SlideShare a Scribd company logo
1 of 115
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ TRÚC QUỲNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ TRÚC QUỲNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC
XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất
trong luật hình sự Việt Nam
9
1.1.1. Khái niệm hình phạt trục xuất 9
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất 14
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy
phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt
Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
23
1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm
về hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm
1945 đến năm 1999
24
1.2.1.1. Từ 1945 đến 1985 24
1.2.1.2. Từ 1985 đến 1999 26
1.2.2. Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay 28
1.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong
luật hành chính; hình phạt tiền; phân biệt hình phạt trục
xuất với tƣ cách hình phạt chính và hình phạt bổ sung
30
1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong
luật hành chính
30
3.1.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999
31
1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính
và hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung
32
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ
HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP
34
DỤNG
2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự 1999 về hình phạt trục
xuất
34
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hƣớng
dẫn thi hành về hình phạt trục xuất
34
2.1.2. Căn cứ và điều kiện áp dụng 41
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất trên phạm vi toàn
quốc từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 đƣợc ban hành
46
2.2.1. Tình trạng tội phạm ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam 46
2.2.2. Nhận xét về hiệu quả thực tế của việc áp dụng hình phạt
trục xuất từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 ban hành
54
2.3. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt
trục xuất và những nguyên nhân của hạn chế đó
63
2.3.1. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt
trục xuất
63
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong áp dụng
hình phạt trục xuất thời gian qua
68
2.3.2.1. Các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự
năm 1999 còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung
68
2.3.2.2. Công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra,
kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án
các cấp còn nhiều hạn chế
70
2.3.2.3. Nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự 71
2.3.2.4. Một số nguyên nhân khác 74
Chương 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
77
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
77
3.1.1. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội
nhập
77
3.1.2. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
80
3.1.3. Nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm nƣớc ngoài; góp phần
làm cho tội phạm ổn định và loại trừ tội phạm
82
3.1.4. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hình
phạt trục xuất trong thời gian qua
82
3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
84
3.3. Những phƣơng hƣớng cơ bản về hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất
88
3.3.1. Các giải pháp về mặt lập pháp 88
3.3.1.1. Đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của
các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất
88
3.3.1.2. Đảm bảo quán triệt đƣờng lối, chính sách hình sự đi đôi với
chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc ta
89
3.3.1.3. Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình
sự nƣớc ngoài
91
3.3.2. Giải pháp về mặt thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất 92
3.3.2.1. Tăng cƣờng công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp
luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục
xuất của Tòa án các cấp
92
3.3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý
nhà nƣớc về thi hành án trục xuất
94
3.3.2.3. Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề
nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật
95
3.3.2.4. Tăng cƣờng sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp
hình sự với nƣớc ngoài
97
3.3.3. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trục
xuất
100
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Trang
2.1 Thống kê số vụ án và số bị can là ngƣời nƣớc ngoài thực
hiện tội phạm tại Việt Nam giai đoạn 1990-1999
55
2.2 Tỷ lệ số vụ án và bị cáo Tòa án nhân dân các cấp xử sơ
thẩm từ 2000 đến 2009
56
2.3 Số ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam theo
từng nhóm tội phạm từ 2000 đến 2004
57
2.4 Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất Trên tổng số
bị cáo bị xét xử sơ thẩm từ 2000 đến 2009
59
2.5 Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất theo từng nhóm
tội phạm từ 2005 đến 2009
60
2.6 Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất trên tổng số bị
cáo bị xét xử sơ thẩm từ năm 2005 đến năm 2009
61
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, đặc biệt là đối với
Việt Nam, kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) và
tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đã mở ra nhiều cơ hội giao lƣu và hợp tác
quốc tế, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển xã hội. Các cá nhân, tổ chức
nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích làm ăn, du lịch và kinh doanh ngày
càng nhiều, thu hút đƣợc ngày càng nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và nguồn
lao động chất lƣợng cao. Với chính sách thông thoáng, quy định về thủ tục
nhập cảnh đơn giản và dễ dàng nên số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh
Việt nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần, với nhiều mục đích khác
nhau (hàng năm, có từ 4 - 5 triệu lƣợt ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh Việt Nam;
riêng năm 2009 có khoảng 3,5 triệu ngƣời). Hiện cả nƣớc có khoảng 75.000
ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Với số
lƣợng lớn ngƣời nƣớc ngoài nhƣ vậy hiện diện toàn đất nƣớc, việc nảy sinh
những hành vi vi phạm pháp luật cũng nhƣ việc kiểm soát các hành vi trái
pháp luật của ngƣời nƣớc ngoài ngày càng trở nên phức tạp và đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm trong việc phát
hiện và xử lý tội phạm.
Đây là một vấn đề mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý tội
phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng là vấn đề hết sức nhạy
cảm. Đòi hỏi đặt ra là trong hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự nƣớc ta
phải có hình phạt đặc thù để áp dụng đối với đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài.
Hình phạt trục xuất đƣợc ghi nhận với tƣ cách vừa là hình phạt chính
vừa là hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là cơ sở pháp lý
quan trọng để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng linh hoạt đối với đối tƣợng
đặc biệt là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội với mục đích không chỉ nhằm trừng trị
mà còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của cơ
quan, tổ chức và công dân, cũng nhƣ ổn định, giữ vững và phát triển các quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các
trƣờng hợp ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nƣớc ta
chủ yếu xử lý các trƣờng hợp này thông qua con đƣờng ngoại giao theo các
điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc theo thông lệ quốc tế
nên hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong luật hình sự vừa phải đảm bảo
tính nghiêm khắc nhƣng cũng vừa phải linh hoạt trong xử lý để bảo đảm chủ
quyền, an ninh quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam hiện hành về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng để làm
sáng tỏ về mặt khoa học và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn
mang ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng.
Là một hình phạt mới đƣợc áp dụng sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra
đời, là giải pháp hữu hiệu thay thế cho các chế tài hành chính trong lĩnh vực
xuất nhập cảnh. Sau một thời gian áp dụng và thi hành, các quy định về hình
phạt trục xuất cũng đã thể hiện đƣợc một số điểm tích cực cũng nhƣ bộc lộ
những mặt thiếu sót. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin phép
đƣợc đƣa ra những kiến thức chuyên ngành về hình phạt trục xuất, những mặt
mạnh, mặt yếu của nó, thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình phạt trục xuất. Đề tài của tôi có
tên gọi: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật
hình sự Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hình phạt trục xuất là một chế định mới đƣợc ghi nhận trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999. Trong thực tiễn nghiên cứu pháp luật, cũng chƣa
có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này.
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn
Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nƣớc và
Pháp luật, Hà Nội, 2003; tác giả Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung
trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nƣớc và pháp luật
(Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn
Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Đặng
Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; v.v...
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp,
Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của
việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1994; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp, Hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang
Phƣơng (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của
các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà Nội,
1996; v.v...
Ngoài ra, có một số bài viết, nghiên cứu của các tác giả khác, điển hình
nhƣ bài viết "Một số ý kiến về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm
1999" của TS. Trịnh Tiến Việt và ThS. Nguyễn Cửu Đức Bình đăng trên tạp chí
Khoa học pháp lý số 4/2003; bài viết "Hình phạt trục xuất đối với người nước
ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề thực tiễn", của Trịnh
Tiến Việt và Nguyễn Khắc Hải - Các báo cáo hội thảo khoa học lần thứ IX
(Hiệp hội khoa học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga). Mátxcơva, 2007, tr.
91-97.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học
của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy là các vấn đề liên quan đến trục
xuất mới chỉ đƣợc đề cập dƣới cấp độ các bài viết, các nghiên cứu tổng hợp
chứ chƣa đƣợc xem xét dƣới góc độ một công trình nghiên cứu độc lập. Trong
thực tế xét xử, các vụ án liên quan đến trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam là rất ít so với các hình phạt khác. Một phần là do tính chất
nhạy cảm của vấn đề, mặt khác do đây là một hình phạt tƣơng đối mới, chỉ đƣợc
quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999, trƣớc đây chỉ đƣợc xem là một
biện pháp hành chính nên trong công tác xét xử cũng còn gặp nhiều khó khăn.
Bởi vậy, khi chọn đề tài này, tác giả nhận thấy đây là một vấn đề rất
mới mẻ và nếu thành công, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý
luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, học viên cao
học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tƣ pháp hình sự cũng nhƣ phục vụ cho
công tác lập pháp, công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tội phạm là
ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận
về hình phạt trục xuất, những vấn đề pháp lý liên quan, thực tiễn công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời phân
tích những ƣu điểm, nhƣợc điểm của hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình
sự, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề ra phƣơng án hoàn thiện
pháp luật hình sự liên quan đến vấn đề trục xuất trong luật hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục đích trên, luận văn này có nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam quy định về hình phạt trục xuất;
- Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục xuất trong Bộ
luật hình sự hiện hành của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn tại của
hình phạt này trong luật thực định Việt Nam; những phƣơng hƣớng khắc phục;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục
xuất trong những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn
tại trong việc áp dụng và những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó;
- Đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao
hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn;
4. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Nghiên cứu tình hình tội phạm liên quan đến trục xuất trong những
năm gần đây. Những số liệu nghiên cứu là căn cứ có giá trị nhất định để xác
định về tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm này cũng nhƣ các biện
pháp để hình phạt này phát huy đƣợc ý nghĩa lý luận của nó trong thực tiễn.
Trên cơ sở phƣơng pháp biện chứng duy vật, Luận văn sử dụng tổng
hợp các phƣơng pháp nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, so sánh; phƣơng pháp
thống kê tội phạm học; phƣơng pháp điều tra xã hội; phƣơng pháp dự báo
khoa học…để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lần đầu tiên nhà làm luật nƣớc ta đã ghi nhận một quy phạm riêng
biệt đề cập đến định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt trục xuất. Việc Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái
niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng đối với sự
phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp
dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong
công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ
Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa,
giao lƣu và hợp tác quốc tế.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả
đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về hình phạt và hình phạt trục xuất;
phân biệt các hình phạt trục xuất với chế tài hành chính; phân tích những quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các hình phạt trục xuất và thực tiễn áp
dụng hình phạt này tại Việt Nam thông qua việc phân tích số liệu 10 năm gần
đây trên địa bàn cả nƣớc. Trên cơ sở này, đề xuất một số phƣơng hƣớng và
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng một số quy định tƣơng ứng về hình
phạt trục xuất ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đối với sự thành bại của bất kỳ một luận văn nào, điều quan trọng là
thể hiện đƣợc những đóng góp của luận văn đối với việc tìm hiểu bản chất
vấn đề của đề tài mà tác giả theo đuổi cũng nhƣ tính mới của nó đối với
những công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà nghiên cứu khác. Kết
quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và
thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc
sĩ luật học về hình phạt trục xuất, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới hình phạt trục xuất trong luật hình
sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nƣớc về hình phạt,
hình phạt trục xuất để xây dựng nên khái niệm hình phạt trục xuất, đảm bảo
tính chính xác, khoa học, chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất,
phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất theo luật hành chính;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của các quy phạm của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình vi phạm pháp luật liên
quan đến ngƣời nƣớc ngoài phạm tội và tình hình áp dụng hình phạt trục xuất
của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn
áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ những nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt này trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt trục xuất trong luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt
trục xuất và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số phƣơng hƣớng cơ bản để nâng cao hiệu quả các
quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 . KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÌNH
PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm hình phạt trục xuất
Hệ thống hình phạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành từ sau lần
pháp điển hóa lần thứ hai (1999) đƣợc điều chỉnh tại 15 điều của Chƣơng V
độc lập " hình phạt" trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Từ Điều 26 đến Điều 40)
bằng các quy phạm riêng biệt chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp
dụng cụ thể 12 loại hình phạt (các điều 29 -40) có tính chất bắt buộc đối với
các tòa án là:
1. Cảnh cáo;
2. Cải tạo không giam giữ (từ 6 tháng đến 3 năm);
3. Tù có thời hạn;
4. Tù chung thân;
5. Tử hình;
6. Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định;
7. Cấm cƣ trú;
8. Quản chế;
9. Tƣớc một số quyền công dân;
10. Tịch thu tài sản;
11. Phạt tiền; và
12. Trục xuất [7, tr. 696].
Trong đó, trục xuất là một loại hình phạt mới, lần đầu tiên đƣợc quy
định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đây là hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Trƣớc
khi đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất đƣợc quy định
và áp dụng nhƣ là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cƣỡng
chế đƣợc quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948, và đến năm
2000 đƣợc quy định trong Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời
nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày 28/04/2000.
Trục xuất là hình phạt buộc ngƣời nƣớc ngoài (ngƣời không có quốc
tịch Việt Nam) trong thời hạn nhất định phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ tính phức tạp của việc xử
lý những trƣờng hợp chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài, Điều 32 Bộ luật hình sự
năm 1999 không quy định những điều kiện cụ thể để áp dụng hình phạt này,
đồng thời cũng không quy định hình phạt này vào điều luật cụ thể trong Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự [5, tr. 344]. Cũng theo Điều 32 Bộ luật hình sự
năm 1999, hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là
hình phạt bổ sung tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể.
Nghiên cứu pháp luật nƣớc ngoài cho thấy đa số các nƣớc quy định trục
xuất với tƣ cách là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, thậm chí có nƣớc trƣớc
đây quy định trục xuất là một hình phạt trong luật hình sự thì nay nó chỉ còn
đƣợc quy định là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, ví dụ nhƣ Cộng hòa Liên
bang Đức (trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự của Đức với tên gọi là
biện pháp An ninh và Cải tạo theo Đạo luật chống những ngƣời phạm tội chuyên
nghiệp nguy hiểm và về các biện pháp an ninh và cải tạo. Năm 1969, trục xuất
đã bị loại bỏ khỏi danh mục các biện pháp an ninh và cải tạo trong Bộ luật hình
sự. Hiện nay, trục xuất đƣợc quy định trong đạo luật về ngƣời nƣớc ngoài với
tính chất là một biện pháp cƣỡng chế hành chính) . Ngày nay trục xuất với tƣ
cách là hình phạt chỉ đƣợc quy định trong luật hình sự một số nƣớc và việc quy
định hình phạt này trong luật hình sự mỗi nƣớc cũng rất khác nhau.
Trong Bộ luật hình sự của Trung Quốc, trục xuất đƣợc quy định tại
Điều 35 là loại hình phạt có thể đƣợc áp dụng với tƣ cách là hình phạt độc lập
hoặc hình phạt bổ sung đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, tức là, trục xuất
đƣợc quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Điều luật này
cũng không quy định rõ điều kiện, phạm vi, thời hạn của hình phạt này nhƣ
Việt Nam. Có thể các nhà lập pháp nƣớc ta đã nghiên cứu tham khảo và tiếp
thu kinh nghiệm này của Trung Quốc khi xây dựng chế định hình phạt trục
xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 của mình? [55, tr. 103].
Nghiên cứu Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ Đức năm 1968 cho
thấy hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại Điều 59 với tƣ cách vừa là hình
phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Trục xuất áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài
cƣ trú tại Cộng hòa dân chủ Đức mà phạm tội. Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc tịch
ngày 20/2/1967 cũng quy định rõ trục xuất không áp dụng đối với những
ngƣời mang hai quốc tịch: Quốc tịch Cộng hòa dân chủ Đức và quốc tịch
nƣớc khác. Điều 5 các luật về ngƣời nƣớc ngoài cũng quy định không đƣợc
áp dụng hình phạt này với ngƣời tị nạn chính trị tại Cộng hòa dân chủ Đức.
Trong Bộ luật hình sự của Thụy Sĩ, Điều 55 quy định trục xuất chỉ với
tính chất là hình phạt bổ sung. Theo Điều luật này, hình phạt trục xuất đƣợc
quy định chỉ áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài bị kết án tù khổ sai hoặc tù có thời
hạn từ 3 năm đến 15 năm. Nhƣ vậy, luật hình sự Thụy Sĩ cũng xác định rõ đối
tƣợng và phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất [55, tr. 105].
Luật hình sự của Thụy Điển cũng có quy định trục xuất ngƣời bị kết
án là ngƣời nƣớc ngoài. Tuy nhiên, khác với luật hình sự nƣớc ta, trục xuất
trong luật hình sự của Thụy Điển không phải là hình phạt mà chỉ là một biện
pháp an ninh áp dụng đối với ngƣời bị kết án về một tội nghiêm trọng [17].
Ở Hoa Kỳ, hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật Di trú. Theo
Điều 237 của Bộ luật này thì trục xuất đƣợc áp dụng với ngƣời không phải công
dân Hoa Kỳ đã nhập cảnh Hoa Kỳ phạm tội hình sự trong những trƣờng hợp:
- Khi ngƣời nƣớc ngoài phạm tội có tính cách suy đồi đạo đức (Moral
Turpitude) và tội đó có thể bị phạt từ 01 năm tù trở lên thì sẽ bị trục xuất;
- Nếu đƣơng sự phạm hai tội có tính cách suy đồi đạo đức thì đƣơng
sự bị trục xuất, dù tội đó là nhỏ nhặt.
Điều luật cũng quy định nếu bị cáo bị kết án về tội nghiêm trọng
(aggravated felony) thì sẽ bị trục xuất, đó là những tội: giết ngƣời, hãm hiếp,
cƣớp tài sản và bị phạt tù trên 01 năm, buôn lậu ma túy, buôn lậu vũ khí,
những tội hành hung và bị án tù trên 1 năm, những tội giả mạo chữ ký, giấy tờ
và bị phạt tù trên 01 năm, những tội gian lận và gây thiệt hại cho nạn nhân
trên 10000 USD [55, tr. 105].
Theo Điều 2 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Điều 3 Pháp
lệnh xuất nhập cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam này 28/4/2000
và Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hƣớng dẫn
về việc thi hành hình phạt trục xuất thì khái niệm ngƣời nƣớc ngoài đƣợc hiểu
là "người không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu ngƣời
nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của nƣớc khác hoặc là ngƣời không
mang quốc tịch của bất cứ nƣớc nào.
Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt
Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng
hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định:
"Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc
ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật
có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối
với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc
ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp
dụng hình phạt trục xuất đối với họ [55, tr. 106].
Mặc dù luật quy định hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng đối với bất kỳ
hành vi phạm tội nào, tuy nhiên, trên thực tế xét xử các vụ án liên quan đến
việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, không phải ngƣời nƣớc ngoài nào
vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam đều bị áp dụng hình phạt trục xuất
này, mà Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và các yếu tố khác
liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự… để áp dụng khi cần thiết.
Để đƣa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, nhất quán
về mặt pháp lý, thống nhất về mặt ngôn từ, đồng thời xét đến tính phù hợp với
thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc, theo chúng tôi, khái
niệm hình phạt trục xuất phải bao gồm đƣợc các nội dung nhƣ: thứ nhất, bản
chất pháp lý của hình phạt trục xuất; thứ hai, cơ quan có thẩm quyền áp dụng,
thứ ba, đối tƣợng bị áp dụng, thứ tư, căn cứ và điều kiện áp dụng.
Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với
việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dƣới góc độ khoa học
luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm hình phạt trục xuất có thể đƣợc định
nghĩa nhƣ sau:
Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án
áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt Nam trong thời gian nhất
định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình phạt chính
vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội
phạm xuyên quốc gia; bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc.
Nhƣ vậy, từ khái niệm khoa học về hình phạt trục xuất nêu trên, theo
chúng tôi bản chất pháp lý của hình phạt này là một biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc của Nhà nước đối với các đối tượng là người nước ngoài phạm
tội và buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời hạn nhất định. Hình phạt trục xuất không chỉ nhằm mục đích
trừng trị, giáo dục ngƣời phạm tội mà còn nhằm ngăn chặn các hành động có
nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh, chủ quyền dân tộc.
Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất
và đƣa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng
đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực
tiễn áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt
trong công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh
thổ Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở
cửa, giao lƣu và hợp tác quốc tế.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất
Với tính chất vừa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong Bộ
luật hình sự 1999, hình phạt trục xuất mang những đặc điểm chung của hình
phạt nhƣ sau:
- Là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả
các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối
với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích
Tính cƣỡng chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nƣớc bắt
phải tuân theo, là một đặc điểm cơ bản, đặc trƣng của hình phạt; đặc điểm này
cho phép phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Tính
cƣỡng chế của hình phạt đƣợc thể hiện với mức độ khác nhau và với những
hình thức cũng rất khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình phạt. Mặc dù các
hình phạt (hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) có nội dung cƣỡng chế,
thuyết phục, giáo dục, nặng, nhẹ khác nhau, nhƣng chúng đều có cùng tính
chất là một loại biện pháp cƣỡng chế trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế
của Nhà nƣớc. Khi đƣợc áp dụng, hình phạt gây ra những tổn hại nhất định
cho ngƣời bị kết án. Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi
ích thiết thân nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị,
tƣớc quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình.
Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện
thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị-pháp lý, đạo đức đối với
tội phạm và với ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ
vậy của hình phạt làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững
vàng trong xã hội trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự.
- Chỉ có thể xuất hiện khi có sự kiện phạm tội
Tội phạm là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế duy nhất cho phép áp dụng
hình phạt. Vì thế không cho phép áp dụng hình phạt đối với hành vi không
đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm và cũng không đƣợc phép áp dụng
hình phạt nếu hình phạt ấy không đƣợc quy định trong phần chung và trong
chế tài của điều luật về tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm luật hình sự.
- Phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền
xét xử vụ án hình sự - tòa án - áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói
riêng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc pháp chế trong việc quy định hình phạt - không có luật thì
không có hình phạt (nulla poena sine lege) có tính chất tuyệt đối, đƣợc áp
dụng đối với tất cả các loại hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung)
và không có ngoại lệ. Nói hình phạt đƣợc luật hình sự quy định có nghĩa là tất
cả các nội dung liên quan đến hình phạt đều phải do luật hình sự quy định và
việc quy định loại hình phạt áp dụng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Nguyên
tắc pháp chế và hiệu lực thi hành của hình phạt không chỉ ở khía cạnh quy
định hình phạt, mà còn thể hiện hiệu lực thi hành của hình phạt. Trong bộ
máy nhà nƣớc, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất mới có quyền nhân danh
Nhà nƣớc quyết định một ngƣời có phải chịu hình phạt hay không và nếu phải
chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể đƣợc áp dụng nhƣ thế nào. Nghiên cứu
cho thấy, trong các lĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án
phải giải quyết, các đƣơng sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không
thông qua Tòa án.
Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã kết
luận: "Mỗi ngƣời đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm
quyền trong nƣớc để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản
đã đƣợc hiến pháp hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận" [27, tr. 33].
- Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự
được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt
Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình
sự có ảnh hƣởng rất lớn đến ngƣời phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết
định hình phạt nhƣ đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố tụng hình
sự đƣa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt đối với ngƣời
phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc tiến hành, đó là:
Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm; Viện kiểm sát
thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố của Nhà nƣớc,
thay mặt Nhà nƣớc truy tố bị can và buộc tội bị cáo trƣớc Tòa án. Còn Tòa án
thực hiện hoạt động xét xử theo trình tự luật tố tụng hình sự quy định. Việc
luật hình sự quy định hình phạt do Tòa án quyết định là đảm bảo sự thận
trọng, khách quan toàn diện và triệt để trách oan, sai và nhƣ vậy phù hợp với
Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948: "Mỗi ngƣời
đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nƣớc
để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã đƣợc hiến pháp
hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận".
- Nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án
Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân
nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị, tƣớc quyền lợi
vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp
dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện thái độ phản ứng
chính thức, lên án về mặt chính trị - pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với
ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ vậy của hình phạt
làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững vàng trong xã hội
trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự. Mức độ của cƣỡng chế
cần thiết và hợp pháp của hình phạt trƣớc hết (nhƣng không chỉ) đƣợc xác
định thông qua mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dƣới
những điều kiện xã hội đã cho, trong đó mức độ của tính nguy hiểm chủ quan
của hành vi của ngƣời phạm tội, sự phủ định các nghĩa vụ cơ bản xã hội đƣợc
khách quan hóa. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nội dung giai cấp
cũng nhƣ tính chất và mức độ cƣỡng chế, trừng trị của hình phạt đƣợc Nhà
nƣớc quy định trong luật hình sự là không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi
nƣớc, mỗi dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử phát triển.
- Là sự thống nhất giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và
giáo dục
Một điều hiển nhiên là ở đâu không có cƣỡng chế, trừng trị thì ở đó
không thể nói đến hình phạt, nhƣng nội dung của hình phạt thể hiện không chỉ
duy nhất ở sự cƣỡng chế, trừng trị. Cùng với cƣỡng chế, trừng trị, các hình
phạt chủ yếu là những biện pháp thuyết phục, cải tạo, giáo dục. Bằng việc áp
dụng hình phạt nói chung, hình phạt bổ sung nói riêng đối với ngƣời bị kết án,
Nhà nƣớc trừng trị và đồng thời lên án họ về việc đã thực hiện hành vi phạm
tội gây hại cho xã hội, thông qua đó thuyết phục, giáo dục để họ nhận thức
đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi phạm tội đã thực hiện,
không làm những việc bị xã hội lên án, có ý thức tuân theo pháp luật và các
nguyên tắc của cuộc sống xã hội.
- Mang tính chất cá nhân, tức là chỉ được áp dụng đối với riêng bản
thân người bị kết án mà thôi
Dựa theo nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân nên hình phạt
với tính chất là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nhằm thực hiện quan hệ pháp
luật của trách nhiệm hình sự nảy sinh giữa ngƣời có hành vi phạm tội và Nhà
nƣớc chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời phạm tội về chính hành vi phạm tội của
mình, chứ không đƣợc phép áp dụng với tập thể, với các thành viên trong gia
đình hoặc đối với những ngƣời thân thiết khác của ngƣời phạm tội, ngay cả
trong những trƣờng hợp ngƣời phạm tội lẩn tránh hình phạt, hay nói cách
khác, hình phạt chỉ có ảnh hƣởng về mặt pháp lý trong các mối quan hệ pháp
luật của trách nhiệm hình sự.
Trục xuất, bên cạnh những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ
thống pháp luật hình sự Việt Nam, còn mang những đặc điểm riêng biệt, tiêu
biểu nhƣ:
- Trục xuất là hình phạt mới - chỉ được quy định cụ thể trong hệ thống
hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999.
Trƣớc khi đƣợc quy định là một loại hình phạt trong Bộ luật hình sự
năm 1999, trục xuất đƣợc áp dụng nhƣ một chế tài hành chính. Tuy nhiên, qua
thực tiễn áp dụng biện pháp trục xuất, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế
mạnh mẽ nhƣ hiện nay của Việt Nam, biện pháp này trở nên không đủ
nghiêm khắc và không phát huy đƣợc tính răn đe, ngăn ngừa hành vi phạm tội
cuả một số thành phần ngƣời nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích gây cản
trở trật tự công cộng và xâm hại các quan hệ pháp luật đƣợc luật hình sự điều
chỉnh.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật
hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở
pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm
tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn có tác dụng ngăn ngừa một cách
triệt để khả năng phạm tội mới của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhƣ một
chế tài là biện pháp hữu hiệu trong giai đoạn đất nƣớc đang hội nhập mạnh
mẽ, khi hình phạt trục xuất áp dụng theo thủ tục hành chính không còn đủ tính
răn đe; tình trạng phạm tội của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày càng gia
tăng, dẫn theo nhiều hậu quả xấu, đặc biệt là tội phạm có tổ chức vào Việt
Nam trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Việc thiết lập một hàng rào pháp lý
để bảo vệ những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc điều tiết cũng nhƣ hạn chế tối
đa tình trạng ngƣời nƣớc ngoài phạm tội là một trong những vấn đề trọng tâm
của đất nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
- Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối tƣợng bị áp dụng hình phạt này là ngƣời nƣớc ngoài. Khi niệm
ngƣời nƣớc ngoài đã đƣợc xác định trong Luật quốc tịch Việt Nam, trong
pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Theo đó, "ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái
niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của một nƣớc
khác và ngƣời không mang quốc tịch của bất cứ một nƣớc nào (ngƣời không
quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lƣu ý là, trục xuất sẽ không đƣợc áp dụng
đối với ngƣời không quốc tịch thƣờng trú tại Việt Nam. Với đối tƣợng này,
Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện.
Đối với những viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự và những ng-
ƣời nƣớc ngoài khác đƣợc hƣởng những ƣu đãi về miễn trừ ngoại giao thì vấn
đề trách nhiệm hình sự của họ đƣợc giải quyết theo con đƣờng ngoại giao.
Khoản 3 Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hƣớng dẫn thi
hành hình phạt trục xuất quy định: "Việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội
thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ƣu đãi và
miễn trừ về lãnh sự đƣợc giải quyết bằng con đƣờng ngoại giao".
Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt
Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng
hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định:
"Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc
ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật
có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối
với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc
ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp
dụng hình phạt trục xuất đối với họ.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật không quy định những
tiêu chí cụ thể cho loại hình phạt này nhƣ phạm vi áp dụng, điều kiện áp
dụng, thời hạn xóa án tích…, và cũng không quy định hình phạt này trong bất
cứ một điều luật cụ thể nào tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, là xuất
phát từ tính chất phức tạp, nhạy cảm của việc xử lý những trƣờng hợp ngƣời
phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài. Có những trƣờng hợp rất khó khăn trong việc
áp dụng vì nó liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ: ngƣời phạm tội
mang nhiều quốc tịch.
Nhƣ vậy, hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với ngƣời nƣớc
ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, và
tùy từng trƣờng hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc nhiều tình tiết khác nhau,
trong đó có vấn đề quốc tịch, Tòa án sẽ vận dụng quy định của điều luật này
để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất đối với ngƣời phạm tội.
- Trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung
Hệ thống hình phạt trong luật hình sự mỗi quốc gia thông thƣờng
đƣợc phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính và
hình phạt bổ sung đƣợc phân biệt chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng độc lập
của từng loại hình phạt đối với các trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Hình phạt
chính khác hình phạt bổ sung là ở chỗ nó đƣợc áp dụng chính, độc lập cho
mỗi tội phạm, không phụ thuộc vào các loại hình phạt khác. Do tính chất và
vai trò đặc thù của hình phạt chính nên các hình phạt chính đƣợc quy định có
tính hệ thống. Các hình phạt chính đƣợc xắp xếp theo một trật tự nhất định do
tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt quy định. Tùy theo đƣờng lối,
chính sách hình sự của mỗi Nhà nƣớc mà các hình phạt chính trong hệ thống
hình phạt của luật hình sự nƣớc đó đƣợc sắp xếp theo thứ tự khác nhau, có thể
sắp xếp các hình phạt theo thứ tự từ hình phạt nặng đến hình phạt nhẹ hoặc từ
hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng. Nhƣng việc sắp xếp đó phải tuân theo
nguyên tắc là hình phạt kế ngay sau hình phạt kia phải nặng hơn (hoặc nhẹ
hơn) nhƣng lại là hình phạt ở mức độ nhẹ hơn (hoặc năng hơn) đƣợc quy định
ngay sau nó.
Còn đối với hình phạt bổ sung, nghiên cứu cho thấy chúng không có thể
liên kết với nhau theo một trật tự có hệ thống, vì tính chất, nội dung trừng trị,
giáo dục, cải tạo của mỗi hình phạt bổ sung là rất khác nhau. Mỗi loại hình
phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động riêng đối với từng loại tội phạm. Ngay
theo cách sắp xếp các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự hiện hành của
Việt Nam (khoản 2 Điều 28) cũng khó có thể đánh giá đƣợc hình phạt nào
nặng, hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào. Chúng ta khó có thể đánh giá, so
sánh đƣợc trong số các hình phạt bổ sung nhƣ quản chế, tƣớc một số quyền
công dân, tịch thu tài sản, trục xuất, hình phạt nào nặng hơn, nghiêm khắc hơn
hình phạt nào. Chính bởi lý do đó các hình phạt bổ sung không có khả năng
thay thế cho nhau đƣợc, và cũng vì thế Tòa án không thể áp dụng quy định tại
Điều 47 Bộ luật hình sự chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Hình phạt trục xuất đƣợc Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình
phạt bổ sung trong từng trƣờng hợp.
Trƣờng hợp Tòa án áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính thì
không đƣợc áp dụng là hình phạt bổ sung. Nếu hình phạt chính áp dụng đối
với ngƣời bị kết án là một hình phạt khác không phải là trục xuất thì hình phạt
bổ sung áp dụng đối với ngƣời bị kết án có thể là trục xuất… Nhƣ vậy, hình
phạt bổ sung là trục xuất đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án chỉ khi hình
phạt chính đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án không phải là hình phạt này.
Bởi vì, hình phạt bổ sung là là loại hình phạt không thể tuyên độc lập mà nó
chỉ đƣợc tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhƣng không phải tuyên kèm
theo bất kỳ loại hình phạt chính nào, đồng thời nó cũng không đƣợc quy định
và áp dụng đối với mọi tội phạm mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất.
Nên khi áp dụng hình phạt chính đối với ngƣời bị kết án Nhà nƣớc hƣớng chủ
yếu vào việc trừng trị, giáo dục, cải tạo họ nhằm đạt đƣợc mục đích phục hồi
công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Còn khi áp dụng các hình
phạt bổ sung thì Nhà nƣớc nghiêng về mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn,
nhƣng tất nhiên là không có nghĩa việc áp dụng hình phạt bổ sung vƣợt ra
ngoài các mục đích chung của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa tội
phạm, hình phạt bổ sung vẫn còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục ngƣời
bị kết án nhằm đạt đƣợc các mục đích của hình phạt và trách nhiệm hình sự.
Hình phạt trục xuất là một loại hình phạt đặc biệt, bên cạnh đối tƣợng áp dụng
của nó khá đặc biệt, ngay cả việc áp dụng nó cũng khá nhạy cảm và mang
màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý phải hết sức mềm dẻo nhƣng cũng
không thể khoan nhƣợng với tội phạm, nên việc quy định trục xuất là loại
hình phạt lƣỡng tính thể hiện sự linh hoạt trong đƣờng lối xử lý tội phạm
nƣớc ngoài của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Tƣơng tự nhƣ hình phạt tiền, hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính
vừa là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, hình phạt trục xuất có cách thức tác
động đối với ngƣời bị kết án rất khác so với hình phạt tiền và các hình phạt
khác. Nếu các hình phạt khác có thể áp dụng chung cho tất cả mọi chủ thể
thực hiện hành vi phạm tội thì trục xuất là hình phạt chỉ đƣợc áp dụng đối với
chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và theo quyết
định của Tòa án nhân dân trong một thời hạn nhất định, chậm nhất là mƣời
lăm ngày kể từ ngày có quyết định thi hành án thì ngƣời đó bắt buộc phải rời
khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hình phạt trục xuất chỉ được quy định ở phần chung của Bộ luật
hình sự mà không được quy định tại các điều luật cụ thể trong phần các tội
phạm Bộ luật hình sự
Ngoài đƣợc ghi nhận tại Điều 32 của Bộ luật hình sự năm 1999, hình
phạt trục xuất không đƣợc quy định tại Điều luật nào khác trong phần riêng
của Bộ luật hình sự. Nhƣ vậy, hình phạt trục xuất có thể áp dụng đối với bất
kỳ tội phạm nào đƣợc quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm
1999. Khi quyết định hình phạt trục xuất, các nhà làm luật phải căn cứ vào
các nguyên tắc đƣợc ghi nhận trong Bộ luật hình sự về việc áp dụng các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, căn cứ
vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân ngƣời phạm tội… để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất nhƣ là hình
phạt chính hay hình phạt bổ sung.
Việc không quy định rõ từng cấu thành tội phạm trong từng chƣơng,
từng điều của Bộ luật hình sự tạo cho hình phạt trục xuất một diện mạo hoàn
toàn khác biệt với các loại hình phạt khác. Điều này xuất phát từ chủ thể đặc
biệt mà loại hình phạt này điều chỉnh. Cũng do tính chất nhạy cảm và phức
tạp trong đƣờng lối xử lý mà đòi hỏi các Thẩm phán và các cán bộ thực thi
pháp luật phải hết sức linh hoạt trong đƣờng lối xử lý, vừa phải đảm bảo đƣợc
tính nghiêm minh của pháp luật, nhƣng cũng phải chú trọng đến quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và nƣớc có ngƣời phạm tội bị áp dụng hình phạt này.
1.2 . KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM
1945 ĐẾN NAY
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hình phạt trục xuất
trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhất là từ sau Cách mạng tháng tám năm
1945 đến nay nhằm nhận dạng hình phạt trục xuất trong từng giai đoạn lịch
sử, từ đó thấy đƣợc những dấu ấn, những đặc điểm chủ yếu của từng giai đoạn
lịch sử đƣợc thể hiện trong chế định này và đồng thời cũng thấy đƣợc sự tồn
tại và phát triển của hình phạt bổ sung là do các điều kiện chính trị, kinh tế-xã
hội, truyền thống, đặc điểm của dân tộc ta trong từng giai đoạn lịch sử quy
định và là nhu cầu khách quan của xã hội. Quan trọng hơn nữa, việc nghiên
cứu lịch sử của hình phạt trục xuất qua các giai đoạn phát triển của đất nƣớc
là nhằm xác định khả năng kế thừa và phát huy có hiệu quả những thành tựu
và bài học kinh nghiệm về pháp luật hình sự của ông cha ta. GS.TSKH. Đào
Trí Úc đã đúng khi viết: "Một trong những mục đích của việc nghiên cứu về
pháp luật trong bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử là xác định cho đƣợc những
khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật hình sự là sự kế thừa văn hóa
và truyền thống". Bên cạnh đó, bởi đây là một hình phạt mang nhiều nét riêng
biệt so với tất cả các loại hình phạt khác, không chỉ là đối tƣợng của nó chỉ là
ngƣời nƣớc ngoài, mà còn vì việc xử lý ngƣời phạm tội mang nhiều màu sắc
ngoại giao và nhạy cảm nên việc nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của
nó cũng góp phần giúp ta nhìn nhận một cách đúng đắn thực tiễn xét xử và đề
ra những phƣơng án hữu hiệu để tối ƣu hóa hình phạt này, đặc biệt là trong
giai đoạn hội nhập mạnh mẽ của đất nƣớc ta hiện nay.
1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm về
hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999
1.2.1.1. Từ 1945 đến 1985
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới
đƣợc thành lập phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Trƣớc tình hình
đó, nhân dân ta phải đối mặt với ba nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt
và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, Nhà nƣớc đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ
sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm. Ngày 5/9/1945, Nhà nƣớc ta đã ban
hành Sắc lệnh số 6-SL trong đó: "Cấm nhân dân Việt Nam không được đăng
lính, bán thực phẩm, dẫn đường, liên lạc, làm tay sai cho Pháp; kẻ nào trái
lệnh sẽ bị đưa ra Tòa án quân sự nghiêm trị". Ngoài ra, các Sắc lệnh số 7-SL
(5/9/1945) về việc cấm đầu cơ, tích trữ thóc gạo, Sắc lệnh số 45-SL
(9/10/1945) về việc cấm xuất khẩu thóc, gạo, đỗ, các chế phẩm từ ngũ cốc
cũng đƣợc ban hành. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xét xử những hành vi
phản động này, ngày 14/2/1946, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 21-SL quy
định sẽ đem ra xét xử: "Tất cả những người nào phạm một việc gì, sau hay
trước ngày 19 tháng 8, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa".
Đây cũng là thời kỳ bắt đầu xây dựng nền móng pháp luật hình sự của
Nhà nƣớc kiểu mới đến trƣớc khi chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng pháp luật
của chế độ thực dân-phong kiến, tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật
mới. Trong thời kỳ lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ
1955 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các đạo luật hình sự
đƣợc ban hành chủ yếu là những văn bản pháp luật đơn hành đề cập đến các
tội phạm cụ thể, ít đề cập đến các vấn đề thuộc về Phần chung. Trục xuất
trong thời kỳ này cũng đƣợc ban hành trong một số văn bản đơn hành.
Thời điểm này đất nƣớc ta phải đối diện với nhiều vấn đề, trong đó có
một vấn đề rất cần thiết đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật cho chế độ
mới. Có nhiều chế định cũ bị bãi bỏ, nhiều chế định tạm thời vẫn áp dụng
theo chế độ thực dân và nhiều chế định mới đƣợc ra đời. Sau một thời gian
dài bị đô hộ, số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam là khá đáng kể, với nhiều
mục đích và không tránh khỏi có những ngƣời có ý định gây tổn hại cho chế
độ, xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội đƣợc nhà nƣớc bảo vệ, cũng nhƣ sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Việc cho ra đời biện pháp trục xuất
ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời điểm này là cần
thiết và đúng đắn.
Trục xuất đƣợc quy định và áp dụng nhƣ là một biện pháp hành chính.
Trục xuất là biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong Sắc lệnh số 205-SL
ngày 18/8/1948.
Sắc lệnh 205 đƣợc ban hành trong bối cảnh đất nƣớc đang trong hoàn
cảnh chiến tranh, Điều 1 quy định:
1. Những ngƣời ngoại quốc xét ra lời nói hay việc làm có phƣơng hại
đến cuộc trị an, sự trật tự chung, hoặc cuộc kháng chiến hiện thời của quốc gia.
2. Những ngƣời ngoại quốc đã bị một tòa án Việt Nam kết án về đại
hình, tiểu hình, sau khi họ mãn hạn giam, hoặc đƣợc ân xá hay phóng thích.
3. Những ngƣời ngoại quốc đã bị một tòa án ngoại quốc kết án về
những tội thƣờng phạm, tiểu hình hay đại hình.
4. Những ngƣời ngoại quốc xét ra là lƣu manh, vô gia cƣ, vô nghề
nghiệp hoặc không đƣợc Chính phủ Việt Nam cho phép cƣ trú trên lĩnh thổ
Việt Nam.
Hình phạt trục xuất trong các văn bản pháp luật thời kỳ này nhìn
chung là có đặc điểm nhƣ sau:
- Trục xuất thời kỳ này do Bộ trƣởng Bộ Nội Vụ và Bộ trƣởng Bộ Tƣ
Pháp chịu trách nhiệm thi hành (Điều 2 Sắc lệnh)
- Ngƣời bị trục xuất không phải mang án tích và đƣợc ấn định thời gian
trục xuất. Trong trƣờng hợp những ngƣời ngoại quốc bị trục xuất mà không
chịu rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn đã định hoặc trở lại Việt Nam
không có phép của Chính Phủ thì sẽ bị truy tố và phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm.
Chấp hành xong hình phạt sẽ bị áp dẫn ra ngoài biên giới (Điều 5 Sắc lệnh).
- Do hoàn cảnh chủ quan và khách quan của đất nƣớc trong giai đoạn
chiến tranh, đất nƣớc đang bị bao vây nhiều mặt nên các văn bản pháp lý liên
quan đến việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong
thời điểm này là hết sức ít ỏi. Việc quy định cụ thể các loại chế tài, cách thức
xử lý cũng không cụ thể mà còn rất chung chung.
1.2.1.2. Từ 1985 đến 1999
Trong giai đoạn này, không có một văn bản riêng biệt nào quy định cụ
thể về trục xuất mà trục xuất đƣợc ghi nhận tại một số văn bản pháp lý liên
quan đến việc xuất nhập cảnh… của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt
Nam, tiêu biểu nhất là Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú, đi lại của
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc Hội đồng Nhà nƣớc ban hành năm 1992.
Trục xuất đƣợc ghi nhận tại Chƣơng IV của Pháp lệnh, gồm 2 điều (Điều 16
và Điều 17), quy định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp trục xuất, cơ quan Nhà
nƣớc có thẩm quyền áp dụng và thời gian áp dụng. Tuy nhiên, nội dung vẫn
còn rất sơ sài, không thể hiện hết đƣợc nội dung là hình phạt cũng nhƣ những
quy định cụ thể về cách thức xử lý đối với ngƣời bị trục xuất.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật liên quan đến trục xuất ngƣời nƣớc
ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời điểm trƣớc năm 1999 là khá sơ
sài, chủ yếu đƣợc dụng để áp dụng trong thời kỳ chiến tranh. Sau khi đất nƣớc
giải phóng, không có một văn bản nào quy định cụ thể về hình phạt trục xuất,
mà chỉ đƣợc quy định rải rác trong các văn bản pháp lý liên quan đến phạt
hành chính. Ngay cả khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, các nhà làm luật
cũng chƣa quy định cụ thể hình phạt trục xuất trong Bộ luật.
Điều này có thể nói là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ
quan. Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ yếu tập trung ban hành
những văn bản pháp quy quy định về những loại tội phạm,nhóm loại tội phạm
cụ thể và đƣờng lối xử lý đối với các loại tội phạm nhƣ các loại tội phạm liên
quan đến việc trừng trị âm mƣu, hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản
của Nhà nƣớc, của hợp tác xã và của nhân dân; các tội phạm liên quan đến
đầu cơ; các tội phạm phản cách mạng; xâm phạm tài sản Nhà nƣớc và cá
nhân… Thực tế đất nƣớc ta trong giai đoạn này là công cuộc cải tổ lại đất nƣớc.
Sau khi giành lại độc lập, đất nƣớc ta phải đối diện với nhiều khó khăn, thù trong
giặc ngoài vẫn diễn ra hết sức phức tạp, kẻ địch vẫn không ngừng tiến hành các
hoạt động diễn biến hòa bình hết sức ma lanh, sự thay đổi của tình hình kinh tế -
chính trị cũng dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội phát triển, việc bảo vệ thành quả cách
mạng; bảo vệ chế độ và tài sản quốc dân là việc cần thiết hơn cả. Chính sách với
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu thông qua con đƣờng
ngoại giao mềm dẻo, bao gồm cả việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật
Việt Nam.
Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định:
Đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng các đặc
quyền ngoại giao hoặc quyền ƣu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp
luật Việt Nam, theo các hiệp định quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hay công nhận hoặc theo tục lệ quốc tế,
thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ đƣợc giải quyết bằng con đƣờng
ngoại giao [42].
Khoản 2 Điều 6 Bộ luật hình sự 1985 cũng quy định:
Ngƣời nƣớc ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo luật hình sự Việt Nam trong những trƣờng hợp đƣợc quy định
trong các hiệp định quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ký kết hay công nhận [42].
Qua đó, có thể thấy đƣờng lối xử lý ngƣời nƣớc ngoài của Đảng và Nhà
nƣớc ta trong giai đoạn này là hết sức mềm dẻo, chủ yếu áp dụng các hiệp định,
hiệp ƣớc quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc công nhận.
1.2.2. Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay
Do yêu cầu của việc từng bƣớc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của
nƣớc ta, đồng thời đáp ứng tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập
và mở cửa, nên có nhiều tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài vào Việt Nam làm ăn
kinh doanh hoặc du lịch. Sự ra đời của hình phạt trục xuất trong thời điểm khi
tình trạng ngƣời nƣớc ngoài vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng nhiều, với đa
dạng nhiều loại hình, nhƣ buôn bán, du lịch, quan hệ ngoại giao, học tập…
kéo theo nhiều mặt tiêu cực, trong đó tình trạng vi phạm pháp luật Việt Nam
gia tăng một cách nhanh chóng, việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài vi phạm trở nên
khó khăn. Chỉ bằng việc xử lý họ theo các quy định theo thủ tục hành chính là
không đủ nghiêm khắc và mức độ răn đe chƣa đáng kể, tình trạng vi phạm
pháp luật vẫn thƣờng xuyên xảy ra và ngày càng ra tăng, có nguy cơ xâm
phạm đến quyền và lợi ích của Nhà nƣớc Việt Nam, xâm phạm quyền và lợi
ích chính đáng của công dân Việt Nam hoặc của ngƣời nƣớc ngoài mà theo
pháp luật Việt Nam họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và trong nhiều
trƣờng hợp, việc cải tạo họ ở Việt Nam không đem lại hiệu quả, không đạt
đƣợc mục đích của việc giáo dục, cải tạo họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội.
Việc để họ tại Việt Nam còn gây ra những phức tạp không đáng có, việc trục
xuất họ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ có lợi nhiều mặt. Hình phạt trục xuất là
một biện pháp cƣỡng chế đáp ứng đƣợc yêu cầu này. Tuy nhiên, không phải
tất cả những ngƣời nƣớc ngoài bị kết án đều áp dụng hình phạt trục xuất, mà
chỉ áp dụng hình phạt này trong những trƣờng hợp cần thiết. Hình phạt trục
xuất có liên quan đến chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, nên khi
áp dụng hình phạt này cần phối hợp với cơ quan ngoại giao để cân nhắc tính
hiệu quả của việc áp dụng hình phạt trục xuất.
Từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất
chính thức đƣợc ghi nhận là một loại hình phạt trong Bộ luật, với tính chất
vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Thực tiễn xét xử trong
những năm gần đây Nhà nƣớc ta cũng đã quyết định trục xuất một số ngƣời
nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ nƣớc ta, những ngƣời này có thể là ngƣời đã bị
kết án, nhƣng cũng có thể là ngƣời không bị kết án. Việc Nhà nƣớc ta quyết
định trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong những năm
qua là biện pháp hành chính chứ không phải là biện pháp cƣỡng chế về hình
sự với ý nghĩa là một loại hình phạt.
Ngoài quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 và Nghị định số
54/2001/NĐ-CP thì cho đến thời điểm hiện nay, chƣa có bất kỳ một văn bản
nào hƣớng dẫn cụ thể các quy định về hình phạt trục xuất và các vấn đề liên
quan. Luật không quy định trong trƣờng hợp nào thì áp dụng trục xuất với tƣ
cách là hình phạt chính, trƣờng hợp nào áp dụng trục xuất với tƣ cách hình phạt
bổ sung, các điều luật tại phần riêng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không quy
định khung hình phạt liên quan đến trục xuất, mà tùy vào tình chất, mức độ nguy
hiểm để cán bộ Tòa án xử lý. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất của cán bộ tƣ
pháp cũng rất hạn chế, thay đổi thất thƣờng trong khi tình trạng ngƣời nƣớc
ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng gia tăng và diễn biến
ngày càng phức tạp. Cho đến thời điểm hiện tại, hình phạt trục xuất vẫn chƣa
phát huy hết đƣợc ý nghĩa thực tiễn của nó trong công cuộc xử lý tội phạm.
1.3. PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI BIỆN PHÁP
TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÀNH CHÍNH; HÌNH PHẠT TIỀN;
PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT
CHÍNH VÀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG
1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong
luật hành chính
- Điểm giống nhau
Về hình thức, hình phạt trục xuất trong luật hình sự và biện pháp trục
xuất trong luật hành chính là giống nhau trong việc đều buộc đối tƣợng riêng
biệt là ngƣời nƣớc ngoài có hành vi vi phạm pháp luật phải rời khỏi lãnh thổ
Việt Nam theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Theo cả pháp luật hành chính và pháp luật hình sự thì trong trƣờng
hợp Điều ƣớc quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác với quy định của pháp luật điều chỉnh liên quan đến
vấn đề trục xuất thì áp dụng quy định của Điều ƣớc quốc tế đó.
- Điểm khác nhau
Thứ nhất, trục xuất hành chính là biện pháp (chế tài) áp dụng đối với
ngƣời nƣớc ngoài có các hành vi vi phạm các quy định pháp luật hành chính.
Bên cạnh đó, ngƣời nƣớc ngoài phạm tội buộc phải chịu hình phạt trục xuất
theo luật hình sự Việt Nam chỉ khi có quyết định thi hành án của Tòa án nhân
dân cấp có thẩm quyền. Còn trƣờng hợp ngƣời nƣớc ngoài vi phạm các quy
định về xuất cảnh, nhập cảnh, cƣ trú hoặc vi phạm một số quy định hành
chính khác phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quyết định của Bộ trƣởng Bộ
Công an căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, hình phạt trục xuất theo Bộ luật hình sự đƣợc quyết định
trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn biện pháp trục xuất trong
luật hành chính đƣợc quyết định bằng văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm
quyền xử phạt hành chính ban hành.
Thứ ba, về đối tƣợng áp dụng, hình phạt trục xuất trong luật hình sự
chỉ đƣợc áp dụng với cá nhân ngƣời phạm tội đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự Việt Nam, còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính là hình thức
xử phạt buộc ngƣời nƣớc ngoài có hành vi vi phạm pháp luật (cố ý và vô ý)
phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy
định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Thứ tư, về bản chất pháp lý, hình phạt trục xuất trong luật hình sự
hoàn toàn khác biệt so với biện pháp trục xuất theo quyết định của Bộ trƣởng
Bộ Công an với tính chất là chế tài hành chính. Cụ thể, nếu hình phạt trục
xuất đƣợc ghi nhận trong hệ thống hình phạt đƣợc quy định trọng Bộ luật
hình sự năm 1999 là một dạng trách nhiệm hình sự dành cho cá nhân ngƣời
nƣớc ngoài phạm một trong các tội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những biện pháp cƣỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc áp dụng đối với cá nhân ngƣời phạm tội.
Về nguyên tắc, ngƣời chịu hình phạt này phải mang án tích trong thời
hạn nhất định. Còn trục xuất theo thủ tục hành chính thì ngƣời bị trục xuất
không phải chịu án tích.
3.1.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999
- Điểm giống nhau
+ Hình phạt trục xuất và hình phạt tiền đều là loại hình phạt lƣỡng
tính, tức là vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung.
+ Đối với cả hai loại hình phạt này, khi đã áp dụng là hình phạt chính
thì không đƣợc áp dụng là hình phạt bổ sung nữa. Có nghĩa là đối với một loại
tội phạm cụ thể, loại hình phạt này chỉ áp dụng là hình phạt bổ sung khi
không áp dụng là hình phạt chính.
+ Đối tƣợng bị áp dụng hai loại hình phạt này đều phải mang án tích
trong một khoảng thời gian nhất định.
- Điểm khác nhau
+ Về đối tƣợng áp dụng: nếu đối tƣợng bị áp dụng hình phạt của hình
phạt trục xuất là ngƣời nƣớc ngoài thì đối tƣợng của hình phạt tiền là bất kỳ
chủ thể nào phạm tội và bị kết án phạt tiền.
+ Phƣơng thức tác động: đối với ngƣời bị áp dụng hình phạt tiền,
phƣơng thức tác động là tƣớc bỏ một phần lợi ích kinh tế của họ để sung vào
công quỹ nhà nƣớc; còn đối với hình phạt trục xuất thì phƣơng thức của nó là
buộc ngƣời nƣớc ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
+ Phạm vi áp dụng: hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với
bất kỳ loại tội phạm nào đƣợc quy định trong Phần riêng Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999; còn hình phạt tiền đƣợc áp dụng tùy nghi trong 301 khung
chế tài của 103 điều luật trên tổng số 674 khung chế tài của 261 điều luật về
tội phạm. Tòa án chỉ đƣợc áp dụng là hình phạt chính đối với ngƣời phạm tội
ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự
quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định, và
áp dụng là hình phạt bổ sung đối với ngƣời phạm các tội về tham nhũng, ma
túy hoặc những tội khác do Bộ luật quy định.
1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính
và hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung
- Phạm vi tác động: trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính đƣợc áp
dụng đối với ngƣời bị kết án là một hình phạt khác không phải là hình phạt
trục xuất còn với tƣ cách hình phạt bổ sung, trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối
với bất kỳ ngƣời nƣớc ngoài nào phạm tội.
- Căn cứ áp dụng: trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung không
đƣợc tuyên độc lập mà mà chỉ đƣợc tuyên bổ sung cho hình phạt chính,
nhƣng không phải tuyên với bất cứ loại hình phạt chính nào mà chỉ đối với
một số loại tội phạm nhất định, căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội.
- Mức độ tác động của hình phạt: so với hình phạt chính, hình phạt
trục xuất khi áp dụng với tƣ cách là hình phạt bổ sung có mức độ nghiêm
khắc cao hơn, bởi vì nếu áp dụng hình phạt trục xuất với tƣ cách hình phạt
chính, ngƣời phạm tội chỉ phải chịu hậu quả là bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ
Việt Nam, còn nếu áp dụng là hình phạt bổ sung thì ngƣời phạm tội phải chịu
nhiều hậu quả pháp lý bất lợi khác nhƣ: phạt tiền, tù giam v.v…
- Mục đích của hình phạt: đối với loại hình phạt bổ sung, hình phạt
trục xuất nhằm mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn; còn đối với hình phạt
chính, Nhà nƣớc chủ yếu hƣớng đến mục đích răn đe, trừng trị, giáo dục, cải
tạo và phòng ngừa tội phạm.
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ HÌNH PHẠT
TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1 . CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ
HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hƣớng
dẫn thi hành về hình phạt trục xuất
Trục xuất là loại hình phạt mới đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự
năm 1999 (trƣớc đây nó đƣợc áp dụng nhƣ một chế tài hành chính trong pháp
luật về xuất nhập cảnh). Đối tƣợng bị áp dụng là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội.
Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật
hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở
pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm
tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn tác dụng ngăn ngừa một cách triệt
để khả năng phạm tội mới của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Một nét đặc biệt của hình phạt trục xuất là nó không đƣợc ghi nhận
với tƣ cách là chế tài trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Khi quyết định
hình phạt, Tòa án có thể cân nhắc và áp dụng hình phạt trục xuất đối với
ngƣời nƣớc ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự.
Tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và mức độ xâm
phạm đến các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ mà áp dụng các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự… đối với ngƣời nƣớc
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
Bộ luật hình sự ra đời, hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại một số
điều luật với nội dung cụ thể nhƣ sau:
Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999: quy định về hệ thống hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam hiện hành, theo đó, hệ thống hình phạt bao gồm các
hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại
Điều 28 với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung, cụ thể:
Điều 28. Các hình phạt
Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình [44].
Với tính chất là hình phạt chính, hình phạt trục xuất đƣợc tuyên một
cách độc lập, với mỗi tội phạm tòa án chỉ có thể tuyên một hình phạt chính.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
…
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Với tƣ cách là hình phạt bổ sung, hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng
kèm theo hình phạt chính (bổ sung cho hình phạt chính).
Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999: quy định cụ thể nội dung và điều
kiện áp dụng hình phạt trục xuất: "Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết
án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trục
xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong
từng trường hợp cụ thể" [44].
Theo khái niệm về hình phạt trục xuất quy định tại Điều 32 Bộ luật
hình sự, trục xuất là buộc ngƣời nƣớc ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nƣớc Việt Nam.
Đối tƣợng bị áp dụng hình phạt này là ngƣời nƣớc ngoài, khái niệm
ngƣời nƣớc ngoài đã đƣợc xác định trong Luật Quốc tịch Việt Nam, trong
pháp luật về xuất nhập cảnh, Luật Cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Theo đó "ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái
niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch một nƣớc
khác và không mang quốc tịch của bất cứ một nƣớc nào (ngƣời không có
quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lƣu ý là, trục xuất sẽ không đƣợc áp dụng
đối với ngƣời không quốc tịch thƣờng trú tại Việt Nam. Với đối tƣợng này,
Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện.
Nhƣ vậy hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với ngƣời nƣớc
ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, và
tùy từng trƣờng hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc những tình tiết khác nhau,
trong đó có vấn đề quốc tịch, Tòa án sẽ vận dụng quy định của điều luật này
để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất đối với ngƣời phạm tội.
Đối với những quy định về việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài phạm tội:
theo quy định pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc ta, trừ ngƣời có thân phận
ngoại giao đƣợc miễn trừ trách nhiệm hình sự, còn lại chính sách xử lý về cơ
bản không có sự phân biệt giữa ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam. Tuy
nhiên, ngƣời nƣớc ngoài thực hiện hành vi vi phạm pháp luật ở Việt Nam có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274,
Bộ luật hình sự năm 1999) và có thể bị áp dụng hình phạt đặc thù là trục xuất.
Ngày 23/08/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2001/NĐ-CP
hƣớng dẫn thi hành hình phạt trục xuất; trong đó, quy định cụ thể đối tƣợng
bị trục xuất, quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị trục xuất, trách nhiệm và quyền
hạn của cơ quan thi hành hình phạt trục xuất, trình tự, thủ tục thi hành hình
phạt trục xuất… Hơn nữa, để đảm bảo quyền và trách nhiệm trong việc bảo
vệ lợi ích cho công dân của quốc gia mà ngƣời phạm tội mang quốc tịch,
chúng ta đã ban hành các văn bản quy định riêng, cụ thể về chế độ thông tin
trong việc bắt giữ, xử lý ngƣời nƣớc ngoài phạm tội cho cơ quan đại diện
ngoại giao, lãnh sự của quốc gia đó (chỉ thị số 21/2000/CT-TTg ngày
16/10/2000 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thông báo và tiếp xúc lãnh sự
đối với công dân nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam mang hộ chiếu nƣớc ngoài bị
bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại Việt Nam, Thông tƣ
số 01/TTLT ngày 08/09/1988 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ
(nay là Bộ Công an), Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao hƣớng dẫn điều tra, xử lý
các vụ vi phạm luật lệ giao thông đƣờng bộ do ngƣời, phƣơng tiện giao thông
nƣớc ngoài gây ra.
"Trục xuất là buộc ngƣời nƣớc ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [44, Điều 32]. Nhƣ vậy, việc Bộ
luật hình sự quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái niệm này có
ý nghĩa lý luật - thực tiễn và pháp lý rất quan trọng đối với sự phát triển của
pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp dụng hình phạt
đối với ngƣời phàm tội của tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh
phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trƣớc tình
hình phát triển kinh tế - xã hội với xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. Trục
xuất là hình phạt chỉ đƣợc áp dụng đối với chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài phạm
tội trên lãnh thổ Việt Nam và theo quyết định của Tòa án nhân dân trong một
thời gian nhất định, chậm nhất là mƣời lăm ngày kể từ ngày có quyết định thi
hành án, ngƣời đó bắt buộc phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Các bộ ngành liên quan có trách nhiệm trong việc thi hành hình
phạt trục xuất.
+ Bộ Ngoại giao có trách nhiệm giải quyết các thủ tục đối ngoại liên
quan đến việc thi hành hình phạt trục xuất và trao đổi, cung cấp các thông tin
liên quan cho các cơ quan có thẩm quyền nƣớc ngoài, cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự của nƣớc ngoài tại Việt Nam.
+ Bộ Tài chính có trách nhiệm bảo đảm kinh phí cho việc thi hành
hình phạt trục xuất theo kế hoạch đƣợc giao trong dự toán ngân sách hàng
năm của Bộ Công an.
+ Bộ Y tế có trách nhiệm chỉ đạo, hƣớng dẫn các cơ quan y tế, và
bệnh viện trực thuộc tổ chức khám bệnh, giám định và cấp giấy chứng nhận
tình trạng sức khỏe đối với ngƣời bị trục xuất trong diện đƣợc kéo dài thời
hạn trục xuất quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 54/2001/
NĐ-CP ngày 23-8-2001 của Chính phủ.
Về phía cơ quan quản lý xuất nhập cảnh với tƣ cách là cơ quan chịu
trách nhiệm chủ trì trong việc thi hành án trục xuất có trách nhiệm:
- Thông báo về thời điểm thi hành án cho ngƣời bị trục xuất chậm nhất
là 24 giờ trƣớc khi thi hành;
- Chuyển cho Bộ ngoại giao bản sao quyết định thi hành án của Tòa
án và thông báo các thông tin, tài liệu cần thiết để phối hợp thi hành án;
- Thu thập, tiếp nhận các thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tổ chức
thi hành án từ Tòa án và các cơ quan khác có liên quan; lập hồ sơ và tổ chức
thi hành hình phạt trục xuất.
- Trƣờng hợp ngƣời bị trục xuất thuộc diện có thể đƣợc kéo dài thời
hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh phải
thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án để Tòa án
xem xét, quyết định việc kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với
ngƣời bị trục xuất. Trƣờng hợp ngƣời bị trục xuất không còn lý do để kéo
dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạmLuận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
 
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HAYLuận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HAY
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Bai tieu luan
Bai tieu luanBai tieu luan
Bai tieu luan
 
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOTLuận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê, HOT
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  noTu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khácĐề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 

Similar to Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Similar to Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sựĐề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
 
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đLuận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOTLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sựLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
 
Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật Hình Sự Việt Nam
Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật Hình Sự Việt NamCác tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật Hình Sự Việt Nam
Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật Hình Sự Việt Nam
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOTĐề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà NẵngLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLoại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luậtLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò VấpLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng NaiLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 

Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TRÚC QUỲNH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ TRÚC QUỲNH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2010
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9 1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm hình phạt trục xuất 9 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất 14 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 23 1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999 24 1.2.1.1. Từ 1945 đến 1985 24 1.2.1.2. Từ 1985 đến 1999 26 1.2.2. Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay 28 1.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính; hình phạt tiền; phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách hình phạt chính và hình phạt bổ sung 30 1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính 30 3.1.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 31 1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính và hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung 32 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP 34
  • 4. DỤNG 2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự 1999 về hình phạt trục xuất 34 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về hình phạt trục xuất 34 2.1.2. Căn cứ và điều kiện áp dụng 41 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất trên phạm vi toàn quốc từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 đƣợc ban hành 46 2.2.1. Tình trạng tội phạm ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam 46 2.2.2. Nhận xét về hiệu quả thực tế của việc áp dụng hình phạt trục xuất từ sau khi Bộ luật hình sự 1999 ban hành 54 2.3. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất và những nguyên nhân của hạn chế đó 63 2.3.1. Những hạn chế của các quy định liên quan đến hình phạt trục xuất 63 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong áp dụng hình phạt trục xuất thời gian qua 68 2.3.2.1. Các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung 68 2.3.2.2. Công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp còn nhiều hạn chế 70 2.3.2.3. Nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự 71 2.3.2.4. Một số nguyên nhân khác 74 Chương 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT 77 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất 77 3.1.1. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập 77 3.1.2. Yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 80
  • 5. 3.1.3. Nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm nƣớc ngoài; góp phần làm cho tội phạm ổn định và loại trừ tội phạm 82 3.1.4. Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất trong thời gian qua 82 3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất 84 3.3. Những phƣơng hƣớng cơ bản về hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt trục xuất 88 3.3.1. Các giải pháp về mặt lập pháp 88 3.3.1.1. Đảm bảo tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của các quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt trục xuất 88 3.3.1.2. Đảm bảo quán triệt đƣờng lối, chính sách hình sự đi đôi với chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc ta 89 3.3.1.3. Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình sự nƣớc ngoài 91 3.3.2. Giải pháp về mặt thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất 92 3.3.2.1. Tăng cƣờng công tác giải thích, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp 92 3.3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý nhà nƣớc về thi hành án trục xuất 94 3.3.2.3. Nâng cao năng lực, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật 95 3.3.2.4. Tăng cƣờng sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự với nƣớc ngoài 97 3.3.3. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trục xuất 100 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
  • 6. Danh mục các bảng Số hiệu bảng Tên bảng Trang Trang 2.1 Thống kê số vụ án và số bị can là ngƣời nƣớc ngoài thực hiện tội phạm tại Việt Nam giai đoạn 1990-1999 55 2.2 Tỷ lệ số vụ án và bị cáo Tòa án nhân dân các cấp xử sơ thẩm từ 2000 đến 2009 56 2.3 Số ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam theo từng nhóm tội phạm từ 2000 đến 2004 57 2.4 Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất Trên tổng số bị cáo bị xét xử sơ thẩm từ 2000 đến 2009 59 2.5 Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất theo từng nhóm tội phạm từ 2005 đến 2009 60 2.6 Số bị cáo bị áp dụng hình phạt trục xuất trên tổng số bị cáo bị xét xử sơ thẩm từ năm 2005 đến năm 2009 61
  • 7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay, đặc biệt là đối với Việt Nam, kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) và tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đã mở ra nhiều cơ hội giao lƣu và hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển xã hội. Các cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích làm ăn, du lịch và kinh doanh ngày càng nhiều, thu hút đƣợc ngày càng nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và nguồn lao động chất lƣợng cao. Với chính sách thông thoáng, quy định về thủ tục nhập cảnh đơn giản và dễ dàng nên số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh Việt nam ngày càng tăng, đa dạng về thành phần, với nhiều mục đích khác nhau (hàng năm, có từ 4 - 5 triệu lƣợt ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh Việt Nam; riêng năm 2009 có khoảng 3,5 triệu ngƣời). Hiện cả nƣớc có khoảng 75.000 ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Với số lƣợng lớn ngƣời nƣớc ngoài nhƣ vậy hiện diện toàn đất nƣớc, việc nảy sinh những hành vi vi phạm pháp luật cũng nhƣ việc kiểm soát các hành vi trái pháp luật của ngƣời nƣớc ngoài ngày càng trở nên phức tạp và đòi hỏi các cơ quan chức năng phải thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Đây là một vấn đề mang màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm. Đòi hỏi đặt ra là trong hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự nƣớc ta phải có hình phạt đặc thù để áp dụng đối với đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài. Hình phạt trục xuất đƣợc ghi nhận với tƣ cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng linh hoạt đối với đối tƣợng đặc biệt là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội với mục đích không chỉ nhằm trừng trị mà còn có ý nghĩa ngăn ngừa khả năng phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.
  • 8. Đồng thời thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân, cũng nhƣ ổn định, giữ vững và phát triển các quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các trƣờng hợp ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, Nhà nƣớc ta chủ yếu xử lý các trƣờng hợp này thông qua con đƣờng ngoại giao theo các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc theo thông lệ quốc tế nên hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong luật hình sự vừa phải đảm bảo tính nghiêm khắc nhƣng cũng vừa phải linh hoạt trong xử lý để bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn và pháp lý quan trọng. Là một hình phạt mới đƣợc áp dụng sau khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời, là giải pháp hữu hiệu thay thế cho các chế tài hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh. Sau một thời gian áp dụng và thi hành, các quy định về hình phạt trục xuất cũng đã thể hiện đƣợc một số điểm tích cực cũng nhƣ bộc lộ những mặt thiếu sót. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin phép đƣợc đƣa ra những kiến thức chuyên ngành về hình phạt trục xuất, những mặt mạnh, mặt yếu của nó, thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ đề xuất
  • 9. những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình phạt trục xuất. Đề tài của tôi có tên gọi: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hình phạt trục xuất là một chế định mới đƣợc ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Trong thực tiễn nghiên cứu pháp luật, cũng chƣa có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này. Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Hà Nội, 2003; tác giả Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nƣớc và pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Đặng Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; v.v... Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp tư pháp, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang Phƣơng (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà Nội, 1996; v.v...
  • 10. Ngoài ra, có một số bài viết, nghiên cứu của các tác giả khác, điển hình nhƣ bài viết "Một số ý kiến về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999" của TS. Trịnh Tiến Việt và ThS. Nguyễn Cửu Đức Bình đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2003; bài viết "Hình phạt trục xuất đối với người nước ngoài theo pháp luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề thực tiễn", của Trịnh Tiến Việt và Nguyễn Khắc Hải - Các báo cáo hội thảo khoa học lần thứ IX (Hiệp hội khoa học-kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga). Mátxcơva, 2007, tr. 91-97. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy là các vấn đề liên quan đến trục xuất mới chỉ đƣợc đề cập dƣới cấp độ các bài viết, các nghiên cứu tổng hợp chứ chƣa đƣợc xem xét dƣới góc độ một công trình nghiên cứu độc lập. Trong thực tế xét xử, các vụ án liên quan đến trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là rất ít so với các hình phạt khác. Một phần là do tính chất nhạy cảm của vấn đề, mặt khác do đây là một hình phạt tƣơng đối mới, chỉ đƣợc quy định từ sau Bộ luật hình sự năm 1999, trƣớc đây chỉ đƣợc xem là một biện pháp hành chính nên trong công tác xét xử cũng còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, khi chọn đề tài này, tác giả nhận thấy đây là một vấn đề rất mới mẻ và nếu thành công, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tƣ pháp hình sự cũng nhƣ phục vụ cho công tác lập pháp, công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến hình phạt trục xuất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận về hình phạt trục xuất, những vấn đề pháp lý liên quan, thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời phân
  • 11. tích những ƣu điểm, nhƣợc điểm của hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự, phân tích nguyên nhân của những tồn tại, từ đó đề ra phƣơng án hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến vấn đề trục xuất trong luật hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở những mục đích trên, luận văn này có nhiệm vụ nghiên cứu: - Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam quy định về hình phạt trục xuất; - Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam; qua đó rút ra những hạn chế, tồn tại của hình phạt này trong luật thực định Việt Nam; những phƣơng hƣớng khắc phục; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt trục xuất trong những năm gần đây; đồng thời phân tích làm rõ những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng và những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó; - Đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn; 4. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề Nghiên cứu tình hình tội phạm liên quan đến trục xuất trong những năm gần đây. Những số liệu nghiên cứu là căn cứ có giá trị nhất định để xác định về tội phạm là ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm này cũng nhƣ các biện pháp để hình phạt này phát huy đƣợc ý nghĩa lý luận của nó trong thực tiễn. Trên cơ sở phƣơng pháp biện chứng duy vật, Luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, so sánh; phƣơng pháp
  • 12. thống kê tội phạm học; phƣơng pháp điều tra xã hội; phƣơng pháp dự báo khoa học…để thực hiện nghiên cứu đề tài này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Lần đầu tiên nhà làm luật nƣớc ta đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt trục xuất. Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lƣu và hợp tác quốc tế. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về hình phạt và hình phạt trục xuất; phân biệt các hình phạt trục xuất với chế tài hành chính; phân tích những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng hình phạt này tại Việt Nam thông qua việc phân tích số liệu 10 năm gần đây trên địa bàn cả nƣớc. Trên cơ sở này, đề xuất một số phƣơng hƣớng và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng một số quy định tƣơng ứng về hình phạt trục xuất ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đối với sự thành bại của bất kỳ một luận văn nào, điều quan trọng là thể hiện đƣợc những đóng góp của luận văn đối với việc tìm hiểu bản chất vấn đề của đề tài mà tác giả theo đuổi cũng nhƣ tính mới của nó đối với những công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà nghiên cứu khác. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hình phạt trục xuất, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan
  • 13. trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nƣớc về hình phạt, hình phạt trục xuất để xây dựng nên khái niệm hình phạt trục xuất, đảm bảo tính chính xác, khoa học, chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất, phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất theo luật hành chính; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của các quy phạm của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình vi phạm pháp luật liên quan đến ngƣời nƣớc ngoài phạm tội và tình hình áp dụng hình phạt trục xuất của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất cũng nhƣ những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
  • 14. Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt trục xuất trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt trục xuất và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số phƣơng hƣớng cơ bản để nâng cao hiệu quả các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt trục xuất.
  • 15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1 . KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm hình phạt trục xuất Hệ thống hình phạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành từ sau lần pháp điển hóa lần thứ hai (1999) đƣợc điều chỉnh tại 15 điều của Chƣơng V độc lập " hình phạt" trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Từ Điều 26 đến Điều 40) bằng các quy phạm riêng biệt chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp dụng cụ thể 12 loại hình phạt (các điều 29 -40) có tính chất bắt buộc đối với các tòa án là: 1. Cảnh cáo; 2. Cải tạo không giam giữ (từ 6 tháng đến 3 năm); 3. Tù có thời hạn; 4. Tù chung thân; 5. Tử hình; 6. Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; 7. Cấm cƣ trú; 8. Quản chế; 9. Tƣớc một số quyền công dân; 10. Tịch thu tài sản; 11. Phạt tiền; và 12. Trục xuất [7, tr. 696].
  • 16. Trong đó, trục xuất là một loại hình phạt mới, lần đầu tiên đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đây là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Trƣớc khi đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất đƣợc quy định và áp dụng nhƣ là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948, và đến năm 2000 đƣợc quy định trong Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày 28/04/2000. Trục xuất là hình phạt buộc ngƣời nƣớc ngoài (ngƣời không có quốc tịch Việt Nam) trong thời hạn nhất định phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ tính phức tạp của việc xử lý những trƣờng hợp chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài, Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định những điều kiện cụ thể để áp dụng hình phạt này, đồng thời cũng không quy định hình phạt này vào điều luật cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự [5, tr. 344]. Cũng theo Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể. Nghiên cứu pháp luật nƣớc ngoài cho thấy đa số các nƣớc quy định trục xuất với tƣ cách là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, thậm chí có nƣớc trƣớc đây quy định trục xuất là một hình phạt trong luật hình sự thì nay nó chỉ còn đƣợc quy định là một biện pháp cƣỡng chế hành chính, ví dụ nhƣ Cộng hòa Liên bang Đức (trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự của Đức với tên gọi là biện pháp An ninh và Cải tạo theo Đạo luật chống những ngƣời phạm tội chuyên nghiệp nguy hiểm và về các biện pháp an ninh và cải tạo. Năm 1969, trục xuất đã bị loại bỏ khỏi danh mục các biện pháp an ninh và cải tạo trong Bộ luật hình sự. Hiện nay, trục xuất đƣợc quy định trong đạo luật về ngƣời nƣớc ngoài với tính chất là một biện pháp cƣỡng chế hành chính) . Ngày nay trục xuất với tƣ cách là hình phạt chỉ đƣợc quy định trong luật hình sự một số nƣớc và việc quy định hình phạt này trong luật hình sự mỗi nƣớc cũng rất khác nhau.
  • 17. Trong Bộ luật hình sự của Trung Quốc, trục xuất đƣợc quy định tại Điều 35 là loại hình phạt có thể đƣợc áp dụng với tƣ cách là hình phạt độc lập hoặc hình phạt bổ sung đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, tức là, trục xuất đƣợc quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Điều luật này cũng không quy định rõ điều kiện, phạm vi, thời hạn của hình phạt này nhƣ Việt Nam. Có thể các nhà lập pháp nƣớc ta đã nghiên cứu tham khảo và tiếp thu kinh nghiệm này của Trung Quốc khi xây dựng chế định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 của mình? [55, tr. 103]. Nghiên cứu Bộ luật hình sự của Cộng hòa dân chủ Đức năm 1968 cho thấy hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại Điều 59 với tƣ cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Trục xuất áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú tại Cộng hòa dân chủ Đức mà phạm tội. Khoản 1 Điều 2 Luật Quốc tịch ngày 20/2/1967 cũng quy định rõ trục xuất không áp dụng đối với những ngƣời mang hai quốc tịch: Quốc tịch Cộng hòa dân chủ Đức và quốc tịch nƣớc khác. Điều 5 các luật về ngƣời nƣớc ngoài cũng quy định không đƣợc áp dụng hình phạt này với ngƣời tị nạn chính trị tại Cộng hòa dân chủ Đức. Trong Bộ luật hình sự của Thụy Sĩ, Điều 55 quy định trục xuất chỉ với tính chất là hình phạt bổ sung. Theo Điều luật này, hình phạt trục xuất đƣợc quy định chỉ áp dụng với ngƣời nƣớc ngoài bị kết án tù khổ sai hoặc tù có thời hạn từ 3 năm đến 15 năm. Nhƣ vậy, luật hình sự Thụy Sĩ cũng xác định rõ đối tƣợng và phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất [55, tr. 105]. Luật hình sự của Thụy Điển cũng có quy định trục xuất ngƣời bị kết án là ngƣời nƣớc ngoài. Tuy nhiên, khác với luật hình sự nƣớc ta, trục xuất trong luật hình sự của Thụy Điển không phải là hình phạt mà chỉ là một biện pháp an ninh áp dụng đối với ngƣời bị kết án về một tội nghiêm trọng [17]. Ở Hoa Kỳ, hình phạt trục xuất đƣợc quy định trong Bộ luật Di trú. Theo Điều 237 của Bộ luật này thì trục xuất đƣợc áp dụng với ngƣời không phải công dân Hoa Kỳ đã nhập cảnh Hoa Kỳ phạm tội hình sự trong những trƣờng hợp:
  • 18. - Khi ngƣời nƣớc ngoài phạm tội có tính cách suy đồi đạo đức (Moral Turpitude) và tội đó có thể bị phạt từ 01 năm tù trở lên thì sẽ bị trục xuất; - Nếu đƣơng sự phạm hai tội có tính cách suy đồi đạo đức thì đƣơng sự bị trục xuất, dù tội đó là nhỏ nhặt. Điều luật cũng quy định nếu bị cáo bị kết án về tội nghiêm trọng (aggravated felony) thì sẽ bị trục xuất, đó là những tội: giết ngƣời, hãm hiếp, cƣớp tài sản và bị phạt tù trên 01 năm, buôn lậu ma túy, buôn lậu vũ khí, những tội hành hung và bị án tù trên 1 năm, những tội giả mạo chữ ký, giấy tờ và bị phạt tù trên 01 năm, những tội gian lận và gây thiệt hại cho nạn nhân trên 10000 USD [55, tr. 105]. Theo Điều 2 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, Điều 3 Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam này 28/4/2000 và Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hƣớng dẫn về việc thi hành hình phạt trục xuất thì khái niệm ngƣời nƣớc ngoài đƣợc hiểu là "người không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của nƣớc khác hoặc là ngƣời không mang quốc tịch của bất cứ nƣớc nào. Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định: "Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp dụng hình phạt trục xuất đối với họ [55, tr. 106]. Mặc dù luật quy định hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng đối với bất kỳ hành vi phạm tội nào, tuy nhiên, trên thực tế xét xử các vụ án liên quan đến việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội, không phải ngƣời nƣớc ngoài nào
  • 19. vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam đều bị áp dụng hình phạt trục xuất này, mà Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và các yếu tố khác liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự… để áp dụng khi cần thiết. Để đƣa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, nhất quán về mặt pháp lý, thống nhất về mặt ngôn từ, đồng thời xét đến tính phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc, theo chúng tôi, khái niệm hình phạt trục xuất phải bao gồm đƣợc các nội dung nhƣ: thứ nhất, bản chất pháp lý của hình phạt trục xuất; thứ hai, cơ quan có thẩm quyền áp dụng, thứ ba, đối tƣợng bị áp dụng, thứ tư, căn cứ và điều kiện áp dụng. Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm hình phạt trục xuất có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Hình phạt trục xuất là một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, được Tòa án áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bị buộc phải rời Việt Nam trong thời gian nhất định. Hình phạt trục xuất được áp dụng với tư cách vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nước ngoài, đặc biệt là tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia; bảo vệ trật tự xã hội và độc lập, chủ quyền dân tộc. Nhƣ vậy, từ khái niệm khoa học về hình phạt trục xuất nêu trên, theo chúng tôi bản chất pháp lý của hình phạt này là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước đối với các đối tượng là người nước ngoài phạm tội và buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn nhất định. Hình phạt trục xuất không chỉ nhằm mục đích trừng trị, giáo dục ngƣời phạm tội mà còn nhằm ngăn chặn các hành động có nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh, chủ quyền dân tộc. Việc Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái niệm hình phạt này có ý nghĩa lý luận - thực tiễn rất quan trọng
  • 20. đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội của Tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trƣớc tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lƣu và hợp tác quốc tế. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt trục xuất Với tính chất vừa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự 1999, hình phạt trục xuất mang những đặc điểm chung của hình phạt nhƣ sau: - Là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích Tính cƣỡng chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nƣớc bắt phải tuân theo, là một đặc điểm cơ bản, đặc trƣng của hình phạt; đặc điểm này cho phép phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Tính cƣỡng chế của hình phạt đƣợc thể hiện với mức độ khác nhau và với những hình thức cũng rất khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình phạt. Mặc dù các hình phạt (hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) có nội dung cƣỡng chế, thuyết phục, giáo dục, nặng, nhẹ khác nhau, nhƣng chúng đều có cùng tính chất là một loại biện pháp cƣỡng chế trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc. Khi đƣợc áp dụng, hình phạt gây ra những tổn hại nhất định cho ngƣời bị kết án. Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị, tƣớc quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị-pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ vậy của hình phạt làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững vàng trong xã hội trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự.
  • 21. - Chỉ có thể xuất hiện khi có sự kiện phạm tội Tội phạm là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế duy nhất cho phép áp dụng hình phạt. Vì thế không cho phép áp dụng hình phạt đối với hành vi không đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm và cũng không đƣợc phép áp dụng hình phạt nếu hình phạt ấy không đƣợc quy định trong phần chung và trong chế tài của điều luật về tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm luật hình sự. - Phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự - tòa án - áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói riêng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật Nguyên tắc pháp chế trong việc quy định hình phạt - không có luật thì không có hình phạt (nulla poena sine lege) có tính chất tuyệt đối, đƣợc áp dụng đối với tất cả các loại hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) và không có ngoại lệ. Nói hình phạt đƣợc luật hình sự quy định có nghĩa là tất cả các nội dung liên quan đến hình phạt đều phải do luật hình sự quy định và việc quy định loại hình phạt áp dụng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Nguyên tắc pháp chế và hiệu lực thi hành của hình phạt không chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà còn thể hiện hiệu lực thi hành của hình phạt. Trong bộ máy nhà nƣớc, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất mới có quyền nhân danh Nhà nƣớc quyết định một ngƣời có phải chịu hình phạt hay không và nếu phải chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể đƣợc áp dụng nhƣ thế nào. Nghiên cứu cho thấy, trong các lĩnh vực khác không phải hình sự không bắt buộc Tòa án phải giải quyết, các đƣơng sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông qua Tòa án. Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã kết luận: "Mỗi ngƣời đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nƣớc để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã đƣợc hiến pháp hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận" [27, tr. 33]. - Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt
  • 22. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình sự có ảnh hƣởng rất lớn đến ngƣời phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết định hình phạt nhƣ đã trình bày ở trên. Vì thế, toàn bộ quá trình tố tụng hình sự đƣa đến việc Tòa án xét xử để định tội và áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội đều do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc tiến hành, đó là: Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm; Viện kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố của Nhà nƣớc, thay mặt Nhà nƣớc truy tố bị can và buộc tội bị cáo trƣớc Tòa án. Còn Tòa án thực hiện hoạt động xét xử theo trình tự luật tố tụng hình sự quy định. Việc luật hình sự quy định hình phạt do Tòa án quyết định là đảm bảo sự thận trọng, khách quan toàn diện và triệt để trách oan, sai và nhƣ vậy phù hợp với Điều 8 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948: "Mỗi ngƣời đều có quyền đƣợc thực sự bảo vệ tại các Tòa án có thẩm quyền trong nƣớc để chống lại những hành động xâm phạm các quyền cơ bản đã đƣợc hiến pháp hay luật pháp của các nƣớc đó thừa nhận". - Nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do của người bị kết án Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính trị, tƣớc quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của mình. Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể hiện thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị - pháp lý, đạo đức đối với tội phạm và với ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ vậy của hình phạt làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững vàng trong xã hội trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự. Mức độ của cƣỡng chế cần thiết và hợp pháp của hình phạt trƣớc hết (nhƣng không chỉ) đƣợc xác định thông qua mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dƣới những điều kiện xã hội đã cho, trong đó mức độ của tính nguy hiểm chủ quan của hành vi của ngƣời phạm tội, sự phủ định các nghĩa vụ cơ bản xã hội đƣợc khách quan hóa. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nội dung giai cấp cũng nhƣ tính chất và mức độ cƣỡng chế, trừng trị của hình phạt đƣợc Nhà
  • 23. nƣớc quy định trong luật hình sự là không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi nƣớc, mỗi dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử phát triển. - Là sự thống nhất giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa trừng trị và giáo dục Một điều hiển nhiên là ở đâu không có cƣỡng chế, trừng trị thì ở đó không thể nói đến hình phạt, nhƣng nội dung của hình phạt thể hiện không chỉ duy nhất ở sự cƣỡng chế, trừng trị. Cùng với cƣỡng chế, trừng trị, các hình phạt chủ yếu là những biện pháp thuyết phục, cải tạo, giáo dục. Bằng việc áp dụng hình phạt nói chung, hình phạt bổ sung nói riêng đối với ngƣời bị kết án, Nhà nƣớc trừng trị và đồng thời lên án họ về việc đã thực hiện hành vi phạm tội gây hại cho xã hội, thông qua đó thuyết phục, giáo dục để họ nhận thức đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi phạm tội đã thực hiện, không làm những việc bị xã hội lên án, có ý thức tuân theo pháp luật và các nguyên tắc của cuộc sống xã hội. - Mang tính chất cá nhân, tức là chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người bị kết án mà thôi Dựa theo nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân nên hình phạt với tính chất là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nhằm thực hiện quan hệ pháp luật của trách nhiệm hình sự nảy sinh giữa ngƣời có hành vi phạm tội và Nhà nƣớc chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời phạm tội về chính hành vi phạm tội của mình, chứ không đƣợc phép áp dụng với tập thể, với các thành viên trong gia đình hoặc đối với những ngƣời thân thiết khác của ngƣời phạm tội, ngay cả trong những trƣờng hợp ngƣời phạm tội lẩn tránh hình phạt, hay nói cách khác, hình phạt chỉ có ảnh hƣởng về mặt pháp lý trong các mối quan hệ pháp luật của trách nhiệm hình sự. Trục xuất, bên cạnh những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, còn mang những đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu nhƣ:
  • 24. - Trục xuất là hình phạt mới - chỉ được quy định cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999. Trƣớc khi đƣợc quy định là một loại hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, trục xuất đƣợc áp dụng nhƣ một chế tài hành chính. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng biện pháp trục xuất, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế mạnh mẽ nhƣ hiện nay của Việt Nam, biện pháp này trở nên không đủ nghiêm khắc và không phát huy đƣợc tính răn đe, ngăn ngừa hành vi phạm tội cuả một số thành phần ngƣời nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích gây cản trở trật tự công cộng và xâm hại các quan hệ pháp luật đƣợc luật hình sự điều chỉnh. Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn có tác dụng ngăn ngừa một cách triệt để khả năng phạm tội mới của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Việc quy định hình phạt trục xuất trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhƣ một chế tài là biện pháp hữu hiệu trong giai đoạn đất nƣớc đang hội nhập mạnh mẽ, khi hình phạt trục xuất áp dụng theo thủ tục hành chính không còn đủ tính răn đe; tình trạng phạm tội của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam ngày càng gia tăng, dẫn theo nhiều hậu quả xấu, đặc biệt là tội phạm có tổ chức vào Việt Nam trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Việc thiết lập một hàng rào pháp lý để bảo vệ những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc điều tiết cũng nhƣ hạn chế tối đa tình trạng ngƣời nƣớc ngoài phạm tội là một trong những vấn đề trọng tâm của đất nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. - Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối tƣợng bị áp dụng hình phạt này là ngƣời nƣớc ngoài. Khi niệm ngƣời nƣớc ngoài đã đƣợc xác định trong Luật quốc tịch Việt Nam, trong pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam.
  • 25. Theo đó, "ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch của một nƣớc khác và ngƣời không mang quốc tịch của bất cứ một nƣớc nào (ngƣời không quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lƣu ý là, trục xuất sẽ không đƣợc áp dụng đối với ngƣời không quốc tịch thƣờng trú tại Việt Nam. Với đối tƣợng này, Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện. Đối với những viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự và những ng- ƣời nƣớc ngoài khác đƣợc hƣởng những ƣu đãi về miễn trừ ngoại giao thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ đƣợc giải quyết theo con đƣờng ngoại giao. Khoản 3 Điều 1 Nghị định 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hƣớng dẫn thi hành hình phạt trục xuất quy định: "Việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài phạm tội thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ƣu đãi và miễn trừ về lãnh sự đƣợc giải quyết bằng con đƣờng ngoại giao". Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Nhà nƣớc Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam, trừ trƣờng hợp Luật này có quy định khác", khoản 4 Điều 5 của Luật này lại quy định: "Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nƣớc ngoài đang định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan". Vậy nên có thể có công dân Việt Nam mang hai quốc tịch. Đối với ngƣời Việt Nam vừa mang quốc tịch Việt Nam, vừa mang quốc tịch nƣớc ngoài, nếu phạm tội tại Việt Nam thì về nguyên tắc các Tòa án không đƣợc áp dụng hình phạt trục xuất đối với họ. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật không quy định những tiêu chí cụ thể cho loại hình phạt này nhƣ phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng, thời hạn xóa án tích…, và cũng không quy định hình phạt này trong bất cứ một điều luật cụ thể nào tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, là xuất phát từ tính chất phức tạp, nhạy cảm của việc xử lý những trƣờng hợp ngƣời phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài. Có những trƣờng hợp rất khó khăn trong việc
  • 26. áp dụng vì nó liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ: ngƣời phạm tội mang nhiều quốc tịch. Nhƣ vậy, hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, và tùy từng trƣờng hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc nhiều tình tiết khác nhau, trong đó có vấn đề quốc tịch, Tòa án sẽ vận dụng quy định của điều luật này để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất đối với ngƣời phạm tội. - Trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung Hệ thống hình phạt trong luật hình sự mỗi quốc gia thông thƣờng đƣợc phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung đƣợc phân biệt chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng độc lập của từng loại hình phạt đối với các trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Hình phạt chính khác hình phạt bổ sung là ở chỗ nó đƣợc áp dụng chính, độc lập cho mỗi tội phạm, không phụ thuộc vào các loại hình phạt khác. Do tính chất và vai trò đặc thù của hình phạt chính nên các hình phạt chính đƣợc quy định có tính hệ thống. Các hình phạt chính đƣợc xắp xếp theo một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt quy định. Tùy theo đƣờng lối, chính sách hình sự của mỗi Nhà nƣớc mà các hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự nƣớc đó đƣợc sắp xếp theo thứ tự khác nhau, có thể sắp xếp các hình phạt theo thứ tự từ hình phạt nặng đến hình phạt nhẹ hoặc từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng. Nhƣng việc sắp xếp đó phải tuân theo nguyên tắc là hình phạt kế ngay sau hình phạt kia phải nặng hơn (hoặc nhẹ hơn) nhƣng lại là hình phạt ở mức độ nhẹ hơn (hoặc năng hơn) đƣợc quy định ngay sau nó. Còn đối với hình phạt bổ sung, nghiên cứu cho thấy chúng không có thể liên kết với nhau theo một trật tự có hệ thống, vì tính chất, nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo của mỗi hình phạt bổ sung là rất khác nhau. Mỗi loại hình phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động riêng đối với từng loại tội phạm. Ngay theo cách sắp xếp các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự hiện hành của
  • 27. Việt Nam (khoản 2 Điều 28) cũng khó có thể đánh giá đƣợc hình phạt nào nặng, hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào. Chúng ta khó có thể đánh giá, so sánh đƣợc trong số các hình phạt bổ sung nhƣ quản chế, tƣớc một số quyền công dân, tịch thu tài sản, trục xuất, hình phạt nào nặng hơn, nghiêm khắc hơn hình phạt nào. Chính bởi lý do đó các hình phạt bổ sung không có khả năng thay thế cho nhau đƣợc, và cũng vì thế Tòa án không thể áp dụng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hình phạt trục xuất đƣợc Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trƣờng hợp. Trƣờng hợp Tòa án áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính thì không đƣợc áp dụng là hình phạt bổ sung. Nếu hình phạt chính áp dụng đối với ngƣời bị kết án là một hình phạt khác không phải là trục xuất thì hình phạt bổ sung áp dụng đối với ngƣời bị kết án có thể là trục xuất… Nhƣ vậy, hình phạt bổ sung là trục xuất đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án chỉ khi hình phạt chính đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án không phải là hình phạt này. Bởi vì, hình phạt bổ sung là là loại hình phạt không thể tuyên độc lập mà nó chỉ đƣợc tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhƣng không phải tuyên kèm theo bất kỳ loại hình phạt chính nào, đồng thời nó cũng không đƣợc quy định và áp dụng đối với mọi tội phạm mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất. Nên khi áp dụng hình phạt chính đối với ngƣời bị kết án Nhà nƣớc hƣớng chủ yếu vào việc trừng trị, giáo dục, cải tạo họ nhằm đạt đƣợc mục đích phục hồi công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Còn khi áp dụng các hình phạt bổ sung thì Nhà nƣớc nghiêng về mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn, nhƣng tất nhiên là không có nghĩa việc áp dụng hình phạt bổ sung vƣợt ra ngoài các mục đích chung của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa tội phạm, hình phạt bổ sung vẫn còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục ngƣời bị kết án nhằm đạt đƣợc các mục đích của hình phạt và trách nhiệm hình sự. Hình phạt trục xuất là một loại hình phạt đặc biệt, bên cạnh đối tƣợng áp dụng của nó khá đặc biệt, ngay cả việc áp dụng nó cũng khá nhạy cảm và mang
  • 28. màu sắc ngoại giao nên cách thức xử lý phải hết sức mềm dẻo nhƣng cũng không thể khoan nhƣợng với tội phạm, nên việc quy định trục xuất là loại hình phạt lƣỡng tính thể hiện sự linh hoạt trong đƣờng lối xử lý tội phạm nƣớc ngoài của Đảng và Nhà nƣớc ta. Tƣơng tự nhƣ hình phạt tiền, hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, hình phạt trục xuất có cách thức tác động đối với ngƣời bị kết án rất khác so với hình phạt tiền và các hình phạt khác. Nếu các hình phạt khác có thể áp dụng chung cho tất cả mọi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội thì trục xuất là hình phạt chỉ đƣợc áp dụng đối với chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và theo quyết định của Tòa án nhân dân trong một thời hạn nhất định, chậm nhất là mƣời lăm ngày kể từ ngày có quyết định thi hành án thì ngƣời đó bắt buộc phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Hình phạt trục xuất chỉ được quy định ở phần chung của Bộ luật hình sự mà không được quy định tại các điều luật cụ thể trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự Ngoài đƣợc ghi nhận tại Điều 32 của Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất không đƣợc quy định tại Điều luật nào khác trong phần riêng của Bộ luật hình sự. Nhƣ vậy, hình phạt trục xuất có thể áp dụng đối với bất kỳ tội phạm nào đƣợc quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999. Khi quyết định hình phạt trục xuất, các nhà làm luật phải căn cứ vào các nguyên tắc đƣợc ghi nhận trong Bộ luật hình sự về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội… để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất nhƣ là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Việc không quy định rõ từng cấu thành tội phạm trong từng chƣơng, từng điều của Bộ luật hình sự tạo cho hình phạt trục xuất một diện mạo hoàn toàn khác biệt với các loại hình phạt khác. Điều này xuất phát từ chủ thể đặc
  • 29. biệt mà loại hình phạt này điều chỉnh. Cũng do tính chất nhạy cảm và phức tạp trong đƣờng lối xử lý mà đòi hỏi các Thẩm phán và các cán bộ thực thi pháp luật phải hết sức linh hoạt trong đƣờng lối xử lý, vừa phải đảm bảo đƣợc tính nghiêm minh của pháp luật, nhƣng cũng phải chú trọng đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nƣớc có ngƣời phạm tội bị áp dụng hình phạt này. 1.2 . KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hình phạt trục xuất trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhất là từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay nhằm nhận dạng hình phạt trục xuất trong từng giai đoạn lịch sử, từ đó thấy đƣợc những dấu ấn, những đặc điểm chủ yếu của từng giai đoạn lịch sử đƣợc thể hiện trong chế định này và đồng thời cũng thấy đƣợc sự tồn tại và phát triển của hình phạt bổ sung là do các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội, truyền thống, đặc điểm của dân tộc ta trong từng giai đoạn lịch sử quy định và là nhu cầu khách quan của xã hội. Quan trọng hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử của hình phạt trục xuất qua các giai đoạn phát triển của đất nƣớc là nhằm xác định khả năng kế thừa và phát huy có hiệu quả những thành tựu và bài học kinh nghiệm về pháp luật hình sự của ông cha ta. GS.TSKH. Đào Trí Úc đã đúng khi viết: "Một trong những mục đích của việc nghiên cứu về pháp luật trong bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử là xác định cho đƣợc những khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật hình sự là sự kế thừa văn hóa và truyền thống". Bên cạnh đó, bởi đây là một hình phạt mang nhiều nét riêng biệt so với tất cả các loại hình phạt khác, không chỉ là đối tƣợng của nó chỉ là ngƣời nƣớc ngoài, mà còn vì việc xử lý ngƣời phạm tội mang nhiều màu sắc ngoại giao và nhạy cảm nên việc nghiên cứu lịch sử hình thành phát triển của nó cũng góp phần giúp ta nhìn nhận một cách đúng đắn thực tiễn xét xử và đề
  • 30. ra những phƣơng án hữu hiệu để tối ƣu hóa hình phạt này, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ của đất nƣớc ta hiện nay. 1.2.1. Khát quát lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm về hình phạt trục xuất trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999 1.2.1.1. Từ 1945 đến 1985 Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới đƣợc thành lập phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Trƣớc tình hình đó, nhân dân ta phải đối mặt với ba nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Nhà nƣớc đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm. Ngày 5/9/1945, Nhà nƣớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 6-SL trong đó: "Cấm nhân dân Việt Nam không được đăng lính, bán thực phẩm, dẫn đường, liên lạc, làm tay sai cho Pháp; kẻ nào trái lệnh sẽ bị đưa ra Tòa án quân sự nghiêm trị". Ngoài ra, các Sắc lệnh số 7-SL (5/9/1945) về việc cấm đầu cơ, tích trữ thóc gạo, Sắc lệnh số 45-SL (9/10/1945) về việc cấm xuất khẩu thóc, gạo, đỗ, các chế phẩm từ ngũ cốc cũng đƣợc ban hành. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xét xử những hành vi phản động này, ngày 14/2/1946, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 21-SL quy định sẽ đem ra xét xử: "Tất cả những người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa". Đây cũng là thời kỳ bắt đầu xây dựng nền móng pháp luật hình sự của Nhà nƣớc kiểu mới đến trƣớc khi chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng pháp luật của chế độ thực dân-phong kiến, tiến hành xây dựng các văn bản pháp luật mới. Trong thời kỳ lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ 1955 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các đạo luật hình sự đƣợc ban hành chủ yếu là những văn bản pháp luật đơn hành đề cập đến các tội phạm cụ thể, ít đề cập đến các vấn đề thuộc về Phần chung. Trục xuất trong thời kỳ này cũng đƣợc ban hành trong một số văn bản đơn hành.
  • 31. Thời điểm này đất nƣớc ta phải đối diện với nhiều vấn đề, trong đó có một vấn đề rất cần thiết đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật cho chế độ mới. Có nhiều chế định cũ bị bãi bỏ, nhiều chế định tạm thời vẫn áp dụng theo chế độ thực dân và nhiều chế định mới đƣợc ra đời. Sau một thời gian dài bị đô hộ, số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam là khá đáng kể, với nhiều mục đích và không tránh khỏi có những ngƣời có ý định gây tổn hại cho chế độ, xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội đƣợc nhà nƣớc bảo vệ, cũng nhƣ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Việc cho ra đời biện pháp trục xuất ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời điểm này là cần thiết và đúng đắn. Trục xuất đƣợc quy định và áp dụng nhƣ là một biện pháp hành chính. Trục xuất là biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/8/1948. Sắc lệnh 205 đƣợc ban hành trong bối cảnh đất nƣớc đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Điều 1 quy định: 1. Những ngƣời ngoại quốc xét ra lời nói hay việc làm có phƣơng hại đến cuộc trị an, sự trật tự chung, hoặc cuộc kháng chiến hiện thời của quốc gia. 2. Những ngƣời ngoại quốc đã bị một tòa án Việt Nam kết án về đại hình, tiểu hình, sau khi họ mãn hạn giam, hoặc đƣợc ân xá hay phóng thích. 3. Những ngƣời ngoại quốc đã bị một tòa án ngoại quốc kết án về những tội thƣờng phạm, tiểu hình hay đại hình. 4. Những ngƣời ngoại quốc xét ra là lƣu manh, vô gia cƣ, vô nghề nghiệp hoặc không đƣợc Chính phủ Việt Nam cho phép cƣ trú trên lĩnh thổ Việt Nam. Hình phạt trục xuất trong các văn bản pháp luật thời kỳ này nhìn chung là có đặc điểm nhƣ sau: - Trục xuất thời kỳ này do Bộ trƣởng Bộ Nội Vụ và Bộ trƣởng Bộ Tƣ Pháp chịu trách nhiệm thi hành (Điều 2 Sắc lệnh)
  • 32. - Ngƣời bị trục xuất không phải mang án tích và đƣợc ấn định thời gian trục xuất. Trong trƣờng hợp những ngƣời ngoại quốc bị trục xuất mà không chịu rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn đã định hoặc trở lại Việt Nam không có phép của Chính Phủ thì sẽ bị truy tố và phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm. Chấp hành xong hình phạt sẽ bị áp dẫn ra ngoài biên giới (Điều 5 Sắc lệnh). - Do hoàn cảnh chủ quan và khách quan của đất nƣớc trong giai đoạn chiến tranh, đất nƣớc đang bị bao vây nhiều mặt nên các văn bản pháp lý liên quan đến việc trục xuất ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời điểm này là hết sức ít ỏi. Việc quy định cụ thể các loại chế tài, cách thức xử lý cũng không cụ thể mà còn rất chung chung. 1.2.1.2. Từ 1985 đến 1999 Trong giai đoạn này, không có một văn bản riêng biệt nào quy định cụ thể về trục xuất mà trục xuất đƣợc ghi nhận tại một số văn bản pháp lý liên quan đến việc xuất nhập cảnh… của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, tiêu biểu nhất là Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cƣ trú, đi lại của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc Hội đồng Nhà nƣớc ban hành năm 1992. Trục xuất đƣợc ghi nhận tại Chƣơng IV của Pháp lệnh, gồm 2 điều (Điều 16 và Điều 17), quy định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp trục xuất, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền áp dụng và thời gian áp dụng. Tuy nhiên, nội dung vẫn còn rất sơ sài, không thể hiện hết đƣợc nội dung là hình phạt cũng nhƣ những quy định cụ thể về cách thức xử lý đối với ngƣời bị trục xuất. Nhìn chung, các văn bản pháp luật liên quan đến trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong thời điểm trƣớc năm 1999 là khá sơ sài, chủ yếu đƣợc dụng để áp dụng trong thời kỳ chiến tranh. Sau khi đất nƣớc giải phóng, không có một văn bản nào quy định cụ thể về hình phạt trục xuất, mà chỉ đƣợc quy định rải rác trong các văn bản pháp lý liên quan đến phạt hành chính. Ngay cả khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, các nhà làm luật cũng chƣa quy định cụ thể hình phạt trục xuất trong Bộ luật.
  • 33. Điều này có thể nói là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ yếu tập trung ban hành những văn bản pháp quy quy định về những loại tội phạm,nhóm loại tội phạm cụ thể và đƣờng lối xử lý đối với các loại tội phạm nhƣ các loại tội phạm liên quan đến việc trừng trị âm mƣu, hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã và của nhân dân; các tội phạm liên quan đến đầu cơ; các tội phạm phản cách mạng; xâm phạm tài sản Nhà nƣớc và cá nhân… Thực tế đất nƣớc ta trong giai đoạn này là công cuộc cải tổ lại đất nƣớc. Sau khi giành lại độc lập, đất nƣớc ta phải đối diện với nhiều khó khăn, thù trong giặc ngoài vẫn diễn ra hết sức phức tạp, kẻ địch vẫn không ngừng tiến hành các hoạt động diễn biến hòa bình hết sức ma lanh, sự thay đổi của tình hình kinh tế - chính trị cũng dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội phát triển, việc bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ chế độ và tài sản quốc dân là việc cần thiết hơn cả. Chính sách với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu thông qua con đƣờng ngoại giao mềm dẻo, bao gồm cả việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam. Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: Đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tƣợng đƣợc hƣởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ƣu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các hiệp định quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hay công nhận hoặc theo tục lệ quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ đƣợc giải quyết bằng con đƣờng ngoại giao [42]. Khoản 2 Điều 6 Bộ luật hình sự 1985 cũng quy định: Ngƣời nƣớc ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trong những trƣờng hợp đƣợc quy định
  • 34. trong các hiệp định quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hay công nhận [42]. Qua đó, có thể thấy đƣờng lối xử lý ngƣời nƣớc ngoài của Đảng và Nhà nƣớc ta trong giai đoạn này là hết sức mềm dẻo, chủ yếu áp dụng các hiệp định, hiệp ƣớc quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc công nhận. 1.2.2. Hình phạt trục xuất từ năm 1999 đến nay Do yêu cầu của việc từng bƣớc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của nƣớc ta, đồng thời đáp ứng tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, nên có nhiều tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài vào Việt Nam làm ăn kinh doanh hoặc du lịch. Sự ra đời của hình phạt trục xuất trong thời điểm khi tình trạng ngƣời nƣớc ngoài vào lãnh thổ Việt Nam ngày càng nhiều, với đa dạng nhiều loại hình, nhƣ buôn bán, du lịch, quan hệ ngoại giao, học tập… kéo theo nhiều mặt tiêu cực, trong đó tình trạng vi phạm pháp luật Việt Nam gia tăng một cách nhanh chóng, việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài vi phạm trở nên khó khăn. Chỉ bằng việc xử lý họ theo các quy định theo thủ tục hành chính là không đủ nghiêm khắc và mức độ răn đe chƣa đáng kể, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn thƣờng xuyên xảy ra và ngày càng ra tăng, có nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích của Nhà nƣớc Việt Nam, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam hoặc của ngƣời nƣớc ngoài mà theo pháp luật Việt Nam họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và trong nhiều trƣờng hợp, việc cải tạo họ ở Việt Nam không đem lại hiệu quả, không đạt đƣợc mục đích của việc giáo dục, cải tạo họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội. Việc để họ tại Việt Nam còn gây ra những phức tạp không đáng có, việc trục xuất họ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ có lợi nhiều mặt. Hình phạt trục xuất là một biện pháp cƣỡng chế đáp ứng đƣợc yêu cầu này. Tuy nhiên, không phải tất cả những ngƣời nƣớc ngoài bị kết án đều áp dụng hình phạt trục xuất, mà chỉ áp dụng hình phạt này trong những trƣờng hợp cần thiết. Hình phạt trục xuất có liên quan đến chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, nên khi áp dụng hình phạt này cần phối hợp với cơ quan ngoại giao để cân nhắc tính hiệu quả của việc áp dụng hình phạt trục xuất.
  • 35. Từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt trục xuất chính thức đƣợc ghi nhận là một loại hình phạt trong Bộ luật, với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây Nhà nƣớc ta cũng đã quyết định trục xuất một số ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ nƣớc ta, những ngƣời này có thể là ngƣời đã bị kết án, nhƣng cũng có thể là ngƣời không bị kết án. Việc Nhà nƣớc ta quyết định trục xuất ngƣời nƣớc ngoài ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong những năm qua là biện pháp hành chính chứ không phải là biện pháp cƣỡng chế về hình sự với ý nghĩa là một loại hình phạt. Ngoài quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999 và Nghị định số 54/2001/NĐ-CP thì cho đến thời điểm hiện nay, chƣa có bất kỳ một văn bản nào hƣớng dẫn cụ thể các quy định về hình phạt trục xuất và các vấn đề liên quan. Luật không quy định trong trƣờng hợp nào thì áp dụng trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính, trƣờng hợp nào áp dụng trục xuất với tƣ cách hình phạt bổ sung, các điều luật tại phần riêng Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không quy định khung hình phạt liên quan đến trục xuất, mà tùy vào tình chất, mức độ nguy hiểm để cán bộ Tòa án xử lý. Thực tiễn áp dụng hình phạt trục xuất của cán bộ tƣ pháp cũng rất hạn chế, thay đổi thất thƣờng trong khi tình trạng ngƣời nƣớc ngoài vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Cho đến thời điểm hiện tại, hình phạt trục xuất vẫn chƣa phát huy hết đƣợc ý nghĩa thực tiễn của nó trong công cuộc xử lý tội phạm. 1.3. PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI BIỆN PHÁP TRỤC XUẤT TRONG LUẬT HÀNH CHÍNH; HÌNH PHẠT TIỀN; PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VỚI TƢ CÁCH HÌNH PHẠT CHÍNH VÀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG 1.3.1. Phân biệt hình phạt trục xuất với biện pháp trục xuất trong luật hành chính - Điểm giống nhau
  • 36. Về hình thức, hình phạt trục xuất trong luật hình sự và biện pháp trục xuất trong luật hành chính là giống nhau trong việc đều buộc đối tƣợng riêng biệt là ngƣời nƣớc ngoài có hành vi vi phạm pháp luật phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Theo cả pháp luật hành chính và pháp luật hình sự thì trong trƣờng hợp Điều ƣớc quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của pháp luật điều chỉnh liên quan đến vấn đề trục xuất thì áp dụng quy định của Điều ƣớc quốc tế đó. - Điểm khác nhau Thứ nhất, trục xuất hành chính là biện pháp (chế tài) áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài có các hành vi vi phạm các quy định pháp luật hành chính. Bên cạnh đó, ngƣời nƣớc ngoài phạm tội buộc phải chịu hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam chỉ khi có quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Còn trƣờng hợp ngƣời nƣớc ngoài vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, cƣ trú hoặc vi phạm một số quy định hành chính khác phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam theo quyết định của Bộ trƣởng Bộ Công an căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Thứ hai, hình phạt trục xuất theo Bộ luật hình sự đƣợc quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính đƣợc quyết định bằng văn bản của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xử phạt hành chính ban hành. Thứ ba, về đối tƣợng áp dụng, hình phạt trục xuất trong luật hình sự chỉ đƣợc áp dụng với cá nhân ngƣời phạm tội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, còn biện pháp trục xuất trong luật hành chính là hình thức xử phạt buộc ngƣời nƣớc ngoài có hành vi vi phạm pháp luật (cố ý và vô ý) phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Thứ tư, về bản chất pháp lý, hình phạt trục xuất trong luật hình sự hoàn toàn khác biệt so với biện pháp trục xuất theo quyết định của Bộ trƣởng
  • 37. Bộ Công an với tính chất là chế tài hành chính. Cụ thể, nếu hình phạt trục xuất đƣợc ghi nhận trong hệ thống hình phạt đƣợc quy định trọng Bộ luật hình sự năm 1999 là một dạng trách nhiệm hình sự dành cho cá nhân ngƣời nƣớc ngoài phạm một trong các tội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc áp dụng đối với cá nhân ngƣời phạm tội. Về nguyên tắc, ngƣời chịu hình phạt này phải mang án tích trong thời hạn nhất định. Còn trục xuất theo thủ tục hành chính thì ngƣời bị trục xuất không phải chịu án tích. 3.1.2. Phân biệt hình phạt trục xuất với hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 - Điểm giống nhau + Hình phạt trục xuất và hình phạt tiền đều là loại hình phạt lƣỡng tính, tức là vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. + Đối với cả hai loại hình phạt này, khi đã áp dụng là hình phạt chính thì không đƣợc áp dụng là hình phạt bổ sung nữa. Có nghĩa là đối với một loại tội phạm cụ thể, loại hình phạt này chỉ áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính. + Đối tƣợng bị áp dụng hai loại hình phạt này đều phải mang án tích trong một khoảng thời gian nhất định. - Điểm khác nhau + Về đối tƣợng áp dụng: nếu đối tƣợng bị áp dụng hình phạt của hình phạt trục xuất là ngƣời nƣớc ngoài thì đối tƣợng của hình phạt tiền là bất kỳ chủ thể nào phạm tội và bị kết án phạt tiền. + Phƣơng thức tác động: đối với ngƣời bị áp dụng hình phạt tiền, phƣơng thức tác động là tƣớc bỏ một phần lợi ích kinh tế của họ để sung vào công quỹ nhà nƣớc; còn đối với hình phạt trục xuất thì phƣơng thức của nó là
  • 38. buộc ngƣời nƣớc ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. + Phạm vi áp dụng: hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với bất kỳ loại tội phạm nào đƣợc quy định trong Phần riêng Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; còn hình phạt tiền đƣợc áp dụng tùy nghi trong 301 khung chế tài của 103 điều luật trên tổng số 674 khung chế tài của 261 điều luật về tội phạm. Tòa án chỉ đƣợc áp dụng là hình phạt chính đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định, và áp dụng là hình phạt bổ sung đối với ngƣời phạm các tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do Bộ luật quy định. 1.3.3. Phân biệt hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính và hình phạt trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung - Phạm vi tác động: trục xuất với tƣ cách là hình phạt chính đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị kết án là một hình phạt khác không phải là hình phạt trục xuất còn với tƣ cách hình phạt bổ sung, trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với bất kỳ ngƣời nƣớc ngoài nào phạm tội. - Căn cứ áp dụng: trục xuất với tƣ cách là hình phạt bổ sung không đƣợc tuyên độc lập mà mà chỉ đƣợc tuyên bổ sung cho hình phạt chính, nhƣng không phải tuyên với bất cứ loại hình phạt chính nào mà chỉ đối với một số loại tội phạm nhất định, căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. - Mức độ tác động của hình phạt: so với hình phạt chính, hình phạt trục xuất khi áp dụng với tƣ cách là hình phạt bổ sung có mức độ nghiêm khắc cao hơn, bởi vì nếu áp dụng hình phạt trục xuất với tƣ cách hình phạt chính, ngƣời phạm tội chỉ phải chịu hậu quả là bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, còn nếu áp dụng là hình phạt bổ sung thì ngƣời phạm tội phải chịu nhiều hậu quả pháp lý bất lợi khác nhƣ: phạt tiền, tù giam v.v…
  • 39. - Mục đích của hình phạt: đối với loại hình phạt bổ sung, hình phạt trục xuất nhằm mục đích phòng ngừa riêng nhiều hơn; còn đối với hình phạt chính, Nhà nƣớc chủ yếu hƣớng đến mục đích răn đe, trừng trị, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.
  • 40. Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1 . CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VỀ HÌNH PHẠT TRỤC XUẤT 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về hình phạt trục xuất Trục xuất là loại hình phạt mới đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (trƣớc đây nó đƣợc áp dụng nhƣ một chế tài hành chính trong pháp luật về xuất nhập cảnh). Đối tƣợng bị áp dụng là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội. Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự năm 1999 đã làm đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, là cơ sở pháp lý để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn tác dụng ngăn ngừa một cách triệt để khả năng phạm tội mới của ngƣời nƣớc ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Một nét đặc biệt của hình phạt trục xuất là nó không đƣợc ghi nhận với tƣ cách là chế tài trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể cân nhắc và áp dụng hình phạt trục xuất đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và mức độ xâm phạm đến các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ mà áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự… đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Bộ luật hình sự ra đời, hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại một số điều luật với nội dung cụ thể nhƣ sau:
  • 41. Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999: quy định về hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam hiện hành, theo đó, hệ thống hình phạt bao gồm các hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt trục xuất đƣợc quy định tại Điều 28 với tính chất vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung, cụ thể: Điều 28. Các hình phạt Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. 1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù chung thân; g) Tử hình [44]. Với tính chất là hình phạt chính, hình phạt trục xuất đƣợc tuyên một cách độc lập, với mỗi tội phạm tòa án chỉ có thể tuyên một hình phạt chính. 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; … g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Với tƣ cách là hình phạt bổ sung, hình phạt trục xuất đƣợc áp dụng kèm theo hình phạt chính (bổ sung cho hình phạt chính). Điều 32 Bộ luật hình sự năm 1999: quy định cụ thể nội dung và điều kiện áp dụng hình phạt trục xuất: "Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trục
  • 42. xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể" [44]. Theo khái niệm về hình phạt trục xuất quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự, trục xuất là buộc ngƣời nƣớc ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Việt Nam. Đối tƣợng bị áp dụng hình phạt này là ngƣời nƣớc ngoài, khái niệm ngƣời nƣớc ngoài đã đƣợc xác định trong Luật Quốc tịch Việt Nam, trong pháp luật về xuất nhập cảnh, Luật Cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam. Theo đó "ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời không có quốc tịch Việt Nam". Từ khái niệm này có thể hiểu ngƣời nƣớc ngoài là ngƣời mang quốc tịch một nƣớc khác và không mang quốc tịch của bất cứ một nƣớc nào (ngƣời không có quốc tịch). Ở đây có một biệt lệ cần lƣu ý là, trục xuất sẽ không đƣợc áp dụng đối với ngƣời không quốc tịch thƣờng trú tại Việt Nam. Với đối tƣợng này, Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện. Nhƣ vậy hình phạt trục xuất có thể đƣợc áp dụng đối với ngƣời nƣớc ngoài phạm bất kỳ tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, và tùy từng trƣờng hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc những tình tiết khác nhau, trong đó có vấn đề quốc tịch, Tòa án sẽ vận dụng quy định của điều luật này để quyết định áp dụng hình phạt trục xuất đối với ngƣời phạm tội. Đối với những quy định về việc xử lý ngƣời nƣớc ngoài phạm tội: theo quy định pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc ta, trừ ngƣời có thân phận ngoại giao đƣợc miễn trừ trách nhiệm hình sự, còn lại chính sách xử lý về cơ bản không có sự phân biệt giữa ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên, ngƣời nƣớc ngoài thực hiện hành vi vi phạm pháp luật ở Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274, Bộ luật hình sự năm 1999) và có thể bị áp dụng hình phạt đặc thù là trục xuất. Ngày 23/08/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2001/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành hình phạt trục xuất; trong đó, quy định cụ thể đối tƣợng
  • 43. bị trục xuất, quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị trục xuất, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thi hành hình phạt trục xuất, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt trục xuất… Hơn nữa, để đảm bảo quyền và trách nhiệm trong việc bảo vệ lợi ích cho công dân của quốc gia mà ngƣời phạm tội mang quốc tịch, chúng ta đã ban hành các văn bản quy định riêng, cụ thể về chế độ thông tin trong việc bắt giữ, xử lý ngƣời nƣớc ngoài phạm tội cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của quốc gia đó (chỉ thị số 21/2000/CT-TTg ngày 16/10/2000 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc thông báo và tiếp xúc lãnh sự đối với công dân nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam mang hộ chiếu nƣớc ngoài bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại Việt Nam, Thông tƣ số 01/TTLT ngày 08/09/1988 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao hƣớng dẫn điều tra, xử lý các vụ vi phạm luật lệ giao thông đƣờng bộ do ngƣời, phƣơng tiện giao thông nƣớc ngoài gây ra. "Trục xuất là buộc ngƣời nƣớc ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [44, Điều 32]. Nhƣ vậy, việc Bộ luật hình sự quy định bổ sung hình phạt trục xuất và đƣa ra khái niệm này có ý nghĩa lý luật - thực tiễn và pháp lý rất quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng nhƣ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với ngƣời phàm tội của tòa án nói chung, đặc biệt trong công tác đấu tranh phòng và chống ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trƣớc tình hình phát triển kinh tế - xã hội với xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. Trục xuất là hình phạt chỉ đƣợc áp dụng đối với chủ thể là ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và theo quyết định của Tòa án nhân dân trong một thời gian nhất định, chậm nhất là mƣời lăm ngày kể từ ngày có quyết định thi hành án, ngƣời đó bắt buộc phải rời khỏi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Các bộ ngành liên quan có trách nhiệm trong việc thi hành hình phạt trục xuất.
  • 44. + Bộ Ngoại giao có trách nhiệm giải quyết các thủ tục đối ngoại liên quan đến việc thi hành hình phạt trục xuất và trao đổi, cung cấp các thông tin liên quan cho các cơ quan có thẩm quyền nƣớc ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nƣớc ngoài tại Việt Nam. + Bộ Tài chính có trách nhiệm bảo đảm kinh phí cho việc thi hành hình phạt trục xuất theo kế hoạch đƣợc giao trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an. + Bộ Y tế có trách nhiệm chỉ đạo, hƣớng dẫn các cơ quan y tế, và bệnh viện trực thuộc tổ chức khám bệnh, giám định và cấp giấy chứng nhận tình trạng sức khỏe đối với ngƣời bị trục xuất trong diện đƣợc kéo dài thời hạn trục xuất quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 54/2001/ NĐ-CP ngày 23-8-2001 của Chính phủ. Về phía cơ quan quản lý xuất nhập cảnh với tƣ cách là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì trong việc thi hành án trục xuất có trách nhiệm: - Thông báo về thời điểm thi hành án cho ngƣời bị trục xuất chậm nhất là 24 giờ trƣớc khi thi hành; - Chuyển cho Bộ ngoại giao bản sao quyết định thi hành án của Tòa án và thông báo các thông tin, tài liệu cần thiết để phối hợp thi hành án; - Thu thập, tiếp nhận các thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tổ chức thi hành án từ Tòa án và các cơ quan khác có liên quan; lập hồ sơ và tổ chức thi hành hình phạt trục xuất. - Trƣờng hợp ngƣời bị trục xuất thuộc diện có thể đƣợc kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án để Tòa án xem xét, quyết định việc kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với ngƣời bị trục xuất. Trƣờng hợp ngƣời bị trục xuất không còn lý do để kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì cơ quan quản lý xuất nhập cảnh