SlideShare a Scribd company logo
1 of 138
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LỪ VĂN TUYÊN
QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI- 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lừ Văn Tuyên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KINH TẾ,
VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ HIẾN PHÁP ............................................ 6
1.1. Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ................................... 6
1.1.1. Quan niệm về quyền con người ........................................................... 6
1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người................................... 12
1.2. Hiến pháp và quyền con người ....................................................... 22
1.2.1. Khái niệm về Hiến pháp..................................................................... 22
1.2.2. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người ............................. 24
Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUYỀN KINH TẾ , VĂN
HÓA, XÃ HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM ........ 29
2.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp trước
Hiến pháp 2013................................................................................. 29
2.1.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1946....................... 29
2.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1959....................... 32
2.1.3. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1980....................... 35
2.1.4. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1992....................... 38
2.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013 ................. 45
2.2.1. Quyền kinh tế ..................................................................................... 46
2.2.2. Quyền văn hóa.................................................................................... 48
2.2.3. Quyền xã hội ...................................................................................... 50
2.2.4. Một số nhận xét về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến
pháp 2013 ........................................................................................... 51
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN
HÓA, XÃ HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013 .................................. 66
3.1. So sánh các quy định về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
trong Hiến pháp 2013 với các bản Hiến pháp trước và quy
định của Luật nhân quyền quốc tế ................................................. 66
3.1.1. Quyền kinh tế ..................................................................................... 66
3.1.2. Quyền văn hóa.................................................................................... 71
3.1.3. Quyền xã hội ...................................................................................... 75
3.2. Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong
Hiến pháp 2013................................................................................. 79
3.2.1. Về bảo hiểm xã hội............................................................................. 82
3.2.2. Bảo đảm an sinh xã hội với một số nhóm yếu thế trong xã hội......... 86
KẾT LUẬN.................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 110
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt Tên/ cụm từ đầy đủ
CEDAW Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đỗi xử với
phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of
Discrimination against Women)
CRC Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights of the
Child, CRC)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights)
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
(International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour
Organization)
UDHR Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights)
UPR Cơ chế đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review)
WHO Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người là một phạm trù đa diện, kết tinh những giá trị cao
đẹp trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc. Đây không chỉ là “ngôn ngữ
chung” mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” và “phương diện
chung” của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của
mọi con người, mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các quyền con
người đều được ghi nhận trong Hiến pháp ở những mức độ khác nhau. Như
vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò là
công cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền
con người ở các quốc gia.
Ở nước ta, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc
bầu cử Quốc hội để thông qua Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do, dân chủ
của nhân dân. Người chi rõ: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến
pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có
Hiến pháp dân chủ” [5]. Như vậy trong tư tưởng của Người, quyền con người
luôn gắn liền với Hiến pháp, Hiến pháp chính là công cụ để đảm bảo quyền
con người. Vì vậy, không chỉ trong việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp
1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta mà các bản Hiến pháp sau này đều
có những quy định về các quyền con người.
Cho đến nay Việt Nam đã có năm bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, và hiện nay là Hiến
pháp 2013. Mặc dù ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả năm
2
bản Hiến pháp trên đều đã có quy định về quyền con người, đặc biệt là
những quy định về nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với các
tiêu chuẩn quốc tế.
Hiến pháp năm 1992 được đánh giá là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi
mới, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, phản ánh bản chất nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng đã
ghi nhận các quyền con người, quyền công dân cơ bản trong đó có các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội. Góp phần quan trọng thể chế hóa đường lối của Đảng.
Tuy nhiên, sau 20 năm thi hành, Hiến pháp năm 1992 đã bộc lộ một số điểm hạn
chế không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc
hội khóa XIII đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 06/2011/QH13 ngày 06 tháng
8 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy
ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI diễn
ra vào tháng 5/2012 đã nêu định hướng sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong đó
chỉ rõ cần tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan
điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013. Hiến
pháp mới được ban hành có một điểm nhân dân cả nước rất đồng tình ủng hộ
và coi đây là một điểm sáng. Đó là hiến chương về quyền con người.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài “Quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội qua các bản Hiến pháp Việt Nam” sẽ góp phần làm sâu sắc hơn cơ sở lý
luận và thực tiễn quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến
pháp, qua đó góp phần hiểu sâu hơn về việc hiến định và sự phát triển của
nhóm quyền quan trọng này ở Việt Nam.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con người là một phạm trù đa diện, đòi hỏi cách tiếp cận và
nghiên cứu đa ngành, liên ngành, song tiếp cận và nghiên cứu luật học là một
hướng chính. Các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người ở Việt
Nam những năm gần đây đang phát triển mạnh mẽ. Hiện đã có một số công
trình nghiên cứu về quyền con người nói chung như: Quyền con người, quyền
công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu
thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Chu Hồng Thanh, Quyền con
người và luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, 1997;
Tường Duy Kiên, Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội
Việt Nam, Hà Nội, 2004; Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con
người, NXB Khoa học xã hội, 2006…
Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là một trong hai nhóm quyền cơ bản được
ghi nhận và bảo đảm trong luật pháp quốc tế và pháp luật của quốc gia. Các
quyền này được ghi nhận ngay trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm
1948, sau đó được cụ thể hóa tại một trong hai Công ước cơ bản nhất về nhân
quyền là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966.
Việt Nam cũng đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa từ rất sớm (năm 1982). Mặc dù vậy, do một số lý do khách quan
và chủ quan, việc nghiên cứu về quyền con người nói chung, về các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn hạn
chế, dẫn đến việc hiểu biết chưa đầy đủ hoặc sai lệch về nhóm quyền này.
Đối với việc nghiên cứu các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con
người, hiện chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu như: Trần Thị Hòe,
Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện
nay, 2002; Nguyễn Duy Sơn, Quyền phát triển của con người Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Trung tâm
4
Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005; Tường
Duy Kiên, Trần Thị Hòe, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, 2007; Trần Thị
Hòe, Vũ Công Giao, Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực
tiễn ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công
dân, Khoa luật –ĐHQG Hà Nội, 2011…
Tuy nhiên, các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu góc độ nhất định về các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và nhóm quyền này trong pháp luật
nói riêng, chưa có đề tài nào đi sâu phân tích và so sánh nội dung các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp trên thế giới và các bản Hiến pháp
của Việt Nam. Luận văn này sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích so sánh các quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
trong các bản Hiến pháp của Việt Nam.
- Đánh giá sự phát triển của các quyền hiến định về kinh tế, văn hóa, xã
hội ở Việt Nam với Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích quy định về quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội trong các Hiến pháp Việt Nam và trong Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 của Liên hiệp quốc.
4. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, các quan điểm, đường
lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng pháp luật và nhân quyền.
5
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn này
bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
5. Những nét mới của luận văn
Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp với quyền con người, đặc
biệt là các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đánh giá vai trò của Hiến pháp
trong việc bảo vệ các quyền con người.
Luận văn cũng nêu và phân tích hệ thống các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội của con người được các Hiến pháp Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Trên
cơ sở đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, luận văn nêu
ra những đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa ở Việt Nam.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu là một bản luận văn từ 80-150 trang.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp và là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học, đặc biệt là chuyên ngành pháp
luật về quyền con người và chuyên ngành luật Hiến pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung đề tài được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và
Hiến pháp
Chương 2: Sự phát triển của các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua
các bản Hiến pháp Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong
Hiến pháp 2013.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA,
XÃ HỘI VÀ HIẾN PHÁP
1.1. Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
1.1.1. Quan niệm về quyền con người
1.1.1.1. Nguồn gốc về quyền con người
Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lõi của khái
niệm quyền con người. Nó coi cá nhân con người là trọng tâm của sự quan
tâm. Nó dựa trên một hệ thống toàn cầu giá trị phổ biến nhằm hướng đến
những giá trị cao quý của cuộc sống và tạo ra một khuân khổ để xây dựng hệ
thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Ý
tưởng về nhân phẩm con người đã có từ thời xa xưa đã được hình thành từ rất
sớm trong lịch sử nhân loại, dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các
nền văn hóa và tôn giáo.
Trong thời kỳ cổ đại, các nhà chính trị, tư tưởng, tôn giáo đã có những
tư tưởng, giáo luật thể hiện sự tôn trọng phẩm giá con người, bảo vệ con
người, đặc biệt là những nhóm yếu thế (phụ nữ, trẻ em, người già, người
khuyết tật….) đề cao sự bình đẳng… Đây có thể coi là những tư tưởng đầu
tiên của nhân loại có tính hệ thống và nội dung rõ ràng về quyền con người.
Quyền con người gắn liền với lịch sử loài người. Đó là những sản phẩm
của điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội nhất định và chịu sự chi phối của các cơ
sở kinh tế - xã hội đó. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tư tưởng,
quan niệm về quyền con người còn phụ thuộc một phần quan trọng vào sự
phát triển của tư duy về xã hội nói chung, đặc biệt là tư duy triết học, chính
trị, của mỗi thời đại nói riêng
Nhìn lại lịch sử, các quốc gia trên thế giới cũng đã hình thành và ban
hành pháp luật làm phương tiện cai trị, các văn bản pháp luật từ thời cổ đại
7
thông qua các quy định một phần thể hiện các giá trị quan trọng về lịch sử,
văn hóa, pháp lý nhưng một phần cũng phản ánh nhận thức quan niệm về
công bằng, giá trị của nhân phẩm, và quyền lợi ích chính đáng của con người
Có thể kể đến như Luật Hammurabi, Luật Manu, Luật Kautilya, Luật
Asoka…Ví dụ trong Luật Hammurabi là văn bản luật cổ nhất của nhân loại
còn được bảo tồn tốt. Bộ luật này được ban hành vào khoảng thập niên 1760
TCN, Bộ luật thể hiện tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện
hữu hiệu để bảo đảm các quyền con người, vì vậy mà vua xứ Babylon là
Hammurabi (1810- 1750 TCN) đã nói rằng mục đích của việc ban hành đạo luật
cổ nối tiếng này là để: “…ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu” [30]. Bộ
luật quy định nhiều hình phạt đối với những tội vi phạm tự do ngôn luận, vu
khống người vô tội, hay những hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Đặc biệt tư
tưởng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật còn được thể hiện rất rõ nét
sức mạnh của hình phạt, khi được thực thi một cách công bằng tương ứng với
mức độ phạm tội và bất chấp kẻ bị chừng phạt là con vua hoặc kẻ thù, là bảo
vệ xã hội này và xã hội sau.
Trong những giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao pháp luật với việc bảo
đảm quyền con người cũng được sự phát triển bởi nhiều nhà tư tưởng nối
tiếng của nhân loại, và được minh chứng bằng sự ra đời của ngày càng nhiều
các văn bản pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về các quyền tự do của
con người, quyền con người thực sự trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu
và dần được thể chế hóa toàn diện, có tính hệ thống vào pháp luật và đời sống
chính trị quốc tế, từ Đại hiến chương Magna Carta (the Magna Carta, 1251),
Bộ luật về các quyền (the Bill of rights, 1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về
các quyền của con người và của công dân (the Declaration of the Rights of
Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (the
Declaration Independence, 1766) và Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights,
8
1789/1791) của nước Mỹ cho đến Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con
người do Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu thế kỷ
XX đến nay. Tất cả đã cho thấy pháp luật đã có một vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm quyền con người.
Có hai trường phái trái ngược nhau về nguồn gốc của nhân quyền mà
đôi khi chi phối khá mạnh mẽ quan điểm và cách thức thực hiện quyền con
người của các quốc gia. Trường phái thứ nhất - những người theo thuyết về
quyền tự nhiên (natural rights) - cho rằng nhân quyền là những gì bẩm sinh,
vốn có mà mọi cá nhân từ khi sinh ra đều đã được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ
là con người. Do đó, các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục,
tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng
lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Xuất phát từ thuyết pháp quyền tự
nhiên, không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tùy
tiện tước bỏ các quyền con người. Ngược lại, trường phái thứ hai - những
người theo thuyết về quyền pháp lý (legal rights) - cho rằng, quyền con người
không phải là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nó chỉ nảy sinh
khi các nhà nước quy định trong pháp luật. Xuất phát từ thuyết này, phạm vi,
giới hạn của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị
và bị chi phối bởi các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa...
của các xã hội.
Thực tế cho thấy, quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ
thuyết nào kể trên đều không phù hợp, bởi lẽ nếu không được thể chế hóa vào
pháp luật thì các quyền tự nhiên của con người không thể được thực hiện;
song nếu cực đoan hóa vai trò của nhà nước, của pháp luật sẽ dẫn đến tùy
tiện, lạm dụng, vi phạm các quyền tự nhiên của con người.
Kể từ khi Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận quyền con người vào
9
năm 1948, với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, và
nhiều văn kiện chính trị, pháp lý quốc gia về nhân quyền đều thừa nhận nguồn
gốc tự nhiên song cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước và pháp luật trong việc
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, từ đó quyền con người đã phát triển như một
khuân khổ đạo đức, chính trị, pháp lý và như một định hướng nhằm phát triển
thế giới tự do khỏi sự sợ hãi và tự do làm điều mong muốn.Trong lời nói đầu
của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 đã nhấn mạnh: “Việc
thuần nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của
mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa
bình trên thế giới” [9]. Như vậy trong lời nói đầu của Tuyên ngôn, quyền con
người được hiểu là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tách rời, không thể
chuyển nhượng được của cá nhân. Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về
quyền con người mà nói về nội hàm đưa ra các quyền chính trên cơ sở sự đồng
thuận của đông đảo các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc.
1.1.1.2. Khái niệm quyền con người
Ngày nay, quyền con người được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu
như được ghi nhận trong tuyên bố của hội nghị thế giới Wien (Áo) về quyền
con người năm 1993 và các nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được thông qua
nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người (1948- 1998).
Tuy nhiên cho đến nay cách hiểu về quyền con người vẫn chưa có sự
thống nhất, Một mặt, đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
gốc, bản chất của quyền con người. Mặt khác, quyền con người được xem
dưới nhiều góc độ khác nhau như: triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật…
Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc
tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm tất cả các thuộc tính của
quyền con người.
10
Tùy vào tính chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà
quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở
cấp độ quốc tế, định nghĩa phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của văn phòng Cao
ủy Liên Hợp Quốc về quyền con người (OHCHR). Theo định nghĩa này:
Quyền con người (human rights) là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions)
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và
tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [39, tr.8].
Liên quan đến các khái niệm trên, cũng cần lưu ý, thuật ngữ human
rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần
Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán - Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân
quyền” chính là “quyền con người” [37], Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học,
đây là hai từ đồng nghĩa, và hoàn toàn có thể sử dụng trong nghiên cứu, và
hoạt động thực tiến về quyền con người
Một số tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, định nghĩa về quyền con người
cũng không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung quyền con người được hiểu
là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [14, tr.37].
Như vậy, trong hai định nghĩa trên thì quyền con người là những quyền
vốn có của con người, không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới tính, nguồn
gốc, hay quốc gia, dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân
phận nào khác. Mọi người được hưởng các quyền của mình một cách bình
đẳng không có sự phân biệt đối xử. Những quyền này có mối liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau và không thể tách rời.
1.1.1.3. Đặc tính của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các
11
tính chất cơ bản là: “tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không
thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau” [14, tr.41]
Các quyền con người đều không thể phân chia và có tính phụ thuộc lẫn
nhau thể hiện ở chỗ bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần,
nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền
sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các
quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Ví dụ, để đảm bảo các quyền bầu cử, ứng cứ (các quyền dân sự chính
trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền
có mức sống thích đáng…vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý
nghĩa với những người đói khổ bệnh tật hay mù chữ. Vì vậy mà các quyền
con người được đảm bảo theo quy định của pháp luật quốc gia, các điều ước,
cam kết, thỏa thuận hoặc tập quán quốc tế. Và luật quốc tế cũng đặt ra với các
quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, và thực hiện các quyền con người cốt
yếu để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Xét bản chất và từ lịch sử phát triển của quyền con người, có thể khẳng
định nhân quyền là sự kết tinh những giá trị nhân văn cao đẹp nhất trong nền
văn hóa của mọi dân tộc. Đó là sản phẩm chung của toàn nhân loại, không
phải là sáng kiến hay phát minh riêng của bất kỳ giai cấp, dân tộc, quốc gia
hay khu vực nào.
Từ những tư tưởng về quyền con người xuất hiê ̣n từ rất lâu trong lịch
sử nhân loại , thể hiện qua những bộ luật , thư tịch cổ của nhiều quốc gia và
trong các kinh điển của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới. Đến thời kỳ Phục
Hưng, những tư tưởng đó được kế thừa, phát triển thành các học thuyết về
quyền bởi một số nhà tư tưởng nổi tiếng ở châu Âu. Những học thuyết này tác
12
động đến sự ra đời của các văn kiện pháp lý nổi tiếng về nhân quyền, bao
gồm Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của nước Pháp (1789) và một loạt Hiến pháp ở châu Âu và Bắc
Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX , nhân quyền bắt đầu được đề cập trong một số điều
ước của Hội Chữ thập đỏ-Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế , Hô ̣i Quốc liên và Tổ
chứ c Lao động quốc tế , tuy nhiên, chỉ sau sự ra đời của Liên Hợp Quốc
(1945), vấn đề nhân quyền mới nổi lên thành một vấn đề chi phối một cách
ngày càng mạnh mẽ và toàn diện đời sống chính trị quốc tế. Một ngành luật
quốc tế mới – luật nhân quyền quốc tế đã ra đời từ sau 1945, do những nỗ lực
của Liên Hợp Quốc. Hiện nay, ngành luật này đã bao gồm hàng trăm văn
kiện, đề cập đến một phạm vi rộng lớn các quyền áp dụng chung cho mọi cá
nhân và các quyền đặc thù áp dụng riêng cho một số nhóm xã hội nhất định.
Ở thời điểm hiện tại, có thể khẳng định rằng, không một dân tộc, quốc gia nào
trên thế giới có thể đứng ngoài sự tác động của luật nhân quyền quốc tế.
Xem xét sự phát triển của vấn đề nhân quyền trong lịch sử nhân loại, năm
1977, Karel Vasak đưa ra ý tưởng về ba “thế hệquyền con người”(generations
of human rights) [14, tr.58], trong đó thế hê ̣thứ nhất(bắt đầu từ các thế kỷ XVII-
XVIII) thể hiện ở sự ghi nhận các quyền dân sự, chính trị; thế hệ thứ hai (bắt đầu
từ cuối thế kỷ XIX) đánh dấu bằng việc thừa nhận các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa; còn thế hê ̣thứ ba (bắt đầu từ giữa thế kỷ XX) với đặc trưng là mở rộng sự
ghi nhận các quyền tập thể, tiêu biểu như quyền tự quyết dân tô ̣ c, quyền phát
triển, quyền được sống trong hoà bình.
1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người
1.1.2.1. Khái quát chung về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
Như đã nêu ở phần trên, nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội là thế hệ
quyền thứ hai, hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng,
công bằng cho mọi công dân trong xã hội.
13
Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội có một vị trí rất quan trọng trong hệ
thống quyền con người. Do vậy trong quá trình nghiên cứu về quyền con
người, chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
như một bộ phận cơ bản, thiết yếu trong tổng thể quyền con người. Về lịch sử
pháp điển hóa quyền con người, các tiêu chuẩn quốc tế về quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội được coi là ra đời muộn hơn các quyền dân sự, chính trị. Tuy
nhiên, về lịch sử nhân loại nói chung, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được
quan tâm đề cập đồng thời thậm chí là sớm hơn các quyền dân sự chính trị.
Bởi điều đó thể hiện ở khát vọng giải phóng con người khỏi đói rét, dịch
bệnh…được phản ánh trong nhiều học thuyết, tôn giáo chủ yếu.
Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận trong trong pháp luật của
nhiều quốc gia thời kỳ Cổ - Trung đại thông qua những quy định về sự bảo vệ
nhà nước và cộng đồng đối với nhóm cư dân yếu thế trong xã hội.
Theo dòng chảy của lịch sử, chúng được đề xướng và vận động mạnh
mẽ từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu được quan tâm bởi một số Chính phủ kể từ
sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các quyền tiêu biểu thuộc nhóm quyền
này bao gồm: quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được
chăm sóc y tế, quyền có nhà ở…
Động lực chính thúc đẩy sự hình thành của nhóm quyền này được cho
là từ cuộc khủng hoảng của xã hội tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
dẫn tới tình cảnh khốn khổ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động. Trong bối cảnh đó, những người theo chủ nghĩa tự do mới đã đưa ra
ý tưởng cải tổ các xã hội tư sản nhằm giảm bớt những bất công xã hội và
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Do tác động của cuộc đấu tranh
này, một số nhà nước tư sản đã ban hành những chính sách về phúc lợi xã hội
để cải thiện đời sống của người dân. Một ví dụ điển hình trong số đó là chính
sách xã hội của thủ tướng Đức Bismarck. Trên cơ sở Tuyên ngôn Keider
14
(1881), nước Đức dưới sự lãnh đạo của Bismarck đã thiết lập một hệ thống
bảo trợ xã hội thống nhất trên toàn quốc mà trọng tâm là bảo hiểm xã hội. Từ
năm 1919, Hiến pháp của nước này đã quy định quyền được bảo hiểm xã hội
trong các trường hợp già yếu, bệnh tật…
Có hai sự kiện tác động hết sức quan trọng đến sự phát triển
của nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự kiện thứ nhất là sự ra
đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – nước
Nga Xô viết vào năm 1917. Ngay từ Hiến pháp 1918, Nước Nga Xô
viết đã ghi nhận các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản của con
người như quyền có việc làm, quyền học tập, quyền được chăm sóc
y tế… Các quyền này tiếp tục được khẳng định, mở rộng và bổ
sung, trở thành một trong những nội dung chính của các Hiến pháp
năm 1924, 1936, 1977 của Liên Xô (tương tự là trong Hiến pháp
của các nước xã hội chủ nghĩa). Sự kiện thứ hai là việc thành lập
hai tổ chức liên chính phủ quốc tế lớn là Hội Quốc liên và Tổ chức
Lao động quốc tế, hai tổ chức này, đặc biệt là Tổ chức Lao động
quốc tế đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các quyền về
lao động, việc làm của người lao động [14, tr.60].
Cùng với hệ thống quyền con người nói chung, các quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế kể từ sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, với việc Liên Hợp Quốc thông qua Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người năm 1948 và đặc biệt là Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Trong vấn đề này, sự đóng góp của
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa là hết sức to lớn. Chính do sự đấu tranh
kiên quyết và kiên trì của phe các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên
Xô trên diễn đàn Liên Hợp Quốc trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã buộc khối
các nước tư bản chủ nghĩa phải nhượng bộ, dẫn đến việc Đại hội đồng Liên
15
Hợp Quốc thông qua cả hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cùng vào năm 1966 – mà hiện đóng vai trò là
hai điều ước nền tảng của luật nhân quyền quốc tế.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản
trong luật nhân quyền quốc tế
Các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội tạo thành ba bộ phận có mối
liên kết với nhau trong mối quan hệ tổng thể của một nhóm quyền, đồng thời,
tất cả các bộ phận này lại có mối liên kết với một nhóm các quyền về dân sự
và chính trị.
Trên thực tế, hiện vẫn còn có những tranh luận xung quanh hệ thống
các quyền con người được gọi là các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, bởi lẽ
một số quyền con người (tùy theo bối cảnh và hoàn cảnh) có thể xếp vào
nhiều hơn một nhóm.
Xét ở góc độ pháp điển hóa, các quyền và tự do này đầu tiên được ghi
nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR),
sau đó, được tái khẳng định và cụ thể hóa trong nhiều văn kiện quốc tế khác
mà đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
(ICESCR) (được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1966).
Dựa trên cách tiếp cận liên kết mà theo đó các quyền kinh tế, văn hóa,
và xã hội được chia thành ba nhóm, cụ thể như sau:
- Nhóm quyền kinh tế (economic rights), bao gồm:
a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng
b) Quyền lao động
- Nhóm quyền xã hội (social rights), bao gồm:
c) Quyền được hưởng an sinh xã hội.
d) Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thấn.
- Nhóm quyền văn hóa (cultural rights), bao gồm:
16
e) Quyền giáo dục
f) Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành
tựu của khoa học.
Cũng cần lưu ý rằng, để phục vụ mục đích nghiên cứu và trong quá
trình áp dụng, một số quyền thuộc các nhóm ở trên đôi khi còn được chia tách
thành những quyền khác cụ thể hơn.
Dưới đây là khái quát nội dung cốt lõi của những quyền này.
a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng
Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng hàm nghĩa việc
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở và chăm sóc y tế, v.v…
cũng như được cải thiện không ngừng điều kiện sống. Trong đó quan trọng
nhất là quyền có đủ lương thực, thực phẩm và quyền có nhà ở thích đáng.
Quyền này được ghi nhận tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người, trong đó có nêu rằng:
Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích
đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình,
về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội
cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất
nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện
sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối
phó của họ [32, Điều 25]
Ngoài ra quyền này còn được ghi nhận tại Điều 11 ICESCR, Điều 27,
Công ước quyền trẻ em và một số văn kiện khác. Quyền này cũng đồng thời
được ghi nhận trong một số văn kiện nhân quyền khu vực (ví dụ, Khoản 1
Điều 12 Nghị định thư bổ sung Công ước của Châu Mỹ về quyền con người
trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa).
Uỷ ban giám sát ICESCR đã giải thích nội hàm của quyền có mức sống
17
thích đáng trong các Bình luận chung số 4 (năm 1991), số 7 (năm 1997), số
12 (năm 1999), số 14 (năm 2000) và số 15 (năm 2002).
b) Quyền lao động, việc làm
Quyền về lao động, việc làm là một nội dung quan trọng trong hệ thống
các quyền kinh tế, xã hội cơ bản của con người. Quyền này bao gồm các khía
cạnh như quyền có việc làm, tự do lựa chọn nghề nghiệp, được trả lương công
bằng, xứng đáng, được bảo đảm các điều kiện lao động an toàn, tôn trọng
nhân phẩm… Trước khi được ghi nhận trong các Điều 6 , 7, 8 của Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR), quyền này được đề
cập trong nhiều công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế. Một số khía cạnh
của quyền này, cụ thể như vấn đề cấm lao động cưỡng bức, còn được đề cập
trong các điều ước quốc tế khác về quyền con người của Liên Hợp Quốc như
Công ước về cưỡng bức lao động năm 1930; Công ước về trả công bình đẳng
giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị như nhau năm
1957; Công ước vê chính sách việc làm năm 1964; Công ước về quyền dân sự
chính trị năm 1966;
c) Quyền được hưởng an sinh xã hội
Nội dung cơ bản của quyền được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã
hội bao gồm các khía cạnh: chăm sóc sức khỏe và trợ cấp cho người lao động
và gia đình khi gặp khó khăn; trợ cấp tàn tật và bảo đảm phúc lợi cho người
lao động khi cao tuổi, nghỉ hưu, bệnh tật hoặc bị tai nạn khi làm việc. Đối
tượng được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội là tất cả mọi người,
trong đó đặc biệt chú trọng đến những người cao tuổi, bệnh tật, thất nghiệp,
những người góa bụa và trẻ mồ côi.
Quyền được hưởng an sinh xã hội được quy định trong UDHR đã nêu
rằng: “… mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội…” [32, Điều
22]; Điều 9 ICESCR có nêu một cách ngắn gọn rằng, “các quốc gia thành
18
viên Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã
hội, kể cả bảo hiểm xã hội” [19, Điều 9]; Điều 26, Công ước về quyền trẻ
em; Điều 11, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
và nhiều điều ước quốc tế khác.
d) Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thần
Sức khỏe được hiểu bao gồm cả về thể chất và tinh thần ở mức độ cao
nhất có thể được. Trên thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe
của con người, ví dụ như đói nghèo, dịch bệnh, môi trường sống, dịch vụ y tế,
vệ sinh cá nhân… Do đó, trách nhiệm bảo đảm quyền về sức khỏe không chỉ
thuộc về nhà nước mà còn về các cá nhân
Với ý nghĩa như vậy, trong những năm gần đây, quyền được bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Ngày 11
tháng 5 năm 2000, Uỷ ban Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã
thông qua khuyến nghị chung về vấn đề này. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 49 của
Uỷ ban nhân quyền Liên Hợp Quốc ngày 22 tháng 4 năm 2002 cũng đã thông
qua Nghị quyết về nhiệm vụ của Báo cáo viên đặc biệt về quyền được những
tiêu chuẩn cao nhất cho sức khỏe, thể chất và tinh thần của tất cả mọi người.
Thực tế, quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe mang ý
nghĩa là một quyền cơ bản của con người lần đầu tiên được đề cập trong văn
kiện thành lập của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sau đó được pháp điển hóa
trong UDHR, theo đó “mọi người có quyền được hưởng một mức sống thích
đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình về các khía
cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết… Các bà mẹ và
trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” [32, Điều 25]
Quy định của Điều 25 UDHR sau đó được cụ thể hóa trong các Điều
7,11,12 ICESCR; Điều 10,12,14 CEDAW, Điều 24 CRC, Điều 5 Công ước
quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Tuyên bố
19
Viên và Chương trình hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con
người lần thứ hai năm 1993. Ngoài ra, quyền về sức khỏe còn được ghi nhận
trong một số văn kiện khi vực về quyền con người, chẳng hạn như Hiến
chương xã hội châu Âu năm 1961 sửa đổi (Điều 11), Hiến chương châu Phi
về quyền con người và các quyền của các dân tộc năm 1981 (Điều 16), Nghị
định thư bổ sung Công ước Châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
năm 1988 (Điều 10)…
e) Quyền được giáo dục
Quyền này đầu tiên được đề cập trong Điều 26 UDHR, trong đó nêu rõ:
Mọi người đều có quyền được học tập, Giáo dục phải miễn
phí, ít nhất là ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu
học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính
phổ thông và giao dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc
công bằng cho bất cứ ai có khả năng. Mục tiêu của giáo dục, trong
đó nêu rõ: Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về
nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản
của con người. Giáo dục cũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết,
lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm
chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩy mạnh các hoạt
động của Liên Hợp Quốc về duy trì hòa bình. Theo Khoản 3 Điều
này, cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho
con cái họ [32, Điều 26].
Điều 26 UDHR được cụ thể hóa trong các Điều 13 và 14 ICESCR.
Điều 13 ICESCR đề cập đến quyền được giáo dục nói chung, theo đó, các
quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được học tập.
Các quốc gia nhất trí rằng giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ
nhân cách và ý thức về nhân phẩm nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền
20
và tự do cơ bản của con người. Các quốc gia cũng nhất trí rằng giáo dục cần
giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết,
khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc
tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động duy trì
hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Liên quan đến Điều 13 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa đã giải thích một cách khá toàn diện và chi tiết về quyền này trong Bình
luận chung số 13 (năm 1999). Theo văn kiện này, mọi hình thức giáo dục, cho
dù là công lập hay tư thục, chính quy hay không chính quy, đều phải hướng
tới những mục tiêu được xác định trong Điều 13 (Khoản 1) ICESCR. Mặc dù
mức độ và cách thức thực hiện quyền này phụ thuộc vào điều kiện hiện tại
của mỗi quốc gia thành viên, song mỗi quốc gia cần bảo đảm giáo dục dưới
mọi hình thức và ở tất cả các cấp.
Điều 14 cụ thể hóa vấn đề quyền phổ cập giáo dục tiểu học, theo đó,
mỗi quốc gia thành viên. Công ước mà lúc trở thành thành viên chưa thể bảo
đảm thực hiện được việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong phạm vi
lãnh thổ nước mình hoặc các cùng lãnh thổ khác thuộc quyền tài phán của
nước mình, cam kết, trong vòng hai năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch
hành động chi tiết, nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc giáo dục tiểu học
phổ cập và miễn phí cho mọi người trong một khoảng thời gian hợp lý đã
được ấn định trong kế hoạch đó.
Liên quan đến Điều 14 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa đã giải thích thêm trong Bình luận chung số 11 (năm 1999). Theo Uỷ ban,
yêu cầu bắt buộc nêu trong nội dung của quyền này hàm ý không một bậc phụ
huynh, người giám hộ pháp lý hoặc quốc gia nào có thể chối bỏ trách nhiệm
đảm bảo cho trẻ em có thể tiếp cận giáo dục ở bậc cơ sở. Yêu cầu miễn phí
hàm ý giáo dục cơ sở phải luôn rộng mở cho mọi trẻ em và không được yêu
21
cầu trẻ em hay các bậc phụ huynh, người giám hộ pháp lý phải đóng bất kỳ
một khoản học phí nào. Việc quy định một số khoản phí gián tiếp (ví dụ như
thu lệ phí xây dựng mà được ngụy trang dưới hình thức tình nguyện đóng
góp, hoặc quy định mua và mặc đồng phục có giá cao của nhà trường….) là vi
phạm yêu cầu này.
f) Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành
tựu của khoa học
Quyền này đầu tiên được đề cập trong Điều 27 UDHR. Theo Điều này:
Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của
cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ
khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa
học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và
tinh thần phát sinh từ bất kỳ sang tạo khoa học, văn học hay nghệ
thuật nào mà người đó là tác giả [32, Điều 27]
Điều 15 ICESCR cụ thể hóa nội dung Điều 27 UDHR, theo đó, các
quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người đều có quyền:
a) Được tham gia vào đời sống văn hóa; b) Được hưởng các
lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó; c) Được bảo
hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo
khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình [19, Điều 15].
Theo khoản 3, Điều 15 của Công ước, các thành viên Công ước cam
kết tôn trọng quyền tụ do không thể thiếu được đối với nghiên cứu khoa học
và các hoạt động sáng tạo. Các khoản 2 và 4 Điều 15 nêu rõ, để thực hiện đầy
đủ quyền này các quốc gia thành viên Công ước phải thực thi nhiều biện
pháp, trong đó có các biện pháp cần thiết để bảo tồn, phát triển, phổ biến khoa
học và văn hóa, bảo đảm quyền tham gia hoạt động văn hóa.
Theo Uỷ ban về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa của Liên Hợp
22
Quốc, các quốc gia thành viên cần phải cung cấp thông tin về việc tạo lập quỹ
cho việc thúc đẩy, phát triển văn hóa và tham gia rộng rãi vào đời sống văn
hóa, nhà bảo tàng, thư viện, rạp chiếu phim, các hình thức biểu diễn nghệ
thuật truyền thống…
Liên quan đến Điều 15 ICESCR, Uỷ ban quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
chưa có Bình luận chung nào đề cập Điều này. Bởi vậy, nhận thức về nội
dung của quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các
thành tựu của khoa học hiện vẫn giới hạn ở các quy định trong các Điều 15
ICESCR và Điều 27 UDHR.
Liên quan chặt chẽ đến quyền văn hóa và hưởng thụ các kết quả của
các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong đó
Thứ nhất, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do cá nhân, tìm
kiếm và nhận thông tin về phát triển khoa học vào đời sống và áp dụng như là
kết quả của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thứ hai, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền của cá nhân được
hưởng thụ các phúc lợi từ tiến bộ khoa học đó. Điều 15, khoản 4 Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng quy định trách nhiệm của
nhà nước khuyến khích, phát triển các mối quan hệ và hợp tác quốc tế trong
các lĩnh vực khoa học, văn hóa…
1.2. Hiến pháp và quyền con người
1.2.1. Khái niệm về Hiến pháp
Có nhiều quan điểm và định nghĩa về Hiến pháp. Theo từ điển luật
Black’s Law Dictionnary, Hiến pháp là “luật tổ chức cơ bản của một quốc
gia hay một nhà nước thiết lập các thể chế và bộ máy của chính quyền, xác
định phạm vi quyền lực của chính quyền, vào bảo đảm các quyền và tự do
của công dân” [38].
Như vậy, hiểu một cách khái quát, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của
23
một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, Hiến pháp là đạo luật có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không
được trái với Hiến pháp. Vị trí tối cao của Hiến pháp là do nó phản ánh sâu
sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông
qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu ý dân). Điều này
khác với các đạo luật bình thường chỉ do quốc hội (nghị viện) gồm những
người đại diện do dân bầu và ủy quyền xây dựng.
Một trong những chức năng cơ bản của Hiến pháp là bảo vệ các quyền
con người, quyền công dân. Thông qua Hiến pháp, người dân xác định những
quyền gì của mình mà nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cùng
những cách thức để bảo đảm thực hiện, cùng với những cách thức để bảo đảm
thực thi những quyền đó.
Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, Hiến pháp là bức
tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm phạm
quyền con người, quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu đầu tiên mà
người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi phạm. Hiệu lực bảo
vệ quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp còn được phát huy qua
việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền, cụ thể như thông qua hệ
thống tòa án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra
Quốc hội (Ombudsman) hay Tòa án Hiến pháp…
Trong nhà nước quân chủ chuyên chế không tồn tại Hiến pháp bởi ở
nhà nước đó, quyền lực của nhà vua là tối thượng. Khổng Tử từng có một câu
nói nổi tiếng “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung” [47]. Ý nói vua bảo
thần phải chết, thần không chết thì đó là bất trung. Như vậy, ở đây con người
đã bị tước đi quyền tự nhiên vốn có và căn bản nhất đó là quyền được sống.
24
Vì vậy nhà nước dân chủ ra đời, trong đó mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư
tưởng, ý kiến và quan điểm về các vấn đề của đất nước và bản thân mình mà
không sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt, quyền lực nhà nước hoàn toàn thuộc về
nhân dân thì mới có Hiến pháp. Để thể hiện và bảo vệ chủ quyền của nhân
dân, thông thường Hiến pháp chỉ có thể được thông qua với sự chấp thuận của
nhân dân (qua trưng cầu ý dân). Thêm vào đó, Hiến pháp thường quy định các
nguyên tắc bầu cử (tự do phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín) như
là phương thức để nhân dân ủy quyền cho các thiết chế đại diện. Ngoài ra,
việc quy định các cơ chế, thiết chế giám sát, kiểm sát quyền lực (giữa các cơ
quan nhà nước và giữa nhân dân với nhà nước) trong Hiến pháp cũng là
những cách thức để bảo đảm quyền lực của nhân dân. Hiến pháp quy định rõ
những việc nhà nước được thực hiện, không được thực hiện và bắt buộc phải
thực hiện vì lợi ích của người dân. Tất cả những hành vi vi phạm Hiến pháp
phải được ngăn chặn và xét xử kịp thời. Như vậy, bản chất của Hiến pháp xét
đến cùng chính là nhằm bảo vệ quyền con người.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người
Hiến pháp và quyền con người có mối quan hệ gắn bó không thể tách
rời, thể hiện qua một số khía cạnh sau.
1.2.2.1. Quyền con người tạo động lực cho sự phát triển của Hiến pháp
Từ lịch sử phát triển của quyền con người, có thể thấy tư tưởng về
quyền con người gắn với những quyền tự nhiên vốn có của con người. Trong
Bộ luật Hammurabi (1810 – 1750 TCN); Hiến chương Magna Carta (1251)
và Bộ luật về các quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn độc lập (1776)
của Hoa Kỳ…Những văn kiện này đều ghi nhận các quyền con người một
cách trực tiếp, hoặc gián tiếp là các quyền tự nhiên
Ví dụ, theo Lời nói đầu của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ: “Mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền từ do và
25
mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Pháp khẳng định: “Người ta sinh ra đã tự do và bình đẳng về các
quyền…” [15, tr.119]. Như vậy, ở đây các quyền và tự do được coi là những
quyền tự nhiên, vốn có của con người, không phải là do nhà nước ban phát
cho mới có được.
Trong lịch sử pháp điển hóa quyền con người trong Hiến pháp của các
quốc gia trên thế giới, một cấu phần của Hiến pháp (Đại Hiến chương Magna
Carta, Bộ luật về các quyền của nước Anh), hoặc sự ra đời của Hiến pháp ở
nhiều quốc gia (Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền, dân
quyền của Pháp) đều phản ánh ảnh hưởng của lý thuyết quyền con người là
các quyền tự nhiên.
Như vậy, tư tưởng về quyền con người nói chung, các quyền tự nhiên
của con người nói riêng có mối liên hệ rõ ràng và trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển của Hiến pháp trên thế giới.
1.2.2.2. Quyền con người là những quy định không thể thiếu trong Hiến pháp
Mặc dù bản Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới (Hiến
pháp Hoa Kỳ 1787), không bao hàm các quy định về quyền con
người, nhưng trên thực tế, trước khi bản Hiến pháp này được thông
qua, các phe trong Hội nghị lập hiến lúc đó đã đạt được thỏa thuận
rằng ngay sau đó Quốc Hội Mỹ sẽ xem xét và thông qua các quy
định bổ sung về quyền con người. Kết quả là 10 điều đầu tiên bổ
sung Hiến pháp 1787 đã được thông qua, tất cả đều có nội dung về
quyền con người, gọi là Bộ luật về quyền của nước Mỹ
Ở châu Âu cùng thời kỳ đó, chỉ trong vòng 35 năm (từ năm 1795
đến 1830), hơn 70 bản Hiến pháp của các quốc gia trong chấu lục đã
được thông qua. Tất cả đều quy định các quyền con người như đã được
ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 của nước
Pháp và Bộ luật nhân quyền của nước Mỹ [13, tr.286].
26
Như vậy, quyền con người, quyền công dân trở thành một cấu thành
quan trọng, một nội dung cơ bản trong các bản Hiến pháp trên thế giới.
Một nhà nghiên cứu đã nhận định rằng: “Nếu không có chế định quyền con
người, quyền công dân, thì cũng không thể có bản thân Hiến pháp…” [11, tr.148]
Từ khi Luật nhân quyền quốc tế ra đời cùng với Liên Hợp Quốc thì thực
tế trong các bản Hiến pháp của các quốc gia đã ghi nhận và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, và đây là chế định không thể thiếu trong Hiến pháp.
1.2.2.3. Hiến pháp có vai trò bảo vệ quyền con người
Các quyền con người không phải là quà tặng của thượng đế, hay sự ban
phát của Nhà nước mà là kết quả lao động và đấu tranh của bản thân quần
chúng lao động. Do vậy, các quyền con người phải được ghi nhận, khẳng định
trong pháp luật, và phải được bắt đầu từ Hiến pháp, bởi ở mọi quốc gia trên
thế giới, Hiến pháp đều được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nền tảng để
xây dựng các đạo luật thông thường khác.
Khi Hiến pháp có những quy định về quyền con người, thì chính là điều
kiện để các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ, là điều kiện để cụ thể
hóa các chế đinh, quy phạm Hiến pháp về quyền con người
Hiện nay, hầu hết các quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế đã
được ghi nhận trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới, tuy với mức độ
khác nhau. Như vậy với hiệu lực tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò
là công cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền
con người ở các quốc gia.
Nếu như các quyền dân chủ, các quyền dân sự, chính trị luôn được đề
cập đầu tiên trong Hiến pháp các quốc gia ví dụ như quyền bầu cử, ứng cứ là
điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền làm chủ của người dân thì nhóm quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội cũng là nhóm quyền không thể thiếu trong Hiến pháp
và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau… vì nếu các quyền kinh tế, văn hóa, xã
27
hội có liên quan như quyền giáo dục, chăm sóc sức khỏe, y tế không được
đảm bảo thì các quyền ứng cử, bầu cử ít có ý nghĩa với những người mù chữ,
những người nghèo khổ, ngược lại việc bảo đảm các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội đều gắn liền với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết
quả của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành
mạnh và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội là yếu tố nền tảng
thúc đẩy các điều kiện sống về kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi người dân.
Hiến pháp bảo vệ quyền kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua các hình
thức sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Toàn bộ
hệ thống cơ quan nhà nước, mọi người dân phải tuân thủ các quy định của
Hiến pháp. Vì vậy, ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp đồng
nghĩa với việc buộc các cơ quan nhà nước, mọi cá nhân, công dân đều phải
tuân thủ và thực hiện
Cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp trong tất cả quá trình
từ thành lập, tổ chức hoạt động đến thực thi các chức năng do Hiến pháp trao
cho trên cơ sở nhân dân làm chủ. Hiến pháp là căn cứ để nhà nước ban hành
các đạo luật cụ thể với mục đích bảo vệ tối đa các quyền con người.
Thứ hai, Hiến pháp quy định sự chế ước quyền lực giữ các cơ quan nhà
nước, chống lại sự tùy tiện của nhà nước trong khi thực hiện chức năng của
mình, bảo vệ quyền lợi nhân dân
Thứ ba, Hiến pháp là căn cứ viện dẫn trước tòa án khi có các hành vi vi
phạm các quyền được Hiến pháp công nhận.
Thứ tư, Hiến pháp đặt ra cơ chế bảo hiến làm căn cứ đánh giá tính
hợp hiến của các đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Theo đó, việc bảo vệ Hiến pháp nhằm mục đích bảo đảm
tính toàn vẹn và tối cao của các giá trị, nguyên tắc, quy định của Hiến
28
pháp; chống lại sự vi phạm từ bất kỳ chủ thể nào. Tất cả những sự diễn giải
trái với tinh thần và nguyên tắc của Hiến pháp sẽ bị đình chỉ và bãi bỏ bởi
Tòa án hoặc một cơ quan chuyên trách thực hiện. Vì vậy, các giá trị, tinh
thần và quy định của Hiến pháp sẽ được giữ nguyên vẹn, quyền của người
dân sẽ không bị xâm phạm.
29
Chương 2
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUYỀN KINH TẾ , VĂN HÓA, XÃ HỘI
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp trước
Hiến pháp 2013
2.1.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1946
Năm 1945 là thời điểm đánh dấu một bước ngoặt trên lĩnh vực quyền
con người ở Việt Nam. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã chấm dứt
80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến
phương Bắc, đem lại độc lập, chủ quyền cho đất nước, đem lại tự do và các
quyền con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam
Một năm sau, Hiến pháp 1946 ra đời là Hiến pháp của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Hiến pháp dân chủ và tiến bộ
đầu tiên ở Đông Nam Á. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức
tạp ở buổi đầu của cách mạng, quan hệ đến sự mất, còn của chính quyền
nhân dân non trẻ; giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng một lúc đe dọa nền
độc lập dân tộc mới giành lại được, Hiên pháp năm 1946 thực sự là công cụ
đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ
chính quyền cách mạng và thực hiện quyền lực nhân dân trên nền tảng dân
chủ. Hiến pháp năm 1946 là cơ sở cho việc ghi nhận và thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thể hiện mối quan hệ pháp lý
cơ bản giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, người dân Việt Nam được Hiến pháp xác nhận có tư cách
công dân của một nhà nước độc lập, có chủ quyền và các quyền con người
được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm thực hiện, trở thành các quyền cơ
bản của công dân.
30
Hiến pháp ngày 9/11/1946 (gồm Lời nói đầu, bảy chương, 70 điều).
Quán triệt ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp là đoàn kết toàn dân, bảo đảm
thực hiện các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và gián
tiếp của nhân dân. Trong bảy chương thì chương về quyền và nghĩa vụ của
công dân được xếp thứ hai sau chương về chính thể (Chương II) với tiêu đề
“Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”. Trong Chương II, Hiến pháp năm 1946
dành 16 điều (các điều 4-18, 20, 21) quy định bốn nguyên tắc chung của
quyền con người, 27 quyền của công dân về chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội
và bốn nghĩa vụ của công dân. Nét nổi bật của những quy định trong Hiến
pháp năm 1946 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Việt Nam là các quy định này chỉ được tập trung trong Chương II.
Bốn nguyên tắc chung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân Việt Nam được thể hiện trong bốn điều (các Điều 6, 7, 8, 16) của Hiến
pháp năm 1946, gồm:
“Mọi công dân đều ngang quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa” [23,
Điều 6]; “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” [23, Điều 7]; “công
dân thuộc dân tộc thiểu số được Nhà nước và xã hội giúp đỡ về mọi mặt để
đạt trình độ chung của xã hội” [23, Điều 8]; “người nước ngoài đấu tranh vì
dân chủ và tự do mà bị bức hại thì được Nhà nước Việt Nam cho cư trú tại
Việt Nam” [23, Điều 16].
Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận các quyền cụ thể của công dân trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử nước nhà vừa mới
giành được độc lập, có hơn 90 % dân số mù chữ, bởi vậy, diệt giặc dốt là một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và toàn dân, cho nên Hiến pháp
năm 1946 chỉ quy định một quyền văn hóa nói chung của cá nhân – đó là
quyền học tập
Hiến pháp năm 1946 dành bốn điều (các Điều 8, 9, 13, 14) quy định
31
bảy quyền kinh tế, xã hội của công dân, trong đó một quyền dành cho mọi
công dân là bình đẳng nam, nữ về mọi phương diện ; sáu quyền cho công dân
có đặc điểm, hoàn cảnh riêng: công dân thuộc dân tộc thiểu số; trí thức, người
lao động chân tay, người già không làm được việc , người tàn tật không làm
được việc, trẻ em .
Từ những quy định trong Hiến pháp 1946 có thể rút ra nhận xét sau đây
Các quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân Việt Nam, thể hiện chính sách của nhà nước Việt Nam
về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam; kết
hợp hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của công dân, giữa lợi ích chính đáng của
cá nhân với lợi ích chính đáng của tập thể và của xã hội trong điều kiện nước
nhà vừa mới độc lập, lại đang chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống sự xâm
lược lần thứ hai của thực dân Pháp.
Các quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân Việt Nam là cơ sở pháp lý đầu tiên để Nhà nước và xã
hội tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân trong các giai đoạn tiếp theo của cách mạng.
Có thể nói xét về kỹ thuật lập hiến, cách thức quy định
trong Hiến pháp là ngắn gọn, khúc triết và có tính hàm xúc hay
tính mở cho việc thể chế hóa thành luật. Chẳng hạn như: “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, “Tất cả công dân
Việt Nam đều ngang quyền”… [31].
Việc những giá trị quyền con người nói chung, quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội nói riêng được long trọng ghi nhận trong Hiến pháp 1946, vào thời
điểm chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ đang phải đối mặt với các
nguy cơ, những mối đe dọa nghiêm trọng từ “thù trong, giặc ngoài” cho thấy
sự quan tâm tiến bộ đặc biệt của Nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực này.
32
Chế định quyền công dân trong Hiến pháp 1946 thực sự đã thể hiện nội dung
cốt lõi trong Hiến pháp của một nhà nước dân chủ kiểu mới ở Việt Nam, có
ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lập hiến và lập pháp về quyền con người ở
Việt Nam trong các giai đoạn sau này.
Trong thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp (1946 -1954), mặc dù
những tư tưởng và quy phạm pháp lý tiến bộ về quyền con người, trong đó
bao gồm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.Tuy nhiên, do đất nước đối mặt
với những khó khăn, gian khổ trong cuộc chiến tranh để bảo bệ độc lập, tự do
cho dân tộc, cũng như bảo vệ phẩm giá cho con người, nên việc bảo đảm các
quyền con người nói chung, cũng như các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói
riêng còn tương đối hạn chế.
2.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1959
Sau khi giành độc lập không lâu, thì toàn dân tộc đã phải bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc
lập, tự do cho dân tộc.
Chín năm kháng chiến trường kỳ (1946 -1954) cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1954 đã mở ra thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc đồng thời tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền
Nam. Hiến pháp 1959 được thông qua thay thế cho Hiến pháp 1946 để đáp
ứng nhiệm vụ chính trị này.
Về mặt hình thức, Hiến pháp năm 1959 có hai điểm khác so với Hiến
pháp năm 1946 là sử dụng cụm từ “quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” đặt tên cho Chương III và các quy định về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được chứa được chứa đựng trong
nhiều chương chứ không phải chỉ tập trung ở Chương III. Như vậy, Hiến pháp
năm 1959 chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ “cơ bản” của công dân chứ
không quy định tất cả các quyền và nghĩa vụ của công dân; quyền con người
33
được ghi nhận thành quyền công dân nhiều hơn, phong phú hơn so với Hiến
pháp năm 1946 và theo đó, nghĩa vụ của công dân cũng tăng lên nhằm đảm
bảo nguyên tắc quyền và nghĩa vụ của công dân đi đôi với nhau.
Hiến pháp năm 1959 quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
như sau:
Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1959 dành năm điều (các Điều 11,
14, 15, 16, 30) quy định bảy quyền kinh tế của công dân. Điều này hoàn toàn
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, khi miền Bắc đã được hoàn
toàn giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó xây dựng và
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng hàng đầu.
Hiến pháp năm 1959 quy định quyền làm việc tại Điều 30. Bên cạnh đó,
tại các Điều 11, 14, 15, 16, Hiến pháp năm 1959 còn quy định năm quyền kinh
tế của công dân thuộc các giai cấp và tầng lớp lao động khác nhau – đó là:
“Quyền sở hữu của người làm nghề thủ công và người lao động riêng
lẻ khác đối với tư liệu sản xuất” [24, Điều 11]; “Quyền của nông dân được
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với ruộng đất và các tư liệu sản xuất
khác” [24, Điều 14], “Quyền của người làm nghề thủ công và người lao động
riêng lẻ khác được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất”
[24, Điều 15], “Quyền của nhà tư sản dân tộc được Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu đối với tư liệu sản xuất và của cái khác” [24, Điều 16].
Đối với quyền kinh tế của nhóm (tập thể) công dân thì Hiến pháp năm 1959
chỉ quy định “quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất của hợp tác xã” [24, Điều 11].
Về quyền văn hóa, Hiến pháp năm 1959 mở rộng các quyền này của
công dân bằng những quy định về các quyền mới ngoài quyền học tập đã
được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959 dành ba điều
(các Điều 3, 33, 34) quy định sáu quyền văn hóa của công dân (năm quyền
dành cho mọi cá nhân công dân và một quyền của cộng đồng công dân).
34
Năm quyền văn hóa của mọi cá nhân công dân là: quyền về học tập,
sáng tác văn học, sáng tác nghệ thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác,
nghiên cứu khoa học.
Một quyền của cộng đồng công dân được quy định tại Điều 3 là:
“quyền của các dân tộc được duy trì hoặc sửa đổi các phong tục, tập quán,
dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc” [24, Điều 3].
Về quyền xã hội, Hiến pháp năm 1959 dành các Điều 24, 31, 32, 35
quy định 12 quyền xã hội của công dân, có hai quyền – trong đó có một quyền
mới đó là: “bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình” [24, Điều 24].
Tại bốn điều, Hiến pháp năm 1959 quy định 10 quyền cho những
chủ thể là cá nhân công dân ở vào những hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có
tám quyền mới, gồm:
“Nữ công nhân được hưởng chế độ thai sản, nữ viên chức được hưởng
chế độ thai sản, người mẹ sinh con và nuôi con nhỏ được Nhà nước bảo hộ, trẻ
em được Nhà nước bảo hộ”[24, Điều 24]; “công nhân viên chức được nghỉ
ngơi,người lao động khi già yếu được nhà nước giúp đỡ về vật chất” [24,
Điều 31]; “người lao động ốm đau được nhà nước giúp đỡ về vật chất, người
lao động mất sức được Nhà nước giúp đỡ về vật chất” [24, Điều 32]; “thanh
niên được Nhà nước chăm sóc, giáo dục” [24, Điều 35].
Từ những trình bày ở trên về các quy định Hiến pháp năm 1959 về
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội có thể rút ra nhận xét sau đây
Thứ nhất, có sự kết hợp hài hoà giữa kế thừa và phát triển, bổ sung các
quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân Việt Nam. Điều đó thể hiện tính liên tục và nhất quán trong
chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân.
35
Thứ hai, so với Hiến pháp 1946 số lượng các quyền con người trong
Hiến pháp 1959 đều tăng lên đáng kể, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa. Sự gia tăng này vừa phản ánh thái độ của Nhà nước luôn tôn trọng
quyền con người nói chung và các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng,
nhắm kết hợp mở rộng quyền của công dân, quyền con người với việc nâng
cao nghĩa vụ của công dân, vừa thể hiện bước phát triển mới của xã hội Việt
Nam khi bước vào xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, tiến tới thống nhất đất nước.
Thứ ba, một điểm mới đáng chú ý trong Hiến pháp năm 1959 là trong 22
Điều quy định các quyền công dân thì có tới 16 Điều (các Điều 14, 15, 16,
18,19, 24,25,27, 28, 29, 30, 31,32,33,34, 35) quy định những bảo đảm của Nhà
nước. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật lập hiến mà quan trọng hơn
là sự nhận thức đúng đắn và thái độ quan tâm của Nhà nước đối với quyền con
người và quyền công dân trong một nước vừa mới giành độc lập, tự do.
Với việc mở rộng các quyền công dân mà phần lớn các quyền được mở
rộng là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, tiêu biểu như: quyền được ưu tiên
đối với bè mẹ, trẻ em; quyền được làm việc cải thiện điều kiện làm việc và
lương bổng; quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất
sức lao độn; quyền học tập; quyền được tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác
văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác....
Tuy vậy, do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, một số quyền trên chỉ
được đảm bảo ở mức độ nhất định, về cơ bản, việc bảo đảm các quyền kinh
tế, văn hóa, xã hội ở thời kỳ này chủ yếu mới đạt về số lượng, chưa đạt về
chất lượng.
2.1.3. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1980
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), Việt
Nam bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Trong
36
bối cảnh một quốc gia vừa thoát khỏi chiến tranh, Đảng và Nhà nước đã đặt
ưu tiên cho việc phát triển kinh tế, xã hội và cả thiện đời sống người dân. Với
quan điểm như vậy, cùng với ảnh hưởng của pháp luật ở các nước xã hội chủ
nghĩa, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục được đề cao, được ghi nhận
qua sự ra đời của Hiến pháp 1980.
Một trong những đặc điểm quan trọng của Hiến pháp năm 1980 khi ghi
nhận quyền con người và xác lập quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam
là các quy định đó nằm rải rác từ các chương I đến Chương V. Hiến pháp
năm 1980 quy định các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như sau:
Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1980 quy định hai quyền mới so
với Hiến pháp 1959 tại các Điều 3, Điều 58, đó là quyền làm chủ về kinh tế
tại Điều 3, lao động có việc làm tại Điều 58.
Hiến pháp năm 1980 quy định bốn quyền nữa của công dân đó là
quyền của cá nhân đang sử dụng đất tiếp tục được sử dụng đất và hưởng kết
quả lao động của mình , quyền làm chủ tập thể của xã viên trong việc quản lí
hợp tác xã , quyền sở hữu của người lao động riêng lẻ những công cụ sản xuất
được phép khi được lao động riêng lẻ và được Nhà nước bảo hộ quyền này.
Đặc biệt, Hiến pháp 1980 quy định sáu quyền kinh tế mới của nhóm (tập
thể) công dân đó là: quyền của công dân làm chủ kinh tế, quyền của tập thể lao
động tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế; quyền của nhân dân làm
chủ tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất, phân phối; quyền của tập thể đang
sử dụng đất, quyền của hợp tác xã và các tổ chức tập thể khác được sở hữu tư
liệu sản xuất và các tài sản khác và được Nhà nước bảo vệ quyền này.
Về quyền văn hóa, Hiến pháp năm 1980 giữ nguyên sáu quyền văn
hóa của công dân mà Hiến pháp năm 1959 đã quy định và bổ sung một quyền
mới (các Điều 5, 60, 72). Sáu quyền văn hóa dành cho mọi cá nhân công dân
đó là: “quyền về học tập” [25, Điều 60], “sáng tác văn học, sáng tác nghệ
37
thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
kỹ thuật” [25, Điều 72]. Một quyền văn hóa dành cho cộng đồng công dân là
“quyền của các dân tộc được dùng tiếng nói, chữ viết, phát huy các phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình”[25, Điều 5].
Về quyền xã hội, Hiến pháp năm 1980 quy định năm quyền xã hội tại
các Điều 59, 61, 62, 63, 64 cho mọi cá nhân công dân gồm: nghỉ ngơi của
người lao động, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền có nhà ở, bình đẳng nam,
nữ , và quyền được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Đối với quyền xã hội của những cá nhân công dân trong những hoàn
cảnh đặc biệt, yếu thế, dễ bị tổn thương, trong đó có các quyền:
“Hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân khi về hưu, già yếu,
bệnh tật hoặc mất sức lao động, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đôi với viên
chức” [25, Điều 59],
“Nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương đối với nữ công
nhân, viên chức; phụ nữ được hưởng phụ cấp sinh đẻ đối với xã viên hợp tác xã”
[25, Điều 63];
“Được Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đối với trẻ em”
[25, Điều 65];
“Được Nhà nước và xã hội giúp đỡ, quan tâm, giáo dục đối với thanh
niên” [25, Điều 66];
Được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với thương
binh; được hưởng chế độ khen thưởng và chăm sóc đối với người
có công với cách mạng; được Nhà nước và xã hội giúp đỡ đối với
người già; được nhà nước và xã hội giúp đỡ đối với người tàn tật;
được nhà nước và xã hội nuôi dạy đối với trẻ mồ côi [25, Điều 74].
Đối với quyền xã hội của những nhóm (tập thể) cá nhân công dân trong
những hoàn cảnh đặc biệt, có: “quyền của gia đình liệt sĩ được hưởng chính
38
sách ưu đãi của Nhà nước, quyền của gia đình có công với cách mạng được
hưởng chế độ khen thưởng và chăm sóc của Nhà nước” [25, Điều 74].
Từ những quy định trên có thể rút ra một số nhận xét sau
Có thể thấy Hiến pháp 1980 đã kế thừa và phát triển ở trình độ khá cao
các Hiến pháp trước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân Việt Nam trong bối cảnh cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế “Sự mở rộng các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
trong bản Hiến pháp đã nâng hệ thống pháp luật Việt Nam lên một tầm cao
mới, thuộc vào dạng tiến bộ bậc nhất thế giới về mặt pháp điển hóa nhóm
quyền này” [34, tr.73].
Tuy nhiên, việc mở rộng các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, đây là
nhóm quyền đòi hỏi nguồn lực vật chất lớn trong việc bảo đảm thực hiện
quyền, trong khi đó đất nước chưa có sự chuẩn bị đầy đủ thích đáng các tiền
đề cho việc thực hiện chúng. Đây là một biển hiện sai lầm theo kiểu chủ quan
duy ý chí mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã mắc phải sau chiến tranh.
Chính sai lầm này đã dẫn đến hậu quả tương tự như giai đoạn 1945 -1975 là
việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong giai đoạn này chỉ đạt về
số lượng, chứ chưa đạt về chất lượng.
Ví dụ Điều 61, Hiến pháp 1980 quy định: “Công dân có quyền được
bảo vệ sức khỏe. Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh và chữa bệnh không
phải trả tiền” [25, Điều 61]. Như vậy, có nghĩa là mọi người dân đều có
quyền chăm sóc sức khỏe miễn phí, tuy nhiên trong điều kiện đất nước thời
kỳ đó, thuốc men và trang thiết bị y tế rất nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn nên
các bệnh viện đều quá tải về số bệnh nhân, chất lượng điều trị thì rất thấp.
2.1.4. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1992
Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xây dựng
39
một nhà nước dân chủ, vững mạnh. Cũng trong giai đoạn này Việt Nam thể
hiện quyết tâm xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà một
trong những tiêu chí của mô hình này là đề cao và bảo đảm các quyền con
người. Với tư cách là thành viên của nhiều điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam tham gia từ đầu thập kỷ 1980, Nhà nước đã có nhiều nỗ
lực trong việc nội luật hóa các nội dung của Công ước vào hệ thống pháp luật
quốc gia. Điều này được thể hiện tập trung trong Hiến pháp 1992.
Lần đầu tiên kể từ năm 1945, Hiến pháp 1992 đề cập cụ thể đến khái
niệm quyền con người: “Ở nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật” [26, Điều 50]. Mặc dù quy định này còn gây ít nhiều tranh cãi bởi nó
đồng nhất giữa quyền con người và quyền công dân, song việc đề cập cụ thể
đến khái niệm quyền con người có thể coi là một bước tiến rất lớn trong lịch
sử lập hiến của Việt Nam. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, điều này ít nhất
mang hai ý nghĩa cơ bản:
Thứ nhất, đối với cộng đồng quốc tế, đây như một tuyên bố
rõ ràng Việt Nam có nhân quyền.
Thứ hai, đối với nhân dân trong nước, quy định này có tác
dụng ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
phải bảo đảm cho nhân quyền được thực hiện trên thực tế [4].
Với nguyên tắc “tôn trọng các quyền con người về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa và xã hội” đề ra trong Điều 50.
Hiến pháp năm 1992 quy định các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như sau
Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1992 dành tám điều (các Điều 3, 16,
18, 20, 28, 55, 57, 58) quy định 14 quyền kinh tế của công dân (có 12 quyền
mới). Các quy định này phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
40
nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo đó, Đối với mọi cá nhân công dân, có các quyền sau:
“Được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật
không cấm” [26, Điều 16]; “được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước
giao theo quy định của pháp luật” [26, Điều 18]; “chọn hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh; thành lập doanh nghiệp” [26, Điều 20]; “quyền lao động”
[26, Điều 55]; “quyền tự do kinh doanh” [26, Điều 57]; “sở hữu tư nhân đối
với tư liệu sản xuất trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác
và được Nhà nước bảo hộ quyền này; sở hữu tư nhân đối với vốn và tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và được Nhà
nước bảo hộ quyền này” [26, Điều 58].
Đối với cá nhân, công dân mang tư cách nhất định, có “quyền của
người sản xuất được Nhà nước bảo hộ quyền lợi và quyền của người tiêu
dùng được Nhà nước bảo hộ quyền lợi” [26, Điều 28].
Về các nhóm (tập thể) công dân, có: “quyền của nhân dân làm chủ về kinh
tế” [26, Điều 3] và “tổ chức thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh
doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [26, Điều 16].
Về quyền văn hóa, Các quy định về quyền văn hóa, giáo dục, khoa học
– công nghệ của công dân.
Hiến pháp 1992 tiếp tục quy định 11 quyền của công dân về văn hóa,
giáo dục, khoa học – công nghệ, trong bảy quyền đã được quy định trong
Hiến pháp năm 1980, bốn quyền mới được bổ sung tại bốn điều (các Điều
5, 32, 59, 60).
Đối với mọi cá nhân, công dân nói chung, Hiến pháp năm 1992 quy
định các quyền: “quyền về học tập” [26, Điều 59]; “nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu kỹ thuật; phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...
Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...
Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềThanh Trúc Lưu Hoàng
 

What's hot (20)

Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOTLuận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...
Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...
Đề tài: Công tác quản lý nhà nước về đăng ký khai sinh- Thực tiễn tại Uỷ ban ...
 
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
Đề tài: Pháp luật về đăng ký khai sinh trên địa bàn Xã Đắk Ang, Huyện Ngọc Hồ...
 
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAYLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
 
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOTLuận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đLuận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình ĐịnhLuận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái địnhLuận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
 

Similar to Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT

BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSỨC KHỎE VÀ CUỘC SỐNG
 

Similar to Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT (20)

Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến phápĐề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
 
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt NamLuận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
 
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOTLuận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
 
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAYVai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAYLuận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
 
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngườiVai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
 
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
 
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến phápĐề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
 
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí...
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí...Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí...
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí...
 
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sựQuyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
 
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAYLuận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
 
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.docKhóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
 
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LỪ VĂN TUYÊN QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CHU HỒNG THANH HÀ NỘI- 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lừ Văn Tuyên
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục viết tắt trong luận văn MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ HIẾN PHÁP ............................................ 6 1.1. Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ................................... 6 1.1.1. Quan niệm về quyền con người ........................................................... 6 1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người................................... 12 1.2. Hiến pháp và quyền con người ....................................................... 22 1.2.1. Khái niệm về Hiến pháp..................................................................... 22 1.2.2. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người ............................. 24 Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUYỀN KINH TẾ , VĂN HÓA, XÃ HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM ........ 29 2.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp trước Hiến pháp 2013................................................................................. 29 2.1.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1946....................... 29 2.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1959....................... 32 2.1.3. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1980....................... 35 2.1.4. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1992....................... 38 2.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013 ................. 45 2.2.1. Quyền kinh tế ..................................................................................... 46 2.2.2. Quyền văn hóa.................................................................................... 48
  • 4. 2.2.3. Quyền xã hội ...................................................................................... 50 2.2.4. Một số nhận xét về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013 ........................................................................................... 51 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013 .................................. 66 3.1. So sánh các quy định về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013 với các bản Hiến pháp trước và quy định của Luật nhân quyền quốc tế ................................................. 66 3.1.1. Quyền kinh tế ..................................................................................... 66 3.1.2. Quyền văn hóa.................................................................................... 71 3.1.3. Quyền xã hội ...................................................................................... 75 3.2. Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013................................................................................. 79 3.2.1. Về bảo hiểm xã hội............................................................................. 82 3.2.2. Bảo đảm an sinh xã hội với một số nhóm yếu thế trong xã hội......... 86 KẾT LUẬN.................................................................................................. 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 110 PHỤ LỤC
  • 5. CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Chữ viết tắt Tên/ cụm từ đầy đủ CEDAW Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đỗi xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women) CRC Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights of the Child, CRC) ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights) ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights) ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization) UDHR Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (Universal Declaration of Human Rights) UPR Cơ chế đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review) WHO Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quyền con người là một phạm trù đa diện, kết tinh những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc. Đây không chỉ là “ngôn ngữ chung” mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” và “phương diện chung” của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người, mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các quyền con người đều được ghi nhận trong Hiến pháp ở những mức độ khác nhau. Như vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò là công cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người ở các quốc gia. Ở nước ta, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội để thông qua Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Người chi rõ: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ” [5]. Như vậy trong tư tưởng của Người, quyền con người luôn gắn liền với Hiến pháp, Hiến pháp chính là công cụ để đảm bảo quyền con người. Vì vậy, không chỉ trong việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta mà các bản Hiến pháp sau này đều có những quy định về các quyền con người. Cho đến nay Việt Nam đã có năm bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, và hiện nay là Hiến pháp 2013. Mặc dù ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả năm
  • 7. 2 bản Hiến pháp trên đều đã có quy định về quyền con người, đặc biệt là những quy định về nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Hiến pháp năm 1992 được đánh giá là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, phản ánh bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân cơ bản trong đó có các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Góp phần quan trọng thể chế hóa đường lối của Đảng. Tuy nhiên, sau 20 năm thi hành, Hiến pháp năm 1992 đã bộc lộ một số điểm hạn chế không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 06/2011/QH13 ngày 06 tháng 8 năm 2011 về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI diễn ra vào tháng 5/2012 đã nêu định hướng sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong đó chỉ rõ cần tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013. Hiến pháp mới được ban hành có một điểm nhân dân cả nước rất đồng tình ủng hộ và coi đây là một điểm sáng. Đó là hiến chương về quyền con người. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài “Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp Việt Nam” sẽ góp phần làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận và thực tiễn quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp, qua đó góp phần hiểu sâu hơn về việc hiến định và sự phát triển của nhóm quyền quan trọng này ở Việt Nam.
  • 8. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quyền con người là một phạm trù đa diện, đòi hỏi cách tiếp cận và nghiên cứu đa ngành, liên ngành, song tiếp cận và nghiên cứu luật học là một hướng chính. Các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người ở Việt Nam những năm gần đây đang phát triển mạnh mẽ. Hiện đã có một số công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung như: Quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Chu Hồng Thanh, Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, 1997; Tường Duy Kiên, Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, Hà Nội, 2004; Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa học xã hội, 2006… Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là một trong hai nhóm quyền cơ bản được ghi nhận và bảo đảm trong luật pháp quốc tế và pháp luật của quốc gia. Các quyền này được ghi nhận ngay trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948, sau đó được cụ thể hóa tại một trong hai Công ước cơ bản nhất về nhân quyền là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Việt Nam cũng đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa từ rất sớm (năm 1982). Mặc dù vậy, do một số lý do khách quan và chủ quan, việc nghiên cứu về quyền con người nói chung, về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc hiểu biết chưa đầy đủ hoặc sai lệch về nhóm quyền này. Đối với việc nghiên cứu các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người, hiện chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu như: Trần Thị Hòe, Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay, 2002; Nguyễn Duy Sơn, Quyền phát triển của con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Trung tâm
  • 9. 4 Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005; Tường Duy Kiên, Trần Thị Hòe, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, 2007; Trần Thị Hòe, Vũ Công Giao, Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật –ĐHQG Hà Nội, 2011… Tuy nhiên, các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu góc độ nhất định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và nhóm quyền này trong pháp luật nói riêng, chưa có đề tài nào đi sâu phân tích và so sánh nội dung các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp trên thế giới và các bản Hiến pháp của Việt Nam. Luận văn này sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống đó. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Phân tích so sánh các quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. - Đánh giá sự phát triển của các quyền hiến định về kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam với Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966. - Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích quy định về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong các Hiến pháp Việt Nam và trong Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 của Liên hiệp quốc. 4. Phương pháp nghiên cứu luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng pháp luật và nhân quyền.
  • 10. 5 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn này bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… 5. Những nét mới của luận văn Luận văn làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp với quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đánh giá vai trò của Hiến pháp trong việc bảo vệ các quyền con người. Luận văn cũng nêu và phân tích hệ thống các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người được các Hiến pháp Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Trên cơ sở đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, luận văn nêu ra những đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam. 6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu là một bản luận văn từ 80-150 trang. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học, đặc biệt là chuyên ngành pháp luật về quyền con người và chuyên ngành luật Hiến pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung đề tài được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và Hiến pháp Chương 2: Sự phát triển của các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp Việt Nam Chương 3: Một số kiến nghị về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 2013.
  • 11. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ HIẾN PHÁP 1.1. Khái quát về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội 1.1.1. Quan niệm về quyền con người 1.1.1.1. Nguồn gốc về quyền con người Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lõi của khái niệm quyền con người. Nó coi cá nhân con người là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một hệ thống toàn cầu giá trị phổ biến nhằm hướng đến những giá trị cao quý của cuộc sống và tạo ra một khuân khổ để xây dựng hệ thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Ý tưởng về nhân phẩm con người đã có từ thời xa xưa đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các nền văn hóa và tôn giáo. Trong thời kỳ cổ đại, các nhà chính trị, tư tưởng, tôn giáo đã có những tư tưởng, giáo luật thể hiện sự tôn trọng phẩm giá con người, bảo vệ con người, đặc biệt là những nhóm yếu thế (phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết tật….) đề cao sự bình đẳng… Đây có thể coi là những tư tưởng đầu tiên của nhân loại có tính hệ thống và nội dung rõ ràng về quyền con người. Quyền con người gắn liền với lịch sử loài người. Đó là những sản phẩm của điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội nhất định và chịu sự chi phối của các cơ sở kinh tế - xã hội đó. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tư tưởng, quan niệm về quyền con người còn phụ thuộc một phần quan trọng vào sự phát triển của tư duy về xã hội nói chung, đặc biệt là tư duy triết học, chính trị, của mỗi thời đại nói riêng Nhìn lại lịch sử, các quốc gia trên thế giới cũng đã hình thành và ban hành pháp luật làm phương tiện cai trị, các văn bản pháp luật từ thời cổ đại
  • 12. 7 thông qua các quy định một phần thể hiện các giá trị quan trọng về lịch sử, văn hóa, pháp lý nhưng một phần cũng phản ánh nhận thức quan niệm về công bằng, giá trị của nhân phẩm, và quyền lợi ích chính đáng của con người Có thể kể đến như Luật Hammurabi, Luật Manu, Luật Kautilya, Luật Asoka…Ví dụ trong Luật Hammurabi là văn bản luật cổ nhất của nhân loại còn được bảo tồn tốt. Bộ luật này được ban hành vào khoảng thập niên 1760 TCN, Bộ luật thể hiện tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm các quyền con người, vì vậy mà vua xứ Babylon là Hammurabi (1810- 1750 TCN) đã nói rằng mục đích của việc ban hành đạo luật cổ nối tiếng này là để: “…ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu” [30]. Bộ luật quy định nhiều hình phạt đối với những tội vi phạm tự do ngôn luận, vu khống người vô tội, hay những hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Đặc biệt tư tưởng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật còn được thể hiện rất rõ nét sức mạnh của hình phạt, khi được thực thi một cách công bằng tương ứng với mức độ phạm tội và bất chấp kẻ bị chừng phạt là con vua hoặc kẻ thù, là bảo vệ xã hội này và xã hội sau. Trong những giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao pháp luật với việc bảo đảm quyền con người cũng được sự phát triển bởi nhiều nhà tư tưởng nối tiếng của nhân loại, và được minh chứng bằng sự ra đời của ngày càng nhiều các văn bản pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về các quyền tự do của con người, quyền con người thực sự trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và dần được thể chế hóa toàn diện, có tính hệ thống vào pháp luật và đời sống chính trị quốc tế, từ Đại hiến chương Magna Carta (the Magna Carta, 1251), Bộ luật về các quyền (the Bill of rights, 1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (the Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, 1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (the Declaration Independence, 1766) và Bộ luật về các quyền (the Bill of Rights,
  • 13. 8 1789/1791) của nước Mỹ cho đến Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hệ thống đồ sộ hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người do Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác thông qua từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tất cả đã cho thấy pháp luật đã có một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Có hai trường phái trái ngược nhau về nguồn gốc của nhân quyền mà đôi khi chi phối khá mạnh mẽ quan điểm và cách thức thực hiện quyền con người của các quốc gia. Trường phái thứ nhất - những người theo thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) - cho rằng nhân quyền là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân từ khi sinh ra đều đã được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là con người. Do đó, các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Xuất phát từ thuyết pháp quyền tự nhiên, không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tùy tiện tước bỏ các quyền con người. Ngược lại, trường phái thứ hai - những người theo thuyết về quyền pháp lý (legal rights) - cho rằng, quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nó chỉ nảy sinh khi các nhà nước quy định trong pháp luật. Xuất phát từ thuyết này, phạm vi, giới hạn của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và bị chi phối bởi các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Thực tế cho thấy, quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ thuyết nào kể trên đều không phù hợp, bởi lẽ nếu không được thể chế hóa vào pháp luật thì các quyền tự nhiên của con người không thể được thực hiện; song nếu cực đoan hóa vai trò của nhà nước, của pháp luật sẽ dẫn đến tùy tiện, lạm dụng, vi phạm các quyền tự nhiên của con người. Kể từ khi Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận quyền con người vào
  • 14. 9 năm 1948, với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, và nhiều văn kiện chính trị, pháp lý quốc gia về nhân quyền đều thừa nhận nguồn gốc tự nhiên song cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước và pháp luật trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, từ đó quyền con người đã phát triển như một khuân khổ đạo đức, chính trị, pháp lý và như một định hướng nhằm phát triển thế giới tự do khỏi sự sợ hãi và tự do làm điều mong muốn.Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 đã nhấn mạnh: “Việc thuần nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới” [9]. Như vậy trong lời nói đầu của Tuyên ngôn, quyền con người được hiểu là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tách rời, không thể chuyển nhượng được của cá nhân. Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về quyền con người mà nói về nội hàm đưa ra các quyền chính trên cơ sở sự đồng thuận của đông đảo các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc. 1.1.1.2. Khái niệm quyền con người Ngày nay, quyền con người được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu như được ghi nhận trong tuyên bố của hội nghị thế giới Wien (Áo) về quyền con người năm 1993 và các nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được thông qua nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948- 1998). Tuy nhiên cho đến nay cách hiểu về quyền con người vẫn chưa có sự thống nhất, Một mặt, đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Mặt khác, quyền con người được xem dưới nhiều góc độ khác nhau như: triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật… Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm tất cả các thuộc tính của quyền con người.
  • 15. 10 Tùy vào tính chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về quyền con người (OHCHR). Theo định nghĩa này: Quyền con người (human rights) là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [39, tr.8]. Liên quan đến các khái niệm trên, cũng cần lưu ý, thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán - Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền con người” [37], Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ đồng nghĩa, và hoàn toàn có thể sử dụng trong nghiên cứu, và hoạt động thực tiến về quyền con người Một số tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, định nghĩa về quyền con người cũng không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [14, tr.37]. Như vậy, trong hai định nghĩa trên thì quyền con người là những quyền vốn có của con người, không phân biệt quốc tịch, nơi cư trú, giới tính, nguồn gốc, hay quốc gia, dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ hay bất kỳ một thân phận nào khác. Mọi người được hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng không có sự phân biệt đối xử. Những quyền này có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời. 1.1.1.3. Đặc tính của quyền con người Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các
  • 16. 11 tính chất cơ bản là: “tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau” [14, tr.41] Các quyền con người đều không thể phân chia và có tính phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ví dụ, để đảm bảo các quyền bầu cử, ứng cứ (các quyền dân sự chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng…vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ bệnh tật hay mù chữ. Vì vậy mà các quyền con người được đảm bảo theo quy định của pháp luật quốc gia, các điều ước, cam kết, thỏa thuận hoặc tập quán quốc tế. Và luật quốc tế cũng đặt ra với các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, và thực hiện các quyền con người cốt yếu để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Xét bản chất và từ lịch sử phát triển của quyền con người, có thể khẳng định nhân quyền là sự kết tinh những giá trị nhân văn cao đẹp nhất trong nền văn hóa của mọi dân tộc. Đó là sản phẩm chung của toàn nhân loại, không phải là sáng kiến hay phát minh riêng của bất kỳ giai cấp, dân tộc, quốc gia hay khu vực nào. Từ những tư tưởng về quyền con người xuất hiê ̣n từ rất lâu trong lịch sử nhân loại , thể hiện qua những bộ luật , thư tịch cổ của nhiều quốc gia và trong các kinh điển của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới. Đến thời kỳ Phục Hưng, những tư tưởng đó được kế thừa, phát triển thành các học thuyết về quyền bởi một số nhà tư tưởng nổi tiếng ở châu Âu. Những học thuyết này tác
  • 17. 12 động đến sự ra đời của các văn kiện pháp lý nổi tiếng về nhân quyền, bao gồm Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp (1789) và một loạt Hiến pháp ở châu Âu và Bắc Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX , nhân quyền bắt đầu được đề cập trong một số điều ước của Hội Chữ thập đỏ-Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế , Hô ̣i Quốc liên và Tổ chứ c Lao động quốc tế , tuy nhiên, chỉ sau sự ra đời của Liên Hợp Quốc (1945), vấn đề nhân quyền mới nổi lên thành một vấn đề chi phối một cách ngày càng mạnh mẽ và toàn diện đời sống chính trị quốc tế. Một ngành luật quốc tế mới – luật nhân quyền quốc tế đã ra đời từ sau 1945, do những nỗ lực của Liên Hợp Quốc. Hiện nay, ngành luật này đã bao gồm hàng trăm văn kiện, đề cập đến một phạm vi rộng lớn các quyền áp dụng chung cho mọi cá nhân và các quyền đặc thù áp dụng riêng cho một số nhóm xã hội nhất định. Ở thời điểm hiện tại, có thể khẳng định rằng, không một dân tộc, quốc gia nào trên thế giới có thể đứng ngoài sự tác động của luật nhân quyền quốc tế. Xem xét sự phát triển của vấn đề nhân quyền trong lịch sử nhân loại, năm 1977, Karel Vasak đưa ra ý tưởng về ba “thế hệquyền con người”(generations of human rights) [14, tr.58], trong đó thế hê ̣thứ nhất(bắt đầu từ các thế kỷ XVII- XVIII) thể hiện ở sự ghi nhận các quyền dân sự, chính trị; thế hệ thứ hai (bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX) đánh dấu bằng việc thừa nhận các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; còn thế hê ̣thứ ba (bắt đầu từ giữa thế kỷ XX) với đặc trưng là mở rộng sự ghi nhận các quyền tập thể, tiêu biểu như quyền tự quyết dân tô ̣ c, quyền phát triển, quyền được sống trong hoà bình. 1.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người 1.1.2.1. Khái quát chung về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội Như đã nêu ở phần trên, nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội là thế hệ quyền thứ hai, hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội.
  • 18. 13 Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội có một vị trí rất quan trọng trong hệ thống quyền con người. Do vậy trong quá trình nghiên cứu về quyền con người, chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như một bộ phận cơ bản, thiết yếu trong tổng thể quyền con người. Về lịch sử pháp điển hóa quyền con người, các tiêu chuẩn quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được coi là ra đời muộn hơn các quyền dân sự, chính trị. Tuy nhiên, về lịch sử nhân loại nói chung, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được quan tâm đề cập đồng thời thậm chí là sớm hơn các quyền dân sự chính trị. Bởi điều đó thể hiện ở khát vọng giải phóng con người khỏi đói rét, dịch bệnh…được phản ánh trong nhiều học thuyết, tôn giáo chủ yếu. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận trong trong pháp luật của nhiều quốc gia thời kỳ Cổ - Trung đại thông qua những quy định về sự bảo vệ nhà nước và cộng đồng đối với nhóm cư dân yếu thế trong xã hội. Theo dòng chảy của lịch sử, chúng được đề xướng và vận động mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu được quan tâm bởi một số Chính phủ kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các quyền tiêu biểu thuộc nhóm quyền này bao gồm: quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở… Động lực chính thúc đẩy sự hình thành của nhóm quyền này được cho là từ cuộc khủng hoảng của xã hội tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dẫn tới tình cảnh khốn khổ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Trong bối cảnh đó, những người theo chủ nghĩa tự do mới đã đưa ra ý tưởng cải tổ các xã hội tư sản nhằm giảm bớt những bất công xã hội và khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Do tác động của cuộc đấu tranh này, một số nhà nước tư sản đã ban hành những chính sách về phúc lợi xã hội để cải thiện đời sống của người dân. Một ví dụ điển hình trong số đó là chính sách xã hội của thủ tướng Đức Bismarck. Trên cơ sở Tuyên ngôn Keider
  • 19. 14 (1881), nước Đức dưới sự lãnh đạo của Bismarck đã thiết lập một hệ thống bảo trợ xã hội thống nhất trên toàn quốc mà trọng tâm là bảo hiểm xã hội. Từ năm 1919, Hiến pháp của nước này đã quy định quyền được bảo hiểm xã hội trong các trường hợp già yếu, bệnh tật… Có hai sự kiện tác động hết sức quan trọng đến sự phát triển của nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự kiện thứ nhất là sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – nước Nga Xô viết vào năm 1917. Ngay từ Hiến pháp 1918, Nước Nga Xô viết đã ghi nhận các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản của con người như quyền có việc làm, quyền học tập, quyền được chăm sóc y tế… Các quyền này tiếp tục được khẳng định, mở rộng và bổ sung, trở thành một trong những nội dung chính của các Hiến pháp năm 1924, 1936, 1977 của Liên Xô (tương tự là trong Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa). Sự kiện thứ hai là việc thành lập hai tổ chức liên chính phủ quốc tế lớn là Hội Quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế, hai tổ chức này, đặc biệt là Tổ chức Lao động quốc tế đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các quyền về lao động, việc làm của người lao động [14, tr.60]. Cùng với hệ thống quyền con người nói chung, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, với việc Liên Hợp Quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Trong vấn đề này, sự đóng góp của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa là hết sức to lớn. Chính do sự đấu tranh kiên quyết và kiên trì của phe các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô trên diễn đàn Liên Hợp Quốc trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã buộc khối các nước tư bản chủ nghĩa phải nhượng bộ, dẫn đến việc Đại hội đồng Liên
  • 20. 15 Hợp Quốc thông qua cả hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cùng vào năm 1966 – mà hiện đóng vai trò là hai điều ước nền tảng của luật nhân quyền quốc tế. 1.1.2.2. Nội dung cơ bản các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản trong luật nhân quyền quốc tế Các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội tạo thành ba bộ phận có mối liên kết với nhau trong mối quan hệ tổng thể của một nhóm quyền, đồng thời, tất cả các bộ phận này lại có mối liên kết với một nhóm các quyền về dân sự và chính trị. Trên thực tế, hiện vẫn còn có những tranh luận xung quanh hệ thống các quyền con người được gọi là các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, bởi lẽ một số quyền con người (tùy theo bối cảnh và hoàn cảnh) có thể xếp vào nhiều hơn một nhóm. Xét ở góc độ pháp điển hóa, các quyền và tự do này đầu tiên được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), sau đó, được tái khẳng định và cụ thể hóa trong nhiều văn kiện quốc tế khác mà đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) (được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1966). Dựa trên cách tiếp cận liên kết mà theo đó các quyền kinh tế, văn hóa, và xã hội được chia thành ba nhóm, cụ thể như sau: - Nhóm quyền kinh tế (economic rights), bao gồm: a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng b) Quyền lao động - Nhóm quyền xã hội (social rights), bao gồm: c) Quyền được hưởng an sinh xã hội. d) Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thấn. - Nhóm quyền văn hóa (cultural rights), bao gồm:
  • 21. 16 e) Quyền giáo dục f) Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học. Cũng cần lưu ý rằng, để phục vụ mục đích nghiên cứu và trong quá trình áp dụng, một số quyền thuộc các nhóm ở trên đôi khi còn được chia tách thành những quyền khác cụ thể hơn. Dưới đây là khái quát nội dung cốt lõi của những quyền này. a) Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng hàm nghĩa việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở và chăm sóc y tế, v.v… cũng như được cải thiện không ngừng điều kiện sống. Trong đó quan trọng nhất là quyền có đủ lương thực, thực phẩm và quyền có nhà ở thích đáng. Quyền này được ghi nhận tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, trong đó có nêu rằng: Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối phó của họ [32, Điều 25] Ngoài ra quyền này còn được ghi nhận tại Điều 11 ICESCR, Điều 27, Công ước quyền trẻ em và một số văn kiện khác. Quyền này cũng đồng thời được ghi nhận trong một số văn kiện nhân quyền khu vực (ví dụ, Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư bổ sung Công ước của Châu Mỹ về quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa). Uỷ ban giám sát ICESCR đã giải thích nội hàm của quyền có mức sống
  • 22. 17 thích đáng trong các Bình luận chung số 4 (năm 1991), số 7 (năm 1997), số 12 (năm 1999), số 14 (năm 2000) và số 15 (năm 2002). b) Quyền lao động, việc làm Quyền về lao động, việc làm là một nội dung quan trọng trong hệ thống các quyền kinh tế, xã hội cơ bản của con người. Quyền này bao gồm các khía cạnh như quyền có việc làm, tự do lựa chọn nghề nghiệp, được trả lương công bằng, xứng đáng, được bảo đảm các điều kiện lao động an toàn, tôn trọng nhân phẩm… Trước khi được ghi nhận trong các Điều 6 , 7, 8 của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR), quyền này được đề cập trong nhiều công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế. Một số khía cạnh của quyền này, cụ thể như vấn đề cấm lao động cưỡng bức, còn được đề cập trong các điều ước quốc tế khác về quyền con người của Liên Hợp Quốc như Công ước về cưỡng bức lao động năm 1930; Công ước về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị như nhau năm 1957; Công ước vê chính sách việc làm năm 1964; Công ước về quyền dân sự chính trị năm 1966; c) Quyền được hưởng an sinh xã hội Nội dung cơ bản của quyền được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội bao gồm các khía cạnh: chăm sóc sức khỏe và trợ cấp cho người lao động và gia đình khi gặp khó khăn; trợ cấp tàn tật và bảo đảm phúc lợi cho người lao động khi cao tuổi, nghỉ hưu, bệnh tật hoặc bị tai nạn khi làm việc. Đối tượng được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội là tất cả mọi người, trong đó đặc biệt chú trọng đến những người cao tuổi, bệnh tật, thất nghiệp, những người góa bụa và trẻ mồ côi. Quyền được hưởng an sinh xã hội được quy định trong UDHR đã nêu rằng: “… mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội…” [32, Điều 22]; Điều 9 ICESCR có nêu một cách ngắn gọn rằng, “các quốc gia thành
  • 23. 18 viên Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội” [19, Điều 9]; Điều 26, Công ước về quyền trẻ em; Điều 11, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và nhiều điều ước quốc tế khác. d) Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thần Sức khỏe được hiểu bao gồm cả về thể chất và tinh thần ở mức độ cao nhất có thể được. Trên thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, ví dụ như đói nghèo, dịch bệnh, môi trường sống, dịch vụ y tế, vệ sinh cá nhân… Do đó, trách nhiệm bảo đảm quyền về sức khỏe không chỉ thuộc về nhà nước mà còn về các cá nhân Với ý nghĩa như vậy, trong những năm gần đây, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Ngày 11 tháng 5 năm 2000, Uỷ ban Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã thông qua khuyến nghị chung về vấn đề này. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 49 của Uỷ ban nhân quyền Liên Hợp Quốc ngày 22 tháng 4 năm 2002 cũng đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ của Báo cáo viên đặc biệt về quyền được những tiêu chuẩn cao nhất cho sức khỏe, thể chất và tinh thần của tất cả mọi người. Thực tế, quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe mang ý nghĩa là một quyền cơ bản của con người lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện thành lập của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sau đó được pháp điển hóa trong UDHR, theo đó “mọi người có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết… Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” [32, Điều 25] Quy định của Điều 25 UDHR sau đó được cụ thể hóa trong các Điều 7,11,12 ICESCR; Điều 10,12,14 CEDAW, Điều 24 CRC, Điều 5 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Tuyên bố
  • 24. 19 Viên và Chương trình hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993. Ngoài ra, quyền về sức khỏe còn được ghi nhận trong một số văn kiện khi vực về quyền con người, chẳng hạn như Hiến chương xã hội châu Âu năm 1961 sửa đổi (Điều 11), Hiến chương châu Phi về quyền con người và các quyền của các dân tộc năm 1981 (Điều 16), Nghị định thư bổ sung Công ước Châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1988 (Điều 10)… e) Quyền được giáo dục Quyền này đầu tiên được đề cập trong Điều 26 UDHR, trong đó nêu rõ: Mọi người đều có quyền được học tập, Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giao dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng. Mục tiêu của giáo dục, trong đó nêu rõ: Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dục cũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc về duy trì hòa bình. Theo Khoản 3 Điều này, cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ [32, Điều 26]. Điều 26 UDHR được cụ thể hóa trong các Điều 13 và 14 ICESCR. Điều 13 ICESCR đề cập đến quyền được giáo dục nói chung, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được học tập. Các quốc gia nhất trí rằng giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền
  • 25. 20 và tự do cơ bản của con người. Các quốc gia cũng nhất trí rằng giáo dục cần giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc. Liên quan đến Điều 13 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã giải thích một cách khá toàn diện và chi tiết về quyền này trong Bình luận chung số 13 (năm 1999). Theo văn kiện này, mọi hình thức giáo dục, cho dù là công lập hay tư thục, chính quy hay không chính quy, đều phải hướng tới những mục tiêu được xác định trong Điều 13 (Khoản 1) ICESCR. Mặc dù mức độ và cách thức thực hiện quyền này phụ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi quốc gia thành viên, song mỗi quốc gia cần bảo đảm giáo dục dưới mọi hình thức và ở tất cả các cấp. Điều 14 cụ thể hóa vấn đề quyền phổ cập giáo dục tiểu học, theo đó, mỗi quốc gia thành viên. Công ước mà lúc trở thành thành viên chưa thể bảo đảm thực hiện được việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong phạm vi lãnh thổ nước mình hoặc các cùng lãnh thổ khác thuộc quyền tài phán của nước mình, cam kết, trong vòng hai năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch hành động chi tiết, nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí cho mọi người trong một khoảng thời gian hợp lý đã được ấn định trong kế hoạch đó. Liên quan đến Điều 14 ICESCR, Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đã giải thích thêm trong Bình luận chung số 11 (năm 1999). Theo Uỷ ban, yêu cầu bắt buộc nêu trong nội dung của quyền này hàm ý không một bậc phụ huynh, người giám hộ pháp lý hoặc quốc gia nào có thể chối bỏ trách nhiệm đảm bảo cho trẻ em có thể tiếp cận giáo dục ở bậc cơ sở. Yêu cầu miễn phí hàm ý giáo dục cơ sở phải luôn rộng mở cho mọi trẻ em và không được yêu
  • 26. 21 cầu trẻ em hay các bậc phụ huynh, người giám hộ pháp lý phải đóng bất kỳ một khoản học phí nào. Việc quy định một số khoản phí gián tiếp (ví dụ như thu lệ phí xây dựng mà được ngụy trang dưới hình thức tình nguyện đóng góp, hoặc quy định mua và mặc đồng phục có giá cao của nhà trường….) là vi phạm yêu cầu này. f) Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học Quyền này đầu tiên được đề cập trong Điều 27 UDHR. Theo Điều này: Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sang tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả [32, Điều 27] Điều 15 ICESCR cụ thể hóa nội dung Điều 27 UDHR, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người đều có quyền: a) Được tham gia vào đời sống văn hóa; b) Được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó; c) Được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình [19, Điều 15]. Theo khoản 3, Điều 15 của Công ước, các thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tụ do không thể thiếu được đối với nghiên cứu khoa học và các hoạt động sáng tạo. Các khoản 2 và 4 Điều 15 nêu rõ, để thực hiện đầy đủ quyền này các quốc gia thành viên Công ước phải thực thi nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cần thiết để bảo tồn, phát triển, phổ biến khoa học và văn hóa, bảo đảm quyền tham gia hoạt động văn hóa. Theo Uỷ ban về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa của Liên Hợp
  • 27. 22 Quốc, các quốc gia thành viên cần phải cung cấp thông tin về việc tạo lập quỹ cho việc thúc đẩy, phát triển văn hóa và tham gia rộng rãi vào đời sống văn hóa, nhà bảo tàng, thư viện, rạp chiếu phim, các hình thức biểu diễn nghệ thuật truyền thống… Liên quan đến Điều 15 ICESCR, Uỷ ban quyền kinh tế, xã hội, văn hóa chưa có Bình luận chung nào đề cập Điều này. Bởi vậy, nhận thức về nội dung của quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học hiện vẫn giới hạn ở các quy định trong các Điều 15 ICESCR và Điều 27 UDHR. Liên quan chặt chẽ đến quyền văn hóa và hưởng thụ các kết quả của các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong đó Thứ nhất, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do cá nhân, tìm kiếm và nhận thông tin về phát triển khoa học vào đời sống và áp dụng như là kết quả của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Thứ hai, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền của cá nhân được hưởng thụ các phúc lợi từ tiến bộ khoa học đó. Điều 15, khoản 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng quy định trách nhiệm của nhà nước khuyến khích, phát triển các mối quan hệ và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khoa học, văn hóa… 1.2. Hiến pháp và quyền con người 1.2.1. Khái niệm về Hiến pháp Có nhiều quan điểm và định nghĩa về Hiến pháp. Theo từ điển luật Black’s Law Dictionnary, Hiến pháp là “luật tổ chức cơ bản của một quốc gia hay một nhà nước thiết lập các thể chế và bộ máy của chính quyền, xác định phạm vi quyền lực của chính quyền, vào bảo đảm các quyền và tự do của công dân” [38]. Như vậy, hiểu một cách khái quát, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của
  • 28. 23 một quốc gia, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp, không được trái với Hiến pháp. Vị trí tối cao của Hiến pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến hoặc trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo luật bình thường chỉ do quốc hội (nghị viện) gồm những người đại diện do dân bầu và ủy quyền xây dựng. Một trong những chức năng cơ bản của Hiến pháp là bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Thông qua Hiến pháp, người dân xác định những quyền gì của mình mà nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cùng những cách thức để bảo đảm thực hiện, cùng với những cách thức để bảo đảm thực thi những quyền đó. Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, Hiến pháp là bức tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp còn được phát huy qua việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền, cụ thể như thông qua hệ thống tòa án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman) hay Tòa án Hiến pháp… Trong nhà nước quân chủ chuyên chế không tồn tại Hiến pháp bởi ở nhà nước đó, quyền lực của nhà vua là tối thượng. Khổng Tử từng có một câu nói nổi tiếng “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung” [47]. Ý nói vua bảo thần phải chết, thần không chết thì đó là bất trung. Như vậy, ở đây con người đã bị tước đi quyền tự nhiên vốn có và căn bản nhất đó là quyền được sống.
  • 29. 24 Vì vậy nhà nước dân chủ ra đời, trong đó mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến và quan điểm về các vấn đề của đất nước và bản thân mình mà không sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt, quyền lực nhà nước hoàn toàn thuộc về nhân dân thì mới có Hiến pháp. Để thể hiện và bảo vệ chủ quyền của nhân dân, thông thường Hiến pháp chỉ có thể được thông qua với sự chấp thuận của nhân dân (qua trưng cầu ý dân). Thêm vào đó, Hiến pháp thường quy định các nguyên tắc bầu cử (tự do phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín) như là phương thức để nhân dân ủy quyền cho các thiết chế đại diện. Ngoài ra, việc quy định các cơ chế, thiết chế giám sát, kiểm sát quyền lực (giữa các cơ quan nhà nước và giữa nhân dân với nhà nước) trong Hiến pháp cũng là những cách thức để bảo đảm quyền lực của nhân dân. Hiến pháp quy định rõ những việc nhà nước được thực hiện, không được thực hiện và bắt buộc phải thực hiện vì lợi ích của người dân. Tất cả những hành vi vi phạm Hiến pháp phải được ngăn chặn và xét xử kịp thời. Như vậy, bản chất của Hiến pháp xét đến cùng chính là nhằm bảo vệ quyền con người. 1.2.2. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và quyền con người Hiến pháp và quyền con người có mối quan hệ gắn bó không thể tách rời, thể hiện qua một số khía cạnh sau. 1.2.2.1. Quyền con người tạo động lực cho sự phát triển của Hiến pháp Từ lịch sử phát triển của quyền con người, có thể thấy tư tưởng về quyền con người gắn với những quyền tự nhiên vốn có của con người. Trong Bộ luật Hammurabi (1810 – 1750 TCN); Hiến chương Magna Carta (1251) và Bộ luật về các quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn độc lập (1776) của Hoa Kỳ…Những văn kiện này đều ghi nhận các quyền con người một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp là các quyền tự nhiên Ví dụ, theo Lời nói đầu của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền từ do và
  • 30. 25 mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp khẳng định: “Người ta sinh ra đã tự do và bình đẳng về các quyền…” [15, tr.119]. Như vậy, ở đây các quyền và tự do được coi là những quyền tự nhiên, vốn có của con người, không phải là do nhà nước ban phát cho mới có được. Trong lịch sử pháp điển hóa quyền con người trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới, một cấu phần của Hiến pháp (Đại Hiến chương Magna Carta, Bộ luật về các quyền của nước Anh), hoặc sự ra đời của Hiến pháp ở nhiều quốc gia (Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Pháp) đều phản ánh ảnh hưởng của lý thuyết quyền con người là các quyền tự nhiên. Như vậy, tư tưởng về quyền con người nói chung, các quyền tự nhiên của con người nói riêng có mối liên hệ rõ ràng và trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của Hiến pháp trên thế giới. 1.2.2.2. Quyền con người là những quy định không thể thiếu trong Hiến pháp Mặc dù bản Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới (Hiến pháp Hoa Kỳ 1787), không bao hàm các quy định về quyền con người, nhưng trên thực tế, trước khi bản Hiến pháp này được thông qua, các phe trong Hội nghị lập hiến lúc đó đã đạt được thỏa thuận rằng ngay sau đó Quốc Hội Mỹ sẽ xem xét và thông qua các quy định bổ sung về quyền con người. Kết quả là 10 điều đầu tiên bổ sung Hiến pháp 1787 đã được thông qua, tất cả đều có nội dung về quyền con người, gọi là Bộ luật về quyền của nước Mỹ Ở châu Âu cùng thời kỳ đó, chỉ trong vòng 35 năm (từ năm 1795 đến 1830), hơn 70 bản Hiến pháp của các quốc gia trong chấu lục đã được thông qua. Tất cả đều quy định các quyền con người như đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 của nước Pháp và Bộ luật nhân quyền của nước Mỹ [13, tr.286].
  • 31. 26 Như vậy, quyền con người, quyền công dân trở thành một cấu thành quan trọng, một nội dung cơ bản trong các bản Hiến pháp trên thế giới. Một nhà nghiên cứu đã nhận định rằng: “Nếu không có chế định quyền con người, quyền công dân, thì cũng không thể có bản thân Hiến pháp…” [11, tr.148] Từ khi Luật nhân quyền quốc tế ra đời cùng với Liên Hợp Quốc thì thực tế trong các bản Hiến pháp của các quốc gia đã ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, và đây là chế định không thể thiếu trong Hiến pháp. 1.2.2.3. Hiến pháp có vai trò bảo vệ quyền con người Các quyền con người không phải là quà tặng của thượng đế, hay sự ban phát của Nhà nước mà là kết quả lao động và đấu tranh của bản thân quần chúng lao động. Do vậy, các quyền con người phải được ghi nhận, khẳng định trong pháp luật, và phải được bắt đầu từ Hiến pháp, bởi ở mọi quốc gia trên thế giới, Hiến pháp đều được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nền tảng để xây dựng các đạo luật thông thường khác. Khi Hiến pháp có những quy định về quyền con người, thì chính là điều kiện để các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ, là điều kiện để cụ thể hóa các chế đinh, quy phạm Hiến pháp về quyền con người Hiện nay, hầu hết các quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế đã được ghi nhận trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới, tuy với mức độ khác nhau. Như vậy với hiệu lực tối cao của nó, Hiến pháp đang đóng vai trò là công cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người ở các quốc gia. Nếu như các quyền dân chủ, các quyền dân sự, chính trị luôn được đề cập đầu tiên trong Hiến pháp các quốc gia ví dụ như quyền bầu cử, ứng cứ là điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền làm chủ của người dân thì nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cũng là nhóm quyền không thể thiếu trong Hiến pháp và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau… vì nếu các quyền kinh tế, văn hóa, xã
  • 32. 27 hội có liên quan như quyền giáo dục, chăm sóc sức khỏe, y tế không được đảm bảo thì các quyền ứng cử, bầu cử ít có ý nghĩa với những người mù chữ, những người nghèo khổ, ngược lại việc bảo đảm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội đều gắn liền với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội là yếu tố nền tảng thúc đẩy các điều kiện sống về kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi người dân. Hiến pháp bảo vệ quyền kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua các hình thức sau: Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước, mọi người dân phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp. Vì vậy, ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp đồng nghĩa với việc buộc các cơ quan nhà nước, mọi cá nhân, công dân đều phải tuân thủ và thực hiện Cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp trong tất cả quá trình từ thành lập, tổ chức hoạt động đến thực thi các chức năng do Hiến pháp trao cho trên cơ sở nhân dân làm chủ. Hiến pháp là căn cứ để nhà nước ban hành các đạo luật cụ thể với mục đích bảo vệ tối đa các quyền con người. Thứ hai, Hiến pháp quy định sự chế ước quyền lực giữ các cơ quan nhà nước, chống lại sự tùy tiện của nhà nước trong khi thực hiện chức năng của mình, bảo vệ quyền lợi nhân dân Thứ ba, Hiến pháp là căn cứ viện dẫn trước tòa án khi có các hành vi vi phạm các quyền được Hiến pháp công nhận. Thứ tư, Hiến pháp đặt ra cơ chế bảo hiến làm căn cứ đánh giá tính hợp hiến của các đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, việc bảo vệ Hiến pháp nhằm mục đích bảo đảm tính toàn vẹn và tối cao của các giá trị, nguyên tắc, quy định của Hiến
  • 33. 28 pháp; chống lại sự vi phạm từ bất kỳ chủ thể nào. Tất cả những sự diễn giải trái với tinh thần và nguyên tắc của Hiến pháp sẽ bị đình chỉ và bãi bỏ bởi Tòa án hoặc một cơ quan chuyên trách thực hiện. Vì vậy, các giá trị, tinh thần và quy định của Hiến pháp sẽ được giữ nguyên vẹn, quyền của người dân sẽ không bị xâm phạm.
  • 34. 29 Chương 2 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUYỀN KINH TẾ , VĂN HÓA, XÃ HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp trước Hiến pháp 2013 2.1.1. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1946 Năm 1945 là thời điểm đánh dấu một bước ngoặt trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến phương Bắc, đem lại độc lập, chủ quyền cho đất nước, đem lại tự do và các quyền con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam Một năm sau, Hiến pháp 1946 ra đời là Hiến pháp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Hiến pháp dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp ở buổi đầu của cách mạng, quan hệ đến sự mất, còn của chính quyền nhân dân non trẻ; giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng một lúc đe dọa nền độc lập dân tộc mới giành lại được, Hiên pháp năm 1946 thực sự là công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng và thực hiện quyền lực nhân dân trên nền tảng dân chủ. Hiến pháp năm 1946 là cơ sở cho việc ghi nhận và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người dân Việt Nam được Hiến pháp xác nhận có tư cách công dân của một nhà nước độc lập, có chủ quyền và các quyền con người được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm thực hiện, trở thành các quyền cơ bản của công dân.
  • 35. 30 Hiến pháp ngày 9/11/1946 (gồm Lời nói đầu, bảy chương, 70 điều). Quán triệt ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp là đoàn kết toàn dân, bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và gián tiếp của nhân dân. Trong bảy chương thì chương về quyền và nghĩa vụ của công dân được xếp thứ hai sau chương về chính thể (Chương II) với tiêu đề “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”. Trong Chương II, Hiến pháp năm 1946 dành 16 điều (các điều 4-18, 20, 21) quy định bốn nguyên tắc chung của quyền con người, 27 quyền của công dân về chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội và bốn nghĩa vụ của công dân. Nét nổi bật của những quy định trong Hiến pháp năm 1946 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam là các quy định này chỉ được tập trung trong Chương II. Bốn nguyên tắc chung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam được thể hiện trong bốn điều (các Điều 6, 7, 8, 16) của Hiến pháp năm 1946, gồm: “Mọi công dân đều ngang quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa” [23, Điều 6]; “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” [23, Điều 7]; “công dân thuộc dân tộc thiểu số được Nhà nước và xã hội giúp đỡ về mọi mặt để đạt trình độ chung của xã hội” [23, Điều 8]; “người nước ngoài đấu tranh vì dân chủ và tự do mà bị bức hại thì được Nhà nước Việt Nam cho cư trú tại Việt Nam” [23, Điều 16]. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận các quyền cụ thể của công dân trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử nước nhà vừa mới giành được độc lập, có hơn 90 % dân số mù chữ, bởi vậy, diệt giặc dốt là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và toàn dân, cho nên Hiến pháp năm 1946 chỉ quy định một quyền văn hóa nói chung của cá nhân – đó là quyền học tập Hiến pháp năm 1946 dành bốn điều (các Điều 8, 9, 13, 14) quy định
  • 36. 31 bảy quyền kinh tế, xã hội của công dân, trong đó một quyền dành cho mọi công dân là bình đẳng nam, nữ về mọi phương diện ; sáu quyền cho công dân có đặc điểm, hoàn cảnh riêng: công dân thuộc dân tộc thiểu số; trí thức, người lao động chân tay, người già không làm được việc , người tàn tật không làm được việc, trẻ em . Từ những quy định trong Hiến pháp 1946 có thể rút ra nhận xét sau đây Các quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam, thể hiện chính sách của nhà nước Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam; kết hợp hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của công dân, giữa lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích chính đáng của tập thể và của xã hội trong điều kiện nước nhà vừa mới độc lập, lại đang chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống sự xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Các quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam là cơ sở pháp lý đầu tiên để Nhà nước và xã hội tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trong các giai đoạn tiếp theo của cách mạng. Có thể nói xét về kỹ thuật lập hiến, cách thức quy định trong Hiến pháp là ngắn gọn, khúc triết và có tính hàm xúc hay tính mở cho việc thể chế hóa thành luật. Chẳng hạn như: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền”… [31]. Việc những giá trị quyền con người nói chung, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng được long trọng ghi nhận trong Hiến pháp 1946, vào thời điểm chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ đang phải đối mặt với các nguy cơ, những mối đe dọa nghiêm trọng từ “thù trong, giặc ngoài” cho thấy sự quan tâm tiến bộ đặc biệt của Nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực này.
  • 37. 32 Chế định quyền công dân trong Hiến pháp 1946 thực sự đã thể hiện nội dung cốt lõi trong Hiến pháp của một nhà nước dân chủ kiểu mới ở Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lập hiến và lập pháp về quyền con người ở Việt Nam trong các giai đoạn sau này. Trong thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp (1946 -1954), mặc dù những tư tưởng và quy phạm pháp lý tiến bộ về quyền con người, trong đó bao gồm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.Tuy nhiên, do đất nước đối mặt với những khó khăn, gian khổ trong cuộc chiến tranh để bảo bệ độc lập, tự do cho dân tộc, cũng như bảo vệ phẩm giá cho con người, nên việc bảo đảm các quyền con người nói chung, cũng như các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng còn tương đối hạn chế. 2.1.2. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1959 Sau khi giành độc lập không lâu, thì toàn dân tộc đã phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc. Chín năm kháng chiến trường kỳ (1946 -1954) cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1954 đã mở ra thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đồng thời tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Hiến pháp 1959 được thông qua thay thế cho Hiến pháp 1946 để đáp ứng nhiệm vụ chính trị này. Về mặt hình thức, Hiến pháp năm 1959 có hai điểm khác so với Hiến pháp năm 1946 là sử dụng cụm từ “quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đặt tên cho Chương III và các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được chứa được chứa đựng trong nhiều chương chứ không phải chỉ tập trung ở Chương III. Như vậy, Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ “cơ bản” của công dân chứ không quy định tất cả các quyền và nghĩa vụ của công dân; quyền con người
  • 38. 33 được ghi nhận thành quyền công dân nhiều hơn, phong phú hơn so với Hiến pháp năm 1946 và theo đó, nghĩa vụ của công dân cũng tăng lên nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền và nghĩa vụ của công dân đi đôi với nhau. Hiến pháp năm 1959 quy định về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như sau: Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1959 dành năm điều (các Điều 11, 14, 15, 16, 30) quy định bảy quyền kinh tế của công dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, khi miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó xây dựng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng hàng đầu. Hiến pháp năm 1959 quy định quyền làm việc tại Điều 30. Bên cạnh đó, tại các Điều 11, 14, 15, 16, Hiến pháp năm 1959 còn quy định năm quyền kinh tế của công dân thuộc các giai cấp và tầng lớp lao động khác nhau – đó là: “Quyền sở hữu của người làm nghề thủ công và người lao động riêng lẻ khác đối với tư liệu sản xuất” [24, Điều 11]; “Quyền của nông dân được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác” [24, Điều 14], “Quyền của người làm nghề thủ công và người lao động riêng lẻ khác được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất” [24, Điều 15], “Quyền của nhà tư sản dân tộc được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất và của cái khác” [24, Điều 16]. Đối với quyền kinh tế của nhóm (tập thể) công dân thì Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định “quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất của hợp tác xã” [24, Điều 11]. Về quyền văn hóa, Hiến pháp năm 1959 mở rộng các quyền này của công dân bằng những quy định về các quyền mới ngoài quyền học tập đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959 dành ba điều (các Điều 3, 33, 34) quy định sáu quyền văn hóa của công dân (năm quyền dành cho mọi cá nhân công dân và một quyền của cộng đồng công dân).
  • 39. 34 Năm quyền văn hóa của mọi cá nhân công dân là: quyền về học tập, sáng tác văn học, sáng tác nghệ thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác, nghiên cứu khoa học. Một quyền của cộng đồng công dân được quy định tại Điều 3 là: “quyền của các dân tộc được duy trì hoặc sửa đổi các phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc” [24, Điều 3]. Về quyền xã hội, Hiến pháp năm 1959 dành các Điều 24, 31, 32, 35 quy định 12 quyền xã hội của công dân, có hai quyền – trong đó có một quyền mới đó là: “bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” [24, Điều 24]. Tại bốn điều, Hiến pháp năm 1959 quy định 10 quyền cho những chủ thể là cá nhân công dân ở vào những hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có tám quyền mới, gồm: “Nữ công nhân được hưởng chế độ thai sản, nữ viên chức được hưởng chế độ thai sản, người mẹ sinh con và nuôi con nhỏ được Nhà nước bảo hộ, trẻ em được Nhà nước bảo hộ”[24, Điều 24]; “công nhân viên chức được nghỉ ngơi,người lao động khi già yếu được nhà nước giúp đỡ về vật chất” [24, Điều 31]; “người lao động ốm đau được nhà nước giúp đỡ về vật chất, người lao động mất sức được Nhà nước giúp đỡ về vật chất” [24, Điều 32]; “thanh niên được Nhà nước chăm sóc, giáo dục” [24, Điều 35]. Từ những trình bày ở trên về các quy định Hiến pháp năm 1959 về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội có thể rút ra nhận xét sau đây Thứ nhất, có sự kết hợp hài hoà giữa kế thừa và phát triển, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1946 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Điều đó thể hiện tính liên tục và nhất quán trong chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
  • 40. 35 Thứ hai, so với Hiến pháp 1946 số lượng các quyền con người trong Hiến pháp 1959 đều tăng lên đáng kể, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Sự gia tăng này vừa phản ánh thái độ của Nhà nước luôn tôn trọng quyền con người nói chung và các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng, nhắm kết hợp mở rộng quyền của công dân, quyền con người với việc nâng cao nghĩa vụ của công dân, vừa thể hiện bước phát triển mới của xã hội Việt Nam khi bước vào xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Thứ ba, một điểm mới đáng chú ý trong Hiến pháp năm 1959 là trong 22 Điều quy định các quyền công dân thì có tới 16 Điều (các Điều 14, 15, 16, 18,19, 24,25,27, 28, 29, 30, 31,32,33,34, 35) quy định những bảo đảm của Nhà nước. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật lập hiến mà quan trọng hơn là sự nhận thức đúng đắn và thái độ quan tâm của Nhà nước đối với quyền con người và quyền công dân trong một nước vừa mới giành độc lập, tự do. Với việc mở rộng các quyền công dân mà phần lớn các quyền được mở rộng là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, tiêu biểu như: quyền được ưu tiên đối với bè mẹ, trẻ em; quyền được làm việc cải thiện điều kiện làm việc và lương bổng; quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao độn; quyền học tập; quyền được tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác.... Tuy vậy, do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, một số quyền trên chỉ được đảm bảo ở mức độ nhất định, về cơ bản, việc bảo đảm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ở thời kỳ này chủ yếu mới đạt về số lượng, chưa đạt về chất lượng. 2.1.3. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1980 Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), Việt Nam bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Trong
  • 41. 36 bối cảnh một quốc gia vừa thoát khỏi chiến tranh, Đảng và Nhà nước đã đặt ưu tiên cho việc phát triển kinh tế, xã hội và cả thiện đời sống người dân. Với quan điểm như vậy, cùng với ảnh hưởng của pháp luật ở các nước xã hội chủ nghĩa, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục được đề cao, được ghi nhận qua sự ra đời của Hiến pháp 1980. Một trong những đặc điểm quan trọng của Hiến pháp năm 1980 khi ghi nhận quyền con người và xác lập quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam là các quy định đó nằm rải rác từ các chương I đến Chương V. Hiến pháp năm 1980 quy định các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như sau: Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1980 quy định hai quyền mới so với Hiến pháp 1959 tại các Điều 3, Điều 58, đó là quyền làm chủ về kinh tế tại Điều 3, lao động có việc làm tại Điều 58. Hiến pháp năm 1980 quy định bốn quyền nữa của công dân đó là quyền của cá nhân đang sử dụng đất tiếp tục được sử dụng đất và hưởng kết quả lao động của mình , quyền làm chủ tập thể của xã viên trong việc quản lí hợp tác xã , quyền sở hữu của người lao động riêng lẻ những công cụ sản xuất được phép khi được lao động riêng lẻ và được Nhà nước bảo hộ quyền này. Đặc biệt, Hiến pháp 1980 quy định sáu quyền kinh tế mới của nhóm (tập thể) công dân đó là: quyền của công dân làm chủ kinh tế, quyền của tập thể lao động tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế; quyền của nhân dân làm chủ tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất, phân phối; quyền của tập thể đang sử dụng đất, quyền của hợp tác xã và các tổ chức tập thể khác được sở hữu tư liệu sản xuất và các tài sản khác và được Nhà nước bảo vệ quyền này. Về quyền văn hóa, Hiến pháp năm 1980 giữ nguyên sáu quyền văn hóa của công dân mà Hiến pháp năm 1959 đã quy định và bổ sung một quyền mới (các Điều 5, 60, 72). Sáu quyền văn hóa dành cho mọi cá nhân công dân đó là: “quyền về học tập” [25, Điều 60], “sáng tác văn học, sáng tác nghệ
  • 42. 37 thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu kỹ thuật” [25, Điều 72]. Một quyền văn hóa dành cho cộng đồng công dân là “quyền của các dân tộc được dùng tiếng nói, chữ viết, phát huy các phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình”[25, Điều 5]. Về quyền xã hội, Hiến pháp năm 1980 quy định năm quyền xã hội tại các Điều 59, 61, 62, 63, 64 cho mọi cá nhân công dân gồm: nghỉ ngơi của người lao động, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền có nhà ở, bình đẳng nam, nữ , và quyền được Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Đối với quyền xã hội của những cá nhân công dân trong những hoàn cảnh đặc biệt, yếu thế, dễ bị tổn thương, trong đó có các quyền: “Hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đôi với viên chức” [25, Điều 59], “Nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương đối với nữ công nhân, viên chức; phụ nữ được hưởng phụ cấp sinh đẻ đối với xã viên hợp tác xã” [25, Điều 63]; “Được Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đối với trẻ em” [25, Điều 65]; “Được Nhà nước và xã hội giúp đỡ, quan tâm, giáo dục đối với thanh niên” [25, Điều 66]; Được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với thương binh; được hưởng chế độ khen thưởng và chăm sóc đối với người có công với cách mạng; được Nhà nước và xã hội giúp đỡ đối với người già; được nhà nước và xã hội giúp đỡ đối với người tàn tật; được nhà nước và xã hội nuôi dạy đối với trẻ mồ côi [25, Điều 74]. Đối với quyền xã hội của những nhóm (tập thể) cá nhân công dân trong những hoàn cảnh đặc biệt, có: “quyền của gia đình liệt sĩ được hưởng chính
  • 43. 38 sách ưu đãi của Nhà nước, quyền của gia đình có công với cách mạng được hưởng chế độ khen thưởng và chăm sóc của Nhà nước” [25, Điều 74]. Từ những quy định trên có thể rút ra một số nhận xét sau Có thể thấy Hiến pháp 1980 đã kế thừa và phát triển ở trình độ khá cao các Hiến pháp trước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam trong bối cảnh cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế “Sự mở rộng các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong bản Hiến pháp đã nâng hệ thống pháp luật Việt Nam lên một tầm cao mới, thuộc vào dạng tiến bộ bậc nhất thế giới về mặt pháp điển hóa nhóm quyền này” [34, tr.73]. Tuy nhiên, việc mở rộng các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, đây là nhóm quyền đòi hỏi nguồn lực vật chất lớn trong việc bảo đảm thực hiện quyền, trong khi đó đất nước chưa có sự chuẩn bị đầy đủ thích đáng các tiền đề cho việc thực hiện chúng. Đây là một biển hiện sai lầm theo kiểu chủ quan duy ý chí mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã mắc phải sau chiến tranh. Chính sai lầm này đã dẫn đến hậu quả tương tự như giai đoạn 1945 -1975 là việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong giai đoạn này chỉ đạt về số lượng, chứ chưa đạt về chất lượng. Ví dụ Điều 61, Hiến pháp 1980 quy định: “Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe. Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền” [25, Điều 61]. Như vậy, có nghĩa là mọi người dân đều có quyền chăm sóc sức khỏe miễn phí, tuy nhiên trong điều kiện đất nước thời kỳ đó, thuốc men và trang thiết bị y tế rất nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn nên các bệnh viện đều quá tải về số bệnh nhân, chất lượng điều trị thì rất thấp. 2.1.4. Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Hiến pháp 1992 Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xây dựng
  • 44. 39 một nhà nước dân chủ, vững mạnh. Cũng trong giai đoạn này Việt Nam thể hiện quyết tâm xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà một trong những tiêu chí của mô hình này là đề cao và bảo đảm các quyền con người. Với tư cách là thành viên của nhiều điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia từ đầu thập kỷ 1980, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc nội luật hóa các nội dung của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia. Điều này được thể hiện tập trung trong Hiến pháp 1992. Lần đầu tiên kể từ năm 1945, Hiến pháp 1992 đề cập cụ thể đến khái niệm quyền con người: “Ở nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” [26, Điều 50]. Mặc dù quy định này còn gây ít nhiều tranh cãi bởi nó đồng nhất giữa quyền con người và quyền công dân, song việc đề cập cụ thể đến khái niệm quyền con người có thể coi là một bước tiến rất lớn trong lịch sử lập hiến của Việt Nam. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, điều này ít nhất mang hai ý nghĩa cơ bản: Thứ nhất, đối với cộng đồng quốc tế, đây như một tuyên bố rõ ràng Việt Nam có nhân quyền. Thứ hai, đối với nhân dân trong nước, quy định này có tác dụng ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phải bảo đảm cho nhân quyền được thực hiện trên thực tế [4]. Với nguyên tắc “tôn trọng các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội” đề ra trong Điều 50. Hiến pháp năm 1992 quy định các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như sau Về quyền kinh tế, Hiến pháp năm 1992 dành tám điều (các Điều 3, 16, 18, 20, 28, 55, 57, 58) quy định 14 quyền kinh tế của công dân (có 12 quyền mới). Các quy định này phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
  • 45. 40 nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, Đối với mọi cá nhân công dân, có các quyền sau: “Được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [26, Điều 16]; “được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật” [26, Điều 18]; “chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh; thành lập doanh nghiệp” [26, Điều 20]; “quyền lao động” [26, Điều 55]; “quyền tự do kinh doanh” [26, Điều 57]; “sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và được Nhà nước bảo hộ quyền này; sở hữu tư nhân đối với vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và được Nhà nước bảo hộ quyền này” [26, Điều 58]. Đối với cá nhân, công dân mang tư cách nhất định, có “quyền của người sản xuất được Nhà nước bảo hộ quyền lợi và quyền của người tiêu dùng được Nhà nước bảo hộ quyền lợi” [26, Điều 28]. Về các nhóm (tập thể) công dân, có: “quyền của nhân dân làm chủ về kinh tế” [26, Điều 3] và “tổ chức thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” [26, Điều 16]. Về quyền văn hóa, Các quy định về quyền văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ của công dân. Hiến pháp 1992 tiếp tục quy định 11 quyền của công dân về văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, trong bảy quyền đã được quy định trong Hiến pháp năm 1980, bốn quyền mới được bổ sung tại bốn điều (các Điều 5, 32, 59, 60). Đối với mọi cá nhân, công dân nói chung, Hiến pháp năm 1992 quy định các quyền: “quyền về học tập” [26, Điều 59]; “nghiên cứu khoa học, nghiên cứu kỹ thuật; phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý