Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Quyền của người dân tộc thiểu số theo quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam, cho các bạn tham khảo
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Luận văn: Quyền của người dân tộc thiểu số theo luật pháp, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ XUÂN TRÌNH
QUYÒN CñA NG¦êI D¢N TéC THIÓU Sè THEO
QUY §ÞNH CñA LUËT PH¸P QUèC TÕ Vµ VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ XUÂN TRÌNH
QUYÒN CñA NG¦êI D¢N TéC THIÓU Sè THEO
QUY §ÞNH CñA LUËT PH¸P QUèC TÕ Vµ VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 01 08
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN BÁ DIẾN
HÀ NỘI – 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Xuân Trình
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ DÂN TỘC
THIỂU SỐ........................................................................................... 8
1.1. Quyền con người................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm quyền con ngƣời................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm quyền con ngƣời ................................................................11
1.2. Dân tộc thiểu số ................................................................................13
1.2.1. Lý luận về nhóm ngƣời thiểu số.........................................................13
1.2.2. Lý luận về khái niệm "dân tộc thiểu số" ............................................17
1.2.3. Đặc điểm dân tộc thiểu số ..................................................................24
1.2.4. Nhận thức chung về dân tộc thiểu số ở Việt Nam .............................26
Chương 2: QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁP QUỐC TẾ ..................................40
2.1. Khái quát các văn kiện quốc tế về quyền của người dân tộc
thiểu số...............................................................................................40
2.2. Vấn đề có tính nguyên tắc trong việc ghi nhận và đảm bảo
quyền của DTTS...............................................................................48
2.2.1. Bình đẳng, không phân biệt đối xử....................................................48
2.2.2. Vai trò tích cực của các quốc gia .......................................................51
2.3. Phạm vi quyền của người dân tộc thiểu số trong luật quốc tế.....54
5. 2.4. Các nhóm quyền cơ bản của người dân tộc thiểu số được luật
quốc tế ghi nhận................................................................................57
2.4.1. Quyền có quốc tịch, đƣợc xác định dân tộc.......................................59
2.4.2. Quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc.....................................................61
2.4.3. Quyền đối với văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ .....................63
2.4.4. Quyền đƣợc giáo dục .........................................................................64
2.4.5. Quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe.........................................................66
2.4.6. Quyền đƣợc hƣởng an sinh xã hội .....................................................67
2.4.7. Quyền tự do tƣ tƣởng, tín ngƣỡng hoặc tôn giáo...............................68
2.4.8. Quyền lập hội, tự do hội họp..............................................................70
2.4.9. Quyền tự do đi lại, cƣ trú ...................................................................71
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN
CỦA DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT..... 73
3.1. Quy định của pháp luật về quyền của người dân tộc thiểu số.....73
3.2. Vấn đề thực hiện quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam hiện nay ....................................................................................80
3.2.1. Những kết quả đạt đƣợc .....................................................................80
3.2.2. Những hạn chế, khó khăn...................................................................89
3.3. Một số giải pháp kiến nghị ..............................................................98
3.3.1. Nhóm các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bảo đảm quyền của DTTS......................................................98
3.3.2. Nhóm các giải pháp về cơ chế thực thi pháp luật đảm bảo quyền
của DTTS .........................................................................................106
3.3.3. Nhóm các giải pháp về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền
của DTTS.........................................................................................108
KẾT LUẬN..................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................114
6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CERD: Công ƣớc quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc 1965
DTTS: Dân tộc thiểu số
ICCPR: Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966
ICESCR: Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa 1966
LHQ: Liên hợp quốc
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con ngƣời là khát vọng và thành quả của quá trình phát triển
nhận thức lâu dài trong lịch sử nhân loại, là động lực phát triển của xã hội loài
ngƣời, nó gắn liền với quá trình phát triển đầy biến động của lịch sử. Quyền
con ngƣời thể hiện đƣợc giá trị mà mọi dân tộc văn minh đều hƣớng tới. Cùng
với sự phát triển và hoàn thiện pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời, nhận
thức về quyền con ngƣời trên toàn thế giới đã không ngừng đƣợc tăng lên
trong nhiều thập kỷ qua. Công cụ hiệu quả nhất cho việc bảo vệ quyền con
ngƣời chính là hệ thống pháp luật. Chỉ thông qua việc thể chế hóa thành luật,
quyền con ngƣời mới đƣợc bảo đảm và bảo vệ tốt nhất.
Có nhiều cách phân loại quyền con ngƣời dựa trên các tiêu chí và cách
tiếp cận khác nhau. Nếu phân loại theo chủ thể của quyền thì quyền con ngƣời
bao gồm 02 nhóm: Quyền của cá nhân và quyền con ngƣời theo nhóm.
Dân tộc thiểu số (DTTS) là một trong những nhóm ngƣời dễ bị tổn
thƣơng. Quyền của ngƣời thiểu số đƣợc ghi nhận trong nhiều điều ƣớc quốc tế
mang tính phổ cập toàn cầu và điều ƣớc quốc tế khu vực. Trong Bộ luật nhân
quyền Liên Hợp quốc (LHQ); Công ƣớc quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt chủng tộc 1965 (CERD); Công ƣớc về các dân tộc và bộ lạc bản địa ở các
quốc gia độc lập 1989 (ILO); Tuyên bố về quyền của những ngƣời thuộc các
nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ 1992. Trong Công
ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR)- Điều 27:
Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo
và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với
những thành viên khác của cộng đồng mình, không bị khƣớc từ
quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền đƣợc theo và thực hành tôn
giáo riêng, hoặc quyền đƣợc sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
8. 2
Trong năm 1992, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Tuyên bố về quyền
của những ngƣời thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và
ngôn ngữ (the Declaration on the Rights of Persons Belonging to National or
Ethnic, Religious and Linguistic Minorities). Diễn đàn về các vấn đề thiểu số
(the Forum on Minority Issues) đƣợc thành lập trong năm 2007 thay thế cho
Nhóm công tác LHQ về ngƣời thiểu số (the United Nations Working Group
on Minorities) đƣợc thành lập năm 1995.
Ở Việt Nam, theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009, có 54 dân
tộc sinh sống trên lãnh thổ của cả nƣớc, trong đó dân tộc Kinh có 73,594 triệu
ngƣời (chiếm 85,7%) và 53 DTTS có 12,253 triệu ngƣời (chiếm 14,3%). Các
DTTS có số lƣợng trên một triệu ngƣời, gồm: dân tộc Tày: 1.626.392 ngƣời,
chiếm 1,9%; dân tộc Thái: 1.550.423 ngƣời (1,8%); dân tộc Mƣờng:
1.268.963 ngƣời (1,5%); dân tộc Khmer: 1.260.640 ngƣời (1,5%) và dân tộc
Mông: 1.068.189 ngƣời (1,2%). Còn lại là các dân tộc dƣới 1 triệu ngƣời.
Trong đó có nhiều dân tộc chỉ vài trăm ngƣời nhƣ: Si La 709, Pu Péo 687, Rơ
Măm 436, Brâu 397, Ơ Đu 376 ngƣời [24].
Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết lâu đời trong sự nghiệp
đấu tranh xây dựng cộng đồng dân tộc thống nhất. Trong mối quan hệ giữa
các dân tộc ở nƣớc ta thì đoàn kết thống nhất là đặc điểm nổi bật nhất, xuyên
suốt trong mọi thời kỳ lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Các dân tộc sinh sống
trên đất nƣớc ta trong những giai đoạn khác nhau, nhƣng đều có chung một
vận mệnh lịch sử. Đoàn kết gắn bó là đảm bảo sự sống còn của từng dân tộc
cũng nhƣ của cả cộng đồng các dân tộc trong quá trình phát triển. Sự liên kết
thành phần dân cƣ sớm có ý thức tự giác, cùng chung sống trong một đất
nƣớc ngay từ buổi bình minh của lịch sử đã tạo nên một cộng đồng quốc gia
dân tộc bền vững. Truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng đƣợc
củng cố và phát triển, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã trở thành
9. 3
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Mỗi dân tộc có bản sắc văn
hóa riêng góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng trong tính thống nhất của
nền văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa của các dân tộc đƣợc hình thành và
phát triển gắn liền với lịch sử dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc
điểm của nền văn hóa cộng đồng các dân tộc nƣớc ta.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam với nhiều thành phần khác nhau, mỗi
thành phần dân tộc không phải là một cộng đồng riêng rẽ, biệt lập về chính
trị- xã hội, mà là bộ phận cấu thành dân tộc Việt Nam thống nhất. Các thành
phần dân tộc cƣ trú đan xen lẫn nhau và phân tán trên mọi vùng miền của đất
nƣớc không có lãnh địa riêng biệt của từng dân tộc. Đảng, Nhà nƣớc Việt
Nam đã có nhiều văn bản quan trọng thể hiện chủ trƣơng, chính sách nhất
quán về chính sách đối với đồng bào DTTS.
Hiến pháp hiện hành 2013 ghi nhận:
1- Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nƣớc Việt Nam.
2- Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3- Ngôn
ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4- Nhà nƣớc thực hiện
chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu
số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nƣớc [23, Điều 5].
Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ, sự cố gắng của các bộ, ban,
ngành, địa phƣơng và của cả hệ thống chính trị, đời sống về vật chất và tinh
thần của đồng bào DTTS đã đƣợc cải thiện đáng kể. Các quyền cơ bản của
đồng bào DTTS về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc y
tế… đƣợc đảm bảo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đời sống
10. 4
của đồng bào DTTS ở nƣớc ta nhìn chung còn rất nhiều khó khăn, mặt bằng
dân trí thấp, còn có khoảng cách đáng kể với dân tộc đa số, giữa miền xuôi và
miền ngƣợc. Việc thể chế quyền của DTTS bằng pháp luật cũng nhƣ cơ chế
thực hiện quyền của DTTS còn những bất cập.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Quyền của người dân
tộc thiểu số theo quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam” làm luận
văn thạc sĩ của mình, trên cơ sở đó có những giải pháp đề xuất sát hợp góp
phần bảo đảm quyền của ngƣời DTTS, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc.
2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu quyền của ngƣời DTTS đƣợc quy định trong điều ƣớc quốc
tế và pháp luật quốc gia, việc thực hiện quyền của ngƣời DTTS ở Việt Nam.
Qua đó có nhận thức đúng đắn về quyền của ngƣời DTTS, góp phần thúc đẩy
việc bảo đảm các quyền của DTTS ở Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm DTTS trên cơ
sở quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật quốc gia, của các học giả trong
nƣớc, quốc tế. Từ đó, làm rõ DTTS là một trong các nhóm ngƣời thiểu số,
nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng cần đƣợc bảo vệ mà quyền của họ đã đƣợc pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận.
- Đề tài nghiên cứu làm rõ các nhóm quyền của ngƣời DTTS đƣợc ghi
nhận trong các điều ƣớc quốc tế, đặc biệt là các điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
- Đề tài nghiên cứu chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Việt Nam về
DTTS, những thành tựu mà Việt Nam đã đạt đƣợc cũng nhƣ những hạn chế,
khó khăn trong việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện quyền của ngƣời DTTS.
- Đƣa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền của
ngƣời DTTS.
11. 5
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các Điều ƣớc quốc tế quy định về các nhóm quyền
của ngƣời DTTS.
- Nghiên cứu các chủ trƣơng, chính sách đối với DTTS đƣợc quy định
trong pháp luật của Việt Nam.
Trên cơ sở những số liệu thu đƣợc về DTTS ở Việt Nam, tiến hành
phân tích, đánh giá làm cơ sở cho những kết luận của đề tài.
3. Tình hình nghiên cứu
DTTS và quyền của DTTS là một đề tài tuy không mới, tuy nhiên việc
nghiên cứu đề tài này hầu nhƣ còn hạn chế, nhất là nghiên cứu dƣới góc độ tiếp
cận từ luật pháp quốc tế. Các nghiên cứu hiện nay chủ yếu dƣới dạng các bài
viết, các bài tham luận tại các Hội thảo trong và ngoài nƣớc. Mới đây, tại "Hội
thảo quốc tế Cơ chế đảm bảo quyền của các DTTS ở Việt Nam và kinh nghiệm
ở một số nước Châu Âu, khu vực Đông Nam Á" do Ủy ban Dân tộc và Phái
đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam tổ chức tháng 7/2012, đáng chú ý có
các bài tham luận: “Một số nội dung cơ bản về công tác nhân quyền và giải
pháp đảm bảo quyền các DTTS trong thời gian tới”- Tác giả Vy Xuân Hoa
(Ủy ban Dân tộc), TS. Đỗ Văn Hòa (Bộ NPTNT); “Phát huy vai trò của cộng
đồng trong phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS”- TS. Bế Trƣờng Thành-
nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; “Chương trình mục tiêu quốc gia đưa
thông tin về cơ sở, giải pháp cải thiện quyền tiếp cận thông tin của các DTTS
Việt Nam”- Tác giả Lê Văn Nghiêm- Cục trƣởng, Cục Thông tin đối ngoại Bộ
Thông tin và Truyền thông; "Đảm bảo quyền phát triển kinh tế- xã hội của các
DTTS Việt Nam trong tình hình hiện nay"- Hoàng Xuân Lƣơng, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban Dân tộc; "Một số vấn đề về quyền tham chính của người DTTS ở
Việt Nam"- Trung tƣớng Nông Văn Lƣu, Bộ Công an; "Quyền của các nhóm
DTTS trong bối cảnh quốc tế hiện nay"- Nguyễn Chí Dũng, Học viện Chính trị
12. 6
quốc gia Hồ Chí Minh; "Quyền DTTS- Các tiêu chuẩn của cơ quan và quốc
tế"- Ewa Chylinski, Chuyên gia các vấn đề thiểu số của EU; "Kinh nghiệm
Châu Âu về các quyền DTTS thực tế"- Ewa Chylinski, Chuyên gia các vấn đề
thiểu số của EU; "Khu vực Asean và DTTS"- Ewa Chylinski, Chuyên gia các
vấn đề thiểu số của EU… Dƣới gốc độ luận văn cao học, có đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về quyền của người DTTS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nông
Thị Kiều Diễm- Ths K17- Khoa Luật, ĐHQGHN.
Với cách tiếp cận của đề tài “Quyền của người dân tộc thiểu số theo
quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam” tác giả mong muốn làm rõ
các quy định của luật pháp quốc tế, cũng nhƣ pháp luật quốc gia hiện nay về
các vấn đề liên quan đến quyền của ngƣời DTTS. Từ đó có những giải pháp,
kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật trong nƣớc, hợp tác quốc tế cũng nhƣ cơ
chế đảm bảo quyền của ngƣời DTTS ở nƣớc ta hiện nay.
4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu các điều ƣớc quốc tế có quy định liên quan đến quyền
của DTTS.
- Nghiên cứu pháp luật quốc gia và chính sách của nhà nƣớc về DTTS.
- Nghiên cứu về tình hình, đặc điểm DTTS ở Việt Nam liên quan đến
việc thực hiện quyền của họ.
- Nghiên cứu về việc thực hiện quyền của DTTS của Chính phủ và Nhà
nƣớc Việt Nam.
- Thu thập các số liệu liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng
lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về nhân quyền và DTTS.
13. 7
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích- tổng hợp, so sánh, đánh
giá, xã hội học, phƣơng pháp chuyên gia, tiếp xúc tranh thủ ngƣời có uy tín
trong đồng bào DTTS.
5. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp của luận văn
Dƣới gốc độ là một luận văn nghiên cứu thạc sĩ, đề tài có nhận thức và
đánh giá tổng quan quy định của luật pháp quốc tế và Việt Nam về quyền của
ngƣời DTTS, trên cơ sở đó có những nhận định đánh giá, giải pháp sát hợp về
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, hợp tác quốc tế và cơ chế đảm bảo quyền
của DTTS ở nƣớc ta. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần bổ sung
hệ thống lý luận về một trong những nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng cần đƣợc
bảo vệ trong pháp luật quốc tế và trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Đề tài có thể làm tài liệu trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và học
tập ở các cơ sở đào tạo pháp luật về nhân quyền; tài liệu nghiên cứu, phục vụ
công tác, đặc biệt là đối với các cán bộ làm công tác dân tộc trong các cơ
quan nhà nƣớc và ở các ban, ngành trong các tổ chức chính trị xã hội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chƣơng và phần kết luận.
- Chương 1: Khái quát về quyền con ngƣời và dân tộc thiểu số.
- Chương 2: Quyền của ngƣời dân tộc thiểu số theo quy định của luật
pháp quốc tế.
- Chương 3: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền của dân tộc thiểu
số và các giải pháp đề xuất.
14. 8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con ngƣời hay còn gọi là nhân quyền (human rights) là vấn đề
có tầm quan trọng rất lớn trong sự phát triển văn minh nhân loại. Quyền con
ngƣời là thành tựu chung của cả loài ngƣời, là kết tinh của nền văn minh nhân
loại. Những thành tựu pháp lý quốc tế về quyền con ngƣời hiện nay là sản
phẩm của cuộc đấu tranh gian khổ, lâu dài của toàn thể nhân loại tiến bộ,
chống áp bức, bất công, xây dựng cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Quyền con ngƣời là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực nhƣ đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa về quyền con ngƣời, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con ngƣời theo
những góc độ khác nhau. Thuật ngữ quyền con ngƣời lần đầu tiên có trong
nhiều đề xuất của các nƣớc Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Anh trong năm
1944 rồi sau đó đƣợc chính thức đƣa vào Hiến chƣơng LHQ năm 1945. Dù ở
góc độ nào, những đặc tính quan trọng nhất của quyền con ngƣời đƣợc tất cả
các văn kiện của LHQ công nhận. Quyền con ngƣời là một phạm trù đa diện,
do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một
góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhƣng không định nghĩa
nào bao hàm đƣợc tất cả các thuộc tính của quyền con ngƣời.
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ về quyền
con ngƣời thƣờng đƣợc trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa
này, quyền con ngƣời là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
15. 9
hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự đƣợc phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con ngƣời [15].
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con ngƣời do một số chuyên
gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhƣng
xét chung, quyền con ngƣời thƣờng đƣợc hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con ngƣời đƣợc ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Nhƣ vậy, xét ở góc độ nào và ở mức độ nào thì quyền con ngƣời cũng
đƣợc xác định nhƣ là những chuẩn mực đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, áp dụng cho tất cả mọi ngƣời. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành
viên trong gia đình nhân loại mới đƣợc bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện
phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tƣ cách là một con ngƣời. Cho
dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền
con ngƣời là những giá trị cao cả cần đƣợc tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã
hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau nhƣng
ở góc độ nào, quyền con ngƣời cũng đƣợc xác định nhƣ một chuẩn mực, dựa
trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dƣới bình
diện đạo đức, quyền con ngƣời là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc
quyền) của con ngƣời nhƣ nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do... Dƣới bình
diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải đƣợc thể chế hóa,
pháp điển hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Nhƣ
vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con ngƣời cũng đƣợc xác định
nhƣ là chuẩn mực đƣợc kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại,
áp dụng cho tất cả mọi ngƣời.
Xuất phát từ quan điểm khoa học, coi con ngƣời là một thực thể sinh
16. 10
vật- xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin đã xem quyền con ngƣời là sự thống nhất
biện chứng giữa "quyền tự nhiên" (nhƣ một đặc quyền vốn có và chỉ có con
ngƣời mới có) và "quyền xã hội"- tức là sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, thể hiện sâu sắc các giá trị của các
quan hệ xã hội và mang bản chất xã hội. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng
khái niệm nhân quyền hay "quyền con ngƣời" là một phạm trù lịch sử. Quyền
con ngƣời không phải chỉ là các quyền mang tính tự nhiên mà luôn gắn với
cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã
hội trong từng thời kỳ. Quyền con ngƣời bao giờ cũng phụ thuộc vào phƣơng
thức sản xuất, với quan hệ sản xuất thống trị quy định nên chế độ chính trị xã
hội ấy. Quyền con ngƣời luôn mang tính giai cấp. Mác đã chỉ ra rằng, tự do
của mỗi giai cấp là sự mất tự do của giai cấp đối lập. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp không thể có sự bình đẳng, bình đẳng chỉ tồn tại trong nội bộ
của giai cấp cùng quyền lợi. Nhƣ vậy, bản chất xã hội, bản chất giai cấp quy
định nên bản chất của quyền con ngƣời. Quyền con ngƣời mang tính nhân loại
sâu sắc. Bởi vì nó là kết quả của cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao
động nhằm đập tan ách thống trị trên toàn thế giới giành lại quyền tự do chân
chính cho mình, là giá trị nhân văn cao quý nhất mà xã hội loài ngƣời hƣớng
tới, là sự giải phóng hoàn toàn cá nhân con ngƣời để phát triển toàn diện nhân
cách của mình.
Ngày nay, vấn đề quyền con ngƣời gắn rất chặt với các quyền dân tộc
cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia vì nó là một bộ phận của quá
trình phát triển nội tại của từng nƣớc. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng
nƣớc và giữ nƣớc, nhân dân Việt Nam đã phải đổ biết bao xƣơng máu để
giành lấy những quyền cơ bản của con ngƣời- đƣợc sống trong điều kiện độc
lập, tự do, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đƣợc học hành, nhân phẩm đƣợc tôn
trọng. Nhà nƣớc Việt Nam khẳng định con ngƣời là trung tâm của các chính
17. 11
sách kinh tế xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời là nhân tố quan trọng
cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nƣớc.
Trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề
quyền con ngƣời cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của
luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế- xã
hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục tập quán của mỗi
quốc gia và khu vực để bảo đảm cho ngƣời dân đƣợc hƣởng thụ quyền con
ngƣời một cách tốt nhất. Việc bảo đảm và thúc đẩy quyển con ngƣời trƣớc hết
là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Không một nƣớc nào có quyền
áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một quốc gia khác.
1.1.2. Đặc điểm quyền con người
Nhân quyền là thành quả đấu tranh chung của nhân loại nhƣng nhân
quyền cũng mang tính đặc thù với bản sắc riêng, phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế- xã hội, mang sắc thái văn hóa, lịch sử và truyền thống của mỗi
quốc gia. Tuyên bố Viên và Chƣơng trình hành động (1993) đã viết:
Tất cả các quyền con ngƣời đều mang tính phổ cập, không
thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi
phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối
cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, các quốc gia không
phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, có nghĩa vụ đề cao và
bảo vệ tất cả các quyền con ngƣời và các tự do cơ bản.
Theo nhận thức chung, quyền con ngƣời có các đặc trƣng cơ bản là:
Tính phổ biến, tính không thể chuyển nhƣợng, tính không thể phân chia, tính
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau [15], cụ thể nhƣ sau:
- Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con ngƣời là những
gì bẩm sinh, vốn có của con ngƣời và đƣợc áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi
18. 12
thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý
do gì, chẳng hạn nhƣ về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành
phần xuất thân... Con ngƣời, dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc
những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn đƣợc công nhận là con ngƣời và
đƣợc hƣởng những quyền và sự tự do cơ bản.
- Tính không thể chuyển nhƣợng (inalienable): Trong quan niệm chung
của cộng đồng quốc tế, quyền con ngƣời không thể tùy tiện bị tƣớc bỏ hay hạn
chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức
nhà nƣớc. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp nhất định đƣợc pháp luật quy
định trƣớc, chỉ có những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con ngƣời.
- Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con
ngƣời đều có tầm quan trọng nhƣ nhau, về nguyên tắc không có quyền nào
đƣợc coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tƣớc bỏ hay hạn chế bất kỳ
quyền con ngƣời nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát
triển của con ngƣời. Quyền con ngƣời đƣợc cấu thành bởi nhiều quyền, nhiều
yếu tố xoay quanh những giá trị cao quý của con ngƣời. Tất cả các yếu tố, tất
cả các quyền đều có giá trị nhƣ nhau, không phân biệt. Mọi khía cạnh về
quyền con ngƣời đều đƣợc bảo vệ nhƣ nhau trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể
hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con ngƣời, toàn bộ hoặc một phần, nằm
trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ
trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hƣởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền
khác, và ngƣợc lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Tất cả các
quyền con ngƣời đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt
quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngƣợc lại, khi có một quyền
bị xâm phạm thì sẽ ảnh hƣởng đến các quyền khác.
19. 13
1.2. Dân tộc thiểu số
1.2.1. Lý luận về nhóm người thiểu số
"Dân tộc thiểu số" là khái niệm thuộc phạm trù "ngƣời thiểu số"- một
trong những nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, đƣợc sử dụng rộng rãi trong các
văn kiện pháp lý quốc tế cũng nhƣ trong công tác nghiên cứu.
Để hiểu rõ khái niệm "dân tộc thiểu số" trƣớc hết chúng ta cần nghiên
cứu, phân tích làm rõ khái niệm "ngƣời thiểu số". Mặc dù quyền của ngƣời
thiểu số đã đƣợc luật quốc tế khẳng định, ghi nhận tại Điều 27- ICCPR và
trong Tuyên bố về quyền của những ngƣời thuộc các nhóm thiểu số về dân
tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm 1992, CERD 1965.... Nhƣng cho
đến nay vẫn chƣa có một định nghĩa chính thức nào về “ngƣời thiểu số” đƣợc
xác nhận trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của LHQ. Điều này nói lên tính
chất phức tạp của vấn đề DTTS nói riêng và nhóm những ngƣời thiểu số nói
chung trên thế giới.
Nhƣ vậy, căn cứ vào các văn kiện pháp lý này, "ngƣời thiểu số" đƣợc
hiểu là những nhóm ngƣời thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ. Ở những
nhóm ngƣời này do có những đặc điểm về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ nên
họ đƣợc công nhận là ngƣời thiểu số.
Có nhiều định nghĩa về ngƣời thiểu số ở nhiều gốc độ khác nhau đã
đƣợc nêu ra. Năm 1930, Tòa án Công lý quốc tế thƣờng trực (Permanent
Court of International Justice - PCIJ, cơ quan tài phán của Hội Quốc Liên),
đƣa ra ý kiến tƣ vấn về vụ tranh cãi giữa hai nƣớc Hy Lạp và Bungari liên
quan đến vị thế của các cộng đồng nhập cƣ thiểu số ở hai nƣớc này. PCIJ xác
định một cộng đồng thiểu số là:
Một nhóm ngƣời sống trên một quốc gia hoặc địa phƣơng
nhất định, có những đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngƣỡng,
ngôn ngữ và truyền thống, có sự giúp đỡ lẫn nhau và có quan điểm
20. 14
thống nhất trong việc bảo lƣu những yếu tố truyền thống, duy trì tôn
giáo, tín ngƣỡng và hƣớng dẫn, giáo dục trẻ em trong cộng đồng
theo tinh thần và truyền thống của chủng tộc họ [31].
Định nghĩa của PCIJ khẳng định để xác định là "ngƣời thiểu số" trƣớc
hết phải gắn với một quốc gia hoặc địa phƣơng nhất định và có những đặc
điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngƣỡng, ngôn ngữ và truyền thống. Có thể
thấy rằng PCIJ đã có những đóng góp đáng kể để định nghĩa trên đƣợc sử
dụng nhƣ là một định nghĩa chính thức về ngƣời thiểu số. Tuy nhiên, định
nghĩa của PCIJ cũng còn những hạn chế và gặp phải trở ngại. Những thuộc
tính nêu ra trong định nghĩa này quá rộng, còn chung chung chƣa rõ ràng, đặc
biệt là động chạm đến mối lo ngại thƣờng trực của các quốc gia về những rắc
rối về an ninh, trật tự xã hội có thể nảy sinh trong các vấn đề liên quan đến
ngƣời thiểu số.
Năm 1977, ông Francesco Capotorti, báo cáo viên đặc biệt của Tiểu
ban về chống phân biệt đối xử và bảo vệ ngƣời thiểu số của LHQ. Trong báo
cáo nghiên cứu công bố vào năm 1977, chuyên gia này định nghĩa “ngƣời
thiểu số” là:
... một nhóm ngƣời, xét về mặt số lƣợng, ít hơn so với phần dân
cƣ còn lại của quốc gia, có vị thế yếu trong xã hội, những thành viên
của nhóm- mà đang là công dân của một nƣớc- có những đặc trƣng về
chủng tộc, tín ngƣỡng hoặc ngôn ngữ khác so với phần dân cƣ còn lại
và chứng tỏ rất rõ ràng là có một ý thức thống nhất trong việc bảo tồn
nền văn hóa, truyền thống, tôn giáo và ngôn ngữ của họ [31].
Định nghĩ của Francesco cơ bản giống định nghĩa của PCIJ, tuy nhiên
còn bổ sung thêm 02 thuộc tính để xác định là "ngƣời thiểu số", đó là về mặt
số lƣợng, một nhóm đƣợc coi là thiểu sổ phải ít hơn so với phần dân cƣ còn
lại của quốc gia và về mặt vai trò, một nhóm đƣợc coi là thiểu số phải có vị
21. 15
thế yếu trong xã hội. Nhƣ vậy, phạm vi xác định là "ngƣời thiểu số" theo định
nghĩa của Francesco đã thu hẹp lại so với PCIJ. Ở một góc độ nhất định, định
nghĩa của Francesco khiến cho mối lo ngại của các quốc gia giảm đi, do phạm
vi chủ thể đƣợc coi là ngƣời thiểu số thu hẹp lại. Định nghĩa này trên thực tế
đã đƣợc các tổ chức quốc tế viện dẫn trong một số trƣờng hợp, tuy nhiên, nó
vẫn chƣa nhận đƣợc sự chấp nhận của các quốc gia nhƣ là một định nghĩa
chung về ngƣời thiểu số trong luật quốc tế.
Từ những văn kiện pháp lý quốc tế, từ ý kiến của các chuyên gia, các thiết
chế quốc tế, để xác định là "ngƣời thiểu số" ta dựa vào những đặc trƣng sau:
- "Ngƣời thiểu số" đƣợc hiểu là những nhóm ngƣời thiểu số về sắc tộc,
tôn giáo và ngôn ngữ. Những nhóm ngƣời này do có những đặc điểm về sắc
tộc, tôn giáo và ngôn ngữ nên và yếu tố khác nên họ đƣợc công nhận là ngƣời
thiểu số;
- Về mặt số lƣợng: Có số lƣợng ít so với nhóm đa số cùng sinh sống xét
trên cùng một lãnh thổ (Quốc gia);
- Về vị thế xã hội: Là nhóm yếu thế trong xã hội (chính trị, kinh tế,
xã hội ở lãnh thổ nơi họ sinh sống) mà quyền của họ dễ bị xâm phạm hoặc
bị bỏ quyên;
- Về bản sắc: Có những đặc điểm riêng về mặt chủng tộc, dân tộc, ngôn
ngữ, phong tục tập quán... mà vì thế có thể phân biệt họ với nhóm đa số;
- Về địa vị pháp lý: có thể là công dân hoặc kiều dân của quốc gia nơi
mà họ đang sinh sống;
- Về đặc điểm chủ quan: Thành viên của cộng đồng ấy phải có ý thức
tự giác bảo tồn những đặc trƣng văn hóa của mình, có ý thức mình là thành
viên của cộng đồng ấy.
Thời kỳ đầu mới thành lập, LHQ không dành sự quan tâm thích đáng
đến vấn đề ngƣời thiểu số. Đa số các quốc gia thành viên khi đó đều cho rằng
22. 16
vấn đề quyền của ngƣời thiểu số đã bao gồm trong vấn đề quyền con ngƣời
nói chung nên không cần thiết phải xây dựng những văn kiện hay cơ chế riêng
cho nhóm này. Chính vì vậy, năm 1946 khi Hung-ga-ri đã đƣa ra đề xuất ban
hành một điều ƣớc quốc tế về ngƣời thiểu số nhƣng chỉ nhận đƣợc rất ít sự
ủng hộ. Trong quá trình soạn thảo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
ngƣời (1948) cũng có ý kiến nêu rằng cần đƣa vào ít nhất một điều khoản đề
cập riêng đến quyền của ngƣời thiểu số, song ý kiến này cũng không nhận
đƣợc sự ủng hộ rộng rãi, chủ yếu do tính chất phức tạp của vấn đề.
Tuy nhiên, tƣơng tự nhƣ các nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng khác, cần
hiểu rằng ngƣời thiểu số cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền con ngƣời.
Quyền của nhóm này đã đƣợc đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong
một số điều của UDHR, trong đó bao gồm: Điều 18 (về tự do tôn giáo), Điều
19 (về tự do ngôn luận và ý kiến), Điều 20 (về tự do hội họp, lập hội), Điều
26 (về tự do lựa chọn hình thức giáo dục), Điều 27 (về tự do tham gia vào đời
sống văn hóa của cộng đồng), và đặc biệt là Điều 2 (về nguyên tắc bình đẳng,
không phân biệt đối xử trong việc hƣởng thụ các quyền con ngƣời)...
Mặc dù gặp khó khăn trong việc pháp điển hóa các quyền của ngƣời
thiểu số vào luật quốc tế, song những nỗ lực quốc tế vận động cho vấn đề này
cũng dẫn tới một kết quả quan trọng là việc thành lập Tiểu ban về ngăn ngừa
và bảo vệ ngƣời thiểu số vào năm 1947. Tuy Tiểu ban này có nhiều nhiệm vụ
khác nhau nhƣng chức năng chủ yếu của nó là bảo vệ và thúc đẩy các quyền
của ngƣời thiểu số. Trong Nghị quyết 217C (III) ngày 10/12/1948, Đại hội
đồng LHQ đã khuyến nghị Hội đồng kinh tế và xã hội LHQ (ECOSOC) tiến
hành những nghiên cứu về vấn đề quyền của nhóm này. Đây là cơ sở để Tiểu
ban về ngăn ngừa và bảo vệ ngƣời thiểu số tiến hành một loạt công trình
nghiên cứu và đƣa ra những khuyến nghị quan trọng về quyền của ngƣời thiểu
số. Kết quả nổi bật là việc đƣa vào ICCPR một điều khoản riêng về quyền của
23. 17
ngƣời thiểu số cũng nhƣ thông qua Tuyên bố về quyền của những ngƣời
thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm
1992- những văn kiện mà hiện đang đóng vai trò nền tảng cho việc bảo vệ
quyền của ngƣời thiểu số trên thế giới.
1.2.2. Lý luận về khái niệm "dân tộc thiểu số"
Cũng nhƣ khái niệm "ngƣời thiểu số", khái niệm "dân tộc thiểu số"
cũng đƣợc sử dụng chính thức trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật
các quốc gia. Trong Hiến pháp hiện hành của Việt Nam 2013 là:
1. Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nƣớc Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn
ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nƣớc thực hiện
chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu
số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nƣớc [23, Điều 5].
Tuy nhiên, đến nay chƣa có một khái niệm pháp lý mang tính toàn cầu
nào chỉ rõ nội hàm của khái niệm "dân tộc thiểu số" đạt đƣợc sự đồng thuận
cao của các quốc gia.
Tùy theo từng bộ môn, lĩnh vực nghiên cứu hay quan điểm của mỗi
quốc gia, DTTS (minorité ethnique, ethnic) là thuật ngữ có nhiều định nghĩa
khác nhau trên thế giới.
- Các nhà nghiên cứu nhân chủng học, cho rằng DTTS gồm 2 thành
phần: DTTS có nguồn gốc lịch sử (minorités historiques) là tập thể tộc ngƣời
đã có mặt trên vùng lãnh thổ từ lâu đời mà ngƣời ta thƣờng gọi là dân tộc bản
địa (peuples autochtones); DTTS di cƣ (minorités immigrées) là những ngƣời
nƣớc ngoài sang định cƣ tại một quốc gia đã có chủ quyền.
24. 18
- Trên phƣơng diện chính trị, trên các diễn đàn LHQ, các quốc gia luôn
đƣa ra các khái niệm khác nhau về DTTS phụ thuộc vào chế độ chính trị và
lợi ích các quốc gia. Có thể nói rằng vấn đề DTTS (sắc tộc) là vấn đề nhận
đƣợc nhiều sự quan tâm nhất của tất cả các quốc gia thành viên LHQ, ở cấp
độ toàn cầu cũng nhƣ ở các khu vực khác nhau trên thế giới và cũng là vấn đề
gây nhiều tranh cãi nhất, luôn có những ý kiến trái chiều.
- Đáng chú ý, năm 1992 Đại hội đồng LHQ đã thông qua thuật ngữ
“dân tộc thiểu số” trên cơ sở dựa vào quan điểm của Gs. Francesco Capotorti
(đặc phái viên của LHQ) đã đƣa ra vào năm 1977:
Dân tộc thiểu số là thuật ngữ ám chỉ cho một nhóm ngƣời:
a. Cƣ trú trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền mà họ
là công dân của quốc gia này
b. Duy trì mối quan hệ lâu dài với quốc gia mà họ đang sinh sống
c. Thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và
ngôn ngữ của họ
d. Đủ tƣ cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số
lƣợng ít hơn trong quốc gia này hay tại một khu vực của quốc gia này
e. Có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ,
bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo và ngôn
ngữ của họ. [39]
- Năm 1995, Liên Hiệp Âu Châu đƣa ra khái niệm về DTTS trong
Công ƣớc của Liên Hiệp Âu Châu về DTTS, rất gần gũi với khái niệm của
LHQ biểu quyết vào năm 1992: “DTTS ám chỉ cho một nhóm người từ một
quốc gia khác đến cư trú trên lãnh thổ của quốc gia thuộc Liện Hiệp Âu Châu
và có quốc tịch của khối Âu Châu" [40]
- Tại khu vực Đông Nam Á, ASEAN chƣa đƣa ra một thuật ngữ chính
thức nào về "dân tộc thiểu số". Quan niệm thế nào là "dân tộc thiểu số" hoàn
toàn phụ thuộc vào quan niệm của từng quốc gia.
25. 19
- Đề cập đến "dân tộc thiểu số", chúng ta cũng cần phân biệt với khái
niệm "dân tộc bản địa". Dân tộc bản địa cũng thuộc một trong những nhóm
ngƣời dễ bị tổn thƣơng mà quyền của họ vì nhiều lí do thƣờng bị bỏ quên
hoặc xâm phạm.
Quyền của ngƣời dân tộc bản địa sớm đƣợc cộng đồng quốc tế ghi
nhận. Đáng chú ý nhất vào ngày 13-9-2007, Đại hội đồng LHQ đã biểu quyết
thông qua bản "Tuyên ngôn về quyền của dân tộc bản địa" với 143 quốc gia
ủng hộ, 4 phiếu chống (Úc, Canada, New Zealand và Hoa Kỳ) và 11 phiếu
trắng (Azerbaijan, Bangladesh, Bhutan, Burundi, Cô-lôm-bi-a, Georgia,
Kenya, Nigeria, Nga Liên đoàn, Samoa và Ukraine). Việt Nam là quốc gia
thành viên của LHQ đã ký vào bản Tuyên Ngôn này.
Năm 1993, Đại hội đồng LHQ tuyên bố là “Năm quốc tế về các dân tộc
bản địa” (the International Year of the World's Indigenous People) và thập kỷ
1995-2004 là “Thập kỷ quốc tế về các dân tộc bản địa” (the International
Decade for the World's Indigenous People) nhằm tăng cƣờng sự hợp tác quốc
tế để giải quyết những vấn đề của cộng đồng ngƣời bản địa mà cơ bản nhất là
quyền sở hữu đất đai, quyền phát triển kinh tế, y tế, giáo dục, môi
trƣờng... của dân tộc này. Chính đó là nguyên nhân giải thích cho sự ra đời
của 2 chƣơng trình LHQ mang tên là: “Nhóm công tác về các dân tộc bản
địa” (the Working Group on Indigenous Populations) và “Diễn đàn thƣờng
trực về các vấn đề bản địa” (the Permanent Forum on Indigenous Issues), đã
tích cực nghiên cứu thúc đẩy việc thực hiện các quyền của những ngƣời bản
địa qua việc biên soạn bản thảo “Tuyên Ngôn về quyền của các dân tộc bản
địa” (the Declaration on the Rights of the Indigenous Peoples), một dự án vô
cùng khó khăn mà LHQ tìm mọi cách để chinh phục các quốc gia thành viên
phải ký vào.
Đề cập đến khái niệm "dân tộc bản địa", đáng chú ý là khái niệm của
26. 20
Martinez-Cobo, đặc phái viên LHQ đƣa ra vào năm 1984 mà sau đó Đại hội
đồng LHQ xem đó nhƣ là mẫu mực pháp lý để tiến hành các dự án về quyền
của dân tộc bản địa trong tƣơng lai:
Cộng đồng bản địa, chủng tộc bản địa hay dân tộc bản địa là
nhóm ngƣời có một chiều dài lịch sử xuất thân từ một xã hội đã có
mặt trên một lãnh thổ trƣớc thời kỳ xâm lƣợc và đô hộ của dân tộc
khác. Họ tự nhận diện bản thân của họ có nguồn gốc khác biệt đối
với nhóm dân tộc đang nắm quyền hành trên toàn lãnh thổ hay một
phần lãnh thổ của họ. Họ là thành phần tộc ngƣời không có quyền
lực trong một xã hội nhƣng lúc nào cũng cƣơng quyết bảo vệ, phát
triển và chuyển đạt cho thế hệ tƣơng lai, lãnh thổ do cha ông của họ
để lại cũng nhƣ bản sắc dân tộc dựa trên mô hình văn hóa, hệ thống
xã hội và qui chế luật tục mà họ xem đó là yếu tố quyết định trong
cuộc sống của dân tộc này [41].
Sau mấy năm bàn luận về quan điểm của Martinez-Cobo, Đại hội đồng
LHQ đƣa ra nghị quyết số 50-157 vào ngày 21-2-1996 nhằm hình thành dự án
bảo vệ quyền của dân tộc bản địa. Đây là bƣớc đầu thành công của LHQ
nhằm nhằm kêu gọi các quốc gia thành viên phải tìm mọi cách để hoàn thành
một bản Tuyên Ngôn về quyền của dân tộc bản địa trong tƣơng lai.
Dựa vào nghị quyết số 50-157 ngày 21-2-1996 của LHQ, Cao Ủy Nhân
Quyền LHQ đƣa ra vào tháng 4-1996 một định nghĩa rõ ràng về ý nghĩa của
dân tộc bản địa. Đây là văn bản bằng tiếng Pháp đăng trên bản tin số 9 (Rev.
1) của Cao Ủy Nhân Quyền:
Ngƣời dân bản địa là cộng đồng tộc ngƣời đã có mặt trên khu
vực rộng lớn của bề mặt trái đất. Là tập thể sinh sống rải rác trên khắp
thế giới từ Bắc Cực đến Nam Thái Bình Dƣơng, dân tộc bản địa hôm
nay có vào khoảng 300 triệu ngƣời. Dân tộc bản địa (peuples
27. 21
autochtones) hay còn gọi là thổ dân (aborigènes) là nhóm ngƣời đã
từng có mặt trên một khu vực đất đai rõ ràng trƣớc ngày di dân
(colons) của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ. Dân tộc bản địa
hôm nay là hậu duệ của nhóm tộc ngƣời đã có mặt từ lâu đời trên một
lãnh thổ đất đai hay khu vực địa lý, nhƣng sau đó các nhóm dân cƣ có
nền văn hóa và nguồn gốc chủng tộc hoàn toàn khác biệt, tìm cách di
dân vào lãnh thổ của họ để rồi trở thành nhóm ngƣời có quyền lực
thông qua chính sách thống trị, xâm chiếm, đô hộ hay thông qua
những hình thức khác [42].
Dựa vào quan điểm về dân tộc bản địa của Cao Ủy Nhân Quyền vào
năm 1996, LHQ tiếp tục thƣơng thuyết với những quốc gia thành viên để đi
tìm sự đồng thuận chung về dân tộc bản địa. Sau 10 năm bàn cãi, Đại Hội
Đồng LHQ thông qua bản Tuyên Ngôn về Quyền của Dân Tộc Bản Địa vào
ngày 13-9-2007 tại hội trƣờng New York, Hoa Kỳ. Đối với Cao Ủy Nhân
Quyền, đây là một chiến thắng lớn lao cho công lý và phẩm giá của con ngƣời
sau hơn hai thập kỷ qua các cuộc đàm phán giữa đại diện của các quốc gia và
ngƣời dân bản địa.
Bản "Tuyên Ngôn về Quyền của Dân Tộc Bản Địa" đã đƣợc thông qua
vào năm 2007 với 143 quốc gia ủng hộ, trong đó có Việt Nam. Sau ngày ra
đời của Tuyên Ngôn vào năm 2007, Nhật Bản (quốc gia ký tên) và 4 quốc gia
khác, mặc dù không ký tên (Úc, Canada, New Zealand và Hoa Kỳ) đã công
nhận chính thức nội dung của bản Tuyên Ngôn về dân tộc bản địa.
- Cũng cần phân biệt khái niệm "dân tộc thiểu số" với khái niệm "dân
tộc" hiểu theo nghĩa là quốc gia dân tộc (nation) mà chúng ta thƣờng sử dụng,
hiểu lẫn lộn nhất là trong cuộc sống hàng ngày.
Theo nghĩa là quốc gia dân tộc, dân tộc (Nation) là một cộng đồng chính
trị -xã hội, đƣợc quản lý bởi một nhà nƣớc, thiết lập trên một lãnh thổ nhất
28. 22
định... Dân tộc (Nation) có những đặc trƣng cơ bản là: Có một lãnh thổ chung,
là vùng đất, vùng trời, vùng biển (nếu có) mà ở đó các tộc ngƣời cùng nhau
sinh sống. Lãnh thổ này đƣợc phân định với các nƣớc bằng đƣờng biên giới
trên đất liền, trên biển và trên không; có một đời sống kinh tế chung, một chế
độ kinh tế với một thị trƣờng, một đồng tiền thống nhất. Nền kinh tế ấy là điều
kiện vật chất cơ bản bảo đảm sự cố kết chặt chẽ của cộng đồng quốc gia dân
tộc; có ngôn ngữ giao tiếp chung, trong quốc gia dân tộc có thể các dân tộc có
tiếng nói và chữ viết riêng, nhƣng một quốc gia dân tộc bao giờ cũng có ngôn
ngữ chung để giao tiếp; có tâm lý chung biểu hiện ở nền văn hoá, làm cho mỗi
quốc gia dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng. Đây là một yếu tố rất cơ bản để
phân biệt quốc gia dân tộc này với quốc gia dân tộc khác; có một thể chế chính
trị với một nhà nƣớc thống nhất, để quản lý, điều hành hoạt động của đất nƣớc
và quan hệ với các quốc gia dân tộc khác.
Những đặc trƣng của dân tộc với ý nghĩa là quốc gia dân tộc nhƣ trên
tạo nên một thể thống nhất, đảm bảo cho sự cố kết dân tộc chặt chẽ và ổn định
của quốc gia dân tộc.
- Nhƣ vậy có thể thấy “Dân tộc thiểu số” là một khái niệm đƣợc sử
dụng phổ biến ở nhiều lĩnh vực, ngành khoa học khác nhau trên thế giới,
trong đó có khoa học pháp lý. Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ
có ý nghĩa biểu thị tƣơng quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số”
không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc. Địa
vị, trình độ phát triển của các dân tộc không phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít,
mà nó đƣợc chi phối bởi những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội và lịch sử
của mỗi dân tộc. DTTS là thuật ngữ chỉ cộng đồng ngƣời có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét
29. 23
văn hoá đặc thù; Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; Kế thừa, phát triển cao hơn
những nhân tố tộc ngƣời ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc
ngƣời của dân cƣ cộng đồng đó. DTTS luôn gắn với một quốc gia và là một
bộ phận của quốc gia có chủ quyền.
Ở Việt Nam, khái niệm DTTS đƣợc sử dụng rộng rãi trong các văn bản
pháp luật cũng nhƣ trong công tác nghiên cứu, học tập và trong hoạt động
thực tiễn. Thuật ngữ này cũng đƣợc sử dụng chính thức trong các bản hiến
pháp. Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc đƣa ra
khái niệm tại K2- Đ4 "DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc
đa số trên phạm vi lãnh thổ nƣớc CHXHCNVN"; K3- Điều 4: "Dân tộc đa số
là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng số dân của cả nƣớc theo điều tra dân
số quốc gia". Căn cứ vào kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở quốc gia 2009,
Việt Nam có 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ của cả nƣớc, trong đó có 53
dân tộc thiểu số với số dân 12,253 triệu ngƣời (chiếm 14,3%). Nhƣ vậy, khái
niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ
trọng thấp trong tƣơng quan so sánh về lƣợng dân số trong một quốc gia đa
dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị tƣơng
quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế
giới. Một dân tộc có thể đƣợc quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, nhƣng
đồng thời có thể là “thiểu số” ở quốc gia khác.
Rõ ràng, quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng nhƣ
nội hàm của chúng hiện nay còn có những vấn đề chƣa thống nhất và nó cũng
đƣợc vận dụng xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tuỳ theo
quan niệm và mối quan hệ so sánh về dân số của mỗi quốc gia dân tộc. Song,
những nội dung đƣợc quan niệm nhƣ đã phân tích ở phần trên về cơ bản là
tƣơng đối thống nhất không chỉ ở nƣớc ta mà trong cả giới nghiên cứu dân tộc
học trên thế giới.
30. 24
1.2.3. Đặc điểm dân tộc thiểu số
DTTS thƣờng đƣợc nhận biết thông qua những đặc trƣng chủ yếu sau đây:
+ Có chung một phƣơng thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trƣng quan
trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận,
các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
+ Có thể cƣ trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc
cƣ trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất
quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nƣớc.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ
chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hoá,
tình cảm...
+ Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền
văn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó với
nền văn hoá của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Nhƣ vậy, cộng đồng ngƣời ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các
đặc trƣng trên, các đặc trƣng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với
nhau, đồng thời mỗi đặc trƣng có một vị trí xác định. Sự tổng hợp các đặc
trƣng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc đƣợc đề cập ở đây- về thực chất
là một cộng đồng xã hội- tộc ngƣời, trong đó những nhân tố tộc ngƣời đan
kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội. Điều đó làm cho khái niệm dân tộc
khác với các khái niệm sắc tộc, chủng tộc- thƣờng chỉ căn cứ vào các đặc
điểm tự nhiên, chẳng hạn màu da.
Nghiên cứu khái niệm và các đặc trƣng của dân tộc cần thấy rằng khái
niệm dân tộc và khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì, dân tộc
ra đời trong một quốc gia nhất định, thông thƣờng thì những nhân tố hình
thành dân tộc chín muồi không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố
hình thành quốc gia- chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau.
31. 25
Nếu nhƣ cộng đồng thị tộc (trong xã hội nguyên thuỷ) mang tính thuần
tuý tộc ngƣời, trong đó quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi phối tuyệt
đối, thì ở cộng đồng bộ lạc và liên minh bộ lạc (xuất hiện vào cuối xã hội
nguyên thuỷ) đã xuất hiện dƣới dạng đầu tiên những thiết chế chính trị- xã
hội, trong đó những quan hệ tộc ngƣời xen với những quan hệ chính trị- xã
hội. Cộng đồng bộ tộc xuất hiện vào thời kỳ xã hội có sự phân chia rõ rệt hơn
về giai cấp và sau đó là sự xuất hiện nhà nƣớc - quốc gia. Từ đây, sự cố kết bộ
tộc là nhân tố quan trọng trong sự hình thành và củng cố quốc gia. Ngƣợc lại,
sự hình thành, củng cố quốc gia là điều kiện có ý nghĩa quyết định sự củng cố
và phát triển của cộng đồng bộ tộc, là sự chuẩn bị quan trọng nhất để cộng
đồng bộ tộc chuyển lên một hình thức cao hơn, tức là dân tộc.
Tính tộc ngƣời và tính chính trị- xã hội đó ghi đậm vào tâm trí của
đông đảo dân cƣ ý thức gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân tộc,
với nhà nƣớc, quốc gia. Tình cảm đối với dân tộc hoà nhập vào tình cảm đối
với Tổ quốc và trở thành một trong những giá trị thiêng liêng, bền vững của
nhiều thế hệ con ngƣời ở nhiều dân tộc, quốc gia. Tình cảm ấy xuất hiện và
đƣợc củng cố trong quá trình lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc lâu dài, trở thành
nét truyền thống đặc sắc của các dân tộc, quốc gia đó.
Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi vì, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới- từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thƣợng tầng và các quan hệ xã hội
không thể thiếu nội dung cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc và các mối
quan hệ dân tộc. Ngƣợc lại, việc cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc và các
mối quan hệ dân tộc không thể tách rời công cuộc cải tạo, xây dựng toàn diện
xã hội mà trƣớc hết là xây dựng chế độ chính trị- xã hội, xây dựng nhà nƣớc
theo con đƣờng tiến bộ.
Trong thực tiễn, không nên xem nhẹ hoặc làm lu mờ những nhân tố
32. 26
dân tộc tồn tại lâu dài trong một cộng đồng quốc gia gồm nhiều dân tộc.
Nhân tố dân tộc đó đƣợc biểu hiện nổi bật nhất trong văn hoá, nghệ thuật,
ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý và tình cảm, chúng hoà quyện vào
nhau tạo thành một thể thống nhất trong đa dạng về bản sắc dân tộc, là căn
cứ chủ yếu để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Điều đó đòi hỏi nhà
nƣớc trong khi hoạch định và thực hiện mọi chính sách chung của quốc gia,
cần chú ý đến tính đặc thù của cộng đồng gồm nhiều dân tộc, hơn nữa, cần
có những chính sách riêng đáp ứng những đòi hỏi chính đáng mang tính đặc
thù của từng dân tộc.
1.2.4. Nhận thức chung về dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Đến nay, ở Việt Nam chƣa có một khái niệm pháp lý chính thức nào chỉ
rõ nội hàm của khái niệm “dân tộc thiểu số”. Nhằm phục vụ Tổng điều tra dân
số cả nước 1979 và công tác thống kê thƣờng xuyên, công tác nghiên cứu,
đƣợc sự chỉ đạo của Chính phủ, ngày 02 tháng 3 năm 1979, Tổng cục trƣởng
Tổng cục thống kê đã ra Quyết định ban hành “Danh mục các thành phần dân
tộc Việt Nam” để sử dụng thống nhất trong các ngành, các cấp ở trung ƣơng và
địa phƣơng trong cuộc tổng điều tra dân số nói trên. Các dân tộc trong danh
mục này là những cộng đồng đƣợc xác định dựa trên ba tiêu chuẩn cơ bản: Đặc
điểm ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt- văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Theo
bảng danh mục này số lƣợng dân tộc trong toàn quốc là 54, trong đó có 53
DTTS. Các thành phần dân tộc trong bản danh mục này không bao gồm các
ngoại kiều. Bảng danh mục này đƣợc thống nhất sử dụng cho đến nay.
Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân
số của Việt Nam là 85.789.573 ngƣời, tăng 9,47 triệu ngƣời so với năm
1999. Dân tộc Kinh chiếm trên 85% dân số, còn lại là các DTTS, trong đó
có những DTTS nhƣ Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 ngƣời. Hầu
hết các DTTS (trừ ngƣời Hoa, ngƣời Khmer, ngƣời Chăm) sống tại các
33. 27
vùng trung du và miền núi.
1.2.4.1. Vai trò của các DTTS ở Việt Nam trong lịch sử dựng nước và
giữ nước
Các DTTS ở Việt Nam có vai trò rất to lớn trong lịch sử dựng nƣớc và
giữ nƣớc. Lịch sử dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm qua đã khẳng định các
DTTS là một lực lƣợng cơ bản, không thể thay thế trong suốt thời kỳ dựng
nƣớc và giữ nƣớc. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các DTTS
ở nƣớc ta ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trong buổi bình minh dựng nƣớc, từ các Nhà nƣớc Âu Lạc, Nhà nƣớc
Văn Lang, Việt Nam đã là một quốc gia đa dân tộc. Không phải từ ngày đầu
lập nƣớc đã có 54 dân tộc nhƣ hôm nay, nhƣng chắc chắn lúc đó đã có vài dân
tộc sinh sống. Đó là tổ tiên của ngƣời Kinh (Lạc Việt) và tổ tiên của ngƣời
Tày. Cùng với thời gian, do nhu cầu phải hợp sức để có đủ sức mạnh chinh
phục tự nhiên và chống lại sự xâm lƣợc của các thế lực ngoại bang, ngày càng
nhiều dân tộc gia nhập vào đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam, làm cho lãnh
thổ quốc gia Việt Nam đƣợc mở rộng dần. Bằng sự trải nghiệm của chính
mình trong lịch sử, các DTTS đã hiểu rằng khi đất nƣớc Việt Nam bị suy yếu
thì cuộc sống của mọi dân tộc đều khó khăn, khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm
lƣợc, bị ngoại bang đô hộ thì tất cả các dân tộc đều đứng trƣớc nguy cơ bị diệt
vong. Vì thế, trong mỗi dân tộc ở Việt Nam vừa có ý thức về Tổ quốc Việt
Nam vừa có ý thức về dân tộc- tộc ngƣời của mình. Do đó, ý chí xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của mỗi dân tộc rất mạnh mẽ, bởi đây chính là ý chí xây dựng
và bảo vệ đất nƣớc của chính mình, bảo vệ lãnh thổ và cuộc sống của chính
mình. Đây là nguyên nhân sâu xa quy định vai trò to lớn của các DTTS trong
quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam thống nhất.
Suốt mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, các DTTS luôn sát cánh
34. 28
bên nhau, đoàn kết thống nhất để chống chọi với thiên tai địch họa, giữ gìn và
xây dựng nên non sông Việt Nam. Điều đó đã nói lên vai trò to lớn của các
DTTS ở Việt Nam ngay từ khi quốc gia Việt Nam mới ra đời và trong suốt
quá trình phát triển. Cần khẳng định rõ rằng, nếu không có sự đoàn kết giữa
dân tộc Kinh với các DTTS, không có sự ủng hộ, góp sức của các DTTS thì
chắc chắn không thể có một quốc gia Việt Nam thống nhất nhƣ ngày nay.
Các DTTS ở nƣớc ta thƣờng cƣ trú ở miền núi, suốt dọc biên giới phía
Bắc và phía Tây của Tổ quốc. Đây là vùng đất rộng lớn, chiếm 3/4 diện tích
cả nƣớc, lại có nguồn tài nguyên phong phú, là địa bàn có ý nghĩa chiến lƣợc
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với ƣu thế về đất đai, khoáng
sản, lâm sản... các DTTS cung cấp nguồn sức kéo, nguyên liệu, vật liệu... cho
đồng bằng, đồng thời nhận từ đồng bằng lƣơng thực, muối, dụng cụ lao
động... Sự trao đổi gắn kết chặt chẽ về kinh tế giữa các DTTS với dân tộc
Kinh ở đồng bằng tạo nên một nền kinh tế thống nhất, với thế mạnh của cả
miền núi và đồng bằng. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, đồng bào các
DTTS ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng đất nƣớc.
Hàng loạt nông trƣờng, lâm trƣờng, nhiều khu công nghiệp, nhà máy điện đã
đƣợc xây dựng ở miền núi, vùng đồng bào DTTS sinh sống. Những thành tựu
đạt đƣợc về kinh tế, văn hóa- xã hội khẳng định sự đóng góp to lớn, có ý
nghĩa quyết định đến thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của đồng bào các DTTS.
Cƣ trú dọc biên giới, trên những địa bàn chiến lƣợc xung yếu của Tổ
quốc, trong lịch sử các DTTS luôn là lực lƣợng che chắn, là "phên dậu",
thƣờng xuyên phải chống lại những âm mƣu, thủ đoạn xâm phạm bờ cõi của
kẻ thù. Khi đất nƣớc bị xâm lƣợc, các DTTS cũng là bộ phận đầu tiên đứng
lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Những đội quân kháng chiến của đồng bào các
DTTS dũng cảm, mƣu trí, thông thạo địa bàn rừng núi là nỗi nỗi khiếp đảm
35. 29
của kẻ thù. Địa bàn vùng đồng bào DTTS sinh sống với ƣu thế rộng lớn, hiểm
trở, đặc biệt là nhân dân các DTTS có tinh thần yêu nƣớc rất cao, vì thế nơi
đây thƣờng trở thành những căn cứ địa của các cuộc kháng chiến.
Trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc của các triều đại
phong kiến đều có sự đóng góp sức ngƣời, sức của rất to lớn của đồng bào các
DTTS. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lƣợc, chiến khu Việt Bắc, vùng rừng núi miền Trung, Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ... không những là căn cứ vững chắc của cách mạng mà còn là nơi
quân thù bị giáng những đòn rất nặng nề, dẫn tới thất bại cuối cùng của
chúng. Ngày nay, sự vững mạnh về an ninh, quốc phòng ở vùng đồng bào các
DTTS có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Ghi nhận sự hy sinh, đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc qua các
thời kỳ, Đảng và Nhà nƣớc đã phong tặng nhiều danh hiệu cao quý cho các
tập thể, cá nhân, địa phƣơng vùng dân tộc thiểu số. Đã có 145 cá nhân là
ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc phong tặng danh hiệu anh hùng lực lƣợng vũ
trang, 25 ngƣời đƣợc tặng danh hiệu anh hùng lao động [8],...
1.2.4.2. Truyền thống đoàn kết của các DTTS ở Việt Nam
Qua lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, có thể khẳng định rằng đoàn kết,
cố kết chặt chẽ với nhau là một truyền thống nổi bật, cực kỳ quý báu của các
dân tộc ở Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân
tộc ta chứng minh rằng chỉ có đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam mới tạo ra sức
mạnh để bảo vệ mình và phát triển.
Việt Nam hàng ngàn năm qua là một nƣớc nông nghiệp, từ xa xƣa nền
kinh tế chủ yếu là trồng lúa nƣớc. Để chủ động nguồn nƣớc phục vụ cho cây
lúa- ngành kinh tế chủ yếu của đất nƣớc, yêu cầu trị thuỷ đặt ra rất lớn, liên tục
đối với các thế hệ các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Muốn trị thuỷ
đòi hỏi các dân tộc qua nhiều thế hệ phải chung sức đắp để chống lũ lụt, khai
36. 30
sông ngòi, mƣơng phai để lấy nƣớc cấy lúa trong mùa khô. Dần dần các dân
tộc ở Việt Nam hiểu rằng phải chung sức trị thuỷ mới có thế có cơm no, áo ấm.
Cùng với trị thuỷ, các dân tộc ở Việt Nam sinh sống trên các địa bàn,
các vùng miền khác nhau, với những thế mạnh kinh tế khác nhau, tất yếu nảy
sinh nhu cầu trao đổi sản vật, hàng hoá từ vùng này qua vùng khác, từ dân tộc
này sang dân tộc khác. Quá trình trao đổi ấy đƣợc duy trì từ đời này sang đời
khác, đảm bảo cho cuộc sống của từng dân tộc và của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Tình đoàn kết giữa các dân tộc ở Việt Nam đã đƣợc hình thành từ
hoạt động lao động sản xuất vì cuộc sống của chính mình.
Các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam luôn phải đƣơng đầu chống lại các
thế lực xâm lƣợc to lớn, hung hãn. Từ xa xƣa, các triều đại phong kiến
phƣơng Bắc đều có dã tâm thôn tính Việt Nam, hầu nhƣ tất cả các triều đại
đều đƣa quân xâm lƣợc Việt Nam. Từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ là những thế lực thực dân, đế quốc to lớn cùng thay nhau
xâm lƣợc, thống trị nƣớc ta. Để chống lại quân xâm lƣợc, các dân tộc ở Việt
Nam không còn con đƣờng nào khác là phải đoàn kết nhau lại, cùng hợp sức
để đánh bại kẻ thù, bảo vệ nền độc lập tự do của cả cộng đồng dân tộc.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng không đoàn kết nhau lại để chống kẻ thù
chung thì nƣớc Việt Nam sẽ bị thôn tính. Khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lƣợc
thì các dân tộc cũng bị mất độc lập tự do. Các thế lực xâm lƣợc cũng luôn tìm
cách chia rẽ tình đoàn kết giữa các dân tộc ở Việt Nam để chúng dễ bề xâm
lƣợc và thống trị. Chính vì vậy, có đoàn kết, chung sức chung lòng mới đủ
sức mạnh để trụ vững trƣớc các thế lực xâm lƣợc, đó là yêu cầu sống còn của
các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Ở khu vực châu Á, Việt Nam là một nƣớc nhỏ, nằm gần hai nƣớc lớn có
nền văn minh phát triển sớm là Trung Quốc và Ấn Độ. Tác động của hai nền
văn minh Trung Quốc và Ấn Độ đến các nƣớc trong khu vực là rất lớn, rất
37. 31
mạnh. Vì thế các dân tộc ở Việt Nam phải đoàn kết, thật sự chung sức chung
lòng để xây dựng và giữ gìn một nền văn hóa mang bản sắc của mình thì mới
đủ sức trụ vững không bị đồng hoá bởi các nền văn minh khác. Chỉ có nhƣ vậy,
các dân tộc ở Việt Nam mới còn là chính mình, mới giữ đƣợc phong tục tập
quán, tâm lý dân tộc, giữ đƣợc cội nguồn, tên gọi của mình, không bị trở thành
ngƣời khác. Chính vì xây dựng và giữ đƣợc bản sắc văn hóa của mình nên
trong lịch sử mặc dù có thời kỳ bị đô hộ hàng nghìn năm, nhƣng dân tộc Việt
Nam không bị đồng hoá. Với ý thức dân tộc ấy, các dân tộc trên lãnh thổ Việt
Nam đã liên tục vùng lên đấu tranh và cuối cùng đã giành đƣợc độc lập.
Nhƣ vậy, đoàn kết một lòng, các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam đã tạo nên một nền văn hóa mang bản sắc của mình. Nhờ có bản sắc
văn hóa ấy, cộng đồng các dân tộc càng cố kết chặt chẽ tạo nên sức mạnh để
dân tộc Việt Nam trụ vững và phát triển trƣớc mọi thử thách khắc nghiệt của
lịch sử. Có thể khẳng định rằng đoàn kết để xây dựng và giữ gìn một nền
văn hóa mang bản sắc dân tộc cũng là một đòi hỏi khách quan để các dân tộc
ở Việt Nam tồn tại và phát triển. Đoàn kết dân tộc là một truyền thống, một
đặc điểm nổi bật của dân tộc Việt Nam. Lịch sử đoàn kết dân tộc ở Việt
Nam đã để lại nhiều bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc ngày nay.
1.2.4.3. Đặc điểm các DTTS ở Việt Nam
Nghiên cứu về DTTS ở Việt Nam, có thể khái quát DTTS ở nƣớc ta với
những đặc điểm cơ bản nhƣ sau:
- Các DTTS ở nước ta có những nét khác nhau về nguồn gốc lịch sử:
Thực tế cho thấy cộng đồng quốc gia- dân tộc Việt Nam đƣợc hình thành bởi
các yếu tố khách quan và chủ quan. Nhiều tộc ngƣời và nhóm tộc ngƣời gia
nhập vào cộng đồng chung đó vào những thời điểm khác nhau và trong bối
cảnh, điều kiện khác nhau. Vì thế, các DTTS ở nƣớc ta không đồng nhất về
38. 32
nguồn gốc lịch sử.
Một phần lớn các DTTS có nguồn gốc tại chỗ, nhƣ dân tộc Tày,
Mƣờng, Thổ, La Hủ, Xinh Mun... Đây là những dân tộc có quá trình hình
thành, phát triển tộc ngƣời trên vùng lãnh thổ đang cƣ trú. Họ thƣờng có ý
thức tộc ngƣời rõ nét và gắn bó với quê hƣơng, đất nƣớc. Bên cạnh đó, nhiều
DTTS, có nguồn gốc từ nơi khác đến, nhất là từ Nam Trung Quốc, nhƣ dân
tộc Mông, Thái, Dao, Nùng... Các dân tộc này đến nƣớc ta trong nhiều thời
điểm, có thể là toàn bộ hoặc chỉ là các nhóm, các bộ phận tộc ngƣời, từ đó
phát sinh quan hệ đồng tộc, thân tộc ngoài biên giới quốc gia. Đặc biệt, một
số DTTS do xung đột, biến động trong lịch sử mà trở thành thành viên gắn bó
của cộng đồng quốc gia- dân tộc Việt Nam (nhƣ dân tộc Chăm và dân tộc
Khmer Nam bộ). Những dân tộc này đã từng là chủ nhân của các vƣơng quốc
cổ xƣa. Quá trình bang giao hữu hảo và cả những va chạm, chiến tranh với
triều đình phong kiến của ngƣời Việt trong nhiều thế kỷ đã đƣa các vùng đất
thuộc các vƣơng quốc đó sáp nhập vào đất Việt, đƣa các dân tộc đó tham gia
vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Nguồn gốc tộc ngƣời và những va chạm, xung đột trong lịch sử thƣờng
để lại dấu ấn sâu đậm trong nhận thức, tình cảm dân tộc. Đặc biệt là có thể
phát sinh và lan truyền chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoạn, tâm lý kỳ thị, hận
thù giữa các dân tộc. Hơn nữa, vấn đề nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời là yếu tố
luôn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, khai thác, lợi dụng để chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, xâm hại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nƣớc.
Chúng thƣờng lợi dụng vấn đề này nhằm tác động, chia rẽ, khơi dậy mối nghi
kỵ, mặc cảm, gây ly gián, hận thù dân tộc, mâu thuẫn dân tộc, kích động ý
thức tộc ngƣời biệt lập, làm lu mờ ý thức quốc gia của đồng bào các DTTS,
tạo dựng khuynh hƣớng ly tâm, ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc và tổ chức
lực lƣợng chống đối ngƣời DTTS.
39. 33
- Các DTTS cư trú đan xen không có lãnh thổ tộc người riêng biệt,
phân bổ chủ yếu ở những địa bàn có vị trí quan trọng chiến lược về an ninh
quốc phòng, vùng miền núi, cao nguyên, biên giới.
Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm 14,3% dân số cả nƣớc nhƣng cƣ trú
trên vùng lãnh thổ bằng 70% diện tích của cả nƣớc. Mặc dù vậy, ở Việt Nam
các DTTS sống rất phân tán và xen kẽ nhau. Không có bất kỳ một DTTS nào
cƣ trú tập trung và duy nhất trong một địa bàn. Tính chất phân tán và xen kẽ
trong cƣ trú của các DTTS thể hiện trên phạm vi cả nƣớc cũng nhƣ ở từng
tỉnh, huyện, xã. Hiện nay ở nƣớc ta, những xã có một DTTS sinh sống chỉ
đếm đƣợc trên đầu ngón tay. Trong khi đó, có huyện miền núi có tới hơn 20
DTTS cùng sinh sống.
Đồng bào các DTTS ở nƣớc ta cƣ trú tập trung chủ yếu ở 4 vùng: Vùng
miền núi và trung du phía Bắc tính từ phía tây Quảng Bình trở ra, có núi cao,
rừng rậm, hiểm trở, với khoảng trên 30 DTTS cƣ trú, đông nhất là ngƣời Tày,
Thái, Mƣờng... có biên giới giáp với Trung Quốc, Lào dài hàng nghìn km.
Vùng này có nhiều DTTS có nguồn gốc từ nơi khác di cƣ đến (Mông, Dao,
Nùng,...) nên có mối quan hệ đồng tộc, dân tộc ở bên kia biên giới. Vùng
Trường Sơn- Tây nguyên, tính từ phía tây Quảng Trị trở vào đến hết 5 tỉnh
Tây nguyên và vùng phụ cận, bao gồm khu vực dọc dãy Trƣờng sơn, các cao
nguyên Nam Trung Bộ và vùng cao của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận... Vùng này có nhiều bộ phận dân tộc hợp
thành, trong đó có gần 20 DTTS tại chỗ. Vùng Duyên hải nam Trung Bộ là
nơi cƣ trú chủ yếu của ngƣời Chăm (tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình
Thuận). Xƣa kia vùng đất này thuộc “ vƣơng quốc Chăm Pa”, cƣ dân chủ yếu
là ngƣời Chăm, kéo dài từ đèo Ngang theo ven biển miền Trung đến giáp
vùng Thủy Chân lạp (Nam Bộ hiện nay). Do biến động của lịch sử, đến cuối
thế kỷ XVII vƣơng quốc này không còn tồn tại và dân tộc Chăm trở thành
40. 34
một thành viên gắn bó trong cộng đồng quốc gia các dân tộc Việt Nam. Vùng
đồng bằng sông Cửu Long hay Miền Tây nam Bộ đƣợc hình thành trong lịch
sử do công khai phá của ngƣời Kinh, ngƣời Hoa, ngƣời Khmer. Đây cũng là
nơi cƣ trú tập trung của ngƣời dân tộc Khmer (gọi là ngƣời Khmer Nam bộ
hay Khmer Krom) có cùng nguồn gốc, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán
và tín ngƣỡng, tôn giáo với ngƣời Khmer ở Cămpuchia, vùng này còn có một
bộ phận ngƣời Chăm và ngƣời Hoa sinh sống.
Đặc điểm nổi trội trong phân bố của các dân tộc ở Việt Nam là cƣ trú
đan xen, không có lãnh thổ tộc ngƣời riêng biệt. Tuy một số dân tộc có vùng
cƣ trú tƣơng đối tập trung (ngƣời Thái ở Tây Bắc và Tây Thanh Hóa- Nghệ
An; ngƣời Mƣờng tập trung ở Hòa Bình; ngƣời Chăm ở Nam trung bộ;
ngƣời Khmer ở Tây Nam bộ...) song các dân tộc ở nƣớc ta cƣ trú xen kẽ với
nhau và xu hƣớng cƣ trú đó ngày càng tăng. Tại các xã, thậm chí là trong
phạm vi bản, thƣờng có cƣ dân nhiều dân tộc cùng sinh sống xen kẽ. Đặc
điểm cƣ trú đó có tác động tích cực và tiêu cực đến quan hệ dân tộc, vừa
tăng cƣờng sự hiểu biết, gắn kết, hòa hợp với nhau, vừa dễ dẫn đến va chạm,
hiềm khích mâu thuẫn dân tộc.
Nhiều DTTS phân bố, sinh sống tập trung ở vùng miền núi, cao
nguyên, biên giới, thƣờng có địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn.
Đó lại là những địa bàn có vị trí chiến lƣợc hết sức quan trọng về chính trị,
kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng. Khu vực cƣ trú của đồng bào các DTTS
chính là địa bàn "phên dậu”, vùng “ biên viễn” của đất nƣớc, gắn liền với việc
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và là nơi kẻ địch thƣờng có điều kiện xâm
nhập, ẩn náu, hoạt động chống phá cách mạng.
- Các DTTS có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế- xã hội
nhìn chung còn thấp và không đồng đều nhau.
Theo số liệu điều tra dân số năm 2009, nƣớc ta có 54 dân tộc, trong đó
41. 35
dân tộc Kinh là dân tộc đa số với số dân 73,594 triệu ngƣời (chiếm 85,7%) và
các dân tộc còn lại có 12,253 triệu ngƣời (chiếm 14,3%). Các DTTS có số
lƣợng trên một triệu ngƣời, gồm: dân tộc Tày: 1.626.392 ngƣời, chiếm 1,9%;
dân tộc Thái: 1.550.423 ngƣời (1,8%); dân tộc Mƣờng: 1.268.963 ngƣời
(1,5%); dân tộc Khmer: 1.260.640 ngƣời (1,5%) và dân tộc Mông: 1.068.189
ngƣời (1,2%). Còn lại là các dân tộc dƣới 1 triệu ngƣời. Trong đó có nhiều
dân tộc chỉ vài trăm ngƣời nhƣ: Si La 709, Pu Péo 687, Rơ Măm 436, Brâu
397, Ơ Đu 376 ngƣời.
Trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa các dân tộc ở nƣớc ta không
đồng đều nhau. Có dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao về kinh tế- xã hội
nhƣng cũng có một số dân tộc còn ở trình độ phát triển rất thấp, cuộc sống
còn rất nhiều khó khăn. Sự phát triển kinh tế- xã hội không đều giữa các dân
tộc hiện nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cƣ trú của nhiều DTTS. Đời sống kinh tế của
nhiều dân tộc còn chịu ảnh hƣởng của phƣơng thức sản xuất truyền thống,
mang nặng tính tự cung, tự cấp, kinh tế hàng hóa chƣa phát triển hoặc phát
triển chậm. Về văn hóa xã hội, có những dân tộc mới bƣớc vào thời kỳ phân
hóa giai cấp đã và đang tồn tại nhiều phong tục tập quán lạc hậu, trình độ dân
trí thấp. Cuộc sống sinh hoạt cả về vật chất và tinh thần của đại đa số đồng
bào DTTS hiện nay còn rất khó khăn, tỷ lệ mù chữ cao, nhận thức, giác ngộ
chính trị của một bộ phận quần chúng còn đơn giản, ý thức về quốc gia dân
tộc không rõ ràng,.. Đáng chú ý, sự chênh lệch về nhiều mặt của các dân tộc
còn lớn, nhất là giữa DTTS với dân tộc đa số và giữa các dân tộc sống ở vùng
cao, vùng sâu và các dân tộc sống ở vùng thấp. Đây là yếu tố đã và đang ảnh
hƣởng xấu đến quan hệ dân tộc, làm nảy sinh những tƣ tƣởng, tâm lý tiêu cực
ở một bộ phận đồng bào các DTTS.
- Nhiều DTTS có tín ngưỡng, tôn giáo đan xen, đa dạng.
42. 36
Vấn đề tín ngƣỡng, tôn giáo của các DTTS ở nƣớc ta khá phức tạp.
Nhiều DTTS có tín ngƣỡng, tôn giáo đan xen, đa dạng. Đến nay đa số đồng
bào DTTS vẫn theo tín ngƣỡng truyền thống, thờ cúng tổ tiên, thờ đa thần,
các hình thái tôn giáo sơ khai. Đồng thời, có dân tộc tôn giáo độc thần đã xâm
nhập vào từ lâu, vấn đề tôn giáo hòa quyện với vấn đề dân tộc. Ngƣời Khmer
Nam Bộ theo phật giáo tiểu thừa, chùa là nơi linh thiêng, đồng thời cũng là
nơi học tập, sinh hoạt văn hóa cộng đồng rất quan trọng của họ. Ngƣời Chăm
theo Hồi giáo và Bàlamôn giáo. Cùng với quá trình xâm lƣợc, thống trị nƣớc
ta của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đạo Thiên chúa giáo
và Tin lành đã từng bƣớc xâm nhập, phát triển ở nhiều vùng DTTS.
- Một bộ phận đồng bào các DTTS ở Việt Nam có quan hệ đồng tộc,
thân tộc, quan hệ về mặt tôn giáo ở ngoài biên giới quốc gia.
Từ nguồn gốc xa xƣa của một số DTTS cũng nhƣ những biến động về
dân cƣ- dân tộc trong lịch sử mà một bộ phận đồng bào DTTS trong nƣớc đã
và đang có mối quan hệ đồng tộc, thân tộc, quan hệ về mặt tôn giáo khá rộng
và mật thiết với bên ngoài. Ngƣời Thái ở Việt Nam có quan hệ gắn bó với
cộng đồng ngữ hệ Thái trong khu vực Đông Nam Á, với số lƣợng khoảng 80-
100 triệu ngƣời. Ngƣời Mông ở nƣớc ta có quan hệ đồng tộc, dòng họ với
ngƣời Mông ở nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ: Lào, Trung Quốc, cộng đồng
ngƣời Mông ở Mỹ, Autralia, Pháp; ngƣời Khmer có quan hệ đồng tộc, thân
tộc và tôn giáo với ngƣời Khmer ở Campuchia, thƣờng xuyên qua lại 2 bên
biên giới để thăm thân, làm ăn, buôn bán, hoạt động tín ngƣỡng tôn giáo. Một
bộ phận đồng bào DTTS ở Tây Nguyên có quan hệ đồng tộc, thân nhân với số
ngƣời Thƣợng và FULRO lƣu vong ở Mỹ...
Mối quan hệ đồng tộc, thân tộc, quan hệ về mặt tôn giáo với bên ngoài
của các DTTS ở Việt Nam vừa có tác dụng tích cực, tăng cƣờng sự hiểu biết,
giao lƣu, học hỏi giữa các tộc ngƣời ở nƣớc ta và ở các quốc gia láng giềng
43. 37
cũng nhƣ trên thế giới. Ngƣợc lại, những tác động xấu của diễn biến vấn đề
dân tộc, vấn đề tôn giáo, của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, ly khai, của
tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc từ bên ngoài cũng nhanh chóng ảnh hƣởng
đến vấn đề dân tộc, đến quan hệ dân tộc ở trong nƣớc. Các thế lực thù địch
luôn chú ý khai thác, lợi dụng vấn đề này nhằm kích động xu hƣớng liên kết
dân tộc ngoài biên giới quốc gia, kích động ly khai dân tộc, móc nối, gây cơ
sở, tạo dựng lực lƣợng phản động ngƣời DTTS chống Việt Nam và các nƣớc
trong khu vực. Thực tế cho thấy các thế lực thù địch đã lợi dụng các chƣơng
trình nghiên cứu, hội thảo quốc tế về dân tộc học, ngôn ngữ học để tuyên
truyền, kích động, móc nối, câu kết giữa bên trong và bên ngoài, thành lập các
tổ chức, lực lƣợng mang chiêu bài dân tộc chống Việt Nam lƣu vong, lập các
căn cứ đứng chân ở nƣớc láng giềng và trong khu vực, tác động lôi kéo ngƣời
DTTS ở nƣớc ta trốn sang bên kia biên giới...
- Đồng bào các DTTS có ý thức tộc người sâu sắc, luôn chịu sự chi
phối của những người có uy tín, ảnh hưởng trong dân tộc.
Nhìn chung đồng bào các DTTS nƣớc ta có ý thức tộc ngƣời sâu sắc,
thấy rõ vị trí, đặc trƣng của dân tộc mình và mối quan hệ chung với các tộc
ngƣời khác ở cả trong và ngoài biên giới quốc gia. Từ đó đã tăng cƣờng tình
cố kết, hòa hợp dân tộc, cũng nhƣ tinh thần yêu nƣớc, lòng tự hào của cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, mặt trái của ý thức tộc ngƣời cũng đƣợc bộc lộ khá rõ nét.
Một bộ phận đồng bào DTTS còn chịu ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng dân tộc hẹp
hòi, chỉ biết về quyền và lợi ích dân tộc mình mà không tính đến lợi ích chung
của đất nƣớc, thƣờng cố chấp, bài ngoại (chủ yếu là “ bài Kinh”),... Một bộ
phận khác có tâm lý mặc cảm về nguồn gốc lịch sử, về trình độ phát triển và
vị trí tộc ngƣời, cho rằng dân tộc mình luôn bị chèn ép, coi thƣờng, bị phân
biệt đối xử hoặc tâm lý tự trị, kỳ thị dân tộc, dễ tin, dễ ngờ. Những tƣ tƣởng,
44. 38
tâm lý tiêu cực đó rất dễ dẫn đến cực đoan dân tộc, ảnh hƣởng đến truyền
thống đoàn kết, hạn chế sự giao lƣu học hỏi về kinh tế, văn hóa xã hội, sự
tƣơng trợ giúp đỡ nhau giữa các dân tộc để cùng phát triển.
Một đặc tính tâm lý nổi bật của đồng bào DTTS ở nƣớc ta là luôn tôn
sùng, tin nghe theo những ngƣời đứng đầu, thủ lĩnh dân tộc nhƣ già làng,
trƣởng bản, thầy mo, thầy cúng... (ngƣời có uy tín trong DTTS). Đây là lớp
ngƣời nổi trội trong cơ cấu xã hội ở vùng dân tộc. Họ có uy tín, ảnh hƣởng
với những ngƣời đồng tộc, đƣợc đồng bào dân tộc mến phục, tin nghe theo,
họ có khả năng tác động, chi phối đến cộng đồng, thƣờng đƣợc coi là ngƣời
“đại diện” cho tộc ngƣời trong mối quan hệ với bên ngoài.
- Mỗi DTTS ở Việt Nam có sắc thái văn hóa riêng, góp phần làm nên
sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, các dân tộc cùng chung
sức xây dựng nên một nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đó là nền văn hóa
thống nhất, mang dấu ấn của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Nền
văn hóa thống nhất ấy không loại trừ, lấn át sắc thái văn hóa của từng dân tộc.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, mỗi dân tộc dù dân số ít đến đâu, dù trình độ
phát triển kinh tế- xã hội có thấp đến mấy cũng đều có những sắc thái văn hoá
độc đáo riêng của mình, không thể trộn lẫn với các dân tộc khác.
Trong điều kiện các DTTS ở Việt Nam sống phân tán và xen kẽ nhƣng
vẫn giữ đƣợc sắc thái văn hoá độc đáo của mình, chứng tỏ các dân tộc ở Việt
Nam rất tôn trọng sắc thái văn hoá của từng dân tộc. Đây là một yếu tố có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng để các DTTS vẫn giữ đƣợc mình, không bị đồng
hóa với các dân tộc khác. Mặt khác, sự tôn trọng, bảo vệ sắc thái văn hoá của
các dân tộc đã làm cho các dân tộc ở Việt Nam luôn đoàn kết trong một quốc
gia dân tộc thống nhất. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc điểm của nền văn
hóa cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.