SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------------
PHẠM THỊ TUẤN
CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung
thực. Các kết quả trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ
Phạm Thị Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ
ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................ 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình................. 7
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình......................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình .................................14
1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định về các tội
xâm phạm chế độ gia đình ..............................................................................15
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945....................................................................15
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 cho đến trước năm 1985 ..........................17
1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới....................................................................26
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
.........................................................................................................................32
2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình và
đường lối xử lý hình sự ...................................................................................32
2.1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999)..........32
2.1.2. Tội loạn luân (Điều 150 BLHS 1999)..................................................42
2.1.3. Tội ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, người có
công nuôi dưỡng mình (Điều 151 BLHS 1999) ..............................................48
2.1.4. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS
1999) ...............................................................................................................54
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 trong xét
xử các tội xâm phạm chế độ gia đình..............................................................60
2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình và
nguyên nhân ....................................................................................................68
2.3.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật về các tội xâm phạm chế
độ gia đình.......................................................................................................68
2.3.2. Những hạn chế trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội
xâm phạm chế độ gia đình ..............................................................................74
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ
CÁC TỘI PHẠM NÀY.................................................................................78
3.1. Quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về các tội xâm phạm chế độ
gia đình và nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này ...78
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về các tội xâm phạm chế độ gia đình..............................................................80
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm
phạm chế độ gia đình ......................................................................................88
3.3.1 Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra .............................88
3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ......................90
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ....................................93
KẾT LUẬN....................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................98
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
HNVGĐ : Hôn nhân và gia đình
NXB : Nhà xuất bản
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKS : Viện kiểm sát
TNHS : Trách nhiệm hình sự
CTTP : Cấu thành tội phạm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình được
xét xử sơ thẩm .................................................................................................61
Bảng 2.2 Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong tổng số vụ án
về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình .........................................62
Bảng 2.3: Số vụ án, bị cáo về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, được
xét xử sơ thẩm .................................................................................................63
Bảng 2.4: Số vụ án, bị cáo về tội loạn luân, được xét xử sơ thẩm..................64
Bảng 2.5: Số vụ án, bị cáo về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, được xét xử sơ thẩm.....65
Bảng 2.6. Kết quả xét xử các vụ án về các tội xâm phạm chế độ gia đình.....67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã
hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã
thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia
đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện rất rõ trong các Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt.
Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và
xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và
tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như BLHS
năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần
ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ
phong kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng,
diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả
trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ không có xu hướng gia tăng, nhưng tính chất và mức độ ngày càng
nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội. Trong các tội xâm phạm chế độ
2
HN&GĐ thì các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định tại Chương XV
BLHS là các tội thường xuyên xảy ra nhất các tội này bao gồm các Điều 147,
150, 151, 152 BLHS năm 1999.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
gia đình nói chung và đặc biệt là các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng
cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xã hội
không cao, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế,
các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài hình sự
còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ gia đình cũng đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên
cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm các tội xâm
phạm chế độ gia đình, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp
luật hình sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều
ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ gia đình
theo luật hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về lý luận,
mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm
cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Có thể kể đến một số công trình như: Bùi Anh Dũng đã có công trình "Tìm
hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; Tác giả Trịnh
Tiến Việt đã có các công trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy
định tại chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật
hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong
3
Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình
trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn
Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập
chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn
Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia
đình và các tội đối với người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác
giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2000...
Như vậy, có thể thấy các công trình nói trên đã đề cập đến các khía
cạnh khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các
tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng, nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ
pháp lý hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận quy định về các tội xâm
phạm chế độ gia đình và thực tiễn áp dụng các quy định về các tội phạm này
trên thực tiễn để đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện
các quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự; phân tích các quy định
của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này.
4
- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về các tội
xâm phạm chế độ gia đình và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống cũng như áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định
trong các điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình dưới góc độ pháp
lý hình sự ở Việt Nam, thời gian từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm
học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học...
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
các tội xâm phạm chế độ gia đình, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ gia đình.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống,
phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác
như so sánh, điều tra xã hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
5
thống về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Có thể xem những nội dung sau
đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ
gia đình; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này
trong pháp luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia
đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá
trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp
được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ gia đình ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm
phạm chế độ gia đình ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến
nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý
luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh phòng, chống
nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự,
tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan
Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
6
Chương 1: Một số vấn đề về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong
Luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong BLHS
và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số kiến nghi ̣, giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ
luâ ̣t hình sự năm 1999 về các tô ̣i xâm pha ̣m chế đô ̣gia đình và nâng cao chất
lượng xét xử các tội pha ̣m này.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA
ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói
chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng trước hết cần làm sáng tỏ
khái niệm HN&GĐ.
Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các
nhà triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết
hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ
là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và
tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ.
Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và
người phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được
biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ
chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của
nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn
nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể
nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất
ra giống nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan
hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được
xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có
thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó.
8
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện
vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có
chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân
phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản, còn xã hội XHCN có
chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người thuộc giai
cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc
giai cấp thống trị.
Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự
nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa
người đàn ông và người phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau,
bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa
mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -16].
Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ
trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, chế độ gia đình được hiểu là tổng thể các quy định của pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ gia đình.
Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là
sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự
liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia
đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù
hợp với hình thái đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình
9
của các chế độ xã hội trước đó. Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa
vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ
trong xã hội.
Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ
lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới
sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ để từ đó có thể đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình.
Bởi lẽ khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó
phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm,
phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện
khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý:
tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là
hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một
cách có lỗi [30, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái
niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây
thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa.
Sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của
các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].
10
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành
vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam" [57, tr. 405].
Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra
khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau: Các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật
hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN.
Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh
của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách
nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ
Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều
chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên
khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản,
quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân
hay tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo
vệ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
thông qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó như: tội vi
phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng...
Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định
tại chương XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các
tội cụ thể sau: tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự
nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147);
tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái
11
pháp luật (Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngược đãi ông bà, cha mẹ,
vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều
151); tội từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng (Điều 152).
Từ những phân tích trên về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong
luật hình sự Việt Nam cũng như những phân tích ở đặc điểm của chế độ gia
đình chúng ta có thể hiểu các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự
Việt Nam như sau: Các tội xâm phạm chế độ gia đình là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ gia đình
Việt Nam XHCN được bảo hộ bằng các quy định của Bộ luật hình sự.
Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt
khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận
thức một cách sâu sắc nội dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình,
cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói trên.
Trước hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ gia
đình là một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội xâm
phạm chế độ gia đình, bởi nó là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ,
bị các hành vi phạm tội xâm hại.
Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản thiết
lập chế độ gia đình mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam, các
nguyên tắc này là: hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng
bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo,
giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo vệ; vợ chồng có
nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có
12
nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn
kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng
dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở,
nền tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách thể của tội phạm đều
có thể bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính nhưng
không có hiệu quả.
Nếu như khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì
việc gây nên những thiệt hại đó bao giờ cũng được thực hiện bởi hành vi cụ
thể tác động vào đối tượng bị tác động làm thay đổi trạng thái bình thường
của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó có thể được thực hiện bằng hành động
hoặc không hành động, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau để gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về
hình thức thể hiện, nhưng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại trực tiếp cho các quan hệ HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức
thể hiện của hành vi khách quan có thể là:
- Hành vi vi phạm nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ
đối với con cái và ngược lại.
- Hành vi quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình với nhau.
- Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (mặc
dù đang có vợ có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người mà
mình kết hôn hoặc sống chung đang có vợ, có chồng)...
Các hành vi khách quan này, nhìn chung được thực hiện bằng hình
thức hành động. Các tội phạm này có thể được thực hiện bằng nhiều thủ
đoạn khác nhau, nhưng nó chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu được quy định cụ
thể trong từng CTTP.
13
Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị
xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều 147,
Điều 151 và Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt
hành chính hoặc xử lý kỷ luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu
khác được mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm được hiểu là trước đó đã có lần vi phạm, đã bị các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính như cảnh
cáo, phạt tiền nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính
mà lại có vi phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi
được liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt hành
chính chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy
ra sau thời hạn một năm kể từ ngày bị xử phạt, thì không được coi là một
trong những dấu hiệu để truy cứu TNHS.
Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi những con người cụ thể, bởi
vì chỉ có con người cụ thể mới có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong luật hình sự, mới thể hiện được yếu tố lỗi, chịu
trách nhiệm cá nhân, cũng như có thể gánh chịu các biện pháp trừng trị, giáo
dục, cải tạo mà Nhà nước quy định. Chủ thể của các tội xâm phạm chế độ gia
đình phải là những con người cụ thể đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có
năng lực TNHS.
Ngoài ra, có những tội phạm đòi hỏi chủ thể, ngoài những dấu hiệu của
chủ thể thường, phải có thêm những dấu hiệu đặc biệt khác. Điều đó có nghĩa,
nếu thiếu các dấu hiệu đặc biệt đó thì không thể trở thành chủ thể của những
tội phạm cụ thể đó. Ví dụ, chủ thể của các tội: tội loạn luân, hay tội ngược đãi
hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình phải là chủ thể đặc biệt.
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái
tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành
14
vi đó gây ra. Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao gồm dấu
hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích... Tất cả các tội xâm phạm chế
độ gia đình đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa,
những chủ thể của các tội phạm này khi thực hiện hành vi xâm phạm những
quan hệ HN&GĐ XHCN đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu
quả đó xảy ra.
Nhìn chung, tất cả các tội xâm phạm chế độ gia đình đều không có cấu
thành giảm nhẹ và chỉ duy nhất tội xâm phạm chế độ một vợ một chồng có
cấu thành tăng nặng. Ngoài hình phạt chính được áp dụng đối với loại tội này
thì đa phần là không có hình phạt bổ sung (trừ tội đăng ký kết hôn trái pháp
luật). Một điểm đặc trưng của nhóm tội này là mức hình phạt được quy định
không cao với các chế tài lựa chọn mà cụ thể là mức hình phạt tối đa ở hầu
hết các tội chỉ đến ba năm tù (chỉ có tội loạn luân có mức hình phạt tù có thời
hạn tối đa là năm năm).
1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình
Các tội xâm phạm chế độ gia đình có đối tượng đặc biệt là các quan hệ
gia đình được pháp luật XHCN bảo vệ. Xuất phát từ tính chất đặc biệt đó, các
tội xâm phạm chế độ gia đình có những đặc điểm sau.
Thứ nhất, các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại Chương XV của BLHS năm
1999 phần lớn là các tội có tính chất ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Mức
hình phạt đối với các tội phạm này chủ yếu là cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ, hoặc phạt tù không quá ba năm. Như vậy, ta có thể thấy chính sách hình
sự nhất quán của Nhà nước ta đối với các tội phạm này chủ yếu vẫn là tuyên
truyền, giáo dục để mọi người tôn trọng và chấp hành đúng chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước về chế độ HN&GĐ không thực hiện những hành
15
vi mà pháp luật cấm. Khi đã nhắc nhở, giáo dục mà vẫn tiếp tục thực hiện thì
mới xử lý bằng biện pháp hình sự, tuy nhiên cũng chỉ xử lý mang tính răn đe.
Thứ hai, các tội xâm phạm chế độ gia đình xảy ra không phổ biến.
Thứ ba, chủ thể của các tội phạm này là chủ thể đặc biệt.
1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định
về các tội xâm phạm chế độ gia đình
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Hôn nhân và gia đình là một vấn đề hệ trọng đối với con người, gia
đình là nền tảng của xã hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, vấn đề gia đình
luôn luôn là lĩnh vực được Nhà nước rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nước ta - Bộ Hình thư, được
ban hành năm 1042 dưới thời Lý Thái Tông, vấn đề gia đình chiếm giữ một vị
trí quan trọng và được quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trưng chủ yếu
của các quy định này là quyền uy tập trung trong tay người chồng, mà mọi
thành viên có bổn phận phục tùng; người chồng được phép bỏ vợ trong trường
hợp người vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn người vợ sẽ bị trừng phạt
nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị trừng
phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là
trách nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59].
Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và
quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mười tội ác (thập ác) đã được quy định tại
Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến chế độ hôn nhân và gia đình, đó là
các tội:
4. Ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, thím, cô,
anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng...
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo,
nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc
16
như thường; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không cử ai (tang lễ); nói dối
là ông bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ phải để tang 3
tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu công
trở lên...
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại nhiệm,
giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn mặc
như thường, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chương hộ hôn (hôn
nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những
trường hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là các
trường hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới
vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng... Ví dụ: Điều
317 quy định: "Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy
chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử
biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này
còn có một số quy định thể hiện tư tưởng phong kiến coi khinh nghề hát xướng
như quy định tại Điều 323: "Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát
xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan
viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng; về đều phải ly dị"
[36, tr. 123].
Dưới thời thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong
kiến vẫn duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa
nhận sự cưỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ
(đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Điều
thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Người vợ hay vợ lẽ
17
hiện đương có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt giam
từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mươi đồng đến bốn trăm đồng,
người gian phu bị phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn
quy định:
Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng, chưa tuyên cáo sự ly hôn, mà
đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm năm và phạt bạc từ
năm đồng đến hai trăm đồng.
Người có vợ chưa tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác, phải phạt
giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến một trăm đồng
[55, tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội
phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ
luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một người đàn bà đã có chồng rồi
mà còn ân tình với một người đàn ông khác, còn đối với đàn ông có vợ thì
hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 cho đến trước năm 1985
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non
trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Trong tình hình đó, nhân dân
ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt
giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng
đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến
năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng
chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật
kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Nhà nước ta vẫn rất quan tâm xây
dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới tiến bộ, từng bước xóa bỏ những quy
định khắt khe của chế độ thực dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số
97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm
18
liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ
quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nước
ta chưa có quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình cụ thể nào.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ được ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ
đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp
luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm trọng, Trước tình hình
đó, TANDTC đã có Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 hướng dẫn về
xử lý hình sự đối với tám hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ,
đó là các hành vi: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến
bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian,
đánh đập hoặc ngược đãi vợ, đánh đập hoặc ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ.
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi
vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng Tám
thành công. Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã đề cập về từng hành
vi vi phạm trong chế độ gia đình như sau:
Thứ nhất, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông tư hướng dẫn:
Đối với người lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành Luật
HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và chấm dứt. Cá
biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo
hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đã bị xử
phạt cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với người vợ lẽ thì phải
phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã được giáo dục, giải thích mà
vẫn cố tình vi phạm; đã được Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn là bất hợp pháp
mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có tính chất lừa dối cơ
19
quan, đoàn thể, lừa dối vợ trước hoặc vợ sau; gây ảnh hưởng, tác hại xấu, dư
luận phản đối [42, tr. 470].
Thứ hai, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục bất
chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với người khác (dù là người
này đã có hoặc chưa có vợ, có chồng), Thông tư nêu rõ:
Trong tình hình xã hội miền Bắc nước ta hiện nay, không thể coi thông
gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết
nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian là một tội phạm đã xâm phạm đến
quan hệ HN&GĐ được pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến trật
tự xã hội.
Đường lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là: biện pháp
ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần tăng
cường công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xã hội mới, chống những tư
tưởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc do xã hội cũ để lại.
Trong một số ít trường hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp tư pháp để
làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trường hợp cần thiết đó là:
- Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những người vì nhiệm vụ
công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phương xảy ra nhiều vụ
thông gian, làm ảnh hưởng đến tinh thần công tác của người chồng.
- Thông gian có tính chất nghiêm trọng như: thông gian một cách trắng
trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình;
bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể hoặc sự phản đối của gia đình
người chồng, của người vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng căm phẫn đòi
hỏi phải trừng phạt.
- Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như gây ra án
mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm pháp
nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
20
Thứ ba, đối với hành vi đánh đập hoặc ngược đãi vợ, tức là những hành
động của người chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với người vợ, xâm
hại đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của người vợ, Thông tư hướng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thường xuyên quan điểm bình đẳng
và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhưng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ cho
công tác giáo dục trong một số trường hợp cần thiết như:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng như làm chết người,
gây thương tích nặng hoặc thương tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn can
phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác hoặc dùng thủ đoạn
thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngược đãi chưa gây tác hại nghiêm trọng
của những người chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trường
hợp có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử phạt cảnh
cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần thiết [42, tr. 473].
Thứ tư, đối với hành vi đánh đập, ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ,
Thông tư hướng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nước chúng ta đòi
hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ". Tuy nhiên, thỉnh
thoảng còn xảy ra trường hợp con cái ngược đãi, hắt hủi, không nuôi dưỡng
bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô đạo đức của con cái đã làm cho bố
mẹ tự sát. Trong những trường hợp nghiêm trọng trên, cần đưa ra xét xử điển
hình một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dưỡng bố
mẹ già yếu [42, tr. 474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông tư số 332-NCPL
ngày 04-04-1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phương châm, đường lối
chung đối với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp
luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu,
21
kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng
pháp luật HN&GĐ.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1999
Trong giai đoạn từ sau 1975 với việc cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
các quan hệ xã hội ngày càng phát triển, tuy nhiên hệ thống pháp luật chưa
thực sự phát triển theo kịp các quan hệ xã hội. Chính vì vậy trong lĩnh vực
hình sự, việc ban hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp
thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày
27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
VII, đã thông qua BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi
tắt là BLHS 1985).
BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự
Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình
hình tội phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm
xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng
nhất của các tàn tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc hậu
như: cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, vi phạm chế độ
một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngược đãi nghiêm trọng hoặc
hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng, gia đình là thiết chế xã
hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái, nhất là con
chưa thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia
đình, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và
các tội phạm đối với người chưa thành niên vào Chương V của BLHS 1985,
từ Điều 143 đến Điều 149 và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung. Trong
22
BLHS năm 1985 các tội xâm phạm gia đình được quy định tại các điều: Điều
144 tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, Điều 146 tội loạn luân, Điều 147
tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái.
Tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội xâm
phạm chế độ gia đình trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục tuân
thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với
những trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm,
có thể chia các tội phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân bao gồm: tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn,
tội tảo hôn, tội loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao gồm:
tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái.
Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ gia đình đánh dấu
sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong
BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội này
như sau:
Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ gia
đình thường phải có các tình tiết nghiêm trọng như dùng các thủ đoạn thô bạo,
xảo quyệt như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách bằng của cải.
Thứ hai, đối tượng được bảo vệ chủ yếu là người cao tuổi, phụ nữ và
con cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hưởng của tàn dư tư tưởng
phong kiến trọng nam, khinh nữ và gia trưởng xâm phạm.
Thứ ba, mức hình phạt được quy định đối với các tội này không cao:
mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy nhất
tội loạn luân có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Như vậy, theo quy
định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình
đều được coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
23
1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay
Sau năm 1986 nước ta tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện.Trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện BLHS 1985 là một đòi
hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để phục vụ được yêu cầu đề
ra, ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ
họp thứ 6, đã thông qua BLHS (sau đây gọi tắt là BLHS 1999), thay thế cho
BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2000.
Về các tội xâm phạm chế độ gia đình, BLHS 1999 có những điểm mới
cơ bản như sau:
Thứ nhất, Chương XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân gia đình được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chương V
của BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các
tội phạm đối với người chưa thành niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy là
BLHS 1999, đã có điều chỉnh phạm vi của chương này theo hướng thu hẹp lại
chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội phạm đối với người chưa
thành niên, đặc biệt là trẻ em được điều chuyển sang các chương thích hợp khác.
Như vậy, Chương XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152).
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội
phạm, BLHS mới đã bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký kết hôn
trái pháp luật (Điều 149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
(Điều 152).
Trong chương này có một tội duy nhất vẫn được giữ nguyên như quy
định của BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150).
Thứ ba, BLHS 1999 đã bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP)
của một số tội phạm theo hướng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với
các tội này. Trong lĩnh vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục,
24
thuyết phục và hành chính để giải quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những
trường hợp thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, hành chính
tỏ ra không có hiệu quả.
Thứ tư, về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ được quy định tại Điều 146.
Về cơ bản, tội này vẫn được giữ nguyên cấu trúc và hình phạt như quy
định tại Điều 143 BLHS 1985, nhưng có hai điểm mới là:
- Được bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã xử phạt hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối
với tội phạm này. Điều đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại tội
phạm này.
- Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng từ
1 năm theo quy định trước đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS 1999.
Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được quy định tại
Điều 147 BLHS 1999.
Điều luật này được bổ sung, sửa đổi theo hướng bổ sung thêm chủ thể
của tội phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể như sau:
- Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ người nào đang có vợ, có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mới phải
chịu TNHS về tội này. Trên thực tế, không ít trường hợp người chưa có vợ,
chưa có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình
biết rõ là đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi nguy hiểm xâm phạm
chế độ một vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác mà
chưa bị pháp luật trừng trị.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý về
hình sự cả trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
25
- Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử lý
về hình sự đối với tội này. Đó là: - Gây hậu quả nghiêm trọng; - Đã bị xử phạt
hình chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn được quy định tại Điều 148
BLHS 1999
Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn được giữ nguyên như
trước đây, nhưng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "Đã bị xử phạt
hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự.
Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 2 năm.
Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật được quy định tại Điều 149
BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa
và trừng trị những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết
hôn đã biết rõ là người xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng
ký cho người đó. Tinh thần chung là chỉ xử lý về hình sự khi đã áp dụng các
biện pháp hành chính, kỷ luật mà người vi phạm vẫn không chịu sửa chữa lỗi
lầm của mình, tiếp tục vi phạm.
Thứ tám, về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con
cháu, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 BLHS 1999
Tội phạm này cơ bản vẫn được giữ như quy định trước đây, nhưng có
một số điểm bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xã
hội ta còn xảy ra những trường hợp hành hạ, ngược đãi không chỉ giữa cha
mẹ, vợ chồng, con cái mà cả giữa những người thân thích khác trong gia đình
như giữa cháu với ông bà, giữa cháu với cô, chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành
hạ, ngược đãi ngay cả với người đã từng có công nuôi dưỡng mình khôn lớn.
Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm thô bạo đến
đạo đức xã hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình Việt
26
Nam. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những người
là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những người khác trong gia đình
như đã nêu trên thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS 1985 về
tội hành hạ người khác. Đây là điều không hợp lý, vì cũng là một loại hành vi
phạm tội (hành hạ, ngược đãi) do cùng một loại chủ thể thực hiện (những
người thân thích trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối tượng (những
người thân thích khác trong gia đình) nhưng lại bị xử lý ở các điều luật khác
nhau. Vì thế, BLHS 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp như sau:
- Bổ sung thêm đối tượng bị ngược đãi, hành hạ là: ông bà, cháu và
người có công nuôi dưỡng người phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tượng
phải áp dụng theo quy định của điều luật này.
- Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc xử
lý về hình sự đối với hành vi này.
- Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 3 năm.
Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được quy
định tại Điều 152 BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng trị
những người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo pháp luật mà cố tình không thực
hiện nghĩa vụ đó mặc dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó, đã
bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả làm cho người được cấp dưỡng lâm vào
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc những hậu quả nghiêm
trọng khác.
1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên
27
bang Nga, Vương quốc Thụy Điển cho thấy các nước quy định rất khác nhau
về các tội phạm này.
BLHS Nhật Bản quy định ba tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng tại
hai chương khác nhau. Đó là tội lấy hai vợ hoặc hai chồng tại Điều 184,
chương XXII - Các tội khiêu dâm, hiếp dâm và lấy hai vợ hoặc hai chồng:
"Người nào đã có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác thì bị phạt tù có
lao động bắt buộc đến hai năm. Tương tự như vậy áp dụng đối với người kết
hôn với người đã có vợ hoặc có chồng" [7, tr. 48]; tội bỏ mặc người khác
trong trường hợp tăng nặng tại Điều 218 chương - Các tội bỏ mặc người khác:
1. Người nào bỏ mặc người già, trẻ em hoặc người tàn tật hoặc người
ốm mà mình có trách nhiệm bảo vệ hoặc không có sự bảo vệ cần thiết đối với
sự sống còn của người đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
2. Khi tội phạm được thực hiện đối với ông bà của người phạm tội hoặc
vợ (chồng) của người đó, thì hình phạt tù lao động bắt buộc từ 6 tháng đến 7
năm được áp dụng [7, tr. 59].
Tội bỏ mặc người khác gây chết người được quy định tại Điều 219:
"Người nào thực hiện một tội phạm quy định tại Điều 218 trên đây mà gây
chết người hoặc gây thương tích cho người đó, thì có thể bị xử phạt như đối
với tội gây thương tích (Các tội xâm phạm thân thể) nếu hình phạt đối với các
tội đó nặng hơn" [7, tr. 59].
Nghiên cứu các quy định trên cho thấy, so với quy định tương ứng
trong BLHS 1999 của nước ta, BLHS Nhật Bản không có chương riêng về
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, mà quy định các tội này vào các chương
khác nhau; quy định về tội lấy hai vợ hai chồng tương tự như tội vi phạm chế
độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999); những quy định về tội bỏ mặc
người khác trong trường hợp tăng nặng và tội bỏ mặc người khác gây chết
28
người có một số điểm tương tự như tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 BLHS
1999), nhưng phạm vi điều chỉnh hẹp hơn và chế tài được áp dụng cũng khác
so với BLHS của nước ta.
BLHS của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định các tội xâm
phạm chế độ hôn nhân gia đình và phong tục tập quán tại chương VI Phần các
tội phạm, trong đó các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình gồm ba tội:
tội quan hệ tình dục của những người có vợ hoặc có chồng với người khác
(Điều 117), tội không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái, cha, mẹ hoặc
vợ, chồng (Điều 118); tội loạn luân.
Điều 117 quy định: Người nào đã có vợ hoặc chồng nhưng lại quan hệ
tình dục với người khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm
hoặc cải tạo không tước quyền tự do.
Người thông dâm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều này
[5, tr. 36].
So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của
nước ta, cho thấy trong pháp luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, thì hành vi quan hệ tình dục của người đã có vợ hoặc chồng với người
khác (có vợ, chồng hoặc chưa có vợ, chồng) đã cấu thành tội quan hệ tình dục
của những người đã có vợ hoặc có chồng với người khác, mà không cần phải
kết hôn hoặc chung sống như vợ, chồng với người khác như quy định về tội vi
phạm chế độ một vợ, một chồng trong BLHS 1999 của nước ta. Tương tự như
vậy, tội loạn luân trong BLHS của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào được quy
định với phạm vi điều chỉnh rộng hơn (kể cả cha nuôi hoặc mẹ nuôi, con nuôi,
cháu) và người đồng tình thông dâm cũng phải chịu TNHS về tội này nhưng
với mức hình phạt nhẹ hơn. Điều 124 Bộ luật này quy định:
29
Người nào giao cấu với cha hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi, ông
ngoại hoặc bà ngoại, ông nội hoặc bà nội, con đẻ, con nuôi, cháu, anh chị em
ruột thì bị phạt tước quyền tự do từ 6 tháng đến 5 năm.
Người đồng tình thông dâm thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến
1 năm [5, tr. 38].
Điều 118 BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về tội không thực
hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái, cha, mẹ hoặc vợ, chồng quy định: "Người
nào không nuôi dưỡng con cái của mình khi chưa đến tuổi trưởng thành,
không săn sóc bố mẹ khi thiếu thốn, không nuôi vợ hoặc chồng bị tàn tật hoặc
ốm đau theo quyết định của Tòa án thì bị phạt cảnh cáo" [5, tr. 37].
So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của
nước ta cho thấy, pháp luật hình sự quy định rất cụ thể, dễ áp dụng, chỉ cần có
hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với những đối tượng mà mình có
nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án là đã CTTP rồi mà không cần
các điều kiện khác như trong BLHS 1999 của nước ta.
Trong BLHS Liên bang Nga, các tội xâm phạm gia đình và người chưa
thành niên được quy định trong cùng một chương - chương 20. Điều 157 quy
định tội cố ý trốn tránh đóng góp tiền nuôi dưỡng con và cha mẹ không có
khả năng lao động:
1. Cha mẹ cố ý trốn tránh đóng góp tiền nuôi dưỡng con chưa thành
niên, hoặc con đủ 18 tuổi trở lên nhưng không có khả năng lao động theo
quyết định của Tòa án.
Thì bị phạt lao động bắt buộc từ 120 giờ đến 180 giờ hoặc bị phạt lao
động cải tạo đến 1 năm hoặc bị phạt giam đến 3 tháng.
2. Con đã thành niên có khả năng lao động mà cố ý trốn tránh đóng góp
tiền nuôi dưỡng cha mẹ không có khả năng lao động theo quyết định của Tòa án.
30
Thì bị phạt lao động bắt buộc từ 120 giờ đến 180 giờ hoặc bị phạt lao
động cải tạo từ 6 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt giam đến 3 tháng hoặc bị phạt
tù đến 2 năm [2, tr. 90].
Khác với các nước trên, BLHS Vương quốc Thụy Điển dành một chương
riêng - chương 7 về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân - gia đình, gồm 5 điều.
Điều 1 quy định: "Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người
khác hoặc người nào chưa có vợ, có chồng mà kết hôn với người đã có vợ, có
chồng thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến hai năm về tội vi phạm chế độ một vợ
một chồng" [10, tr. 18].
So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của
nước ta cho thấy, quy định trên nghiêm khắc hơn, hành vi kết hôn của người
đang có vợ, có chồng với người khác hoặc hành vi kết hôn của người chưa có
vợ, có chồng với người đã có vợ, có chồng, đã CTTP, mà không cần tình tiết
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm như trong BLHS 1999 của nước ta.
Đáng chú ý, BLHS Vương quốc Thụy Điển còn quy định một số tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ mới mà trong BLHS 1999 của nước ta không có,
đó là các tội xuyên tạc tình trạng gia đình (Điều 3), xuyên tạc tình trạng gia
đình chưa đạt (Điều 5), tội cách ly trẻ em trái phép (Điều 4). Điều 3 quy định:
Người nào giấu giếm, đánh tráo trẻ em hoặc bằng thủ đoạn không
thông báo hoặc thông báo sai cho nhà chức trách làm cho mình hoặc người
khác có được tình trạng gia đình sai sự thật hoặc tước đoạt tình trạng gia đình
hợp pháp của người khác thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 2 năm về tội xuyên
tạc tình trạng gia đình [10, tr. 19].
Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
31
Thứ nhất, những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong
pháp luật hình sự của các nước Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Liên bang Nga, Vương quốc Thụy Điển, rất khác nhau, phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng nước.
Thứ hai, hầu hết các nước (trừ Liên bang Nga) đều có quy định về tội
vi phạm chế độ một vợ, một chồng, điều đó thể hiện các nhà lập pháp các
nước đó đều có quan điểm chống chế độ đa thê, đa phu như các nhà lập pháp
nước ta. Tuy nhiên, do quan niệm về quan hệ tình dục của các nước khác
nhau, chỉ có BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định về tội loạn luân,
còn các nước khác không đề cập tội phạm này.
Thứ ba, tương tự như pháp luật hình sự của Việt Nam, pháp luật hình
sự các nước này đều quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ thuộc nhóm
tội phạm ít nguy hiểm cho xã hội, cho nên hình phạt được áp dụng chủ yếu
thuộc các loại hình phạt không tước tự do.
32
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ
gia đình và đường lối xử lý hình sự
Khi nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của bất kỳ tội phạm
nào chúng ta cũng phải nghiên cứu bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội đó.
Bốn yếu tố cấu thành tội phạm mà khoa học luật hình sự đã nghiên cứu bao
gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Không nằm ngoài
phạm vi trên, nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm
phạm chế độ gia đình chính là việc chỉ rõ bốn yếu tố cấu thành tội phạm của
các tội này.
2.1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999)
* Về các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
Cơ sở để đảm bảo gia đình hạnh phúc là hôn nhân dựa trên tình yêu
chân chính được thể hiện bằng hôn nhân một vợ một chồng. Theo Ăng-ghen
"Xuất phát từ bản chất của tình yêu là không chia sẻ được... nên hôn nhân
dựa trên tình yêu nam nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một
chồng" [1, tr. 131]. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại
Điều 147 BLHS cụ thể như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc
phạt tù từ ba tháng đến một năm.
33
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc
kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế
độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm. [BLHS năm 1999].
So với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã có những thay đổi khi
quy định của tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng khi Điều 147 đã
bổ sung một số trường hợp được coi là tình tiết định tội, nhưng thực chất chỉ
quy định rõ và cụ thể hơn so với điều văn của Điều 144 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về tội phạm này, chứ nó không phải là tình tiết định tội mới.
Các tình tiết đó là: “hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có
chồng”. Ngoài ra, Điều 147 còn được bổ sung tình tiết là yếu tố định tội và
cũng là tình tiết để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm chỉ bị xâm phạm
hành chính, đó là: “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm.”
Như vậy có thể hiểu Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi
của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có
vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có các dấu hiệu pháp lý chủ yếu
như sau:
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong
những nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ - nguyên tắc một vợ, một chồng.
Nguyên tắc này chính là nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ trong chế độ
mới, chế độ XHCN. Nguyên tắc này cũng góp phần xóa bỏ những tàn dư hủ
34
tục, lạc hậu của hôn nhân và gia đình trong các chế độ cũ khi cho phép một
người đàn ông được quyền lấy nhiều phụ nữ làm vợ. Điều này ảnh hưởng
nghiêm trọng tới quyền lợi của nữ giới trong quan hệ gia đình đặc biệt là ảnh
hưởng tới hạnh phúc gia đình sau này. Nguyên tắc một vợ một chồng được
ghi nhận trong Điều 2 Luật HN&GĐ 2014 và Điều 5 Luật này còn quy định:
"Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng". [Luật HNGĐ 2014]
Chủ thể của tội phạm: Cũng như chủ thể của các tội phạm khác chủ thể
của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều
kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các
Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì
tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tuy phải là chủ thể
đặc biệt nhưng có một đặc điểm khác với chủ thể của các tội phạm khác ở
chỗ: người phạm tội phải là người đang có vợ hoặc có chồng hoặc một trong
hai người phải là người đang có vợ hoặc đang có chồng.
Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc
đang có chồng, hoặc tuy chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người khác đang
có vợ, có chồng.
Trường hợp thứ nhất là đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác.
Theo khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, kết hôn là việc nam, nữ
xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000
35
của Hội đồng thẩm phán TANDTC, người đang có vợ, có chồng được hiểu là:
người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chưa
ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng trước ngày 03-01-1987
và đang sống chung như vợ chồng, mà không đăng ký kết hôn; người sống
chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến trước ngày 01-
01-2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện nhưng
không đăng ký kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2000 không thừa nhận những
trường hợp hôn nhân thực tế tại Điều 11: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn
mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là
vợ chồng".
Thông tư liên ti ̣ch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC
ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC đã
đưa ra khái niệm chung sống như vợ chồng:
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung
sống với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà lại chung sống với
người khác mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng một cách công khai hoặc
không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung
sống như vợ, chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được
hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ, chồng, có tài sản chung và đã
được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn
hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một
vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì người phạm tội phải chịu TNHS
về tội phạm này.
Trường hợp thứ hai là chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là
trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng,
đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này.
36
Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng là người chưa kết hôn lần nào
hoặc đã kết hôn nhưng đã ly hôn hoặc một trong hai người (vợ hoặc chồng)
đã chết hoặc được Toà án tuyên bố là đã chết. Điều luật quy định người chưa
có vợ, chưa có chồng, nhưng bao gồm cả những người đã có vợ hoặc đã có
chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, đã ly hôn hoặc đã bị Toà án huỷ hôn
nhân trái pháp luật. Đúng ra, nhà làm luật phải quy định: người đang chưa có
vợ hoặc đang chưa có chồng, thì chuẩn xác hơn và không thể hiểu khác được.
Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng
hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ thì
không phải hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường
hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng (nhất là người chưa có chồng) bị
người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người này.
Biết rõ là biết một cách chắc chắn, không có nghi ngờ gì về người mà
mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng đang có chồng hoă ̣c đang có vợ,
có thể do chính người đang có chồng hoặc có vợ nói cho biết hoặc thông qua
người khác nói cho biết, hoặc tự tìm hiểu qua nhiều nguồn nên biết.
Các hành vi trên chỉ cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
khi người có hành vi đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm.
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã
có lần vi phạm chế độ một vợ, một chồng, đã bị xử phạt hành chính bằng một
trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình
thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại
có hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Nếu trước đó người phạm tội
tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi vi
phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng không cấu thành tội phạm này.
37
Về hậu quả của tội phạm gây ra là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội
phạm của tội này. Theo hướng dẫn của Thông tư liên ti ̣ch số 01/2001/TTLT-
BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công
an, TANDTC, VKSNDTC thì hậu quả nghiêm trọng được xác định như sau.
Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa
nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi
vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng
gây ra là những thiệt hại như: Người vợ hoặc người chồng hợp pháp phải bỏ
việc, phải tốn kém tiền của để lo giải quyết hàn gắn quan hệ vợ chồng hoặc do
quá uất ức với hành vi vi phạm của người chồng hoặc người vợ mà sinh ra
bệnh tật, tự sát, con cái phải nheo nhóc bỏ học đi lang thang, hoặc do hành vi
vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà dẫn đến hành vi phạm tội khác như
giết người, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, huỷ hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy hậu quả của hành vi vi phạm
chế độ một vợ, một chồng thường là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm có thể là của chính người phạm tội nhưng cũng không ít trường
hợp gây ra cho người thân của người phạm tội như: vợ hoặc chồng hợp pháp
của người phạm tội, những cuộc đánh ghen thường xảy ra khi có hành vi vi
phạm chế độ một vợ, một chồng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là dấu hiệu cấu
thành tội phạm độc lập, nhưng có thể chưa cấu thành tội phạm nào.
Điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng mà không quy định
gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng không vì thế mà
cho rằng nếu vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà gây hậu quả rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm.
Như vậy, hậu quả của tội phạm này vừa là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu người phạm tội đã
38
bị xử phạt hành chính thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng nếu
người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính thì hậu quả nghiêm trọng là dấu
hiệu bắt buộc.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp: người phạm tội biết rõ đối tượng mà mình đang chung sống hoặc kết
hôn đang có vợ, có chồng nhưng vẫn mong muốn kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đó. Trường hợp do lầm tưởng là vợ hoặc chồng của
mình đã chết, nên đã kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác,
thì không phạm tội này.
* Về trách nhiệm hình sự đối với những người phạm tội vi phạm
chế độ một vợ, một chồng.
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật
hình sự
Khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp nhưng đều
có chung một khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm. Hai trường hợp phạm tội này
cũng là cấu thành cơ bản của tội phạm đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, khi xác
định trách nhiệm hình sự cũng như quyết định hình phạt cần phải phân biệt
hai trường hợp phạm tội, nếu người phạm tội vừa bị xử phạt hành chính, vừa
gây hậu quả nghiêm trọng thì phải áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm
tội chỉ thuộc một trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 của điều luật.
So với khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội
phạm này, nếu chỉ căn cứ vào hình phạt thì khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự
năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng vì khoản 1 Điều
147 Bộ luật hình sự năm 1999 bổ sung dấu hiệu làm ranh giới phân biệt hành
vi phạm tội với hành vi vi phạm, nên khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm
1999 nhẹ hơn. Do đó, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-
39
2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được áp dụng
khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự
và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ
luật hình sự thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị
phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều
147 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình
phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người
phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không
có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đối với người phạm tội, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị
xử phạt hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng
nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ.
- Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật
hình sự
Khoản 2 của điều luật vừa là cấu thành độc lập vừa là cấu thành tăng
nặng của tội phạm này.
Là cấu thành độc lập trong trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt
hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị Toà án tiêu huỷ việc
kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế
độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Là cấu thành tăng nặng của tội phạm này trong trường hợp người phạm
tội đã bị xử phạt hành chính hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị Toà án
tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng
trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
40
Đã bị Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung
sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ
đó bao gồm cả trường hợp Toà án quyết định bằng bản án dân sự hoặc bằng
bản án hình sự.
So với khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội
phạm này, thì khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và
cũng không nặng hơn, nhưng vì khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999
nhẹ hơn khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985, nên toàn bộ điều luật
(Điều 147) Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn Điều 144 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về tội phạm này. Do đó, hành vi phạm tội thực hiện trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì
được áp dụng khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội.
Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật
hình sự thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm,là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều
147 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình
phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người
phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án
có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới sáu tháng tù hoặc chuyển
sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết
tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ thì người phạm tội bị phạt mức hình
phạt đến ba năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt ).
Tuy nhiên, quy định hiện nay về tội danh này phát sinh một số hạn chế
trong quá trình áp dụng pháp luật. Thông qua việc phân tích tình huống cụ thể
như sau:
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà NẵngLuận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT

Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdfGIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT (20)

Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAYPháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Tuyên Quang, 9đLuận văn: Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Tuyên Quang, 9đ
 
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAYPháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang, HAY
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt NamCác tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOTĐề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
 
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTĐề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
 
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdfGIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 

Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------------- PHẠM THỊ TUẤN CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản Hà Nội – 2016
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung thực. Các kết quả trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ Phạm Thị Tuấn
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................ 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình................. 7 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình......................................... 7 1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình .................................14 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình ..............................................................................15 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945....................................................................15 1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 cho đến trước năm 1985 ..........................17 1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới....................................................................26 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .........................................................................................................................32 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình và đường lối xử lý hình sự ...................................................................................32 2.1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999)..........32 2.1.2. Tội loạn luân (Điều 150 BLHS 1999)..................................................42 2.1.3. Tội ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 BLHS 1999) ..............................................48 2.1.4. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS 1999) ...............................................................................................................54 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 trong xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình..............................................................60 2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình và nguyên nhân ....................................................................................................68
  • 4. 2.3.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật về các tội xâm phạm chế độ gia đình.......................................................................................................68 2.3.2. Những hạn chế trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình ..............................................................................74 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY.................................................................................78 3.1. Quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này ...78 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm chế độ gia đình..............................................................80 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm chế độ gia đình ......................................................................................88 3.3.1 Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra .............................88 3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ......................90 3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ....................................93 KẾT LUẬN....................................................................................................96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................98
  • 5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự HNVGĐ : Hôn nhân và gia đình NXB : Nhà xuất bản TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát TNHS : Trách nhiệm hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình được xét xử sơ thẩm .................................................................................................61 Bảng 2.2 Số vụ án về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong tổng số vụ án về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình .........................................62 Bảng 2.3: Số vụ án, bị cáo về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, được xét xử sơ thẩm .................................................................................................63 Bảng 2.4: Số vụ án, bị cáo về tội loạn luân, được xét xử sơ thẩm..................64 Bảng 2.5: Số vụ án, bị cáo về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, được xét xử sơ thẩm.....65 Bảng 2.6. Kết quả xét xử các vụ án về các tội xâm phạm chế độ gia đình.....67
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện rất rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con. Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như BLHS năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến, lạc hậu. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không có xu hướng gia tăng, nhưng tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội. Trong các tội xâm phạm chế độ
  • 8. 2 HN&GĐ thì các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định tại Chương XV BLHS là các tội thường xuyên xảy ra nhất các tội này bao gồm các Điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nói chung và đặc biệt là các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xã hội không cao, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ gia đình cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình như: Bùi Anh Dũng đã có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; Tác giả Trịnh Tiến Việt đã có các công trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong
  • 9. 3 Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2000... Như vậy, có thể thấy các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ pháp lý hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình và thực tiễn áp dụng các quy định về các tội phạm này trên thực tiễn để đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này.
  • 10. 4 - Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống cũng như áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định trong các điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình dưới góc độ pháp lý hình sự ở Việt Nam, thời gian từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học... Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội xâm phạm chế độ gia đình, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
  • 11. 5 thống về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ gia đình; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ gia đình ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
  • 12. 6 Chương 1: Một số vấn đề về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong BLHS và thực tiễn thi hành Chương 3: Một số kiến nghi ̣, giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luâ ̣t hình sự năm 1999 về các tô ̣i xâm pha ̣m chế đô ̣gia đình và nâng cao chất lượng xét xử các tội pha ̣m này.
  • 13. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ. Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ. Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và người phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó.
  • 14. 8 Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản, còn xã hội XHCN có chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người thuộc giai cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc giai cấp thống trị. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa người đàn ông và người phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -16]. Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Như vậy, chế độ gia đình được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ gia đình. Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình
  • 15. 9 của các chế độ xã hội trước đó. Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ để từ đó có thể đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình. Bởi lẽ khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [30, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].
  • 16. 10 Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam" [57, tr. 405]. Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN. Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản, quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó như: tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng... Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại chương XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội cụ thể sau: tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái
  • 17. 11 pháp luật (Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152). Từ những phân tích trên về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong luật hình sự Việt Nam cũng như những phân tích ở đặc điểm của chế độ gia đình chúng ta có thể hiểu các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự Việt Nam như sau: Các tội xâm phạm chế độ gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ gia đình Việt Nam XHCN được bảo hộ bằng các quy định của Bộ luật hình sự. Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận thức một cách sâu sắc nội dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói trên. Trước hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ gia đình là một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình, bởi nó là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị các hành vi phạm tội xâm hại. Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản thiết lập chế độ gia đình mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam, các nguyên tắc này là: hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có
  • 18. 12 nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách thể của tội phạm đều có thể bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính nhưng không có hiệu quả. Nếu như khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì việc gây nên những thiệt hại đó bao giờ cũng được thực hiện bởi hành vi cụ thể tác động vào đối tượng bị tác động làm thay đổi trạng thái bình thường của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau để gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về hình thức thể hiện, nhưng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp cho các quan hệ HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức thể hiện của hành vi khách quan có thể là: - Hành vi vi phạm nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ đối với con cái và ngược lại. - Hành vi quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình với nhau. - Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (mặc dù đang có vợ có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người mà mình kết hôn hoặc sống chung đang có vợ, có chồng)... Các hành vi khách quan này, nhìn chung được thực hiện bằng hình thức hành động. Các tội phạm này có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng nó chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu được quy định cụ thể trong từng CTTP.
  • 19. 13 Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều 147, Điều 151 và Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu khác được mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm được hiểu là trước đó đã có lần vi phạm, đã bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính mà lại có vi phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt hành chính chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy ra sau thời hạn một năm kể từ ngày bị xử phạt, thì không được coi là một trong những dấu hiệu để truy cứu TNHS. Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi những con người cụ thể, bởi vì chỉ có con người cụ thể mới có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, mới thể hiện được yếu tố lỗi, chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như có thể gánh chịu các biện pháp trừng trị, giáo dục, cải tạo mà Nhà nước quy định. Chủ thể của các tội xâm phạm chế độ gia đình phải là những con người cụ thể đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực TNHS. Ngoài ra, có những tội phạm đòi hỏi chủ thể, ngoài những dấu hiệu của chủ thể thường, phải có thêm những dấu hiệu đặc biệt khác. Điều đó có nghĩa, nếu thiếu các dấu hiệu đặc biệt đó thì không thể trở thành chủ thể của những tội phạm cụ thể đó. Ví dụ, chủ thể của các tội: tội loạn luân, hay tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình phải là chủ thể đặc biệt. Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành
  • 20. 14 vi đó gây ra. Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao gồm dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích... Tất cả các tội xâm phạm chế độ gia đình đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa, những chủ thể của các tội phạm này khi thực hiện hành vi xâm phạm những quan hệ HN&GĐ XHCN đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Nhìn chung, tất cả các tội xâm phạm chế độ gia đình đều không có cấu thành giảm nhẹ và chỉ duy nhất tội xâm phạm chế độ một vợ một chồng có cấu thành tăng nặng. Ngoài hình phạt chính được áp dụng đối với loại tội này thì đa phần là không có hình phạt bổ sung (trừ tội đăng ký kết hôn trái pháp luật). Một điểm đặc trưng của nhóm tội này là mức hình phạt được quy định không cao với các chế tài lựa chọn mà cụ thể là mức hình phạt tối đa ở hầu hết các tội chỉ đến ba năm tù (chỉ có tội loạn luân có mức hình phạt tù có thời hạn tối đa là năm năm). 1.1.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình Các tội xâm phạm chế độ gia đình có đối tượng đặc biệt là các quan hệ gia đình được pháp luật XHCN bảo vệ. Xuất phát từ tính chất đặc biệt đó, các tội xâm phạm chế độ gia đình có những đặc điểm sau. Thứ nhất, các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại Chương XV của BLHS năm 1999 phần lớn là các tội có tính chất ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Mức hình phạt đối với các tội phạm này chủ yếu là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù không quá ba năm. Như vậy, ta có thể thấy chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta đối với các tội phạm này chủ yếu vẫn là tuyên truyền, giáo dục để mọi người tôn trọng và chấp hành đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chế độ HN&GĐ không thực hiện những hành
  • 21. 15 vi mà pháp luật cấm. Khi đã nhắc nhở, giáo dục mà vẫn tiếp tục thực hiện thì mới xử lý bằng biện pháp hình sự, tuy nhiên cũng chỉ xử lý mang tính răn đe. Thứ hai, các tội xâm phạm chế độ gia đình xảy ra không phổ biến. Thứ ba, chủ thể của các tội phạm này là chủ thể đặc biệt. 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của các quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 Hôn nhân và gia đình là một vấn đề hệ trọng đối với con người, gia đình là nền tảng của xã hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, vấn đề gia đình luôn luôn là lĩnh vực được Nhà nước rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật. Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nước ta - Bộ Hình thư, được ban hành năm 1042 dưới thời Lý Thái Tông, vấn đề gia đình chiếm giữ một vị trí quan trọng và được quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trưng chủ yếu của các quy định này là quyền uy tập trung trong tay người chồng, mà mọi thành viên có bổn phận phục tùng; người chồng được phép bỏ vợ trong trường hợp người vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn người vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị trừng phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là trách nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59]. Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mười tội ác (thập ác) đã được quy định tại Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến chế độ hôn nhân và gia đình, đó là các tội: 4. Ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, thím, cô, anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng... 7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc
  • 22. 16 như thường; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không cử ai (tang lễ); nói dối là ông bà, cha mẹ chết. 8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ phải để tang 3 tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu công trở lên... 9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại nhiệm, giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn mặc như thường, cùng là tái giá [36, tr. 36-37]. Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chương hộ hôn (hôn nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những trường hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là các trường hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng... Ví dụ: Điều 317 quy định: "Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này còn có một số quy định thể hiện tư tưởng phong kiến coi khinh nghề hát xướng như quy định tại Điều 323: "Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng; về đều phải ly dị" [36, tr. 123]. Dưới thời thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến vẫn duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa nhận sự cưỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ (đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Điều thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Người vợ hay vợ lẽ
  • 23. 17 hiện đương có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt giam từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mươi đồng đến bốn trăm đồng, người gian phu bị phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn quy định: Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng, chưa tuyên cáo sự ly hôn, mà đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm năm và phạt bạc từ năm đồng đến hai trăm đồng. Người có vợ chưa tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác, phải phạt giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến một trăm đồng [55, tr. 22]. Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một người đàn bà đã có chồng rồi mà còn ân tình với một người đàn ông khác, còn đối với đàn ông có vợ thì hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202]. 1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1945 cho đến trước năm 1985 Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Nhà nước ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới tiến bộ, từng bước xóa bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm
  • 24. 18 liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nước ta chưa có quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình cụ thể nào. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ được ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm trọng, Trước tình hình đó, TANDTC đã có Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 hướng dẫn về xử lý hình sự đối với tám hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ, đó là các hành vi: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc ngược đãi vợ, đánh đập hoặc ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã đề cập về từng hành vi vi phạm trong chế độ gia đình như sau: Thứ nhất, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông tư hướng dẫn: Đối với người lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành Luật HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và chấm dứt. Cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với người vợ lẽ thì phải phạt tù giam. Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã được giáo dục, giải thích mà vẫn cố tình vi phạm; đã được Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn là bất hợp pháp mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có tính chất lừa dối cơ
  • 25. 19 quan, đoàn thể, lừa dối vợ trước hoặc vợ sau; gây ảnh hưởng, tác hại xấu, dư luận phản đối [42, tr. 470]. Thứ hai, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục bất chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với người khác (dù là người này đã có hoặc chưa có vợ, có chồng), Thông tư nêu rõ: Trong tình hình xã hội miền Bắc nước ta hiện nay, không thể coi thông gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian là một tội phạm đã xâm phạm đến quan hệ HN&GĐ được pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến trật tự xã hội. Đường lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là: biện pháp ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần tăng cường công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xã hội mới, chống những tư tưởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc do xã hội cũ để lại. Trong một số ít trường hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp tư pháp để làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trường hợp cần thiết đó là: - Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những người vì nhiệm vụ công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phương xảy ra nhiều vụ thông gian, làm ảnh hưởng đến tinh thần công tác của người chồng. - Thông gian có tính chất nghiêm trọng như: thông gian một cách trắng trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể hoặc sự phản đối của gia đình người chồng, của người vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng căm phẫn đòi hỏi phải trừng phạt. - Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như gây ra án mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm pháp nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
  • 26. 20 Thứ ba, đối với hành vi đánh đập hoặc ngược đãi vợ, tức là những hành động của người chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với người vợ, xâm hại đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của người vợ, Thông tư hướng dẫn: Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thường xuyên quan điểm bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhưng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ cho công tác giáo dục trong một số trường hợp cần thiết như: - Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng như làm chết người, gây thương tích nặng hoặc thương tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn can phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác hoặc dùng thủ đoạn thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể. - Đối với những hành động ngược đãi chưa gây tác hại nghiêm trọng của những người chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trường hợp có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử phạt cảnh cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần thiết [42, tr. 473]. Thứ tư, đối với hành vi đánh đập, ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ, Thông tư hướng dẫn: Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nước chúng ta đòi hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ". Tuy nhiên, thỉnh thoảng còn xảy ra trường hợp con cái ngược đãi, hắt hủi, không nuôi dưỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô đạo đức của con cái đã làm cho bố mẹ tự sát. Trong những trường hợp nghiêm trọng trên, cần đưa ra xét xử điển hình một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dưỡng bố mẹ già yếu [42, tr. 474]. Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phương châm, đường lối chung đối với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu,
  • 27. 21 kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ. 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1999 Trong giai đoạn từ sau 1975 với việc cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ xã hội ngày càng phát triển, tuy nhiên hệ thống pháp luật chưa thực sự phát triển theo kịp các quan hệ xã hội. Chính vì vậy trong lĩnh vực hình sự, việc ban hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII, đã thông qua BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là BLHS 1985). BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng nhất của các tàn tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc hậu như: cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng, gia đình là thiết chế xã hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái, nhất là con chưa thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia đình, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên vào Chương V của BLHS 1985, từ Điều 143 đến Điều 149 và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung. Trong
  • 28. 22 BLHS năm 1985 các tội xâm phạm gia đình được quy định tại các điều: Điều 144 tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, Điều 146 tội loạn luân, Điều 147 tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái. Tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục tuân thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể chia các tội phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân bao gồm: tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao gồm: tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ gia đình đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội này như sau: Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ gia đình thường phải có các tình tiết nghiêm trọng như dùng các thủ đoạn thô bạo, xảo quyệt như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách bằng của cải. Thứ hai, đối tượng được bảo vệ chủ yếu là người cao tuổi, phụ nữ và con cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hưởng của tàn dư tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ và gia trưởng xâm phạm. Thứ ba, mức hình phạt được quy định đối với các tội này không cao: mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy nhất tội loạn luân có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình đều được coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
  • 29. 23 1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay Sau năm 1986 nước ta tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện.Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện BLHS 1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để phục vụ được yêu cầu đề ra, ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua BLHS (sau đây gọi tắt là BLHS 1999), thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2000. Về các tội xâm phạm chế độ gia đình, BLHS 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, Chương XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chương V của BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy là BLHS 1999, đã có điều chỉnh phạm vi của chương này theo hướng thu hẹp lại chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội phạm đối với người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em được điều chuyển sang các chương thích hợp khác. Như vậy, Chương XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152). Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm, BLHS mới đã bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152). Trong chương này có một tội duy nhất vẫn được giữ nguyên như quy định của BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150). Thứ ba, BLHS 1999 đã bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP) của một số tội phạm theo hướng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với các tội này. Trong lĩnh vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục,
  • 30. 24 thuyết phục và hành chính để giải quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những trường hợp thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, hành chính tỏ ra không có hiệu quả. Thứ tư, về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy định tại Điều 146. Về cơ bản, tội này vẫn được giữ nguyên cấu trúc và hình phạt như quy định tại Điều 143 BLHS 1985, nhưng có hai điểm mới là: - Được bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với tội phạm này. Điều đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại tội phạm này. - Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng từ 1 năm theo quy định trước đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS 1999. Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được quy định tại Điều 147 BLHS 1999. Điều luật này được bổ sung, sửa đổi theo hướng bổ sung thêm chủ thể của tội phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể như sau: - Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mới phải chịu TNHS về tội này. Trên thực tế, không ít trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi nguy hiểm xâm phạm chế độ một vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác mà chưa bị pháp luật trừng trị. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý về hình sự cả trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
  • 31. 25 - Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử lý về hình sự đối với tội này. Đó là: - Gây hậu quả nghiêm trọng; - Đã bị xử phạt hình chính về hành vi này mà còn vi phạm. Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn được quy định tại Điều 148 BLHS 1999 Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn được giữ nguyên như trước đây, nhưng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự. Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 2 năm. Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật được quy định tại Điều 149 BLHS 1999 Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa và trừng trị những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn đã biết rõ là người xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó. Tinh thần chung là chỉ xử lý về hình sự khi đã áp dụng các biện pháp hành chính, kỷ luật mà người vi phạm vẫn không chịu sửa chữa lỗi lầm của mình, tiếp tục vi phạm. Thứ tám, về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 BLHS 1999 Tội phạm này cơ bản vẫn được giữ như quy định trước đây, nhưng có một số điểm bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xã hội ta còn xảy ra những trường hợp hành hạ, ngược đãi không chỉ giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái mà cả giữa những người thân thích khác trong gia đình như giữa cháu với ông bà, giữa cháu với cô, chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành hạ, ngược đãi ngay cả với người đã từng có công nuôi dưỡng mình khôn lớn. Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm thô bạo đến đạo đức xã hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình Việt
  • 32. 26 Nam. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những người là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những người khác trong gia đình như đã nêu trên thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS 1985 về tội hành hạ người khác. Đây là điều không hợp lý, vì cũng là một loại hành vi phạm tội (hành hạ, ngược đãi) do cùng một loại chủ thể thực hiện (những người thân thích trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối tượng (những người thân thích khác trong gia đình) nhưng lại bị xử lý ở các điều luật khác nhau. Vì thế, BLHS 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp như sau: - Bổ sung thêm đối tượng bị ngược đãi, hành hạ là: ông bà, cháu và người có công nuôi dưỡng người phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tượng phải áp dụng theo quy định của điều luật này. - Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc xử lý về hình sự đối với hành vi này. - Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 3 năm. Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Điều 152 BLHS 1999 Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng trị những người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo pháp luật mà cố tình không thực hiện nghĩa vụ đó mặc dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó, đã bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc những hậu quả nghiêm trọng khác. 1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên
  • 33. 27 bang Nga, Vương quốc Thụy Điển cho thấy các nước quy định rất khác nhau về các tội phạm này. BLHS Nhật Bản quy định ba tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng tại hai chương khác nhau. Đó là tội lấy hai vợ hoặc hai chồng tại Điều 184, chương XXII - Các tội khiêu dâm, hiếp dâm và lấy hai vợ hoặc hai chồng: "Người nào đã có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến hai năm. Tương tự như vậy áp dụng đối với người kết hôn với người đã có vợ hoặc có chồng" [7, tr. 48]; tội bỏ mặc người khác trong trường hợp tăng nặng tại Điều 218 chương - Các tội bỏ mặc người khác: 1. Người nào bỏ mặc người già, trẻ em hoặc người tàn tật hoặc người ốm mà mình có trách nhiệm bảo vệ hoặc không có sự bảo vệ cần thiết đối với sự sống còn của người đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. 2. Khi tội phạm được thực hiện đối với ông bà của người phạm tội hoặc vợ (chồng) của người đó, thì hình phạt tù lao động bắt buộc từ 6 tháng đến 7 năm được áp dụng [7, tr. 59]. Tội bỏ mặc người khác gây chết người được quy định tại Điều 219: "Người nào thực hiện một tội phạm quy định tại Điều 218 trên đây mà gây chết người hoặc gây thương tích cho người đó, thì có thể bị xử phạt như đối với tội gây thương tích (Các tội xâm phạm thân thể) nếu hình phạt đối với các tội đó nặng hơn" [7, tr. 59]. Nghiên cứu các quy định trên cho thấy, so với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của nước ta, BLHS Nhật Bản không có chương riêng về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, mà quy định các tội này vào các chương khác nhau; quy định về tội lấy hai vợ hai chồng tương tự như tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999); những quy định về tội bỏ mặc người khác trong trường hợp tăng nặng và tội bỏ mặc người khác gây chết
  • 34. 28 người có một số điểm tương tự như tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 BLHS 1999), nhưng phạm vi điều chỉnh hẹp hơn và chế tài được áp dụng cũng khác so với BLHS của nước ta. BLHS của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và phong tục tập quán tại chương VI Phần các tội phạm, trong đó các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình gồm ba tội: tội quan hệ tình dục của những người có vợ hoặc có chồng với người khác (Điều 117), tội không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái, cha, mẹ hoặc vợ, chồng (Điều 118); tội loạn luân. Điều 117 quy định: Người nào đã có vợ hoặc chồng nhưng lại quan hệ tình dục với người khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do. Người thông dâm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều này [5, tr. 36]. So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của nước ta, cho thấy trong pháp luật hình sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, thì hành vi quan hệ tình dục của người đã có vợ hoặc chồng với người khác (có vợ, chồng hoặc chưa có vợ, chồng) đã cấu thành tội quan hệ tình dục của những người đã có vợ hoặc có chồng với người khác, mà không cần phải kết hôn hoặc chung sống như vợ, chồng với người khác như quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng trong BLHS 1999 của nước ta. Tương tự như vậy, tội loạn luân trong BLHS của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào được quy định với phạm vi điều chỉnh rộng hơn (kể cả cha nuôi hoặc mẹ nuôi, con nuôi, cháu) và người đồng tình thông dâm cũng phải chịu TNHS về tội này nhưng với mức hình phạt nhẹ hơn. Điều 124 Bộ luật này quy định:
  • 35. 29 Người nào giao cấu với cha hoặc mẹ đẻ, cha nuôi hoặc mẹ nuôi, ông ngoại hoặc bà ngoại, ông nội hoặc bà nội, con đẻ, con nuôi, cháu, anh chị em ruột thì bị phạt tước quyền tự do từ 6 tháng đến 5 năm. Người đồng tình thông dâm thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm [5, tr. 38]. Điều 118 BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về tội không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái, cha, mẹ hoặc vợ, chồng quy định: "Người nào không nuôi dưỡng con cái của mình khi chưa đến tuổi trưởng thành, không săn sóc bố mẹ khi thiếu thốn, không nuôi vợ hoặc chồng bị tàn tật hoặc ốm đau theo quyết định của Tòa án thì bị phạt cảnh cáo" [5, tr. 37]. So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của nước ta cho thấy, pháp luật hình sự quy định rất cụ thể, dễ áp dụng, chỉ cần có hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với những đối tượng mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án là đã CTTP rồi mà không cần các điều kiện khác như trong BLHS 1999 của nước ta. Trong BLHS Liên bang Nga, các tội xâm phạm gia đình và người chưa thành niên được quy định trong cùng một chương - chương 20. Điều 157 quy định tội cố ý trốn tránh đóng góp tiền nuôi dưỡng con và cha mẹ không có khả năng lao động: 1. Cha mẹ cố ý trốn tránh đóng góp tiền nuôi dưỡng con chưa thành niên, hoặc con đủ 18 tuổi trở lên nhưng không có khả năng lao động theo quyết định của Tòa án. Thì bị phạt lao động bắt buộc từ 120 giờ đến 180 giờ hoặc bị phạt lao động cải tạo đến 1 năm hoặc bị phạt giam đến 3 tháng. 2. Con đã thành niên có khả năng lao động mà cố ý trốn tránh đóng góp tiền nuôi dưỡng cha mẹ không có khả năng lao động theo quyết định của Tòa án.
  • 36. 30 Thì bị phạt lao động bắt buộc từ 120 giờ đến 180 giờ hoặc bị phạt lao động cải tạo từ 6 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt giam đến 3 tháng hoặc bị phạt tù đến 2 năm [2, tr. 90]. Khác với các nước trên, BLHS Vương quốc Thụy Điển dành một chương riêng - chương 7 về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân - gia đình, gồm 5 điều. Điều 1 quy định: "Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người nào chưa có vợ, có chồng mà kết hôn với người đã có vợ, có chồng thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến hai năm về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng" [10, tr. 18]. So sánh quy định trên với quy định tương ứng trong BLHS 1999 của nước ta cho thấy, quy định trên nghiêm khắc hơn, hành vi kết hôn của người đang có vợ, có chồng với người khác hoặc hành vi kết hôn của người chưa có vợ, có chồng với người đã có vợ, có chồng, đã CTTP, mà không cần tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm như trong BLHS 1999 của nước ta. Đáng chú ý, BLHS Vương quốc Thụy Điển còn quy định một số tội xâm phạm chế độ HN&GĐ mới mà trong BLHS 1999 của nước ta không có, đó là các tội xuyên tạc tình trạng gia đình (Điều 3), xuyên tạc tình trạng gia đình chưa đạt (Điều 5), tội cách ly trẻ em trái phép (Điều 4). Điều 3 quy định: Người nào giấu giếm, đánh tráo trẻ em hoặc bằng thủ đoạn không thông báo hoặc thông báo sai cho nhà chức trách làm cho mình hoặc người khác có được tình trạng gia đình sai sự thật hoặc tước đoạt tình trạng gia đình hợp pháp của người khác thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 2 năm về tội xuyên tạc tình trạng gia đình [10, tr. 19]. Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
  • 37. 31 Thứ nhất, những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật hình sự của các nước Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Nga, Vương quốc Thụy Điển, rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng nước. Thứ hai, hầu hết các nước (trừ Liên bang Nga) đều có quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, điều đó thể hiện các nhà lập pháp các nước đó đều có quan điểm chống chế độ đa thê, đa phu như các nhà lập pháp nước ta. Tuy nhiên, do quan niệm về quan hệ tình dục của các nước khác nhau, chỉ có BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định về tội loạn luân, còn các nước khác không đề cập tội phạm này. Thứ ba, tương tự như pháp luật hình sự của Việt Nam, pháp luật hình sự các nước này đều quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ thuộc nhóm tội phạm ít nguy hiểm cho xã hội, cho nên hình phạt được áp dụng chủ yếu thuộc các loại hình phạt không tước tự do.
  • 38. 32 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình và đường lối xử lý hình sự Khi nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của bất kỳ tội phạm nào chúng ta cũng phải nghiên cứu bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội đó. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm mà khoa học luật hình sự đã nghiên cứu bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Không nằm ngoài phạm vi trên, nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình chính là việc chỉ rõ bốn yếu tố cấu thành tội phạm của các tội này. 2.1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999) * Về các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng Cơ sở để đảm bảo gia đình hạnh phúc là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính được thể hiện bằng hôn nhân một vợ một chồng. Theo Ăng-ghen "Xuất phát từ bản chất của tình yêu là không chia sẻ được... nên hôn nhân dựa trên tình yêu nam nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng" [1, tr. 131]. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 147 BLHS cụ thể như sau: 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
  • 39. 33 2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. [BLHS năm 1999]. So với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã có những thay đổi khi quy định của tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng khi Điều 147 đã bổ sung một số trường hợp được coi là tình tiết định tội, nhưng thực chất chỉ quy định rõ và cụ thể hơn so với điều văn của Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, chứ nó không phải là tình tiết định tội mới. Các tình tiết đó là: “hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng”. Ngoài ra, Điều 147 còn được bổ sung tình tiết là yếu tố định tội và cũng là tình tiết để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm chỉ bị xâm phạm hành chính, đó là: “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.” Như vậy có thể hiểu Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có các dấu hiệu pháp lý chủ yếu như sau: Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ - nguyên tắc một vợ, một chồng. Nguyên tắc này chính là nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ trong chế độ mới, chế độ XHCN. Nguyên tắc này cũng góp phần xóa bỏ những tàn dư hủ
  • 40. 34 tục, lạc hậu của hôn nhân và gia đình trong các chế độ cũ khi cho phép một người đàn ông được quyền lấy nhiều phụ nữ làm vợ. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của nữ giới trong quan hệ gia đình đặc biệt là ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình sau này. Nguyên tắc một vợ một chồng được ghi nhận trong Điều 2 Luật HN&GĐ 2014 và Điều 5 Luật này còn quy định: "Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng". [Luật HNGĐ 2014] Chủ thể của tội phạm: Cũng như chủ thể của các tội phạm khác chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng. Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tuy phải là chủ thể đặc biệt nhưng có một đặc điểm khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ: người phạm tội phải là người đang có vợ hoặc có chồng hoặc một trong hai người phải là người đang có vợ hoặc đang có chồng. Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc đang có chồng, hoặc tuy chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người khác đang có vợ, có chồng. Trường hợp thứ nhất là đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Theo khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000
  • 41. 35 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, người đang có vợ, có chồng được hiểu là: người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng trước ngày 03-01-1987 và đang sống chung như vợ chồng, mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến trước ngày 01- 01-2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện nhưng không đăng ký kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2000 không thừa nhận những trường hợp hôn nhân thực tế tại Điều 11: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Thông tư liên ti ̣ch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC đã đưa ra khái niệm chung sống như vợ chồng: Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà lại chung sống với người khác mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ, chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ, chồng, có tài sản chung và đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm này. Trường hợp thứ hai là chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng, đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này.
  • 42. 36 Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng là người chưa kết hôn lần nào hoặc đã kết hôn nhưng đã ly hôn hoặc một trong hai người (vợ hoặc chồng) đã chết hoặc được Toà án tuyên bố là đã chết. Điều luật quy định người chưa có vợ, chưa có chồng, nhưng bao gồm cả những người đã có vợ hoặc đã có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, đã ly hôn hoặc đã bị Toà án huỷ hôn nhân trái pháp luật. Đúng ra, nhà làm luật phải quy định: người đang chưa có vợ hoặc đang chưa có chồng, thì chuẩn xác hơn và không thể hiểu khác được. Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ thì không phải hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng (nhất là người chưa có chồng) bị người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Biết rõ là biết một cách chắc chắn, không có nghi ngờ gì về người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng đang có chồng hoă ̣c đang có vợ, có thể do chính người đang có chồng hoặc có vợ nói cho biết hoặc thông qua người khác nói cho biết, hoặc tự tìm hiểu qua nhiều nguồn nên biết. Các hành vi trên chỉ cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng khi người có hành vi đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm. Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần vi phạm chế độ một vợ, một chồng, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại có hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng không cấu thành tội phạm này.
  • 43. 37 Về hậu quả của tội phạm gây ra là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Theo hướng dẫn của Thông tư liên ti ̣ch số 01/2001/TTLT- BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC thì hậu quả nghiêm trọng được xác định như sau. Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ra là những thiệt hại như: Người vợ hoặc người chồng hợp pháp phải bỏ việc, phải tốn kém tiền của để lo giải quyết hàn gắn quan hệ vợ chồng hoặc do quá uất ức với hành vi vi phạm của người chồng hoặc người vợ mà sinh ra bệnh tật, tự sát, con cái phải nheo nhóc bỏ học đi lang thang, hoặc do hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà dẫn đến hành vi phạm tội khác như giết người, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Thực tiễn xét xử cho thấy hậu quả của hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thường là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm có thể là của chính người phạm tội nhưng cũng không ít trường hợp gây ra cho người thân của người phạm tội như: vợ hoặc chồng hợp pháp của người phạm tội, những cuộc đánh ghen thường xảy ra khi có hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là dấu hiệu cấu thành tội phạm độc lập, nhưng có thể chưa cấu thành tội phạm nào. Điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng mà không quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng không vì thế mà cho rằng nếu vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Như vậy, hậu quả của tội phạm này vừa là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu người phạm tội đã
  • 44. 38 bị xử phạt hành chính thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính thì hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp: người phạm tội biết rõ đối tượng mà mình đang chung sống hoặc kết hôn đang có vợ, có chồng nhưng vẫn mong muốn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó. Trường hợp do lầm tưởng là vợ hoặc chồng của mình đã chết, nên đã kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, thì không phạm tội này. * Về trách nhiệm hình sự đối với những người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. - Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự Khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp nhưng đều có chung một khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm. Hai trường hợp phạm tội này cũng là cấu thành cơ bản của tội phạm đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, khi xác định trách nhiệm hình sự cũng như quyết định hình phạt cần phải phân biệt hai trường hợp phạm tội, nếu người phạm tội vừa bị xử phạt hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng thì phải áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 của điều luật. So với khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, nếu chỉ căn cứ vào hình phạt thì khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng vì khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 bổ sung dấu hiệu làm ranh giới phân biệt hành vi phạm tội với hành vi vi phạm, nên khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn. Do đó, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-
  • 45. 39 2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu vừa bị xử phạt hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng, có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. - Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự Khoản 2 của điều luật vừa là cấu thành độc lập vừa là cấu thành tăng nặng của tội phạm này. Là cấu thành độc lập trong trường hợp người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Là cấu thành tăng nặng của tội phạm này trong trường hợp người phạm tội đã bị xử phạt hành chính hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
  • 46. 40 Đã bị Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó bao gồm cả trường hợp Toà án quyết định bằng bản án dân sự hoặc bằng bản án hình sự. So với khoản 2 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nhưng vì khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985, nên toàn bộ điều luật (Điều 147) Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn Điều 144 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này. Do đó, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm,là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 147 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới sáu tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ thì người phạm tội bị phạt mức hình phạt đến ba năm tù (mức cao nhất của khung hình phạt ). Tuy nhiên, quy định hiện nay về tội danh này phát sinh một số hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật. Thông qua việc phân tích tình huống cụ thể như sau: