SlideShare a Scribd company logo
1 of 157
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Lành
NÉT ĐẸP NHÂN VĂN
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Lành
NÉT ĐẸP NHÂN VĂN
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN CÔNG KHANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du” là công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Phan Công Khanh. Những kết quả nêu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 1 năm 2013
Học viên
Nguyễn Thị Lành
LỜI CẢM ƠN
Với sự làm việc nghiêm túc của bản thân và sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình
của thầy cô, gia đình, bạn bè, luận văn này đã được hoàn thành.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Phan Công Khanh, người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, những
người đã chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu; xin chân thành cảm
ơn phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng
như trong quá trình thực hiện luận văn.
Người viết đã nỗ lực hết mình để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................10
1.1. Nguyễn Du....................................................................................................10
1.1.1. Thời đại....................................................................................................10
1.1.2. Gia thế và cuộc đời ..................................................................................11
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du.......................................................................14
1.2.1. Thanh Hiên thi tập ...................................................................................14
1.2.2. Nam trung tạp ngâm ................................................................................15
1.2.3. Bắc hành tạp lục.......................................................................................15
1.3. Nét đẹp nhân văn ..........................................................................................16
1.3.1. Thuật ngữ “nhân văn”..............................................................................16
1.3.2. Cơ sở xã hội của chủ nghĩa nhân văn trong văn học ...............................18
1.4. Nét đẹp nhân văn qua các thời kì văn học trung đại Việt Nam....................23
1.4.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV ..................................23
1.4.2. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII ...................27
1.4.3. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX..................33
Chương 2 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................42
2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân ....................................42
2.1.1. Con người của hùng tâm tráng chí...........................................................43
2.1.2. Con người của đời thường dung dị..........................................................48
2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người.............................................56
2.2.1. Cảm xúc đau đớn và buồn thương trước số phận những con người cần
lao.......................................................................................................................56
2.2.2. Bênh vực và xót thương người phụ nữ....................................................66
2.2.3. Niềm trắc ẩn đối với những nhân vật lịch sử Trung Quốc ......................74
2.2.3.1. Đồng cảm và kính trọng những bậc hiền tài, nhân nghĩa .................76
2.2.3.2. Căm ghét và lên án những kẻ gian ác ...............................................84
2.3. Những cảm nhận về nhân sinh trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ...................94
2.3.1. Cảm nhận về không gian .........................................................................94
2.3.1.1. Không gian mờ mịt, gió bụi..............................................................95
2.3.1.2. Không gian lạnh lẽo, ảm đạm ...........................................................99
2.3.1.3. Không gian tù túng, ngột ngạt.........................................................100
2.3.2. Cảm nhận về thời gian...........................................................................103
2.3.2.1. Thời gian hoài niệm ........................................................................103
2.3.2.2. Thời gian đời người ........................................................................108
2.3.2.3. Thời gian tâm trạng.........................................................................110
Chương 3 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT........................................................113
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................................................113
3.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ ....................................................................114
3.1.1.1. Từ biểu cảm.....................................................................................114
3.1.1.2. Từ tự xưng.......................................................................................115
3.1.2. Nghệ thuật sử dụng câu .........................................................................119
3.1.2.1. Câu nghi vấn ...................................................................................119
3.1.2.2. Câu trần thuật..................................................................................121
3.1.2.3. Câu cảm thán...................................................................................124
3.2. Những biểu tượng nghệ thuật.....................................................................125
3.3. Giọng điệu nghệ thuật.................................................................................128
3.3.1. Giọng tiếc nuối, thương cảm, buồn đau.................................................129
3.3.2. Giọng phê phán, căm phẫn, bất bình .....................................................132
3.4. Bút pháp nghệ thuật....................................................................................136
3.4.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình ......................................................................136
3.4.2. Bút pháp tương phản..............................................................................140
KẾT LUẬN............................................................................................................145
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................148
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta từng biết một Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều bất hủ sống mãi
trong lòng dân tộc. Chỉ với Truyện Kiều thôi cũng đủ làm tên tuổi Nguyễn Du sáng
tựa ánh sao trên thi đàn văn học Việt Nam và thế giới. Nhưng đại thi hào của chúng
ta còn là tác giả của Văn chiêu hồn và ba tập thơ chữ Hán trác tuyệt. Và với ba tập
thơ chữ Hán Nguyễn Du để lại cho đời, chúng ta càng khâm phục và tự hào hơn nữa
về Nguyễn Du - một nhà nhân đạo lớn qua hàng thế kỉ và một danh nhân văn hóa
thế giới. Nếu như qua Truyện Kiều, Nguyễn Du gián tiếp thể hiện thái độ của mình
thì thế giới thơ chữ Hán là tiếng nói trực tiếp của tác giả. Nguyễn Du không che
giấu bất cứ điều gì từ tư tưởng, tình cảm đến những khoảnh khắc riêng tư… Vì vậy,
nếu muốn hiểu sâu hơn về cuộc đời và con người Nguyễn Du thì chúng ta cần phải
tìm hiểu không chỉ có Truyện Kiều và Văn chiêu hồn mà còn có cả ba tập thơ chữ
Hán của ông.
Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán còn cho ta biết thêm nhiều về tài năng của
Nguyễn Du. Ông không chỉ hay Nôm mà còn giỏi Hán. Bùi Mạnh Nhị khẳng định:
“Nói về Nguyễn Du mà chỉ nhắc đến Truyện Kiều và một số tác phẩm thơ Nôm
khác thì mới chỉ nói được một nửa THIÊN TÀI MẸ ấy. Còn một nửa khác của đại
thi hào Nguyễn Du là những áng thơ chữ Hán “nghìn thu tuyệt diệu” [58; 5]. Đúng
như lời nhận định trên, qua thơ chữ Hán, ta hiểu thêm nhiều về tài năng và con
người Nguyễn Du. Ba tập thơ từ ngôn từ cho tới giọng điệu và câu, tất cả đều thấm
đượm chất nhân văn. Nguyễn Du vĩ đại vì ông yêu thương con người. Hơn nữa,
Nguyễn Du luôn tôn vinh con người, những danh nhân văn hóa của quá khứ, những
con người bất hạnh và những người phụ nữ… Truyện Kiều phần lớn là nhân vật hư
cấu, nhân vật văn học còn trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du viết về những con người
và những mảnh đời cụ thể. Thơ chữ Hán của ông còn có một ý nghĩa khái quát, đó
là lời tự thuật về một cuộc đời, một con người và một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại trước
xã hội đầy màu sắc bi kịch từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Ba tập thơ chữ
Hán góp phần bổ sung thêm cho Truyện Kiều bức chân dung hoàn chỉnh của nhà
2
thơ.
Truyện Kiều bàng bạc, thấm đẫm tình yêu thương trên từng câu chữ. Thơ chữ
Hán cũng vậy, có phần nổi trội hơn vì rằng lòng trắc ẩn của Nguyễn Du đã trải rộng
ra cho tất cả mọi kiếp phù sinh. Thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán rất phong phú,
mỗi nhân vật dù là người anh hùng, người dân lao động hay người phụ nữ tài sắc thì
ở họ đều có những nét tính cách rất riêng và có số phận riêng. Nguyễn Du viết về
họ, khắc họa bức chân dung về cuộc đời họ, qua đó làm nổi bật những nét đẹp ở họ.
Nguyễn Du đã tạo nên những tượng đài nghệ thuật để vinh danh con người. Tìm
hiểu thơ chữ Hán giúp ta thấy được những tư tưởng nhân văn tiến bộ trong sáng tác
của Nguyễn Du. Đối với mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên đã có
những nhận xét rất hay và rất xác đáng: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng
văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới
lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng
độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [20; 7]. Thật vậy, thế giới thơ
chữ Hán của Nguyễn Du không lung linh nhiều màu sắc phô trương, không ồn ào
sôi nổi mà đó là một thế giới nội tâm của tác giả với những cung bậc cảm xúc rất
người, rất nhân văn. Đó cũng chính là quá trình từ việc khắc khoải đi tìm mình, con
người trong thơ chữ Hán đã đến với bao trắc ẩn dành cho mọi kiếp người và nhận ra
nhiều vẻ đẹp ở họ. Đi qua bao dâu bể cuộc đời, với một tâm hồn luôn dạt dào cảm
xúc, luôn thấm đẫm tình người, Nguyễn Du đã hiểu và cảm thông với tất thảy.
Vì vậy, “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du” là một đề tài mà
người viết trăn trở, muốn được góp một phần nào đó dù nhỏ bé, dù ít ỏi để có thể
tiếp cận và nghiên cứu thêm về một khía cạnh trong vô vàn những khía cạnh đang
được giới nghiên cứu quan tâm về thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ chữ Hán Nguyễn Du trước đây ít được giới nghiên cứu quan tâm nên những
bài viết về thơ chữ Hán không nhiều. Tuy nhiên, điều đáng mừng là gần đây đã có
không ít những công trình nghiên cứu công phu về mảng thơ này.
3
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy
Anh với bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (Nhà
xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943). Lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du
được khẳng định về hình thức cũng như về nội dung. Có thể nói đây là những ý kiến
có giá trị gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở giai đoạn sau.
Năm 1960, nhà phê bình Hoài Thanh với bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một
số bài thơ chữ Hán trên tạp chí Văn nghệ tháng 3, đã khái quát về lịch sử, về thời
đại sóng gió mà Nguyễn Du đã sống. Tác giả nói về thái độ của Nguyễn Du đối với
các triều đại cũng như niềm thương cảm của ông đối với những kiếp người bị đày
đọa: “Thái độ Nguyễn Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ
Nguyễn Du do đó có giá trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [9; 41].
Đào Xuân Quý với bài Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán trên báo Văn
nghệ tháng 11 năm 1965, đóng góp những tiếp cận ban đầu về thái độ, về diễn biến
tâm trạng của Nguyễn Du qua ba tập thơ. Ông cũng nói đến tình cảm, lòng nhân đạo
mà nhà thơ dành cho mọi tầng lớp nhân dân lao động cũng như tỏ rõ một mối cảm
tình nồng hậu đối với những người có tài, có đức mà bị hãm hại như Hàn Tín, Nhạc
Phi, Khuất Nguyên… Ông nói đến tình hình lịch sử Trung Quốc qua một số nhân
vật cụ thể trong thơ và trong tương quan so sánh với tình hình lịch sử Việt Nam thời
bấy giờ để khẳng định: “Nguyễn Du không phải chỉ phản ánh cảnh đời cơ cực của
nhân dân, không phải chỉ tỏ lòng thương xót, mà còn hàm ý phê phán, mỉa mai bọn
vua quan triều đình phong kiến nữa” [9; 117].
Cùng quan điểm với Hoài Thanh, năm 1966, Xuân Diệu viết Con người Nguyễn
Du trong thơ chữ Hán, trình bày khái quát hoàn cảnh xã hội Nguyễn Du sống lúc
bấy giờ để thấy rằng: “Thơ Nguyễn Du làm ở thời kì nhà Lê, thơ làm thời kì nhà
Nguyễn, thơ trong khi đi sứ Trung Quốc: cái thời đại của Nguyễn Du đúng là tê đi
và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui” [9; 44]. Phân tích sự cảm thông
lẫn nhau giữa những bậc tài tử trong xã hội xưa, giữa những bậc tài tình của Việt
Nam và Trung Quốc, Xuân Diệu cho rằng: “Nguyễn Du là người mang những vấn
đề của ngàn năm, của triệu người, nên cái đau khổ của ông là một đau khổ lớn, có
4
tính cách đại diện cho nhân loại” [9; 48]. Qua việc phác họa những nét đặc sắc về ý
nghĩa của một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du để thấy được tấm lòng
nhân đạo của ông dành cho mọi kiếp người, nhất là những người lao động và những
trang tài tử, Xuân Diệu khẳng định: “Nguyễn Du buộc tội cái xã hội kinh khủng kia.
Không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan, thì không thể có cái hơi văn
bênh vực sự sống như người mẹ bảo vệ đứa con rứt ruột!” [9; 54-55].
Cùng năm 1966, Nguyễn Huệ Chi có bài viết Nguyễn Du và thế giới nhân vật của
ông trong thơ chữ Hán trên tạp chí Văn học tháng 11, trình bày hai phần chính,
phần thứ nhất nói về Nguyễn Du cũng như phân tích hoàn cảnh lịch sử đã tác động
đến thái độ, tâm trạng của Nguyễn Du lúc bấy giờ, qua đó khẳng định Nguyễn Du
không phải là con người hành động mà là con người tư tưởng. Phần thứ hai, khái
quát về những nhân vật trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhân vật chính diện và
cả những nhân vật phản diện. Lồng ghép vào đó, tác giả muốn lý giải về thế giới
quan đã ảnh hưởng đến thái độ, cách sống và cách nghĩ của Nguyễn Du đối với
cuộc đời và với thơ. Bài viết này đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu
thơ chữ Hán Nguyễn Du, đó là tìm kiếm chân dung của chính tác giả.
Hướng đi này được Vũ Đình Liên tiếp tục khai thác trong chuyên mục Nguyễn
Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến (Tìm hiểu Nguyễn Du qua thơ
chữ Hán) trên tạp chí Văn học số 2 năm 1971. Căn cứ vào một số bài thơ và một vài
sự kiện trong cuộc đời của Nguyễn Du, Vũ Đình Liên nêu lên ý kiến riêng về thái
độ của Nguyễn Du đối với các triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Tác giả đã tìm hiểu về
nhân sinh quan, về tâm hồn của Nguyễn Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội
phong kiến nhưng lại rất gắn bó với số phận đau khổ của con người bị chà đạp.
Từ năm 1975 đến nay, sau khi đất nước thống nhất, các tập thơ của Nguyễn Du
tiếp tục thu hút các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Năm 1980, Phan Hữu Nghệ có bài viết Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn
Du trên tạp chí Văn học số 6, trình bày thực tiễn Trung Hoa lúc bấy giờ và tư tưởng
Khổng - Mạnh dưới cái nhìn của Nguyễn Du. Nêu ra những bức tranh tương phản
giữa một bên là những tư tưởng cao đạo của lễ giáo, đạo đức phong kiến với một
5
bên là hiện thực khốc liệt, nhân dân lao động lầm than cơ cực muôn phần để qua đó
khẳng định: “Thái độ phê phán chế độ phong kiến Trung Quốc ở Nguyễn Du là
điều tất nhiên và hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở thực tiễn của nó, phản ánh bước
phát triển hợp lý và lôgic của tư tưởng nhân đạo ở Nguyễn Du” [30; 56].
Đến năm 1988, với bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán được in trên Kiến thức
ngày nay số 30, Lê Đình Kỵ nói nhiều đến hoàn cảnh lịch sử ảnh hưởng đến chí
hướng của Nguyễn Du cũng như những trăn trở, băn khoăn của Nguyễn Du trước
những ngả đường lịch sử. Tác giả đã tìm hiểu về thái độ của Nguyễn Du đối với các
triều đại, đối với quan trường, với nhân dân, với con người và cuộc đời, và đưa ra
nhận xét: “Cái phần trong sáng và đáng trân trọng nhất trong thơ chữ Hán xét đến
cùng là những yêu ghét của nhà thơ” [17; 34]. Nguyễn Du yêu những con người
hiền tài, những người dân cơ cực, những người phụ nữ tài sắc bất hạnh và ghét
những kẻ ác ôn, sống trên máu và nước mắt của người khác.
Giá trị to lớn của thơ chữ Hán Nguyễn Du, một lần nữa được Mai Quốc Liên
khẳng định trong lời mở đầu trong cuốn Nguyễn Du toàn tập (Nhà xuất bản Văn
học và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 1996). Tác giả đã khái quát những đánh giá
của Nguyễn Du về nền văn hóa Trung Hoa thông qua việc đánh giá các danh nhân,
vấn đề văn chương và số mệnh, vấn đề cô trung, tiết nghĩa, những đối nghịch, làm
nên tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật của thơ…
Hướng nghiên cứu này đã được Lê Thu Yến phát triển trong Đặc điểm nghệ thuật
thơ chữ Hán Nguyễn Du vào đầu năm 1999. Tác giả đã khai thác ba đặc điểm nghệ
thuật của thơ chữ Hán: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật và
không gian nghệ thuật. Đó là những nét lớn tập trung trong cái nhìn nghệ thuật của
Nguyễn Du qua toàn bộ thơ chữ Hán. Như vậy, từ chuyên luận này, chúng ta có một
cái nhìn khá toàn diện về thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Luận văn thạc sĩ của Trịnh Thị Ngọc Thúy Những nhân tố phục hưng trong sáng
tác của Nguyễn Du năm 2001 được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, nói đến những cơ sở lý luận, nhân tố phục hưng cũng như những giá
6
trị nhân văn trong sáng tác của Nguyễn Du. Tác giả nghiêng về nghiên cứu chủ
nghĩa nhân văn trong truyện Kiều.
Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Bích Vân Hình tượng nghệ thuật về con người
trong tập Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du năm 2003 được bảo vệ tại trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung xoay quanh vấn đề chính: hình
tượng nghệ thuật về con người. Con người yêu thương, con người đời thường, con
người vũ trụ là ba khía cạnh của hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc
hành tạp lục.
Năm 2005, Luận án tiến sĩ của Hoàng Trọng Quyền Nguyễn Du và Đỗ Phủ -
những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật được bảo vệ tại trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng nhân văn trong thơ
Nguyễn Du và Đỗ Phủ và khẳng định rằng tư tưởng nhân văn là vấn đề cốt lõi, cơ
bản nhất trong tư tưởng nghệ thuật của cả hai nhà thơ.
Cũng nghiên cứu về tư tưởng nhân văn, luận văn của Nguyễn Thị Huyền
Thương Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, trình bày những biểu hiện của chủ nghĩa nhân
văn trong thơ của ba tác gia lớn.
Năm 2011, Lê Thu Yến tiếp tục nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du với
chuyên luận Nguyễn Du và những nhân vật lịch sử Trung Quốc được in trên Những
lằn ranh văn học (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) làm rõ
hơn những luận bàn của Nguyễn Du. Qua đó, tác giả nhận định: “Nguyễn đã tổng
kết, đánh giá hàng loạt những vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gương
tiêu biểu: cùng khổ, tài hoa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác… được đọc trong sách, tận
tường hơn khi đến nơi, cảm được khung cảnh, nhận rõ sự việc…” [32; 505].
Ít nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Các tác giả xoay quanh những vấn đề tìm hiểu
những tâm sự, tâm tình của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán gắn liền với một giai đoạn
lịch sử đầy biến động, qua đó cho ta thấy được nhân sinh quan cũng như tấm lòng
7
thương yêu chân thành và niềm cảm thông của Nguyễn Du đối với tất cả mọi kiếp
người trong xã hội.
Do tính chất, mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nêu trên chưa đặt ra
cụ thể về vấn đề nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tuy nhiên, tất cả
các bài viết trên chính là tiền đề và cơ sở giúp người viết thực hiện tốt công trình
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu khái quát về thời đại, cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Du; từ đó có thể có được cái nhìn thấu đáo, toàn diện
hơn về con người nhà thơ, về những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng
đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và nỗi khắc khoải đi tìm mình, niềm trắc ẩn của
Nguyễn Du để làm tiền đề cho việc nghiên cứu “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du”.
Thứ hai, luận văn tìm hiểu nét đẹp nhân văn trong thơ, qua đó phần nào hiểu
những tâm tư, suy nghĩ của nhà thơ về thế sự và kiếp người thông qua ba tập thơ
chữ Hán Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Qua những
nỗi niềm riêng cũng như cách Nguyễn Du đánh giá về cuộc đời, về con người, ta
hiểu thêm những khía cạnh của nét đẹp nhân văn trong thơ Nguyễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng khảo sát
Với đề tài đã chọn, đối tượng nghiên cứu của luận văn là nét đẹp nhân văn,
những khía cạnh biểu hiện và hình thức biểu hiện của nó qua thơ chữ Hán Nguyễn
Du.
Hướng nghiên cứu của đề tài là từ việc tìm hiểu thời đại, bối cảnh lịch sử xã hội
có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm của Nguyễn Du đến những biểu hiện
cụ thể của con người nhân văn Nguyễn Du và nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán
của ông.
8
* Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du
với tư liệu từ 250 bài thơ trong ba tập thơ chữ Hán là Thanh Hiên thi tập, Nam
trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Do còn nhiều ý kiến tranh luận về văn bản thơ
chữ Hán Nguyễn Du nên để thuận lợi cho việc khảo sát, người viết tạm thời chỉ dựa
vào những bài thơ được phổ biến ở tập 1 (phần thơ chữ Hán) trong bộ Nguyễn Du
toàn tập do Mai Quốc Liên chủ biên; Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc và Lê
Thu Yến phiên âm, dịch nghĩa và chú thích. Ngoài tư liệu trên, người viết còn sử
dụng những tư liệu khác như Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và một số tác phẩm của
các tác giả khác trong văn học trung đại Việt Nam và văn học Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu vào thời
đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm và đề tài
nghiên cứu.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Người viết sẽ tìm hiểu thêm về thơ của các nhà
thơ trung đại có những nét gần gũi với Nguyễn Du để làm rõ hơn nét đẹp nhân văn
trong thơ chữ Hán của ông trong hệ thống của tiến trình phát triển văn học trung đại
lúc bấy giờ. Trên cơ sở đó, luận văn cố gắng lí giải thế giới quan, nhân sinh quan
cũng như những tiền đề, cơ sở di dưỡng niềm trắc ẩn của Nguyễn Du trong một giai
đoạn đầy phức tạp và biến động của lịch sử dân tộc.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Là phương pháp giúp người viết vừa khai
thác vấn đề ở những khía cạnh chi tiết để nắm được bản chất vấn đề, vừa tổng hợp
lại nhằm có những kết luận khái quát về vấn đề.
6. Đóng góp của đề tài
Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được đưa vào giảng dạy ở
nhà trường phổ thông. Đây là lĩnh vực còn mới mẻ, khó khăn đối với không ít giáo
viên và học sinh. Vì thế, đây có thể là tài liệu tham khảo thêm cho giáo viên khi
giảng dạy về tác gia Nguyễn Du, nhưng trước hết nó phục vụ cho công việc, giảng
9
dạy của người viết. Luận văn cũng góp phần nghiên cứu một khía cạnh của thiên tài
Nguyễn Du cũng như góp phần hoàn chỉnh bức chân dung của đại thi hào, bức chân
dung của một con người nhân văn với ba tập thơ chữ Hán cũng thấm đượm tinh
thần nhân văn.
7. Cấu trúc luận văn
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Du
1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.3. Khái niệm nét đẹp nhân văn
Chương II. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân
2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người
2.3. Những cảm nhận về nhân sinh
Chương III. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
3.2. Biểu tượng nghệ thuật
3.3. Giọng điệu nghệ thuật
3.4. Bút pháp nghệ thuật
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Du
1.1.1. Thời đại
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại vô cùng rối ren của nửa cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì chế độ phong kiến bộc lộ rõ nhất những
ung nhọt và thối nát của nó. Bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Lê mạt -
Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động. Cuộc đối đầu giữa hai dòng họ, họ Trịnh ở
Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai thế kỉ (từ năm 1570 đến
1786). Đất nước rơi vào cảnh Nam Bắc chia cắt hết sức lầm than, đời sống của
người dân muôn vàn cực khổ, điêu đứng.
Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn năm 1771.
Phong trào này cùng một lúc đã đánh tan hai tập đoàn phong kiến phản động trong
nước và hai cuộc xâm lược của ngoại bang là Xiêm và Mãn Thanh, góp phần không
nhỏ trong việc thống nhất đất nước. Sau khi lên ngôi, Quang Trung ban hành nhiều
chính sách tiến bộ, ích nước lợi dân. Nhưng làm vua được vài năm, Quang Trung
mất, các thế lực phản động nổi lên, đất nước lại rơi vào cảnh điêu linh. Nguyễn Ánh
lên ngôi năm 1802, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập.
Sự thay đổi chóng vánh ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến Nguyễn Du và gia đình
của ông. Ông chưa hết xót xa đau đớn cho tình cảnh tan tác của tập đoàn Lê - Trịnh,
lại một lần nữa chứng kiến sự sụp đổ trong nháy mắt của triều đại Tây Sơn. Vận
mệnh rỡ ràng, ngắn ngủi của triều đại ấy kết thúc thấp thoáng phía sau là công cuộc
khôi phục của triều đình nhà Nguyễn.
Là chứng nhân chứng kiến mọi biến cố đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối
thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du sống trong một trạng thái bàng hoàng,
hẫng hụt về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được một lẽ sống, một chỗ
11
đứng nào vững vàng, ổn định, một con đường nào để giải thoát cho bản thân. Sự bế
tắc đó cũng chính là bi kịch của cuộc đời Nguyễn Du. Thời đại đầy rẫy biến động,
đầy rẫy đau thương ấy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời và những trải nghiệm, suy
nghĩ của Nguyễn Du. Thực trạng này cũng giúp chúng ta phần nào lý giải được
những mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du, đồng thời hiểu được vì sao trong
thơ, Tố Như lại đau đời, thương người và day dứt trước thân phận con người đến
thế.
1.1.2. Gia thế và cuộc đời
Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan.
Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ
là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có
câu ca dao về dòng họ này:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”
Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn
chương. Sống trong một môi trường giàu truyền thống văn học như thế, năng khiếu
của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở từ rất sớm.
Lúc còn bé, Nguyễn Du được sống trong cảnh giàu sang, hạnh phúc nhưng tuổi
thơ tươi đẹp của ông không kéo dài được bao lâu. Năm Nguyễn Du tròn mười tuổi
đã có hai biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh cùng mẹ với Nguyễn Du mắc bệnh
mất ở kinh thành giữa tuổi mười tám và Nguyễn Nghiễm, cha của Nguyễn Du cũng
qua đời. Khi Nguyễn Du lên 13 tuổi, mẹ ông cũng mất. Vậy là, Nguyễn Du sớm mồ
côi cả cha lẫn mẹ, không biết nương tựa vào đâu trong khi các anh em cùng mẹ với
Nguyễn Du còn quá nhỏ, do đó Nguyễn Du phải ở với người anh khác mẹ là
Nguyễn Khản. Nguyễn Khản hơn Nguyễn Du 31 tuổi, sớm đỗ đạt, làm quan to
trong triều, lại là một con người tài hoa rất mực, đã có ảnh hưởng rất lớn đến
Nguyễn Du sau này. Cảnh sống hào hoa của Nguyễn Khản được Phạm Đình Hổ
viết: “Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cứ
cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang quan Tư
12
đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn cứ sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm
thơ Nôm”. Bọn con em họ quý thích đều bắt chước chơi bời hầu như thành thói
quen” [12; 246]. Sống trong hoàn cảnh như vậy nên từ rất sớm, Nguyễn Du đã di
dưỡng tấm lòng trắc ẩn và cảm thông sâu sắc đối với phụ nữ nói chung và ca kĩ nói
riêng. Họ phải đem tài sắc và giọng hát của mình để mua vui cho kẻ giàu sang, mua
vui cho cuộc đời. Sau này, Nguyễn Du có dịp chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng
bất công ngang trái của những kiếp người tài hoa bạc mệnh và ông luôn đứng về
phía họ để lên tiếng bênh vực và che chở.
Nguyễn Du sống với anh cũng chẳng bao lâu. Năm nhà thơ 18 tuổi, vừa đỗ Tam
trường, gia đình của Nguyễn Khản gặp biến cố. Kiêu binh nổi loạn, Nguyễn Khản
cải trang chạy lên Sơn Tây, sau đó thì về quê ở Hà Tĩnh. Gia đình Nguyễn Du từ
đây mỗi người mỗi ngã.
Trước kia, một ông quan họ Hà, làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ
chức Chánh thủ hiệu hiệu quân hùng hậu ở Thái Nguyên, không có con trai, xin
Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi họ Hà mất, Nguyễn Du được tập ấm chức ấy.
Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc phá tan 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu
Thống bỏ nước chạy theo đám tàn quân của giặc. Lúc này các anh em cùng mẹ với
Nguyễn Du là Nguyễn Đề và Nguyễn Ức chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không
kịp. Nguyễn Du từ giã Nguyễn Đề và Nguyễn Ức để trở về quê vợ ở huyện Quỳnh
Đôi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Khi
người vợ họ Đoàn mất, ông về quê Hà Tĩnh làm “người đi săn ở núi Hồng” (Hồng
Sơn liệp hộ), “người câu cá ở biển Nam” (Nam Hải điếu đồ).
Năm 1796, Nguyễn Du có ý định vào Nam giúp Nguyễn Ánh nhưng bị trấn
tướng của Tây Sơn ở Nghệ An là Nguyễn Thận bắt giam. Sau vì Nguyễn Thận nể
anh ruột của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ làm quan cho Tây Sơn cũng là bạn của
mình, lại mến tài của Nguyễn Du nên tha. Từ đó Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền
trong một thời gian dài. Đây là những năm Nguyễn Du ở “dưới chân núi Hồng”.
Chiến tranh loạn lạc xảy ra, ông tận mắt chứng kiến cảnh thay đổi sơn hà, gia
đình li tán, anh em lưu lạc mỗi người một nơi. Cuộc đời ông như ngọn cỏ bồng đứt
13
gốc lăn lóc bên trời, trôi giạt từ đầu sông đến cuối bể, cơm không đủ ăn, ốm không
thuốc uống, từng có lúc đau khổ gần như tuyệt vọng. Nhưng cũng chính những
bước đường thương đau ấy đã giúp ông thực sự có dịp hiểu biết và sống gần gũi với
quần chúng.
Năm 1802, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Tháng 8 năm ấy, Nguyễn Du được
bổ nhiệm làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Từ đó, ông
được giữ nhiều chức vụ khác nhau trong triều. Năm 1809, ông được bổ làm Cai bạ
ở Quảng Bình và ở chức này bốn năm liền. Nguyễn Du làm quan không nghĩ đến
danh lợi, lúc nào cũng chăm lo đến đời sống của nhân dân. Gia phả chép: “Khi làm
quan chức cai bạ dinh Quảng Bình, phàm những việc công trong hạt như lính
tráng, dân sự kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc
thương lượng với các quan Lưu thủ, Ký lục để thi hành. Ông giữ chức Cai bạ bốn
năm, chính sự giản dị, không cầu tiếng tăm, nên được sĩ phu và nhân dân yêu mến”
[48; 18].
Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang
Trung Quốc. Năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1819, ông được
cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam. Ông dâng biểu cố từ, được vua chuẩn y.
Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi, định cử ông làm chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa
nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm Đinh
Thìn.
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn từ năm 1802 cho đến lúc
mất 1820, tính đúng là 19 năm. Trừ những thời gian xin về tạm nghỉ ở quê nhà có
thể nói là không gián đoạn. Ông thăng chức khá nhanh và có lúc giữ nhiều chức vụ
quan trọng. Gia phả chép: “… dẫu làm đến chức Á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh
nhã đơn giản như một người học trò nghèo” [48]. Quả thật điều đó làm không ít
người yêu quý và cảm thấy gần gũi ông.
Khi làm quan dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du ít nói năng đến nỗi có lần ông bị
vua quở rằng: “Nhà nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người
Bắc, người Nam. Khanh (Nguyễn Du) với Ngô Vị đã được trẫm biết tài mà bổ dụng,
14
làm quan đến chức Tham tri, biết điều gì cứ nói, để làm hết chức trách của mình,
sao lại cứ rụt rè, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?” [48; 19]. Dường như ông luôn
mang trong mình nỗi buồn không thể nói cùng ai. Nỗi buồn ấy ông đành chôn chặt
tận đáy lòng ngay cả khi xuống dưới tuyền đài: “Đến khi ốm nặng, ông không chịu
uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói: “Được”
rồi mất, không trối lại một lời” [48; 19].
Những năm tháng thăng trầm, lưu lạc và sống gần gũi với quần chúng đã đem lại
cho ngòi bút Nguyễn Du sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc với thân phận những con
người bé nhỏ, những kiếp tài hoa bạc mệnh.
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng
chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du có ba tập thơ Thanh Hiên thi tập,
Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với tổng số 250 bài. Về chữ Nôm, xuất
sắc nhất là Đoạn trường tân thanh, thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn có Văn
chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài Thác lời trai phường nón.
1.2.1. Thanh Hiên thi tập
Đây là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du sáng tác gồm 78 bài được chia
thành ba giai đoạn:
• Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796) tức năm Tây
Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng
Lĩnh.
• Dưới chân núi Hồng (1796 -1802): quãng thời gian ông về ẩn tại quê nhà
(Hà Tĩnh).
• Làm quan ở Bắc Hà (1802 -1804): quãng thời gian ông bắt đầu ra làm quan
cho nhà Nguyễn.
Thanh Hiên thi tập chứa đựng tình cảm quê hương và tình cảnh của Nguyễn Du
trong những năm tháng lưu lạc. Nhà thơ sống nghèo túng, có khi ốm đau mà chẳng
thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự
của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức…
15
Tập thơ bộc lộ nỗi niềm Nguyễn Du trong những tháng năm sống long đong,
mất phương hướng, mất lòng tin, thậm chí cả tâm trạng hoang mang, vô vọng với
rất nhiều xót xa về thân phận chân trời góc bể, một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước
gió tây, người đã đến bước đường cùng… Sống giữa thời buổi loạn ly, Nguyễn Du
cảm nhận về cuộc đời thường nhật, về nỗi cửa nhà tan tác, ý thức về nỗi cô đơn và
sự vô vị, vô nghĩa của đời mình trước thời gian qua mau.
1.2.2. Nam trung tạp ngâm
Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài Nguyễn Du làm trong thời gian giữ chức
quan ở Phú Xuân và Quảng Bình rồi lại trở về Phú Xuân, từ năm 1804 cho đến năm
ông qua đời (1820), là 16 năm. Nhà thơ gửi gắm ở tập thơ này nỗi thất vọng ở chốn
quan trường, nơi đầy rẫy những rối ren, ganh đua, lòng người hiểm ác và nhà thơ
luôn phải cẩn thận giữ gìn.
Việc làm quan với Nguyễn Du chỉ là chuyện bất đắc dĩ chứ không phải là
chuyện công danh. Ông sống rất thanh bạch nhưng “thường bị quan trên quở trách
nên lấy làm uất ức, bất chí”. Trong tình cảnh làm quan không mấy toại ý, Nguyễn
Du lại ao ước về nhà sống đạm bạc, làm bạn với hươu nai. Điều ấy được phản ánh
trong tập thơ này.
1.2.3. Bắc hành tạp lục
Bắc hành tạp lục gồm 132 bài, được sáng tác trong khoảng 1813 -1814, khi đó
Nguyễn Du được nhà Nguyễn cử làm chánh sứ sang Trung Quốc tuế cống. Nguyễn
Du đã ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật và hoàn cảnh mà ông
đã quan sát, cùng những hoài niệm riêng tư trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa.
Tập thơ Bắc hành tạp lục, bên cạnh những bài thơ viết về Thăng Long như
Thăng Long - kỳ nhất, Ngộ gia đệ cựu ca cơ, Long Thành cầm giả ca... thì tất thảy
đều viết về chuyến đi sứ Trung Quốc nối dài suốt một năm trời. Những bài thơ
Nguyễn Du viết trên đường đi sứ được chia thành hai loại: phản ánh những điều tai
nghe mắt thấy và đề vịnh lịch sử.
Tập thơ Bắc hành tạp lục cho thấy ở Nguyễn Du một khả năng quan sát chi tiết,
kiến thức thâm sâu về địa lý và lịch sử Trung Hoa cũng như một hệ thống suy tư
16
đặc thù, sâu sắc về nhân sinh.
Khái quát cả ba tập thơ, Nguyễn Hữu Sơn nhận xét rằng: “Ba tập thơ cho thấy
những chặng đường sáng tác phù hợp với các chặng đường đời và tư tưởng tác giả.
Xuyên suốt nội dung thơ chữ Hán là tiếng nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một
thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc sống con
người” [34; 20].
1.3. Nét đẹp nhân văn
1.3.1. Thuật ngữ “nhân văn”
Nhân văn là thuật ngữ khá phổ biến trong nghiên cứu văn học và văn hoá.
Hiểu theo nghĩa từng từ tố, nhân là người, văn là vẻ đẹp; nhân văn là vẻ đẹp của
con người. Thuật ngữ này ra đời trong văn hoá phương Tây như một sự tôn vinh
những trào tư tưởng đứng về phía con người, khẳng định sức mạnh trần thế của con
người trong sự đối lập với thần linh, khẳng định hạnh phúc trần thế của con người
trong sự đối lập với thiên đường hạnh phúc xa xôi phi trần thế. Thông thường, nhân
văn được xem như một trào lưu tư tưởng, trào lưu văn hoá hoặc một thứ thế giới
quan. Vì vậy mà có các cách nói quen thuộc: chủ nghĩa nhân văn / tư tưởng nhân
văn.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên), NXB Giáo Dục, 2006 chủ nghĩa nhân văn được hiểu ở hai cấp
độ: thế giới quan và lịch sử.
Ở cấp độ lịch sử, “Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hoá - tư tưởng nảy
sinh ở Ý và một số nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV-XVI). Những
người khởi xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng
và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thời Cơ Đốc giáo và giải phóng cá
nhân con người. Họ quan niệm không phải thần linh mà là con người định đoạt lấy
số phận của mình. Con người có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của
mình. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế,
lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh
toàn năng của con người” [11; 89].
17
Ở cấp độ thế giới quan, “Chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan
điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá
sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn
thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí,
vai trò, khả năng, bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại”
[11; 88].
Hai cấp độ này có quan hệ với nhau. Đối lập với thời Cổ đại và Trung cổ, thời
Phục hưng khẳng định tự do của con người trong quan hệ với thần thánh. Con người
tạo ra mình trong hành động, anh ta là cha của chính mình (E. Garon) [29; 78].
Nhiều nhà nghiên cứu đã xem thành tựu lớn nhất của văn hoá Phục hưng là “phát
hiện ra con người”: “Khái niệm logic về con người đã có từ lâu, nhưng chỉ thời
Phục hưng mới hoàn toàn nhận thức được thực chất của khái niệm này” (Jacob
Burckhardt) [29; 76]. Từ trong nền văn hoá Phục hưng, chủ nghĩa nhân văn đã tự
khẳng định mình như một thứ thế giới quan và một trào lưu văn hoá lấy con người
làm trung tâm thế giới.
Trong văn học, thuật ngữ chủ nghĩa nhân văn thường được dùng để chỉ những
giai đoạn, trào lưu hoặc tác gia tôn vinh con người, ca ngợi những giá trị thuộc về
con người, đấu tranh cho hạnh phúc của con người và thể hiện lòng thương yêu con
người sâu sắc.
Có một thuật ngữ gần nghĩa với nhân văn, đó là nhân đạo. Theo nghĩa gốc Hán,
nhân là lòng thương yêu con người. Khổng Tử viết: nhân ái nhân dã (nhân là lòng
yêu người vậy). Đạo là con đường, là đạo lí. Trong văn học, nói đến chủ nghĩa nhân
đạo là nói đến lòng yêu thương con người. Ở nước ta, chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học dân gian và bác học thường phát triển đến đỉnh cao khi chế độ phong kiến đã
trở nên thối nát, đời sống nhân dân lầm than, số phận con người bị khinh rẻ. Trong
một chừng mực nhất định, thuật ngữ nhân văn bao gồm trong nó những nội dung
của thuật ngữ nhân đạo.
Cái vĩ đại nhất của Nguyễn Du, theo chúng tôi là ông hết lòng yêu thương con
người. Lòng yêu thương con người của Nguyễn Du bắt nguồn từ sự cảm thông sâu
18
sắc đối với số phận của con người trong một xã hội mục ruỗng, nhiều bất công. Ông
chia sẻ với những nỗi đau của nhiều thân phận. Yêu thương con người, bế tắc trước
câu hỏi về hạnh phúc của con người, Nguyễn Du trăn trở về trách nhiệm, về bản
thân mình với tư cách một nhà nho. Nguyễn Du nhận ra những giá trị tốt đẹp của
con người cũng như căm ghét những thế lực chống lại con người. Tất cả điều này
đều được thể hiện trong các sáng tác của Nguyễn Du.
Tìm hiểu nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng tôi giới hạn ở:
một, sự trăn trở về bản thân của nhà thơ; hai, lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc
của nhà thơ đối với số phận con người; ba, sự tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con
người và căm ghét những thế lực xấu xa chống lại con người (qua thái độ đối với
những nhân vật lịch sử Trung Hoa).
1.3.2. Cơ sở xã hội của chủ nghĩa nhân văn trong văn học
Ở phương Tây, trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, con người đã phải trải qua
một thời gian dài sống trong “đêm trường trung cổ”, chịu sự thống trị của giai cấp
phong kiến và Giáo hội. Giáo hội quan niệm con người là hiện thân của tội lỗi nên
con người phải sống khổ hạnh, từ bỏ nhu cầu trong cuộc sống để trả giá cho những
tội lỗi của mình.
Sang thế kỉ XV, con đường giao lưu giữa các châu lục được mở rộng cùng
với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và xã hội ở các nước Tây Âu. Chủ nghĩa tư
bản Ý ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới, tạo ra những biến động lớn về chính trị và
xã hội, ảnh hưởng lớn đến nhiều nước khác. Hệ tư tưởng của nó đối lập hoàn toàn
với hệ tư tưởng phong kiến và Giáo hội. Con người bắt đầu nhận thức về quyền
sống của mình và cả những nhu cầu bản năng. Họ bắt đầu ý thức được việc phải đấu
tranh để thoát khỏi những ràng buộc của tư tưởng siêu hình, thần bí, thoát khỏi sự
áp chế của những thế lực phong kiến.
Tất cả những biến động trên đã làm nền cho sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn.
Đó là một trào lưu tư tưởng tiến bộ đã mang lại một sắc thái mới cho văn học Phục
hưng. Chủ nghĩa nhân văn chống lại những tư tưởng phản tự nhiên thời Trung cổ,
đấu tranh đòi con người phải được hưởng quyền sống chính đáng nơi trần thế, phải
19
được ăn, được mặc, được hưởng thụ những thú vui vật chất cũng như tinh thần của
con người.
Xã hội trung cổ càng hướng con người đến sự hành xác, khổ hạnh và triệt
tiêu mọi giá trị của cuộc sống thực thì các nhà tư tưởng thời Phục hưng lại càng cổ
vũ họ thoát khỏi những xiềng xích trói buộc ấy để sống tự do, tìm kiếm, đề cao và
ngợi ca những nét đẹp vốn có của con người thời đại. Chính vì thế, khái niệm nhân
văn với ý nghĩa nét đẹp của con người ra đời và phát triển thành chủ nghĩa nhân văn
lúc bấy giờ. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng là tư tưởng giải
phóng nhân cách độc lập của con người đã phát triển chín muồi. Đối tượng miêu tả
chủ yếu của văn học là con người trong sự năng động và biến đổi trong cuộc sống,
là con người trần thế với những nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần, xác thịt và trí tuệ
với tất cả những khát vọng chính đáng, với tất cả những khả năng và triển vọng to
lớn của nó. W. Shakespeare cho rằng: “Con người là một công trình tuyệt mỹ của
tạo hóa, là vàng ngọc của vũ trụ”.
Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm thể hiện con người với
những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình
cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó nhất định phải hướng đến khẳng định, đề cao vẻ
đẹp của con người bởi vì Văn học là một nghệ thuật nhân văn cao cả, người ta có
thế nói nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người
sản sinh ra chủ nghĩa nhân văn (M. Gorki).
Chủ nghĩa nhân văn đã xuất hiện từ trong văn học dân gian. Hoàng Tiến Tựu cho
rằng ca dao, dân ca không phải lúc nào cũng phát triển như nhau. Ca dao, dân ca
thường phát triển mạnh mẽ nhất vào lúc chế độ phong kiến trong giai đoạn thối nát.
Càng chịu nhiều áp bức, chịu nhiều đau khổ dưới chế độ mục nát thì người dân càng
có ý thức đấu tranh và vươn lên mạnh mẽ. Tất cả điều đó được thể hiện trong ca
dao, dân ca. Nguyễn Du sống vào thời đại chủ nghĩa nhân văn bùng phát và ca dao,
dân ca đang ở giai đoạn phát triển nhất. Nguyễn Du được trời phú cho bản chất tài
hoa, lại có vốn sống phong phú, am hiểu sâu sắc về văn hóa dân gian. Trong bài
“Thanh Minh ngẫu hứng”, nhà thơ từng viết:
20
“Thôn ca sơ học tang ma ngữ
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh”
(Ta học trong câu hát nơi thôn dã tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai.
Ta thường nghe trong tiếng khóc nơi thôn dã tiếng oán hận chinh chiến)
Nguyễn Du không chỉ học tiếng nói từ người trồng dâu, trồng gai mà còn là người
kết nối tư tưởng nhân văn của văn chương bác học và văn chương bình dân lúc bấy
giờ. Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du thực chất là kết quả của sự kết
hợp lòng nhân ái của nhà thơ và chủ nghĩa nhân văn trong nhân dân.
Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam có những thay đổi
lớn về kinh tế, chính trị, xã hội... Xã hội Việt Nam diễn ra sự khủng hoảng trong
toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến. Nước ta vẫn bị chia cắt thành Đàng Ngoài
(do họ Trịnh đứng đầu) và Đàng Trong (do họ Nguyễn đứng đầu). Sự xa hoa vô độ
của hai tập đoàn này càng lúc càng thổi bùng lên nỗi bất mãn và tinh thần phản
kháng quyết liệt trong lòng dân.
Tình hình chính trị bất ổn của triều Nguyễn đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn
cùng, đói cơm rách áo, tha phương cầu thực; đời sống nhân dân vô cùng cực khổ
dưới những gông cùm, xiềng xích. Tầng lớp thống trị càng áp bức bóc lột nhân dân
thì càng làm nảy sinh các cuộc khởi nghĩa nông dân ở khắp nơi. Hiện trạng xã hội
này được phản ánh trong các tác phẩm ghi chép, mô tả thực tế như Thượng kinh kí
sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Hoàng Lê nhất thống chí
của Ngô gia văn phái…
Trên mảnh đất hiện thực điêu linh ấy, văn học trung đại lại có một mùa hoa rực
rỡ nhất. Giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX đánh dấu một sự chuyển biến về
chất trong văn học. Đúng như Mai Quốc Liên nhận định: Lần đầu tiên trong văn
học, con người cá nhân được đặt vào vị trí trung tâm, được soi sáng từ bên trong,
từ nội tâm và nhu cầu hạnh phúc, nhu cầu phát triển nhân cách tài năng được đặt
ra [22 ; 17]. Đó là nền văn học có tính chất phục hưng với một chủ nghĩa nhân đạo
trác tuyệt [22; 17].
Điều đặc biệt đáng chú ý ở giai đoạn này là sự hình thành đội ngũ sáng tác có
vốn sống phong phú. Họ là những con người có điều kiện tiếp xúc với văn hóa đô
21
thị và gần gũi với đời sống của nhân dân lao động, hiểu rõ được tâm tư nguyện vọng
của nhân dân nên nguồn cảm hứng là những vấn đề xoay quanh số phận con người
cũng như những bi kịch nhức nhối của con người và xã hội. Họ đã có thể vươn khỏi
chỗ đứng giai cấp để đồng cảm với cuộc sống đói cơm rách áo của quần chúng.
Thời đại càng có nhiều biến động, con người càng đặt ra nhiểu câu hỏi về bản
thân, về xã hội, về sinh mệnh và ý nghĩa tồn tại của mình, nhất là khi con người đó
đã được tìm hiểu, được phần nào tiếp xúc với văn hóa bên ngoài. Nền văn học Việt
Nam trở mình với tấm lòng trắc ẩn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và thơ chữ
Hán, với tiếng nói khao khát hạnh phúc lứa đôi, phản đối chiến tranh phong kiến
trong Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), với lời than cho số phận người phụ nữ
trong Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), với sự thách thức lễ giáo trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương…
Sự ra đời của tầng lớp độc giả đô thị ở Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Gia
Định… cùng ảnh hưởng của văn học Trung Hoa, đặc biệt là tiểu thuyết Minh
Thanh, đã tác động mạnh mẽ đến văn học Việt Nam. Văn học Việt Nam phát triển
lên một bước cao hơn với tất cả nội lực của mình. Vấn đề số phận con người, khát
vọng, ước mơ được sống hạnh phúc, sống xứng đáng với kiếp làm người được gửi
gắm trong những sáng tác thời kì này với nghệ thuật điêu luyện và bút pháp nhuần
nhị. Văn học còn hướng tới cái đời thường, cái bình dị, thậm chí cả các đề tài bị tư
tưởng nho giáo quy chụp là “tục”, phi lễ giáo (tình yêu trong Truyện Kiều, yếu tố
tục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương).
Cảm hứng sáng tác giai đoạn này dựa trên tinh thần nhân văn của quần chúng lao
động, đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của con người, chống đối lại mọi thế lực
xã hội phủ định, chà đạp lên sự phát triển của con người. Tinh thần nhân văn ấy còn
mang nhiều hạn chế của thời đại nhưng nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
xã hội, đặc biệt là sự phát triển của văn học đương thời. Văn học giai đoạn này còn
hướng vào khẳng định ý thức cá nhân. Đó là ý thức về quyền sống cá nhân, hạnh
phúc cá nhân, tài năng và bản lĩnh cá nhân. Cả những nhu cầu chính đáng của con
người trong đời sống tình cảm, tình yêu, hạnh phúc gia đình, thậm chí cả trong vấn
đề tình dục của con người cũng được hé mở.
22
Những nhân vật trong tam cương (vua, cha, chồng) được xem là trung tâm của cả
xã hội và gia đình, là kẻ trên mà những người dưới phải phục tùng, mà trong đó
người chịu áp bức, bị ép buộc phải tuân phục nhiều nhất chính là người phụ nữ. Đi
ngược lại với tư tưởng này, các sáng tác thời bấy giờ hướng đến những con người
bình thường, không phải là những đấng, bậc mà là những số phận bất hạnh, tủi cực,
đặc biệt là những người phụ nữ bị đày đọa. Trần Đình Sử đã có những nhận định rất
sâu sắc về chủ nghĩa nhân văn trong giai đoạn này: “Cùng với ý thức về quyền sống,
ý thức về số phận con người được nêu cao. Những nỗi buồn, nỗi oan nỗi hận trong
các số phận oan trái trở thành niềm day dứt, thổn thức của nhà thơ. Nguyễn Du
khóc nàng Tiểu Thanh, khóc ca nữ La Thành, khóc người đánh đàn ở Thăng Long…
Cả mấy tập thơ chữ Hán của ông đều là tiếng khóc than cho đời người bị phôi pha
tan nát, oan uổng. Hồ Xuân Hương nguyền rủa số phận: “Chém cha cái kiếp lấy
chồng chung”. Nguyễn Công Trứ trong bài “Hàn nho phong vị phú” cũng nói:
“Chém cha cái khó! Chém cha cái khó! Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó!”. Phạm
Thái chửi rủa số phận: “Đù ỏa nhân gian sống mãi chi”. Có thể nói con người
trong văn học thời này không cam phận sống một chiều, theo giáo lý, theo lời dạy
thánh hiền, họ bất bình với số phận, muốn đổi thay” [37; 221].
Nguyễn Du – một viên quan đương nhiệm – lại rút ruột rút gan viết nên những
câu thơ miêu tả cuộc đời trầm luân của nàng Kiều - một kỹ nữ - để bày tỏ và kêu
gọi sự thương cảm dành cho những kiếp đoạn trường chứ không phải để tuyên
truyền đạo trung, đạo hiếu.
Nguyễn Du cũng cho phép nàng Kiều đem cân chữ tình với chữ hiếu: Bên tình
bên hiếu bên nào nặng hơn và khẳng định phẩm giá đẹp đẽ lấy hiếu làm trinh của
Kiều, cho dù nàng từng lưu lạc vào những chốn nhơ đục.
Tiếp thu luồng tư tưởng của thời đại cộng với một trái tim dạt dào tình yêu
thương, với những suy ngẫm, trăn trở riêng của bản thân, Nguyễn Du đã viết nên
những kiệt tác thấm đẫm tinh thần nhân văn. Thơ chữ Hán Nguyễn Du là tiếng nói
yêu thương, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, đồng thời là tiếng nói lên án,
phê phán những cái xấu xa, đi ngược lại những giá trị nhân văn. Qua đó, Nguyễn
Du lên tiếng đòi quyền sống và quyền hạnh phúc cho con người.
23
1.4. Nét đẹp nhân văn qua các thời kì văn học trung đại Việt Nam
1.4.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV
Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV, nổi bật hơn cả là nền văn
học Lý - Trần, là một nền văn học đậm đà tinh thần dân tộc và chất nhân văn. Xu
hướng sáng tác của vua quan thời kì này chủ yếu gắn số phận cá nhân với vận mệnh
dân tộc. Một Phạm Ngũ Lão đặt mình trong mối quan hệ với non sông đất nước,
đem hết chí trai tận tụy cống hiến và sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn:
“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)
Một Trần Quang Khải luôn lo nghĩ cho vận mệnh của nước nhà, cho một nền thái
bình thịnh trị:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
(Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải)
Thời chiến, họ xông pha chiến trận không sợ hiểm nguy; còn thời bình, vẫn canh
cánh tấm lòng lo nghĩ cho dân, cho nước.
Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an.
(Trông về phương Nam không còn khói lang bốc lên nữa,
Thảnh thơi trên giường, yên tâm với giấc mơ riêng)
(Phúc Hưng viên - Trần Quang Khải)
Vẻ đẹp nhân văn, tinh thần nhân văn cao đẹp của xu hướng sáng tác này là sự tận
tụy cống hiến hết mình, sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự an nguy của dân tộc.
Một trong những hiện tượng độc đáo trong văn học thời kì này còn là sự xuất
hiện và phát triển thơ của các thiền sư. Các tác giả thơ thiền Lý - Trần là những con
người luôn suy tư chiêm nghiệm về thời cuộc, tự nhiên và lẽ sinh - tử, được - mất
của đời người.
24
Trong thơ thiền đời Lý, con người hiện lên với vẻ đẹp của trí tuệ minh triết.
Trước hết, đó là vẻ đẹp an nhiên tự tại của con người hiểu rõ quy luật tự nhiên và
sống hòa nhịp cùng quy luật. Hiểu rõ quy luật sinh - trụ - dị - diệt của thế giới tự
nhiên và sinh - lão - bệnh - tử của đời người, con người không còn bị cầm tù trong
những vòng dây đau buồn, lo sợ, nuối tiếc về chuyện thịnh suy, được mất:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thị đệ tử - Vạn Hạnh)
(Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa! Ngọn cỏ giọt sương đông)
Ngày tháng của đời người quý giá biết dường nào, hãy sống hết mình giây phút
này, đừng để thời gian trôi qua rồi ngồi hối tiếc.
Các thiền sư nói đến sự tan - hợp, mất - còn của sắc thân bằng một tâm trạng
bình thản, vui vẻ chấp nhận chứ không lo sợ. Họ ý thức về sự hiện hữu của con
người theo quan điểm thiền học, đặc biệt là thái độ trước cái chết, sự tàn phai, biến
ảo của cuộc đời. Đằng sau sự đổi thay, tàn phai và hủy diệt, cái đẹp của tâm hồn vẫn
còn lại mãi. Và cả niềm khát khao vươn tới cái đẹp đầy ý nghĩa nhân văn…
Trong hành động, nhiều thiền sư thời Lý - Trần khi đất nước có biến thì sẵn sàng
nhập thế giúp vua chống giặc giữ nước, thậm chí không ngần ngại đích thân lâm
trận để rồi khi giặc tan, đất nước thanh bình thì vứt bỏ danh vọng, vào chùa khoác
áo cà sa tụng kinh, niệm Phật, toàn tâm hướng đạo.
Nếu giáo hội phương Tây chủ trương con người phải sống khổ hạnh, từ bỏ mọi
nhu cầu trong đời sống trần thế để hướng con người đến Thượng đế, đến cõi vĩnh
hằng thì các nhà thơ thiền Lý – Trần chủ trương hướng con người tìm đến hạnh
phúc ở ngay cuộc sống trần thế, ngay trong bản thân mình và an nhiên tự tại trước
đời sống:
25
“Ở đời, vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu, tìm đâu nữa
Trước cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền”
(Cư trần lạc đạo – Trần Nhân Tông)
Vượt khỏi cái chấp vào không hay có, con người trở thành đạt đạo, vươn đến
một cuộc sống bình dị, có ý nghĩa ngay trong cuộc đời này. Thái độ nhập thế thật
trong sáng, tích cực, hài hòa cùng mạch sống dân tộc, ăn – ngủ, làm việc, đánh giặc
giúp nước, hành đạo giúp đời, hợp lòng người lẽ đạo.
Con người trong thơ thời Trần mang nhiều nét đẹp nhân văn, trước hết nét đẹp
nhân văn đó thể hiện ở ý thức tự phản tỉnh. Các nhà thơ thời Trần, nhất là các nhà
thơ Thiền thường phản tỉnh để ý thức và chiêm nghiệm lại những gì mình đã trải
qua. Sự phản tỉnh giúp các nhà thơ nhận chân được nhiều giá trị đẹp ở đời như cái
đẹp, cái cao cả của con người cũng như thấy được giới hạn và bi kịch của đời người.
Phản tỉnh để tự xem xét về ý nghĩa của kiếp người, sự tồn tại của đời người và
hơn hết phản tỉnh để tự ý thức, tự nhìn lại những hành động của bản thân. Những tốt
- xấu, phải - trái, đúng - sai, tất cả đều cần được nhìn nhận lại để con người luôn
định hướng cho mình con đường đi đúng đắn. Phản tỉnh còn là sự đấu tranh với
chính mình để đánh giá và hiểu chính mình, để luôn hướng đến những điều tốt đẹp,
những giá trị còn mãi với thời gian.
Con người thời Trần sống giữa cộng đồng bằng tất cả nhiệt huyết sôi nổi và tình
yêu thương chan hòa nhưng khi đối diện với bản thân mình, con người không ít lần
ý thức về sự cô đơn. Ý thức về sự cô đơn cũng là một phạm trù của cái đẹp vì trong
sự cô đơn đó, con người ý thức những việc mình đã làm để thêm trân trọng và tin
yêu cuộc sống cũng như thêm quý trọng tình yêu thương mà mọi người dành cho
mình:
“Cá trung khúc phá vô nhân hội,
Duy hữu tùng phong họa thử âm”
(Khúc nhạc trong lòng ta đã thành hình mà không ai hay biết,
26
Chỉ có gió trên cây tùng là hòa được âm thanh ấy)
(Tự thuật - Trần Thánh Tông)
Phản tỉnh để nghĩ lại việc mình đã làm dù thời gian trôi qua đã rất lâu, dù năm
năm, mười năm hay mấy chục năm, tất cả đều đã qua và cái quan trọng là ở giây
phút này con người không thể quên đi, vẫn luôn nghĩ đến sai lầm trước kia của
mình, để tự trách, tự dằn vặt, ôm vào mình nỗi sầu chất ngất:
“Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh”
(Dạ vũ - Trần Minh Tông)
(Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai,
Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn.
Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước,
Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi)
Qua sự phản tỉnh đó, con người hiện lên với tầm vóc thật đẹp. Con người dũng
cảm đối diện với lỗi lầm của mình, tự vấn mình chứ không hề trốn tránh, để luôn
hướng đến những giá trị tốt đẹp trong bản thân con người.
Nếu thơ ca thời thịnh Trần nổi bật lên nét đẹp nhân văn ở sự phản tỉnh, sự thức
tỉnh về đời người ngắn ngủi, con người khao khát sống hòa nhịp cùng quy luật, trân
trọng thời khắc ở hiện tại để hướng về những giá trị và hạnh phúc đích thực trong
cuộc sống thì thơ ca thời vãn Trần, nét đẹp nhân văn nổi bật hơn hết là nét đẹp của
lương tri người trí thức. Một Chu An không màng đến danh lợi, lòng lúc nào cũng
lo nghĩ cho dân cho nước, lo cho đời:
“Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy”.
(Miết trì)
(Tấc lòng này chưa thể nguội lạnh như tro, như đất,
Nghe nói đến vua xưa luống gạt thầm giọt lệ)
27
Một Trần Nguyên Đán đã sống và cống hiến tất cả sức mình cho triều đình, cho
dân nhưng lại luôn tự vấn và tự thẹn mỗi khi nhìn thấy nỗi khổ của nhân dân:
“Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm”
(Nhâm Dần lục nguyệt tác)
(Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt.
Lúa khô, mạ thối, tai hại càng nhiều.
Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng,
Bạc đầu luống phụ tấm lòng yêu dân)
Một Nguyễn Phi Khanh luôn yêu thương, đồng cảm sâu sắc với người dân chịu
nhiều khổ cực, thiếu thốn trong đời:
“Liên cừ vạn tính giai ngô dữ,
Tị ốc thùy gia diện diện hàn”
(Thù Đạo Khê Thái học Xuân hàn vận)
(Xót thương cho muôn họ đều là đồng bào của ta,
Náu thân dưới mái nhà, kìa gia đình ai mọi nét mặt đều rét buốt)
Ở những người trí thức này ngời sáng vẻ đẹp của việc tận tụy lo cho dân, cho
nước, họ luôn lo nghĩ và trăn trở cho sự bình yên, no ấm của muôn dân.
Dù thời đại Lý - Trần đã đi qua nhưng những trang sử hào hùng, trang thơ đầy
tinh thần nhân văn của thời đại đó vẫn còn sống mãi trong lòng người dân bao thế
hệ cũng như cái tâm trong sáng của những vị anh hùng, những thiền sư sẽ như cành
mai tươi thắm vĩnh cửu, vượt lên trên mọi sinh diệt để sống mãi với đời.
1.4.2. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII
Nói đến thơ văn thời kì trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến tác giả
Nguyễn Trãi và nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta thường nói nhiều về tấm lòng yêu
nước thương dân và lý tưởng nhân nghĩa của ông. Nguyễn Trãi là một anh hùng,
một nhà văn hóa, một nhà thơ, nhà văn và một nhà chính trị lỗi lạc. Nguyễn Trãi có
28
một vị thế vững chắc trên thi đàn văn học Việt Nam mà tên tuổi của ông đã làm
rạng danh cho thơ ca trung đại.
Phát huy truyền thống thân dân từ ông ngoại và cha, và bản thân từng trải qua
nhiều phen chìm nổi, sống cơ cực cùng với người dân lao động nên Nguyễn Trãi
hiểu và cảm thông với nhân dân sâu sắc. Điều đặc biệt ở Nguyễn Trãi, tiến bộ hơn
rất nhiều những nhà thơ trước và cùng thời với ông, đó là ông nhận thấy sức mạnh
quyết định của quần chúng nhân dân. Ông ví dân là nước, có sức mạnh chở thuyền
và lật thuyền, dân là những người làm nên lịch sử: “Mến người có nhân là dân mà
chở thuyền, lật thuyền cũng là dân” (Chiếu về việc làm bài “Hậu tự huấn” để răn
dạy Thái tử). Tấm lòng yêu nước, thương dân của Nguyễn Trãi không chỉ xuất phát
từ việc ông nhận thấy sức mạnh của nhân dân nên phải ra sức chăm lo để nhân dân
được no ấm, hạnh phúc mà còn xuất phát từ tấm lòng yêu thương bao la của một
tâm hồn sáng tựa sao Khuê. Đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, Nguyễn Trãi hiểu rõ
những thống khổ của muôn dân dưới ách thống trị của giặc nên lý tưởng ông luôn
theo đuổi đó là trừ bạo yên dân. Tấm lòng yêu dân, quan điểm thân dân không phải
chỉ đến Nguyễn Trãi mới có. Nhưng ở những thế hệ trước ông, quan điểm này còn
phiến diện. Những người cầm quyền có tài, đức, luôn quan tâm chăm sóc nhân dân,
nhưng với tư thế của kẻ bề trên đối với người ở dưới, giống như cha mẹ ra ơn cho
con cái, bậc chủ nhân ra ơn cho bề tôi của mình. Tập thể nhân dân dưới con mắt của
họ là những người nhỏ bé, yếu đuối, đáng thương xót, đáng được nuôi nấng, vỗ về.
Nguyễn Trãi thì khác, ông nhận thấy được ở nhân dân có nhiều phẩm chất tốt đẹp.
Họ là những con người cần cù lao động, siêng năng chịu khó, trọng tình, trọng
nghĩa. Sức mạnh đoàn kết từ trong lao động, trong chiến đấu sẽ giúp họ chiến thắng
tất cả, nhất là những thế lực bạo tàn chà đạp lên cuộc sống của họ “Phúc chu thủy
tín dân do thủy (Lật thuyền mới biết sức mạnh của dân như nước – Quan hải)
Ông chú trọng đến gốc của nhạc là ở chỗ “bệ hạ rủ lòng thương yêu chăm sóc
muôn dân, khiến cho khắp thôn cùng xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu”.
Lo lắng cho dân, tâm nguyện một đời của ông là nhìn thấy đất nước được thanh
bình, bốn phương, nhà nhà đều no đủ yên vui “Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Báo
kính cảnh giới 43).
29
Bên cạnh vẻ đẹp của ý thức trách nhiệm luôn nghĩ cho dân và cho nước, nổi
bật ở Nguyễn Trãi còn là một con người biết tìm niềm vui sống giữa đời. Cuộc sống
giữa chốn quan trường với biết bao cám dỗ về lợi danh nhưng Nguyễn Trãi đã
không để tâm của mình phải nhuốm bụi trần. Ông luôn biết cách làm hài hòa cuộc
sống, vui với những cái thiết thân, bình dị chứ không chạy theo những xa hoa phù
phiếm. Điều đó giúp nhà thơ vượt qua những khó khăn, thử thách, nghịch cảnh để
luôn giữ tâm hồn sáng trong, một nhân cách cao thượng. Ông tìm niềm vui ở công
việc, phục vụ hết mình để đem lại lợi ích cho dân, cho nước. Ông vui vì thấy mình
có ích, thấy dân tình được ấm no, hạnh phúc. Ông còn tìm niềm vui trong cách sống
giản dị mà tự do, phóng khoáng của chính mình. Ông hòa mình với thiên nhiên, vui
với thiên nhiên:
“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then”
(Thuật hứng XXIV)
Nguyễn Trãi còn tìm thấy niềm vui ở tinh thần tự do, phóng khoáng trong những
công việc lao động hằng ngày, những công việc thiết thân của người dân lao động:
“Đạp áng mây, ôm bó củi
Ngồi bên suối, gác cần câu”
(Trần tình V)
Quan niệm giáo dục con người của Nguyễn Trãi rất gần gũi với quan niệm sống
của nhân dân lao động. Những lời dạy của Nguyễn Trãi dành cho con cháu là những
thông điệp thiết thực nhất của quan niệm sống giàu chất nhân văn. Con người sống
phải biết quý trọng giá trị lao động do mình làm ra, không nên xa hoa, lãng phí,
chạy theo những nhu cầu vật chất:
“Xa hoa lơ đãng nhiều hay hết,
Hà tiện âu đương ít hãy còn.
Áo mặc miễn là cho cật ấm,
Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon”
(Dạy con trai)
30
Cũng không nên để vật chất làm lu mờ lí trí hay cám dỗ thành người bất nghĩa:
“Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ
Áo người vô nghĩa, mặc, chăng thà”
(Trần tình III)
Và một bài học quan trọng mà Nguyễn Trãi không quên trao truyền cho thế hệ
mai sau là sự tu dưỡng đạo đức, sống nhân hậu, thủy chung:
“Tích đức cho con hơn tích của,
Đua lành cùng thế mựa đua khôn”
(Tự thán, XLI)
Những lời dạy đầy tinh thần nhân văn của Nguyễn Trãi cho đến bây giờ vẫn còn
nguyên giá trị. Đó là những lời dạy thiết thực và bổ ích đối với tất cả mọi người
hôm qua, hôm nay và mai sau. Những lời dạy đó giúp con người sống tốt hơn và
định hướng cho mình những giá trị sống đẹp và có ích.
Nếu tấm lòng của Nguyễn Trãi cuồn cuộn như nước triều đông, nếu suốt đời
Nguyễn Trãi luôn riêng ôm cái chí lo trước thiên hạ đến nỗi đêm lạnh quàng chăn
ngủ chẳng yên, nếu Nguyễn Trãi thao thức bao đêm lo cho dân cho nước để đến nỗi
tóc bạc ngày càng nhiều thì gần hai thế kỉ sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có một nỗi
lòng lo nghĩ, ngậm ngùi cho vận mệnh nước nhà. Giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm chan chứa lòng yêu thương đất nước, nhân dân, trái tim trĩu nặng nỗi
đau đời, lo đời. Xã hội phong kiến mục ruỗng, nội bộ phân tranh, chiến tranh với
những cảnh chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lợi diễn ra khắp nơi, cảnh
nhân dân ly tán, đạo đức băng hoại, không còn đủ sức kiềm tỏa con người. Tất cả
những điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiên sinh có nhiều
nỗi niềm trăn trở, suy tư khôn nguôi đến nỗi mái tóc trở nên bạc như tơ:
Bần tiện trùng phùng thử loạn ly,
Khu khu ưu quốc mấn thành ti
(Trung tân quán ngụ hứng thập)
(Loạn ly giữa lúc sống hàn vi,
Lo nước khư khư, tóc hóa tơ)
31
Ông hiểu rõ sức mạnh của nhân dân “từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc,
được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân”, thế mà lâu nay nhân dân phải sống
giữa thời loạn lạc, phải chịu cảnh cơ cực, cay đắng. Họ có một nguyện vọng là được
yên sống, đất nước thôi không chiến tranh, thôi không có cảnh chém giết để họ có
thể dùng sức lao động làm ra của cải nuôi sống bản thân và gia đình. Hiểu rõ được
lòng dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm lên án và phản đối chiến tranh huynh đệ tương tàn
và chiến tranh cát cứ vì ông thấy rõ chiến tranh chỉ đem lại cảnh đống xương, biển
máu, cảnh loạn ly, cướp bóc khắp nơi, gieo rắc khổ ải cho bao người dân lương
thiện. Nguyễn Bỉnh Khiêm thao thức, trăn trở để rồi lòng ông quặn đau:
Bao đêm gối chiếc hai hàng lệ
Rộn tiếng chày khuya đập vải đêm
Có người hàng xóm thương tình bảo:
Đến cuối năm này hết chiến chinh
(Sầu)
Cũng giống như Nguyễn Trãi “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược. Có nhân, có
trí, có anh hùng” (Báo kính cảnh giới V), bên cạnh việc lên án chiến tranh khắc
nghiệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn đề cao chữ nhân:
Cổ lai nhân giã tư vô địch
Hà tất khu khu sự chiến tranh
(Thơ cảm hứng, bài 3)
(Xưa nay, kẻ có nhân là vô địch
Sao phải khư khư theo đuổi chiến tranh?)
Nỗi đau của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở nhân dân và niềm vui của ông là ở chỗ vui
sau lo trước:
Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ
Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu
(Ngụ hứng III)
(Rút cục ai muốn tìm chỗ vui của ta
Thì cần biết rằng ta vui sau thiên hạ trong chỗ lo trước thiên hạ)
32
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh nhiều về thói đời, về thế thái nhân tình của
xã hội lúc bấy giờ. Thế kỉ mà ông đang sống là thế kỉ của sự đổ vỡ những lý tưởng
nhân nghĩa, đồng tiền lên ngôi cùng với sự tha hóa của toàn xã hội. Một thế kỉ loạn
lạc, rối ren, các giá trị đạo đức suy đồi, đảo điên. Điều này đã đi vào thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm khi ông tổng kết nó như một triết lý: “Không gì hiểm bằng đường
đời… Không gì nguy bằng lòng người” (Trung Tân ngụ hứng) hay:
“Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thì hơn hết mọi lời
… Người, của lấy cân ta thử nhắc
Mới hay rằng của nặng hơn người”
(Thơ Nôm, bài 74)
Tất cả những điều đó chất chứa trong tim ông với một sự trăn trở, suy ngẫm; ông
không muốn sống giữa cảnh đô hội mà con người chỉ là nô lệ của đồng tiền, chỉ biết
chạy theo danh vọng mà bất chấp đạo lý, giết hại lẫn nhau không bằng gươm đao
mà chỉ bằng ba tấc lưỡi múa may nên với ông:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
(Thơ nôm, bài 73)
Dẫu lui về ở ẩn song tâm trí ông chưa một lần rời khỏi chuyện nước, chuyện dân.
Chọn cuộc sống lánh xa chốn quan trường, cũng là để lánh xa vòng danh lợi chứ
một con người ưu tư vằng vặc, trăng in nước như ông làm sao có thể làm ngơ trước
ba động của thời cuộc:
Lão lai vị ngãi tiên ưu chí,
Đắc tang cùng thông khởi ngã ưu”
(Tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi
Cùng thông đắc tang ta có lo chi cho riêng mình)
(Tự thuật, bài 2)
Nguyễn Bỉnh Khiêm phê phán những cái xấu xa, những giá trị đạo đức suy đồi
đang xâm hại con người cũng chính là lên tiếng bảo vệ cho những giá trị tốt đẹp
33
trong con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn trong lánh đục để giữ gìn nhân phẩm
của mình. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, vẻ đẹp nhân văn còn thể hiện ở ý thức trách
nhiệm với nhân dân, tấm lòng luôn lo nghĩ cho dân, cho nước.
1.4.3. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX
Đây là giai đoạn văn học có những phát triển rực rỡ nhất trong văn học dân tộc
dưới chế độ phong kiến. Văn học nửa cuối thế kỉ XVIII đã thừa hưởng những di sản
văn học quý báu của những thế kỉ trước. Có nhiều khuynh hướng sáng tác trong văn
học giai đoạn này nhưng nổi bật hơn hết đó là khuynh hướng đấu tranh và tố cáo
hiện thực.
Ở khuynh hướng này, chúng tôi tập trung khắc họa hình tượng người phụ nữ
trong các tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, truyện thơ Nôm và khuynh hướng tố cáo hiện thực trong tác phẩm của Cao
Bá Quát để có cái nhìn sâu sắc hơn về nét đẹp nhân văn trong thời kì này.
Xã hội Việt Nam trong giai đoạn này có nhiều biến chuyển sâu sắc về kinh tế,
chính trị và xã hội. Chiến tranh phong kiến liên tục diễn ra, triều đình bắt trai tráng
khắp nơi đi chinh chiến, bao gia đình tan tác, vợ vắng chồng, con vắng cha. Xã hội
phong kiến coi khinh phụ nữ, tước đi cái quyền được sống hạnh phúc của họ. Chưa
bao giờ số phận của họ lại được đặt ra cấp thiết trong văn học như lúc này. Biểu
hiện chủ yếu của nét đẹp nhân văn giai đoạn này là tiếng nói đấu tranh cho quyền
sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Nếu như những giai đoạn trước, hình
tượng nữ giới thường ít xuất hiện trong thơ văn thì đến giai đoạn này, họ đã xuất
hiện với địa vị nhân vật chính trong hầu hết các tác phẩm văn học.
Nhiều tác giả đã viết rất hay về người phụ nữ như Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… Người phụ nữ không còn là
những bóng hình mờ nhạt trong văn học mà họ đã đi vào thơ văn một cách đậm nét
với những vẻ đẹp về ngoại hình, nhân phẩm và tài năng.
Nguyễn Gia Thiều lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để ca ngợi vẻ đẹp của nàng cung
nữ:
“Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa
34
Vẻ phù dung một đóa vẻ hoa tươi
Chồi thược dược mơ màng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu”
(Cung oán ngâm)
Cũng là những hình ảnh ước lệ, cũng là cách miêu tả so sánh vẻ đẹp con người
với thiên nhiên nhưng Kiều của Nguyễn Du vẫn có vẻ đẹp riêng không lẫn với ai:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” (Truyện Kiều)
Để tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp hoàn mỹ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương mạnh
dạn đưa vào thơ mình bức truyền thần khỏa thân của những người thiếu nữ:
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Theo quan điểm chính thống của mỹ học sáng tác phong kiến, khi mô tả vẻ đẹp
của người phụ nữ thì vẻ đẹp đó chỉ được thể hiện ở áo quần, khuôn mặt, không bao
giờ được thể hiện ở đường nét cơ thể, da thịt. Nếu người phụ nữ bày da thịt là tục,
để lộ da thịt là tội lỗi. Quan điểm này ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương. Vì thế,
trong văn học, người ta chú ý đến cái đẹp đạo đức mà quên đi vẻ đẹp thân xác –
ngoại hình. Nhưng đến Hồ Xuân Hương, nữ sĩ đã dùng tài thơ của mình để giải
thoát vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ ra khỏi vòng cương tỏa của đạo đức
phong kiến để tôn vinh và nâng vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ.
Các nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm cũng xinh đẹp không kém: Ngọc Hoa
trong Phạm Tải – Ngọc Hoa: “Má đào mặt ngọc tóc mây rà rà” và công chúa con
vua Bảo Vương (truyện Lí Công):
“Tuổi xuân vừa mới lên mười
Hây hây ngọc đúc tựa người thần tiên”
35
Người phụ nữ không chỉ là những bông hoa với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm làm
say đắm bao người. Họ còn là những người có tài năng hơn người.
Tài thơ ca của nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc được so sánh với tài đàn
của Lý Bạch, tài vẽ của Vương Duy, tài thổi sáo của Tiêu Sử:
“Câu cầm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
“Cầm đếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã
Sáo lần thu lạ gã Tiêu Lang”
Với nàng Kiều, thiên nhiên, đất trời, tạo vật phải ghen tỵ với nhan sắc của nàng.
Cộng thêm một tài năng vượt trội, cái tài năng ấy đã đạt tới mức lí tưởng theo quan
niệm thẩm mỹ phong kiến, gồm đủ cả cầm, kì, thi, họa. Nguyễn Du nhấn mạnh tài
đàn của nàng vượt lên trên và “ăn đứt” mọi người. Kiều quả là người con gái tài hoa
toàn diện dưới ngòi bút của Nguyễn Du:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm,
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
(Truyện Kiều)
Nữ sĩ họ Hồ cũng ý thức về tài năng, nhà thơ sôi nổi lên tiếng ca ngợi cho tài
năng của mình nói riêng và nữ giới nói chung:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Khẳng định tài năng của mình cũng là để khẳng định tài năng của nữ giới nói
chung vì xã hội phong kiến kìm hãm, không cho người phụ nữ được thi thố tài
năng. Nếu điều kiện cho phép, xã hội công nhận thì phụ nữ nhất định chẳng kém
nam giới về mặt nào. Đó không chỉ là lời ngợi ca tài năng của nữ giới mà còn là
tiếng nói đấu tranh đòi quyền công bằng và quyền lợi cho họ trong xã hội trọng nam
khinh nữ lúc bấy giờ.
36
Bên cạnh vẻ đẹp về ngoại hình, về tài năng, người phụ nữ còn ngời sáng những
vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn. Đó là vẻ đẹp ở ý thức giữ gìn phẩm giá, khát khao
hạnh phúc. “Chinh phụ ngâm” là lời than thở bi đát về cuộc sống lẻ loi của người
phụ nữ. Mặc dù đau khổ, nhớ thương chồng đến tột độ, nàng vẫn làm tròn bổn phận
của một nàng dâu, một người mẹ. Và đặc biệt nàng vẫn luôn hi vọng chồng mình sẽ
quay về, mặc dù hi vọng ấy rất mong manh:
“Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”.
Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc cũng ước một cuộc sống nghèo khổ
mà giàu tình người:
“Cùng nhau một giấc hoành môn
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”
(Cung oán ngâm khúc)
Những nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm như Cúc Hoa (Trong Phạm Công Cúc
Hoa; Tống Trân – Cúc Hoa), Ngọc Hoa (trong Phạm Tải – Ngọc Hoa) đều là những
người con gái tốt đẹp, nhân ái, biết giúp đỡ người nghèo. Khi Phạm Công, Phạm
Tải hay Tống Trân đưa mẹ đi ăn mày, Cúc Hoa và Ngọc Hoa không hề khinh ghét
mà còn cho gạo rồi đem lòng yêu thương.
“Cúc Hoa nghe thoảng vào tai
Rồi chân sẽ ngó song mai thử nhìn
Thấy người nét mặt hiền lành
Động lòng mới trở gót sen vào nhà
Lấy một đấu gạo đem ra
Gọi là cứu giúp cho nhà bồ côi”
(Tống Trân – Cúc Hoa)
Đến với Kiều của Nguyễn Du, ta thấy ở nàng luôn có ý thức về bản thân mình,
về nhân phẩm, quyền sống trong suốt cuộc đời mình; không lúc nào Kiều không tự
ý thức, không chỉ cho mình mà cho cả thân phận người phụ nữ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
37
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều)
Sự tự ý thức ấy còn được thể hiện ở chỗ Kiều tự đính ước với Kim Trọng. Nàng
đã dũng cảm, táo bạo, chủ động mưu cầu hạnh phúc cho mình “Xăm xăm băng lối
đường khuya một mình”. Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là tình yêu tự do, nó
đến tự nhiên như tình cảm của bao lứa đôi khác. Nhưng đó là thứ tình yêu trái với lễ
giáo phong kiến và nó đã phải hứng chịu biết bao nhiêu lời phỉ báng thậm tệ của các
bậc lão nho. Sự tự ý thức ấy cũng đã “cởi trói” cho con người nàng, xóa bỏ đi mọi
lễ giáo phong kiến.
Và đến sau này, Kiều luôn ý thức về thân phận của mình. Sau những “bướm lả,
ong lơi”, những “cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” bắt buộc, Kiều vẫn “giật
mình” tỉnh lại, nhớ về ngày xưa để rồi nàng càng thêm thương và xót xa cho chính
mình:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa”.
(Truyện Kiều)
Kiều càng khổ nhục bao nhiêu thì nàng lại càng muốn giải thoát và vươn lên
bấy nhiêu. Hầu như có cơ hội là nàng tìm cho mình lối thoát, dù là liều lĩnh hay
nguy hiểm. Đó là những lần Kiều không thôi mơ ước được trở lại cuộc sống trong
sạch, bình thường, trở lại với gia đình. Cuối truyện, nàng được đoàn tụ với gia đình
nhưng cánh cửa mở ra hạnh phúc cho nàng vẫn đóng kín. Mọi ngả đường đi đến
hạnh phúc đã bị ngăn chặn. Hiện tại sum họp chẳng đủ sức xua tan bóng đen của
quá khứ đang hiện diện phũ phàng. Kiều ý thức được rằng điều cao quý nhất mà
nàng dành cho Kim Trọng là một thứ tình cảm sâu sắc ở tấm lòng. Qua số phận
nàng Kiều, ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du càng thấm đượm yếu tố nhân đạo,
nhân văn. Sống giữa xã hội đầy rẫy những bất công, oan trái, con người không thể
tìm thấy hạnh phúc bình thường. Vì vậy, Nguyễn không thể đặt bút viết nên một cái
kết có hậu dù hơn ai hết, Nguyễn là người muốn nàng Kiều của mình có được một
hạnh phúc trọn vẹn.
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ

More Related Content

What's hot

Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424nataliej4
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOTLuận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
Giao thoa thể loại trong Hồi ký Tô Hoài (Qua Cát bụi chân ai, Chiều chiều, ch...
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 

Similar to Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ

Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...NuioKila
 

Similar to Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ (20)

Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện KiềuBút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Luận văn: Sự chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ của Phạm Duy
Luận văn: Sự chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ của Phạm DuyLuận văn: Sự chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ của Phạm Duy
Luận văn: Sự chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ của Phạm Duy
 
Luận văn: Chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ Phạm Duy
Luận văn: Chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ Phạm DuyLuận văn: Chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ Phạm Duy
Luận văn: Chuyển vị từ thơ ca đến âm nhạc qua ca khúc phổ thơ Phạm Duy
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đDạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Lành NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Lành NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN CÔNG KHANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” là công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phan Công Khanh. Những kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình nào khác. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 1 năm 2013 Học viên Nguyễn Thị Lành
  • 4. LỜI CẢM ƠN Với sự làm việc nghiêm túc của bản thân và sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình của thầy cô, gia đình, bạn bè, luận văn này đã được hoàn thành. Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Phan Công Khanh, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, những người đã chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu; xin chân thành cảm ơn phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn. Người viết đã nỗ lực hết mình để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn!
  • 5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................10 1.1. Nguyễn Du....................................................................................................10 1.1.1. Thời đại....................................................................................................10 1.1.2. Gia thế và cuộc đời ..................................................................................11 1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du.......................................................................14 1.2.1. Thanh Hiên thi tập ...................................................................................14 1.2.2. Nam trung tạp ngâm ................................................................................15 1.2.3. Bắc hành tạp lục.......................................................................................15 1.3. Nét đẹp nhân văn ..........................................................................................16 1.3.1. Thuật ngữ “nhân văn”..............................................................................16 1.3.2. Cơ sở xã hội của chủ nghĩa nhân văn trong văn học ...............................18 1.4. Nét đẹp nhân văn qua các thời kì văn học trung đại Việt Nam....................23 1.4.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV ..................................23 1.4.2. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII ...................27 1.4.3. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX..................33 Chương 2 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................42 2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân ....................................42 2.1.1. Con người của hùng tâm tráng chí...........................................................43 2.1.2. Con người của đời thường dung dị..........................................................48 2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người.............................................56 2.2.1. Cảm xúc đau đớn và buồn thương trước số phận những con người cần lao.......................................................................................................................56 2.2.2. Bênh vực và xót thương người phụ nữ....................................................66 2.2.3. Niềm trắc ẩn đối với những nhân vật lịch sử Trung Quốc ......................74
  • 6. 2.2.3.1. Đồng cảm và kính trọng những bậc hiền tài, nhân nghĩa .................76 2.2.3.2. Căm ghét và lên án những kẻ gian ác ...............................................84 2.3. Những cảm nhận về nhân sinh trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ...................94 2.3.1. Cảm nhận về không gian .........................................................................94 2.3.1.1. Không gian mờ mịt, gió bụi..............................................................95 2.3.1.2. Không gian lạnh lẽo, ảm đạm ...........................................................99 2.3.1.3. Không gian tù túng, ngột ngạt.........................................................100 2.3.2. Cảm nhận về thời gian...........................................................................103 2.3.2.1. Thời gian hoài niệm ........................................................................103 2.3.2.2. Thời gian đời người ........................................................................108 2.3.2.3. Thời gian tâm trạng.........................................................................110 Chương 3 NÉT ĐẸP NHÂN VĂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT........................................................113 3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................................................113 3.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ ....................................................................114 3.1.1.1. Từ biểu cảm.....................................................................................114 3.1.1.2. Từ tự xưng.......................................................................................115 3.1.2. Nghệ thuật sử dụng câu .........................................................................119 3.1.2.1. Câu nghi vấn ...................................................................................119 3.1.2.2. Câu trần thuật..................................................................................121 3.1.2.3. Câu cảm thán...................................................................................124 3.2. Những biểu tượng nghệ thuật.....................................................................125 3.3. Giọng điệu nghệ thuật.................................................................................128 3.3.1. Giọng tiếc nuối, thương cảm, buồn đau.................................................129 3.3.2. Giọng phê phán, căm phẫn, bất bình .....................................................132 3.4. Bút pháp nghệ thuật....................................................................................136 3.4.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình ......................................................................136 3.4.2. Bút pháp tương phản..............................................................................140 KẾT LUẬN............................................................................................................145 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................148
  • 7. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta từng biết một Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều bất hủ sống mãi trong lòng dân tộc. Chỉ với Truyện Kiều thôi cũng đủ làm tên tuổi Nguyễn Du sáng tựa ánh sao trên thi đàn văn học Việt Nam và thế giới. Nhưng đại thi hào của chúng ta còn là tác giả của Văn chiêu hồn và ba tập thơ chữ Hán trác tuyệt. Và với ba tập thơ chữ Hán Nguyễn Du để lại cho đời, chúng ta càng khâm phục và tự hào hơn nữa về Nguyễn Du - một nhà nhân đạo lớn qua hàng thế kỉ và một danh nhân văn hóa thế giới. Nếu như qua Truyện Kiều, Nguyễn Du gián tiếp thể hiện thái độ của mình thì thế giới thơ chữ Hán là tiếng nói trực tiếp của tác giả. Nguyễn Du không che giấu bất cứ điều gì từ tư tưởng, tình cảm đến những khoảnh khắc riêng tư… Vì vậy, nếu muốn hiểu sâu hơn về cuộc đời và con người Nguyễn Du thì chúng ta cần phải tìm hiểu không chỉ có Truyện Kiều và Văn chiêu hồn mà còn có cả ba tập thơ chữ Hán của ông. Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán còn cho ta biết thêm nhiều về tài năng của Nguyễn Du. Ông không chỉ hay Nôm mà còn giỏi Hán. Bùi Mạnh Nhị khẳng định: “Nói về Nguyễn Du mà chỉ nhắc đến Truyện Kiều và một số tác phẩm thơ Nôm khác thì mới chỉ nói được một nửa THIÊN TÀI MẸ ấy. Còn một nửa khác của đại thi hào Nguyễn Du là những áng thơ chữ Hán “nghìn thu tuyệt diệu” [58; 5]. Đúng như lời nhận định trên, qua thơ chữ Hán, ta hiểu thêm nhiều về tài năng và con người Nguyễn Du. Ba tập thơ từ ngôn từ cho tới giọng điệu và câu, tất cả đều thấm đượm chất nhân văn. Nguyễn Du vĩ đại vì ông yêu thương con người. Hơn nữa, Nguyễn Du luôn tôn vinh con người, những danh nhân văn hóa của quá khứ, những con người bất hạnh và những người phụ nữ… Truyện Kiều phần lớn là nhân vật hư cấu, nhân vật văn học còn trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du viết về những con người và những mảnh đời cụ thể. Thơ chữ Hán của ông còn có một ý nghĩa khái quát, đó là lời tự thuật về một cuộc đời, một con người và một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại trước xã hội đầy màu sắc bi kịch từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Ba tập thơ chữ Hán góp phần bổ sung thêm cho Truyện Kiều bức chân dung hoàn chỉnh của nhà
  • 8. 2 thơ. Truyện Kiều bàng bạc, thấm đẫm tình yêu thương trên từng câu chữ. Thơ chữ Hán cũng vậy, có phần nổi trội hơn vì rằng lòng trắc ẩn của Nguyễn Du đã trải rộng ra cho tất cả mọi kiếp phù sinh. Thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán rất phong phú, mỗi nhân vật dù là người anh hùng, người dân lao động hay người phụ nữ tài sắc thì ở họ đều có những nét tính cách rất riêng và có số phận riêng. Nguyễn Du viết về họ, khắc họa bức chân dung về cuộc đời họ, qua đó làm nổi bật những nét đẹp ở họ. Nguyễn Du đã tạo nên những tượng đài nghệ thuật để vinh danh con người. Tìm hiểu thơ chữ Hán giúp ta thấy được những tư tưởng nhân văn tiến bộ trong sáng tác của Nguyễn Du. Đối với mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên đã có những nhận xét rất hay và rất xác đáng: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [20; 7]. Thật vậy, thế giới thơ chữ Hán của Nguyễn Du không lung linh nhiều màu sắc phô trương, không ồn ào sôi nổi mà đó là một thế giới nội tâm của tác giả với những cung bậc cảm xúc rất người, rất nhân văn. Đó cũng chính là quá trình từ việc khắc khoải đi tìm mình, con người trong thơ chữ Hán đã đến với bao trắc ẩn dành cho mọi kiếp người và nhận ra nhiều vẻ đẹp ở họ. Đi qua bao dâu bể cuộc đời, với một tâm hồn luôn dạt dào cảm xúc, luôn thấm đẫm tình người, Nguyễn Du đã hiểu và cảm thông với tất thảy. Vì vậy, “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du” là một đề tài mà người viết trăn trở, muốn được góp một phần nào đó dù nhỏ bé, dù ít ỏi để có thể tiếp cận và nghiên cứu thêm về một khía cạnh trong vô vàn những khía cạnh đang được giới nghiên cứu quan tâm về thơ chữ Hán của Nguyễn Du. 2. Lịch sử vấn đề Thơ chữ Hán Nguyễn Du trước đây ít được giới nghiên cứu quan tâm nên những bài viết về thơ chữ Hán không nhiều. Tuy nhiên, điều đáng mừng là gần đây đã có không ít những công trình nghiên cứu công phu về mảng thơ này.
  • 9. 3 Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy Anh với bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943). Lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định về hình thức cũng như về nội dung. Có thể nói đây là những ý kiến có giá trị gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở giai đoạn sau. Năm 1960, nhà phê bình Hoài Thanh với bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán trên tạp chí Văn nghệ tháng 3, đã khái quát về lịch sử, về thời đại sóng gió mà Nguyễn Du đã sống. Tác giả nói về thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại cũng như niềm thương cảm của ông đối với những kiếp người bị đày đọa: “Thái độ Nguyễn Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ Nguyễn Du do đó có giá trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [9; 41]. Đào Xuân Quý với bài Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán trên báo Văn nghệ tháng 11 năm 1965, đóng góp những tiếp cận ban đầu về thái độ, về diễn biến tâm trạng của Nguyễn Du qua ba tập thơ. Ông cũng nói đến tình cảm, lòng nhân đạo mà nhà thơ dành cho mọi tầng lớp nhân dân lao động cũng như tỏ rõ một mối cảm tình nồng hậu đối với những người có tài, có đức mà bị hãm hại như Hàn Tín, Nhạc Phi, Khuất Nguyên… Ông nói đến tình hình lịch sử Trung Quốc qua một số nhân vật cụ thể trong thơ và trong tương quan so sánh với tình hình lịch sử Việt Nam thời bấy giờ để khẳng định: “Nguyễn Du không phải chỉ phản ánh cảnh đời cơ cực của nhân dân, không phải chỉ tỏ lòng thương xót, mà còn hàm ý phê phán, mỉa mai bọn vua quan triều đình phong kiến nữa” [9; 117]. Cùng quan điểm với Hoài Thanh, năm 1966, Xuân Diệu viết Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán, trình bày khái quát hoàn cảnh xã hội Nguyễn Du sống lúc bấy giờ để thấy rằng: “Thơ Nguyễn Du làm ở thời kì nhà Lê, thơ làm thời kì nhà Nguyễn, thơ trong khi đi sứ Trung Quốc: cái thời đại của Nguyễn Du đúng là tê đi và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui” [9; 44]. Phân tích sự cảm thông lẫn nhau giữa những bậc tài tử trong xã hội xưa, giữa những bậc tài tình của Việt Nam và Trung Quốc, Xuân Diệu cho rằng: “Nguyễn Du là người mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu người, nên cái đau khổ của ông là một đau khổ lớn, có
  • 10. 4 tính cách đại diện cho nhân loại” [9; 48]. Qua việc phác họa những nét đặc sắc về ý nghĩa của một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du để thấy được tấm lòng nhân đạo của ông dành cho mọi kiếp người, nhất là những người lao động và những trang tài tử, Xuân Diệu khẳng định: “Nguyễn Du buộc tội cái xã hội kinh khủng kia. Không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan, thì không thể có cái hơi văn bênh vực sự sống như người mẹ bảo vệ đứa con rứt ruột!” [9; 54-55]. Cùng năm 1966, Nguyễn Huệ Chi có bài viết Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán trên tạp chí Văn học tháng 11, trình bày hai phần chính, phần thứ nhất nói về Nguyễn Du cũng như phân tích hoàn cảnh lịch sử đã tác động đến thái độ, tâm trạng của Nguyễn Du lúc bấy giờ, qua đó khẳng định Nguyễn Du không phải là con người hành động mà là con người tư tưởng. Phần thứ hai, khái quát về những nhân vật trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhân vật chính diện và cả những nhân vật phản diện. Lồng ghép vào đó, tác giả muốn lý giải về thế giới quan đã ảnh hưởng đến thái độ, cách sống và cách nghĩ của Nguyễn Du đối với cuộc đời và với thơ. Bài viết này đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du, đó là tìm kiếm chân dung của chính tác giả. Hướng đi này được Vũ Đình Liên tiếp tục khai thác trong chuyên mục Nguyễn Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến (Tìm hiểu Nguyễn Du qua thơ chữ Hán) trên tạp chí Văn học số 2 năm 1971. Căn cứ vào một số bài thơ và một vài sự kiện trong cuộc đời của Nguyễn Du, Vũ Đình Liên nêu lên ý kiến riêng về thái độ của Nguyễn Du đối với các triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Tác giả đã tìm hiểu về nhân sinh quan, về tâm hồn của Nguyễn Du, một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến nhưng lại rất gắn bó với số phận đau khổ của con người bị chà đạp. Từ năm 1975 đến nay, sau khi đất nước thống nhất, các tập thơ của Nguyễn Du tiếp tục thu hút các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Năm 1980, Phan Hữu Nghệ có bài viết Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn Du trên tạp chí Văn học số 6, trình bày thực tiễn Trung Hoa lúc bấy giờ và tư tưởng Khổng - Mạnh dưới cái nhìn của Nguyễn Du. Nêu ra những bức tranh tương phản giữa một bên là những tư tưởng cao đạo của lễ giáo, đạo đức phong kiến với một
  • 11. 5 bên là hiện thực khốc liệt, nhân dân lao động lầm than cơ cực muôn phần để qua đó khẳng định: “Thái độ phê phán chế độ phong kiến Trung Quốc ở Nguyễn Du là điều tất nhiên và hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở thực tiễn của nó, phản ánh bước phát triển hợp lý và lôgic của tư tưởng nhân đạo ở Nguyễn Du” [30; 56]. Đến năm 1988, với bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán được in trên Kiến thức ngày nay số 30, Lê Đình Kỵ nói nhiều đến hoàn cảnh lịch sử ảnh hưởng đến chí hướng của Nguyễn Du cũng như những trăn trở, băn khoăn của Nguyễn Du trước những ngả đường lịch sử. Tác giả đã tìm hiểu về thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại, đối với quan trường, với nhân dân, với con người và cuộc đời, và đưa ra nhận xét: “Cái phần trong sáng và đáng trân trọng nhất trong thơ chữ Hán xét đến cùng là những yêu ghét của nhà thơ” [17; 34]. Nguyễn Du yêu những con người hiền tài, những người dân cơ cực, những người phụ nữ tài sắc bất hạnh và ghét những kẻ ác ôn, sống trên máu và nước mắt của người khác. Giá trị to lớn của thơ chữ Hán Nguyễn Du, một lần nữa được Mai Quốc Liên khẳng định trong lời mở đầu trong cuốn Nguyễn Du toàn tập (Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 1996). Tác giả đã khái quát những đánh giá của Nguyễn Du về nền văn hóa Trung Hoa thông qua việc đánh giá các danh nhân, vấn đề văn chương và số mệnh, vấn đề cô trung, tiết nghĩa, những đối nghịch, làm nên tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật của thơ… Hướng nghiên cứu này đã được Lê Thu Yến phát triển trong Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du vào đầu năm 1999. Tác giả đã khai thác ba đặc điểm nghệ thuật của thơ chữ Hán: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật. Đó là những nét lớn tập trung trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du qua toàn bộ thơ chữ Hán. Như vậy, từ chuyên luận này, chúng ta có một cái nhìn khá toàn diện về thơ chữ Hán Nguyễn Du. Luận văn thạc sĩ của Trịnh Thị Ngọc Thúy Những nhân tố phục hưng trong sáng tác của Nguyễn Du năm 2001 được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, nói đến những cơ sở lý luận, nhân tố phục hưng cũng như những giá
  • 12. 6 trị nhân văn trong sáng tác của Nguyễn Du. Tác giả nghiêng về nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn trong truyện Kiều. Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Bích Vân Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du năm 2003 được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung xoay quanh vấn đề chính: hình tượng nghệ thuật về con người. Con người yêu thương, con người đời thường, con người vũ trụ là ba khía cạnh của hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc hành tạp lục. Năm 2005, Luận án tiến sĩ của Hoàng Trọng Quyền Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng nhân văn trong thơ Nguyễn Du và Đỗ Phủ và khẳng định rằng tư tưởng nhân văn là vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất trong tư tưởng nghệ thuật của cả hai nhà thơ. Cũng nghiên cứu về tư tưởng nhân văn, luận văn của Nguyễn Thị Huyền Thương Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, được bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, trình bày những biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn trong thơ của ba tác gia lớn. Năm 2011, Lê Thu Yến tiếp tục nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du với chuyên luận Nguyễn Du và những nhân vật lịch sử Trung Quốc được in trên Những lằn ranh văn học (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) làm rõ hơn những luận bàn của Nguyễn Du. Qua đó, tác giả nhận định: “Nguyễn đã tổng kết, đánh giá hàng loạt những vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gương tiêu biểu: cùng khổ, tài hoa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác… được đọc trong sách, tận tường hơn khi đến nơi, cảm được khung cảnh, nhận rõ sự việc…” [32; 505]. Ít nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Các tác giả xoay quanh những vấn đề tìm hiểu những tâm sự, tâm tình của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán gắn liền với một giai đoạn lịch sử đầy biến động, qua đó cho ta thấy được nhân sinh quan cũng như tấm lòng
  • 13. 7 thương yêu chân thành và niềm cảm thông của Nguyễn Du đối với tất cả mọi kiếp người trong xã hội. Do tính chất, mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nêu trên chưa đặt ra cụ thể về vấn đề nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tuy nhiên, tất cả các bài viết trên chính là tiền đề và cơ sở giúp người viết thực hiện tốt công trình này. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu khái quát về thời đại, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du; từ đó có thể có được cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn về con người nhà thơ, về những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và nỗi khắc khoải đi tìm mình, niềm trắc ẩn của Nguyễn Du để làm tiền đề cho việc nghiên cứu “Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”. Thứ hai, luận văn tìm hiểu nét đẹp nhân văn trong thơ, qua đó phần nào hiểu những tâm tư, suy nghĩ của nhà thơ về thế sự và kiếp người thông qua ba tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Qua những nỗi niềm riêng cũng như cách Nguyễn Du đánh giá về cuộc đời, về con người, ta hiểu thêm những khía cạnh của nét đẹp nhân văn trong thơ Nguyễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Về đối tượng khảo sát Với đề tài đã chọn, đối tượng nghiên cứu của luận văn là nét đẹp nhân văn, những khía cạnh biểu hiện và hình thức biểu hiện của nó qua thơ chữ Hán Nguyễn Du. Hướng nghiên cứu của đề tài là từ việc tìm hiểu thời đại, bối cảnh lịch sử xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm của Nguyễn Du đến những biểu hiện cụ thể của con người nhân văn Nguyễn Du và nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán của ông.
  • 14. 8 * Về phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn là mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du với tư liệu từ 250 bài thơ trong ba tập thơ chữ Hán là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Do còn nhiều ý kiến tranh luận về văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du nên để thuận lợi cho việc khảo sát, người viết tạm thời chỉ dựa vào những bài thơ được phổ biến ở tập 1 (phần thơ chữ Hán) trong bộ Nguyễn Du toàn tập do Mai Quốc Liên chủ biên; Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc và Lê Thu Yến phiên âm, dịch nghĩa và chú thích. Ngoài tư liệu trên, người viết còn sử dụng những tư liệu khác như Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và một số tác phẩm của các tác giả khác trong văn học trung đại Việt Nam và văn học Trung Quốc. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu vào thời đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm và đề tài nghiên cứu. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Người viết sẽ tìm hiểu thêm về thơ của các nhà thơ trung đại có những nét gần gũi với Nguyễn Du để làm rõ hơn nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán của ông trong hệ thống của tiến trình phát triển văn học trung đại lúc bấy giờ. Trên cơ sở đó, luận văn cố gắng lí giải thế giới quan, nhân sinh quan cũng như những tiền đề, cơ sở di dưỡng niềm trắc ẩn của Nguyễn Du trong một giai đoạn đầy phức tạp và biến động của lịch sử dân tộc. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Là phương pháp giúp người viết vừa khai thác vấn đề ở những khía cạnh chi tiết để nắm được bản chất vấn đề, vừa tổng hợp lại nhằm có những kết luận khái quát về vấn đề. 6. Đóng góp của đề tài Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Đây là lĩnh vực còn mới mẻ, khó khăn đối với không ít giáo viên và học sinh. Vì thế, đây có thể là tài liệu tham khảo thêm cho giáo viên khi giảng dạy về tác gia Nguyễn Du, nhưng trước hết nó phục vụ cho công việc, giảng
  • 15. 9 dạy của người viết. Luận văn cũng góp phần nghiên cứu một khía cạnh của thiên tài Nguyễn Du cũng như góp phần hoàn chỉnh bức chân dung của đại thi hào, bức chân dung của một con người nhân văn với ba tập thơ chữ Hán cũng thấm đượm tinh thần nhân văn. 7. Cấu trúc luận văn Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Nguyễn Du 1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du 1.3. Khái niệm nét đẹp nhân văn Chương II. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG 2.1. Những chiêm nghiệm, suy tư về con người cá nhân 2.2. Những nỗi niềm trắc ẩn về số phận con người 2.3. Những cảm nhận về nhân sinh Chương III. NÉT ĐẸP NHÂN VĂN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật 3.2. Biểu tượng nghệ thuật 3.3. Giọng điệu nghệ thuật 3.4. Bút pháp nghệ thuật
  • 16. 10 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Nguyễn Du 1.1.1. Thời đại Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du sống trong một thời đại vô cùng rối ren của nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì chế độ phong kiến bộc lộ rõ nhất những ung nhọt và thối nát của nó. Bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Lê mạt - Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động. Cuộc đối đầu giữa hai dòng họ, họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai thế kỉ (từ năm 1570 đến 1786). Đất nước rơi vào cảnh Nam Bắc chia cắt hết sức lầm than, đời sống của người dân muôn vàn cực khổ, điêu đứng. Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn năm 1771. Phong trào này cùng một lúc đã đánh tan hai tập đoàn phong kiến phản động trong nước và hai cuộc xâm lược của ngoại bang là Xiêm và Mãn Thanh, góp phần không nhỏ trong việc thống nhất đất nước. Sau khi lên ngôi, Quang Trung ban hành nhiều chính sách tiến bộ, ích nước lợi dân. Nhưng làm vua được vài năm, Quang Trung mất, các thế lực phản động nổi lên, đất nước lại rơi vào cảnh điêu linh. Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập. Sự thay đổi chóng vánh ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến Nguyễn Du và gia đình của ông. Ông chưa hết xót xa đau đớn cho tình cảnh tan tác của tập đoàn Lê - Trịnh, lại một lần nữa chứng kiến sự sụp đổ trong nháy mắt của triều đại Tây Sơn. Vận mệnh rỡ ràng, ngắn ngủi của triều đại ấy kết thúc thấp thoáng phía sau là công cuộc khôi phục của triều đình nhà Nguyễn. Là chứng nhân chứng kiến mọi biến cố đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du sống trong một trạng thái bàng hoàng, hẫng hụt về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được một lẽ sống, một chỗ
  • 17. 11 đứng nào vững vàng, ổn định, một con đường nào để giải thoát cho bản thân. Sự bế tắc đó cũng chính là bi kịch của cuộc đời Nguyễn Du. Thời đại đầy rẫy biến động, đầy rẫy đau thương ấy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời và những trải nghiệm, suy nghĩ của Nguyễn Du. Thực trạng này cũng giúp chúng ta phần nào lý giải được những mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du, đồng thời hiểu được vì sao trong thơ, Tố Như lại đau đời, thương người và day dứt trước thân phận con người đến thế. 1.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có câu ca dao về dòng họ này: “Bao giờ ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, họ này hết quan” Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn chương. Sống trong một môi trường giàu truyền thống văn học như thế, năng khiếu của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở từ rất sớm. Lúc còn bé, Nguyễn Du được sống trong cảnh giàu sang, hạnh phúc nhưng tuổi thơ tươi đẹp của ông không kéo dài được bao lâu. Năm Nguyễn Du tròn mười tuổi đã có hai biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh cùng mẹ với Nguyễn Du mắc bệnh mất ở kinh thành giữa tuổi mười tám và Nguyễn Nghiễm, cha của Nguyễn Du cũng qua đời. Khi Nguyễn Du lên 13 tuổi, mẹ ông cũng mất. Vậy là, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, không biết nương tựa vào đâu trong khi các anh em cùng mẹ với Nguyễn Du còn quá nhỏ, do đó Nguyễn Du phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản hơn Nguyễn Du 31 tuổi, sớm đỗ đạt, làm quan to trong triều, lại là một con người tài hoa rất mực, đã có ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Du sau này. Cảnh sống hào hoa của Nguyễn Khản được Phạm Đình Hổ viết: “Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cứ cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang quan Tư
  • 18. 12 đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn cứ sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm thơ Nôm”. Bọn con em họ quý thích đều bắt chước chơi bời hầu như thành thói quen” [12; 246]. Sống trong hoàn cảnh như vậy nên từ rất sớm, Nguyễn Du đã di dưỡng tấm lòng trắc ẩn và cảm thông sâu sắc đối với phụ nữ nói chung và ca kĩ nói riêng. Họ phải đem tài sắc và giọng hát của mình để mua vui cho kẻ giàu sang, mua vui cho cuộc đời. Sau này, Nguyễn Du có dịp chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng bất công ngang trái của những kiếp người tài hoa bạc mệnh và ông luôn đứng về phía họ để lên tiếng bênh vực và che chở. Nguyễn Du sống với anh cũng chẳng bao lâu. Năm nhà thơ 18 tuổi, vừa đỗ Tam trường, gia đình của Nguyễn Khản gặp biến cố. Kiêu binh nổi loạn, Nguyễn Khản cải trang chạy lên Sơn Tây, sau đó thì về quê ở Hà Tĩnh. Gia đình Nguyễn Du từ đây mỗi người mỗi ngã. Trước kia, một ông quan họ Hà, làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, giữ chức Chánh thủ hiệu hiệu quân hùng hậu ở Thái Nguyên, không có con trai, xin Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi họ Hà mất, Nguyễn Du được tập ấm chức ấy. Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc phá tan 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống bỏ nước chạy theo đám tàn quân của giặc. Lúc này các anh em cùng mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Đề và Nguyễn Ức chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp. Nguyễn Du từ giã Nguyễn Đề và Nguyễn Ức để trở về quê vợ ở huyện Quỳnh Đôi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Khi người vợ họ Đoàn mất, ông về quê Hà Tĩnh làm “người đi săn ở núi Hồng” (Hồng Sơn liệp hộ), “người câu cá ở biển Nam” (Nam Hải điếu đồ). Năm 1796, Nguyễn Du có ý định vào Nam giúp Nguyễn Ánh nhưng bị trấn tướng của Tây Sơn ở Nghệ An là Nguyễn Thận bắt giam. Sau vì Nguyễn Thận nể anh ruột của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ làm quan cho Tây Sơn cũng là bạn của mình, lại mến tài của Nguyễn Du nên tha. Từ đó Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền trong một thời gian dài. Đây là những năm Nguyễn Du ở “dưới chân núi Hồng”. Chiến tranh loạn lạc xảy ra, ông tận mắt chứng kiến cảnh thay đổi sơn hà, gia đình li tán, anh em lưu lạc mỗi người một nơi. Cuộc đời ông như ngọn cỏ bồng đứt
  • 19. 13 gốc lăn lóc bên trời, trôi giạt từ đầu sông đến cuối bể, cơm không đủ ăn, ốm không thuốc uống, từng có lúc đau khổ gần như tuyệt vọng. Nhưng cũng chính những bước đường thương đau ấy đã giúp ông thực sự có dịp hiểu biết và sống gần gũi với quần chúng. Năm 1802, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Tháng 8 năm ấy, Nguyễn Du được bổ nhiệm làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Từ đó, ông được giữ nhiều chức vụ khác nhau trong triều. Năm 1809, ông được bổ làm Cai bạ ở Quảng Bình và ở chức này bốn năm liền. Nguyễn Du làm quan không nghĩ đến danh lợi, lúc nào cũng chăm lo đến đời sống của nhân dân. Gia phả chép: “Khi làm quan chức cai bạ dinh Quảng Bình, phàm những việc công trong hạt như lính tráng, dân sự kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương lượng với các quan Lưu thủ, Ký lục để thi hành. Ông giữ chức Cai bạ bốn năm, chính sự giản dị, không cầu tiếng tăm, nên được sĩ phu và nhân dân yêu mến” [48; 18]. Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1819, ông được cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam. Ông dâng biểu cố từ, được vua chuẩn y. Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi, định cử ông làm chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm Đinh Thìn. Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn từ năm 1802 cho đến lúc mất 1820, tính đúng là 19 năm. Trừ những thời gian xin về tạm nghỉ ở quê nhà có thể nói là không gián đoạn. Ông thăng chức khá nhanh và có lúc giữ nhiều chức vụ quan trọng. Gia phả chép: “… dẫu làm đến chức Á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một người học trò nghèo” [48]. Quả thật điều đó làm không ít người yêu quý và cảm thấy gần gũi ông. Khi làm quan dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du ít nói năng đến nỗi có lần ông bị vua quở rằng: “Nhà nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người Bắc, người Nam. Khanh (Nguyễn Du) với Ngô Vị đã được trẫm biết tài mà bổ dụng,
  • 20. 14 làm quan đến chức Tham tri, biết điều gì cứ nói, để làm hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?” [48; 19]. Dường như ông luôn mang trong mình nỗi buồn không thể nói cùng ai. Nỗi buồn ấy ông đành chôn chặt tận đáy lòng ngay cả khi xuống dưới tuyền đài: “Đến khi ốm nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói: “Được” rồi mất, không trối lại một lời” [48; 19]. Những năm tháng thăng trầm, lưu lạc và sống gần gũi với quần chúng đã đem lại cho ngòi bút Nguyễn Du sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc với thân phận những con người bé nhỏ, những kiếp tài hoa bạc mệnh. 1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du có ba tập thơ Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với tổng số 250 bài. Về chữ Nôm, xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh, thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn có Văn chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài Thác lời trai phường nón. 1.2.1. Thanh Hiên thi tập Đây là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du sáng tác gồm 78 bài được chia thành ba giai đoạn: • Mười năm gió bụi: (1786 - khoảng cuối 1795 đầu năm 1796) tức năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh. • Dưới chân núi Hồng (1796 -1802): quãng thời gian ông về ẩn tại quê nhà (Hà Tĩnh). • Làm quan ở Bắc Hà (1802 -1804): quãng thời gian ông bắt đầu ra làm quan cho nhà Nguyễn. Thanh Hiên thi tập chứa đựng tình cảm quê hương và tình cảnh của Nguyễn Du trong những năm tháng lưu lạc. Nhà thơ sống nghèo túng, có khi ốm đau mà chẳng thuốc thang gì, có lúc đói rét phải nhờ cậy vào lòng thương của người khác. Tâm sự của tác giả trong thời kỳ này là một tâm sự buồn rầu, có khi chán nản, uất ức…
  • 21. 15 Tập thơ bộc lộ nỗi niềm Nguyễn Du trong những tháng năm sống long đong, mất phương hướng, mất lòng tin, thậm chí cả tâm trạng hoang mang, vô vọng với rất nhiều xót xa về thân phận chân trời góc bể, một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây, người đã đến bước đường cùng… Sống giữa thời buổi loạn ly, Nguyễn Du cảm nhận về cuộc đời thường nhật, về nỗi cửa nhà tan tác, ý thức về nỗi cô đơn và sự vô vị, vô nghĩa của đời mình trước thời gian qua mau. 1.2.2. Nam trung tạp ngâm Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài Nguyễn Du làm trong thời gian giữ chức quan ở Phú Xuân và Quảng Bình rồi lại trở về Phú Xuân, từ năm 1804 cho đến năm ông qua đời (1820), là 16 năm. Nhà thơ gửi gắm ở tập thơ này nỗi thất vọng ở chốn quan trường, nơi đầy rẫy những rối ren, ganh đua, lòng người hiểm ác và nhà thơ luôn phải cẩn thận giữ gìn. Việc làm quan với Nguyễn Du chỉ là chuyện bất đắc dĩ chứ không phải là chuyện công danh. Ông sống rất thanh bạch nhưng “thường bị quan trên quở trách nên lấy làm uất ức, bất chí”. Trong tình cảnh làm quan không mấy toại ý, Nguyễn Du lại ao ước về nhà sống đạm bạc, làm bạn với hươu nai. Điều ấy được phản ánh trong tập thơ này. 1.2.3. Bắc hành tạp lục Bắc hành tạp lục gồm 132 bài, được sáng tác trong khoảng 1813 -1814, khi đó Nguyễn Du được nhà Nguyễn cử làm chánh sứ sang Trung Quốc tuế cống. Nguyễn Du đã ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật và hoàn cảnh mà ông đã quan sát, cùng những hoài niệm riêng tư trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa. Tập thơ Bắc hành tạp lục, bên cạnh những bài thơ viết về Thăng Long như Thăng Long - kỳ nhất, Ngộ gia đệ cựu ca cơ, Long Thành cầm giả ca... thì tất thảy đều viết về chuyến đi sứ Trung Quốc nối dài suốt một năm trời. Những bài thơ Nguyễn Du viết trên đường đi sứ được chia thành hai loại: phản ánh những điều tai nghe mắt thấy và đề vịnh lịch sử. Tập thơ Bắc hành tạp lục cho thấy ở Nguyễn Du một khả năng quan sát chi tiết, kiến thức thâm sâu về địa lý và lịch sử Trung Hoa cũng như một hệ thống suy tư
  • 22. 16 đặc thù, sâu sắc về nhân sinh. Khái quát cả ba tập thơ, Nguyễn Hữu Sơn nhận xét rằng: “Ba tập thơ cho thấy những chặng đường sáng tác phù hợp với các chặng đường đời và tư tưởng tác giả. Xuyên suốt nội dung thơ chữ Hán là tiếng nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người” [34; 20]. 1.3. Nét đẹp nhân văn 1.3.1. Thuật ngữ “nhân văn” Nhân văn là thuật ngữ khá phổ biến trong nghiên cứu văn học và văn hoá. Hiểu theo nghĩa từng từ tố, nhân là người, văn là vẻ đẹp; nhân văn là vẻ đẹp của con người. Thuật ngữ này ra đời trong văn hoá phương Tây như một sự tôn vinh những trào tư tưởng đứng về phía con người, khẳng định sức mạnh trần thế của con người trong sự đối lập với thần linh, khẳng định hạnh phúc trần thế của con người trong sự đối lập với thiên đường hạnh phúc xa xôi phi trần thế. Thông thường, nhân văn được xem như một trào lưu tư tưởng, trào lưu văn hoá hoặc một thứ thế giới quan. Vì vậy mà có các cách nói quen thuộc: chủ nghĩa nhân văn / tư tưởng nhân văn. Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), NXB Giáo Dục, 2006 chủ nghĩa nhân văn được hiểu ở hai cấp độ: thế giới quan và lịch sử. Ở cấp độ lịch sử, “Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hoá - tư tưởng nảy sinh ở Ý và một số nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV-XVI). Những người khởi xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thời Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm không phải thần linh mà là con người định đoạt lấy số phận của mình. Con người có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con người” [11; 89].
  • 23. 17 Ở cấp độ thế giới quan, “Chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại” [11; 88]. Hai cấp độ này có quan hệ với nhau. Đối lập với thời Cổ đại và Trung cổ, thời Phục hưng khẳng định tự do của con người trong quan hệ với thần thánh. Con người tạo ra mình trong hành động, anh ta là cha của chính mình (E. Garon) [29; 78]. Nhiều nhà nghiên cứu đã xem thành tựu lớn nhất của văn hoá Phục hưng là “phát hiện ra con người”: “Khái niệm logic về con người đã có từ lâu, nhưng chỉ thời Phục hưng mới hoàn toàn nhận thức được thực chất của khái niệm này” (Jacob Burckhardt) [29; 76]. Từ trong nền văn hoá Phục hưng, chủ nghĩa nhân văn đã tự khẳng định mình như một thứ thế giới quan và một trào lưu văn hoá lấy con người làm trung tâm thế giới. Trong văn học, thuật ngữ chủ nghĩa nhân văn thường được dùng để chỉ những giai đoạn, trào lưu hoặc tác gia tôn vinh con người, ca ngợi những giá trị thuộc về con người, đấu tranh cho hạnh phúc của con người và thể hiện lòng thương yêu con người sâu sắc. Có một thuật ngữ gần nghĩa với nhân văn, đó là nhân đạo. Theo nghĩa gốc Hán, nhân là lòng thương yêu con người. Khổng Tử viết: nhân ái nhân dã (nhân là lòng yêu người vậy). Đạo là con đường, là đạo lí. Trong văn học, nói đến chủ nghĩa nhân đạo là nói đến lòng yêu thương con người. Ở nước ta, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học dân gian và bác học thường phát triển đến đỉnh cao khi chế độ phong kiến đã trở nên thối nát, đời sống nhân dân lầm than, số phận con người bị khinh rẻ. Trong một chừng mực nhất định, thuật ngữ nhân văn bao gồm trong nó những nội dung của thuật ngữ nhân đạo. Cái vĩ đại nhất của Nguyễn Du, theo chúng tôi là ông hết lòng yêu thương con người. Lòng yêu thương con người của Nguyễn Du bắt nguồn từ sự cảm thông sâu
  • 24. 18 sắc đối với số phận của con người trong một xã hội mục ruỗng, nhiều bất công. Ông chia sẻ với những nỗi đau của nhiều thân phận. Yêu thương con người, bế tắc trước câu hỏi về hạnh phúc của con người, Nguyễn Du trăn trở về trách nhiệm, về bản thân mình với tư cách một nhà nho. Nguyễn Du nhận ra những giá trị tốt đẹp của con người cũng như căm ghét những thế lực chống lại con người. Tất cả điều này đều được thể hiện trong các sáng tác của Nguyễn Du. Tìm hiểu nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng tôi giới hạn ở: một, sự trăn trở về bản thân của nhà thơ; hai, lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với số phận con người; ba, sự tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người và căm ghét những thế lực xấu xa chống lại con người (qua thái độ đối với những nhân vật lịch sử Trung Hoa). 1.3.2. Cơ sở xã hội của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Ở phương Tây, trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời, con người đã phải trải qua một thời gian dài sống trong “đêm trường trung cổ”, chịu sự thống trị của giai cấp phong kiến và Giáo hội. Giáo hội quan niệm con người là hiện thân của tội lỗi nên con người phải sống khổ hạnh, từ bỏ nhu cầu trong cuộc sống để trả giá cho những tội lỗi của mình. Sang thế kỉ XV, con đường giao lưu giữa các châu lục được mở rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và xã hội ở các nước Tây Âu. Chủ nghĩa tư bản Ý ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới, tạo ra những biến động lớn về chính trị và xã hội, ảnh hưởng lớn đến nhiều nước khác. Hệ tư tưởng của nó đối lập hoàn toàn với hệ tư tưởng phong kiến và Giáo hội. Con người bắt đầu nhận thức về quyền sống của mình và cả những nhu cầu bản năng. Họ bắt đầu ý thức được việc phải đấu tranh để thoát khỏi những ràng buộc của tư tưởng siêu hình, thần bí, thoát khỏi sự áp chế của những thế lực phong kiến. Tất cả những biến động trên đã làm nền cho sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn. Đó là một trào lưu tư tưởng tiến bộ đã mang lại một sắc thái mới cho văn học Phục hưng. Chủ nghĩa nhân văn chống lại những tư tưởng phản tự nhiên thời Trung cổ, đấu tranh đòi con người phải được hưởng quyền sống chính đáng nơi trần thế, phải
  • 25. 19 được ăn, được mặc, được hưởng thụ những thú vui vật chất cũng như tinh thần của con người. Xã hội trung cổ càng hướng con người đến sự hành xác, khổ hạnh và triệt tiêu mọi giá trị của cuộc sống thực thì các nhà tư tưởng thời Phục hưng lại càng cổ vũ họ thoát khỏi những xiềng xích trói buộc ấy để sống tự do, tìm kiếm, đề cao và ngợi ca những nét đẹp vốn có của con người thời đại. Chính vì thế, khái niệm nhân văn với ý nghĩa nét đẹp của con người ra đời và phát triển thành chủ nghĩa nhân văn lúc bấy giờ. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng là tư tưởng giải phóng nhân cách độc lập của con người đã phát triển chín muồi. Đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học là con người trong sự năng động và biến đổi trong cuộc sống, là con người trần thế với những nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần, xác thịt và trí tuệ với tất cả những khát vọng chính đáng, với tất cả những khả năng và triển vọng to lớn của nó. W. Shakespeare cho rằng: “Con người là một công trình tuyệt mỹ của tạo hóa, là vàng ngọc của vũ trụ”. Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó nhất định phải hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người bởi vì Văn học là một nghệ thuật nhân văn cao cả, người ta có thế nói nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh ra chủ nghĩa nhân văn (M. Gorki). Chủ nghĩa nhân văn đã xuất hiện từ trong văn học dân gian. Hoàng Tiến Tựu cho rằng ca dao, dân ca không phải lúc nào cũng phát triển như nhau. Ca dao, dân ca thường phát triển mạnh mẽ nhất vào lúc chế độ phong kiến trong giai đoạn thối nát. Càng chịu nhiều áp bức, chịu nhiều đau khổ dưới chế độ mục nát thì người dân càng có ý thức đấu tranh và vươn lên mạnh mẽ. Tất cả điều đó được thể hiện trong ca dao, dân ca. Nguyễn Du sống vào thời đại chủ nghĩa nhân văn bùng phát và ca dao, dân ca đang ở giai đoạn phát triển nhất. Nguyễn Du được trời phú cho bản chất tài hoa, lại có vốn sống phong phú, am hiểu sâu sắc về văn hóa dân gian. Trong bài “Thanh Minh ngẫu hứng”, nhà thơ từng viết:
  • 26. 20 “Thôn ca sơ học tang ma ngữ Dã khốc thời văn chiến phạt thanh” (Ta học trong câu hát nơi thôn dã tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai. Ta thường nghe trong tiếng khóc nơi thôn dã tiếng oán hận chinh chiến) Nguyễn Du không chỉ học tiếng nói từ người trồng dâu, trồng gai mà còn là người kết nối tư tưởng nhân văn của văn chương bác học và văn chương bình dân lúc bấy giờ. Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du thực chất là kết quả của sự kết hợp lòng nhân ái của nhà thơ và chủ nghĩa nhân văn trong nhân dân. Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam có những thay đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội... Xã hội Việt Nam diễn ra sự khủng hoảng trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến. Nước ta vẫn bị chia cắt thành Đàng Ngoài (do họ Trịnh đứng đầu) và Đàng Trong (do họ Nguyễn đứng đầu). Sự xa hoa vô độ của hai tập đoàn này càng lúc càng thổi bùng lên nỗi bất mãn và tinh thần phản kháng quyết liệt trong lòng dân. Tình hình chính trị bất ổn của triều Nguyễn đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn cùng, đói cơm rách áo, tha phương cầu thực; đời sống nhân dân vô cùng cực khổ dưới những gông cùm, xiềng xích. Tầng lớp thống trị càng áp bức bóc lột nhân dân thì càng làm nảy sinh các cuộc khởi nghĩa nông dân ở khắp nơi. Hiện trạng xã hội này được phản ánh trong các tác phẩm ghi chép, mô tả thực tế như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái… Trên mảnh đất hiện thực điêu linh ấy, văn học trung đại lại có một mùa hoa rực rỡ nhất. Giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX đánh dấu một sự chuyển biến về chất trong văn học. Đúng như Mai Quốc Liên nhận định: Lần đầu tiên trong văn học, con người cá nhân được đặt vào vị trí trung tâm, được soi sáng từ bên trong, từ nội tâm và nhu cầu hạnh phúc, nhu cầu phát triển nhân cách tài năng được đặt ra [22 ; 17]. Đó là nền văn học có tính chất phục hưng với một chủ nghĩa nhân đạo trác tuyệt [22; 17]. Điều đặc biệt đáng chú ý ở giai đoạn này là sự hình thành đội ngũ sáng tác có vốn sống phong phú. Họ là những con người có điều kiện tiếp xúc với văn hóa đô
  • 27. 21 thị và gần gũi với đời sống của nhân dân lao động, hiểu rõ được tâm tư nguyện vọng của nhân dân nên nguồn cảm hứng là những vấn đề xoay quanh số phận con người cũng như những bi kịch nhức nhối của con người và xã hội. Họ đã có thể vươn khỏi chỗ đứng giai cấp để đồng cảm với cuộc sống đói cơm rách áo của quần chúng. Thời đại càng có nhiều biến động, con người càng đặt ra nhiểu câu hỏi về bản thân, về xã hội, về sinh mệnh và ý nghĩa tồn tại của mình, nhất là khi con người đó đã được tìm hiểu, được phần nào tiếp xúc với văn hóa bên ngoài. Nền văn học Việt Nam trở mình với tấm lòng trắc ẩn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và thơ chữ Hán, với tiếng nói khao khát hạnh phúc lứa đôi, phản đối chiến tranh phong kiến trong Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), với lời than cho số phận người phụ nữ trong Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), với sự thách thức lễ giáo trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Sự ra đời của tầng lớp độc giả đô thị ở Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Gia Định… cùng ảnh hưởng của văn học Trung Hoa, đặc biệt là tiểu thuyết Minh Thanh, đã tác động mạnh mẽ đến văn học Việt Nam. Văn học Việt Nam phát triển lên một bước cao hơn với tất cả nội lực của mình. Vấn đề số phận con người, khát vọng, ước mơ được sống hạnh phúc, sống xứng đáng với kiếp làm người được gửi gắm trong những sáng tác thời kì này với nghệ thuật điêu luyện và bút pháp nhuần nhị. Văn học còn hướng tới cái đời thường, cái bình dị, thậm chí cả các đề tài bị tư tưởng nho giáo quy chụp là “tục”, phi lễ giáo (tình yêu trong Truyện Kiều, yếu tố tục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương). Cảm hứng sáng tác giai đoạn này dựa trên tinh thần nhân văn của quần chúng lao động, đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của con người, chống đối lại mọi thế lực xã hội phủ định, chà đạp lên sự phát triển của con người. Tinh thần nhân văn ấy còn mang nhiều hạn chế của thời đại nhưng nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự phát triển của văn học đương thời. Văn học giai đoạn này còn hướng vào khẳng định ý thức cá nhân. Đó là ý thức về quyền sống cá nhân, hạnh phúc cá nhân, tài năng và bản lĩnh cá nhân. Cả những nhu cầu chính đáng của con người trong đời sống tình cảm, tình yêu, hạnh phúc gia đình, thậm chí cả trong vấn đề tình dục của con người cũng được hé mở.
  • 28. 22 Những nhân vật trong tam cương (vua, cha, chồng) được xem là trung tâm của cả xã hội và gia đình, là kẻ trên mà những người dưới phải phục tùng, mà trong đó người chịu áp bức, bị ép buộc phải tuân phục nhiều nhất chính là người phụ nữ. Đi ngược lại với tư tưởng này, các sáng tác thời bấy giờ hướng đến những con người bình thường, không phải là những đấng, bậc mà là những số phận bất hạnh, tủi cực, đặc biệt là những người phụ nữ bị đày đọa. Trần Đình Sử đã có những nhận định rất sâu sắc về chủ nghĩa nhân văn trong giai đoạn này: “Cùng với ý thức về quyền sống, ý thức về số phận con người được nêu cao. Những nỗi buồn, nỗi oan nỗi hận trong các số phận oan trái trở thành niềm day dứt, thổn thức của nhà thơ. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, khóc ca nữ La Thành, khóc người đánh đàn ở Thăng Long… Cả mấy tập thơ chữ Hán của ông đều là tiếng khóc than cho đời người bị phôi pha tan nát, oan uổng. Hồ Xuân Hương nguyền rủa số phận: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Nguyễn Công Trứ trong bài “Hàn nho phong vị phú” cũng nói: “Chém cha cái khó! Chém cha cái khó! Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó!”. Phạm Thái chửi rủa số phận: “Đù ỏa nhân gian sống mãi chi”. Có thể nói con người trong văn học thời này không cam phận sống một chiều, theo giáo lý, theo lời dạy thánh hiền, họ bất bình với số phận, muốn đổi thay” [37; 221]. Nguyễn Du – một viên quan đương nhiệm – lại rút ruột rút gan viết nên những câu thơ miêu tả cuộc đời trầm luân của nàng Kiều - một kỹ nữ - để bày tỏ và kêu gọi sự thương cảm dành cho những kiếp đoạn trường chứ không phải để tuyên truyền đạo trung, đạo hiếu. Nguyễn Du cũng cho phép nàng Kiều đem cân chữ tình với chữ hiếu: Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn và khẳng định phẩm giá đẹp đẽ lấy hiếu làm trinh của Kiều, cho dù nàng từng lưu lạc vào những chốn nhơ đục. Tiếp thu luồng tư tưởng của thời đại cộng với một trái tim dạt dào tình yêu thương, với những suy ngẫm, trăn trở riêng của bản thân, Nguyễn Du đã viết nên những kiệt tác thấm đẫm tinh thần nhân văn. Thơ chữ Hán Nguyễn Du là tiếng nói yêu thương, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, đồng thời là tiếng nói lên án, phê phán những cái xấu xa, đi ngược lại những giá trị nhân văn. Qua đó, Nguyễn Du lên tiếng đòi quyền sống và quyền hạnh phúc cho con người.
  • 29. 23 1.4. Nét đẹp nhân văn qua các thời kì văn học trung đại Việt Nam 1.4.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV, nổi bật hơn cả là nền văn học Lý - Trần, là một nền văn học đậm đà tinh thần dân tộc và chất nhân văn. Xu hướng sáng tác của vua quan thời kì này chủ yếu gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc. Một Phạm Ngũ Lão đặt mình trong mối quan hệ với non sông đất nước, đem hết chí trai tận tụy cống hiến và sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn: “Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu (Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão) Một Trần Quang Khải luôn lo nghĩ cho vận mệnh của nước nhà, cho một nền thái bình thịnh trị: Thái bình nên gắng sức Non nước ấy ngàn thu (Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải) Thời chiến, họ xông pha chiến trận không sợ hiểm nguy; còn thời bình, vẫn canh cánh tấm lòng lo nghĩ cho dân, cho nước. Nam vọng lang yên vô phục khởi, Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an. (Trông về phương Nam không còn khói lang bốc lên nữa, Thảnh thơi trên giường, yên tâm với giấc mơ riêng) (Phúc Hưng viên - Trần Quang Khải) Vẻ đẹp nhân văn, tinh thần nhân văn cao đẹp của xu hướng sáng tác này là sự tận tụy cống hiến hết mình, sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự an nguy của dân tộc. Một trong những hiện tượng độc đáo trong văn học thời kì này còn là sự xuất hiện và phát triển thơ của các thiền sư. Các tác giả thơ thiền Lý - Trần là những con người luôn suy tư chiêm nghiệm về thời cuộc, tự nhiên và lẽ sinh - tử, được - mất của đời người.
  • 30. 24 Trong thơ thiền đời Lý, con người hiện lên với vẻ đẹp của trí tuệ minh triết. Trước hết, đó là vẻ đẹp an nhiên tự tại của con người hiểu rõ quy luật tự nhiên và sống hòa nhịp cùng quy luật. Hiểu rõ quy luật sinh - trụ - dị - diệt của thế giới tự nhiên và sinh - lão - bệnh - tử của đời người, con người không còn bị cầm tù trong những vòng dây đau buồn, lo sợ, nuối tiếc về chuyện thịnh suy, được mất: Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô (Thị đệ tử - Vạn Hạnh) (Thân như bóng chớp có rồi không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng. Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa! Ngọn cỏ giọt sương đông) Ngày tháng của đời người quý giá biết dường nào, hãy sống hết mình giây phút này, đừng để thời gian trôi qua rồi ngồi hối tiếc. Các thiền sư nói đến sự tan - hợp, mất - còn của sắc thân bằng một tâm trạng bình thản, vui vẻ chấp nhận chứ không lo sợ. Họ ý thức về sự hiện hữu của con người theo quan điểm thiền học, đặc biệt là thái độ trước cái chết, sự tàn phai, biến ảo của cuộc đời. Đằng sau sự đổi thay, tàn phai và hủy diệt, cái đẹp của tâm hồn vẫn còn lại mãi. Và cả niềm khát khao vươn tới cái đẹp đầy ý nghĩa nhân văn… Trong hành động, nhiều thiền sư thời Lý - Trần khi đất nước có biến thì sẵn sàng nhập thế giúp vua chống giặc giữ nước, thậm chí không ngần ngại đích thân lâm trận để rồi khi giặc tan, đất nước thanh bình thì vứt bỏ danh vọng, vào chùa khoác áo cà sa tụng kinh, niệm Phật, toàn tâm hướng đạo. Nếu giáo hội phương Tây chủ trương con người phải sống khổ hạnh, từ bỏ mọi nhu cầu trong đời sống trần thế để hướng con người đến Thượng đế, đến cõi vĩnh hằng thì các nhà thơ thiền Lý – Trần chủ trương hướng con người tìm đến hạnh phúc ở ngay cuộc sống trần thế, ngay trong bản thân mình và an nhiên tự tại trước đời sống:
  • 31. 25 “Ở đời, vui đạo hãy tùy duyên Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền Trong nhà có báu, tìm đâu nữa Trước cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền” (Cư trần lạc đạo – Trần Nhân Tông) Vượt khỏi cái chấp vào không hay có, con người trở thành đạt đạo, vươn đến một cuộc sống bình dị, có ý nghĩa ngay trong cuộc đời này. Thái độ nhập thế thật trong sáng, tích cực, hài hòa cùng mạch sống dân tộc, ăn – ngủ, làm việc, đánh giặc giúp nước, hành đạo giúp đời, hợp lòng người lẽ đạo. Con người trong thơ thời Trần mang nhiều nét đẹp nhân văn, trước hết nét đẹp nhân văn đó thể hiện ở ý thức tự phản tỉnh. Các nhà thơ thời Trần, nhất là các nhà thơ Thiền thường phản tỉnh để ý thức và chiêm nghiệm lại những gì mình đã trải qua. Sự phản tỉnh giúp các nhà thơ nhận chân được nhiều giá trị đẹp ở đời như cái đẹp, cái cao cả của con người cũng như thấy được giới hạn và bi kịch của đời người. Phản tỉnh để tự xem xét về ý nghĩa của kiếp người, sự tồn tại của đời người và hơn hết phản tỉnh để tự ý thức, tự nhìn lại những hành động của bản thân. Những tốt - xấu, phải - trái, đúng - sai, tất cả đều cần được nhìn nhận lại để con người luôn định hướng cho mình con đường đi đúng đắn. Phản tỉnh còn là sự đấu tranh với chính mình để đánh giá và hiểu chính mình, để luôn hướng đến những điều tốt đẹp, những giá trị còn mãi với thời gian. Con người thời Trần sống giữa cộng đồng bằng tất cả nhiệt huyết sôi nổi và tình yêu thương chan hòa nhưng khi đối diện với bản thân mình, con người không ít lần ý thức về sự cô đơn. Ý thức về sự cô đơn cũng là một phạm trù của cái đẹp vì trong sự cô đơn đó, con người ý thức những việc mình đã làm để thêm trân trọng và tin yêu cuộc sống cũng như thêm quý trọng tình yêu thương mà mọi người dành cho mình: “Cá trung khúc phá vô nhân hội, Duy hữu tùng phong họa thử âm” (Khúc nhạc trong lòng ta đã thành hình mà không ai hay biết,
  • 32. 26 Chỉ có gió trên cây tùng là hòa được âm thanh ấy) (Tự thuật - Trần Thánh Tông) Phản tỉnh để nghĩ lại việc mình đã làm dù thời gian trôi qua đã rất lâu, dù năm năm, mười năm hay mấy chục năm, tất cả đều đã qua và cái quan trọng là ở giây phút này con người không thể quên đi, vẫn luôn nghĩ đến sai lầm trước kia của mình, để tự trách, tự dằn vặt, ôm vào mình nỗi sầu chất ngất: “Thu khí hòa đăng thất thự minh, Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh. Tự tri tam thập niên tiền thác, Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh” (Dạ vũ - Trần Minh Tông) (Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai, Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn. Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước, Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi) Qua sự phản tỉnh đó, con người hiện lên với tầm vóc thật đẹp. Con người dũng cảm đối diện với lỗi lầm của mình, tự vấn mình chứ không hề trốn tránh, để luôn hướng đến những giá trị tốt đẹp trong bản thân con người. Nếu thơ ca thời thịnh Trần nổi bật lên nét đẹp nhân văn ở sự phản tỉnh, sự thức tỉnh về đời người ngắn ngủi, con người khao khát sống hòa nhịp cùng quy luật, trân trọng thời khắc ở hiện tại để hướng về những giá trị và hạnh phúc đích thực trong cuộc sống thì thơ ca thời vãn Trần, nét đẹp nhân văn nổi bật hơn hết là nét đẹp của lương tri người trí thức. Một Chu An không màng đến danh lợi, lòng lúc nào cũng lo nghĩ cho dân cho nước, lo cho đời: “Thốn tâm thù vị như hôi thổ, Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy”. (Miết trì) (Tấc lòng này chưa thể nguội lạnh như tro, như đất, Nghe nói đến vua xưa luống gạt thầm giọt lệ)
  • 33. 27 Một Trần Nguyên Đán đã sống và cống hiến tất cả sức mình cho triều đình, cho dân nhưng lại luôn tự vấn và tự thẹn mỗi khi nhìn thấy nỗi khổ của nhân dân: “Niên lai hạ hạn hựu thu lâm, Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm. Tam vạn quyển thư vô dụng xứ, Bạch đầu không phụ ái dân tâm” (Nhâm Dần lục nguyệt tác) (Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt. Lúa khô, mạ thối, tai hại càng nhiều. Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng, Bạc đầu luống phụ tấm lòng yêu dân) Một Nguyễn Phi Khanh luôn yêu thương, đồng cảm sâu sắc với người dân chịu nhiều khổ cực, thiếu thốn trong đời: “Liên cừ vạn tính giai ngô dữ, Tị ốc thùy gia diện diện hàn” (Thù Đạo Khê Thái học Xuân hàn vận) (Xót thương cho muôn họ đều là đồng bào của ta, Náu thân dưới mái nhà, kìa gia đình ai mọi nét mặt đều rét buốt) Ở những người trí thức này ngời sáng vẻ đẹp của việc tận tụy lo cho dân, cho nước, họ luôn lo nghĩ và trăn trở cho sự bình yên, no ấm của muôn dân. Dù thời đại Lý - Trần đã đi qua nhưng những trang sử hào hùng, trang thơ đầy tinh thần nhân văn của thời đại đó vẫn còn sống mãi trong lòng người dân bao thế hệ cũng như cái tâm trong sáng của những vị anh hùng, những thiền sư sẽ như cành mai tươi thắm vĩnh cửu, vượt lên trên mọi sinh diệt để sống mãi với đời. 1.4.2. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII Nói đến thơ văn thời kì trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Trãi và nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta thường nói nhiều về tấm lòng yêu nước thương dân và lý tưởng nhân nghĩa của ông. Nguyễn Trãi là một anh hùng, một nhà văn hóa, một nhà thơ, nhà văn và một nhà chính trị lỗi lạc. Nguyễn Trãi có
  • 34. 28 một vị thế vững chắc trên thi đàn văn học Việt Nam mà tên tuổi của ông đã làm rạng danh cho thơ ca trung đại. Phát huy truyền thống thân dân từ ông ngoại và cha, và bản thân từng trải qua nhiều phen chìm nổi, sống cơ cực cùng với người dân lao động nên Nguyễn Trãi hiểu và cảm thông với nhân dân sâu sắc. Điều đặc biệt ở Nguyễn Trãi, tiến bộ hơn rất nhiều những nhà thơ trước và cùng thời với ông, đó là ông nhận thấy sức mạnh quyết định của quần chúng nhân dân. Ông ví dân là nước, có sức mạnh chở thuyền và lật thuyền, dân là những người làm nên lịch sử: “Mến người có nhân là dân mà chở thuyền, lật thuyền cũng là dân” (Chiếu về việc làm bài “Hậu tự huấn” để răn dạy Thái tử). Tấm lòng yêu nước, thương dân của Nguyễn Trãi không chỉ xuất phát từ việc ông nhận thấy sức mạnh của nhân dân nên phải ra sức chăm lo để nhân dân được no ấm, hạnh phúc mà còn xuất phát từ tấm lòng yêu thương bao la của một tâm hồn sáng tựa sao Khuê. Đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, Nguyễn Trãi hiểu rõ những thống khổ của muôn dân dưới ách thống trị của giặc nên lý tưởng ông luôn theo đuổi đó là trừ bạo yên dân. Tấm lòng yêu dân, quan điểm thân dân không phải chỉ đến Nguyễn Trãi mới có. Nhưng ở những thế hệ trước ông, quan điểm này còn phiến diện. Những người cầm quyền có tài, đức, luôn quan tâm chăm sóc nhân dân, nhưng với tư thế của kẻ bề trên đối với người ở dưới, giống như cha mẹ ra ơn cho con cái, bậc chủ nhân ra ơn cho bề tôi của mình. Tập thể nhân dân dưới con mắt của họ là những người nhỏ bé, yếu đuối, đáng thương xót, đáng được nuôi nấng, vỗ về. Nguyễn Trãi thì khác, ông nhận thấy được ở nhân dân có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Họ là những con người cần cù lao động, siêng năng chịu khó, trọng tình, trọng nghĩa. Sức mạnh đoàn kết từ trong lao động, trong chiến đấu sẽ giúp họ chiến thắng tất cả, nhất là những thế lực bạo tàn chà đạp lên cuộc sống của họ “Phúc chu thủy tín dân do thủy (Lật thuyền mới biết sức mạnh của dân như nước – Quan hải) Ông chú trọng đến gốc của nhạc là ở chỗ “bệ hạ rủ lòng thương yêu chăm sóc muôn dân, khiến cho khắp thôn cùng xóm vắng không một tiếng hờn giận oán sầu”. Lo lắng cho dân, tâm nguyện một đời của ông là nhìn thấy đất nước được thanh bình, bốn phương, nhà nhà đều no đủ yên vui “Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Báo kính cảnh giới 43).
  • 35. 29 Bên cạnh vẻ đẹp của ý thức trách nhiệm luôn nghĩ cho dân và cho nước, nổi bật ở Nguyễn Trãi còn là một con người biết tìm niềm vui sống giữa đời. Cuộc sống giữa chốn quan trường với biết bao cám dỗ về lợi danh nhưng Nguyễn Trãi đã không để tâm của mình phải nhuốm bụi trần. Ông luôn biết cách làm hài hòa cuộc sống, vui với những cái thiết thân, bình dị chứ không chạy theo những xa hoa phù phiếm. Điều đó giúp nhà thơ vượt qua những khó khăn, thử thách, nghịch cảnh để luôn giữ tâm hồn sáng trong, một nhân cách cao thượng. Ông tìm niềm vui ở công việc, phục vụ hết mình để đem lại lợi ích cho dân, cho nước. Ông vui vì thấy mình có ích, thấy dân tình được ấm no, hạnh phúc. Ông còn tìm niềm vui trong cách sống giản dị mà tự do, phóng khoáng của chính mình. Ông hòa mình với thiên nhiên, vui với thiên nhiên: “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc Thuyền chở yên hà nặng vạy then” (Thuật hứng XXIV) Nguyễn Trãi còn tìm thấy niềm vui ở tinh thần tự do, phóng khoáng trong những công việc lao động hằng ngày, những công việc thiết thân của người dân lao động: “Đạp áng mây, ôm bó củi Ngồi bên suối, gác cần câu” (Trần tình V) Quan niệm giáo dục con người của Nguyễn Trãi rất gần gũi với quan niệm sống của nhân dân lao động. Những lời dạy của Nguyễn Trãi dành cho con cháu là những thông điệp thiết thực nhất của quan niệm sống giàu chất nhân văn. Con người sống phải biết quý trọng giá trị lao động do mình làm ra, không nên xa hoa, lãng phí, chạy theo những nhu cầu vật chất: “Xa hoa lơ đãng nhiều hay hết, Hà tiện âu đương ít hãy còn. Áo mặc miễn là cho cật ấm, Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon” (Dạy con trai)
  • 36. 30 Cũng không nên để vật chất làm lu mờ lí trí hay cám dỗ thành người bất nghĩa: “Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ Áo người vô nghĩa, mặc, chăng thà” (Trần tình III) Và một bài học quan trọng mà Nguyễn Trãi không quên trao truyền cho thế hệ mai sau là sự tu dưỡng đạo đức, sống nhân hậu, thủy chung: “Tích đức cho con hơn tích của, Đua lành cùng thế mựa đua khôn” (Tự thán, XLI) Những lời dạy đầy tinh thần nhân văn của Nguyễn Trãi cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Đó là những lời dạy thiết thực và bổ ích đối với tất cả mọi người hôm qua, hôm nay và mai sau. Những lời dạy đó giúp con người sống tốt hơn và định hướng cho mình những giá trị sống đẹp và có ích. Nếu tấm lòng của Nguyễn Trãi cuồn cuộn như nước triều đông, nếu suốt đời Nguyễn Trãi luôn riêng ôm cái chí lo trước thiên hạ đến nỗi đêm lạnh quàng chăn ngủ chẳng yên, nếu Nguyễn Trãi thao thức bao đêm lo cho dân cho nước để đến nỗi tóc bạc ngày càng nhiều thì gần hai thế kỉ sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có một nỗi lòng lo nghĩ, ngậm ngùi cho vận mệnh nước nhà. Giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chan chứa lòng yêu thương đất nước, nhân dân, trái tim trĩu nặng nỗi đau đời, lo đời. Xã hội phong kiến mục ruỗng, nội bộ phân tranh, chiến tranh với những cảnh chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lợi diễn ra khắp nơi, cảnh nhân dân ly tán, đạo đức băng hoại, không còn đủ sức kiềm tỏa con người. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiên sinh có nhiều nỗi niềm trăn trở, suy tư khôn nguôi đến nỗi mái tóc trở nên bạc như tơ: Bần tiện trùng phùng thử loạn ly, Khu khu ưu quốc mấn thành ti (Trung tân quán ngụ hứng thập) (Loạn ly giữa lúc sống hàn vi, Lo nước khư khư, tóc hóa tơ)
  • 37. 31 Ông hiểu rõ sức mạnh của nhân dân “từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân”, thế mà lâu nay nhân dân phải sống giữa thời loạn lạc, phải chịu cảnh cơ cực, cay đắng. Họ có một nguyện vọng là được yên sống, đất nước thôi không chiến tranh, thôi không có cảnh chém giết để họ có thể dùng sức lao động làm ra của cải nuôi sống bản thân và gia đình. Hiểu rõ được lòng dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm lên án và phản đối chiến tranh huynh đệ tương tàn và chiến tranh cát cứ vì ông thấy rõ chiến tranh chỉ đem lại cảnh đống xương, biển máu, cảnh loạn ly, cướp bóc khắp nơi, gieo rắc khổ ải cho bao người dân lương thiện. Nguyễn Bỉnh Khiêm thao thức, trăn trở để rồi lòng ông quặn đau: Bao đêm gối chiếc hai hàng lệ Rộn tiếng chày khuya đập vải đêm Có người hàng xóm thương tình bảo: Đến cuối năm này hết chiến chinh (Sầu) Cũng giống như Nguyễn Trãi “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược. Có nhân, có trí, có anh hùng” (Báo kính cảnh giới V), bên cạnh việc lên án chiến tranh khắc nghiệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn đề cao chữ nhân: Cổ lai nhân giã tư vô địch Hà tất khu khu sự chiến tranh (Thơ cảm hứng, bài 3) (Xưa nay, kẻ có nhân là vô địch Sao phải khư khư theo đuổi chiến tranh?) Nỗi đau của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ở nhân dân và niềm vui của ông là ở chỗ vui sau lo trước: Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu (Ngụ hứng III) (Rút cục ai muốn tìm chỗ vui của ta Thì cần biết rằng ta vui sau thiên hạ trong chỗ lo trước thiên hạ)
  • 38. 32 Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh nhiều về thói đời, về thế thái nhân tình của xã hội lúc bấy giờ. Thế kỉ mà ông đang sống là thế kỉ của sự đổ vỡ những lý tưởng nhân nghĩa, đồng tiền lên ngôi cùng với sự tha hóa của toàn xã hội. Một thế kỉ loạn lạc, rối ren, các giá trị đạo đức suy đồi, đảo điên. Điều này đã đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông tổng kết nó như một triết lý: “Không gì hiểm bằng đường đời… Không gì nguy bằng lòng người” (Trung Tân ngụ hứng) hay: “Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười Có của thì hơn hết mọi lời … Người, của lấy cân ta thử nhắc Mới hay rằng của nặng hơn người” (Thơ Nôm, bài 74) Tất cả những điều đó chất chứa trong tim ông với một sự trăn trở, suy ngẫm; ông không muốn sống giữa cảnh đô hội mà con người chỉ là nô lệ của đồng tiền, chỉ biết chạy theo danh vọng mà bất chấp đạo lý, giết hại lẫn nhau không bằng gươm đao mà chỉ bằng ba tấc lưỡi múa may nên với ông: Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao (Thơ nôm, bài 73) Dẫu lui về ở ẩn song tâm trí ông chưa một lần rời khỏi chuyện nước, chuyện dân. Chọn cuộc sống lánh xa chốn quan trường, cũng là để lánh xa vòng danh lợi chứ một con người ưu tư vằng vặc, trăng in nước như ông làm sao có thể làm ngơ trước ba động của thời cuộc: Lão lai vị ngãi tiên ưu chí, Đắc tang cùng thông khởi ngã ưu” (Tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi Cùng thông đắc tang ta có lo chi cho riêng mình) (Tự thuật, bài 2) Nguyễn Bỉnh Khiêm phê phán những cái xấu xa, những giá trị đạo đức suy đồi đang xâm hại con người cũng chính là lên tiếng bảo vệ cho những giá trị tốt đẹp
  • 39. 33 trong con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn trong lánh đục để giữ gìn nhân phẩm của mình. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, vẻ đẹp nhân văn còn thể hiện ở ý thức trách nhiệm với nhân dân, tấm lòng luôn lo nghĩ cho dân, cho nước. 1.4.3. Giai đoạn văn học từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX Đây là giai đoạn văn học có những phát triển rực rỡ nhất trong văn học dân tộc dưới chế độ phong kiến. Văn học nửa cuối thế kỉ XVIII đã thừa hưởng những di sản văn học quý báu của những thế kỉ trước. Có nhiều khuynh hướng sáng tác trong văn học giai đoạn này nhưng nổi bật hơn hết đó là khuynh hướng đấu tranh và tố cáo hiện thực. Ở khuynh hướng này, chúng tôi tập trung khắc họa hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, truyện thơ Nôm và khuynh hướng tố cáo hiện thực trong tác phẩm của Cao Bá Quát để có cái nhìn sâu sắc hơn về nét đẹp nhân văn trong thời kì này. Xã hội Việt Nam trong giai đoạn này có nhiều biến chuyển sâu sắc về kinh tế, chính trị và xã hội. Chiến tranh phong kiến liên tục diễn ra, triều đình bắt trai tráng khắp nơi đi chinh chiến, bao gia đình tan tác, vợ vắng chồng, con vắng cha. Xã hội phong kiến coi khinh phụ nữ, tước đi cái quyền được sống hạnh phúc của họ. Chưa bao giờ số phận của họ lại được đặt ra cấp thiết trong văn học như lúc này. Biểu hiện chủ yếu của nét đẹp nhân văn giai đoạn này là tiếng nói đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Nếu như những giai đoạn trước, hình tượng nữ giới thường ít xuất hiện trong thơ văn thì đến giai đoạn này, họ đã xuất hiện với địa vị nhân vật chính trong hầu hết các tác phẩm văn học. Nhiều tác giả đã viết rất hay về người phụ nữ như Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… Người phụ nữ không còn là những bóng hình mờ nhạt trong văn học mà họ đã đi vào thơ văn một cách đậm nét với những vẻ đẹp về ngoại hình, nhân phẩm và tài năng. Nguyễn Gia Thiều lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để ca ngợi vẻ đẹp của nàng cung nữ: “Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa
  • 40. 34 Vẻ phù dung một đóa vẻ hoa tươi Chồi thược dược mơ màng thụy vũ Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu” (Cung oán ngâm) Cũng là những hình ảnh ước lệ, cũng là cách miêu tả so sánh vẻ đẹp con người với thiên nhiên nhưng Kiều của Nguyễn Du vẫn có vẻ đẹp riêng không lẫn với ai: “Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” (Truyện Kiều) Để tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp hoàn mỹ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương mạnh dạn đưa vào thơ mình bức truyền thần khỏa thân của những người thiếu nữ: Lược trúc biếng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông. (Thiếu nữ ngủ ngày) Theo quan điểm chính thống của mỹ học sáng tác phong kiến, khi mô tả vẻ đẹp của người phụ nữ thì vẻ đẹp đó chỉ được thể hiện ở áo quần, khuôn mặt, không bao giờ được thể hiện ở đường nét cơ thể, da thịt. Nếu người phụ nữ bày da thịt là tục, để lộ da thịt là tội lỗi. Quan điểm này ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương. Vì thế, trong văn học, người ta chú ý đến cái đẹp đạo đức mà quên đi vẻ đẹp thân xác – ngoại hình. Nhưng đến Hồ Xuân Hương, nữ sĩ đã dùng tài thơ của mình để giải thoát vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ ra khỏi vòng cương tỏa của đạo đức phong kiến để tôn vinh và nâng vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ. Các nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm cũng xinh đẹp không kém: Ngọc Hoa trong Phạm Tải – Ngọc Hoa: “Má đào mặt ngọc tóc mây rà rà” và công chúa con vua Bảo Vương (truyện Lí Công): “Tuổi xuân vừa mới lên mười Hây hây ngọc đúc tựa người thần tiên”
  • 41. 35 Người phụ nữ không chỉ là những bông hoa với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm làm say đắm bao người. Họ còn là những người có tài năng hơn người. Tài thơ ca của nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc được so sánh với tài đàn của Lý Bạch, tài vẽ của Vương Duy, tài thổi sáo của Tiêu Sử: “Câu cầm tú đàn anh họ Lý Nét đan thanh bậc chị chàng Vương” “Cầm đếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã Sáo lần thu lạ gã Tiêu Lang” Với nàng Kiều, thiên nhiên, đất trời, tạo vật phải ghen tỵ với nhan sắc của nàng. Cộng thêm một tài năng vượt trội, cái tài năng ấy đã đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, gồm đủ cả cầm, kì, thi, họa. Nguyễn Du nhấn mạnh tài đàn của nàng vượt lên trên và “ăn đứt” mọi người. Kiều quả là người con gái tài hoa toàn diện dưới ngòi bút của Nguyễn Du: “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm, Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” (Truyện Kiều) Nữ sĩ họ Hồ cũng ý thức về tài năng, nhà thơ sôi nổi lên tiếng ca ngợi cho tài năng của mình nói riêng và nữ giới nói chung: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu (Đề đền Sầm Nghi Đống) Khẳng định tài năng của mình cũng là để khẳng định tài năng của nữ giới nói chung vì xã hội phong kiến kìm hãm, không cho người phụ nữ được thi thố tài năng. Nếu điều kiện cho phép, xã hội công nhận thì phụ nữ nhất định chẳng kém nam giới về mặt nào. Đó không chỉ là lời ngợi ca tài năng của nữ giới mà còn là tiếng nói đấu tranh đòi quyền công bằng và quyền lợi cho họ trong xã hội trọng nam khinh nữ lúc bấy giờ.
  • 42. 36 Bên cạnh vẻ đẹp về ngoại hình, về tài năng, người phụ nữ còn ngời sáng những vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn. Đó là vẻ đẹp ở ý thức giữ gìn phẩm giá, khát khao hạnh phúc. “Chinh phụ ngâm” là lời than thở bi đát về cuộc sống lẻ loi của người phụ nữ. Mặc dù đau khổ, nhớ thương chồng đến tột độ, nàng vẫn làm tròn bổn phận của một nàng dâu, một người mẹ. Và đặc biệt nàng vẫn luôn hi vọng chồng mình sẽ quay về, mặc dù hi vọng ấy rất mong manh: “Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”. Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc cũng ước một cuộc sống nghèo khổ mà giàu tình người: “Cùng nhau một giấc hoành môn Lau nhau ríu rít cò con cũng tình” (Cung oán ngâm khúc) Những nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm như Cúc Hoa (Trong Phạm Công Cúc Hoa; Tống Trân – Cúc Hoa), Ngọc Hoa (trong Phạm Tải – Ngọc Hoa) đều là những người con gái tốt đẹp, nhân ái, biết giúp đỡ người nghèo. Khi Phạm Công, Phạm Tải hay Tống Trân đưa mẹ đi ăn mày, Cúc Hoa và Ngọc Hoa không hề khinh ghét mà còn cho gạo rồi đem lòng yêu thương. “Cúc Hoa nghe thoảng vào tai Rồi chân sẽ ngó song mai thử nhìn Thấy người nét mặt hiền lành Động lòng mới trở gót sen vào nhà Lấy một đấu gạo đem ra Gọi là cứu giúp cho nhà bồ côi” (Tống Trân – Cúc Hoa) Đến với Kiều của Nguyễn Du, ta thấy ở nàng luôn có ý thức về bản thân mình, về nhân phẩm, quyền sống trong suốt cuộc đời mình; không lúc nào Kiều không tự ý thức, không chỉ cho mình mà cho cả thân phận người phụ nữ: “Đau đớn thay phận đàn bà
  • 43. 37 Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều) Sự tự ý thức ấy còn được thể hiện ở chỗ Kiều tự đính ước với Kim Trọng. Nàng đã dũng cảm, táo bạo, chủ động mưu cầu hạnh phúc cho mình “Xăm xăm băng lối đường khuya một mình”. Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là tình yêu tự do, nó đến tự nhiên như tình cảm của bao lứa đôi khác. Nhưng đó là thứ tình yêu trái với lễ giáo phong kiến và nó đã phải hứng chịu biết bao nhiêu lời phỉ báng thậm tệ của các bậc lão nho. Sự tự ý thức ấy cũng đã “cởi trói” cho con người nàng, xóa bỏ đi mọi lễ giáo phong kiến. Và đến sau này, Kiều luôn ý thức về thân phận của mình. Sau những “bướm lả, ong lơi”, những “cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” bắt buộc, Kiều vẫn “giật mình” tỉnh lại, nhớ về ngày xưa để rồi nàng càng thêm thương và xót xa cho chính mình: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình, mình lại thương mình xót xa”. (Truyện Kiều) Kiều càng khổ nhục bao nhiêu thì nàng lại càng muốn giải thoát và vươn lên bấy nhiêu. Hầu như có cơ hội là nàng tìm cho mình lối thoát, dù là liều lĩnh hay nguy hiểm. Đó là những lần Kiều không thôi mơ ước được trở lại cuộc sống trong sạch, bình thường, trở lại với gia đình. Cuối truyện, nàng được đoàn tụ với gia đình nhưng cánh cửa mở ra hạnh phúc cho nàng vẫn đóng kín. Mọi ngả đường đi đến hạnh phúc đã bị ngăn chặn. Hiện tại sum họp chẳng đủ sức xua tan bóng đen của quá khứ đang hiện diện phũ phàng. Kiều ý thức được rằng điều cao quý nhất mà nàng dành cho Kim Trọng là một thứ tình cảm sâu sắc ở tấm lòng. Qua số phận nàng Kiều, ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du càng thấm đượm yếu tố nhân đạo, nhân văn. Sống giữa xã hội đầy rẫy những bất công, oan trái, con người không thể tìm thấy hạnh phúc bình thường. Vì vậy, Nguyễn không thể đặt bút viết nên một cái kết có hậu dù hơn ai hết, Nguyễn là người muốn nàng Kiều của mình có được một hạnh phúc trọn vẹn.