác nhau. Và khi nói đến tình cảm mẹ con, chúng ta thường nghĩ ngay đến thứ tình cảm cao quý, vốn có trong mối quan hệ ruột thịt. Nói về sự hy sinh của mẹ cha dành cho con cái, dân gian ta có câu “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồi côi má lót lá mà nằm”. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy được nhà văn thể hiện một cách rất sâu sắc, rất Nam bộ. Trong tiểu thuyết Cay đắng mùi đời được phóng tác từ tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot, bà Hội đồng Nhàn do sơ ý không đề phòng sự độc ác, toan tính, tham lam của người thân nên đã đánh mất con mình là Phan Thanh Nhã suốt mười lăm năm trời. Mất con là một nỗi đau quá lớn, một sự mất mát về tình cảm bởi lẽ bà yêu con bà, yêu hơn cả bạc tiền: “Chú nó ráng kiếm dùm con tôi, kẻo tội nghiệp tôi quá…Ai mà ăn ở bất nhơn thất đức lắm như vậy không biết…Cha chả! Ai có khuấy chơi xin trả con tôi lại cho tôi, muốn xin một hai ngàn gì tôi cũng cho hết” [7, 65]. Ai làm mẹ mà không thương con nhất là đối với bà Hội đồng Nhàn – người mẹ với tình yêu thương con thật sâu nặng, tha thiết, dám làm tất cả, hy sinh tất cả vì con của mình. Mất con nên phải xa con, bà luôn thương nhớ con mình day dứt “Bà Hội đồng nhớ con ăn ngủ không được ngày đêm cứ ngồi khoanh tay mà khóc hoài. Ông Hội đồng an ủi hết sức, tuy bề ngoài bà gượng làm khuây song trong lòng bà chẳng giây phút nào mà quên con được” [7, 65]. Nỗi nhớ mong, day dứt khôn nguôi ấy xuất phát từ chính trái tim nhạy cảm, đong đầy yêu thương của người làm mẹ, từ sợi dây tình cảm thiêng liêng của con người. Mẹ mang nặng đẻ đau con suốt chín tháng mười ngày, xa con một ngày đã dài đằng đẵng nhớ mong khôn nguôi. Còn đằng này, suốt mười lăm năm xa con, nỗi nhớ thương càng làm nỗi đau mất con nhân lên gấp trăm lần, lòng mẹ càng quặn đau. Bà Hội đồng trăm phương ngàn kế để tìm kiếm con không ngại gian nan, khó khăn. Dù có tốn kém bao nhiêu bạc tiền mẹ cũng không tiếc. Thế nên, khi gặp nhau sau bao năm xa cách, người mẹ vui mừng khôn xiết, nỗi vui ngẹn ngào khó tả “Phải rồi, phải rồi, đồ của con tôi đây mà, đây cái áo đầm nầy tôi may, đường kim mũi chỉ làm sao tôi quên được, đôi vớ nầy nữa đây, còn cái mền nầy 36
  • 37. của chồng mua dưới chợ Cần Thơ nữa đây; con ôi, con, mấy năm nay con xiêu lạc làm cho mẹ phiền não đêm ngày” [7, 69]. Người mẹ được gặp lại đứa con yêu thương của mình, bà nhìn con với cái nhìn dịu dàng, trìu mến, thân thương, chứa chan tình cảm. Nỗi nhớ thương con da diết trong mười lăm năm được gửi gắm qua những nụ hôn yêu thương, ngọt ngào. Thật vậy, tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng của con người mà không có một thế lực nào chia cắt được bởi đối với người mẹ đứa con là núm ruột dính liền. Tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp còn được thể hiện sâu sắc trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh thông qua nhân vật Lý Ánh Nguyệt. Nàng đại diện cho những người phụ nữ Nam bộ với sự hy sinh, tấm lòng thương con vô bờ bến nhưng lại chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có câu thơ “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” quả thật không sai chút nào. Ánh Nguyệt là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời chịu nhiều truân chuyên, bất hạnh. Cuộc sống nghèo khổ, cha mất sớm, một thân côi cút lại là người có bản chất thật thà nên Ánh Nguyệt đã bị Hải Yến – một thanh niên có học thức lừa gạt tình cảm làm cho thất tiết. Bị phụ tình, đau khổ và cảm thấy nhục nhã vì không giữ trọn tiết hạnh, phẩm giá nên nàng có ý định tự tử. Thế nhưng, Ánh Nguyệt không phải là người chỉ nghĩ chỉ biết cho riêng mình. Nàng còn là một người mẹ yêu con tha thiết. Dù đau khổ nhưng nàng phải cố sống dù cuộc sống vất vả, khổ cực, nhục nhã trăm bề, vì con nàng sẵn sàng chấp nhận tất cả: “Nàng mới nghĩ lại nếu mình chết thì phận mình đã yên rồi còn con mình bỏ lại cho ai nuôi? Con là máu thịt của mình, lỗi tại nơi ai chớ nó có tội gì mà mình bỏ nó” [14, 66]. Ánh Nguyệt thương con với tình yêu của người mẹ vô bờ bến. Miễn sao Thu Vân_con gái của nàng được hạnh phúc, sung sướng thì dẫu có đau đớn, tủi hổ thế nào nàng cũng cam tâm chấp nhận, hy sinh tất cả vì con: “Cháu đã nguyền với Trời Phật thà là bán cái thân của cháu mà nuôi con, chớ cháu không nỡ để cho con cực khổ nữa” [14, 99]. Tình mẹ con còn thể hiện qua ước muốn chuộc lại con, được sống gần bên con của Ánh Nguyệt. Nàng bôn ba, vất vả, phải làm rất nhiều việc đến nỗi rơi vào hoàn cảnh tủi nhục bị người đời trêu ghẹo, khinh khi xem là phường con gái buôn hương bán phấn. Yêu thương và nhớ con khôn xiết nàng đã gạt bỏ cả lòng tự trọng, 37