SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TẠ THỊ NHÀN
QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO -
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Tạ Thị Nhàn
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG
NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO .......................................................................11
1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do...............................................11
1.1.1. Người bị tước tự do ....................................................................................11
1.1.2. Quyền của người bị tước tự do...................................................................14
1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do............................21
1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người..........................................................21
1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền.........................22
1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại...............................................23
1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế.....25
1.3.1. Quyền sống..................................................................................................27
1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục............................................................................29
1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện..................................30
1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do ......................................................................................30
1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên.....................31
1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân
quyền quốc tế..............................................................................................32
1.4.1. Cơ chế quốc tế .............................................................................................32
1.4.2. Cơ chế khu vực............................................................................................38
1.4.3. Cơ chế quốc gia ...........................................................................................41
Chương 2: VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
TƯỚC TỰ DO............................................................................................43
2.1. Sự phát triển các quyền của người bị tước tự do trong pháp luật
Việt Nam.....................................................................................................44
2.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1974........................................................................44
2.1.2. Từ năm 1975 đến nay ..................................................................................46
2.2. Nội dung các quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam .....49
2.2.1. Quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam............................49
2.2.2. Tước tự do trong lĩnh vực hành chính theo pháp luật Việt Nam so
sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan ..............................................58
2.3. Thực tiễn việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam.......62
2.3.1. Hạn chế........................................................................................................68
2.4. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của
người bị tước tự do ở Việt Nam................................................................73
2.4.1. Một số phương hướng hoàn thiện................................................................73
2.4.2. Hoàn thiện pháp luật....................................................................................76
2.4.3. Nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do .......................83
KẾT LUẬN..............................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................88
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- ACHPR: Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981
(African Charter on Human and Peoples’ Rights);
- ACHR: Công ước châu Mỹ về quyền con người, 1969 (American convention
on Human rights);
- CAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and
Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment);
- CEDAW: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt dối xử với phụ nữ,
1979 (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination
against Women);
- CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of
the Child);
- ECHR: Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản, 1950
(The European Convention for the Protection of Human Rights and
Fundamental Freedoms);
- ECOSOC: Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (The United Nations
Economic and Social Council);
- ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights);
- ICJ: Tòa án công lý quốc tế, (Internatinonal Court of Justice);
- ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966
(International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights;
- NGOs: Các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations);
- NHRIs: Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền (National
Institution on the Protection and Promotion of Human Rights);
- UDHR: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948 ((Universal Declaration of
Human Rights);
- UNCHR: Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations
Commission on Human Rights);
- UNHRC: Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Human
Rights Council);
- UPR: Cơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review);
- WGAD: Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện của Liên hợp quốc (Working
Group on Arbitrary Detetion);
- BLDS: Bộ luật dân sự;
- BLHS: Bộ luật hình sự;
- TAND: Tòa án nhân dân;
- THAHS: Thi hành án hình sự;
- TTHS: Tố tụng hình sự;
- VKSND: Viện kiểm sát nhân dân;
- XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn
quốc tế về nhân quyền ............................................................................25
Bảng 1.2. Điểm khác biệt giữa hai cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền của
người bị tước tự do ................................................................................37
Bảng 2.1. Các nhóm đối tượng bị tước tự do ở Việt Nam hiện nay căn cứ
theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế .......................................................49
Bảng 2.2. So sánh các quy định về quyền của người bị tước tự do trong pháp
luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan..........................50
Bảng 2.3. Quy mô giam giữ của 11 nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. .......64
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào thời kỳ cổ đại, người ta tin rằng có những người sinh ra để làm nô lệ và
thân phận nô lệ là thích hợp và chính đáng cho họ. Đối với những người này việc có
một người chủ tốt là may mắn và tốt đẹp. Đến thời phong kiến tầng lớp nô lệ đã
không còn tồn tại trong xã hội. Tuy nhiên vẫn còn những tầng lớp, giai cấp khác cho
mình quyền áp bức, bóc lột các giai tầng còn lại. Trải qua bao năm đấu tranh với bao
mất mát, khổ đau, cho đến thời điểm hiện nay, nhân loại toàn thế giới đã công nhận:
“Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi
con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau
trong tình bằng hữu” (trích Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948). Trong
thời đại ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề mang tính quốc tế, giá trị quyền con
người đã được nhìn nhận ở tất cả các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ. Bất kỳ ai trên
thế giới này không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, giới tính…đều được hưởng
những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong luật quốc tế về nhân quyền.
Tuy vậy, cuộc đấu tranh cho nhân quyền vẫn tiếp diễn đầy cam go, quyết liệt. Vẫn
còn những kẻ lợi dụng nhân quyền để vi phạm nhân quyền. Vẫn còn đó tình trạng
người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo… Hơn nữa vẫn còn
nhiều người không biết mình có những quyền gì và làm thế nào để thực hiện các
quyền đó, làm thế nào để bảo vệ các quyền đó khi bị vi phạm?
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước,
với biết bao cuộc đấu tranh chống quân xâm lược. Vì vậy chúng ta hiểu rõ hơn ai
hết giá trị của độc lập, tự do, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng nhân
quyền ở Việt Nam đã có từ rất lâu và được thể hiện trước hết qua những ý niệm và
hành động khoan dung, nhân đạo. Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi với
tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” đã thể
hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân quyền của Việt Nam. Trong những năm qua Đảng
và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm
2
vi quốc gia cũng như đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì nhân quyền của
nhân loại. Thể hiện ở việc Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống các văn bản
pháp luật tương đối đầy đủ và khá tương thích với luật pháp quốc tế về nhân quyền.
Đồng thời cũng đã có một cơ chế bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của
người bị tước tự do nói riêng.
Tuy nhiên cũng như các nước khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam cũng
đang phải đối mặt với những thách thức về quyền con người, trong đó nổi bật lên
vấn đề về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn
thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp
hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con
người. Bởi vậy cần chú ý bảo vệ đặc biệt so với các nhóm khác. Những người bị
tước tự do là một trong số nhóm người dễ bị tổn thương, họ là tất cả những người bị
giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự
của mình so với những công dân bình thường. Theo Luật nhân quyền quốc tế, người
bị tước tự do là một khái niệm rất rộng bao gồm tù nhân, những người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, quản chế, cấm cư trú… Mục đích của các biện pháp như bắt, tạm
giữ, tạm giam…là để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp, hành chính thực hiện được
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm,
đảm bảo trật tự pháp luật. Các biện pháp này cũng nhằm bảo vệ các quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên những biện pháp này khi
áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Đặc biệt là
trong hoạt động của các cơ quan tư pháp và người có thẩm quyền thực hiện trong
các cơ quan nếu không cẩn thận sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm nhân quyền. Những điều
đó xảy ra là do chưa có quy định cụ thể để hạn chế sự lạm quyền của cán bộ công
chức nhà nước, các cơ quan công quyền, và việc quy định như hiện tại có nhiều kẽ
hở dễ bị lách luật; cán bộ công chức nhà nước chưa được đào tạo cơ bản về tôn
trọng, bảo vệ quyền con người... Bên cạnh đó, cơ chế thực thi quyền của nhóm
người bị tước tự do vẫn còn chưa hoàn thiện cũng như cơ chế kiểm soát việc thực
thi còn nhiều hạn chế. Do đó, để góp một phần bảo đảm hơn nữa về quyền con
3
người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, tác giả chọn đề tài :
“Quyền của những người bị tước tự do – lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn .
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định, văn kiện quốc tế về bảo vệ
quyền của người bị tước tự do cũng như việc nội luật hóa và áp dụng chúng vào
thực tiễn Việt Nam. Tác giả đưa ra một số phương hướng đề hoàn thiện pháp luật về
quyền của nhóm người bị tước tự do và giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các
quyền ấy trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bởi tầm quan trọng của vấn đề, hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam đã
có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến như:
“Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” do trung tâm
nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật - Đại học
quốc gia Hà Nội đã đề cập tới quyền của người bị tước tự do theo luật quốc tế về
nhân quyền. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung như quyền của nhóm là gì? Tầm
quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm. Cuốn sách cũng
đưa ra định nghĩa nhóm người dễ bị tổn thương; xác định các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương được quy định trong luật nhân quyền quốc tế, trong đó có nhóm người bị
tước tự do. Đặc biệt cuốn sách đã phân tích cơ chế quốc tế giám sát thực thi quyền
của một số nhóm người dễ bị tổn thương.
“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”: do trung tâm
nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và trung tâm nghiên cứu tội phạm
học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội phát hành.
Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến một bộ phận quan trọng
của nhóm người bị tước tự do. Đó là những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị
bỏ tù. Tài liệu đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về quyền con người trong các
hoạt động tố tụng hình sự. Từ đó nhằm hướng dẫn, cung cấp những công cụ hữu
hiệu cho việc bào chữa tại các tòa án hình sự địa phương. Đặc biệt, nó được viết ra
để hỗ trợ cho các luật sư hoặc thành viên của nhóm luật sư biện hộ các vụ án hình
sự, nâng cao kiến thức và hiểu biết nhằm áp dụng hiệu quả luật quốc tế tại các tòa
4
án địa phương. Từ góc độ đó, cuốn sách đề cập đến những khả năng áp dụng luật
quốc tế như là một lập luận riêng biệt, và nếu có thể, như là một ý bổ sung nhằm
củng cố sức thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một trong số các
quyền quan trọng của những người bị tước tự do. Bởi lẽ nó đảm bảo cho các vụ án
được xét xử công bằng và quyền của người bị tước tự do sẽ được đảm bảo tốt nhất.
Vì vậy cuốn sách đã góp một phần quan trọng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt
hơn quyền của nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự;
“Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề tài
nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam những
năm qua đạt được những kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập và hạn
chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên cứu, tiếp thu những quan
điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
con người trong tố tung hình sự. Đề tài này đã làm rõ những quan điểm khoa học về
quyền con người trong tố tụng hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền;
Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ
quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía
cạnh mà đề tài này đề cập đến là các quyền con người nói chung trong hoạt động tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con người được
đề cập đến phần lớn là các quyền của những người bị tước tự do trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Bên cạnh những người bị tước tự do, đề tài này cũng phản ánh đến
quyền của những người tham gia tố tụng hình sự mà không bị tước tự do như là các
bị can, bị cáo (trong nhiều trường hợp họ không bị tước tự do).
Đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam – bài viết của Hoàng Thị Hương, khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội. Bài viết đã đưa ra khái niệm “đảm bảo” có nghĩa là “làm cho chắc
5
chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ thực hiện được, giữ gìn được
hoặc có đầy đủ những gì cần thiết; sự đảm bảo hoặc giữ gìn được. Từ đó tác giả
phân tích việc đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù bao gồm các đảm
bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp lý. Trong đó đảm bảo pháp lý có
vai trò quyết định. Bài viết phân tích việc đảm bảo quyền con người trong việc thi
hành án phạt tù, thực chất là phân tích việc bảo đảm quyền con người của một bộ
phận người bị tước tự do, đó chính là các tù nhân.
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của những người bị tước tự do trong pháp
luật và thực tiễn – khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Lưu Mỹ Hằng K53B – QHL
2008, khoa Luật – ĐHQG Hà Nội năm 2012. Khóa luận đã giải quyết một cách
khoa học về khái niệm, quy định cơ bản về một số vấn đề bảo vệ quyền của người
bị tước tự do theo pháp luật quốc tế và Việt Nam. Khóa luận cũng đã phân tích tình
hình bảo vệ quyền của người bị tước tự do qua thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, từ đó
đưa ra quan điểm và phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc quy
định và bảo đảm quyền người bị tước tự do.
Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến
vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của
người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt
được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cần có một cái nhìn tổng quát hơn về
người bị tước tự do, đặc biệt là dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế. Điều đó
càng có ý nghĩa hơn khi mà nhân quyền hiện đang là vấn đề mà cả nhân loại hướng
tới. Luận văn này có thể bổ sung những nghiên cứu về vấn đề người bị tước tự do,
từ đó nâng cao ý thức trước hết là của các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và
thực thi các quyền của người bị tước tự do. Đồng thời nâng cao nhận thức của các
chủ thể người bị tước tự do trong việc thụ hưởng các quyền của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
• Nghiên cứu tổng quan về người bị tước tự do và quyền của người bị tước tự
do; các biện pháp cũng như hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền thực
6
hiện các biện pháp tước tự do của con người. Những biện pháp lý để bảo đảm quyền
cho nhóm người này.
• Làm rõ tầm quan trọng, tất yếu của việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị
tước tự do đối với sự phát triển của văn minh nhân loại nói chung cũng như sự phát
triển của nhân quyền trên thế giới.
• Từ đó kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm của pháp luật
cũng như nâng cao nhận thức của cả cộng đồng nói chung, nhất là bộ phận cán bộ
công chức trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo quyền cho
nhóm xã hội này.
3.2. Nhiệm vụ nghiêm cứu
• Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhóm người bị tước tự
do và quyền của họ;
• Nghiên cứu quy định pháp luật của Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu
với pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền của những người bị tước tự do;
• Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của người bị
tước tự do ở Việt Nam: những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế tồn tại;
• Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của
pháp luật Việt Nam cũng như những giải pháp khác nhằm đảm bảo quyền của người
bị tước tự do.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền của nhóm người bị tước tự do dưới
góc độ là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Luật nhân quyền quốc tế xác
định một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm cả những
người bị tước tự do. Người bị tước tự do ở đây bao gồm cả nhóm người bị tước tự
do trong lĩnh vực tư pháp hình sự và nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực hành
chính. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự những người bị tước tự do bao gồm: tù nhân
(phạm nhân đang chấp hành án hình phạt tù); người bị tạm giữ, tạm giam; người bị
xử phạt với hình thức quản chế; người bị xử phạt với hình thức cấm cư trú. Trong
7
lĩnh vực hành chính, những người bị tước tự do bao gồm: người bị tạm giữ hành
chính; người bị đưa vào trường giáo dưỡng; người bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc; người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Những người này đều bị giới hạn
các quyền tự do so với những công dân bình thường. Chẳng hạn như quyền tự do đi
lại, tự do cư trú. Đối với những người bị xử phạt với hình thức quản chế, thì đây là
hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính là hình phạt tù. Đối với những người
này, ngoài việc bị giới hạn quyền tự do đi lại, tự do cư trú thì còn bị hạn chế một số
quyền công dân, tức là bị tước một số quyền tự do khác trong một thời hạn nhất
định, như quyền tự do về việc làm, quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan
quyền lực nhà nước. Nguyên nhân tại sao quyền của nhóm người này lại dễ bị tổn
thương. Những chuẩn mực quốc tế về quyền của nhóm người này trong luật nhân
quyền quốc tế là gì? Cơ chế bảo đảm các quyền đó cả trên phạm vi quốc tế, khu vực
và quốc gia? Phân tích về việc bảo vệ nhóm người này ở Việt Nam trong những
năm qua như thế nào? Những quyền nào dễ bị vi phạm? Lý do vi phạm? Từ đó đưa
ra những giải pháp thực tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm người này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền của người bị tước tự do dưới góc độ quy định
pháp lý và thực tiễn trên phạm vi quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Trong
phạm vi luận văn này, các tiêu chuẩn, quốc tế về nhân quyền được coi là mặt lý
luận, là tiêu chí và chuẩn mực mà các quốc gia, vùng lãnh thổ hướng tới. Đó được
coi như những giá trị thiêng liêng, phổ quát mà phải mất bao xương máu nhân loại
toàn thế giới mới giành được. Đó còn là mơ ước, khát vọng về một thế giới bình
đẳng, về những nhân quyền thiêng liêng tạo hoá đã ban cho mà không ai có thể bị
tước đoạt. Với ý nghĩa trên, khía cạnh thực tế mà luận văn đề cập chính là việc đưa
các chuẩn mực đó vào thực tế như thế nào? Việc tham gia, ký kết, gia nhập và nội
luật hoá là một phần của ý nghĩa đó. Bên cạnh đó các nhà nước cụ thể là Việt Nam
đã làm gì để đảm bảo cho các quyền của người bị tước tự do được thực hiện trên
thực tế? Với cách tiếp cận trên, tác giả đi vào nghiên cứu cụ thể như sau:
Về mặt lý luận: Khảo sát những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
8
quốc gia quy định về quyền của người bị tước tự do. Các quy định pháp lý trước hết
xuất phát từ các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền nói chung, quyền của người bị
tước tự do nói riêng cũng như các cơ chế để bảo đảm các quyền đó. Đối chiếu, so
sánh với các quy định của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình
thành các chuẩn mực quốc tế có sự đóng góp của pháp luật quốc gia. Các quy định
quốc tế có thể kể đến như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền - UDHR; Công
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị 1996 - ICCPR; Công ước về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa 1996 - ICESCR; Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù
nhân 1990; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị
cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào 1988;… Các quy định pháp luật quốc gia phải kể
đến như Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001); Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009; Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Luật
thi hành án hình sự 2010 …và các văn bản pháp lý liên quan.
Khía cạnh thực tiễn mà luận văn đề cập chính là việc Việt Nam tham gia
những công ước quốc tế nào về lĩnh vực này và đã nội luật hóa các chuẩn mực trong
các văn kiện quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như thế nào? Từ đó đánh giá tính
đúng đắn, mức độ phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn
pháp lý về nhân quyền. Đánh giá việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do
trên thực tế. Vấn đề thực hiện các nghĩa vụ nộp các báo cáo định kỳ theo quy định
của các công ước mà Việt Nam tham gia? Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo
đảm quyền của người bị tước tự do được thực hiện như thế nào?…Từ đó, phân tích
tổng quan và rút ra những yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về đảm bảo
quyền của người bị tước tự do.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật nói chung, khái niệm và bảo đảm nhân quyền nói riêng. Các nguyên tắc
nền tảng của Luật nhân quyền quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
9
cụ thể như: phương pháp phân tích, khái quát hóa; phương pháp tổng hợp; thống kê,
so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn giải…
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn đã đạt được một số kết quả:
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về người bị tước tự do dưới góc độ là những
người dễ bị tổn thương trong mối liên hệ giữa luật nhân quyền quốc tế và pháp luật
quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt là với cách tiếp cận dựa trên quyền, luận văn
khẳng định các quyền của người bị tước tự do là tự nhiên, bẩm sinh và nhà nước chỉ
có thể ghi nhận, bảo đảm chứ không có quyền ban phát các quyền đó. Các quyền
của người bị tước tự do được bảo đảm không chỉ bằng việc các quyên đó được ghi
nhận trong pháp luật. Mà quan trọng còn ở cơ chế bảo đảm các quyền đó.
- Đánh giá tầm quan trọng, ý nghĩa của việc bảo đảm các quyền của người bị
tước tự do. Những người bị tước tự do được hưởng các quyền cơ bản trên cương vị
bình đẳng như bất kỳ chủ thể nào. Bên cạnh đó họ được hưởng những quyền đặc
thù khác. Và việc được hưởng các quyền đó là tất yếu. Đảm bảo cho các quyền đó
được thực thi cũng chính là bảo đảm quyền con người và là thước đo trình độ văn
minh của nhân loại.
- Góp phần thay đổi cái nhìn của xã hội nói chung, trong đó có bộ phận cán
bộ công quyền trong vấn đề tước tự do hành chính; Các biện pháp xử lý hành chính
của Việt Nam dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế thực chất là các biện pháp
tước tự do của con người. Do đó cần phải hết sức thận trọng và phải đảm bảo các
quyền cho người bị tước tự do một cách đầy đủ nhất.
- Luận văn cũng đã nêu bật được một số thành tựu trong việc bảo đảm các
quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc đảm bảo các điều
kiện ăn, mặc, ở; quyền không bị tra tấn; không bị bắt, giam một cách tùy tiện; về
quyền được đối xử nhân đạo; quyền được xét xử công bằng…
- Phân tích một số hạn chế, đặc biệt là về mặt pháp luật trong việc bảo đảm các
quyền của người bị tước tự do. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam.
10
Ý nghĩa của luận văn:
Một mặt luận văn góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử với
những người bị tước tự do, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi
pháp luật. Khẳng định rõ ràng rằng, những quyền mà người bị tước tự do được
hưởng là chính đáng và nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho các quyền đó được
thực thi. Các quyền đó không phải do nhà nước ban cho họ mà xuất phát từ chính
nhân phẩm và giá trị của họ.
Mặt khác giúp người bị tước tự do nâng cao kiến thức và hiểu biết về các
quyền của họ và các công cụ pháp lý để bảo đảm các quyền đó. Từ đó có thể giúp
họ sử dụng có hiệu quả các công cụ đó để hưởng thụ và bảo vệ các quyền của mình
khi bị vi phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và tiêu chuẩn quốc tế về quyền của người
bị tước tự do.
Chương 2: Việt Nam với việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do
1.1.1. Người bị tước tự do
Tự do là một trong những vấn đề quan trọng của con người và đã được
nghiên cứu, luận giải từ lâu, dưới nhiều góc độ triết học, chính trị, pháp lý, xã
hội học… Thời kỳ khai sáng, rất nhiều học giả đã bàn luận về tự do. Thomas
Hobbes cho rằng:
“Tự do được hiểu là, theo định nghĩa chính xác của từ này, sự vắng mặt của
những trở ngại bên ngoài; những trở ngại đó thường tước đi một phần sức mạnh của
con người để làm điều ta muốn làm, nhưng không thể ngăn cản ta sử dụng sức
mạnh còn lại của mình theo sự sai khiến của lý trí và sự suy xét của chính bản thân
mình”. [20, tr.127-128].
Montesquieu thì khẳng định: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà
luật pháp cho phép” [20, tr. 161].
Qua hai khái niệm của hai học giả nói trên có thể thấy, khái niệm của
Montesquieu mang tính pháp lý cao và tiếp cận gần với khái niệm tự do trong xã
hội hiện đại ngày nay đồng thời cũng gần với tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Còn khái niệm của Thomas Hobbes đã chỉ ra hai thành tố quan trọng của tự do, đó
là tự do nhân thức và tư do hành động.
Ngày nay, tự do có thể được hiểu là tình trạng một cá nhân có thể và có khả
năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp
lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay
yếu tố nào. Tự do có thể được phân thành tự do chủ động và tự do thụ động. Tự do
chủ động là tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó (ví dụ như tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp...). Tự do thụ động là tự do của cá nhân
khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể...). Trong một số trường
12
hợp, tự do bị hạn chế. Ví dụ như quyền tự do đi lại có thể bị hạn chế trong hoàn
cảnh dịch bệnh hay khủng bố… Tuy nhiên việc hạn chế quyền tự do trong những
trường hợp này phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt và tuyệt đối không được
mang tính chất phân biệt, đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ
hoặc nguồn gốc xã hội.
Tự do là một thuộc tính tự nhiên của con người. Đã là con người thì phải có
tự do. Đó là quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể chối cãi được, xuất phát
từ chính nhân phẩm của mỗi con người. Sống trong xã hội tất cả các quyền tự do
của con người phải được bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm bằng pháp
luật. Các văn kiện quốc tế về nhân quyền đề cập đến cả hai khái niệm: các "quyền"
và "tự do" cơ bản của con người. Tuy nhiên trong thực tế hầu như không có sự phân
biệt và khác biệt trong việc vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền và tự do cơ
bản của con người, bởi lẽ các tự do cơ bản thường được diễn đạt như là các quyền
(ví dụ "tự do ngôn luận" cũng thường được gọi là "quyền tự do ngôn luận"). Con
người có rất nhiều quyền tự do. Như quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền tự do
ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền tự do
lập hội, hội họp hòa bình;...
Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một
người vào nơi giam giữ chung hoặc riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi
giam giữ, trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công
quyền khác. [16, tr.709-710]. Khái niệm “tước tự do” theo luật nhân quyền quốc tế
được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam, mà còn
là những việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người, dưới nhiều hình
thức và tên gọi khác, cụ thể như: bắt, tạm giữ; quản chế; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào các trung tâm cải tạo, giáo dục… Tức là bên cạnh các trường hợp
giam giữ theo thủ tục hình sự thì tước tự do còn bao gồm cả giam giữ theo thủ tục
hành chính. Nhiều quốc gia trên thế giới có luật về bắt, giam giữ hành chính, song
chủ yếu đề cập đến các tình huống: giam giữ những người nhập cư lậu để chờ giải
quyết thủ tục liên quan, ví dụ như ở Australia có các trung tâm tạm giữ ngoài khơi
13
cho người nhập cư và tị nạn đến Australia bằng đường biển; hay là giam giữ những
nghi can khủng bố (Luật yêu nước của Hoa Kỳ sau ngày 11/9/2001…); hoặc giam
giữ trong những tình huống liên quan đến an ninh quốc gia (biểu tình, tình trạng
khẩn cấp của quốc gia…). Chỉ có số ít nước quy định về bắt, giam giữ hành chính
với những đối tượng như trẻ em có hành vi trái pháp luật, người mại dâm, người
nghiện ma túy, người có hành động nguy hại cho chính quyền…
Cơ sở của việc tước tự do là khi một người có hành vi xâm hại tự do của
người khác và xâm hại đến lợi ích cộng đồng. Hoặc người đó có nguy cơ ảnh hưởng
đến cộng đồng, ví dụ trong tình trạng dịch bệnh… Việc tước tự do phải được điều
chỉnh bằng nhiều quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính và tư
pháp hình sự. Các biện pháp tước tự do là cần thiết trong những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể. Tuy nhiên cần hết sức thận trọng, bởi lẽ những biện pháp này khi áp
dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Nhân loại văn
minh toàn thế giới đã thừa nhận rằng tự do là một yếu tố nền tảng của nhân phẩm.
Việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân
phẩm. Khi một người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị cầm tù đều có một tình trạng
chung đó là bị hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú... trong một khoảng thời
gian nhất định. Vì thế, quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị ảnh hưởng, xâm
phạm. Từ đó dẫn đến yêu cầu cần thiết phải bảo đảm quyền cho nhóm người này.
Tước tự do phải theo thủ tục được pháp luật quy định và phù hợp với luật nhân
quyền quốc tế. Tước tự do hợp pháp và chính đáng thông thường phải qua trình tự
tư pháp và bởi tòa án, song trong một số trường hợp hạn chế, cơ quan hành pháp
cũng có thể quyết định và thực hiện tước tự do một người, ví dụ: với những người
tâm thần, trong hoàn cảnh khẩn cấp của quốc gia…
Theo luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là một khái niệm rất rộng,
bao gồm tù nhân, những người bị tạm giữ, tạm giam,, quản chế, cải tạo… tức là tất
cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất cứ hình thức nào, các tự do
chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường.
Con người có rất nhiều tự do, ví dụ như tự do đi lại, tự do cư trú, tự do học
14
tập, tự do tôn giáo, tự do việc làm… Khái niệm "người bị tước tự do" dùng để chỉ
những người bị giới hạn một số quyền nhất định vì các lý do an ninh hay trật tự xã
hội, chứ không phải tước bỏ toàn bộ các tự do của con người. Tù nhân bị tước
quyền tự do đi lại, tự do cư trú, nhưng họ vẫn được hưởng các quyền tự do khác
như tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Một người bị tạm
giam, tạm giữ vẫn có quyền theo hay không theo tôn giáo nào... Các quyền đó phải
được pháp luật tôn trọng và bảo đảm bằng việc quy định người có hành vi xâm hại
tới các quyền đó thì bị xử lý về mặt hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ.
Tóm lại người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu là tất cả
những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do
chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường.
1.1.2. Quyền của người bị tước tự do
Hiện chưa có một văn kiện nào đưa ra khái niệm quyền của người bị tước tự
do. Tuy nhiên như đã phân tích, nhóm người bị tước tự do là một trong những chủ
thể quan trọng của luật nhân quyền quốc tế. Họ được hưởng những quyền lợi chính
đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền của người bị tước tự do có các đặc điểm:
Thứ nhất: quyền của người bị tước tự do là quyền của người thuộc các nhóm
người dễ bị tổn thương
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, trong đó định
nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.” [17, tr.22].
Như vậy, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có và khách quan của con người được thừa nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia
và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Các quyền con người có thể gây cản trở lẫn nhau,
chúng bị giới hạn bởi các quyền và tự do của người khác hay bởi các yêu cầu về đạo
đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [21, tr.656].
Bên cạnh các cá nhân, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm xã hội
15
nhất định, trong đó có các nhóm dễ bị tổn thương, ví dụ như phụ nữ, trẻ em, những
người bị tước tự do... Quyền cá nhân được hiểu là "các quyền thuộc về mỗi cá nhân,
bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc
hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân" [15, tr.14]. Chẳng hạn
như quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Còn quyền của nhóm được hiểu
là “những quyền đặc thù, chung của một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà
để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của nhóm, và đôi khi cần
phải thực hiện cùng với các thành viên khác của nhóm” [15, tr.14]. Ví dụ như quyền
tự do lập hội, tự do hội họp…
Việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm là hết sức cần thiết và quan
trọng. Việc coi nhẹ, phủ nhận các quyền của bất cứ nhóm nào đều có thể dẫn đến
mất ổn định trong xã hội. Bởi lẽ ở mỗi quốc gia, khu vực do các nguyên nhân xã
hội, lịch sử... luôn tồn tại những nhóm người có trình độ phát triển, vị thế và năng
lực khác nhau. Việc quy định quyền của nhóm không phải là phủ nhận tính phổ quát
của quyền con người. Đồng thời cũng không đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế về quyền con người là nguyên tắc tất cả các quyền con người được áp
dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người. Bởi lẽ bình đẳng không có nghĩa là
cào bằng mức độ hưởng thụ, điều này thực chất lại là bất bình đẳng. Bình đẳng ở
đây phải được hiểu là bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền
con người. Điều đó có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại đều có cơ
hội được hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực
sẵn có như nhau.
Nhóm người dễ bị tổn thương chiếm phần lớn trong nội dung về quyền của
nhóm và cấu thành một bộ phận quan trọng của luật quốc tế về quyền con người.
Hiện chưa có một định nghĩa chính thức về nhóm người dễ bị tổn thương, tuy cụm
từ này được sử dụng thường xuyên trong các tài liệu, đặc biệt là các nghiên cứu về
luật nhân quyền quốc tế. Từ những tài liệu đó có thể hiểu khái niệm nhóm người dễ
bị tổn thương chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế
thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền
16
con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng
đồng người khác. Luật nhân quyền quốc tế xác định những nhóm người dễ bị tổn
thương, gồm: Phụ nữ; Trẻ em; Người khuyết tật (thể chất, tâm thần); Người thiểu
số/bản địa; Người nước ngoài/người không quốc tịch; Người tị nạn/tìm kiếm quy
chế tị nạn; Người lao động di trú; Người bị tước tự do; Tù binh chiến tranh, dân
thường trong vùng chiến sự hoặc vùng bị lực lượng quân sự nước ngoài chiếm
đóng; Người già; Người sống chung với HIV... Danh sách trên cho thấy, người bị
tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và cần phải được quan tâm, bảo vệ.
Lý do người bị tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương là vì:
Do địa vị pháp lý là người bị giới hạn một số quyền so với các công dân bình
thường. Vì vậy họ bị giảm đi cơ hội hưởng thụ các quyền như những người bình
thường khác. Chẳng hạn như quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hành nghề…
Khi một người bị tước tự do thì quyền trên sẽ bị hạn chế.
Bên cạnh đó là lý do xã hội. Do nhận thức và quan niệm chưa được đầy đủ
của một số người trong xã hội, cho nên những người bị tước tự do bị khinh miệt, bị
xa lánh và kỳ thị. Cũng vì đó mà các quyền chính đáng của họ bị xâm phạm. Việc bị
giới hạn quyền tư do là đã bị tước đi một số quyền quan trọng của con người, đó là
quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Nhưng cũng chính từ địa vị đó càng khiến cho
những người bị tước tự do dễ bị tổn thương hơn. Đó là nguy cơ cao bị tra tấn, bị
đánh đập, bị bức cung… Điều đó xuất phát từ chính một bộ phận những người thi
hành công vụ, những người cầm quyền. Một số người dân cũng có cái nhìn không
mấy thiện cảm với những người bị tước tự do. Bị kỳ thị là nguyên nhân khiến họ bị
tổn thương về mặt tinh thần.
Thứ hai: Đó là những quyền cơ bản và đặc thù của con người cho dù họ có
bị tước hoặc hạn chế một số quyền tự do.
Quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ,
vận dụng, thi hành... Và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi
để giành lại. Quyền của người bị tước tự do là một bộ phận cấu thành của quyền con
người. Quyền con người xuất phát từ chính phẩm giá của mỗi con người, không phân
17
biệt giới tính, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ địa vị nào. Người bị tước tự do
cũng có những phẩm chất và giá trị con người. Không phải vì bị tước tự do mà các
giá trị con người của họ bị mất hết và không còn là con người. Vì vậy họ cũng phải
có các quyền con người cơ bản – những quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể
tước đoạt. Nhân phẩm là những phẩm chất, giá trị chỉ con người mới có và tạo nên tư
cách, vị thế, sự khác biệt của con người trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau
và tồn tại bên trong đời sống của mỗi người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có
chứa tư tưởng về giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của
mỗi cá nhân mà đươc mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng. Điểm bắt đầu
của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các
thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận trong UDHR và hai công ước
ICCPR, ICESCR. Ngay trong lời nói đầu của UDHR đã đề cập đến “phẩm giá vốn
có” [21, tr.44] của con người và khẳng định mọi người đều tự do và bình đẳng về
“phẩm giá và các quyền” (trong Điều 1) [21, tr.59]. Còn trong hai công ước ICCPR,
ICESCR đều khẳng định quyền con người “bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con
người” (lời nói đầu) [16, tr.77; tr.55]. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người
nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, do đó là nhằm đáp ứng những đòi
hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con người.
Người bị tước tự do cũng được hưởng các quyền con người cơ bản trên
cương vị bình đẳng như bất cứ cá nhân nào khác. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng
những quyền đặc thù, mà bản chất là những ưu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt
dành cho nhóm người này dựa trên những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ.
Đó là các quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo, các
quyền thuộc nhóm quyền xét xử công bằng, quyền của nhóm người chưa thành
niên… Việc quy định những ưu tiên này không phải bởi vì các quyền được ưu tiên
thự hiện có giá trị cao hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy có bị đe
dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn các quyền khác.
Như vậy là nói đến quyền của người bị tước tự do bên cạnh các quyền cơ bản
của con người còn bao gồm các quyền đặc thù của nhóm.
18
Thứ ba: các quyền của người bị tước tự do được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Hiện có hai trường phái (học thuyết) về nguồn gốc của nhân quyền:
Thuyết quyền tự nhiên cho rằng, quyền con người, bao gồm cả quyền của
người bị tước tự do là những gì bẩm sinh, vốn có thuộc về con người mà ai cũng
được hưởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Tuyên ngôn
độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định: "Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể chối
cãi được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc". Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư
tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã
hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ,
mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết này có điểm tích cực
là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển
tự nhiên. Nhưng nhược điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con
người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển. Bên cạnh học
thuyết về quyền tự nhiên, một trường phái khác cho rằng quyền con người nói chung,
quyền của người bị tước tự do nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền
con người phải được quy định trong pháp luật. Như vậy, quyền con người vẫn là
những đặc quyền tự nhiên, vốn có ngay từ khi sinh ra. Nhưng khi chưa được Nhà
nước, pháp luật ghi nhận thì các quyền tự nhiên chưa trở thành quyền.
Việc phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp. Bởi vì,
trong UDHR và một số văn kiện khác thì nhân quyền được khẳng định rõ ràng là
các quyền tự nhiên. Cụ thể trong đoạn 1, lời nói đầu UDHR nêu rằng: “thừa nhận
phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên
trong gia đình nhân loại” [21, tr.44]. Ngược lại về hình thức, hầu hết các văn kiện
pháp luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý. Hai
học thuyết quyền tự nhiên và quyền pháp lý bổ sung cho nhau chứ không loại trừ
nhau. Mâu thuẫn, đối lập chỉ do cách hiểu và vận dụng không đúng đắn. Bởi vì
thuyết về quyền tự nhiên muốn nói đến nguồn gốc, bản chất, không nói đến cách
19
thức ghi nhận, thực hiện quyền và không phủ nhận việc các quyền tự nhiên cần phải
được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Còn thuyết về quyền pháp lý nhấn mạnh
cách thức ghi nhận, thực hiện quyền chứ không phủ nhận nguồn gốc của quyền là tự
nhiên, vốn có. Quyền pháp lý là tập hợp chọn lọc và đã được cụ thể hóa của các
quyền tự nhiên. Tập hợp này có thể chưa bao gồm hết các quyền tự nhiên, nhưng
không tuyên bố phủ nhận những gì chưa được pháp điển hóa. Như vậy có nghĩa là
quyền con người vẫn là những gì bẩm sinh, vốn có mà pháp luật chỉ có thể thừa
nhận và bảo đảm.
Một lập luận khác chứng minh cho nhận định trên, đó là khi xét đến bản chất
của con người dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin: Triết học Mac-Lênin đã chỉ
ra rằng con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội; trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội; con
người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Như vậy là ở con người vừa có tính tự
nhiên (sinh vật) vừa có tính xã hội. Do đó, quyền con người một mặt mang tính tự
nhiên, là những gì bẩm sinh, vốn có của mỗi con người. Mặt khác, quyền con người
cũng mang tính lịch sử và xã hội. Có nghĩa là quyền con người là kết quả và phụ
thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong
mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quy phạm và cơ chế khác
nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ
quyền của người bị tước tự do. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người
không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy
tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã
hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp
luật đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tước tự do thể hiện rõ ở hai khía
cạnh là thừa nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật
là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên.
Ngay cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tước tự do cũng
20
không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Mà chỉ khi được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ thì những quyền của người bị tước tự do mới mang đầy đủ giá trị hiện
thực. Pháp luật có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và
thực hiện các quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện
vai trò của pháp luật, đó là phương tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền
của người bị tước tự do. Khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực
hiện các quyền của người bị tước tự do mới mang tính cưỡng chế, bắt buộc với mọi
chủ thể trong xã hội. Lúc này, pháp luật là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân
thủ, thực thi các quyền của người bị tước tự do của các chủ thể khác nhau trong xã
hội. Hơn nữa, đó cũng là công cụ để các cá nhân bảo vệ các quyền của mình thông
qua việc vận dụng các quy phạm pháp lý. Sự bảo vệ đối với nhóm người bị tước tự
do không chỉ được quy định trong luật pháp quốc tế mà trong pháp luật của tất cả
các quốc gia, tuy với những mức độ khác nhau, cách thức khác nhau.
Thứ tư: những quyền của người bị tước tự do được bảo đảm bằng cơ chế
không chỉ trong phạm vi quốc tế mà ở cả phạm vi khu vực và phạm vi quốc gia.
Các quyền của người bị tước tự do được quy định trong luật pháp quốc tế và
quốc gia. Để các quyền đó đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực thì cần thiết phải
có cơ chế bảo đảm. Nói cách khác, qui định pháp luật là xuất phát điểm bảo đảm
quyền con người nhưng hiệu quả của qui định sẽ bị hạn chế nếu không có cơ chế
đầy đủ để thực thi vì kinh nghiệm thực tiễn chứng minh quan trọng là thực thi pháp
luật. Cơ chế có nghĩa là "cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng, cơ sở
theo đó một quá trình thực hiện" [15, tr.328]. Cơ chế bao gồm bộ máy các cơ quan
chuyên trách và hệ thống các quy tắc, trình tự, thủ tục để thực hiện việc bảo vệ
quyền. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do hiện nay có ba cấp độ, đó là
cơ chế quốc tế; cơ chế khu vực; cơ chế quốc gia. Cơ chế quốc tế có phạm vi rộng
lớn, toàn cầu và có vai trò nhất định trong việc bảo đảm quyền của người bị tước tự
do. Nhưng ở một mức độ nhất định, một số cơ chế khu vực (như cơ chế khu vực
châu Âu) lại tỏ ra chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc.
Bởi vì, các quốc gia trong khu vực thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa,
21
truyền thống cho nên dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và
thực hiện. Hơn nữa các cơ chế khu vực có thể dễ dàng tiếp cận với công chúng hơn
so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc, bởi vì phạm vi địa lý hẹp hơn. Cơ chế
quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của
người bị tước tự do.
Tóm lại quyền của người bị tước tự do là quyền con người được thừa nhận
trong pháp luật và được bảo đảm bằng cơ chế ở cả phạm vi quốc tế, khu vực và
quốc gia cho dù trong hoàn cảnh bị giới hạn các tự do chính trị, dân sự.
1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do
Các quyền của người bị tước tự do được ghi nhận và bảo đảm thực thi có ý
nghĩa quan trọng như sau:
1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người
Người bị tước tự do là thành viên của gia đình nhân loại. Vì vậy bảo đảm
quyền cho họ cũng chính là bảo đảm quyền con người nói chung. Việc thừa nhận
các quyền của người bị tước tự do và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó sẽ là
công cụ pháp lý trừng trị những chủ thể có hành vi xâm hại quyền của người bị tước
tự do cho dù người đó là ai.
Quyền con người không được sử dụng để vi phạm quyền của người khác -
Điều 30 của UDHR [21, tr.656]. Do vậy, tất cả các xung đột phải được giải quyết
mà vẫn phải tôn trọng quyền con người kể cả vào những lúc khẩn cấp và trong
trường hợp cần áp đặt một vài hạn chế. Người bị tước tự do cũng có nhân phẩm và
họ cần phải được tôn trọng với phẩm giá vốn có. Không thể vì họ là người bị tước
tự do mà nhân phẩm của họ bị giảm sút hay mất đi. Ngược lại, họ cần được bảo vệ
hơn bởi vị thế dễ bị tổn thương của mình. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu đầy đủ và
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về các biện pháp tước tự do sẽ
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp
phần quan trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người nói chung.
Luật nhân quyền quốc tế đã thừa nhận quyền của người bị tước tự do bằng
một hệ thống các quy định trong các văn kiện pháp lý. Bên cạnh đó các cơ chế bảo
22
đảm quyền của người bị tước tự do cũng được thiết lập. Điều đó sẽ góp phần làm
hạn chế các hành vi xâm hại đến quyền của người bị tước tự do. Do đó, việc quy
định quyền và cơ chế thực thi quyền cho người bị tước tự do có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo đảm quyền cho họ, chống lại các hành vi xâm hại tới quyền của họ
do các chủ thể khác thực hiện.
1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được
hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu nhà nước
pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng
pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Pháp luật đó được các chủ thể
thực hiện một cách tự giác chứ không ép buộc. Bởi lẽ đó là pháp luật vì quyền con
người, phục vụ con người, là pháp luật của dân chủ, bình đẳng và văn minh. Đó là
nhà nước bảo đảm quyền con người tốt nhất trong lịch sử loài người.
Trong một nền dân chủ hiện đại, không thể thiếu vắng vai trò của việc đề cao
pháp luật, xem pháp luật là nguyên tắc tối thượng; đồng thời, có những cơ chế để
kiềm chế xu hướng tha hóa, lạm dụng quyền lực nhà nước của bất cứ nhánh quyền
lực nào cũng như của từng cá nhân - công chức và quan chức nhà nước - là những
người đại diện cho nhân dân. Hơn thế nữa pháp luật đó phải được xây dựng theo
một quy trình dân chủ, minh bạch và công khai. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai
trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội,
quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể
đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong
nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước.
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền
con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các
quy định của luật pháp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ
23
thống pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến
pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và
phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm
của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không
phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà
nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự
dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bản chất của nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng giá trị nhân quyền
và bảo đảm cho các giá trị đó được thực thi trong thực tế. Khi quyền của những
người bị tước tự do được bảo vệ tức là đã góp phần xây dựng một Nhà nước pháp
quyền và đó cũng là một tiêu chí để xác định nhà nước đó có phải là Nhà nước pháp
quyền hay không?
1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại
Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân
loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình đẳng, tự do
trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân tộc; và đó cũng là
thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã
hội, làm chủ bản thân mình. Ở thời kỳ nô lệ, có tầng lớp nô lệ - những kẻ không
được coi là người, không được hưởng các quyền con người tối thiểu. Họ có thể bị
bắt, giam cầm bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Và khi đó, họ bị đối xử tàn tệ, bị tra
tấn, đánh đập, bị kết tội không cần lý do. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã
là một bước tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Tuy vậy
các quyền con người trong đó có quyền của người bị tước tự do vẫn bị xâm phạm
không thương tiếc. Việc tra khảo (tra tấn) được coi như là một nghiệp vụ điều tra
dưới các triều đại phong kiến. Trong xã hội này bị tước tự do đồng nghĩa với bị
tước bỏ mọi quyền con người khác. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài
24
người, nội dung các quyền con người tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng nhân
quyền quốc tế hiện đại bắt đầu bằng sự ra đời của Hiến chương Liên Hợp quốc
1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền UDHR - hai văn kiện quốc tế quan
trọng đầu tiên về nhân quyền. Ngay tại UDHR, rất nhiều quyền của người bị tước tự
do đã được khẳng định. Đó là tại các Điều 5 (về quyền không bị tra tấn, đối xử, xử
phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm); Điều 7 (về quyền
bình đẳng trước pháp luật); Điều 9 (về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện); Điều
10 (về quyền được xét xử công bằng); Điều 11 (về quyền được suy đoán vô tội)…
Sau đó, quyền con người được pháp điển hoá trong một loạt Công ước quốc tế về
nhân quyền. Đặc biệt trong ICCPR nhiều quyền quan trọng của người bị tước tự do
đã được ghi nhận. Đó là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm (Điều 7); quyền không bị bắt hoặc
giam giữ tùy tiện (Điều 9), quyền được đối xử nhân đạo (Điều 10); quyền được xét
xử công bằng… Hệ thống các quyền trên của người bị tước tự do sau đó được cụ
thể hóa tại hoàng loạt các văn kiện quốc tế như: Công ước chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 - CAT
(Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or
Punishment), Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị
cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988, Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước tự do, 1990…
Sự phát triển của các quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự
do nói riêng phản ánh sự phát triển của xã hội ngày càng văn minh hơn. Khát vọng
bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lõi của khái niệm quyền con người,
coi cá nhân con người là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một hệ thống giá
trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh thiêng của cuộc sống và tạo ra một
khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu
chuẩn quốc tế bảo vệ. Quyền con người cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn như
bảo vệ quyền bình đẳng chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử trong hưởng thụ
tất cả các quyền con người. Người bị tước tự do cũng có quyền sống, quyền hưởng
25
thụ các giá trị văn hóa… như những công dân bình thường. Quyền con người của
những người khác cần được tôn trọng chứ không chỉ khoan dung. Những người bị
tước tự do được hưởng các quyền con người chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của
đại gia đình nhân loại. Việc họ được hưởng các quyền là chính đáng chứ không phải
xã hội, nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào đang ban phát cho họ các quyền đó.
Tóm lại là quyền của người bị tước tự do nói riêng, quyền con người nói
chung là sự phát triển tất yếu của xã hội văn minh. Trong một cuộc khảo sát do
CNN (Cable News Network) – một trong các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất
thế giới - tiến hành, quyền con người được xem là một trong mười phát minh làm
thay đổi thế giới (cùng với nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắcxin,
thuyết tiến hóa, mạng thông tin toàn cầu, xà phòng, số không và lực hấp dẫn [15,
tr.38]. Quyền của người bị tước tự do là một bộ phận của quyền con người, việc bảo
đảm quyền của người bị tước tự do chính là đã bảo đảm quyền con người – một
trong các phát minh làm thay đổi thế giới.
1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế
Người bị tước tự do bị giới hạn một số tự do. Tuy nhiên họ vẫn được hưởng
những quyền cơ bản của con người. Ngoài ra họ còn được hưởng các quyền đặc thù.
Các quyền của người bị tước tự do có thể chia thành các nhóm quyền: Nhóm quyền
an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm; Nhóm quyền xét xử công bằng; Nhóm quyền
hưởng thủ tục tố tụng riêng cho người chưa thành niên. Các quyền cụ thể của người
bị tước tự do có thể được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn quốc tế
về nhân quyền
Nhóm quyền Các quyền cụ thể Nguồn
Nhóm quyền
an toàn thân
thể, danh dự,
nhân phẩm
1.Quyền sống Điều 3 UDHR; Điều 6 ICCPR
2.Quyền được bảo vệ không bị tra
tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
Điều 5 UDHR; Điều 7 ICCPR;
Công ước CAT
3.Quyền được bảo vệ để khỏi bị
bắt, giam giữ tùy tiện
Điều 9 UDHR; Điều 9 ICCPR
4.Quyền được đối xử nhân đạo và
tôn trọng nhân phẩm của người bị
tước tự do
Điều 10 ICCPR
26
5.Quyền được thông tin, liên lạc
với bên ngoài
Những quy tắc chuẩn tối thiểu
về đối xử với tù nhân, 1955
6.Quyền khiếu nại, tố cáo việc
giam giữ trái phép
Điều 9(4) ICCPR
7.Quyền không bị bỏ tù vì không
hoàn thành được nghĩa vụ theo
hợp đồng
Điều 11 ICCPR
Nhóm quyền
được xét xử
công bằng
1.Quyền không bị phân biệt đối
xử, được thừa nhận và bình đẳng
trước pháp luật
Điều 2 UDHR; Điều 26 ICCPR;
Điều 2 ICESCR
2.Quyền được thông tin về lý do
bắt giữ và những quyền khi bị bắt
giữ
Điều 3 UDDHR; Điều 9(2)
ICCPR
3.Quyền im lặng và không bị buộc
phải đưa ra lời khai chống lại
chính mình
Điều 14(2, g) ICCPR
4.Quyền được xét xử công khai Điều 10 UDHR; Điều 14
ICCPR
5.Quyền bào chữa, bao gồm quyền
tự bào chữa và nhờ luật sư bào
chữa
Điều 14(3) ICCPR
6.Quyền được suy đoán vô tội Điều 11 UDHR; Điều 14
ICCPR
7.Quyền được xét xử bởi cơ quan
tài phán có thẩm quyền, độc lập,
vô tư, được thành lập theo pháp
luật
Điều 7, 10 UDHR; Điều 14
ICCPR
8.Quyền không bị áp dụng hồi tố
và kết án nhiều lần vì cùng một
hành vi phạm tội
Điều 11(2) UDHR; Điều 15
ICCPR
9.Quyền kháng cáo Điều 14 (5) ICCPR; Bình luận
chung số 32 của Ủy ban nhân
quyền
10. Quyền được bồi thường khi bị
bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp
Điều 9 ICCPR
Nhóm quyền
của người chưa
thành niên bị
tước tự do
Quyền được hưởng tố tụng riêng
cho người chưa thành niên khi bị
tước tự do
Điều 14(4) ICCPR; Điều 40
CRC; Các quy tắc của Liên Hợp
Quốc về bảo vệ người chưa
thành niên bị tước tự do, 1990
27
Đó là các quyền tiêu biểu nhưng không phải là toàn bộ các quyền của người
bị tước tự do. Ngoài những quyền kể trên người bị tước tự do được hưởng một số
quyền cơ bản như bất kỳ thành viên nào của đại gia đình nhân loại, chẳng hạn như
quyền được hưởng những thành quả của khoa học (Điều 15 ICESCR); quyền được
sống trong hòa bình (trong Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc đối với hòa bình
1984); quyền được sống trong một môi trường an toàn và trong lành (trong Tuyên
bố về môi trường con người 1972)… Hoặc các quyền khác khi người bị tước tự do
tham gia tố tụng như quyền có phiên dịch miễn phí (điểm f khoản 2 Điều 14
ICCPR), quyền có mặt trong khi xét xử (điểm d khoản 2 Điều 14 ICCPR), quyền
thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn nhân chứng (điểm e khoản 2 Điều 14 ICCPR)…
Hơn nữa cũng cần lưu ý, người bị tước tự do khi tham gia tố tụng thì các quyền mà
họ được hưởng cũng là quyền của người tham gia tố tụng nói chung (gồm cả những
người không bị tước tự do), chẳng hạn như quyền kháng cáo, quyền bồi thường khi
bị kết án oan… Trong phạm vi luận văn này tác giả đi vào phân tích một số quyền
cụ thể của người bị tước tự do như sau:
1.3.1. Quyền sống
Nguồn: Điều 3 UDHR; Điều 6 ICCPR…
Điều 3 UDHR quy định rằng, mỗi cá nhân đều có quyền sống, quyền tự do
và an ninh cá nhân. Quyền sống liên quan chặt chẽ đến hình phạt tử hình và một số
quyền đặc thù khác của người bị tước tự do. Đó là quyền không bị tra tấn hay bị
trừng phạt và đối xử một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục và quyền không bị
bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện. Điều 6 ICCPR quy định nghĩa vụ của
các quốc gia thực hiện những biện pháp thích hợp để bảo vệ mọi người khỏi nguy
cơ bị tước đoạt tính mạng một cách tùy tiện bởi mọi chủ thể. Tức là người bị tước tự
do dù là tù nhân, người bị tạm giam, tạm giữ, quản chế, cấm cư trú, cải tạo… thì họ
vẫn cần được đảm bảo quyền sống, đảm bảo sự tồn tại. Chính vì vậy, ICCPR đã yêu
cầu rằng án tử hình nên bị xóa bỏ khi có thể. Nghị định thư tùy chọn thứ hai của
ICCPR, với mục đích bãi bỏ án tử hình, các quốc gia thành viên phải từ bỏ việc tử
hình (đoạn 1, Điều 1) và bằng mọi biện pháp có thể, bao gồm cả pháp lý, để bãi bỏ
28
hình phạt tử hình (đoạn 2 Điều 1). Đoạn 5 khoản 2 Điều 6 của ICCPR quy định các
cá nhân mà tại thời điểm phạm tội dưới 18 tuổi không thể bị xử tử hình, và những
bản án tử hình không được áp dụng đối với phụ nữ mang thai. Việc thi hành một
bản án tử hình không tương đương với sự tra tấn, đối xử hay trừng phạt vô nhân đạo
hoặc hạ thấp nhân phẩm.
Về khía cạnh thứ hai của quyền sống là bảo đảm các điều kiện tồn tại của
con người đối với người bị tước tự do, luật nhân quyền quốc tế quy định:
- Về việc ăn ở: Nếu chỗ ngủ là phòng cá nhân, thì mỗi tù nhân sẽ được sử
dụng riêng phòng đó. Nếu vì lý do đặc biệt nào đó, ví dụ như số lượng tăng đột biến
tạm thời, cơ quan quản lý trại có thể có ngoại lệ trong quy định này, nhưng việc hai
tù nhân phải sống trong một phòng là điều cần tránh. Cần phải có kiểm tra đêm để
đảm bảo đảm tình hình an ninh trong trại giam. Mọi chỗ nghỉ cho tù nhân, đặc biệt
là chỗ ngủ, cần phải đảm bảo yêu cầu sức khỏe, cần có sự quan tâm đến điểu kiện
môi trường, không khí, không gian sàn tối thiểu, hệ thống sưởi và thông khí.
- Quần áo, vệ sinh cá nhân: Các tù nhân được cung cấp nước và đồ dung vệ
sinh cần thiết để giữ gìn sức khỏe và sự sạch sẽ. Những quần áo mà tù nhân mặc
không được thể hiện sự hạ nhục hay lăng mạ. Tất cả quần áo phải được giữ sạch sẽ
và trong điều kiện tốt.
- Chế độ dinh dưỡng, hoạt động thể thao: Mọi tù nhân phải được cung cấp đồ
ăn với giá trị dinh dưỡng phù hợp cho sức khỏe vào thời gian nhất định, đảm bảo
chất lượng, được chuẩn bị cẩn thận và phục vụ chu đáo. Nước uống phải luôn có
sẵn để tù nhân có thể sử dụng ngay khi cần. Mọi tù nhân không được lao động bên
ngoài phải có ít nhất một giờ tập thể dục thích hợp ở ngoài trời hàng ngày nếu thời
tiết cho phép, tùy vào từng độ tuổi khác nhau mà có hoạt động thể lực cho phù hợp.
- Chăm sóc sức khỏe: Mọi trại giam phải có ít nhất một cán bộ y tế có đủ
trình độ, có một số kiến thức về tâm sinh lý cung cấp dịch vụ. Các dịch vụ y tế cần
được tổ chức trong mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quản lý y tế chung của cộng
đồng hay quốc gia. Dịch vụ y tế phải bao gồm chuyên môn tâm thần để chuẩn đoán,
và trong một số trường hợp thích đáng, điều trị những trạng thái thần kinh không
29
bình thường. Các tù nhân bị ốm và cần điều trị đặc biệt phải được chuyển sang
những nhà tù chuyên biệt hoặc chuyển tới các bệnh viện dân sự.
1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục
Nguồn: Điều 5 UDHR; Điều 7 ICCPR; Công ước chống tra tấn CAT…
Điều 1 Công ước chống tra tấn CAT đưa ra định nghĩa “tra tấn” như sau:
“Tra tấn có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ
nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy
thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt
người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ
đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất
kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi
đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư
cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một
công chức.” [16, tr.148]
Tra tấn thường xảy ra trong khi các nạn nhân bị biệt giam, tức là họ không
thể liên lạc với những người bên ngoài để những người này có thể giúp đỡ hay biết
được điều gì đang xảy ra với họ. Chính phủ cần bảo đảm rằng biệt giam không trở
thành cơ hội để tra tấn. Điều quan trọng là tất cả tù nhân được đưa ra cơ quan tư
pháp ngay sau khi bị giam cầm và những người thân, luật sư và các bác sĩ đều được
tiếp xúc nhanh chóng và đều đặn với họ. Ở một số nước, tra tấn xảy ra tại các trung
tâm bí mật, sau khi các nạn nhân bị “biến mất”. Chính phủ phải bảo đảm rằng tù
nhân được giam ở những nơi công khai, và được thông tin chính xác về nơi giam
giữ cho người thân và luật sư của họ.
Hành động tra tấn gây ra những sự đau đớn của con người cả về thể xác lẫn
tinh thần. Theo các văn kiện quốc tế hiện tại những hành vi tra tấn được thực hiện
bởi những thủ phạm phi công chức, (ví dụ việc một nhóm phiến quân bắt cóc con
tin và tra tấn họ hay việc một người chồng đánh đập vợ mình) sẽ không thuộc nội
hàm của hành động tra tấn. Nhằm góp phần làm rõ hơn quyền không bị tra tấn hoặc
30
đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, luật quốc tế đề cập đến các tiêu chí xác định thế nào là
giam giữ nhân đạo gồm:
- Không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục;
- Nơi giam giữ được xác định; việc giam giữ phải được ghi chép vào hồ sơ;
- Được chăm sóc sức khỏe một cách thích đáng; kỷ luật phải thích đáng,
không bị còng, trói, giam trong thời gian dài...
Chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được
coi là một quy phạm tập quán quốc tế về nhân quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia
trên thế giới đều có nghĩa vụ tuân thủ, bất kể có phải là thành viên của ICCPR, CAT
hay bất cứ điều ước quốc tế nào khác có liên quan hay không. Vào năm 1997, Liên
hiệp quốc đã tuyên bố ngày 26/6 là Ngày Quốc tế hỗ trợ các nạn nhân của tra tấn.
1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
Nguồn: Điều 9 UDHR; Điều 9 ICCPR…
Theo Ủy ban giám sát ICCPR, điều trên được áp dụng cho tất cả những
người bị tước tự do, kể cả trưởng hợp do phạm tội hay do bị tâm thần, lang thang,
nghiện ma túy, hay để nhằm các mục đích giáo dục, kiểm soát nhập cư… [19,
tr.258]. Cũng theo Ủy ban nhân quyền, việc tạm giam trước khi xét xử chỉ nên coi
là ngoại lệ và càng ngắn càng tốt; thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định tại
khoản 3 Điều 9 ICCPR tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia, tuy nhiên không
nên vượt quá vài ngày. [19, tr.259].
Như vậy, việc bắt, giam giữ được coi là tùy tiện khi không dựa trên những lý
do và phù hợp với những thủ tục luật định, luật đó phải phù hợp với luật nhân quyền
quốc tế. Nó không chỉ bao gồm bắt, giam, giữ trái pháp luật mà còn gồm cả việc
bắt, giam, giữ không thích đáng, không công bằng và bất thường. Trong những
trường hợp như vậy các nạn nhân có quyền được yêu cầu bồi thường.
1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do
Theo đó thì việc đối xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục
đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội, chứ không phải nhằm mục đích
trừng phạt hay hành hạ họ. Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền này được quy
31
định cụ thể trong Điều 10 ICCPR, theo đó: “Những người bị tước tự do phải
được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người”. Khoản
2 Điều này quy định:
“Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt
với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với
quy chế dành cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên phải
được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng
tốt” [16, tr.82].
Ủy ban giám sát ICCPR cho rằng việc đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân
phẩm của những người bị tước tự do là một nguyên tắc cơ bản về nhân quyền trong
tố tụng hình sự mà các quốc gia thành viên phải áp dụng như một yêu cầu tối thiểu,
không phụ thuộc vào nguồn lực sẵn có của quốc gia và không mang tính phân biệt
đối xử dưới bất kỳ hình thức nào. [19, tr.291].
1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên
Nhóm quyền này bao gồm nhiều quyền cụ thể nhằm đảm bảo người chưa
thành niên được hưởng tố tung riêng, có xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy
sự phục hồi nhân cách của họ. Hiện nay theo luật nhân quyền quốc tế hai khái niệm
trẻ em và người chưa thành niên đồng nhất với nhau. Cụ thể tại Điều 1 Công ước
quốc tế về quyền trẻ em CRC (Convention on the Rights of the Child) năm 1989
quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [16, tr.64]. Còn tại Điều 11 của
“Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do năm
1990” khẳng định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [16, tr.708].
Người chưa thành niên có nhiều hạn chế về thể chất, tâm sinh lý, bởi vậy
cộng đồng quốc tế đã dành nhiều quan tâm bảo vệ người chưa thành niên về mặt
pháp lý. Theo đó, người chưa thành niên làm trái pháp luật phải được hưởng những
đảm bảo tố tụng ít nhất cũng ngang bằng với những người đã thành niên. Việc áp
dụng các biện pháp tước tự do cũng như thi hành tố tụng với những người chưa
thành niên làm trái pháp luật cần tính đến độ tuổi của các em và khuyến khích các
em hoàn lương. Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
32
tự do tại Điều 2 khẳng định: “…Việc tước tự do của người chưa thành niên chỉ
được sử dụng như là biện pháp cuối cùng và trong một thời gian cần thiết tối thiểu,
và chỉ nên giới hạn đối với những trường hợp ngoại lệ…” [16, tr.705]. Khoản 4
Điều 14 ICCPR quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên phải xem
xét đến độ tuổi và khuyến khích sự phục hồi của trẻ [16, tr.84]. Công ước quyền trẻ
em CRC 1989 tại mục b khoản 2 Điều 40 cũng khẳng định các quyền của trẻ em
được các đảm bảo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự [16, tr.179]. Quy tắc chuẩn
tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)
1985 đã dành nhiều ưu đãi đặc biệt cho người chưa thành niên. Ngoài ra Quy tắc
của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do 1990, bên cạnh
việc quy định rất nhiều bảo đảm đối với người chưa thành niên, cũng nhấn mạnh
quyền có luật sư bào chữa và được yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả tiền
trong giai đoạn chờ xét xử của họ [16, tr.710].
1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền
quốc tế
1.4.1. Cơ chế quốc tế
Dựa trên vị thế pháp lý và chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan nhân quyền
Liên hợp quốc được chia làm hai dạng là cơ chế dựa trên Hiến chương và cơ chế
dựa trên Công ước. Cụ thể:
1.4.1.1. Cơ chế dựa trên Hiến chương
Là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức và thủ tục hoạt động của các cơ quan chính
của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền nói chung, quyền của
người bị tước tự do nói riêng.
a. Hệ thống cơ quan:
Dựa trên Hiến chương, Liên hợp quốc thành lập 6 cơ quan chính, trong đó,
hiện nay hội đồng quản thác đã chấm dứt hoạt động, các cơ quan còn lại đều tham
gia vào việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới: Đại hội đồng là cơ quan thiết lập các
chuẩn mực quốc tế về quyền con người; Xây dựng bộ máy cơ quan nhân quyền của
Liên hợp quốc; Quyết định việc xử lý các vi phạm quyền con người. Hội đồng bảo
an (HĐBA) là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có quyền áp dụng các biện pháp
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại họcLuận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt NamLuận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY

Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY (20)

Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAYLuận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
 
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luậtĐề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
 
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt NamLuận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
 
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOTLuận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Viện Kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người, HOT
 
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt NamQuyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
 
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
 
Luận văn: Tư tưởng cơ bản của Phật giáo về quyền con người
Luận văn: Tư tưởng cơ bản của Phật giáo về quyền con ngườiLuận văn: Tư tưởng cơ bản của Phật giáo về quyền con người
Luận văn: Tư tưởng cơ bản của Phật giáo về quyền con người
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAYĐề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại
Luận văn thạc sĩ quyền con người: Các hình thức nô lệ hiện đại
 
Luận văn: Các hình thức nô lệ hiện đại, HAY, 9đ
Luận văn: Các hình thức nô lệ hiện đại, HAY, 9đLuận văn: Các hình thức nô lệ hiện đại, HAY, 9đ
Luận văn: Các hình thức nô lệ hiện đại, HAY, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề pháp lý về các hình thức nô lệ hiện đại, HAY
Luận văn: Vấn đề pháp lý về các hình thức nô lệ hiện đại, HAYLuận văn: Vấn đề pháp lý về các hình thức nô lệ hiện đại, HAY
Luận văn: Vấn đề pháp lý về các hình thức nô lệ hiện đại, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOTLuận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NHÀN QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2013
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Tạ Thị Nhàn
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO .......................................................................11 1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do...............................................11 1.1.1. Người bị tước tự do ....................................................................................11 1.1.2. Quyền của người bị tước tự do...................................................................14 1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do............................21 1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người..........................................................21 1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền.........................22 1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại...............................................23 1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế.....25 1.3.1. Quyền sống..................................................................................................27 1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục............................................................................29 1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện..................................30 1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do ......................................................................................30 1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên.....................31 1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế..............................................................................................32 1.4.1. Cơ chế quốc tế .............................................................................................32 1.4.2. Cơ chế khu vực............................................................................................38 1.4.3. Cơ chế quốc gia ...........................................................................................41
  • 4. Chương 2: VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO............................................................................................43 2.1. Sự phát triển các quyền của người bị tước tự do trong pháp luật Việt Nam.....................................................................................................44 2.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1974........................................................................44 2.1.2. Từ năm 1975 đến nay ..................................................................................46 2.2. Nội dung các quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam .....49 2.2.1. Quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam............................49 2.2.2. Tước tự do trong lĩnh vực hành chính theo pháp luật Việt Nam so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan ..............................................58 2.3. Thực tiễn việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam.......62 2.3.1. Hạn chế........................................................................................................68 2.4. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam................................................................73 2.4.1. Một số phương hướng hoàn thiện................................................................73 2.4.2. Hoàn thiện pháp luật....................................................................................76 2.4.3. Nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do .......................83 KẾT LUẬN..............................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................88 PHỤ LỤC
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - ACHPR: Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981 (African Charter on Human and Peoples’ Rights); - ACHR: Công ước châu Mỹ về quyền con người, 1969 (American convention on Human rights); - CAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment); - CEDAW: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt dối xử với phụ nữ, 1979 (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against Women); - CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child); - ECHR: Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản, 1950 (The European Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms); - ECOSOC: Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (The United Nations Economic and Social Council); - ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights); - ICJ: Tòa án công lý quốc tế, (Internatinonal Court of Justice); - ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966 (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights; - NGOs: Các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations); - NHRIs: Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền (National Institution on the Protection and Promotion of Human Rights); - UDHR: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948 ((Universal Declaration of Human Rights); - UNCHR: Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Commission on Human Rights); - UNHRC: Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Human Rights Council); - UPR: Cơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review); - WGAD: Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện của Liên hợp quốc (Working Group on Arbitrary Detetion); - BLDS: Bộ luật dân sự; - BLHS: Bộ luật hình sự; - TAND: Tòa án nhân dân; - THAHS: Thi hành án hình sự; - TTHS: Tố tụng hình sự; - VKSND: Viện kiểm sát nhân dân; - XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền ............................................................................25 Bảng 1.2. Điểm khác biệt giữa hai cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền của người bị tước tự do ................................................................................37 Bảng 2.1. Các nhóm đối tượng bị tước tự do ở Việt Nam hiện nay căn cứ theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế .......................................................49 Bảng 2.2. So sánh các quy định về quyền của người bị tước tự do trong pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan..........................50 Bảng 2.3. Quy mô giam giữ của 11 nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. .......64
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vào thời kỳ cổ đại, người ta tin rằng có những người sinh ra để làm nô lệ và thân phận nô lệ là thích hợp và chính đáng cho họ. Đối với những người này việc có một người chủ tốt là may mắn và tốt đẹp. Đến thời phong kiến tầng lớp nô lệ đã không còn tồn tại trong xã hội. Tuy nhiên vẫn còn những tầng lớp, giai cấp khác cho mình quyền áp bức, bóc lột các giai tầng còn lại. Trải qua bao năm đấu tranh với bao mất mát, khổ đau, cho đến thời điểm hiện nay, nhân loại toàn thế giới đã công nhận: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu” (trích Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948). Trong thời đại ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề mang tính quốc tế, giá trị quyền con người đã được nhìn nhận ở tất cả các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ. Bất kỳ ai trên thế giới này không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, giới tính…đều được hưởng những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong luật quốc tế về nhân quyền. Tuy vậy, cuộc đấu tranh cho nhân quyền vẫn tiếp diễn đầy cam go, quyết liệt. Vẫn còn những kẻ lợi dụng nhân quyền để vi phạm nhân quyền. Vẫn còn đó tình trạng người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo… Hơn nữa vẫn còn nhiều người không biết mình có những quyền gì và làm thế nào để thực hiện các quyền đó, làm thế nào để bảo vệ các quyền đó khi bị vi phạm? Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, với biết bao cuộc đấu tranh chống quân xâm lược. Vì vậy chúng ta hiểu rõ hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng nhân quyền ở Việt Nam đã có từ rất lâu và được thể hiện trước hết qua những ý niệm và hành động khoan dung, nhân đạo. Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi với tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” đã thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân quyền của Việt Nam. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm
  • 8. 2 vi quốc gia cũng như đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì nhân quyền của nhân loại. Thể hiện ở việc Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống các văn bản pháp luật tương đối đầy đủ và khá tương thích với luật pháp quốc tế về nhân quyền. Đồng thời cũng đã có một cơ chế bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng. Tuy nhiên cũng như các nước khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức về quyền con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người. Bởi vậy cần chú ý bảo vệ đặc biệt so với các nhóm khác. Những người bị tước tự do là một trong số nhóm người dễ bị tổn thương, họ là tất cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường. Theo Luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là một khái niệm rất rộng bao gồm tù nhân, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, quản chế, cấm cư trú… Mục đích của các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam…là để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp, hành chính thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật. Các biện pháp này cũng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên những biện pháp này khi áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan tư pháp và người có thẩm quyền thực hiện trong các cơ quan nếu không cẩn thận sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm nhân quyền. Những điều đó xảy ra là do chưa có quy định cụ thể để hạn chế sự lạm quyền của cán bộ công chức nhà nước, các cơ quan công quyền, và việc quy định như hiện tại có nhiều kẽ hở dễ bị lách luật; cán bộ công chức nhà nước chưa được đào tạo cơ bản về tôn trọng, bảo vệ quyền con người... Bên cạnh đó, cơ chế thực thi quyền của nhóm người bị tước tự do vẫn còn chưa hoàn thiện cũng như cơ chế kiểm soát việc thực thi còn nhiều hạn chế. Do đó, để góp một phần bảo đảm hơn nữa về quyền con
  • 9. 3 người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, tác giả chọn đề tài : “Quyền của những người bị tước tự do – lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn . Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định, văn kiện quốc tế về bảo vệ quyền của người bị tước tự do cũng như việc nội luật hóa và áp dụng chúng vào thực tiễn Việt Nam. Tác giả đưa ra một số phương hướng đề hoàn thiện pháp luật về quyền của nhóm người bị tước tự do và giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các quyền ấy trong thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bởi tầm quan trọng của vấn đề, hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến như: “Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” do trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội đã đề cập tới quyền của người bị tước tự do theo luật quốc tế về nhân quyền. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung như quyền của nhóm là gì? Tầm quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm. Cuốn sách cũng đưa ra định nghĩa nhóm người dễ bị tổn thương; xác định các nhóm xã hội dễ bị tổn thương được quy định trong luật nhân quyền quốc tế, trong đó có nhóm người bị tước tự do. Đặc biệt cuốn sách đã phân tích cơ chế quốc tế giám sát thực thi quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương. “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”: do trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội phát hành. Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến một bộ phận quan trọng của nhóm người bị tước tự do. Đó là những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị bỏ tù. Tài liệu đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về quyền con người trong các hoạt động tố tụng hình sự. Từ đó nhằm hướng dẫn, cung cấp những công cụ hữu hiệu cho việc bào chữa tại các tòa án hình sự địa phương. Đặc biệt, nó được viết ra để hỗ trợ cho các luật sư hoặc thành viên của nhóm luật sư biện hộ các vụ án hình sự, nâng cao kiến thức và hiểu biết nhằm áp dụng hiệu quả luật quốc tế tại các tòa
  • 10. 4 án địa phương. Từ góc độ đó, cuốn sách đề cập đến những khả năng áp dụng luật quốc tế như là một lập luận riêng biệt, và nếu có thể, như là một ý bổ sung nhằm củng cố sức thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một trong số các quyền quan trọng của những người bị tước tự do. Bởi lẽ nó đảm bảo cho các vụ án được xét xử công bằng và quyền của người bị tước tự do sẽ được đảm bảo tốt nhất. Vì vậy cuốn sách đã góp một phần quan trọng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt hơn quyền của nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự; “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề tài nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam những năm qua đạt được những kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền con người trong tố tung hình sự. Đề tài này đã làm rõ những quan điểm khoa học về quyền con người trong tố tụng hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền; Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía cạnh mà đề tài này đề cập đến là các quyền con người nói chung trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con người được đề cập đến phần lớn là các quyền của những người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Bên cạnh những người bị tước tự do, đề tài này cũng phản ánh đến quyền của những người tham gia tố tụng hình sự mà không bị tước tự do như là các bị can, bị cáo (trong nhiều trường hợp họ không bị tước tự do). Đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù – một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam – bài viết của Hoàng Thị Hương, khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Bài viết đã đưa ra khái niệm “đảm bảo” có nghĩa là “làm cho chắc
  • 11. 5 chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết; sự đảm bảo hoặc giữ gìn được. Từ đó tác giả phân tích việc đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù bao gồm các đảm bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp lý. Trong đó đảm bảo pháp lý có vai trò quyết định. Bài viết phân tích việc đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù, thực chất là phân tích việc bảo đảm quyền con người của một bộ phận người bị tước tự do, đó chính là các tù nhân. Một số vấn đề về bảo vệ quyền của những người bị tước tự do trong pháp luật và thực tiễn – khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Lưu Mỹ Hằng K53B – QHL 2008, khoa Luật – ĐHQG Hà Nội năm 2012. Khóa luận đã giải quyết một cách khoa học về khái niệm, quy định cơ bản về một số vấn đề bảo vệ quyền của người bị tước tự do theo pháp luật quốc tế và Việt Nam. Khóa luận cũng đã phân tích tình hình bảo vệ quyền của người bị tước tự do qua thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra quan điểm và phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc quy định và bảo đảm quyền người bị tước tự do. Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cần có một cái nhìn tổng quát hơn về người bị tước tự do, đặc biệt là dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế. Điều đó càng có ý nghĩa hơn khi mà nhân quyền hiện đang là vấn đề mà cả nhân loại hướng tới. Luận văn này có thể bổ sung những nghiên cứu về vấn đề người bị tước tự do, từ đó nâng cao ý thức trước hết là của các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền của người bị tước tự do. Đồng thời nâng cao nhận thức của các chủ thể người bị tước tự do trong việc thụ hưởng các quyền của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu • Nghiên cứu tổng quan về người bị tước tự do và quyền của người bị tước tự do; các biện pháp cũng như hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền thực
  • 12. 6 hiện các biện pháp tước tự do của con người. Những biện pháp lý để bảo đảm quyền cho nhóm người này. • Làm rõ tầm quan trọng, tất yếu của việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do đối với sự phát triển của văn minh nhân loại nói chung cũng như sự phát triển của nhân quyền trên thế giới. • Từ đó kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm của pháp luật cũng như nâng cao nhận thức của cả cộng đồng nói chung, nhất là bộ phận cán bộ công chức trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo quyền cho nhóm xã hội này. 3.2. Nhiệm vụ nghiêm cứu • Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhóm người bị tước tự do và quyền của họ; • Nghiên cứu quy định pháp luật của Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền của những người bị tước tự do; • Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam: những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế tồn tại; • Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật Việt Nam cũng như những giải pháp khác nhằm đảm bảo quyền của người bị tước tự do. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền của nhóm người bị tước tự do dưới góc độ là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Luật nhân quyền quốc tế xác định một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm cả những người bị tước tự do. Người bị tước tự do ở đây bao gồm cả nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự và nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực hành chính. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự những người bị tước tự do bao gồm: tù nhân (phạm nhân đang chấp hành án hình phạt tù); người bị tạm giữ, tạm giam; người bị xử phạt với hình thức quản chế; người bị xử phạt với hình thức cấm cư trú. Trong
  • 13. 7 lĩnh vực hành chính, những người bị tước tự do bao gồm: người bị tạm giữ hành chính; người bị đưa vào trường giáo dưỡng; người bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Những người này đều bị giới hạn các quyền tự do so với những công dân bình thường. Chẳng hạn như quyền tự do đi lại, tự do cư trú. Đối với những người bị xử phạt với hình thức quản chế, thì đây là hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính là hình phạt tù. Đối với những người này, ngoài việc bị giới hạn quyền tự do đi lại, tự do cư trú thì còn bị hạn chế một số quyền công dân, tức là bị tước một số quyền tự do khác trong một thời hạn nhất định, như quyền tự do về việc làm, quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước. Nguyên nhân tại sao quyền của nhóm người này lại dễ bị tổn thương. Những chuẩn mực quốc tế về quyền của nhóm người này trong luật nhân quyền quốc tế là gì? Cơ chế bảo đảm các quyền đó cả trên phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia? Phân tích về việc bảo vệ nhóm người này ở Việt Nam trong những năm qua như thế nào? Những quyền nào dễ bị vi phạm? Lý do vi phạm? Từ đó đưa ra những giải pháp thực tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm người này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quyền của người bị tước tự do dưới góc độ quy định pháp lý và thực tiễn trên phạm vi quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Trong phạm vi luận văn này, các tiêu chuẩn, quốc tế về nhân quyền được coi là mặt lý luận, là tiêu chí và chuẩn mực mà các quốc gia, vùng lãnh thổ hướng tới. Đó được coi như những giá trị thiêng liêng, phổ quát mà phải mất bao xương máu nhân loại toàn thế giới mới giành được. Đó còn là mơ ước, khát vọng về một thế giới bình đẳng, về những nhân quyền thiêng liêng tạo hoá đã ban cho mà không ai có thể bị tước đoạt. Với ý nghĩa trên, khía cạnh thực tế mà luận văn đề cập chính là việc đưa các chuẩn mực đó vào thực tế như thế nào? Việc tham gia, ký kết, gia nhập và nội luật hoá là một phần của ý nghĩa đó. Bên cạnh đó các nhà nước cụ thể là Việt Nam đã làm gì để đảm bảo cho các quyền của người bị tước tự do được thực hiện trên thực tế? Với cách tiếp cận trên, tác giả đi vào nghiên cứu cụ thể như sau: Về mặt lý luận: Khảo sát những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
  • 14. 8 quốc gia quy định về quyền của người bị tước tự do. Các quy định pháp lý trước hết xuất phát từ các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng cũng như các cơ chế để bảo đảm các quyền đó. Đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình thành các chuẩn mực quốc tế có sự đóng góp của pháp luật quốc gia. Các quy định quốc tế có thể kể đến như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền - UDHR; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị 1996 - ICCPR; Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 - ICESCR; Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân 1990; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào 1988;… Các quy định pháp luật quốc gia phải kể đến như Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001); Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Luật thi hành án hình sự 2010 …và các văn bản pháp lý liên quan. Khía cạnh thực tiễn mà luận văn đề cập chính là việc Việt Nam tham gia những công ước quốc tế nào về lĩnh vực này và đã nội luật hóa các chuẩn mực trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như thế nào? Từ đó đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn pháp lý về nhân quyền. Đánh giá việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do trên thực tế. Vấn đề thực hiện các nghĩa vụ nộp các báo cáo định kỳ theo quy định của các công ước mà Việt Nam tham gia? Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo đảm quyền của người bị tước tự do được thực hiện như thế nào?…Từ đó, phân tích tổng quan và rút ra những yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về đảm bảo quyền của người bị tước tự do. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật nói chung, khái niệm và bảo đảm nhân quyền nói riêng. Các nguyên tắc nền tảng của Luật nhân quyền quốc tế. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
  • 15. 9 cụ thể như: phương pháp phân tích, khái quát hóa; phương pháp tổng hợp; thống kê, so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn giải… 6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu Luận văn đã đạt được một số kết quả: - Đưa ra cái nhìn tổng quan về người bị tước tự do dưới góc độ là những người dễ bị tổn thương trong mối liên hệ giữa luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt là với cách tiếp cận dựa trên quyền, luận văn khẳng định các quyền của người bị tước tự do là tự nhiên, bẩm sinh và nhà nước chỉ có thể ghi nhận, bảo đảm chứ không có quyền ban phát các quyền đó. Các quyền của người bị tước tự do được bảo đảm không chỉ bằng việc các quyên đó được ghi nhận trong pháp luật. Mà quan trọng còn ở cơ chế bảo đảm các quyền đó. - Đánh giá tầm quan trọng, ý nghĩa của việc bảo đảm các quyền của người bị tước tự do. Những người bị tước tự do được hưởng các quyền cơ bản trên cương vị bình đẳng như bất kỳ chủ thể nào. Bên cạnh đó họ được hưởng những quyền đặc thù khác. Và việc được hưởng các quyền đó là tất yếu. Đảm bảo cho các quyền đó được thực thi cũng chính là bảo đảm quyền con người và là thước đo trình độ văn minh của nhân loại. - Góp phần thay đổi cái nhìn của xã hội nói chung, trong đó có bộ phận cán bộ công quyền trong vấn đề tước tự do hành chính; Các biện pháp xử lý hành chính của Việt Nam dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế thực chất là các biện pháp tước tự do của con người. Do đó cần phải hết sức thận trọng và phải đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do một cách đầy đủ nhất. - Luận văn cũng đã nêu bật được một số thành tựu trong việc bảo đảm các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc đảm bảo các điều kiện ăn, mặc, ở; quyền không bị tra tấn; không bị bắt, giam một cách tùy tiện; về quyền được đối xử nhân đạo; quyền được xét xử công bằng… - Phân tích một số hạn chế, đặc biệt là về mặt pháp luật trong việc bảo đảm các quyền của người bị tước tự do. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam.
  • 16. 10 Ý nghĩa của luận văn: Một mặt luận văn góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử với những người bị tước tự do, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi pháp luật. Khẳng định rõ ràng rằng, những quyền mà người bị tước tự do được hưởng là chính đáng và nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho các quyền đó được thực thi. Các quyền đó không phải do nhà nước ban cho họ mà xuất phát từ chính nhân phẩm và giá trị của họ. Mặt khác giúp người bị tước tự do nâng cao kiến thức và hiểu biết về các quyền của họ và các công cụ pháp lý để bảo đảm các quyền đó. Từ đó có thể giúp họ sử dụng có hiệu quả các công cụ đó để hưởng thụ và bảo vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm hai chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và tiêu chuẩn quốc tế về quyền của người bị tước tự do. Chương 2: Việt Nam với việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do.
  • 17. 11 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO 1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do 1.1.1. Người bị tước tự do Tự do là một trong những vấn đề quan trọng của con người và đã được nghiên cứu, luận giải từ lâu, dưới nhiều góc độ triết học, chính trị, pháp lý, xã hội học… Thời kỳ khai sáng, rất nhiều học giả đã bàn luận về tự do. Thomas Hobbes cho rằng: “Tự do được hiểu là, theo định nghĩa chính xác của từ này, sự vắng mặt của những trở ngại bên ngoài; những trở ngại đó thường tước đi một phần sức mạnh của con người để làm điều ta muốn làm, nhưng không thể ngăn cản ta sử dụng sức mạnh còn lại của mình theo sự sai khiến của lý trí và sự suy xét của chính bản thân mình”. [20, tr.127-128]. Montesquieu thì khẳng định: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật pháp cho phép” [20, tr. 161]. Qua hai khái niệm của hai học giả nói trên có thể thấy, khái niệm của Montesquieu mang tính pháp lý cao và tiếp cận gần với khái niệm tự do trong xã hội hiện đại ngày nay đồng thời cũng gần với tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Còn khái niệm của Thomas Hobbes đã chỉ ra hai thành tố quan trọng của tự do, đó là tự do nhân thức và tư do hành động. Ngày nay, tự do có thể được hiểu là tình trạng một cá nhân có thể và có khả năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay yếu tố nào. Tự do có thể được phân thành tự do chủ động và tự do thụ động. Tự do chủ động là tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó (ví dụ như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp...). Tự do thụ động là tự do của cá nhân khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể...). Trong một số trường
  • 18. 12 hợp, tự do bị hạn chế. Ví dụ như quyền tự do đi lại có thể bị hạn chế trong hoàn cảnh dịch bệnh hay khủng bố… Tuy nhiên việc hạn chế quyền tự do trong những trường hợp này phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt và tuyệt đối không được mang tính chất phân biệt, đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ hoặc nguồn gốc xã hội. Tự do là một thuộc tính tự nhiên của con người. Đã là con người thì phải có tự do. Đó là quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể chối cãi được, xuất phát từ chính nhân phẩm của mỗi con người. Sống trong xã hội tất cả các quyền tự do của con người phải được bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Các văn kiện quốc tế về nhân quyền đề cập đến cả hai khái niệm: các "quyền" và "tự do" cơ bản của con người. Tuy nhiên trong thực tế hầu như không có sự phân biệt và khác biệt trong việc vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền và tự do cơ bản của con người, bởi lẽ các tự do cơ bản thường được diễn đạt như là các quyền (ví dụ "tự do ngôn luận" cũng thường được gọi là "quyền tự do ngôn luận"). Con người có rất nhiều quyền tự do. Như quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền tự do lập hội, hội họp hòa bình;... Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một người vào nơi giam giữ chung hoặc riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ, trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công quyền khác. [16, tr.709-710]. Khái niệm “tước tự do” theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam, mà còn là những việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người, dưới nhiều hình thức và tên gọi khác, cụ thể như: bắt, tạm giữ; quản chế; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào các trung tâm cải tạo, giáo dục… Tức là bên cạnh các trường hợp giam giữ theo thủ tục hình sự thì tước tự do còn bao gồm cả giam giữ theo thủ tục hành chính. Nhiều quốc gia trên thế giới có luật về bắt, giam giữ hành chính, song chủ yếu đề cập đến các tình huống: giam giữ những người nhập cư lậu để chờ giải quyết thủ tục liên quan, ví dụ như ở Australia có các trung tâm tạm giữ ngoài khơi
  • 19. 13 cho người nhập cư và tị nạn đến Australia bằng đường biển; hay là giam giữ những nghi can khủng bố (Luật yêu nước của Hoa Kỳ sau ngày 11/9/2001…); hoặc giam giữ trong những tình huống liên quan đến an ninh quốc gia (biểu tình, tình trạng khẩn cấp của quốc gia…). Chỉ có số ít nước quy định về bắt, giam giữ hành chính với những đối tượng như trẻ em có hành vi trái pháp luật, người mại dâm, người nghiện ma túy, người có hành động nguy hại cho chính quyền… Cơ sở của việc tước tự do là khi một người có hành vi xâm hại tự do của người khác và xâm hại đến lợi ích cộng đồng. Hoặc người đó có nguy cơ ảnh hưởng đến cộng đồng, ví dụ trong tình trạng dịch bệnh… Việc tước tự do phải được điều chỉnh bằng nhiều quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính và tư pháp hình sự. Các biện pháp tước tự do là cần thiết trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên cần hết sức thận trọng, bởi lẽ những biện pháp này khi áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Nhân loại văn minh toàn thế giới đã thừa nhận rằng tự do là một yếu tố nền tảng của nhân phẩm. Việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân phẩm. Khi một người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị cầm tù đều có một tình trạng chung đó là bị hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú... trong một khoảng thời gian nhất định. Vì thế, quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị ảnh hưởng, xâm phạm. Từ đó dẫn đến yêu cầu cần thiết phải bảo đảm quyền cho nhóm người này. Tước tự do phải theo thủ tục được pháp luật quy định và phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Tước tự do hợp pháp và chính đáng thông thường phải qua trình tự tư pháp và bởi tòa án, song trong một số trường hợp hạn chế, cơ quan hành pháp cũng có thể quyết định và thực hiện tước tự do một người, ví dụ: với những người tâm thần, trong hoàn cảnh khẩn cấp của quốc gia… Theo luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là một khái niệm rất rộng, bao gồm tù nhân, những người bị tạm giữ, tạm giam,, quản chế, cải tạo… tức là tất cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất cứ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường. Con người có rất nhiều tự do, ví dụ như tự do đi lại, tự do cư trú, tự do học
  • 20. 14 tập, tự do tôn giáo, tự do việc làm… Khái niệm "người bị tước tự do" dùng để chỉ những người bị giới hạn một số quyền nhất định vì các lý do an ninh hay trật tự xã hội, chứ không phải tước bỏ toàn bộ các tự do của con người. Tù nhân bị tước quyền tự do đi lại, tự do cư trú, nhưng họ vẫn được hưởng các quyền tự do khác như tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Một người bị tạm giam, tạm giữ vẫn có quyền theo hay không theo tôn giáo nào... Các quyền đó phải được pháp luật tôn trọng và bảo đảm bằng việc quy định người có hành vi xâm hại tới các quyền đó thì bị xử lý về mặt hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ. Tóm lại người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu là tất cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường. 1.1.2. Quyền của người bị tước tự do Hiện chưa có một văn kiện nào đưa ra khái niệm quyền của người bị tước tự do. Tuy nhiên như đã phân tích, nhóm người bị tước tự do là một trong những chủ thể quan trọng của luật nhân quyền quốc tế. Họ được hưởng những quyền lợi chính đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền của người bị tước tự do có các đặc điểm: Thứ nhất: quyền của người bị tước tự do là quyền của người thuộc các nhóm người dễ bị tổn thương Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, trong đó định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.” [17, tr.22]. Như vậy, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được thừa nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Các quyền con người có thể gây cản trở lẫn nhau, chúng bị giới hạn bởi các quyền và tự do của người khác hay bởi các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [21, tr.656]. Bên cạnh các cá nhân, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm xã hội
  • 21. 15 nhất định, trong đó có các nhóm dễ bị tổn thương, ví dụ như phụ nữ, trẻ em, những người bị tước tự do... Quyền cá nhân được hiểu là "các quyền thuộc về mỗi cá nhân, bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân" [15, tr.14]. Chẳng hạn như quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Còn quyền của nhóm được hiểu là “những quyền đặc thù, chung của một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của nhóm, và đôi khi cần phải thực hiện cùng với các thành viên khác của nhóm” [15, tr.14]. Ví dụ như quyền tự do lập hội, tự do hội họp… Việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm là hết sức cần thiết và quan trọng. Việc coi nhẹ, phủ nhận các quyền của bất cứ nhóm nào đều có thể dẫn đến mất ổn định trong xã hội. Bởi lẽ ở mỗi quốc gia, khu vực do các nguyên nhân xã hội, lịch sử... luôn tồn tại những nhóm người có trình độ phát triển, vị thế và năng lực khác nhau. Việc quy định quyền của nhóm không phải là phủ nhận tính phổ quát của quyền con người. Đồng thời cũng không đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về quyền con người là nguyên tắc tất cả các quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người. Bởi lẽ bình đẳng không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, điều này thực chất lại là bất bình đẳng. Bình đẳng ở đây phải được hiểu là bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người. Điều đó có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại đều có cơ hội được hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực sẵn có như nhau. Nhóm người dễ bị tổn thương chiếm phần lớn trong nội dung về quyền của nhóm và cấu thành một bộ phận quan trọng của luật quốc tế về quyền con người. Hiện chưa có một định nghĩa chính thức về nhóm người dễ bị tổn thương, tuy cụm từ này được sử dụng thường xuyên trong các tài liệu, đặc biệt là các nghiên cứu về luật nhân quyền quốc tế. Từ những tài liệu đó có thể hiểu khái niệm nhóm người dễ bị tổn thương chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền
  • 22. 16 con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Luật nhân quyền quốc tế xác định những nhóm người dễ bị tổn thương, gồm: Phụ nữ; Trẻ em; Người khuyết tật (thể chất, tâm thần); Người thiểu số/bản địa; Người nước ngoài/người không quốc tịch; Người tị nạn/tìm kiếm quy chế tị nạn; Người lao động di trú; Người bị tước tự do; Tù binh chiến tranh, dân thường trong vùng chiến sự hoặc vùng bị lực lượng quân sự nước ngoài chiếm đóng; Người già; Người sống chung với HIV... Danh sách trên cho thấy, người bị tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và cần phải được quan tâm, bảo vệ. Lý do người bị tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương là vì: Do địa vị pháp lý là người bị giới hạn một số quyền so với các công dân bình thường. Vì vậy họ bị giảm đi cơ hội hưởng thụ các quyền như những người bình thường khác. Chẳng hạn như quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hành nghề… Khi một người bị tước tự do thì quyền trên sẽ bị hạn chế. Bên cạnh đó là lý do xã hội. Do nhận thức và quan niệm chưa được đầy đủ của một số người trong xã hội, cho nên những người bị tước tự do bị khinh miệt, bị xa lánh và kỳ thị. Cũng vì đó mà các quyền chính đáng của họ bị xâm phạm. Việc bị giới hạn quyền tư do là đã bị tước đi một số quyền quan trọng của con người, đó là quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Nhưng cũng chính từ địa vị đó càng khiến cho những người bị tước tự do dễ bị tổn thương hơn. Đó là nguy cơ cao bị tra tấn, bị đánh đập, bị bức cung… Điều đó xuất phát từ chính một bộ phận những người thi hành công vụ, những người cầm quyền. Một số người dân cũng có cái nhìn không mấy thiện cảm với những người bị tước tự do. Bị kỳ thị là nguyên nhân khiến họ bị tổn thương về mặt tinh thần. Thứ hai: Đó là những quyền cơ bản và đặc thù của con người cho dù họ có bị tước hoặc hạn chế một số quyền tự do. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành... Và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Quyền của người bị tước tự do là một bộ phận cấu thành của quyền con người. Quyền con người xuất phát từ chính phẩm giá của mỗi con người, không phân
  • 23. 17 biệt giới tính, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ địa vị nào. Người bị tước tự do cũng có những phẩm chất và giá trị con người. Không phải vì bị tước tự do mà các giá trị con người của họ bị mất hết và không còn là con người. Vì vậy họ cũng phải có các quyền con người cơ bản – những quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể tước đoạt. Nhân phẩm là những phẩm chất, giá trị chỉ con người mới có và tạo nên tư cách, vị thế, sự khác biệt của con người trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau và tồn tại bên trong đời sống của mỗi người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có chứa tư tưởng về giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của mỗi cá nhân mà đươc mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng. Điểm bắt đầu của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận trong UDHR và hai công ước ICCPR, ICESCR. Ngay trong lời nói đầu của UDHR đã đề cập đến “phẩm giá vốn có” [21, tr.44] của con người và khẳng định mọi người đều tự do và bình đẳng về “phẩm giá và các quyền” (trong Điều 1) [21, tr.59]. Còn trong hai công ước ICCPR, ICESCR đều khẳng định quyền con người “bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người” (lời nói đầu) [16, tr.77; tr.55]. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, do đó là nhằm đáp ứng những đòi hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con người. Người bị tước tự do cũng được hưởng các quyền con người cơ bản trên cương vị bình đẳng như bất cứ cá nhân nào khác. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng những quyền đặc thù, mà bản chất là những ưu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt dành cho nhóm người này dựa trên những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ. Đó là các quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo, các quyền thuộc nhóm quyền xét xử công bằng, quyền của nhóm người chưa thành niên… Việc quy định những ưu tiên này không phải bởi vì các quyền được ưu tiên thự hiện có giá trị cao hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy có bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn các quyền khác. Như vậy là nói đến quyền của người bị tước tự do bên cạnh các quyền cơ bản của con người còn bao gồm các quyền đặc thù của nhóm.
  • 24. 18 Thứ ba: các quyền của người bị tước tự do được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hiện có hai trường phái (học thuyết) về nguồn gốc của nhân quyền: Thuyết quyền tự nhiên cho rằng, quyền con người, bao gồm cả quyền của người bị tước tự do là những gì bẩm sinh, vốn có thuộc về con người mà ai cũng được hưởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Tuyên ngôn độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể chối cãi được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết này có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển. Bên cạnh học thuyết về quyền tự nhiên, một trường phái khác cho rằng quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền con người phải được quy định trong pháp luật. Như vậy, quyền con người vẫn là những đặc quyền tự nhiên, vốn có ngay từ khi sinh ra. Nhưng khi chưa được Nhà nước, pháp luật ghi nhận thì các quyền tự nhiên chưa trở thành quyền. Việc phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp. Bởi vì, trong UDHR và một số văn kiện khác thì nhân quyền được khẳng định rõ ràng là các quyền tự nhiên. Cụ thể trong đoạn 1, lời nói đầu UDHR nêu rằng: “thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại” [21, tr.44]. Ngược lại về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý. Hai học thuyết quyền tự nhiên và quyền pháp lý bổ sung cho nhau chứ không loại trừ nhau. Mâu thuẫn, đối lập chỉ do cách hiểu và vận dụng không đúng đắn. Bởi vì thuyết về quyền tự nhiên muốn nói đến nguồn gốc, bản chất, không nói đến cách
  • 25. 19 thức ghi nhận, thực hiện quyền và không phủ nhận việc các quyền tự nhiên cần phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Còn thuyết về quyền pháp lý nhấn mạnh cách thức ghi nhận, thực hiện quyền chứ không phủ nhận nguồn gốc của quyền là tự nhiên, vốn có. Quyền pháp lý là tập hợp chọn lọc và đã được cụ thể hóa của các quyền tự nhiên. Tập hợp này có thể chưa bao gồm hết các quyền tự nhiên, nhưng không tuyên bố phủ nhận những gì chưa được pháp điển hóa. Như vậy có nghĩa là quyền con người vẫn là những gì bẩm sinh, vốn có mà pháp luật chỉ có thể thừa nhận và bảo đảm. Một lập luận khác chứng minh cho nhận định trên, đó là khi xét đến bản chất của con người dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin: Triết học Mac-Lênin đã chỉ ra rằng con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội; con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Như vậy là ở con người vừa có tính tự nhiên (sinh vật) vừa có tính xã hội. Do đó, quyền con người một mặt mang tính tự nhiên, là những gì bẩm sinh, vốn có của mỗi con người. Mặt khác, quyền con người cũng mang tính lịch sử và xã hội. Có nghĩa là quyền con người là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quy phạm và cơ chế khác nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó. Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ quyền của người bị tước tự do. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp luật đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tước tự do thể hiện rõ ở hai khía cạnh là thừa nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Ngay cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tước tự do cũng
  • 26. 20 không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Mà chỉ khi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì những quyền của người bị tước tự do mới mang đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò của pháp luật, đó là phương tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền của người bị tước tự do. Khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền của người bị tước tự do mới mang tính cưỡng chế, bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Lúc này, pháp luật là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền của người bị tước tự do của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Hơn nữa, đó cũng là công cụ để các cá nhân bảo vệ các quyền của mình thông qua việc vận dụng các quy phạm pháp lý. Sự bảo vệ đối với nhóm người bị tước tự do không chỉ được quy định trong luật pháp quốc tế mà trong pháp luật của tất cả các quốc gia, tuy với những mức độ khác nhau, cách thức khác nhau. Thứ tư: những quyền của người bị tước tự do được bảo đảm bằng cơ chế không chỉ trong phạm vi quốc tế mà ở cả phạm vi khu vực và phạm vi quốc gia. Các quyền của người bị tước tự do được quy định trong luật pháp quốc tế và quốc gia. Để các quyền đó đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực thì cần thiết phải có cơ chế bảo đảm. Nói cách khác, qui định pháp luật là xuất phát điểm bảo đảm quyền con người nhưng hiệu quả của qui định sẽ bị hạn chế nếu không có cơ chế đầy đủ để thực thi vì kinh nghiệm thực tiễn chứng minh quan trọng là thực thi pháp luật. Cơ chế có nghĩa là "cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó một quá trình thực hiện" [15, tr.328]. Cơ chế bao gồm bộ máy các cơ quan chuyên trách và hệ thống các quy tắc, trình tự, thủ tục để thực hiện việc bảo vệ quyền. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do hiện nay có ba cấp độ, đó là cơ chế quốc tế; cơ chế khu vực; cơ chế quốc gia. Cơ chế quốc tế có phạm vi rộng lớn, toàn cầu và có vai trò nhất định trong việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do. Nhưng ở một mức độ nhất định, một số cơ chế khu vực (như cơ chế khu vực châu Âu) lại tỏ ra chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc. Bởi vì, các quốc gia trong khu vực thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa,
  • 27. 21 truyền thống cho nên dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện. Hơn nữa các cơ chế khu vực có thể dễ dàng tiếp cận với công chúng hơn so với cơ chế toàn cầu của Liên hợp quốc, bởi vì phạm vi địa lý hẹp hơn. Cơ chế quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền của người bị tước tự do. Tóm lại quyền của người bị tước tự do là quyền con người được thừa nhận trong pháp luật và được bảo đảm bằng cơ chế ở cả phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia cho dù trong hoàn cảnh bị giới hạn các tự do chính trị, dân sự. 1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do Các quyền của người bị tước tự do được ghi nhận và bảo đảm thực thi có ý nghĩa quan trọng như sau: 1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người Người bị tước tự do là thành viên của gia đình nhân loại. Vì vậy bảo đảm quyền cho họ cũng chính là bảo đảm quyền con người nói chung. Việc thừa nhận các quyền của người bị tước tự do và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó sẽ là công cụ pháp lý trừng trị những chủ thể có hành vi xâm hại quyền của người bị tước tự do cho dù người đó là ai. Quyền con người không được sử dụng để vi phạm quyền của người khác - Điều 30 của UDHR [21, tr.656]. Do vậy, tất cả các xung đột phải được giải quyết mà vẫn phải tôn trọng quyền con người kể cả vào những lúc khẩn cấp và trong trường hợp cần áp đặt một vài hạn chế. Người bị tước tự do cũng có nhân phẩm và họ cần phải được tôn trọng với phẩm giá vốn có. Không thể vì họ là người bị tước tự do mà nhân phẩm của họ bị giảm sút hay mất đi. Ngược lại, họ cần được bảo vệ hơn bởi vị thế dễ bị tổn thương của mình. Vì vậy, việc hiểu đúng, hiểu đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về các biện pháp tước tự do sẽ nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp phần quan trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người nói chung. Luật nhân quyền quốc tế đã thừa nhận quyền của người bị tước tự do bằng một hệ thống các quy định trong các văn kiện pháp lý. Bên cạnh đó các cơ chế bảo
  • 28. 22 đảm quyền của người bị tước tự do cũng được thiết lập. Điều đó sẽ góp phần làm hạn chế các hành vi xâm hại đến quyền của người bị tước tự do. Do đó, việc quy định quyền và cơ chế thực thi quyền cho người bị tước tự do có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền cho họ, chống lại các hành vi xâm hại tới quyền của họ do các chủ thể khác thực hiện. 1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Pháp luật đó được các chủ thể thực hiện một cách tự giác chứ không ép buộc. Bởi lẽ đó là pháp luật vì quyền con người, phục vụ con người, là pháp luật của dân chủ, bình đẳng và văn minh. Đó là nhà nước bảo đảm quyền con người tốt nhất trong lịch sử loài người. Trong một nền dân chủ hiện đại, không thể thiếu vắng vai trò của việc đề cao pháp luật, xem pháp luật là nguyên tắc tối thượng; đồng thời, có những cơ chế để kiềm chế xu hướng tha hóa, lạm dụng quyền lực nhà nước của bất cứ nhánh quyền lực nào cũng như của từng cá nhân - công chức và quan chức nhà nước - là những người đại diện cho nhân dân. Hơn thế nữa pháp luật đó phải được xây dựng theo một quy trình dân chủ, minh bạch và công khai. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ
  • 29. 23 thống pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Bản chất của nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng giá trị nhân quyền và bảo đảm cho các giá trị đó được thực thi trong thực tế. Khi quyền của những người bị tước tự do được bảo vệ tức là đã góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền và đó cũng là một tiêu chí để xác định nhà nước đó có phải là Nhà nước pháp quyền hay không? 1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình đẳng, tự do trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân tộc; và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Ở thời kỳ nô lệ, có tầng lớp nô lệ - những kẻ không được coi là người, không được hưởng các quyền con người tối thiểu. Họ có thể bị bắt, giam cầm bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Và khi đó, họ bị đối xử tàn tệ, bị tra tấn, đánh đập, bị kết tội không cần lý do. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Tuy vậy các quyền con người trong đó có quyền của người bị tước tự do vẫn bị xâm phạm không thương tiếc. Việc tra khảo (tra tấn) được coi như là một nghiệp vụ điều tra dưới các triều đại phong kiến. Trong xã hội này bị tước tự do đồng nghĩa với bị tước bỏ mọi quyền con người khác. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài
  • 30. 24 người, nội dung các quyền con người tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng nhân quyền quốc tế hiện đại bắt đầu bằng sự ra đời của Hiến chương Liên Hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền UDHR - hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền. Ngay tại UDHR, rất nhiều quyền của người bị tước tự do đã được khẳng định. Đó là tại các Điều 5 (về quyền không bị tra tấn, đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm); Điều 7 (về quyền bình đẳng trước pháp luật); Điều 9 (về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện); Điều 10 (về quyền được xét xử công bằng); Điều 11 (về quyền được suy đoán vô tội)… Sau đó, quyền con người được pháp điển hoá trong một loạt Công ước quốc tế về nhân quyền. Đặc biệt trong ICCPR nhiều quyền quan trọng của người bị tước tự do đã được ghi nhận. Đó là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm (Điều 7); quyền không bị bắt hoặc giam giữ tùy tiện (Điều 9), quyền được đối xử nhân đạo (Điều 10); quyền được xét xử công bằng… Hệ thống các quyền trên của người bị tước tự do sau đó được cụ thể hóa tại hoàng loạt các văn kiện quốc tế như: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 - CAT (Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment), Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988, Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, 1990… Sự phát triển của các quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng phản ánh sự phát triển của xã hội ngày càng văn minh hơn. Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lõi của khái niệm quyền con người, coi cá nhân con người là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh thiêng của cuộc sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Quyền con người cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn như bảo vệ quyền bình đẳng chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử trong hưởng thụ tất cả các quyền con người. Người bị tước tự do cũng có quyền sống, quyền hưởng
  • 31. 25 thụ các giá trị văn hóa… như những công dân bình thường. Quyền con người của những người khác cần được tôn trọng chứ không chỉ khoan dung. Những người bị tước tự do được hưởng các quyền con người chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Việc họ được hưởng các quyền là chính đáng chứ không phải xã hội, nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào đang ban phát cho họ các quyền đó. Tóm lại là quyền của người bị tước tự do nói riêng, quyền con người nói chung là sự phát triển tất yếu của xã hội văn minh. Trong một cuộc khảo sát do CNN (Cable News Network) – một trong các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất thế giới - tiến hành, quyền con người được xem là một trong mười phát minh làm thay đổi thế giới (cùng với nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắcxin, thuyết tiến hóa, mạng thông tin toàn cầu, xà phòng, số không và lực hấp dẫn [15, tr.38]. Quyền của người bị tước tự do là một bộ phận của quyền con người, việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do chính là đã bảo đảm quyền con người – một trong các phát minh làm thay đổi thế giới. 1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế Người bị tước tự do bị giới hạn một số tự do. Tuy nhiên họ vẫn được hưởng những quyền cơ bản của con người. Ngoài ra họ còn được hưởng các quyền đặc thù. Các quyền của người bị tước tự do có thể chia thành các nhóm quyền: Nhóm quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm; Nhóm quyền xét xử công bằng; Nhóm quyền hưởng thủ tục tố tụng riêng cho người chưa thành niên. Các quyền cụ thể của người bị tước tự do có thể được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền Nhóm quyền Các quyền cụ thể Nguồn Nhóm quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm 1.Quyền sống Điều 3 UDHR; Điều 6 ICCPR 2.Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục Điều 5 UDHR; Điều 7 ICCPR; Công ước CAT 3.Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện Điều 9 UDHR; Điều 9 ICCPR 4.Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của người bị tước tự do Điều 10 ICCPR
  • 32. 26 5.Quyền được thông tin, liên lạc với bên ngoài Những quy tắc chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân, 1955 6.Quyền khiếu nại, tố cáo việc giam giữ trái phép Điều 9(4) ICCPR 7.Quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành được nghĩa vụ theo hợp đồng Điều 11 ICCPR Nhóm quyền được xét xử công bằng 1.Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật Điều 2 UDHR; Điều 26 ICCPR; Điều 2 ICESCR 2.Quyền được thông tin về lý do bắt giữ và những quyền khi bị bắt giữ Điều 3 UDDHR; Điều 9(2) ICCPR 3.Quyền im lặng và không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình Điều 14(2, g) ICCPR 4.Quyền được xét xử công khai Điều 10 UDHR; Điều 14 ICCPR 5.Quyền bào chữa, bao gồm quyền tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa Điều 14(3) ICCPR 6.Quyền được suy đoán vô tội Điều 11 UDHR; Điều 14 ICCPR 7.Quyền được xét xử bởi cơ quan tài phán có thẩm quyền, độc lập, vô tư, được thành lập theo pháp luật Điều 7, 10 UDHR; Điều 14 ICCPR 8.Quyền không bị áp dụng hồi tố và kết án nhiều lần vì cùng một hành vi phạm tội Điều 11(2) UDHR; Điều 15 ICCPR 9.Quyền kháng cáo Điều 14 (5) ICCPR; Bình luận chung số 32 của Ủy ban nhân quyền 10. Quyền được bồi thường khi bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp Điều 9 ICCPR Nhóm quyền của người chưa thành niên bị tước tự do Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên khi bị tước tự do Điều 14(4) ICCPR; Điều 40 CRC; Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, 1990
  • 33. 27 Đó là các quyền tiêu biểu nhưng không phải là toàn bộ các quyền của người bị tước tự do. Ngoài những quyền kể trên người bị tước tự do được hưởng một số quyền cơ bản như bất kỳ thành viên nào của đại gia đình nhân loại, chẳng hạn như quyền được hưởng những thành quả của khoa học (Điều 15 ICESCR); quyền được sống trong hòa bình (trong Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc đối với hòa bình 1984); quyền được sống trong một môi trường an toàn và trong lành (trong Tuyên bố về môi trường con người 1972)… Hoặc các quyền khác khi người bị tước tự do tham gia tố tụng như quyền có phiên dịch miễn phí (điểm f khoản 2 Điều 14 ICCPR), quyền có mặt trong khi xét xử (điểm d khoản 2 Điều 14 ICCPR), quyền thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn nhân chứng (điểm e khoản 2 Điều 14 ICCPR)… Hơn nữa cũng cần lưu ý, người bị tước tự do khi tham gia tố tụng thì các quyền mà họ được hưởng cũng là quyền của người tham gia tố tụng nói chung (gồm cả những người không bị tước tự do), chẳng hạn như quyền kháng cáo, quyền bồi thường khi bị kết án oan… Trong phạm vi luận văn này tác giả đi vào phân tích một số quyền cụ thể của người bị tước tự do như sau: 1.3.1. Quyền sống Nguồn: Điều 3 UDHR; Điều 6 ICCPR… Điều 3 UDHR quy định rằng, mỗi cá nhân đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân. Quyền sống liên quan chặt chẽ đến hình phạt tử hình và một số quyền đặc thù khác của người bị tước tự do. Đó là quyền không bị tra tấn hay bị trừng phạt và đối xử một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục và quyền không bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện. Điều 6 ICCPR quy định nghĩa vụ của các quốc gia thực hiện những biện pháp thích hợp để bảo vệ mọi người khỏi nguy cơ bị tước đoạt tính mạng một cách tùy tiện bởi mọi chủ thể. Tức là người bị tước tự do dù là tù nhân, người bị tạm giam, tạm giữ, quản chế, cấm cư trú, cải tạo… thì họ vẫn cần được đảm bảo quyền sống, đảm bảo sự tồn tại. Chính vì vậy, ICCPR đã yêu cầu rằng án tử hình nên bị xóa bỏ khi có thể. Nghị định thư tùy chọn thứ hai của ICCPR, với mục đích bãi bỏ án tử hình, các quốc gia thành viên phải từ bỏ việc tử hình (đoạn 1, Điều 1) và bằng mọi biện pháp có thể, bao gồm cả pháp lý, để bãi bỏ
  • 34. 28 hình phạt tử hình (đoạn 2 Điều 1). Đoạn 5 khoản 2 Điều 6 của ICCPR quy định các cá nhân mà tại thời điểm phạm tội dưới 18 tuổi không thể bị xử tử hình, và những bản án tử hình không được áp dụng đối với phụ nữ mang thai. Việc thi hành một bản án tử hình không tương đương với sự tra tấn, đối xử hay trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Về khía cạnh thứ hai của quyền sống là bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người đối với người bị tước tự do, luật nhân quyền quốc tế quy định: - Về việc ăn ở: Nếu chỗ ngủ là phòng cá nhân, thì mỗi tù nhân sẽ được sử dụng riêng phòng đó. Nếu vì lý do đặc biệt nào đó, ví dụ như số lượng tăng đột biến tạm thời, cơ quan quản lý trại có thể có ngoại lệ trong quy định này, nhưng việc hai tù nhân phải sống trong một phòng là điều cần tránh. Cần phải có kiểm tra đêm để đảm bảo đảm tình hình an ninh trong trại giam. Mọi chỗ nghỉ cho tù nhân, đặc biệt là chỗ ngủ, cần phải đảm bảo yêu cầu sức khỏe, cần có sự quan tâm đến điểu kiện môi trường, không khí, không gian sàn tối thiểu, hệ thống sưởi và thông khí. - Quần áo, vệ sinh cá nhân: Các tù nhân được cung cấp nước và đồ dung vệ sinh cần thiết để giữ gìn sức khỏe và sự sạch sẽ. Những quần áo mà tù nhân mặc không được thể hiện sự hạ nhục hay lăng mạ. Tất cả quần áo phải được giữ sạch sẽ và trong điều kiện tốt. - Chế độ dinh dưỡng, hoạt động thể thao: Mọi tù nhân phải được cung cấp đồ ăn với giá trị dinh dưỡng phù hợp cho sức khỏe vào thời gian nhất định, đảm bảo chất lượng, được chuẩn bị cẩn thận và phục vụ chu đáo. Nước uống phải luôn có sẵn để tù nhân có thể sử dụng ngay khi cần. Mọi tù nhân không được lao động bên ngoài phải có ít nhất một giờ tập thể dục thích hợp ở ngoài trời hàng ngày nếu thời tiết cho phép, tùy vào từng độ tuổi khác nhau mà có hoạt động thể lực cho phù hợp. - Chăm sóc sức khỏe: Mọi trại giam phải có ít nhất một cán bộ y tế có đủ trình độ, có một số kiến thức về tâm sinh lý cung cấp dịch vụ. Các dịch vụ y tế cần được tổ chức trong mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quản lý y tế chung của cộng đồng hay quốc gia. Dịch vụ y tế phải bao gồm chuyên môn tâm thần để chuẩn đoán, và trong một số trường hợp thích đáng, điều trị những trạng thái thần kinh không
  • 35. 29 bình thường. Các tù nhân bị ốm và cần điều trị đặc biệt phải được chuyển sang những nhà tù chuyên biệt hoặc chuyển tới các bệnh viện dân sự. 1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục Nguồn: Điều 5 UDHR; Điều 7 ICCPR; Công ước chống tra tấn CAT… Điều 1 Công ước chống tra tấn CAT đưa ra định nghĩa “tra tấn” như sau: “Tra tấn có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức.” [16, tr.148] Tra tấn thường xảy ra trong khi các nạn nhân bị biệt giam, tức là họ không thể liên lạc với những người bên ngoài để những người này có thể giúp đỡ hay biết được điều gì đang xảy ra với họ. Chính phủ cần bảo đảm rằng biệt giam không trở thành cơ hội để tra tấn. Điều quan trọng là tất cả tù nhân được đưa ra cơ quan tư pháp ngay sau khi bị giam cầm và những người thân, luật sư và các bác sĩ đều được tiếp xúc nhanh chóng và đều đặn với họ. Ở một số nước, tra tấn xảy ra tại các trung tâm bí mật, sau khi các nạn nhân bị “biến mất”. Chính phủ phải bảo đảm rằng tù nhân được giam ở những nơi công khai, và được thông tin chính xác về nơi giam giữ cho người thân và luật sư của họ. Hành động tra tấn gây ra những sự đau đớn của con người cả về thể xác lẫn tinh thần. Theo các văn kiện quốc tế hiện tại những hành vi tra tấn được thực hiện bởi những thủ phạm phi công chức, (ví dụ việc một nhóm phiến quân bắt cóc con tin và tra tấn họ hay việc một người chồng đánh đập vợ mình) sẽ không thuộc nội hàm của hành động tra tấn. Nhằm góp phần làm rõ hơn quyền không bị tra tấn hoặc
  • 36. 30 đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, luật quốc tế đề cập đến các tiêu chí xác định thế nào là giam giữ nhân đạo gồm: - Không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục; - Nơi giam giữ được xác định; việc giam giữ phải được ghi chép vào hồ sơ; - Được chăm sóc sức khỏe một cách thích đáng; kỷ luật phải thích đáng, không bị còng, trói, giam trong thời gian dài... Chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được coi là một quy phạm tập quán quốc tế về nhân quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có nghĩa vụ tuân thủ, bất kể có phải là thành viên của ICCPR, CAT hay bất cứ điều ước quốc tế nào khác có liên quan hay không. Vào năm 1997, Liên hiệp quốc đã tuyên bố ngày 26/6 là Ngày Quốc tế hỗ trợ các nạn nhân của tra tấn. 1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện Nguồn: Điều 9 UDHR; Điều 9 ICCPR… Theo Ủy ban giám sát ICCPR, điều trên được áp dụng cho tất cả những người bị tước tự do, kể cả trưởng hợp do phạm tội hay do bị tâm thần, lang thang, nghiện ma túy, hay để nhằm các mục đích giáo dục, kiểm soát nhập cư… [19, tr.258]. Cũng theo Ủy ban nhân quyền, việc tạm giam trước khi xét xử chỉ nên coi là ngoại lệ và càng ngắn càng tốt; thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định tại khoản 3 Điều 9 ICCPR tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia, tuy nhiên không nên vượt quá vài ngày. [19, tr.259]. Như vậy, việc bắt, giam giữ được coi là tùy tiện khi không dựa trên những lý do và phù hợp với những thủ tục luật định, luật đó phải phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Nó không chỉ bao gồm bắt, giam, giữ trái pháp luật mà còn gồm cả việc bắt, giam, giữ không thích đáng, không công bằng và bất thường. Trong những trường hợp như vậy các nạn nhân có quyền được yêu cầu bồi thường. 1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do Theo đó thì việc đối xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội, chứ không phải nhằm mục đích trừng phạt hay hành hạ họ. Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền này được quy
  • 37. 31 định cụ thể trong Điều 10 ICCPR, theo đó: “Những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người”. Khoản 2 Điều này quy định: “Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt” [16, tr.82]. Ủy ban giám sát ICCPR cho rằng việc đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do là một nguyên tắc cơ bản về nhân quyền trong tố tụng hình sự mà các quốc gia thành viên phải áp dụng như một yêu cầu tối thiểu, không phụ thuộc vào nguồn lực sẵn có của quốc gia và không mang tính phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào. [19, tr.291]. 1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên Nhóm quyền này bao gồm nhiều quyền cụ thể nhằm đảm bảo người chưa thành niên được hưởng tố tung riêng, có xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ. Hiện nay theo luật nhân quyền quốc tế hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên đồng nhất với nhau. Cụ thể tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em CRC (Convention on the Rights of the Child) năm 1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [16, tr.64]. Còn tại Điều 11 của “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do năm 1990” khẳng định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [16, tr.708]. Người chưa thành niên có nhiều hạn chế về thể chất, tâm sinh lý, bởi vậy cộng đồng quốc tế đã dành nhiều quan tâm bảo vệ người chưa thành niên về mặt pháp lý. Theo đó, người chưa thành niên làm trái pháp luật phải được hưởng những đảm bảo tố tụng ít nhất cũng ngang bằng với những người đã thành niên. Việc áp dụng các biện pháp tước tự do cũng như thi hành tố tụng với những người chưa thành niên làm trái pháp luật cần tính đến độ tuổi của các em và khuyến khích các em hoàn lương. Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
  • 38. 32 tự do tại Điều 2 khẳng định: “…Việc tước tự do của người chưa thành niên chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng và trong một thời gian cần thiết tối thiểu, và chỉ nên giới hạn đối với những trường hợp ngoại lệ…” [16, tr.705]. Khoản 4 Điều 14 ICCPR quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên phải xem xét đến độ tuổi và khuyến khích sự phục hồi của trẻ [16, tr.84]. Công ước quyền trẻ em CRC 1989 tại mục b khoản 2 Điều 40 cũng khẳng định các quyền của trẻ em được các đảm bảo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự [16, tr.179]. Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) 1985 đã dành nhiều ưu đãi đặc biệt cho người chưa thành niên. Ngoài ra Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do 1990, bên cạnh việc quy định rất nhiều bảo đảm đối với người chưa thành niên, cũng nhấn mạnh quyền có luật sư bào chữa và được yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả tiền trong giai đoạn chờ xét xử của họ [16, tr.710]. 1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế 1.4.1. Cơ chế quốc tế Dựa trên vị thế pháp lý và chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan nhân quyền Liên hợp quốc được chia làm hai dạng là cơ chế dựa trên Hiến chương và cơ chế dựa trên Công ước. Cụ thể: 1.4.1.1. Cơ chế dựa trên Hiến chương Là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức và thủ tục hoạt động của các cơ quan chính của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng. a. Hệ thống cơ quan: Dựa trên Hiến chương, Liên hợp quốc thành lập 6 cơ quan chính, trong đó, hiện nay hội đồng quản thác đã chấm dứt hoạt động, các cơ quan còn lại đều tham gia vào việc bảo vệ nhân quyền trên thế giới: Đại hội đồng là cơ quan thiết lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người; Xây dựng bộ máy cơ quan nhân quyền của Liên hợp quốc; Quyết định việc xử lý các vi phạm quyền con người. Hội đồng bảo an (HĐBA) là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có quyền áp dụng các biện pháp