SlideShare a Scribd company logo
1 of 84
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU BIÊN
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU BIÊN
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang
Hà nội - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn H÷u Biªn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
7
1.1. Những khái niệm có liên quan 7
1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam 7
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự 13
1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 15
1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai
16
1.2. Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam đối với
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
19
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985 19
1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay 21
1.3. Quy định của luật hình sự về định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
23
1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai
23
1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
35
5
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ
DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
38
2.1. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố
Hà Nội
38
2.1.1. Vài nét về địa chính trị, kinh tế thành phố Hà Nội 38
2.1.2. Một số kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
trên địa bàn thành phố Hà Nội
41
2.1.3. Những tồn tại, vướng mắc trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
trên địa bàn thành phố Hà Nội
49
2.1.4. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, vướng mắc trong
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
56
2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
60
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
60
2.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
65
2.2.3. Kiến nghị đề xuất nâng cao trình độ, năng lực của những
người tiến hành tố tụng trong định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên
địa bàn thành phố Hà Nội
67
2.2.4. Những kiến nghị, đề xuất khác 70
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê số vụ án, bị can bị khởi tố về tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai giai đoạn 2009 - 2014
41
2.2 Kết quả xét xử bị cáo vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trên địa bàn Hà Nội
44
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của của Bộ Chính
trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Hoàn
thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [11], và xác
định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm trong chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hiện nay, khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đất đai là một trong những hướng
quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư, các hoạt động liên quan đến đất đai vô
cùng sôi động, nhất là ở các thành phố lớn, khu vực ven đô… trong đó Thủ đô
Hà Nội là một trong những địa phương có hoạt động đất đai và thị trường bất
động sản sôi động nhất.
Cùng với sự phát triển của những quan hệ xã hội liên quan đến đất đai,
pháp luật về đất đai ngày càng cần phải hoàn thiện để đáp ứng với sự phát
triển chung của xã hội, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quản lý đất đai
của các cơ quan chức năng và những người có thẩm quyền và các chế tài đối
với những người có thẩm quyền vi phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai.
Bộ luật hình sự năm 1999 ngay từ khi mới ra đời đã có quy định về xử lý
hình sự đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai tại Điều 173.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự cho thấy
trong phạm vi cả nước số vụ án được xét xử đối với các tội danh này rất ít, có
nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử đối với loại tội này. Mặt
8
khác, có thể thấy rằng, định tội danh và quyết định hình phạt có vai trò quan
trọng trong hoạt động xét xử, góp phần đưa Bộ luật hình sự vào đời sống xã hội
và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, đề hoàn
thiện chính sách hình sự đối với các tội phạm về đất đai, nhằm cụ thể đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đất đai thì cần thiết
phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với các tội phạm về đất đai cũng
như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này.
Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: "Định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tội phạm xâm phạm trật tự nói chung, tội phạm vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai nói riêng luôn mang tính thời sự, cấp thiết xuất phát từ hoạt
động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, những công trình
nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm xâm phạm trật tự nhiều, có thể
ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Cụ thể, các công trình nghiên
cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa
học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý
luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình
phạt do TS. Dương Tuyết Miên chủ biên, NXB Lao động xã hội, 2009; Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự của
PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007;
"Giáo trình tội phạm học" do GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1999; Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam do TS. Lê Văn Đệ chủ biên, Nxb Công an
9
nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn
của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, 2004; Trách nhiệm hình sự và
hình phạt của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, 2004; Sách
chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự - TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb
Chính trị quốc gia, 2013; Sách chuyên khảo Chính sách hình sự trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam, do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2007
v.v... Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết trên
các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các
số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên
cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín
như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát,
Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật… Nhìn chung đây là những công trình nghiên
cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về định tội danh, quyết hình phạt đối với
tội phạm nói chung trong đó có tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai;
các bài viết đăng tải trên các website, các trang thông tin điện tử thể hiện quan
điểm đa chiều của các tác giả về thực trạng của tội phạm vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai qua các vụ án cụ thể, điển hình, gây dư luận xã hội.
Nhìn chung, có thể thấy rằng các công trình khoa học nghiên cứu về
chính sách hình sự, về tội phạm nói chung là khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu
thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai dưới
10
khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương,
từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng
cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội
dung cơ bản sau:
- Lý luận cơ bản về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
- Thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. Còn có
gì vướng mắc khi áp dụng luật trong quá trình tố tụng không?
- Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai như
thế nào?
- Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
4. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai mà trong đó
giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và
thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định
11
và nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp
luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành
tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ
thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm
tội và người phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
- Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế
định tội phạm và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh
giá tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân
dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế nhằm đưa ra những
kiến nghị, những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2009 đến 2014.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng
12
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn
dịch… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn
đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng
trong thực tiễn đời sống xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và
những kiến nghị, đề xuất.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam
Định tội danh là xác định tên của tội phạm theo quy định của pháp
luật hình sự qua việc xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm. Trong
quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án đều phải tiến hành định tội danh. Định tội danh là bước đầu xác định
trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Đây chính là nền tảng, ảnh hưởng tới
toàn bộ các hoạt động xác định trách nhiệm hình sự tiếp theo: định khung và
quyết định hình phạt. Chỉ có thể xác định khung hình phạt và hình phạt khi đã
xác định chính xác tội danh và nếu việc định tội danh sai sẽ kéo theo toàn bộ
các kết quả của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự trở thành sai lầm và
không có giá trị pháp lý. Hiện nay về định tội danh còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau và chưa có những nghiên cứu chuyên sâu đảm bảo đúng cho
việc định tội.
Các học giả nước ngoài đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau về định
tội danh, có thể chỉ ra hai học giả tiêu biểu đó là Viện sĩ Kuđriavtxev VN
(Liên Xô cũ) và Học giả Sliapôtrnhikôv A.C. Trong khi Viện sĩ Kuđriavtxev
VN cho rằng: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình
sự, sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với
các cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định. Học giả
Sliapôtrnhikôv A.C thì lại cho rằng: Định tội danh là một giai đoạn của hoạt
động bảo vệ pháp luật do các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thực hiện trên
14
cơ sở các quy phạm pháp luật hình sự và dựa vào các tình tiết thể hiện sự
nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu
thành tội phạm tương ứng với hành vi đó.
Khoa học luật hình sự Việt Nam cũng chưa có sự thống nhất chung về
khái niệm định tội danh. Điển hình là trong "Các nghiên cứu chuyên khảo về
Phần chung luật hình sự", GS.TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa có tình mô tả,
chỉ dẫn hoạt động cũng như yêu cầu và ý nghĩa của việc định tội danh như sau:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tình
logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến
hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và
các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy
định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá
thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có
căn cứ và đúng pháp luật [2].
TS. Lê Văn Đệ thông qua việc đưa ra nghiên cứu chế định nhiều tội
phạm lại đưa ra định nghĩa: "Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp luật sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ
thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật
hình sự quy định" [14]. Ngoài ra, trong các tài liệu tham khảo và sách báo
pháp lý khác, chúng ta còn gặp một số định khác về định tội danh có nội dung
tương tự. Các học giả, nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu định tội danh ở góc
độ áp dụng pháp luật, xác định sự phù hợp giữa hành vi xảy ra trên thực tế và
các quy định của Bộ luật hình sự.
15
Tuy nhiên dù khác nhau về các tiếp cận, phương pháp diễn đạt cũng
như mục đích mà tác giả hướng tới song ở các định nghĩa về định tội danh
đều thống nhất ở điểm: định tội danh là hoạt động đối chiếu, so sánh về mặt
pháp luật nhằm xác định một tội phạm xảy ra trên thực tế có tên gọi là gì theo
quy định của pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất để xác định
một hành vi là tội phạm cũng như các loại tội phạm theo ý chí của Nhà nước.
Bộ luật hình sự được kết cấu thành hai phần, trong đó Phần các tội phạm cụ
thể được phân chia thành các chương có nhiệm vụ bảo vệ các khách thể thuộc
cùng một nhóm. Mỗi chương có các điều luật cụ thể với tên gọi riêng, được
ghi nhận ngay liền sau số thứ tự. Và đó chính là tội danh của tội phạm thỏa
mãn cấu thành mà điều luật mô tả. Luật hình sự Việt Nam đặt tên cho các tội
phạm thường dựa vào các đặc trưng, những điểm khác biệt của tội phạm đó so
với các tội phạm khác thuộc cùng nhóm khách thể. Ví dụ:
- Dựa vào đặc điểm của hành vi, tội danh là tên của hành vi khách quan:
Tội gián điệp (Điều 80), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội bức tử (Điều 100), Tội
vu khống (Điều 122); Tội nhận hối lộ (Điều 203);
- Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan và đối tượng tác động, tội
danh là tên hành vi và đối tượng bị xâm hại: Tội giết người (Điều 93); Tội
giết con mới đẻ (Điều 94); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)...
- Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan, ý thức chủ quan và đối
tượng tác động, tội danh là tên của loại lỗi, hành vi và đối tượng tác động: Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Điều 104);
Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118); Tội vô ý làm chết người
(Điều 98); Tội quảng cáo gian dối (Điều 168)....
- Dựa vào loại lỗi, đối tượng tác động và hậu quả, tội danh là tên của
loại lỗi và tính chất của thiệt hại: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản (Điều 145); Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165)...
16
Mỗi tội danh, mỗi loại tội phạm đều có giới hạn hình phạt xác định
tương đối (mức thấp nhất và cao nhất) để áp dụng cho các chủ thể đã thực
hiện và chỉ những chủ thể đã thực hiện tội danh này mới có thể bị áp dụng các
chế tài đã được quy định trong điều luật. Hệ thống các quy định của pháp luật
hình sự có các nguyên tắc đảm bảo mỗi tội phạm cụ thể có một và chỉ một tội
danh; không thể có một hành vi nguy hiểm cấu thành đồng thời cả hai chế tài
áp dụng với chúng. Không có áp dụng tương tự trong luật hình sự, do đó việc
định tội phải tuân thủ tuyết đối các quy định về nội dung của Bộ luật hình sự
và chỉ Bộ luật hình sự mới là căn cứ pháp lý cho định tội danh. Tuy nhiên với
tư cách là vấn đề cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động định tội
danh còn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền...
Xét ở góc độ chung nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức
phức tạp. Bộ luật hình sự Việt Nam phân chia tội phạm nói chung thành các
tội riêng lẻ với những đặc trưng nhất định và có tên gọi khác nhau. Tương
ứng với mỗi tội phạm đều có một điều luật riêng để điều chỉnh về loại tội
phạm đó, tên của điều luật này chính là tội danh. Tại các điều luật đều thường
có phần mô tả các hành động hoặc không hành động của chủ thể, các thiệt hại,
đối tượng bị tác động, lỗi của người phạm tội. Đây chính là các yếu tố của cấu
thành tội phạm, cho phép xác định những hành vi thỏa mãn các dấu hiệu này
và một số các dấu hiệu được ghi nhận trong các điều luật thuộc Phần chung
của Bộ luật hình sự (về năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi, lỗi, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự...) là tội phạm với tội danh là tên của điều luật.
Hoạt động định tội danh phải nhận thức về tội phạm cụ thể và pháp
luật hình sự để có kết luận về loại tội phạm thông qua việc xác định điều luật
thuộc Phần các tội phạm cụ thể trực tiếp điều chỉnh tội phạm nên định tội
danh là một quá trình nhận thức trải qua các giai đoạn khác nhau như xác định
17
một hành vi là tội phạm: căn cứ vào định nghĩa về tội phạm tại Điều 8 của Bộ
luật hình sự, từ việc xem xét khái quát các sự kiện xảy ra để khẳng định hành
vi có nguy hiểm cho xã hội là tội phạm theo định nghĩa này; xác định nhóm
các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh tội phạm, tức là xác định tội phạm
được quy định tại chương nào của Bộ luật hình sự thông qua việc xác định
nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại. Xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh
tội phạm: mỗi tội phạm bao giờ cũng có những đặc trưng nhất định và được
luật hình sự ghi nhận là dấu hiệu bắt buộc, sự tổng hợp của các dấu hiệu này
trong khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm (cơ bản). Để khẳng định
một hành vi phạm tội người định tội danh phải chứng minh được hành vi thực
tế đã có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và sự thể hiện này
phải là sát hợp nhất, trừ một số trường hợp đặc biệt: chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt, đồng phạm.
Việc phân chia các giai đoạn trong định tội danh chỉ có tính ước lệ,
bởi thực tế các hoạt động này có diễn ra đồng thời, đan xen, bổ trợ cho nhau
khó có thể phân tách chính xác. Người tiến hành định tội danh luôn phải nhận
thức các tình tiết của vụ việc trong sự đối chiếu, so sánh với tất cả các quy
định của pháp luật hình sự có liên quan đến tội phạm đó: quy định về thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự,
hành vi, hậu quả, lỗi... Toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm
cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tạo thành hệ quy chiếu,
khuôn mẫu, làm căn cứ xem xét hành vi thực tế có là tội phạm hay không phải
được người tiến hành định tội danh nắm rõ.
Định tội danh là sự nhận thức về một vụ việc trong hệ quy chiếu là
pháp luật hình sự. Bất kỳ ai cũng có thể tiến hành định tội danh, gọi tên của
hành vi theo tên Bộ luật hình sự đã quy định. Việc định tội danh này không có
ý nghĩa pháp lý đe dọa gây ra những hậu quả bất lợi cho chủ thể đã thực hiện
18
tội phạm, nó còn được gọi là định tội danh không chính thức. Bộ luật hình sự
là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội danh.
Trong giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của chủ thể trước Nhà
nước, định tội danh là hoạt động bắt buộc của tất cả các cơ quan tiến hành tố
tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án qua các giai đoạn: Khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Để có thể khởi tố bị can, áp dụng bất
kỳ hậu quả bất lợi nào do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với
chủ thể, các cơ quan có thẩm quyền phải nêu được tội danh mà kẻ phạm tội đã
phạm phải, tức là chứng minh được rằng chủ thể đã thực hiện một tội phạm cụ
thể mà Bộ luật hình sự quy định. Các cơ quan tiến hành tố tụng, trực tiếp giải
quyết vụ án hình sự đều tiến hành định tội danh và thể hiện rõ trong: Quyết
định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án...kết quả định tội này
đều có ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của người thực hiện tội phạm, có
thể dẫn đến việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, định chỉ vụ án... Tội danh có thể được xác định
thống nhất trong suốt quá trình giải quyết vụ án song cũng có thể thay đổi qua
các giai đoạn. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền định tội danh pháp lý
khẳng định trách nhiệm hình sự, thể hiện chính thức quan điểm của Nhà nước
về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Nội dung
này được quy định rõ trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự: "Không ai
có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án".
Định tội danh là xác định tên gọi cho tội phạm, về nội dung chỉ căn cứ
vào tình tiết vụ án và quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi định tội
danh chính thức, việc định tội danh phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền:
thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ, về thủ tục đặc biệt trong một số trường
hợp theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, việc khởi tố vụ án (thủ
tục bắt buộc trước khi định tội danh) chỉ được đặt ra khi có yêu cầu của người
19
bị hại, trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toàn thì vụ án
được đình chỉ...
Định tội danh được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng và các cơ
quan tiến hành tố tụng. Tội danh là sự thể hiện có tình nền tảng và quan trong
về trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm. Trên cơ sở tội danh đã
xác định, các cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành định khung và quyết định
hình phạt. Tội danh được xác định đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt ở các bước tiếp theo (định khung hình
phạt và quyết định hình phạt), nhờ đó vụ án được giải quyết chính xác, công
bằng cũng như đạt được mục đích của hình phạt.
Như vậy, có thể hiểu, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật,
trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật
hình sự, các yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng
hình sự mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của
tội phạm, đặt nền tảng cho quá trình giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự
Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự của Tòa án [20, tr. 59]. Ở nước ta hiện nay, chưa có văn bản
pháp lý hình sự nào xác định khái niệm về quyết định hình phạt. Khi nghiên
cứu khoa học luật hình sự có thể nhận ra hai quan điểm khác nhau về khái
niệm quyết định hình phạt, đa số các tác giả, khi nghiên cứu khoa học luật
hình sự đều cho rằng: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức
độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên,
cũng có những tác giả cho rằng cần hiểu quyết định hình phạt theo nghĩa rộng
20
hơn, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm các hoạt động: xác định người
phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không,
xác định khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm
vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó [44, tr. 201-202].
Khi tìm hiểu, tham khảo các tài liệu nước ngoài cũng có thể thấy
những quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, có thể lấy ví
dụ cụ thể như trong cuốn "Justice, crime and ethics" xuất bản năm 1991, tác
giả đã nhận định: Quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với
người bị coi là tội phạm. Thông thường, hình phạt sẽ được áp dụng cho người
phạm tội. Còn trong cuốn "Princippled Sentencing" xuất bản năm 2000, tác
giả của cuốn sách lại chỉ rõ: Quyết định hình phạt là việc xác định chế tài đối
với người phạm tội về tội phạm họ đã gây ra bao hàm cả việc tước tụ do của
họ. Khi các dấu hiệu của tội phạm được xác định thì thông thường, việc quyết
định hình phạt sẽ được thực hiện.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có văn bản pháp
lý nào xác định cụ thể khái niệm quyết định hình phạt, bản thân tác giả của
luận văn đồng ý với quan điểm mà TS. Dương Tuyết Miên đưa ra:
Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội
đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để
định ra biện pháp xử lý tương xứng với tình chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt
động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự hoặc
có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động quyết định
hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng
hình phạt thì hoạt động quyết định hình phát là việc xác định hình
phạt cụ thể trong phạm vi luật định đối với bị cáo [20, tr. 63].
Vì những lý do sau:
21
- Khái niệm quyết định hình phạt trên được hiểu theo nghĩa bao hàm
nhất, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm cả hoạt động xác định người
phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không, xác
định khung hình phạt và xác định hình phạt cụ thể.
- Khái niệm trên thể hiện rõ các đặc trưng cơ bản của hoạt động quyết
định hình phạt đó là: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án
mà cụ thể là Hội đồng xét xử được thực hiện sau khi đã xác định xong tội
danh (nghĩa là sau khi đã định tội danh); Quyết định hình phạt do Tòa án thực
hiện trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự. Nội dung của quyết định hình
phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc là việc Tòa án
lựa chọn hình phạt cụ thể; Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân
người có hành vi phạm tội.
Như vậy, quyết định hình phạt là việc Tòa án, căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội về tội danh của người phạm tội được
đưa ra xét xử; căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để đưa ra loại và mức
hình phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, hiện tượng này
mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tính lịch sử - xã hội. Tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược
lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền và các
lợi ích hợp pháp khác của con người... Khái niệm tội phạm được định nghĩa
rất rõ ràng tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
22
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [28].
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định tại Điều 173
Bộ luật hình sự 1999, với nội dung:
Người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử
dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng
đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt [28].
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai quy định tại Điều 173 Bộ
luật hình sự 1999 được xây dựng và kế thừa trên cơ sở Điều 180 của Bộ luật
hình sự 1985. Từ khái niệm tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì khái niệm "Tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai" có thể được hiểu là: hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện việc lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất,
sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc
đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Theo tác giả của luận văn, định tội danh đối với tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai là quá trình mà các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
23
quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án) thông qua các giai đoạn tiến hành tố
tụng, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế
của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được luật hình sự quy định nhằm
đạt được sự thật khách quan và đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt
pháp lý hình sự rằng "hành vi đó có phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai" hay không.
Như vậy, quá trình định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về
sử dụng đất đai theo tác giả của luận văn cần thỏa mãn được những vấn đề sau:
- Việc định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất
đai có chủ thể định tội danh là các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong đó, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền
định tội danh pháp lý khẳng định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và thể hiện chính thức quan
điểm của Nhà nước về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
- Định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
phải dựa trên những quy định của Bộ luật hình sự về tội danh này, đây là căn cứ
duy nhất để so sánh đối chiếu nhằm xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có
phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không?
- Việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phạm tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không? Ngoài việc dựa trên các
quy định của Bộ luật hình sự đối với tội này, còn phải căn cứ vào tình tiết, hồ
sơ, chứng cứ của vụ án để xác định.
Theo tác giả luận văn, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét
24
xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh cụ thể là tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai đối với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Căn cứ
vào các quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai, tình tiết cụ thể của vụ án và nhân thân của bị cáo mà Tòa án quyết
định hình phạt cụ thể theo luật định đối với bị cáo.
Như vậy, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai đã thỏa mãn:
- Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai cũng là hoạt động thực tiễn của Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử
được thực hiện sau khi đã xác định xong tội danh là tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai.
- Quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của Bộ
luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và tình tiết cụ thể
của vụ án, nhân thân người phạm tội mà Tòa án quyết định hình phạt cụ thể
của bị cáo đối với hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
mà bị cáo đã thực hiện.
- Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân người có hành vi
phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Như vậy, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở
phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật hình sự, các
yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự mà
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của tội phạm,
căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để Tòa án đưa ra loại và mức hình
phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
25
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985
Nhận thức được tầm quan trọng của đất đai ở nước ta, ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh, đạo
luật để quản lý đất đai, hạn chế sự bóc lột của thực dân, đế quốc đối với nhân
dân. Để thực hiện tốt chính sách đất đai, bên cạnh chính sách khuyến khích lợi
ích kinh tế và các biện pháp tuyên truyền giáo dục pháp luật, các chế tài để xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật đất đai cũng được Nhà nước sử dụng, góp phần
làm cho mọi người nghiêm chình chấp hành các quy định của pháp luật, tiêu
biểu là Sắc lệnh số 149SL ngày 12/4/1953 quy định đất đai và rừng núi hoang
của tư nhân, đoàn thể, tôn giáo chưa khai khẩn, ruộng đất trồng trọt nếu bỏ
hoang không có lý do chính đáng qua 2 năm sẽ sung vào quốc gia công thổ; Sắc
lệnh số 97SL ngày 19/12/1953 quy định trưng thu ruộng đất không phải của
địa chủ bỏ hoang bất kỳ lý do gì, trưng thu ruộng đất không phải của địa chủ
mà bỏ hoang quá 2 năm không có lý do chính đáng. Chỉ thị số 231TTg ngày
24/9/1974 quy định đối với ruộng đất đã giao cho đơn vị quản lý sử dụng còn
bỏ hoang hóa phải có kế hoạch, biện pháp đưa hết vào sản xuất. Thông tư liên
bộ số 01/TTLB ngày 28/01/1975 của Bộ Nông nghiệp và Xây dựng, thẩm
quyền xử lý các vi phạm của các cơ quan, xí nghiệp, xã viên, cán bộ, tư nhân,
nông trường, trạm trại sử dụng đất đai đã được hướng dẫn rất cụ thể.
Đến ngày 01/7/1980, Quyết định số 201/CP do Hội đồng Chính phủ
ban hành về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý
ruộng đất trong cả nước, tại mục VIII có quy định: Các tổ chức và cá nhân có
thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ đất, bồi bổ chất đất, mở rộng diện tích
đất nông nghiệp (tăng vụ, khai hoang, phục hóa) hoặc sử dụng đất có hiệu quả
cao thì được khen thưởng theo chế độ Nhà nước). Người sử dụng ruộng đất vi
phạm, tùy theo mức độ vi phạm, bị xử phạt như sau: Cảnh cáo hoặc phạt tiền
26
từ 10 đồng đến 200 đồng. Ủy ban nhân dân huyện có quyền cảnh cáo và xử
phạt từ 10 đồng đến 50 đồng, Ủy ban nhân dân tỉnh có quyền cảnh cáo và xử
phạt từ 50 đồng đến 200 đồng; buộc phải sửa chữa những hậu quả và bồi
thường những thiệt hại do việc vi phạm gây ra. Cơ quan quyết định xử phạt có
quyền quyết định việc này; bị thu hồi ruộng đất. Thẩm quyền thu hồi ruộng
đất thuộc các cơ quan có thẩm quyền nói tại điểm 3 phần V của Quyết định
này. Nếu người sử dụng đất là cơ quan, tổ chức, thì ngoài việc cơ quan, tổ
chức bị xử phạt, người chịu trách nhiệm chủ yếu trước cơ quan, tổ chức về
những vi phạm đó có thể bị thi hành kỷ luật về hành chính hoặc có thể phải
chịu một phần số tiền mà cơ quan, tổ chức phải chịu phạt. Thủ tướng và cán
bộ, nhân viên các cơ quan có trách nhiệm quản lý ruộng đất nếu vi phạm các
nguyên tắc, chế độ đã quy định về việc giao đất, thu hồi đất, trưng dụng đất
thì tùy theo mức độ vi phạm và tác hại gây ra có thể bị thi hành kỷ luật từ
khiển trách, cảnh cáo đến hạ tầng công tác, cách chức hoặc buộc thôi việc.
Người nào lấn chiếm ruộng đất của người khác đã bị xử phạt hành chính mà
cố tình tái phạm hoặc người nào cố ý phá hoại các công trình bảo vệ, cải tạo
đất, gây tổn hại nghiêm trọng đến đất đai, lợi dụng chức vụ để giao đất trái
phép, nhằm mưu lợi ích riêng, cố ý ngăn cản việc thanh tra, điều tra để xử lý
các vụ vi phạm hoặc cố ý bao che người vi phạm, thì bị truy tố trước Tòa án
và bị xử phạt theo luật hình sự hiện hành.
Có thể nhận thấy rằng, tại quyết định này đã quy định các chế tài đối
với các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến đất đai như: phạt cảnh cáo,
phạt tiền tùy mức độ vi phạm, đồng thời buộc phải sửa chữa những hậu quả
và bồi thường thiệt hại do vi phạm gây ra và có thể thu hồi ruộng đất. Quyết
định cũng phân định thẩm quyền sử phạt của Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài
ra, pháp luật còn quy định việc truy tố trước Tòa án nếu người nào lấn chiếm
đất của người khác đã bị xử phạt hành chính mà cố tình tái phạm hoặc cố ý
phá hoại các công trình bảo vệ, cải tạo đất gây tổn hại nghiêm trọng đến đất
27
đai lợi dụng chức vụ để giao đất trái phép, nhằm mưu lợi ích riêng, cố ý ngăn
cản việc thanh tra, điều tra để xử lý các vụ vi phạm.
Như vậy, trong giai đoạn này, ở nước ta những quan hệ pháp luật hình
sự - hành chính còn chưa có nhiều sự tách biệt, các quy phạm pháp luật đất
đai trong giai đoạn này chủ yếu nhằm đưa ra các chính sách để quản lý đất
đai, khuyến khích sản xuất trong nhân dân. Các quy phạm pháp luật về hình
sự để cụ thể hóa hành vi phạm tội nhằm định tội danh, xác định tên gọi của
hành vi phạm tội liên quan đến đất đai nói chung và tội phạm liên quan đến sử
dụng đất đai nói riêng vẫn chưa hình thành một cách cụ thể, rõ nét.
1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay
Trong giai đoạn này, dựa trên những cơ sở lý luận, thực tiễn nhất định,
Nhà nước ta từ chỗ cho phép tồn tại ba hình thức sở hữu như tại Điều 11 Hiến
pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1980, tại Điều 19 Nhà nước đã xác lập chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Điều 17 Hiến
pháp 1992 khẳng định lại quan điểm này của Hiến pháp 1980. Điều 1 Luật đất
đai 1993 thể chế hóa các tư tưởng trên của Hiến pháp, đồng thời tổ chức thực
hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai cho phù hợp với sự vận động và
phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong suốt quá trình thực hiện, Luật đất
đai đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới,
nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên vô giá này.
Vấn đề xử lý vi phạm pháp luật cũng đã được đặt ra tại Điều 85, Điều 86,
Điều 87 Luật đất đai. Để cụ thể hóa việc xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ
ngày 10/01/1997 đã ban hành Nghị định số 04/CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất. Tiếp theo đó, ngày 07/3/1997 Tổng
cục Địa chính ban hành Thông tư số 278 nhằm hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 04/CP năm 1997.
Cùng với sự thay đổi các quy định của Hiến pháp và pháp luật đất đai
nói chung, quy định của Bộ luật hình sự đối với tội phạm liên quan đến đất
28
đai nói chung và tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nói cũng có
những chuyển biến tích cực. Tại Bộ luật hình sự 1985, chỉ có một điều luật
(Điều 180) quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai:
Người nào mua bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi
phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ đất đai gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ
ba tháng đến ba năm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [26].
Trong quy định nói trên tại Bộ luật hình sự 1985, mới chỉ dừng lại ở
việc cụ thể hóa hành vi phạm tội liên quan đến đất đai đối với hành vi mua
bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi phạm các quy của Nhà nước về
quản lý và bảo vệ đất đai, chưa cụ thể hóa hành vi vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai, do vậy có thể nói rằng: trong Bộ luật hình sự 1985 chưa cụ thể
hóa về định tội danh (gọi tên tội) và quyết định hình phạt đối với hành vi vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai, mới chỉ dừng lại ở việc định tội danh
và quyết định hình phạt đối với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý
và bảo vệ đất đai. Chỉ có một hành vi cụ thể được nhắc đến với vai trò là hành
vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai đó là hành vi lấn chiếm đất.
Khắc phục những khiếm khuyết của Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật
hình sự năm 1999 có hai điều luật riêng (Điều 173, 174) quy định về tội phạm
trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất. Hai điều luật trên đã quy định cụ thể, tách
biệt rõ ràng hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174) và
hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173). Với việc tách
biệt hành vi phạm tội tại Điều 173, Bộ luật hình sự 1999 đã định tội danh cụ
thể cho những hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, đồng thời
đưa ra được hình phạt cụ thể đối với loại tội này. Có thể nói rằng, Bộ luật
hình sự 1999 chính là lần đầu tiên việc định tội danh và quyết định hình phạt
29
đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được đặt ra. Ở trong điều
luật này, nhà làm luật đã cụ thể hóa các hành vi vi phạm liên quan đến các
quy định về sử dụng đất đai bao gồm các hành vi: "lấn chiếm đất hoặc chuyển
quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý
và sử dụng đất đai", đồng thời đưa ra khung hình phạt đối với loại tội này, từ
đó làm cơ sở cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai.
1.3. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai
Định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng
như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các
chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để
xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật
hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và
phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật. Vì thế các quy định của Bộ luật hình sự về định tội danh đối tội phạm cụ
thể được thể hiện qua cấu thành tội phạm của tội phạm đó.
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng giống như các tội
phạm khác đều có 4 yếu tố cấu thành tội phạm, tìm hiểu và phân tích các dấu
hiệu pháp lý hình sự của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai qua bốn
yếu tố của cấu thành tội phạm là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm sẽ giúp chúng ta
thấy rõ quy định của Bộ luật hình sự về định tội danh đối với tội phạm này.
Cụ thể như sau:
30
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định:
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch
và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà
nước giao đất cho các tổ chức và các nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Tổ chức và các nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp
lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà
nước giao theo quy định của pháp luật [27, Điều 18].
Như vậy khách thể của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
bao gồm các quan hệ xã hội về trật tự quản lý nhà nước về đất đai, hay nói
cách khác, đó là quyền quản lý thống nhất đất đai của Nhà nước. Tội phạm
xâm hại đến các quan hệ này thông qua việc vi phạm các quy định của Nhà
nước về sử dụng đất đai, qua đó gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, cũng như xâm hại chính sách quản
lý đất đai của Nhà nước đã được Hiến định.
So với tội phạm được quy định tại Điều 180 Bộ luật hình sự 1985, với
việc tách ra thành hai tội độc lập và được điều chỉnh tại hai Điều (Điều 173,
Điều 174) trong Bộ luật hình sự 1999, khách thể của tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai đã được xác định một cách rõ ràng, cụ thể. Việc tách tội
như thế góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Về đối tượng tác động của tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng chính là đất đai.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
theo Điều 173 Bộ luật hình sự được thể hiện thông qua 3 dạng hành vi sau:
- Hành vi lấn chiếm đất. Hành vi lấn chiếm là hành vi của người sử
dụng mọi thủ đoạn lấn chiếm đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước nhằm
31
xác lập bất hợp pháp quyền sử dụng đất hoặc sử dụng trái phép đất đai như:
tự ý chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thứ đất để mở rộng diện tích đất;
sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc
chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước
tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không
trả lại đất…
- Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của nhà
nước về quản lý và sử dụng đất đai. Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái
với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai bao gồm các
hành vi: Chuyền đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho
quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về
đất đai; tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê ại, thừa
kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ
điều kiện, với các thủ đoạn như: chuyển quyền sử dụng đất cho người khác
kho mình không có quyền đó, chuyển quyền sử dụng đất nằm trong quy
hoạch hoặc đã có sự đền bù của Nhà nước…
- Hành vi sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý
và sử dụng đất đai. Hành vi sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về
quản lý và sử dụng đất đai là các hành vi như: sử dụng đất không đúng mục
đích, hủy hoại đất, không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký
biến động quyền sử dụng đất, không trả lại đất đúng thời hạn theo quy định
thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm đưa đất vào sử dụng
theo quy định của pháp luật về đất đai…biểu hiện dưới các dạng hành vi cụ
thể như: xây dựng nhà, công trình trên đất canh tác hoặc đất chuyên dùng khi
chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; đưa các chất độc hại
vào đất làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm đất làm mất hoặc giảm khả
năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định…
32
Nếu người nào thực hiện một trong những hành vi: lấn chiếm đất hoặc
chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về
quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị sử phạt hành
chính về hành vi này hoặc bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về mặt khách quan, không phải
một người cứ có một trong những hành vi nêu trên đều bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, mà bên cạnh việc thực hiện hành vi phải kèm theo điều kiện
cần và đủ mới có thể bị coi là người phạm tội. Dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm chính là dấu hiệu đặc trưng và bắt
buộc của cấu thành tội phạm cơ bản của tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai.
Hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
là loại tội phạm vừa có thể được thực hiện bằng hành động, vừa có thể được
thực hiện bằng không hành động, nhưng hành động là chủ yếu.
Ở dạng hành động phạm tội thể hiện ở việc, người phạm tội thực hiện
không đúng hoặc vi phạm những điều cấm của Nhà nước quy định về sử dụng
đất đai, bao gồm các hành vi: sử dụng đất không đúng mục đích; lấn, chiếm
đất; hủy hoại đất; gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác; chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng
đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực
hiện đúng tủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; tự ý
chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuế, cho thuê lại, thừa kế, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều
kiện; tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoặc sử dụng
đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính,
làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
33
Ở dạng không hành động phạm tội thể hiện ở việc người phạm tội
không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình mặc dù có đủ điều kiện và theo
quy định thì phải thực hiện. Các hành vi đó biểu hiện dưới dạng như: không
đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng
đất, không đăng ký khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất, không trả lại
đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai,
chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc
thanh tra, kiểm tra.
Về mặt lý luận, các hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm trong các
trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm. Trong đó, "gây hậu quả nghiêm trọng" được xác định là dấu
hiệu về hậu quả của tội phạm, còn "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm" và "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm" thì được xem là dấu hiệu thuộc về đặc điểm nhân thân xấu của người
phạm tội.
Hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, được
hiểu là những thiệt hại về lợi ích kinh tế của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân, xâm hại đến việc thực hiện đường lối, chính sách
của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai và những thiệt hại nghiêm trọng
khác cho xã hội. Nói cách khác, hậu quả này bao gồm cả những thiệt hại
mang tính vật chất và phi vật chất như: phá vỡ quy hoạch sử dụng đất đai của
Nhà nước, làm xói mòn hoặc làm nghèo đất canh tác, gây thất thu các khoản
thu từ phí và lệ phí đối với đất đai…Tùy từng trường hợp cụ thể mà đánh giá
mức độ hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng hay chưa.
Tính chất và mức độ hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai được xác định bởi tính chất của các hành vi và mức độ thiệt hại
34
về kinh tế, cũng như sự biến đổi về giá trị, chất lượng của đất. Vì vậy, cấu
thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành
vật chất; hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được phản ánh một cách trực
tiếp mà phản ánh thông qua đối tượng tác động là đất đai. Trong thực tiễn áp
dụng, việc xác định, đánh giá hậu quả của tội phạm được thực hiện thông qua
việc đánh giá đặc điểm, tính chất của đất, giá trị quyền sử dụng đất hoặc sự
biến đổi tình trạng ban đầu của đất. Đây là một trong những dấu hiệu bắt buộc
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về dấu hiệu
này trong tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Song, chúng ta cũng
có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 20/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BTP để đánh giá hậu quả của tội phạm này. Điều này ảnh hưởng rất lớn
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và định tội danh với người phạm tội,
do đó cần thiết sớm có hướng dẫn về dấu hiệu này để giúp cho các cơ quan tố
tụng hình sự nói chung, Tòa án nói riêng đưa ra được đường lối xử lý đúng
người, đúng tội, đảm bảo công bằng, dân chủ, tránh làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm, tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi cán bộ tiến hành
tố tụng có cách hiểu, vận dụng quy định pháp luật khác nhau theo ý thức chủ
quan của cá nhân mình. Đây là điều kiện thuận lợi để một bộ phận cán bộ,
người có chức vụ, quyền hạn thoái hóa, biến chất về đạo đức nghề nghiệp
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ hội lợi dụng, làm trái để trục lợi, xử
lý oan, sai người vô tội hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng loại
hình phạt, mức hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ
hành vi vi phạm của người phạm tội. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm về sử dụng đất đai cho thấy, rất khó khăn để truy cứu trách
nhiệm hình sự một người nếu căn cứ vào dấu hiệu định tội nói trên. Nhiều vụ
án, Tòa án phải thỉnh thị, xin ý kiến về đường lối xét xứ của Tòa án cấp trên,
35
hoặc nếu không thì vụ án có thể bị trả hồ sơ để điều tra, xét xử lại nhiều lần,
dẫn đế thời gian giải quyết án kéo dài, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của
Nhà nước, thậm chí oan, sai trong tố tụng hình sự.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai gây hậu quả
chưa nghiêm trọng thì không bị coi là tội phạm, trừ trường hợp người thực
hiện hành vi "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" hoặc
"đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì mới phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Giống như dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng", "đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm" cũng được xem là dấu hiệu định tội
của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Nghĩa là, người thực hiện
một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, nếu
không thuộc trường hợp "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" nhưng thuộc trường hợp "đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm", thì hành vi đó được coi
là tội phạm và người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
"Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" là trước đó một
người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong
tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt
kê trong tội đó. Nghĩa là, nếu một người trước đó đã bị xử phạt hành chính về
một trong những hành vi: lấn, chiếm hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng
đất trái với qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, bằng hình
thức xử phạt hành chính mà lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại
khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, thì người đó phải truy cứu trách nhiệm
36
hình sự đối với hành vi vi phạm lần sau. Trong trường hợp này, cấu thành tội
phạm của tội vi phạm các suy định về sử dụng đất đai là cấu thành hình thức.
Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai nêu trên được quy
định cụ thể tại Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, bao gồm: Sử dụng
đất không đúng mục đích (Điều 8); Lấn, chiếm đất (Điều 9); Hủy hoại đất
(Điều 10); Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (Điều 11);
Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền
sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà
không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất
đai (Điều 12); Tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất
không đủ điều kiện (Điều 13); Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không
đủ điều kiện nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai (Điều 14); Không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký
biến động quyền sử dụng đất, đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký
khi chuyển mục đích sử dụng đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết
hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất (Điều 15); Gây cản trở trong việc Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng
(Điều 16); Không trả lại đất đúng thời hạn theo quy định thu hồi đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 17); Tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư
hỏng mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của
công trình, mốc địa giới hành chính (Điều 18) Làm sai lệch các giấy tờ, chứng
từ trong việc sử dụng đất (Điều 19); Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định
của pháp luật về đất đai (Điều 20); Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy
tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra,
kiểm tra về đất đai (Điều 21).
37
Về thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính: Theo
quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, thời hạn đó được xác định là:
"trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp xong quyết định xử phạt cảnh cáo
hoặc 1 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác
hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà
không tái phạm" [34, Khoản 1 Điều 7]
Việc chấp hành quyết định xử phạt hành chính được coi là "xong",
được tính kể từ thời điểm chấp hành xong toàn bộ nghĩa vụ, yêu cầu ghi trong
quyết định, hoặc từ ngày quyết định được cưỡng chế thi hành. Về thời hiệu
thu hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đó là "một năm, kể từ ngày
ra quyết định…Trong trường hợp cá nhân bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì
hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn
tránh, trì hoãn" [34, Điều 74].
Từ những quy định trên, dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm" được hiểu là: một người bị xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai về một trong các hành vi quy định từ
Điều 8 đến Điều 21 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, nếu từ ngày quyết
định xử phạt được ban hành cho đến hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấp
hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm kể từ ngày chấp hành
xong quyết định xử phạt hành chính khác, ngày quyết định xử phạt được
cưỡng chế thi hành hoặc ngày hết hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, mà tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm trên thì được
coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm". Hành vi đó
bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Về dấu hiệu "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm: Án tích được hiểu là tình trạng pháp lý của người đã bị kết án và áp
dụng hình phạt về tội phạm nhất định. Nói cách khác, khi người phạm tội đã
38
bị Tòa án tuyên phạt thì hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu không chỉ là
việc phải chấp hành hình phạt đó mà còn bị coi là có án tích - đặc điểm xấu về
nhân thân, bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời
sống xã hội (được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong thời hạn nhất định)
cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc phạm tội mới. Án tích không
phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn. Sau một thời gian và kèm
theo điều kiện cụ thể quy định trong luật, án tích sẽ được xóa. Với việc được
xóa án tích, người đã bị kết án được coi như chưa phạm tội và như vậy, sẽ
không còn cơ sở để xác định tái phạm nguy hiểu nếu họ phạm tội mới.
Như vậy, bên cạnh các tình tiết xấu về nhân thân như: đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này
mà còn vi phạm, thì tình tiết có án tích (đã bị kết án về tội này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm) cũng được các nhà lập pháp hình sự nước ta quy định
là tình tiết định tội độc lập hoặc là tình tiết định tội thay thế cho tình tiết "hậu
quả nguy hiểm cho xã hội" ở nhiều tội danh. Tội Vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai là một trong nhiều tội danh có đặc điểm như thế.
Cùng với hai dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng" và "đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm", "đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm" cũng được xác định là tình tiết (dấu hiệu)
định tội của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Nghĩa là, người thực
hiện các hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu không thuộc
trường hợp "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm" mà thuộc trường hợp "đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm", thì hành vi đó được xác định là tội
phạm và người đã thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đã
bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" được hiểu là
39
"trước đó một người đã bị kết án về một tội, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó. Đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu một người trước đó đã bị kết án
về tội này, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện một trong những
hành vi: lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các
quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, thì phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm ở lần sau. Trong trường hợp này, cấu
thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành
tội phạm hình thức.
Tuy nhiên, nếu hành vi của người vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm do đã "gây hậu quả nghiêm trọng"
hoặc "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" thì tiền án
của người đó không được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm "đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" mà phải tính để xác
định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "tái phạm, tái phạm nguy
hiểm" theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Nếu người thực hiện hành vi tuy có vi phạm nhưng tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội không đáng kế, không gây hậu quả nghiêm trọng, chưa
bị xử phạt hành chính (hoặc đã từng bị xử phạt, nhưng đã qua thời hạn để
được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) về hành vi này, cũng như
chưa bị kết án (hoặc đã từng bị kết án, nhưng được xóa án tích) về tội này, thì
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi đó không phải là tội phạm.
Vấn đề thời điểm hoàn thành tội phạm. Đối với tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai, thời điểm hoàn thành của tội phạm được xác định là
khi "hậu quả nghiêm trọng" đã xảy ra hoặc ngay sau khi hành vi vi phạm
được thực hiện nếu người thực hiện hành vi đó thuộc trường hợp "đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" hoặc "đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm".
40
Thứ ba, về chủ thể tội phạm.
Chủ thể của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là chủ
thể thường, tức là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, vì các trường hợp vi
phạm trong tội này là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1) và tội phạm nghiêm
trọng (khoản 2). Do vậy, chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm
Ở tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, tội phạm chỉ được thực
hiện bởi lỗi cố ý (với hai hình thức lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp). Với
hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật
cấm, thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn cố tình thực hiện. Còn trong
hình thức lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội cũng nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy
ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Bản thân người phạm tội, ngay từ khi nảy sinh ý định phạm tội, đã nhận
thức được những thiệt hại về kinh tế của Nhà nước, tổ chức và công dân có
thể hoặc tất yếu sẽ xảy ra. Họ cũng nhận thức được hành vi của mình là đang
trực tiếp xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước trong
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn cố tình
thực hiện hành vi vi phạm vì động cơ và nhằm đạt được mục đích của mình.
Như vậy, tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai vừa có
cấu thành hình thức, vừa có cấu thành vật chất. Tùy thuộc vào thời điểm thực
hiện hành vi khách quan, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra và đặc điểm
nhân thân xấu của người phạm tội mà xác định thời điểm hoàn thành của tội
41
phạm khác nhau; làm cơ sở để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm và lượng hình khi kết án người phạm tội.
1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Quy định của Luật hình sự về quyết định hình phạt được thể hiện qua
các khung hình phạt áp dụng đối với tội đó. Căn cứ vào tính chất, mức độ, cấu
thành tội phạm, ở Điều 173 Bộ luật hình sự thành ba khoản, trong đó hai
khoản tương ứng với 2 khung hình phạt và một khoản quy định việc áp dụng
hình phạt bổ sung.
Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là
cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Người
phạm tội nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Hình phạt quy định và áp dụng
đối với người phạm tội gồm ba loại: phạt tiền từ năm triệu đồng đồng đến
năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến ba năm. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, người có hành vi
phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đủ 16 tuổi trở lên.
Về hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự: Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mươi triệu đồng
đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Thứ nhất, về tình tiết phạm tội "có tổ chức". Đây là trường hợp có
nhiều người cùng tham gia phạm tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất
đai. Có sự bàn bạc, tính toán, vạch ra kế hoạch, phân công vai trò, nhiệm vụ
chi tiết, cụ thể cho từng thành viên để thực hiện tội phạm, đặt dưới sự điều
khiển thống nhất của người cầm đầu.
Thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong
những năm gần đầy diễn ra với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt,
42
thậm chí có sự cấu kết, móc nối với những người có địa vị, chức vụ, quyền
hạn trong các cơ quan nhà nước. Kèm theo hành vi vi phạm của người sử
dụng đất là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế,
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ của người có thẩm quyền hoặc hành vi đưa và
nhận hối lộ của các bên.
Thứ hai, về tình tiết "phạm tội nhiều lần". Hiện nay, chưa có hướng dẫn
cụ thể về tình tiết "phạm tội nhiều lần" trong tội phạm quy định tại Điều 173
Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng hướng dẫn tại Thông
tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ
(nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự
sửa đổi ngày 10/05/1997. Theo đó, có thể hiểu bị coi là phạm tội nhiều lần
trong tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu có từ hai lần vi phạm
trở lên và mỗi lần vi phạm đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản,
không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước tới lần
phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ bị coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần
phạm tội đó vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội
chưa bị xét xử lần nào và phải bị đưa ra xét xử trong cùng một lần. Nếu trong
các lần phạm tội đó đã có lần bị đưa ra xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần
theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Thứ ba, về tình tiết phạm tội "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng". Cũng giống như tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" quy
định tại khoản 1 Điều luật này, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể
người phạm tội gây thiệt hại với tính chất, mức độ như thế nào thì được coi là
gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (?) (Mặc dù chúng ta
có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
43
BCA-BTP để đánh giá các tình tiết về hậu quả của tội phạm giống như tội
phạm quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự. Song, như vậy sẽ không chính
xác, dễ dẫn đến sự tùy tiện mang tính chủ quan trong đánh giá tính chất, mức
độ của tội phạm của Tòa án khi xét xử). Làm rõ vấn đề này đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc giải quyết các vụ án vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai, góp phần đảm bảo việc xử lý tội phạm được kịp thời, chính xác,
khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 173
Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị "phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến
một trăm triệu đồng hoặc phạt tù hai năm đến bảy năm". Điều này khẳng
định, các tội phạm nói ở đây là tội phạm nghiêm trọng. Do đó, chỉ người nào
từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định ngoài hình phạt chính, người phạm
tội còn có thể "bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng". Đây là
quy phạm tùy nghi, không phải là quy phạm bắt buộc. Nghĩa là, khi xét xử, Tòa
án căn cứ vào tính chất, mức độ của tội phạm và nhân thân của người phạm tội
để quyết định xem có cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ hay không.
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt NamLuận văn: Đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh PhúcLuận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAYLuận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh PhúcLuận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đLuận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOTLuan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
 
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sựĐề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
Đề tài: Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự
 

Similar to Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT

Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...hieu anh
 

Similar to Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT (20)

Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCMLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sựLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, 9đ
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, 9đThi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, 9đ
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, 9đ
 
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đÁp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
 
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đLuận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Đặc xá, đại xá theo pháp luật Việt Nam tỉnh Đồng Nai, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAYLuận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU BIÊN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU BIÊN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang Hà nội - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn H÷u Biªn
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 7 1.1. Những khái niệm có liên quan 7 1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam 7 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự 13 1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 15 1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 16 1.2. Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 19 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985 19 1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay 21 1.3. Quy định của luật hình sự về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 23 1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 23 1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 35
  • 5. 5 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 38 2.1. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 38 2.1.1. Vài nét về địa chính trị, kinh tế thành phố Hà Nội 38 2.1.2. Một số kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 41 2.1.3. Những tồn tại, vướng mắc trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 49 2.1.4. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, vướng mắc trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 56 2.2. Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 60 2.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 60 2.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 65 2.2.3. Kiến nghị đề xuất nâng cao trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội 67 2.2.4. Những kiến nghị, đề xuất khác 70 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Thống kê số vụ án, bị can bị khởi tố về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai giai đoạn 2009 - 2014 41 2.2 Kết quả xét xử bị cáo vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn Hà Nội 44
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [11], và xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hiện nay, khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đất đai là một trong những hướng quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư, các hoạt động liên quan đến đất đai vô cùng sôi động, nhất là ở các thành phố lớn, khu vực ven đô… trong đó Thủ đô Hà Nội là một trong những địa phương có hoạt động đất đai và thị trường bất động sản sôi động nhất. Cùng với sự phát triển của những quan hệ xã hội liên quan đến đất đai, pháp luật về đất đai ngày càng cần phải hoàn thiện để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quản lý đất đai của các cơ quan chức năng và những người có thẩm quyền và các chế tài đối với những người có thẩm quyền vi phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Bộ luật hình sự năm 1999 ngay từ khi mới ra đời đã có quy định về xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai tại Điều 173. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự cho thấy trong phạm vi cả nước số vụ án được xét xử đối với các tội danh này rất ít, có nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử đối với loại tội này. Mặt
  • 8. 8 khác, có thể thấy rằng, định tội danh và quyết định hình phạt có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử, góp phần đưa Bộ luật hình sự vào đời sống xã hội và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, đề hoàn thiện chính sách hình sự đối với các tội phạm về đất đai, nhằm cụ thể đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đất đai thì cần thiết phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với các tội phạm về đất đai cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này. Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: "Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tội phạm xâm phạm trật tự nói chung, tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nói riêng luôn mang tính thời sự, cấp thiết xuất phát từ hoạt động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, những công trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm xâm phạm trật tự nhiều, có thể ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Cụ thể, các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt do TS. Dương Tuyết Miên chủ biên, NXB Lao động xã hội, 2009; Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự của PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007; "Giáo trình tội phạm học" do GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam do TS. Lê Văn Đệ chủ biên, Nxb Công an
  • 9. 9 nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, 2004; Trách nhiệm hình sự và hình phạt của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự - TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia, 2013; Sách chuyên khảo Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2007 v.v... Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật… Nhìn chung đây là những công trình nghiên cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về định tội danh, quyết hình phạt đối với tội phạm nói chung trong đó có tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai; các bài viết đăng tải trên các website, các trang thông tin điện tử thể hiện quan điểm đa chiều của các tác giả về thực trạng của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai qua các vụ án cụ thể, điển hình, gây dư luận xã hội. Nhìn chung, có thể thấy rằng các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm nói chung là khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong Bộ luật hình sự Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai dưới
  • 10. 10 khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản sau: - Lý luận cơ bản về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. - Thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. Còn có gì vướng mắc khi áp dụng luật trong quá trình tố tụng không? - Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai như thế nào? - Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. 4. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định
  • 11. 11 và nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm tội và người phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. - Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế nhằm đưa ra những kiến nghị, những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2009 đến 2014. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng
  • 12. 12 Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn đời sống xã hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và những kiến nghị, đề xuất.
  • 13. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN 1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam Định tội danh là xác định tên của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự qua việc xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm. Trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều phải tiến hành định tội danh. Định tội danh là bước đầu xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Đây chính là nền tảng, ảnh hưởng tới toàn bộ các hoạt động xác định trách nhiệm hình sự tiếp theo: định khung và quyết định hình phạt. Chỉ có thể xác định khung hình phạt và hình phạt khi đã xác định chính xác tội danh và nếu việc định tội danh sai sẽ kéo theo toàn bộ các kết quả của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự trở thành sai lầm và không có giá trị pháp lý. Hiện nay về định tội danh còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và chưa có những nghiên cứu chuyên sâu đảm bảo đúng cho việc định tội. Các học giả nước ngoài đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau về định tội danh, có thể chỉ ra hai học giả tiêu biểu đó là Viện sĩ Kuđriavtxev VN (Liên Xô cũ) và Học giả Sliapôtrnhikôv A.C. Trong khi Viện sĩ Kuđriavtxev VN cho rằng: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự, sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định. Học giả Sliapôtrnhikôv A.C thì lại cho rằng: Định tội danh là một giai đoạn của hoạt động bảo vệ pháp luật do các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thực hiện trên
  • 14. 14 cơ sở các quy phạm pháp luật hình sự và dựa vào các tình tiết thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi đó. Khoa học luật hình sự Việt Nam cũng chưa có sự thống nhất chung về khái niệm định tội danh. Điển hình là trong "Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự", GS.TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa có tình mô tả, chỉ dẫn hoạt động cũng như yêu cầu và ý nghĩa của việc định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tình logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [2]. TS. Lê Văn Đệ thông qua việc đưa ra nghiên cứu chế định nhiều tội phạm lại đưa ra định nghĩa: "Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp luật sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định" [14]. Ngoài ra, trong các tài liệu tham khảo và sách báo pháp lý khác, chúng ta còn gặp một số định khác về định tội danh có nội dung tương tự. Các học giả, nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu định tội danh ở góc độ áp dụng pháp luật, xác định sự phù hợp giữa hành vi xảy ra trên thực tế và các quy định của Bộ luật hình sự.
  • 15. 15 Tuy nhiên dù khác nhau về các tiếp cận, phương pháp diễn đạt cũng như mục đích mà tác giả hướng tới song ở các định nghĩa về định tội danh đều thống nhất ở điểm: định tội danh là hoạt động đối chiếu, so sánh về mặt pháp luật nhằm xác định một tội phạm xảy ra trên thực tế có tên gọi là gì theo quy định của pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất để xác định một hành vi là tội phạm cũng như các loại tội phạm theo ý chí của Nhà nước. Bộ luật hình sự được kết cấu thành hai phần, trong đó Phần các tội phạm cụ thể được phân chia thành các chương có nhiệm vụ bảo vệ các khách thể thuộc cùng một nhóm. Mỗi chương có các điều luật cụ thể với tên gọi riêng, được ghi nhận ngay liền sau số thứ tự. Và đó chính là tội danh của tội phạm thỏa mãn cấu thành mà điều luật mô tả. Luật hình sự Việt Nam đặt tên cho các tội phạm thường dựa vào các đặc trưng, những điểm khác biệt của tội phạm đó so với các tội phạm khác thuộc cùng nhóm khách thể. Ví dụ: - Dựa vào đặc điểm của hành vi, tội danh là tên của hành vi khách quan: Tội gián điệp (Điều 80), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội bức tử (Điều 100), Tội vu khống (Điều 122); Tội nhận hối lộ (Điều 203); - Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan và đối tượng tác động, tội danh là tên hành vi và đối tượng bị xâm hại: Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)... - Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan, ý thức chủ quan và đối tượng tác động, tội danh là tên của loại lỗi, hành vi và đối tượng tác động: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội quảng cáo gian dối (Điều 168).... - Dựa vào loại lỗi, đối tượng tác động và hậu quả, tội danh là tên của loại lỗi và tính chất của thiệt hại: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145); Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165)...
  • 16. 16 Mỗi tội danh, mỗi loại tội phạm đều có giới hạn hình phạt xác định tương đối (mức thấp nhất và cao nhất) để áp dụng cho các chủ thể đã thực hiện và chỉ những chủ thể đã thực hiện tội danh này mới có thể bị áp dụng các chế tài đã được quy định trong điều luật. Hệ thống các quy định của pháp luật hình sự có các nguyên tắc đảm bảo mỗi tội phạm cụ thể có một và chỉ một tội danh; không thể có một hành vi nguy hiểm cấu thành đồng thời cả hai chế tài áp dụng với chúng. Không có áp dụng tương tự trong luật hình sự, do đó việc định tội phải tuân thủ tuyết đối các quy định về nội dung của Bộ luật hình sự và chỉ Bộ luật hình sự mới là căn cứ pháp lý cho định tội danh. Tuy nhiên với tư cách là vấn đề cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động định tội danh còn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục, thẩm quyền... Xét ở góc độ chung nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức phức tạp. Bộ luật hình sự Việt Nam phân chia tội phạm nói chung thành các tội riêng lẻ với những đặc trưng nhất định và có tên gọi khác nhau. Tương ứng với mỗi tội phạm đều có một điều luật riêng để điều chỉnh về loại tội phạm đó, tên của điều luật này chính là tội danh. Tại các điều luật đều thường có phần mô tả các hành động hoặc không hành động của chủ thể, các thiệt hại, đối tượng bị tác động, lỗi của người phạm tội. Đây chính là các yếu tố của cấu thành tội phạm, cho phép xác định những hành vi thỏa mãn các dấu hiệu này và một số các dấu hiệu được ghi nhận trong các điều luật thuộc Phần chung của Bộ luật hình sự (về năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi, lỗi, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự...) là tội phạm với tội danh là tên của điều luật. Hoạt động định tội danh phải nhận thức về tội phạm cụ thể và pháp luật hình sự để có kết luận về loại tội phạm thông qua việc xác định điều luật thuộc Phần các tội phạm cụ thể trực tiếp điều chỉnh tội phạm nên định tội danh là một quá trình nhận thức trải qua các giai đoạn khác nhau như xác định
  • 17. 17 một hành vi là tội phạm: căn cứ vào định nghĩa về tội phạm tại Điều 8 của Bộ luật hình sự, từ việc xem xét khái quát các sự kiện xảy ra để khẳng định hành vi có nguy hiểm cho xã hội là tội phạm theo định nghĩa này; xác định nhóm các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh tội phạm, tức là xác định tội phạm được quy định tại chương nào của Bộ luật hình sự thông qua việc xác định nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại. Xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm: mỗi tội phạm bao giờ cũng có những đặc trưng nhất định và được luật hình sự ghi nhận là dấu hiệu bắt buộc, sự tổng hợp của các dấu hiệu này trong khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm (cơ bản). Để khẳng định một hành vi phạm tội người định tội danh phải chứng minh được hành vi thực tế đã có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và sự thể hiện này phải là sát hợp nhất, trừ một số trường hợp đặc biệt: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm. Việc phân chia các giai đoạn trong định tội danh chỉ có tính ước lệ, bởi thực tế các hoạt động này có diễn ra đồng thời, đan xen, bổ trợ cho nhau khó có thể phân tách chính xác. Người tiến hành định tội danh luôn phải nhận thức các tình tiết của vụ việc trong sự đối chiếu, so sánh với tất cả các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến tội phạm đó: quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi, hậu quả, lỗi... Toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tạo thành hệ quy chiếu, khuôn mẫu, làm căn cứ xem xét hành vi thực tế có là tội phạm hay không phải được người tiến hành định tội danh nắm rõ. Định tội danh là sự nhận thức về một vụ việc trong hệ quy chiếu là pháp luật hình sự. Bất kỳ ai cũng có thể tiến hành định tội danh, gọi tên của hành vi theo tên Bộ luật hình sự đã quy định. Việc định tội danh này không có ý nghĩa pháp lý đe dọa gây ra những hậu quả bất lợi cho chủ thể đã thực hiện
  • 18. 18 tội phạm, nó còn được gọi là định tội danh không chính thức. Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội danh. Trong giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của chủ thể trước Nhà nước, định tội danh là hoạt động bắt buộc của tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án qua các giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Để có thể khởi tố bị can, áp dụng bất kỳ hậu quả bất lợi nào do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với chủ thể, các cơ quan có thẩm quyền phải nêu được tội danh mà kẻ phạm tội đã phạm phải, tức là chứng minh được rằng chủ thể đã thực hiện một tội phạm cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định. Các cơ quan tiến hành tố tụng, trực tiếp giải quyết vụ án hình sự đều tiến hành định tội danh và thể hiện rõ trong: Quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án...kết quả định tội này đều có ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của người thực hiện tội phạm, có thể dẫn đến việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, định chỉ vụ án... Tội danh có thể được xác định thống nhất trong suốt quá trình giải quyết vụ án song cũng có thể thay đổi qua các giai đoạn. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền định tội danh pháp lý khẳng định trách nhiệm hình sự, thể hiện chính thức quan điểm của Nhà nước về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Nội dung này được quy định rõ trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự: "Không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án". Định tội danh là xác định tên gọi cho tội phạm, về nội dung chỉ căn cứ vào tình tiết vụ án và quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi định tội danh chính thức, việc định tội danh phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền: thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ, về thủ tục đặc biệt trong một số trường hợp theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, việc khởi tố vụ án (thủ tục bắt buộc trước khi định tội danh) chỉ được đặt ra khi có yêu cầu của người
  • 19. 19 bị hại, trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toàn thì vụ án được đình chỉ... Định tội danh được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. Tội danh là sự thể hiện có tình nền tảng và quan trong về trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm. Trên cơ sở tội danh đã xác định, các cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành định khung và quyết định hình phạt. Tội danh được xác định đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt ở các bước tiếp theo (định khung hình phạt và quyết định hình phạt), nhờ đó vụ án được giải quyết chính xác, công bằng cũng như đạt được mục đích của hình phạt. Như vậy, có thể hiểu, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật hình sự, các yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của tội phạm, đặt nền tảng cho quá trình giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án [20, tr. 59]. Ở nước ta hiện nay, chưa có văn bản pháp lý hình sự nào xác định khái niệm về quyết định hình phạt. Khi nghiên cứu khoa học luật hình sự có thể nhận ra hai quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, đa số các tác giả, khi nghiên cứu khoa học luật hình sự đều cho rằng: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên, cũng có những tác giả cho rằng cần hiểu quyết định hình phạt theo nghĩa rộng
  • 20. 20 hơn, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm các hoạt động: xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó [44, tr. 201-202]. Khi tìm hiểu, tham khảo các tài liệu nước ngoài cũng có thể thấy những quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, có thể lấy ví dụ cụ thể như trong cuốn "Justice, crime and ethics" xuất bản năm 1991, tác giả đã nhận định: Quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với người bị coi là tội phạm. Thông thường, hình phạt sẽ được áp dụng cho người phạm tội. Còn trong cuốn "Princippled Sentencing" xuất bản năm 2000, tác giả của cuốn sách lại chỉ rõ: Quyết định hình phạt là việc xác định chế tài đối với người phạm tội về tội phạm họ đã gây ra bao hàm cả việc tước tụ do của họ. Khi các dấu hiệu của tội phạm được xác định thì thông thường, việc quyết định hình phạt sẽ được thực hiện. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào xác định cụ thể khái niệm quyết định hình phạt, bản thân tác giả của luận văn đồng ý với quan điểm mà TS. Dương Tuyết Miên đưa ra: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tình chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự hoặc có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động quyết định hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phát là việc xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định đối với bị cáo [20, tr. 63]. Vì những lý do sau:
  • 21. 21 - Khái niệm quyết định hình phạt trên được hiểu theo nghĩa bao hàm nhất, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm cả hoạt động xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không, xác định khung hình phạt và xác định hình phạt cụ thể. - Khái niệm trên thể hiện rõ các đặc trưng cơ bản của hoạt động quyết định hình phạt đó là: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử được thực hiện sau khi đã xác định xong tội danh (nghĩa là sau khi đã định tội danh); Quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự. Nội dung của quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc là việc Tòa án lựa chọn hình phạt cụ thể; Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân người có hành vi phạm tội. Như vậy, quyết định hình phạt là việc Tòa án, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội về tội danh của người phạm tội được đưa ra xét xử; căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để đưa ra loại và mức hình phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự. 1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, hiện tượng này mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tính lịch sử - xã hội. Tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền và các lợi ích hợp pháp khác của con người... Khái niệm tội phạm được định nghĩa rất rõ ràng tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
  • 22. 22 thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [28]. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 1999, với nội dung: Người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt [28]. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 1999 được xây dựng và kế thừa trên cơ sở Điều 180 của Bộ luật hình sự 1985. Từ khái niệm tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì khái niệm "Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai" có thể được hiểu là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện việc lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai Theo tác giả của luận văn, định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là quá trình mà các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
  • 23. 23 quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án) thông qua các giai đoạn tiến hành tố tụng, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan và đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự rằng "hành vi đó có phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai" hay không. Như vậy, quá trình định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo tác giả của luận văn cần thỏa mãn được những vấn đề sau: - Việc định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai có chủ thể định tội danh là các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong đó, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền định tội danh pháp lý khẳng định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và thể hiện chính thức quan điểm của Nhà nước về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. - Định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai phải dựa trên những quy định của Bộ luật hình sự về tội danh này, đây là căn cứ duy nhất để so sánh đối chiếu nhằm xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không? - Việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không? Ngoài việc dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự đối với tội này, còn phải căn cứ vào tình tiết, hồ sơ, chứng cứ của vụ án để xác định. Theo tác giả luận văn, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét
  • 24. 24 xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh cụ thể là tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai đối với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, tình tiết cụ thể của vụ án và nhân thân của bị cáo mà Tòa án quyết định hình phạt cụ thể theo luật định đối với bị cáo. Như vậy, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai đã thỏa mãn: - Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng là hoạt động thực tiễn của Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử được thực hiện sau khi đã xác định xong tội danh là tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. - Quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và tình tiết cụ thể của vụ án, nhân thân người phạm tội mà Tòa án quyết định hình phạt cụ thể của bị cáo đối với hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai mà bị cáo đã thực hiện. - Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân người có hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Như vậy, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật hình sự, các yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của tội phạm, căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để Tòa án đưa ra loại và mức hình phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
  • 25. 25 1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985 Nhận thức được tầm quan trọng của đất đai ở nước ta, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh, đạo luật để quản lý đất đai, hạn chế sự bóc lột của thực dân, đế quốc đối với nhân dân. Để thực hiện tốt chính sách đất đai, bên cạnh chính sách khuyến khích lợi ích kinh tế và các biện pháp tuyên truyền giáo dục pháp luật, các chế tài để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai cũng được Nhà nước sử dụng, góp phần làm cho mọi người nghiêm chình chấp hành các quy định của pháp luật, tiêu biểu là Sắc lệnh số 149SL ngày 12/4/1953 quy định đất đai và rừng núi hoang của tư nhân, đoàn thể, tôn giáo chưa khai khẩn, ruộng đất trồng trọt nếu bỏ hoang không có lý do chính đáng qua 2 năm sẽ sung vào quốc gia công thổ; Sắc lệnh số 97SL ngày 19/12/1953 quy định trưng thu ruộng đất không phải của địa chủ bỏ hoang bất kỳ lý do gì, trưng thu ruộng đất không phải của địa chủ mà bỏ hoang quá 2 năm không có lý do chính đáng. Chỉ thị số 231TTg ngày 24/9/1974 quy định đối với ruộng đất đã giao cho đơn vị quản lý sử dụng còn bỏ hoang hóa phải có kế hoạch, biện pháp đưa hết vào sản xuất. Thông tư liên bộ số 01/TTLB ngày 28/01/1975 của Bộ Nông nghiệp và Xây dựng, thẩm quyền xử lý các vi phạm của các cơ quan, xí nghiệp, xã viên, cán bộ, tư nhân, nông trường, trạm trại sử dụng đất đai đã được hướng dẫn rất cụ thể. Đến ngày 01/7/1980, Quyết định số 201/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước, tại mục VIII có quy định: Các tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ đất, bồi bổ chất đất, mở rộng diện tích đất nông nghiệp (tăng vụ, khai hoang, phục hóa) hoặc sử dụng đất có hiệu quả cao thì được khen thưởng theo chế độ Nhà nước). Người sử dụng ruộng đất vi phạm, tùy theo mức độ vi phạm, bị xử phạt như sau: Cảnh cáo hoặc phạt tiền
  • 26. 26 từ 10 đồng đến 200 đồng. Ủy ban nhân dân huyện có quyền cảnh cáo và xử phạt từ 10 đồng đến 50 đồng, Ủy ban nhân dân tỉnh có quyền cảnh cáo và xử phạt từ 50 đồng đến 200 đồng; buộc phải sửa chữa những hậu quả và bồi thường những thiệt hại do việc vi phạm gây ra. Cơ quan quyết định xử phạt có quyền quyết định việc này; bị thu hồi ruộng đất. Thẩm quyền thu hồi ruộng đất thuộc các cơ quan có thẩm quyền nói tại điểm 3 phần V của Quyết định này. Nếu người sử dụng đất là cơ quan, tổ chức, thì ngoài việc cơ quan, tổ chức bị xử phạt, người chịu trách nhiệm chủ yếu trước cơ quan, tổ chức về những vi phạm đó có thể bị thi hành kỷ luật về hành chính hoặc có thể phải chịu một phần số tiền mà cơ quan, tổ chức phải chịu phạt. Thủ tướng và cán bộ, nhân viên các cơ quan có trách nhiệm quản lý ruộng đất nếu vi phạm các nguyên tắc, chế độ đã quy định về việc giao đất, thu hồi đất, trưng dụng đất thì tùy theo mức độ vi phạm và tác hại gây ra có thể bị thi hành kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo đến hạ tầng công tác, cách chức hoặc buộc thôi việc. Người nào lấn chiếm ruộng đất của người khác đã bị xử phạt hành chính mà cố tình tái phạm hoặc người nào cố ý phá hoại các công trình bảo vệ, cải tạo đất, gây tổn hại nghiêm trọng đến đất đai, lợi dụng chức vụ để giao đất trái phép, nhằm mưu lợi ích riêng, cố ý ngăn cản việc thanh tra, điều tra để xử lý các vụ vi phạm hoặc cố ý bao che người vi phạm, thì bị truy tố trước Tòa án và bị xử phạt theo luật hình sự hiện hành. Có thể nhận thấy rằng, tại quyết định này đã quy định các chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến đất đai như: phạt cảnh cáo, phạt tiền tùy mức độ vi phạm, đồng thời buộc phải sửa chữa những hậu quả và bồi thường thiệt hại do vi phạm gây ra và có thể thu hồi ruộng đất. Quyết định cũng phân định thẩm quyền sử phạt của Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, pháp luật còn quy định việc truy tố trước Tòa án nếu người nào lấn chiếm đất của người khác đã bị xử phạt hành chính mà cố tình tái phạm hoặc cố ý phá hoại các công trình bảo vệ, cải tạo đất gây tổn hại nghiêm trọng đến đất
  • 27. 27 đai lợi dụng chức vụ để giao đất trái phép, nhằm mưu lợi ích riêng, cố ý ngăn cản việc thanh tra, điều tra để xử lý các vụ vi phạm. Như vậy, trong giai đoạn này, ở nước ta những quan hệ pháp luật hình sự - hành chính còn chưa có nhiều sự tách biệt, các quy phạm pháp luật đất đai trong giai đoạn này chủ yếu nhằm đưa ra các chính sách để quản lý đất đai, khuyến khích sản xuất trong nhân dân. Các quy phạm pháp luật về hình sự để cụ thể hóa hành vi phạm tội nhằm định tội danh, xác định tên gọi của hành vi phạm tội liên quan đến đất đai nói chung và tội phạm liên quan đến sử dụng đất đai nói riêng vẫn chưa hình thành một cách cụ thể, rõ nét. 1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay Trong giai đoạn này, dựa trên những cơ sở lý luận, thực tiễn nhất định, Nhà nước ta từ chỗ cho phép tồn tại ba hình thức sở hữu như tại Điều 11 Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1980, tại Điều 19 Nhà nước đã xác lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Điều 17 Hiến pháp 1992 khẳng định lại quan điểm này của Hiến pháp 1980. Điều 1 Luật đất đai 1993 thể chế hóa các tư tưởng trên của Hiến pháp, đồng thời tổ chức thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai cho phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong suốt quá trình thực hiện, Luật đất đai đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới, nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên vô giá này. Vấn đề xử lý vi phạm pháp luật cũng đã được đặt ra tại Điều 85, Điều 86, Điều 87 Luật đất đai. Để cụ thể hóa việc xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ ngày 10/01/1997 đã ban hành Nghị định số 04/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất. Tiếp theo đó, ngày 07/3/1997 Tổng cục Địa chính ban hành Thông tư số 278 nhằm hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/CP năm 1997. Cùng với sự thay đổi các quy định của Hiến pháp và pháp luật đất đai nói chung, quy định của Bộ luật hình sự đối với tội phạm liên quan đến đất
  • 28. 28 đai nói chung và tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nói cũng có những chuyển biến tích cực. Tại Bộ luật hình sự 1985, chỉ có một điều luật (Điều 180) quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai: Người nào mua bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [26]. Trong quy định nói trên tại Bộ luật hình sự 1985, mới chỉ dừng lại ở việc cụ thể hóa hành vi phạm tội liên quan đến đất đai đối với hành vi mua bán, lấn chiếm đất hoặc có hành vi khác vi phạm các quy của Nhà nước về quản lý và bảo vệ đất đai, chưa cụ thể hóa hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, do vậy có thể nói rằng: trong Bộ luật hình sự 1985 chưa cụ thể hóa về định tội danh (gọi tên tội) và quyết định hình phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, mới chỉ dừng lại ở việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai. Chỉ có một hành vi cụ thể được nhắc đến với vai trò là hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai đó là hành vi lấn chiếm đất. Khắc phục những khiếm khuyết của Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có hai điều luật riêng (Điều 173, 174) quy định về tội phạm trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất. Hai điều luật trên đã quy định cụ thể, tách biệt rõ ràng hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174) và hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173). Với việc tách biệt hành vi phạm tội tại Điều 173, Bộ luật hình sự 1999 đã định tội danh cụ thể cho những hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, đồng thời đưa ra được hình phạt cụ thể đối với loại tội này. Có thể nói rằng, Bộ luật hình sự 1999 chính là lần đầu tiên việc định tội danh và quyết định hình phạt
  • 29. 29 đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được đặt ra. Ở trong điều luật này, nhà làm luật đã cụ thể hóa các hành vi vi phạm liên quan đến các quy định về sử dụng đất đai bao gồm các hành vi: "lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai", đồng thời đưa ra khung hình phạt đối với loại tội này, từ đó làm cơ sở cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. 1.3. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI 1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai Định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Vì thế các quy định của Bộ luật hình sự về định tội danh đối tội phạm cụ thể được thể hiện qua cấu thành tội phạm của tội phạm đó. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng giống như các tội phạm khác đều có 4 yếu tố cấu thành tội phạm, tìm hiểu và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai qua bốn yếu tố của cấu thành tội phạm là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm sẽ giúp chúng ta thấy rõ quy định của Bộ luật hình sự về định tội danh đối với tội phạm này. Cụ thể như sau:
  • 30. 30 Thứ nhất, về khách thể của tội phạm. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và các nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và các nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật [27, Điều 18]. Như vậy khách thể của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai bao gồm các quan hệ xã hội về trật tự quản lý nhà nước về đất đai, hay nói cách khác, đó là quyền quản lý thống nhất đất đai của Nhà nước. Tội phạm xâm hại đến các quan hệ này thông qua việc vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, qua đó gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, cũng như xâm hại chính sách quản lý đất đai của Nhà nước đã được Hiến định. So với tội phạm được quy định tại Điều 180 Bộ luật hình sự 1985, với việc tách ra thành hai tội độc lập và được điều chỉnh tại hai Điều (Điều 173, Điều 174) trong Bộ luật hình sự 1999, khách thể của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai đã được xác định một cách rõ ràng, cụ thể. Việc tách tội như thế góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Về đối tượng tác động của tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng chính là đất đai. Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Điều 173 Bộ luật hình sự được thể hiện thông qua 3 dạng hành vi sau: - Hành vi lấn chiếm đất. Hành vi lấn chiếm là hành vi của người sử dụng mọi thủ đoạn lấn chiếm đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước nhằm
  • 31. 31 xác lập bất hợp pháp quyền sử dụng đất hoặc sử dụng trái phép đất đai như: tự ý chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thứ đất để mở rộng diện tích đất; sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không trả lại đất… - Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai. Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai bao gồm các hành vi: Chuyền đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê ại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện, với các thủ đoạn như: chuyển quyền sử dụng đất cho người khác kho mình không có quyền đó, chuyển quyền sử dụng đất nằm trong quy hoạch hoặc đã có sự đền bù của Nhà nước… - Hành vi sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai. Hành vi sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai là các hành vi như: sử dụng đất không đúng mục đích, hủy hoại đất, không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, không trả lại đất đúng thời hạn theo quy định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai…biểu hiện dưới các dạng hành vi cụ thể như: xây dựng nhà, công trình trên đất canh tác hoặc đất chuyên dùng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; đưa các chất độc hại vào đất làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm đất làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định…
  • 32. 32 Nếu người nào thực hiện một trong những hành vi: lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị sử phạt hành chính về hành vi này hoặc bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về mặt khách quan, không phải một người cứ có một trong những hành vi nêu trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà bên cạnh việc thực hiện hành vi phải kèm theo điều kiện cần và đủ mới có thể bị coi là người phạm tội. Dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm chính là dấu hiệu đặc trưng và bắt buộc của cấu thành tội phạm cơ bản của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là loại tội phạm vừa có thể được thực hiện bằng hành động, vừa có thể được thực hiện bằng không hành động, nhưng hành động là chủ yếu. Ở dạng hành động phạm tội thể hiện ở việc, người phạm tội thực hiện không đúng hoặc vi phạm những điều cấm của Nhà nước quy định về sử dụng đất đai, bao gồm các hành vi: sử dụng đất không đúng mục đích; lấn, chiếm đất; hủy hoại đất; gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác; chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng tủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuế, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện; tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoặc sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính, làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
  • 33. 33 Ở dạng không hành động phạm tội thể hiện ở việc người phạm tội không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình mặc dù có đủ điều kiện và theo quy định thì phải thực hiện. Các hành vi đó biểu hiện dưới dạng như: không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, không đăng ký khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất, không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai, chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra. Về mặt lý luận, các hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong đó, "gây hậu quả nghiêm trọng" được xác định là dấu hiệu về hậu quả của tội phạm, còn "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" và "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì được xem là dấu hiệu thuộc về đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội. Hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, được hiểu là những thiệt hại về lợi ích kinh tế của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, xâm hại đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Nói cách khác, hậu quả này bao gồm cả những thiệt hại mang tính vật chất và phi vật chất như: phá vỡ quy hoạch sử dụng đất đai của Nhà nước, làm xói mòn hoặc làm nghèo đất canh tác, gây thất thu các khoản thu từ phí và lệ phí đối với đất đai…Tùy từng trường hợp cụ thể mà đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng hay chưa. Tính chất và mức độ hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được xác định bởi tính chất của các hành vi và mức độ thiệt hại
  • 34. 34 về kinh tế, cũng như sự biến đổi về giá trị, chất lượng của đất. Vì vậy, cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành vật chất; hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được phản ánh một cách trực tiếp mà phản ánh thông qua đối tượng tác động là đất đai. Trong thực tiễn áp dụng, việc xác định, đánh giá hậu quả của tội phạm được thực hiện thông qua việc đánh giá đặc điểm, tính chất của đất, giá trị quyền sử dụng đất hoặc sự biến đổi tình trạng ban đầu của đất. Đây là một trong những dấu hiệu bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về dấu hiệu này trong tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Song, chúng ta cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 20/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP để đánh giá hậu quả của tội phạm này. Điều này ảnh hưởng rất lớn trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và định tội danh với người phạm tội, do đó cần thiết sớm có hướng dẫn về dấu hiệu này để giúp cho các cơ quan tố tụng hình sự nói chung, Tòa án nói riêng đưa ra được đường lối xử lý đúng người, đúng tội, đảm bảo công bằng, dân chủ, tránh làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi cán bộ tiến hành tố tụng có cách hiểu, vận dụng quy định pháp luật khác nhau theo ý thức chủ quan của cá nhân mình. Đây là điều kiện thuận lợi để một bộ phận cán bộ, người có chức vụ, quyền hạn thoái hóa, biến chất về đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ hội lợi dụng, làm trái để trục lợi, xử lý oan, sai người vô tội hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng loại hình phạt, mức hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm của người phạm tội. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về sử dụng đất đai cho thấy, rất khó khăn để truy cứu trách nhiệm hình sự một người nếu căn cứ vào dấu hiệu định tội nói trên. Nhiều vụ án, Tòa án phải thỉnh thị, xin ý kiến về đường lối xét xứ của Tòa án cấp trên,
  • 35. 35 hoặc nếu không thì vụ án có thể bị trả hồ sơ để điều tra, xét xử lại nhiều lần, dẫn đế thời gian giải quyết án kéo dài, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của Nhà nước, thậm chí oan, sai trong tố tụng hình sự. Nếu hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai gây hậu quả chưa nghiêm trọng thì không bị coi là tội phạm, trừ trường hợp người thực hiện hành vi "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" hoặc "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Giống như dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng", "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" cũng được xem là dấu hiệu định tội của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Nghĩa là, người thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, nếu không thuộc trường hợp "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" nhưng thuộc trường hợp "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm", thì hành vi đó được coi là tội phạm và người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: "Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó. Nghĩa là, nếu một người trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi: lấn, chiếm hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, bằng hình thức xử phạt hành chính mà lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, thì người đó phải truy cứu trách nhiệm
  • 36. 36 hình sự đối với hành vi vi phạm lần sau. Trong trường hợp này, cấu thành tội phạm của tội vi phạm các suy định về sử dụng đất đai là cấu thành hình thức. Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai nêu trên được quy định cụ thể tại Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, bao gồm: Sử dụng đất không đúng mục đích (Điều 8); Lấn, chiếm đất (Điều 9); Hủy hoại đất (Điều 10); Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (Điều 11); Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 12); Tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện (Điều 13); Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 14); Không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất (Điều 15); Gây cản trở trong việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng (Điều 16); Không trả lại đất đúng thời hạn theo quy định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 17); Tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính (Điều 18) Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất (Điều 19); Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 20); Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai (Điều 21).
  • 37. 37 Về thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính: Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, thời hạn đó được xác định là: "trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 1 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm" [34, Khoản 1 Điều 7] Việc chấp hành quyết định xử phạt hành chính được coi là "xong", được tính kể từ thời điểm chấp hành xong toàn bộ nghĩa vụ, yêu cầu ghi trong quyết định, hoặc từ ngày quyết định được cưỡng chế thi hành. Về thời hiệu thu hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đó là "một năm, kể từ ngày ra quyết định…Trong trường hợp cá nhân bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn" [34, Điều 74]. Từ những quy định trên, dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" được hiểu là: một người bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng đất đai về một trong các hành vi quy định từ Điều 8 đến Điều 21 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, nếu từ ngày quyết định xử phạt được ban hành cho đến hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác, ngày quyết định xử phạt được cưỡng chế thi hành hoặc ngày hết hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, mà tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm trên thì được coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm". Hành vi đó bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Về dấu hiệu "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm: Án tích được hiểu là tình trạng pháp lý của người đã bị kết án và áp dụng hình phạt về tội phạm nhất định. Nói cách khác, khi người phạm tội đã
  • 38. 38 bị Tòa án tuyên phạt thì hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu không chỉ là việc phải chấp hành hình phạt đó mà còn bị coi là có án tích - đặc điểm xấu về nhân thân, bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội (được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong thời hạn nhất định) cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc phạm tội mới. Án tích không phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn. Sau một thời gian và kèm theo điều kiện cụ thể quy định trong luật, án tích sẽ được xóa. Với việc được xóa án tích, người đã bị kết án được coi như chưa phạm tội và như vậy, sẽ không còn cơ sở để xác định tái phạm nguy hiểu nếu họ phạm tội mới. Như vậy, bên cạnh các tình tiết xấu về nhân thân như: đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì tình tiết có án tích (đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm) cũng được các nhà lập pháp hình sự nước ta quy định là tình tiết định tội độc lập hoặc là tình tiết định tội thay thế cho tình tiết "hậu quả nguy hiểm cho xã hội" ở nhiều tội danh. Tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là một trong nhiều tội danh có đặc điểm như thế. Cùng với hai dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng" và "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm", "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" cũng được xác định là tình tiết (dấu hiệu) định tội của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Nghĩa là, người thực hiện các hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu không thuộc trường hợp "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" mà thuộc trường hợp "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm", thì hành vi đó được xác định là tội phạm và người đã thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" được hiểu là
  • 39. 39 "trước đó một người đã bị kết án về một tội, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó. Đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu một người trước đó đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện một trong những hành vi: lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm ở lần sau. Trong trường hợp này, cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành tội phạm hình thức. Tuy nhiên, nếu hành vi của người vi phạm các quy định về sử dụng đất đai đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm do đã "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" thì tiền án của người đó không được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" mà phải tính để xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "tái phạm, tái phạm nguy hiểm" theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Nếu người thực hiện hành vi tuy có vi phạm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kế, không gây hậu quả nghiêm trọng, chưa bị xử phạt hành chính (hoặc đã từng bị xử phạt, nhưng đã qua thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) về hành vi này, cũng như chưa bị kết án (hoặc đã từng bị kết án, nhưng được xóa án tích) về tội này, thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi đó không phải là tội phạm. Vấn đề thời điểm hoàn thành tội phạm. Đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, thời điểm hoàn thành của tội phạm được xác định là khi "hậu quả nghiêm trọng" đã xảy ra hoặc ngay sau khi hành vi vi phạm được thực hiện nếu người thực hiện hành vi đó thuộc trường hợp "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" hoặc "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm".
  • 40. 40 Thứ ba, về chủ thể tội phạm. Chủ thể của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là chủ thể thường, tức là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, vì các trường hợp vi phạm trong tội này là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1) và tội phạm nghiêm trọng (khoản 2). Do vậy, chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm Ở tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, tội phạm chỉ được thực hiện bởi lỗi cố ý (với hai hình thức lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp). Với hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm, thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn cố tình thực hiện. Còn trong hình thức lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội cũng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Bản thân người phạm tội, ngay từ khi nảy sinh ý định phạm tội, đã nhận thức được những thiệt hại về kinh tế của Nhà nước, tổ chức và công dân có thể hoặc tất yếu sẽ xảy ra. Họ cũng nhận thức được hành vi của mình là đang trực tiếp xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn cố tình thực hiện hành vi vi phạm vì động cơ và nhằm đạt được mục đích của mình. Như vậy, tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai vừa có cấu thành hình thức, vừa có cấu thành vật chất. Tùy thuộc vào thời điểm thực hiện hành vi khách quan, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra và đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội mà xác định thời điểm hoàn thành của tội
  • 41. 41 phạm khác nhau; làm cơ sở để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm và lượng hình khi kết án người phạm tội. 1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai Quy định của Luật hình sự về quyết định hình phạt được thể hiện qua các khung hình phạt áp dụng đối với tội đó. Căn cứ vào tính chất, mức độ, cấu thành tội phạm, ở Điều 173 Bộ luật hình sự thành ba khoản, trong đó hai khoản tương ứng với 2 khung hình phạt và một khoản quy định việc áp dụng hình phạt bổ sung. Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Người phạm tội nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Hình phạt quy định và áp dụng đối với người phạm tội gồm ba loại: phạt tiền từ năm triệu đồng đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, người có hành vi phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đủ 16 tuổi trở lên. Về hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Thứ nhất, về tình tiết phạm tội "có tổ chức". Đây là trường hợp có nhiều người cùng tham gia phạm tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Có sự bàn bạc, tính toán, vạch ra kế hoạch, phân công vai trò, nhiệm vụ chi tiết, cụ thể cho từng thành viên để thực hiện tội phạm, đặt dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong những năm gần đầy diễn ra với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt,
  • 42. 42 thậm chí có sự cấu kết, móc nối với những người có địa vị, chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước. Kèm theo hành vi vi phạm của người sử dụng đất là hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ của người có thẩm quyền hoặc hành vi đưa và nhận hối lộ của các bên. Thứ hai, về tình tiết "phạm tội nhiều lần". Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể về tình tiết "phạm tội nhiều lần" trong tội phạm quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 1999. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi ngày 10/05/1997. Theo đó, có thể hiểu bị coi là phạm tội nhiều lần trong tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, nếu có từ hai lần vi phạm trở lên và mỗi lần vi phạm đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước tới lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ bị coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội chưa bị xét xử lần nào và phải bị đưa ra xét xử trong cùng một lần. Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị đưa ra xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Thứ ba, về tình tiết phạm tội "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng". Cũng giống như tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại khoản 1 Điều luật này, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể người phạm tội gây thiệt hại với tính chất, mức độ như thế nào thì được coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (?) (Mặc dù chúng ta có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
  • 43. 43 BCA-BTP để đánh giá các tình tiết về hậu quả của tội phạm giống như tội phạm quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự. Song, như vậy sẽ không chính xác, dễ dẫn đến sự tùy tiện mang tính chủ quan trong đánh giá tính chất, mức độ của tội phạm của Tòa án khi xét xử). Làm rõ vấn đề này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vụ án vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, góp phần đảm bảo việc xử lý tội phạm được kịp thời, chính xác, khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị "phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù hai năm đến bảy năm". Điều này khẳng định, các tội phạm nói ở đây là tội phạm nghiêm trọng. Do đó, chỉ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự. Khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể "bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng". Đây là quy phạm tùy nghi, không phải là quy phạm bắt buộc. Nghĩa là, khi xét xử, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ của tội phạm và nhân thân của người phạm tội để quyết định xem có cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ hay không.