Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận án tham khảo
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH MẬN
ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS TS. Trần Văn Độ
Hà Nội, 2019
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Luận án không
trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NCS Nguyễn Thanh Mận
3. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
Chƣơng 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ .............11
1.1. Tình hình nghiên cứu.........................................................................................11
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu ......................................................................33
1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu....................................................36
Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ, XÂY
DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ.............................................................40
2.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm và vai trò của án lệ hình sự................................40
2.2. Khái niệm, đặc điểm và những nguyên tắc xây dựng án lệ hình sự...................53
2.3. Khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự..........................64
Chƣơng 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM..............................................................................................................78
3.1. Thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.....................................................78
3.2. Đánh giá thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.....................................102
Chƣơng 4. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG XÂY
DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM.................................121
4.1. Yêu cầu xây dựng, phát triển án lệ hình sự......................................................121
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng xây dựng, áp dụng án lệ hình sự...............127
KẾT LUẬN...........................................................................................................148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................152
4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ALHS Án lệ hình sự
BLHS Bộ luật hình sự
BLDS Bộ luật Dân sự
BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
5. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Án lệ chính thức đƣợc thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam là
bƣớc ngoặc lớn, đánh dấu sự đột phá trong quá trình cải cách tƣ pháp. Từ những
định hƣớng về cải cách tƣ pháp trong các Nghị quyết của Đảng, những quy định
của Hiến pháp và pháp luật, TANDTC đã và đang tích cực xây dựng các đề án,
triển khai thực hiện một cách khẩn trƣơng, quyết liệt, cho ra đời những án lệ nói
chung, án lệ hình sự nói riêng, phục vụ cải cách tƣ pháp, nhằm thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ bảo vệ công lý, hƣớng tới xây dựng Tòa án thân thiện, gần dân, là chỗ
dựa tin cậy của nhân dân và xã hội trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân là một trong những nhiệm vụ ƣu tiên hàng đầu trong nội dung cải
cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. Việc quản lý nhà nƣớc và xã hội bằng pháp
luật chỉ là một yếu tố cần nhƣng chƣa đủ của một nhà nƣớc pháp quyền. Nhà
nƣớc pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải đƣợc áp dụng một cách thống nhất. Việc
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật thể hiện ở những vụ án giống nhau thì phải
đƣợc xử nhƣ nhau. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48) nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai
trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nƣớc trong sạch, vững
mạnh, thực hiện quyền con ngƣời, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần
đƣa nƣớc ta trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020.
6. 2
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số
49), đã khẳng định: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hƣớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm và tái thẩm. Đây là một sự chuyển biến lớn về đƣờng lối. Việc thừa
nhận và áp dụng án lệ chính là phƣơng thức hiệu quả để khắc phục các khiếm
khuyết của pháp luật, đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong xét xử, tạo tính ổn
định, minh bạch và tiên liệu đƣợc trong các phán quyết của Tòa án.
Án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng từ lâu đã trở nên rất phổ biến và
vƣợt ra khỏi biên giới của truyền thống thông luật, trở thành nguồn pháp luật của
nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đó là kết quả tất yếu của quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập, hợp tác diễn ra mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, chính trị và
pháp luật của thế giới hiện đại. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, các vấn đề về quan hệ tranh chấp, phát sinh trong hoạt động kinh
tế, các loại hình tội phạm ở Việt Nam có xu hƣớng diễn biến phức tạp hơn với
nhiều hình thức tinh vi hơn. Luật thành văn đã dần bộc lộ những lỗ hổng cần
phải đƣợc bổ sung và hoàn thiện. Quán triệt sâu sắc quan điểm trong Nghị quyết
số 48 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị là một yêu cầu cấp thiết. Thừa nhận
và áp dụng án lệ là phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó,
theo quy định thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC có trách nhiệm hƣớng dẫn các
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, có thể thực hiện thông qua việc ban hành
Nghị quyết hƣớng dẫn áp dụng pháp luật và cũng có thể thông qua tuyển chọn,
công bố án lệ.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật thành văn trong xét xử các vụ án hình
sự ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nhƣng vẫn tồn tại những vƣớng mắc chƣa
đƣợc giải quyết. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới là thừa nhận án lệ,
nhằm giải quyết những vƣớng mắc trong hoạt động xét xử mà luật thành văn
chƣa rõ ràng hoặc chƣa có quy phạm điều chỉnh. Án lệ đã và đang trở nên phổ
biến, góp phần khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn. Chẳng hạn, đối với
7. 3
các nƣớc theo hệ thống pháp luật Common law (Thông luật), đại diện là Anh và
Mỹ. Án lệ ra đời từ thế kỷ thứ X, quốc gia đặt nền tảng cho sự ra đời của án lệ là
Anh quốc. Mặc dù án lệ xuất hiện sớm nhƣng hình thức án lệ của nƣớc Anh đã
thể hiện đƣợc giá trị nhất định so với các loại nguồn khác nhƣ: Án lệ mang tính
thực tiễn cao; án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng và kịp thời; án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng. Do đó,
trong hệ thống pháp luật Common law, án lệ đƣợc coi là một trong những nguồn
luật áp dụng bắt buộc. Với giá trị nêu trên, án lệ nhanh chóng đƣợc thừa nhận và
áp dụng ở các hệ thống pháp luật khác trên thế giới nhƣ: Án lệ ở hệ thống pháp
luật Cilvil law (châu Âu lục địa), án lệ ở các nƣớc Bắc Âu, án lệ ở các quốc gia
Đông Á nhƣ Nhật Bản… Riêng đối với lĩnh vực hình sự, các hệ thống pháp luật
kể trên đều thừa nhận án lệ là nguồn của luật hình sự. Án lệ hình sự góp phần bổ
sung, khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn hoặc giải quyết những vụ án
có hành vi, tình tiết chƣa thống nhất, còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, nhiều vụ
án có cùng hành vi, tình tiết tƣơng tự nhau nhƣng còn tồn tại cách hiểu khác
nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chƣa thống nhất, đƣa đến hệ quả xét xử là
khác nhau. Thực tiễn đó đặt ra nhu cầu áp dụng án lệ để giải quyết các vụ án
hình sự là một yêu cầu tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu án lệ hình sự
và hiểu thấu đáo về cách thức, quy trình xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là
một công việc cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây là lý do quan
trọng để nghiên cứu sinh nghiên cứu đề tài “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay”
nhằm tìm kiếm những giải pháp bứt phá, góp phần xây dựng và áp dụng án lệ
trong xét xử các vụ án hình sự một cách hiệu quả.
Thứ ba, hiện nay, việc lựa chọn, công bố và áp dụng theo Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP, Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. (sau đây
gọi tắt là Nghị quyết 03). Việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự cũng tuân theo
quy trình nay. Với quy trình trên, TANDTC đã ban hành đƣợc 04 án lệ hình sự
(sau đây gọi là ALHS), trong đó 01 ALHS đã có hiệu lực pháp luật, 03 ALHS sẽ
8. 4
có hiệu lực từ ngày 03/12/2018. Kết quả này đã khẳng định chủ trƣơng đúng đắn
của Đảng, Nhà nƣớc và nỗ lực, quyết tâm cao của lãnh đạo hệ thống Tòa án.
Tuy nhiên, số lƣợng án lệ hình sự hiện nay còn quá ít. Nguyên nhân chính
là do quá trình xây dựng, quy trình tuyển chọn hiện chƣa hợp lý, thiếu các tiêu
chí riêng biệt, việc áp dụng cũng chƣa quy định rõ ràng. Nhiều vấn đề, nội dung
liên quan đến án lệ hình sự chƣa đƣợc nghiên cứu, làm rõ. Chẳng hạn nhƣ chƣa
đƣa ra đƣợc khái niệm án lệ hình sự, án lệ hình sự có những đặc điểm gì? Nội
dung, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là gì? tại sao mới chỉ có 04
án lệ hình sự đƣợc tuyển chọn? Tại sao trong thực tiễn xét xử chƣa có Tòa án
nào áp dụng án lệ hình sự số 01 (ALHS số 1 đã có hiệu lực pháp luật)? làm thế
nào để xây dựng đƣợc nhiều án lệ hình sự, làm thế nào để áp dụng án lệ hình sự
có hiệu quả? Bên cạnh đó án lệ hình sự chƣa đa dạng, chƣa có tính phổ biến, xác
định phạm vi án lệ hình sự còn quá hẹp… Trả lời đƣợc tất cả những câu hỏi trên
sẽ là cơ sở để xây dựng và áp dụng án lệ hình sự một cách hiệu quả hơn.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài Án lệ hình sự ở Việt
Nam hiện nay làm luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trƣớc yêu cầu cải cách tƣ pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013, xây dựng
và áp dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng trong xét xử đang là nhiệm vụ
cấp thiết. Bởi, án lệ đƣợc kỳ vọng sẽ khắc phục những khoảng trống của luật thành
văn. Song quyết định và bản án nhƣ thế nào thì trở thành án lệ hình sự, và án lệ hình
sự thì áp dụng nó nhƣ thế nào lại là vấn đề không đơn giản.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng trên, mục đích nghiên cứu của luận án là
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khái niệm án lệ, bản chất, đặc điểm của án
lệ hình sự; lý luận về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự; thực tiễn xây dựng và
áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất yêu cầu, giải pháp
nhằm nâng cao chất lƣợng xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam trong
thời gian tới.
9. 5
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu là:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về án lệ hình sự (khái
niệm, bản chất, đặc điểm của án lệ hình sự); lý luận về xây dựng và áp dụng án
lệ hình sự.
Thứ hai, đánh giá những thành tựu và hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế trong thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất yêu cầu, giải pháp góp phần nâng cao chất lƣợng xây
dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận về án lệ hình sự; lý luận và thực tiễn xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam, giải pháp nâng cao chất lƣợng xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự trong thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Luận án nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình
sự ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian:
Luận án nghiên cứu từ 2005 đến nay (Từ Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đến nay).
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính hệ thống và đạt đƣợc mục đích nghiên cứu,
luận án có đề cập đến một số nội dung về án lệ, án lệ hình sự trƣớc và sau mốc
thời gian nói trên.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nƣớc về
nhà nƣớc, pháp luật, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về cải cách tƣ pháp, lý luận
10. 6
và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, thể
hiện trong quá trình chỉ đạo cải cách tƣ pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp
hệ thống hóa, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp logic, phƣơng pháp thống kê
hình sự, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp so sánh,
phƣơng pháp chứng minh, phƣơng pháp khảo sát thực tiễn. Ngoài ra, luận án
đƣợc nghiên cứu trên cơ sở các chuyên ngành khoa học pháp lý nhƣ: Lịch sử
pháp luật, lý luận về pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự,
xã hội học pháp luật. Qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn
thiện các quy định về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.
Phƣơng pháp hệ thống hóa đƣợc sử dụng trong chƣơng 1 để phân loại và
nghiên cứu nội dung các công trình khoa học trong và ngoài nƣớc.
Phƣơng pháp logic đƣợc sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện chƣơng
2, chƣơng 3 và chƣơng 4 của luận án. Ở chƣơng 2, nghiên cứu sinh phân tích,
xây dựng khái niệm án lệ hình sự, đặc điểm, vai trò, lý luận về xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam, kinh nghiệm xây dựng và áp dụng án lệ, án lệ
hình sự của các quốc gia trên thế giới. Chƣơng 3 phân tích thực trạng xây dựng
và áp dụng án lệ hình sự, chỉ ra những kết quả đạt đƣợc và hạn chế, nguyên nhân
của những thành tựu và hạn chế. Chƣơng 4 đề xuất những yêu cầu và giải pháp
nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng án lệ hình sự phù hợp với tình hình thực
tiễn của Việt Nam.
Phƣơng pháp phân tích chủ yếu dựa trên kết quả đã đƣợc thống kê, tổng
kết. Đây là một phƣơng pháp phổ biến trong nghiên cứu nói chung và nghiên
cứu pháp luật nói riêng, sẽ rất khó cho bất cứ nhà nghiên cứu nào khi nghiên cứu
không sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình trƣớc đó. Nghiên cứu về án
lệ hình sự là một vấn đề rộng có liên quan đến một số hệ thống pháp luật của rất
nhiều nƣớc trên thế giới. Vì vậy, sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu phân tích
11. 7
đánh giá pháp luật dựa trên những nghiên cứu có sẵn để tìm hiểu về án lệ nói
chung, án lệ hình sự nói riêng trong hệ thống pháp luật của mỗi nƣớc thuộc hệ
thống Comon law và hệ thống Civil law là cần thiết. Lý luận về án lệ nói chung,
lý luận về xây dựng án lệ hình sự, áp dụng án lệ hình sự nói riêng là một phần rất
quan trọng của Luận án. Nội dung các chƣơng thứ 2, 3 của luận án đƣợc dựa trên
cơ sở phân tích, giải thích và so sánh các học thuyết lý luận về án lệ, án lệ hình
sự, các án lệ cụ thể, các nguyên tắc áp dụng luật và các quy định pháp luật. Các
quy định pháp luật đƣợc viện dẫn trong luận án là cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng, ban hành và áp dụng án lệ trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam
hiện nay. Khi nghiên cứu, luận án còn sử dụng các án lệ cụ thể, các tình huống
pháp luật. Từ đó, đƣa ra những phân tích, đánh giá thông qua ví dụ cụ thể hƣớng
tới sự thuyết phục cao nhất đối với ngƣời đọc. Việc nghiên cứu các án lệ cụ thể,
tình huống pháp luật phải đƣợc hỗ trợ bởi việc giải thích, phân tích các nội dung
đƣa ra trong luận án theo một xu hƣớng gắn kết phù hợp với nhau.
Phƣơng pháp miêu tả đƣợc sử dụng để miêu tả sơ lƣợc về hệ thống Tòa án
Việt Nam. Trong các đề tài nghiên cứu về án lệ, phƣơng pháp miêu tả không
phải là phƣơng pháp thƣờng xuyên đƣợc sử dụng. Tuy nhiên, trong nội dung
nghiên cứu của luận án, việc sử dụng phƣơng pháp miêu tả là cần thiết nhằm giới
thiệu sơ lƣợc về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án Việt Nam. Để hiểu và
nắm rõ đƣợc những vấn đề cốt lõi cơ bản của án lệ thì phải hiểu biết về tổ chức
và hoạt động của hệ thống Tòa án một hệ thống pháp luật cụ thể, thông qua đó,
thấy rõ đƣợc lý luận và thực tiễn trong hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Ngoài
ra, phƣơng pháp miêu tả còn đƣợc sử dụng để giới thiệu về việc công bố bản án
trong hệ thống pháp luật thuộc giới hạn nghiên cứu của đề tài.
Phƣơng pháp so sánh: Thông thƣờng phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng
trong rất nhiều các nghiên cứu pháp luật. Phƣơng pháp so sánh đƣợc áp dụng khi
bàn về khía cạnh lý luận và khía cạnh thực tiễn của các học thuyết về án lệ trong
hệ thống pháp luật của các nƣớc trên thế giới. Phƣơng pháp so sánh áp dụng
trong luận án để hƣớng tới mục đích sau:
12. 8
Một là, nghiên cứu học thuyết án lệ (doctrine of precedent) trong các hệ
thống pháp luật nói trên, phƣơng pháp so sánh sẽ giúp tác giả đƣa ra những đánh
giá tốt hơn về án lệ trong từng hệ thống pháp luật cụ. Án lệ với tƣ cách là một
nguồn luật đƣợc tạo ra bởi các quyết định, bản án của các Thẩm phán. Vì vậy,
những án lệ đƣợc viện dẫn trong luận án, có nội dung không giống nhau, nhƣng
có thể vẫn đƣợc sử dụng so sánh với nhau giữa các hệ thống pháp luật với điều
kiện những án lệ đó phải thích hợp cho ví dụ về thực tiễn sử dụng án lệ của Tòa
án các nƣớc trong việc xây dựng án lệ, áp dụng án lệ hay hủy bỏ án lệ.
Hai là, việc sử dụng phƣơng pháp so sánh trong luận án hƣớng tới mục
đích quan trọng đó là nhằm tìm ra những giải pháp phát triển và sử dụng án lệ
nói chung và án lệ hình sự nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Nhiều nội dung
nghiên cứu sinh so sánh những khía cạnh về án lệ của hệ thống pháp luật này với
các hệ thống pháp luật khác. Trong chƣơng 2 của luận án, phƣơng pháp so sánh
sử dụng để so sánh lý luận về án lệ ở một số nƣớc trên thế giới. Trong phần tiếp
theo của luận án, phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để so sánh về sự khác nhau
trong thực tiễn áp dụng án lệ giữa pháp luật của các nƣớc với nhau. Từ đó, đi đến
kết luận chung về những nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ của các nƣớc.
Ba là, trên cơ sở sử dụng phƣơng pháp so sánh, luận án đƣa ra những kiến
nghị để Việt Nam tiếp nhận hợp lý về việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự
của các nƣớc trên thế giới, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả việc xây dựng và
áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn sử dụng phƣơng pháp tổng hợp, phân tích
tài liệu bản án, quyết định giám đốc thẩm của hệ thống Tòa án nhằm thu thập,
tổng hợp số liệu. Bên cạnh đó nghiên cứu sinh còn sử dụng phƣơng pháp khảo
sát, thống kê, phân tích để nghiên cứu việc triển khai, áp dụng án lệ của các tỉnh,
thành phố trong cả nƣớc để chứng minh cho các luận giải của mình.
13. 9
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, xây dựng khái niệm, phân tích nội hàm, bản chất, đặc điểm của
án lệ hình sự, từ đó đề xuất các tiêu chí để có cơ sở xây dựng ALHS cũng nhƣ đề
xuất tuyển chọn.
Thứ hai, luận án phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc nguyên
tắc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự trong hoạt động xét xử, từ đó đề xuất quy
trình tuyển chọn, tính chất bắt buộc trong áp dụng ALHS.
Thứ ba, thông qua việc phân tích thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế trong xây dựng và áp dụng án lệ hình sự, luận án làm
rõ thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam kể từ khi án lệ hình
sự đầu tiên đƣợc công bố.
Thứ tư, trên cơ sở những yêu cầu đặt ra, luận án mạnh dạn đề xuất những
giải pháp góp phần nâng cao chất lƣợng xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở
Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án khắc phục sự thiếu vắng những công trình khoa học nghiên cứu
về án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là công trình đầu tiên và duy nhất tại thời điểm hiện nay nghiên
cứu về án lệ hình sự ở Việt Nam, góp phần bổ sung lý luận về án lệ hình sự, lý
luận về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
Luận án xây dựng và làm rõ một số vấn đề lý luận về án lệ hình sự nhƣ:
Xây dựng khái niệm, phân tích nội hàm, bản chất, đặc điểm của án lệ hình sự.
Đồng thời phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc nguyên tắc xây
dựng và áp dụng án lệ hình sự trong hoạt động xét xử.
Những đóng góp trên sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận về án lệ
hình sự, xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay. Là cơ sở để các
nghiên cứu tiếp theo có thể kế thừa và phát triển lý luận về xây dựng và áp dụng
14. 10
án lệ hình sự ở Việt Nam. Mở ra hƣớng nghiên cứu về án lệ hình sự trong các
chế định cụ thể của pháp luật hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho hệ thống Tòa
án Việt Nam tiếp tục triển khai xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.
- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về luật, hành nghề
luật…Đặc biệt, các cơ sở đào tạo có thể tham khảo trong việc xây dựng chƣơng
trình, giáo trình đào tạo đại học, đào tạo Nghiệp vụ xét xử.
- Là tài liệu để các cá nhân, tổ chức quan tâm nghiên cứu, gợi mở một số
hƣớng nghiên cứu về án lệ trong các lĩnh vực khác (nghiên cứu án lệ dân sự, án
lệ hành chính…). Đặc biệt có thể mở ra hƣớng nghiên cứu chuyên sâu về án lệ
dân sự đang là yêu cầu cấp bách hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án gồm 04 chƣơng, 10 tiết.
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu về án lệ hình sự
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về án lệ hình sự, xây dựng và áp dụng án
lệ hình sự
Chƣơng 3: Thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam
Chƣơng 4: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lƣợng xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam
15. 11
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ
Việc nghiên cứu sinh thực hiện tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan
đến đề tài “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay” là một phần quan trọng trong quá
trình nghiên cứu Luận án. Mục tiêu chính là khái quát đƣợc tình hình nghiên cứu,
luận giải các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, qua đó thấy đƣợc
những nội dung mà các nhà nghiên cứu đi trƣớc đã làm rõ, chỉ ra khoảng trống
trong lĩnh vực này chƣa đƣợc nghiên cứu, cần đƣợc nghiên cứu làm rõ.
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm
của án lệ
Cuốn sách Precedent In law (Tạm dịch: Án lệ trong pháp luật), của Gernald
J.Postema [99, p.p.10 - 15] đã đề cập đến vai trò quan trọng của án lệ trong hệ
thống pháp luật. Án lệ đƣợc ví nhƣ là mạch máu của hệ thống pháp luật “life
blood of a legal system”.
Gernald J.Postema phân tích quan điểm của Thomas Hobbes (1588 -
1679) (Học giả tiêu biểu của chủ nghĩa pháp luật thực chứng ở Anh) về án lệ.
Gernald J.Postema cho rằng: Mặc dù Hobbes không trực tiếp đề cập đến khái
niệm án lệ nhƣng trong lý luận của ông đã cung cấp những cơ sở nổi bật cho chủ
nghĩa pháp luật thực chứng phân tích lý luận về án lệ. Theo đó, toàn thể pháp
luật là những mệnh lệnh, quyền ban hành pháp luật phụ thuộc vào chủ quyền tối
cao của nhà nƣớc, nhƣng quyền này có thể ủy quyền cho cơ quan xét xử nhờ đó
mà Thẩm phán có quyền ban hành pháp luật và pháp luật này có tính quyền lực.
Khi một trƣờng hợp nào đó chƣa có luật do cơ quan quyền lực ban hành theo sự
đồng thuận chung thì mỗi Thẩm phán sẽ đƣợc phép tạo ra luật trong hoạt động
xét xử những vụ việc cụ thể. Bằng cách này, chính các Thẩm phán đã bắt chƣớc
16. 12
chủ quyền nhà nƣớc. Thẩm phán sáng tạo ra những quy định pháp luật mới
thông qua những lập luận của riêng họ trong những vụ án cụ thể. Luật do Thẩm
phán tạo ra có quyền uy và mệnh lệnh tƣơng tự nhƣ những mệnh lệnh của cơ
quan lập pháp tối cao của nhà nƣớc tạo ra.
Cuốn sách Introduction, quoted by J.A.G. Pacock in The Ancient
Constitution And the Feudal Law (Tạm dịch: Giới thiệu, trích dẫn bởi J.A.G.
Pacock trong Hiến pháp cổ đại và Luật phong kiến) của Sir John Davies [112,
p.p.3-32] đã đề cập đến khái niệm “án lệ”. Án lệ bắt nguồn từ khái niệm thông
luật là gì? Thông luật của nƣớc Anh chỉ là những tập quán chung của Vƣơng
quốc Anh trong đó, luật pháp chứa đựng những qui tắc xử sự chung.
Cuốn sách Institutes, I, Sec.138. quoted by Gerald J.Postema, Some Roots Of
our Nation Of Precedent, In “Precedent In Law” (Tạm dịch: Nguồn gốc của án lệ,
trích trong “án lệ trong pháp luật” của Coke [93] đã cho rằng, không giống nhƣ luật
thành văn, thông luật ở nƣớc Anh là kết quả từ quá trình lập luận của Thẩm phán
trên cơ sở các kinh nghiệm tích lũy từ hoạt động xét xử. Coke đã nhấn mạnh sự
thông thái của các Thẩm phán và nghiên cứu sinh coi họ nhƣ những ngƣời đã xuất
sắc sáng tạo ra pháp luật trong xét xử. Công trình nhấn mạnh: “sự hợp lý là sự sống
của pháp luật” “reason is the life of the law” [93, p.19]
Cuốn sách Commentaries (13th
ed) on the Law of England (Tạm dịch:
Bình luận về pháp luật của nƣớc Anh) của Blackstone [89, p.p.88-89] đã đề cập
đến những quan điểm chủ đạo về pháp luật. Pháp luật là những nguyên tắc chung
và tập quán chung. Chính những Thẩm phán là những ngƣời có sự hiểu biết sâu
rộng để nhận ra pháp luật là gì. Sự hiểu biết sâu rộng của các Thẩm phán xuất
phát từ tính năng động sáng tạo và những kinh nghiệm xét xử và kinh nghiệm
sống của chính Thẩm phán đó. Công trình nhấn mạnh sự hiểu biết sâu rộng của
Thẩm phán, chính những Thẩm phán đó đã tạo ra pháp luật trong lịch sử của
thông luật. Theo đó, khái niệm truyền thống về án lệ đƣợc hiểu nhƣ sau:
Thứ nhất, án lệ là những quyết định đã đƣợc tuyên bởi Tòa án có thẩm
quyền. Đó chính là những quyết định của Thẩm phán.
17. 13
Thứ hai, án lệ không phải là các quy phạm pháp luật nhƣng án lệ làm sáng
tỏ những câu hỏi về pháp luật. Án lệ đóng vai trò là phƣơng tiện để Thẩm phán
giải quyết vụ việc tƣơng tự xảy ra sau. Thẩm phán có thể dựa vào các án lệ trƣớc
đây để đƣa ra lý do cho quyết định trong vụ việc hiện tại.
Nhƣ vậy, khái niệm truyền thống về án lệ đã đòi hỏi về tính uy quyền của
án lệ nhƣng không giải thích vì sao án lệ có giá trị bắt buộc đối với các vụ việc
nảy sinh sau.
Cuốn sách “Interpreting Precedents” (Tạm dịch: Giải thích các án lệ) của
hai tác giả D.Neil Mac Cormick, Robert S.Summer [94] đã nêu khái niệm án lệ
nhƣ sau: “Án lệ là các quyết định trước được sử dụng làm khuôn mẫu cho các vụ
việc tương tự về sau”. Nghiên cứu sinh cho rằng, đây là khái niệm bao trùm, khái
quát, phù hợp cả truyền thống pháp luật common law và civil law.
Cuốn sách Jurisprudence Theory and context (Tạm dịch: Lý thuyết và
thực tiễn tƣ pháp) của Brian Bix [91, p.p 57 - 60] đã phân tích quan điểm của
Jeremy Bentham (1748 - 1832). Jeremy Bentham là một trong những nhà luật
học đã có đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển của luật thành văn ở nƣớc
Anh. Tính hai mặt trong quan điểm của Bentham thể hiện: Một mặt, Bentham
đòi hỏi việc ban hành pháp luật phải đƣợc thực hiện bởi cơ quan lập pháp. Hình
thức của pháp luật phải là những văn bản quy phạm pháp luật. Bentham cho rằng
vai trò của pháp luật là tạo lập những quy tắc ứng xử sự ổn định của những
nguyên tắc đƣợc thừa nhận công khai. Mặt khác, Bentham còn bày tỏ quan điểm
rất thất vọng vì sự tản mạn thiếu tính hệ thống của thông luật vì nó đƣợc thể hiện
tản mạn thông qua hệ thống những án lệ của Tòa án.
Để làm rõ hơn những quan điểm của trƣờng phái pháp luật thực chứng,
công trình đã đề cập đến quan điểm của H.L.A.Hart (1907 - 1992), ông đƣợc
xem là một trong những đại diện của trƣờng phái pháp luật thực chứng. Hart đã
đƣa ra kết luận rằng, các Thẩm phán phải sử dụng quyền tự mình cân nhắc, để
sáng tạo ra một quy định pháp luật, là một điều không thể tránh khỏi, bởi các quy
định pháp luật thành văn còn chƣa rõ ràng và còn bỏ ngỏ những nội hàm khái
18. 14
niệm của điều luật. Hart cũng cho rằng việc tạo ra pháp luật của cơ quan tƣ pháp
trong một giới hạn vừa phải là một điều tốt, nó tạo ra tính mềm dẻo trong áp
dụng pháp luật.
Cuốn sách The Rule of Precedent (Tạm dịch: Vai trò của án lệ) của
Theodore M.Benditt [113, p.90] đã giải thích lý do tại sao các Thẩm phán lại áp
dụng án lệ trong xét xử. Nếu Thẩm phán ra các quyết định không giống với
quyết định trong án lệ của vụ án tƣơng tự đã đƣợc xét xử thì Thẩm phán đó phải
nêu đƣợc lý do quyết định của mình. Yêu cầu về tính nhất quán trong áp dụng
pháp luật với mỗi chủ thể ra các quyết định phải đƣợc bảo đảm. Tuy nhiên, trong
pháp luật, án lệ đòi hỏi tính thể chế, không chỉ đơn thuần một cá nhân Thẩm
phán. Tính nhất quán trong áp dụng án lệ đòi hỏi Thẩm phán khác phải ra các
quyết định giống nhau khi giải quyết các vụ án có tính chất tƣơng tự nhau. Để
thực hiện tốt yêu cầu trên, cần bảo đảm rất nhiều yếu tố liên quan. Đây cũng là
vấn đề mà Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn nghiên cứu và hoàn thiện.
Cuốn sách Precedent in the Federal Republic of Germany, in
“Interpreting Precedents A Comparative Study” (Tạm dịch: Án lệ của Cộng hòa
Liên bang Đức, trong “giải thích án lệ một nghiên cứu so sánh) của Alexy,
Robert and Ralf Dreier [85] đã trình bày quan điểm của Friedrich Carl von
Savigny (1779 - 1861) về các loại nguồn của pháp luật, trong đó có đề cập tới
vai trò hệ thống các quyết định, phán quyết của Tòa án đã có ảnh hƣởng tới sự
phát triển của pháp luật ở Đức và một số nƣớc Civil law khác trong thế kỷ thứ
XIX và XX. Cho đến nay, quan điểm của Savigny về vai trò của án lệ vẫn còn
những giá trị lý luận và thực tiễn trong việc giải thích về vai trò của án lệ trong
hệ thống pháp luật Đức. Trong cuốn sách nổi tiếng của Savigny “nhiệm vụ trong
thời đại của chúng ta với lập pháp và luật học”, ông đã đƣa ra một hệ thống lý
luận trong đó những vấn đề về án lệ và việc Thẩm phán sáng tạo pháp luật đã
đƣợc tranh luận trong một thời gian dài. Tâm điểm nội dung quan điểm của
Savigny về án lệ là: Thứ nhất, pháp luật có thể đƣợc hình thành bởi sự thừa nhận
chung của cả cộng đồng; Thứ hai, Savigny quan niệm rằng không chỉ có nghị
19. 15
viện (cơ quan lập pháp) mà những Thẩm phán cũng có quyền đại diện cho nhân
dân để tạo ra pháp luật. Để đơn giản hóa luật do Thẩm phán tạo ra từ các án lệ
Savigny gọi là luật thực hành, luật thực tiễn.
Savigny và các học trò của ông theo trƣờng phái lịch sử pháp luật đã
nghiên cứu những vấn đề lý luận về án lệ trong đó, ủng hộ việc Thẩm phán có
quyền sáng tạo pháp luật phù hợp với bối cảnh của Đức trong thế kỷ thứ XIX và
XX. Hệ thống những quan điểm này đã ảnh hƣởng mạnh mẽ tới khoa học Luật
học ở Đức.
Cuốn sách French Legal Method (Tạm dịch: Phƣơng pháp luật của Pháp)
của nhà luật học ngƣời Pháp, Eva Steiner [97, p.76]. Eva Steiner đã xoay quanh
sự tranh luận về việc thừa nhận án lệ ở Pháp. Eva Steiner cho rằng việc tìm hiểu
liệu rằng án lệ ở Pháp có phải là một nguồn luật hay không là một chủ đề không
thể thiếu trong các nghiên cứu luật học, nó đồng nghĩa với các vấn đề đặt ra từ
sự thừa nhận luật đƣợc hình thành trên cơ sở án lệ “case-law” ở Pháp. Thế nào là
mối quan hệ giữa luật do cơ quan lập pháp ban hành và sự sáng tạo luật bởi
Thẩm phán trong hệ thống pháp luật ở Pháp. Eva Steiner đã đặt vấn đề, liệu rằng
có giới hạn nào cho việc Thẩm phán làm luật. Lý luận của Eva Steiner về án lệ
nhấn mạnh ở một số vấn đề nhƣ; Thứ nhất, vị trí của án lệ trong hệ thống pháp
luật Pháp; Thứ hai, yếu tố tạo ra tính thuyết phục của án lệ, mối quan hệ giữa án
lệ và luật thành văn; Thứ ba, tính hợp pháp của án lệ.
Như vậy, theo học thuyết về phân chia quyền lực ở Pháp, xét về khía cạnh
vị trí của án lệ trong pháp luật Pháp, Thẩm phán không có quyền ban hành pháp
luật, nếu Thẩm phán thực hiện quyền này thì đã xâm phạm đến quyền lực của cơ
quan lập pháp.
Eva Steiner cho rằng có một số yếu tố tạo ra mức độ hiệu lực đối với án lệ
nhƣ: Tính thứ bậc của Tòa án đã tuyên bản án; sự tách khỏi hƣớng xét xử các vụ
việc trƣớc đó; sự tuyên bố của nguyên tắc chung áp dụng liên quan đến hàng loạt
các án lệ trƣớc đó đƣợc viện dẫn bởi Tòa án đã đƣa ra quyết định đƣợc coi là án
lệ. Theo Eva Steiner, quan điểm chủ đạo về mối quan hệ giữa án lệ và luật do cơ
20. 16
quan lập pháp ban hành thì luật do cơ quan lập pháp ban hành sẽ có hiệu lực cao
hơn. Tuy nhiên, chúng ta nên có cái nhìn biện chứng về mối quan hệ này. Hai
dạng nguồn luật này trong hệ thống pháp luật sẽ hỗ trợ nhau trong mỗi lĩnh vực
pháp luật [97, p.76].
Ngoài những quan điểm lý luận của Eva Steiner về án lệ, có một số công
trình ở Pháp đã phân chia án lệ thành hai loại: Án lệ là giải pháp cho một vấn đề
cụ thể và án lệ của việc giải thích pháp luật.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tiêu chí, đặc điểm, nguyên tắc xây
dựng và áp dụng án lệ
Bài viết “Chế độ liên quan đến án lệ của Hàn Quốc” của Yoonmin Rah
đƣợc trình bày tại Hội thảo về án lệ đƣợc tổ chức tại Đà Nẵng năm 2015, khẳng
định: Hàn Quốc là một quốc gia thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa. Về nguyên
tắc, luật thành văn là nguồn luật nhƣng ngoài luật thành văn, án lệ có đƣợc coi là
nguồn luật hay không. Điều này có nghĩa là vấn đề án lệ có hiệu lực pháp lý bắt
buộc đối với những vụ án tƣơng tự sau này hay không đang đƣợc bàn luận theo
hƣớng học thuật tại Hàn Quốc.
Về vấn đề án lệ có phải là nguồn luật hay không thì theo bài viết, tại Hàn
Quốc cũng có hai trƣờng phái khác nhau. Thuyết khẳng định cho rằng, án lệ
đƣợc đặt tƣơng đƣơng với thông luật nên có thể coi là nguồn luật. Nhƣng vẫn
theo Thuyết này, có ý kiến lại cho rằng, án lệ tƣơng đƣơng với nguồn luật là do
nó có chức năng hình thành nên luật, bổ sung những điểm còn thiếu sót của luật
thành văn, có ý kiến cho rằng phán quyết của Tòa án cấp dƣới trái với án lệ thì
khả năng bị hủy án sẽ rất cao do vậy án lệ có thể xem là nguồn luật vì có sức ảnh
hƣởng mạnh mẽ đến Tòa án cấp dƣới về mặt thực tế. Thuyết phủ định có quan
điểm trái ngƣợc, họ cho rằng án lệ không phải là nguồn luật là bởi vì, án lệ có
hiệu lực bắt buộc trên thực tế đối với những vụ án tƣơng tự nhƣng nó cũng chỉ là
kết quả của việc áp dụng luật đối với vụ án cụ thể và không thể coi án lệ là luật.
Điều 8 Luật tổ chức Tòa án Hàn Quốc quy định “Nhận định trong xét xử của Tòa
án cấp trên sẽ ràng buộc cấp dƣới đối với vụ án đó”. Điều này có nghĩa án lệ
21. 17
không có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các vụ án tƣơng tự và đây cũng là căn cứ
để phủ nhận tính chất nguồn luật của án lệ. Việc có công nhận tính chất nguồn luật
của án lệ hay không là một vấn đề quan trọng. Song cả hai ý kiến đều không có sự
khác biệt ở điểm cho rằng án lệ dù là hình thức nhƣ thế nào chăng nữa đều có hiệu
lực bắt buộc. Ở Hàn Quốc rất khó để coi án lệ có hiệu lực pháp lý bắt buộc nhƣ luật
thành văn. Tuy nhiên trong thực tiễn án lệ, đặc biệt là án lệ của Tòa án tối cao có
hiệu lực bắt buộc mạnh mẽ đối với Tòa án cấp dƣới. Do vậy ở Hàn Quốc, quan
điểm chung của các nhà làm luật là, khi xét xử vụ án tƣơng tự với vụ việc của án lệ,
trƣớc khi áp dụng theo kết luận của án lệ, Thẩm phán phải kiểm tra, xem xét một
cách đầy đủ xem vụ án có cùng phạm trù với vụ việc của án lệ hay không, án lệ có
phù hợp với thực trạng xã hội hiện tại hay không.
Bên cạnh đó, công trình còn nhấn mạnh: Ở Hàn Quốc, phán quyết của tất
cả các Tòa án cũng đƣợc gọi là án lệ. Bản thân phán quyết của vụ án đặc thù nào
đó cũng đƣợc gọi là án lệ, các phán quyết đƣợc tập hợp về các vụ án tƣơng tự
cũng đƣợc gọi là án lệ. Đôi khi chỉ những ý kiến, lập luận mang tính luật pháp
của Tòa án đƣợc đúc rút trong phán quyết cũng đƣợc gọi là án lệ. Thông thƣờng
ở Hàn Quốc thuật ngữ án lệ mang ý nghĩa là những phán quyết của Tòa án tối
cao (cơ quan xét xử cao nhất) của Tòa án Hàn Quốc.
Cuốn sách “Interpreting Precedents - A comparative study” (Tạm dịch
Giải thích các án lệ - nghiên cứu so sánh) của D.Neil Mac Cormick (1997) [94]
đã xây dựng khung lý thuyết cơ bản về án lệ, phân tích thực tiễn xây dựng và áp
dụng án lệ ở một số quốc gia lớn trên thế giới nhƣ: Đức, Phần Lan, Pháp, Italy,
Na Uy, Hà Lan, Tây Ban Nha…Trong đó, đã chỉ ra những tiêu chí, nguyên tắc
cơ bản xây dựng và áp dụng án lệ.
Cuốn sách “Judicial Reasoning and The doctrine of Precedent in Autralia”
(Lập luận tƣ pháp và nguyên tắc án lệ ở Úc) của tác giả Alastair MacAdam và
John Pyke (1998) [86] đã phân tích đặc điểm xây dựng và áp dụng án lệ ở các
nƣớc common law. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề nhƣ: Cách thức xác
định và phân biệt giữa phần ratio decidendi (lý do ra quyết định) và phần obiter
22. 18
dictum (lý lẽ nói thêm) trong bản án; Nguyên tắc stare decisis theo thứ bậc hệ
thống Tòa án; Các trƣờng hợp không áp dụng án lệ.
Luận án tiến sĩ Evaluation of the applicability of Common law approaches
to precedent in VietNam (Tạm dịch: Đánh giá khả năng áp dụng án lệ ở hệ thống
pháp luật Common law vào Việt Nam) của Đỗ Thị Mai Hạnh đƣợc hoàn thành
tại Đại học Wollogong Australia (2011) đã phân tích đặc điểm của án lệ ở các
nƣớc common law; Làm rõ các đặc trƣng trong hệ thống pháp luật và hệ thống
Tòa án của Việt Nam. Từ đó, đƣa ra những đánh giá về khả năng áp dụng án lệ
vào Việt Nam.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm
và lịch sử ra đời của án lệ
Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ Triển khai án lệ vào công tác xét
xử của Tòa án Việt Nam của Trƣơng Hòa Bình - Chánh án Tòa án nhân dân Tối
cao (Chủ nhiệm, 2012) đã tập trung nghiên cứu lý luận về việc xây dựng và áp
dụng án lệ, khái quát đặc điểm của án lệ. Công trình khái quát lịch sử ra đời và
áp dụng án lệ của một số nƣớc trên thế giới nhƣ Pháp, Cộng hòa liên bang Đức,
án lệ ở Úc, Anh, Nhật Bản; chỉ ra vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của
Tòa án Nhân dân và thực trạng sử dụng “án lệ” trong công tác xét xử các vụ án
dân sự và hình sự tại Tòa án Việt Nam.
Về cách thức xây dựng và công bố án lệ, công trình đã khái quát ý nghĩa
của việc xây dựng và công bố án lệ, chỉ ra thực trạng ban hành và công bố các
quyết định giám đốc thẩm của Tòa án Nhân dân Tối cao ở Việt Nam trong thời
gian qua. Theo đó, các quy định pháp luật tố tụng Việt Nam thì việc xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thƣơng mại, lao động và hành chính ở Việt
Nam đƣợc tiến hành một cách công khai trừ một số trƣờng hợp ngoại lệ nhất
định. Tuy nhiên, đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã đƣợc xét xử thì
pháp luật lại không quy định buộc phải công khai cho toàn bộ mọi ngƣời biết.
23. 19
Công trình nhấn mạnh, ở các nƣớc có nền tƣ pháp phát triển nhƣ Canada,
Pháp, Nhật Bản, Úc, Anh hay Mỹ, bản án, quyết định của Tòa án dù ở cấp xét xử
nào cũng đƣợc đăng tải công khai, mọi ngƣời dân đều có quyền tra cứu, nghiên cứu
và xem xét các phán quyết của Tòa án đã xử thì ở Việt Nam việc công bố công khai
các bản án, quyết định xét xử của Tòa án còn hạn chế. Chỉ có các chủ thể có liên
quan đến việc giải quyết và phán quyết của Tòa án mới đƣợc Tòa án gửi bản án.
Công trình cho rằng, ở Việt Nam chƣa có án lệ nhƣng hình thái ban đầu của
án lệ đã xuất hiện khá lâu, đó là trong các báo cáo tham luận của các Tòa chuyên
trách thuộc Tòa án Nhân dân Tối cao, các báo cáo tổng kết và phƣơng hƣớng hoạt
động của hệ thống Tòa án Nhân dân hàng năm. Trong đó, đều chỉ ra trƣờng hợp sai
sót, thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, định hƣớng cho các Thẩm phán và
TAND cấp dƣới các ví dụ điển hình để thống nhất áp dụng khi xét xử.
Để thống nhất áp dụng pháp luật, đề tài đã chỉ ra cần phải tổ chức các buổi
tập huấn. Trong các buổi tập huấn này, nhiều vấn đề vƣớng mắc trong thực tiễn
xét xử về cách hiểu và áp dụng pháp luật, về đánh giá chứng cứ, về sự giải thích
pháp luật cũng đƣợc đƣa ra thảo luận, trao đổi nhằm tháo gỡ khó khăn và thống
nhất áp dụng trong hoạt động xét xử trên phạm vi từng tỉnh và quốc gia.
Về thực trạng áp dụng “án lệ” trong xét xử các vụ án hình sự ở Tòa án
Việt Nam, công trình cũng khẳng định Việt Nam chƣa thừa nhận án lệ là một
nguồn của pháp luật nên trong thực tiễn xét xử tại Tòa án còn gặp nhiều khó
khăn, thiếu thống nhất trong việc vận dụng án lệ vào xét xử. Tuy nhiên, với việc
đƣa ra các vụ án điển hình trong báo cáo tổng kết hàng năm, Tòa án Nhân dân
Tối cao đã hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử cho các Tòa án cấp dƣới rút kinh nghiệm
và thống nhất.
Bài viết “Về án lệ của Việt Nam hiện nay” của Đặng Quang Phƣơng,
nguyên Phó Chánh án thƣờng trực TANDTC [50], tại Tọa đàm tìm hiểu án lệ
của Nhật bản, đƣợc tổ chức tại trụ sở TANDTC. Tác giả đã nêu khái quát quá
trình nhận thức và áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả kể từ khi có
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lƣợc xây dựng và hoàn
24. 20
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hƣớng đến năm 2020, xác
định thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đƣờng lối của Đảng, cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp. Tiếp theo, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm
2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định Tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử, hƣớng dẫn áp dụng pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở đó ngày 31 tháng 10
năm 2012 đã ban hành Quyết định số 74/QĐ-TANDTC phê duyệt đề án phát
triển án lệ. Đến ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc Hội nƣớc cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua luật số 62/2014/QH13 “Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân”. Theo đó Luật đã ghi nhận “Lựa chọn quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành
án lệ đề các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (điểm c khoản 2 Điều 22,
Luật Tổ chức TAND). Tiếp theo đó ngày 28 tháng 10 năm 2015, Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP Về
quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Sau đó Chánh án Tòa án
TANDTC đã ban hành các quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016
và quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 với 16 án lệ.
Tác giả cũng đã nêu quan điểm cho rằng cần thiết phải thừa nhận án lệ ở
Việt Nam. Theo tác giả, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng đƣợc cải thiện
cả về lƣợng và về chất, tuy nhiên vẫn chƣa thể hoàn thiện ngay đƣợc. Mặc dù,
các văn bản pháp luật đƣợc ban hành càng ngày càng quy định cụ thể hơn, nhiều
đạo luật đã có hiệu lực thi hành, nhƣng nhiều điều luật còn quy định khung hay
còn chung chung cần phải chờ cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hƣớng
dẫn thi hành. Làm sao để khác phục đƣợc những vấn đề trên? Theo tác giả, án lệ
là phƣơng thức mà nhiều nƣớc trên thế giới đã áp dụng để hƣớng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, đƣa ra đƣờng lối xét xử thống nhất. Tác giả đã nhận định:
Áp dụng án lệ ở Việt Nam là quy luật tất yếu, khách quan.
25. 21
Bài viết đã khái quát quá trình hình thành và phát triển án lệ ở Việt Nam.
Việt Nam phải xây dựng và áp dụng án lệ nhằm mục tiêu khắc phục những hạn
chế của luật thành văn. Đây là những luận điểm quan trọng, nghiên cứu sinh sẽ
kế thừa trong khi phân tích về vị trí, vai trò của ALHS đối với hoạt động xét xử.
Bài viết “Nhận thức chung về án lệ, tầm quan trọng của án lệ trong công
tác xét xử, khái quát các trƣờng phái án lệ trên thế giới” của Nguyễn Văn Cƣờng
(2009) [11], nhấn mạnh: Việc sử dụng án lệ trong công tác xét xử không còn là
vấn đề mới. Thực tế, việc áp dụng án lệ đã đƣợc thực hiện ở hầu hết các nƣớc
trên thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm án lệ còn ít đƣợc nhắc đến, nhƣng
án lệ cũng đã đƣợc áp dụng trong thực tiễn xét xử. Về cơ bản, các nƣớc đều dựa
trên những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật dân sự “Civil Law”. Tuy
nhiên, cách sử dụng án lệ ở mỗi nƣớc có những đặc trƣng khác nhau, kể cả
những nƣớc trong cùng một hệ thống cũng có cách vận dụng khá uyển chuyển.
Vai trò của án lệ ngày càng phát triển, kể cả những nƣớc theo hệ thống luật dân
sự “Civil Law”, sự phân chia các hệ thống pháp luật án lệ “Common Law” và
dân sự “Civil Law” ngày càng mang tính tƣơng đối, thậm chí, có nƣớc vừa theo
hệ thống pháp luật án lệ “Common Law” và vừa theo hệ thống luật dân sự “Civil
Law”, nhƣ ở Tây Ban Nha, Mexico. Dần dần, ranh giới sự phân biệt giữa các
nƣớc theo hệ thống Common Law hay theo hệ thống Civil Law sẽ mất đi. Bởi lẽ,
về mặt lý thuyết, nhiều nƣớc không còn thừa nhận án lệ, nhƣng thực tế vẫn sử
dụng án lệ trong thực tiễn xét xử, để lấp những khoảng trống chƣa có văn bản
pháp luật quy định. Điều này, đƣợc lý giải một cách đơn giản, bởi vì nguyên tắc
áp dụng chung đối với bất kỳ một nền tƣ pháp nào, đó là việc áp dụng thống nhất
pháp luật. Nhƣ vậy, việc áp dụng án lệ của các nƣớc trên thế giới đã mang tính
phổ biến và nhằm khỏa lấp những khiếm khuyết mà hệ thống luật thành văn còn
hạn chế trong việc điều chỉnh các quan hệ trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Bài viết “Vấn đề áp dụng án lệ ở Việt Nam” của Dƣơng Bích Ngọc và
Nguyễn Thị Thủy (2009) đã trình bày khái niệm án lệ. “Án lệ là hệ thống các
quy phạm và nguyên tắc được hình thành và áp dụng bởi các Thẩm phán trong
26. 22
quá trình xét xử và đưa ra phán quyết” [48, tr.37]. Trên cơ sở đó, công trình đã
đề cập đến những đặc điểm của án lệ: Thứ nhất, án lệ do Thẩm phán tạo ra và để
giải quyết các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, không phải bản án của bất cứ cấp Tòa
án nào cũng đƣợc coi là án lệ mà nó phải đƣợc thông qua một số trình tự, thủ tục
nhất định tùy theo quy định của mỗi quốc gia; Thứ hai, án lệ có tính khuôn mẫu,
điều này thể hiện ở việc khi bản án đƣợc công nhận là án lệ thì nó sẽ đƣợc lấy
làm khuôn mẫu cho các vụ việc có tính chất tƣơng tự và sẽ đƣợc sử dụng nhiều
lần; Thứ ba, án lệ có tính chất bắt buộc, có nghĩa là nếu bản án đƣợc đem ra sử
dụng cho vụ việc có tính chất tƣơng tự, nhƣng chỉ để tham khảo thì không đƣợc
coi là án lệ mà bản án đó phải là khuôn mẫu buộc các Thẩm phán phải áp dụng
đối với các vụ án tƣơng tự sau này. Nhƣ vậy ngoài việc đƣa ra khái niệm về án lệ
thì bài viết cũng đã đƣa ra đƣợc những đặc trƣng chung của án lệ, tuy nhiên vấn
đề án lệ cụ thể trong từng lĩnh vực thì chƣa đƣợc đề cập. Trên cơ sở những đặc
trƣng chung về án lệ nêu trên, trong luận án, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục phân
tích, làm rõ đặc trƣng riêng biệt của ALHS.
Bài viết nhấn mạnh: Đối với Việt Nam, việc áp dụng án lệ là cần thiết. Án
lệ chính thức đƣợc coi là nguồn luật ở Việt Nam vào thời kỳ Pháp thuộc (1858 -
1945). Vào giai đoạn này, án lệ đã đƣợc sƣu tập và công bố, điển hình là Tập án
lệ Bắc kì (năm 1927) và Trung kỳ (năm 1941). Đến khi nhà nƣớc phong kiến
nửa thuộc địa ở Việt Nam sụp đổ, các tập án lệ cũng mất giá trị pháp lý. Từ đó
đến nay, án lệ không đƣợc coi là nguồn của pháp luật Việt Nam.
Xây dựng án lệ cũng đồng nghĩa với việc Tòa án đang góp phần hoàn
thiện và phát triển luật thành văn trong tƣơng lai. Án lệ đóng vai trò quan trọng
trong xét xử. Sử dụng án lệ sẽ đáp ứng đƣợc yêu cầu của quá trình hội nhập quốc
tế. Bài viết đã dự báo khả năng áp dụng án lệ ở Việt Nam. Cũng theo tác giả, án
lệ nên đƣợc áp dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế
của Việt Nam, không áp dụng rập khuôn, máy móc án lệ và các nguyên tắc sử
dụng án lệ của bất kì nƣớc nào, hơn thế nữa Việt Nam sẽ tận dụng đƣợc các ƣu
điểm và hạn chế tối đa các nhƣợc điểm của án lệ ở các nƣớc đã áp dụng. Trên thế
27. 23
giới có nhiều hệ thống pháp luật phát triển lâu đời, trong đó án lệ đã đƣợc sử dụng
hàng trăm năm nay và liên tục đƣợc sửa đổi để ngày càng hoàn thiện để phù hợp
với thực tiễn. Vì vậy, cần đƣa án lệ vào áp dụng ở Việt Nam nhƣng không nên áp
dụng hoàn toàn theo hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào. Bài viết cũng cho
rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam có thể áp dụng các nguyên tắc sau khi áp dụng
án lệ cho hệ thống pháp luật: Thứ nhất, nguyên tắc Stare decisis, hai vụ việc với các
tình tiết chính tƣơng tự nhau sẽ phải có kết quả xét xử nhƣ nhau; thứ hai, án lệ sử
dụng phải có tính bắt buộc; thứ ba, Tòa án cấp dƣới có nghĩa vụ phải áp dụng án lệ
của Tòa án cấp trên; thứ tư, trong vụ kiện, các bên có thể viện dẫn nhiều án lệ; thứ
năm, luật thành văn có giá trị cao hơn án lệ; thứ sáu, việc áp dụng án lệ phải đảm
bảo đƣợc tính chắc chắn và ổn định của pháp luật.
Luận án Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các
nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam của Nguyễn Văn
Nam (2011) [46] tập trung nghiên cứu khía cạnh lý luận và thực tiễn áp dụng án
lệ, giới hạn trong bốn hệ thống pháp luật cụ thể. Trong đó, hai hệ thống pháp luật
Anh, Mỹ đƣợc coi nhƣ những hệ thống pháp luật chính đại diện cho hệ thống
thông luật. Hai hệ thống pháp luật nƣớc ngoài khác cũng đƣợc đề cập nghiên cứu
trong luận án là: Hệ thống pháp luật của nƣớc Pháp và Đức đại diện cho truyền
thống dân luật. Sự phân nhóm các hệ thống pháp luật khi tiếp cận dƣới khía cạnh
về án lệ trong luận án dựa trên quan niệm chung về sự phân chia các hệ thống
pháp luật trong luật so sánh. Do đó, luận án không đi sâu phân tích về thực tiễn
áp dụng án lệ nói chung, ALHS nói riêng trong thực tiễn Việt Nam.
Công trình nghiên cứu các quan điểm lý luận về án lệ trong cả hai hệ
thống thông luật và luật dân sự thành văn. Quan điểm lý luận về án lệ trong hệ
thống pháp luật các nƣớc đƣợc chọn nghiên cứu trong đề tài (Anh, Mỹ, Pháp,
Đức) sẽ đƣợc nghiên cứu tập trung ở các quan điểm lý luận mang tính truyền
thống về khía cạnh tính pháp lý của án lệ với tƣ cách là một nguồn luật. Những
quan điểm lý luận này ít nhiều đã tác động đến thực tiễn của việc xây dựng và áp
dụng án lệ trong hệ thống pháp luật các nƣớc nói trên.
28. 24
Về khía cạnh thực tiễn của án lệ, luận án chủ yếu tập trung phân tích sự
thực hành về án lệ dƣới góc độ chung, luận án không giới hạn tìm hiểu về án lệ
trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể trong bốn hệ thống pháp luật nƣớc ngoài đã
đƣợc lựa chọn trong phạm vi nghiên cứu. Để khái quát về khía cạnh thực tiễn
của án lệ trong các hệ thống pháp luật, một yêu cầu cần thiết là cần phải hiểu biết
khái quát về tổ chức hệ thống Tòa án của các nƣớc đó. Ví dụ, luận án đã phân
tích thực tiễn về án lệ của Tòa án tối cao nƣớc Mỹ, Tòa án Hiến pháp của nƣớc
Đức. Thực tiễn về án lệ trong các hệ thống pháp luật đƣợc nghiên cứu trong luận
án đã đƣợc phân tích và so sánh trên cơ sở xác định án lệ ở nƣớc đó có tính chất
bắt buộc nhƣ luật hay chỉ có giá trị tham khảo, nhƣ là nguồn luật thứ yếu.
Luận án không tập trung nghiên cứu chuyên sâu một lĩnh vực, ngành luật
cụ thể nào trong pháp luật dƣới khía cạnh án lệ. Do đó, đôi khi trong luận án
những án lệ đƣợc đem ra minh họa so sánh, để minh họa về thực tiễn mà không
cần đi sâu vào nội dung chi tiết của nó. Về vai trò của án lệ đối với đào tạo nghề
luật, luận án tập trung làm rõ vai trò của án lệ đƣợc sử dụng trong đào tạo luật ở
bốn hệ thống pháp luật (Anh, Mỹ, Pháp, Đức). Từ những nội dung đó, nghiên
cứu của luận án đã đƣa ra những kiến nghị đối với việc sử dụng án lệ trong đào
tạo luật ở Việt Nam.
Một trong những nội dung quan trọng của luận án là nhằm tìm ra những
kiến nghị đối với Việt Nam. Tuy nhiên, luận án không chỉ đƣa ra những kiến
nghị đơn thuần cho việc tạo lập và sử dụng án lệ ở Việt Nam. Những kiến nghị
về việc thừa nhận và áp dụng án lệ đối với Việt Nam đƣợc đề xuất trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích, so sánh học thuyết về án lệ của những hệ thống pháp luật
đƣợc nêu ra trong đề tài. Luận án còn dành một phần để khái quát về hệ thống
Tòa án Việt Nam, trong đó tập trung vào chức năng, hƣớng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử và vai trò phát triển án lệ của
TANDTC. Luận án chƣa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về lý luận và thực
tiễn thừa nhận án lệ ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Sự minh họa về thực
tiễn áp dụng tiền lệ pháp ở Việt Nam đƣợc sử dụng trong luận án không giới hạn
29. 25
ở một lĩnh vực pháp luật cụ thể. Tuy nhiên, qua nghiên cứu về thực tiễn thừa
nhận, xây dựng và áp dụng án lệ của các quốc gia trên thế giới, luận án đã phân
tích chỉ rõ những kinh nghiệm rất có giá trị đối với Việt Nam. Đây là nội dung
mà nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục làm rõ trong phần kinh nghiệm xây dựng và áp
dụng ALHS của các quốc gia đối với Việt Nam trong luận án của mình.
Bài viết “Quy định về án lệ trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 - nhìn từ góc độ bản chất của án lệ” của Đậu Công Hiệp và Hà Thị Phƣơng
Trà [28] đã chỉ ra những hạn chế của quy định pháp luật liên quan đến hoạt động
xây dựng án lệ của Tòa án nhƣ: Thẩm quyền thông qua án lệ của TANDTC
không làm thay đổi nội dung án lệ; pháp luật Việt Nam chƣa có quy định chính
thức thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án. Bài viết đã chỉ ra những khó
khăn trong việc đánh giá một bản án, quyết định mang tính chuẩn mực.
Cuốn sách “Xã hội học pháp luật” của Võ Khánh Vinh [84]. Ngoài việc
đƣa ra phƣơng pháp luận về nghiên cứu xã hội học pháp luật, những đặc điểm cơ
bản của xã hội học pháp luật của các nƣớc trên thế giới, vai trò chức năng của
pháp luật, chính sách pháp luật…Tác giả cũng làm rõ những vấn đề quan trọng
có liên quan nhƣ áp dụng pháp luật tiếp cận xã hội học, các chủ thể của hoạt
động áp dụng pháp luật, các điều kiện áp dụng pháp luật, hoạt động thực tiễn của
ngƣời áp dụng pháp luật. Cuốn sách là nguồn tài liệu quý cho nghiên cứu sinh
trong quá trình nghiên cứu về ALHS và trên cơ sở khoa học của cuốn sách cùng
với sự nghiên cứu thực tiễn xây dựng ALHS của các nƣớc trên thế giới, từ đó
đƣa ra đƣợc những giải pháp thiết thực cho việc xây dựng và áp dụng ALHS ở
Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách “Luật hình sự so sánh” của Hồ Sỹ Sơn (2018) [80] đã so sánh
pháp luật hình sự, thực tiễn xét xử hình sự và các học thuyết pháp lý hình sự của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp,
Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa Tây Ban Nha, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
Vƣơng quốc Anh, Cộng hòa Thụy Sỹ, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa. Bên cạnh đó tác giả cũng phân tích các chế định cơ bản thuộc phần
30. 26
chung BLHS nhƣ nguồn của luật hình sự; tội phạm; chủ thể của tội phạm; các
giai đoạn thực hiện tội phạm; đồng phạm; hình phạt; các loại hình phạt; quyết
định hình phạt đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây là một tài liệu quan
trọng để nghiên cứu sinh nghiên cứu hoàn thiện luận án của mình.
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tiêu chí, quy trình lựa chọn, đặc
điểm, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ
Bài viết “Án lệ Nhật Bản và một số vấn đề đặt ra khi đƣa án lệ vào công
tác xét xử tại Tòa án Việt Nam” của Nguyễn Văn Cƣờng (2009) [12].
Bài viết khẳng định, Nhật Bản là nƣớc theo hệ thống pháp luật dân sự
Civil Law. Vì vậy, về nguyên tắc, những phán quyết của Tòa án cấp trên của
Nhật Bản đã có hiệu lực pháp luật đƣợc coi là “án lệ”, nhƣng không phải là
nguồn luật. Các Thẩm phán Tòa án cấp dƣới không có nghĩa vụ phải chấp hành
tuân thủ bản án, quyết định của Tòa án cấp trên, tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử
thì vẫn có có sự ảnh hƣởng rất lớn. Thông thƣờng, các bản án, quyết định của
Tòa án Tối cao của Nhật Bản đƣợc Tòa án các cấp tuân thủ khi xét xử vụ án cụ
thể có tình tiết tƣơng tự giống nhau và đƣợc trích dẫn những phán quyết đó trong
phần nhận định.
Trong vụ án có nội dung tƣơng tự, đã có phán quyết của Tòa án cấp trên,
nhƣng Tòa án cấp dƣới không tuân thủ theo đƣờng lối giải quyết của Tòa cấp
trên, khi có kháng cáo của bị cáo, đƣơng sự thì sẽ thuộc thẩm quyền Tòa án cấp
trên xem xét. Khi xét xử, Tòa án cấp trên thấy rằng, Tòa án cấp dƣới áp dụng
không đúng văn bản pháp luật, không tuân thủ theo nhận định của bản án tƣơng
tự trƣớc đó của Tòa án cấp trên, thì Tòa cấp trên sẽ hủy bỏ bản án, quyết định
của Tòa án cấp dƣới, với lý do Tòa án cấp dƣới áp dụng không đúng quy định
của pháp luật. Trong vụ án có nội dung tƣơng tự và đã có phán quyết của Tòa án
cấp trên, nhƣng Tòa án cấp dƣới không tuân thủ theo đƣờng lối giải quyết của
Tòa án cấp trên nhƣng Tòa án cấp dƣới chỉ ra rằng, bản án, quyết định của Tòa
án cấp trên vi phạm pháp luật, không phù hợp với thực tế, thì khi xem xét lại bản
án, quyết định này, Tòa án cấp trên không hủy bỏ bản án của Tòa án cấp dƣới và
31. 27
bản án này có thể đƣợc xem nhƣ án lệ, thay thế cho án lệ trƣớc (vì án lệ trƣớc đó
mắc phải sai lầm nhất định trong việc áp dụng pháp luật).
Qua nghiên cứu áp dụng án lệ của một số nƣớc trên thế giới, điểm hình là
án lệ Nhật Bản, chiếu theo hƣớng dẫn áp dụng của Hệ thống Tòa án Việt Nam,
bài viết cho rằng để đƣa án lệ vào công tác xét xử của Tòa án theo tinh thần cải
cách tƣ pháp cần phải triển khai những vấn đề: Trƣớc tiên, phải lựa chọn phƣơng
án sử dụng án lệ cho phù hợp; thứ hai, phải xây dựng và hƣớng dẫn pháp luật
đƣa án lệ vào công tác xét xử; thứ ba, cần duy trì sức mạnh của án lệ; thứ tƣ,
công bố “án lệ” và những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp; thứ
năm, nâng cao ý thức của các Thẩm phán về việc tôn trọng án lệ; thứ sáu, tăng
cƣờng hiểu biết về án lệ của Kiểm sát viên và Luật sƣ.
Bài viết “Án lệ của Tòa án tối cao - Kinh nghiệm của Pháp đối với sự phát
triển án lệ tại Việt Nam” đƣợc đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân của Đỗ Văn
Đại số 13 (2011) đã tập trung phân tích các nội dung chủ yếu về xây dựng và áp
dụng án lệ. Bài viết đã so sánh án lệ ở Pháp với án lệ ở Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh chức năng xây dựng, triển khai án lệ của Tòa án tối cao, đồng thời chỉ ra
cách thức xây dựng và sử dụng án lệ của Tòa án tối cao.
Bài viết “Bàn về tiêu chí, quy trình tuyển chọn án lệ” của Trần Văn Tuân
(2015) [72, tr.25] đã bàn về tiêu chí quy trình tuyển chọn án lệ trên cơ sở của
Luật tổ chức TAND năm 2014 tại điểm c khoản 2 Điều 22. Hội đồng Thẩm phán
Tòa án Nhân dân tối cao có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và
công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Bài viết khẳng
định, việc áp dụng án lệ có mục đích và ý nghĩa, tác dụng quan trọng trong hoạt
động của các Tòa án, nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử, bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật.Trên cơ sở đó nghiên cứu sinh cũng chỉ ra khi xét xử các vụ án
ngoài việc xem xét áp dụng các quy định pháp luật, các Thẩm phán còn phải
nghiên cứu áp dụng án lệ trong các vụ án cụ thể để đƣa ra phán quyết, quyết định
32. 28
đúng quy định của pháp luật phù hợp với bản án đã đƣợc lựa chọn là án lệ, nhƣ
vậy mới đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Việc
công bố án lệ còn giúp ngƣời dân đƣợc tiếp cận với các bản án thể hiện tính công
khai minh bạch trong hoạt động xét của Tòa án. Qua đó, ngƣời dân có thể nhận
biết đƣợc đƣờng lối xét xử, dự báo kết quả của những vụ án tƣơng tự có liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của họ.
Bài viết ngoài việc khẳng định vai trò của án lệ cũng đã nêu lên những
tiêu chí tuyển chọn án lệ. Thứ nhất, án lệ là những bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật; đặc biệt là những quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các bản án của các Tòa án giải
quyết các vụ việc mà pháp luật chƣa có quy định điều chỉnh hoặc tuy đã có quy
định, nhƣng không rõ ràng, cụ thể, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác
nhau; thứ hai, bản án đƣợc chọn làm án lệ phải là bản án có tính chất điển hình,
mẫu mực về mọi mặt nhƣ tính chất, mức độ phức tạp, quan hệ pháp luật tranh
chấp, mức độ ảnh hƣởng đến tình hình an ninh xã hội và đặc biệt là bản án đó đã
chỉ ra những nguyên tắc ứng xử để làm tiền đề hình thành nguyên tắc đƣờng lối
giải quyết những vụ án tƣơng tự góp phần giữ vững ổn định và phát triển đời
sống xã hội; thứ ba, bản án là án lệ phải là bản án đƣợc dƣ luận, nhân dân đồng
tính có tính khả thi và thuyết phục cao, bị cáo hoặc các đƣơng sự tự nguyện thi
hành; thứ tư là ngoài các tiêu chí về nội dung thì bản án đƣợc chọn làm án lệ
cũng phải bảo đảm tiêu chí đạt chất lƣợng về mặt hình thức văn bản; kết cấu kỹ
thuật của bản án đƣợc lựa chọn làm án lệ phải là bản án đƣợc viết đúng mẫu văn
bản do Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân nhân tối cao quy định đảm
bảo rõ ràng lập luận chặt chẽ, logic, đặc biệt là đã chỉ dẫn ra đƣợc điều luật cần
áp dụng từ ngữ trong bản án phải dễ hiểu, khúc triết không có sai sót bổ sung.
Về quy định tuyển chọn án lệ, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản quy
định cụ thể về quy trình ban hành án lệ, xây dựng cơ chế tuyển chọn án lệ, bảo
đảm nguyên tắc công khai dân chủ, minh bạch và khoa học để lựa chọn đƣợc
những bản án thực sự mẫu mực làm án lệ. Theo quy định tại điểm c khoản 2
33. 29
Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì các Tòa án, kể cả Tòa án nhân dân
cấp huyện đều có thể đƣợc lựa chọn làm án lệ, nếu đáp ứng đƣợc các tiêu chí của
án lệ và việc lựa chọn án lệ phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên định kỳ và đƣợc
tiến hành từ dƣới lên. Trên cơ sở đó, đề xuất quy trình chọn án lệ: Thứ nhất, đối
với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và Tòa án Quân sự
cấp tƣơng đƣơng, đồng chí Chánh án phải có nhiệm vụ 6 tháng một lần tổ chức
tổng kết lựa chọn các bản án thuộc thẩm quyền có đủ các tiêu chí đƣa ra Ủy ban
Thẩm phán lựa chọn, lập danh sách đề xuất để Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao xem xét lựa chọn làm án lệ. Việc lựa chọn phải đảm bảo nguyên tắc
công khai minh bạch theo đa số và trƣớc khi Tòa án tỉnh gửi danh sách các bản
án trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải công bố trên cổng
thông tin điện tử của Tòa án và lấy ý kiến rộng rãi; thứ hai, đối với Tòa án nhân
dân cấp cao, trong thời hạn 6 tháng một lần, Chánh tòa các Tòa chuyên trách có
nhiệm vụ căn cứ vào các tiêu chí của án lệ lựa chọn các bản án quyết định của
các Tòa chuyên trách để trình Chánh án đƣa ra Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp
cao xem xét, lựa chọn sau đó lập danh sách trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao lựa chọn làm án lệ; thứ ba, đối với Tòa án nhân dân tối cao,
nghiên cứu sinh cũng dẫn quy định tại Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014,
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết, lựa chọn,
tuyển chọn và ban hành án lệ. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành quy
định về các tiêu chí của án lệ và quy trình tuyển chọn án lệ.
Bài viết “Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam” của
Chu Thành Quang đăng trên kỷ yếu Hội thảo Án lệ - lý luận, thực tiễn ở Việt
Nam và một số nước đƣợc tổ chức tại Đại học Luật Hà Nội (2017) [51] đã phân
tích quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam, theo đó quy trình
xây dựng và công bố án lệ gồm 07 bƣớc. Về nguyên tắc áp dụng án lệ dựa trên
căn cứ pháp lý Điều 8 của Nghị quyết số 03. Việc nghiên cứu, viện dẫn án lệ khi
xét xử là yêu cầu đối với Thẩm phán, Hội thẩm đã đƣợc quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 22 của Luật tổ chức TAND năm 2014. Vì vậy, trừ khi Hội đồng
34. 30
xét xử đƣa ra đƣợc những phân tích, lập luận và nêu rõ lý do trong bản án, quyết
định về việc không viện dẫn, tuân theo án lệ khi giải quyết những vụ việc tƣơng
tự; bằng không, phán quyết của Hội đồng xét xử sẽ đối diện với nguy cơ xem xét
lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Bài viết “Thách thức và định hƣớng triển khai áp dụng án lệ ở Việt Nam”
của Châu Hoàng Thân đƣợc đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật (số
2/2016), [65] đã phân tích những khó khăn khi triển khai áp dụng án lệ ở Việt
Nam, trong đó nhấn mạnh việc chƣa thống nhất về nguồn luật án lệ, chƣa trao
thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cho Tòa án, chất lƣợng bản án còn
thấp, hơn nữa phải kể đến khó khăn từ những quy định của pháp luật tố tụng…
Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định của Quyết
định số 74/QĐ - TANDTC năm 2012 và Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP
năm 2015.
Luận án tiến sĩ Chức năng tạo lập án lệ của Tòa án của Đỗ Thanh Trung
(2018) [79] đã hệ thống hóa nền tảng lý luận cơ bản về chức năng tạo lập và áp
dụng án lệ của Tòa án ở các nƣớc common law và civil law. Thông qua đó, luận
án phân tích, đánh giá thực trạng chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án
ở Việt Nam; đƣa ra các kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật
về chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án, đƣa ra các biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng này của Tòa án ở Việt Nam
hiện nay. Luận án đã cung cấp khái quát nhất về chức năng xây dựng và áp dụng
án lệ của Tòa án. Đây sẽ là nội dung đƣợc nghiên cứu sinh tham khảo khi bàn về
quy trình xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam.
Cuốn sách Nguồn của luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Anh Tuấn
(2010) [73] là công trình nghiên cứu đề cập một cách tƣơng đối toàn diện và có
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của luật hình sự Việt Nam.
Cuốn sách đã phân tích, làm rõ mặt lý luận nội hàm khái niệm nguồn luật, khái
niệm và các đặc điểm của nguồn luật hình sự, các loại nguồn của luật hình sự cụ
thể của Việt Nam cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới. Công trình đã khảo sát
35. 31
thực trạng nguồn của luật hình sự Việt Nam từ trƣớc năm 1945 và từ năm 1945
đến nay. Công trình nhấn mạnh, việc nghiên cứu nguồn luật hình sự Việt Nam
cần thiết phải đƣợc đặt trong bối cảnh chung của nguồn luật hình các nƣớc khác
trên thế giới nhƣ Anh, Mỹ, Pháp và Cộng hòa liên bang Nga. Theo đó, dù theo
hệ thống luật nào, thì các quốc gia trên vẫn coi án lệ là một trong những nguồn
của luật hình sự.
Ở Việt Nam, công trình khẳng định, khó khăn trƣớc tiên là chƣa có truyền
thống án lệ mặc dù án lệ đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nƣớc Nhà và pháp luật
Việt Nam. Đã có một số án lệ đƣợc ghi nhận trong nguồn của luật hình sự Việt
Nam trƣớc năm 1945. Tuy nhiên, so với luật thành văn, vị trí, vai trò của án lệ có
thể nói là không đáng kể. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985, án lệ cũng đƣợc
thừa nhận nhƣ một loại nguồn chính thức nhƣng vai trò của nó ngày càng trở nên
mờ nhạt và sau đó bị loại bỏ hẳn (ít nhất là trên phƣơng diện lý luận) trong giai
đoạn sau năm 1985 đến thời gian gần đây. Mặt khác, khái niệm “án lệ” trong luật
hình sự Việt Nam ở giai đoạn nó đƣợc chính thức thừa nhận cũng không hẳn phù
hợp với quan niệm chung về án lệ trên thế giới. Án lệ theo quan niệm truyền
thống còn bắt nguồn từ sự áp dụng lặp lại các tập quán còn “án lệ ở Việt Nam”
bắt nguồn từ sự vận dụng đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và
luôn đi kèm với đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản trong giai đoạn cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hơn nữa, án lệ giai đoạn này, thực chất, cũng
không có giá trị pháp lý bắt buộc, ràng buộc các Thẩm phán trong thực tiễn xét
xử của họ. Một vấn đề khó khăn khác cũng đƣợc đặt ra, liên quan đến việc chính
thức thừa nhận án lệ là những bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về
thẩm quyền giải thích luật. Không giải thích về luật đƣợc áp dụng cũng đồng
nghĩa với việc hạn chế về tƣ duy án lệ, thậm chí làm triệt tiêu sự phát triển của
án lệ nói chung.
Bên cạnh đó, việc tăng cƣờng công tác nghiên cứu, xây dựng các lý thuyết
khoa học pháp lý hình sự có vai trò rất lớn đối với sự phát triển nguồn luật hình
sự, không chỉ với nguồn luật thành văn mà đối với án lệ, ảnh hƣởng của nó cũng
36. 32
rất đáng kể. Sở dĩ một bản án có thể trở thành án lệ vì những lập luận đƣợc đƣa
ra trong bản án đó đƣợc xem là mẫu mực có thể vận dụng vào giải quyết các vụ
việc tƣơng tự về sau. Ngƣời đƣa ra án lệ, trong trƣờng hợp này không chỉ là một
Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử thông thƣờng mà thực sự là nhà khoa học
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đƣa ra định hƣớng cho sự phát triển của pháp
luật dựa trên cơ sở thực tiễn. Khó có thể cho rằng, án lệ tạo nên sự tùy tiện của
hoạt động xét xử bởi bản thân sự hình thành án lệ đã là khoa học - khoa học
đƣợc rút ra trực tiếp từ hoạt động thực tiễn.
Bài viết Nội dung, cách thức xây dựng và áp dụng ALHS số 01 của Trần
Thị Quyên đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Án lệ - Lý luận, thực
tiễn ở Việt Nam và một số nƣớc (2017) [52]. Thông qua phân tích ALHS số
01đã đƣợc TANDTC công bố, bài viết đã phân tích các khía cạnh về nội dung,
cách thức, trình tự xây dựng và áp dụng án lệ là cần thiết, một mặt giúp nhận
thức rõ hơn các vấn đề lý luận của án lệ, mặt khác đánh giá đƣợc khả năng áp
dụng trong thực tiễn của ALHS số 01. Án lệ này đƣợc Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và đƣợc công bố theo
Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao. Tác giả bài viết nhấn mạnh: Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta
mới chỉ thừa nhận án lệ giải thích, chƣa thừa nhận án lệ tạo ra nguyên tắc mới,
nên với ALHS số 01đã góp phần giải thích rõ ràng hai quy định trong BLHS
năm 1999 có nhiều “điểm mờ”, khắc phục những khó khăn trong thực tiễn giải
quyết các vụ việc có nét tƣơng tự với vụ việc trong ALHS số 01.
Bài viết của tác giả Trần Thị Quyên là một trong số ít những công trình
nghiên cứu về cách thức xây dựng và áp dụng ALHS số 01. Tuy nhiên, do giới
hạn ở phạm vi của một tham luận Hội thảo nên bài viết mới chỉ dừng lại ở những
vấn đề khái lƣợc nhất về xây dựng và áp dụng ALHS số 01. Đây là những nội
dung tham khảo có giá trị đối với nghiên cứu sinh.
37. 33
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu
1.2.1. Nhận xét tổng quát
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về án lệ, ALHS đã đƣợc công bố
trong và ngoài nƣớc cho thấy:
Thứ nhất, các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu lịch sử, quá trình
thừa nhận án lệ là một nguồn luật tại các quốc gia theo hai hệ thống luật
Comman law và Civil law. Quan niệm về khái niệm, đặc điểm, vai trò, cách thức
xây dựng và nguyên tắc áp dụng án lệ của các trƣờng phái khác nhau tại các
quốc gia trên thế giới. Đối với mỗi hệ thống Tòa án khác nhau, việc áp dụng án
lệ là khác nhau. Do hệ thống luật pháp và cách thức tổ chức hoạt động của hệ
thống Tòa án của các nƣớc đó.
Các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng cho dù các nƣớc theo hệ thống
Comman law hay Civil law thì việc xây dựng và áp dụng án lệ ở mỗi nƣớc là khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện phát triển về kinh tế chính trị, và cách tiếp cận pháp
luật, trình độ lập pháp, đăc biệt là cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa
án của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội là khác nhau.
Bên cạnh đó, khi xây dựng án lệ, các công trình lƣu ý tiêu chí lựa chọn, công
bố, đề xuất hƣớng xây dựng và phát triển án lệ, cách thức áp dụng. Đây đƣợc xem
là kinh nghiệm đối với Việt Nam khi thừa nhận, xây dựng và áp dụng án lệ.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu của tác giả trong nƣớc bƣớc đầu làm
rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của án lệ nói chung. Về khái niệm “án lệ”, trong
các hệ thống pháp luật trên thế giới từ trƣớc đến nay, án lệ đƣợc hiểu theo hai
hƣớng, nghĩa rộng và nghĩa hẹp - tùy thuộc vào giá trị pháp lý của án lệ. Đều là
những quyết định, bản án của các vụ việc đã đƣợc xét xử trƣớc đó, nhƣng theo
nghĩa rộng, án lệ đƣợc dùng làm cơ sở cho giải quyết các vụ việc sau đó, theo
hƣớng nghiên cứu bản án cũ và tham khảo lựa chọn làm cơ sở cho quyết định ở
vụ việc mới. Còn theo nghĩa hẹp, án lệ đòi hỏi Thẩm phán trong mỗi Tòa án phải
tôn trọng và tuân theo các bản án đã tuyên của các Tòa án cấp trên theo nguyên
tắc bắt buộc. Điều này đƣợc thể hiện phần nào trong qua cách sử dụng thuật ngữ
38. 34
án lệ trong mỗi hệ thống pháp luật. Thuật ngữ án lệ đƣợc sử dụng phổ biến với
từ “case - law” trong hệ thống pháp luật Civil law; và nó có nghĩa tƣơng tự nhƣ
từ “precedent” đƣợc dùng trong hệ thống pháp luật Common law. Tuy nhiên, từ
“precedent” đƣợc sử dụng với nghĩa linh hoạt hơn, khi “case law” đòi hỏi tình
tiết thực tế của các sự kiện phải giống nhau, thì “precedent” đƣợc mở rộng khi
tình tiết có thể khác nhau nhƣng nguyên tắc áp dụng có thể sử dụng đƣợc là đã
có thể áp dụng án lệ.
Thứ ba, đã có một số công trình đề cập đến việc áp dụng án lệ trong giải
quyết vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu về ALHS ở Việt Nam hiện nay
còn rất hạn chế, và chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Có một số bài
nghiên cứu về cách thức xây dựng, công bố và áp dụng ALHS số 01. Tuy nhiên,
các công trình chủ yếu đƣợc nghiên cứu, tiếp cận dƣới góc độ chuyên ngành
khác nhau nhƣ: Luật Quốc tế, Luật So sánh, Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật nên
chỉ dừng lại ở việc phân tích làm rõ nhận thức về án lệ, khái niệm, đặc điểm, vai
trò và nguyên tắc áp dụng án lệ nói chung. Cho đến nay, chƣa có công trình nào
nghiên cứu sâu về ALHS. Đây là khoảng trống khoa học mà nghiên cứu sinh tập
trung nghiên cứu trong luận án của mình.
Thứ tư, bên cạnh những công trình nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề xây
dựng, áp dụng án lệ nói chung, ALHS nói riêng thì cũng có một số công nghiên
cứu sâu sắc về xã hội học pháp luật và cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
ngƣời trong hai cuốn sách “xã hội học pháp luật”[ 84], “cơ chế bảo đảm và bảo
vệ quyền con người” [83] của Võ Khánh Vinh, “Luật hình sự so sánh”[80] của
Hồ Sỹ Sơn là những công trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề hoàn thiện
pháp luật nhằm xây dựng cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con ngƣời, về việc
hoàn thiện pháp luật phải trên cơ sở thực tiễn, tính xã hội của pháp luật. Thực
tiễn là thƣớc đo chân lý cho sự tồn tại và phát triển của pháp luật là cơ sở để xây
dựng và hoàn thiện của pháp luật. Cuốn sách “Luật hình sự so sánh” đã nghiên
cứu làm rõ nhiều nội dụng của pháp luật hình sự trên cơ sở nghiên cứu, phân
tích, so sánh pháp luật của một số quốc gia trên thế giới ở cả hai hệ thống luật
39. 35
Comman law và Civil law, đặc biệt là vấn đề nguồn của luật hình sự. Đây là
những công trình nghiên cứu công phu, là tài liệu quý để nghiên cứu sinh nghiên
cứu hoàn thiện luận án của mình.
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Luận án tập trung làm rõ những nội dung sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về ALHS, xây dựng và
áp dụng ALHS
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, án lệ nói chung, ALHS nói riêng còn
là vấn đề mới. Do đó, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài luận án làm rõ
những vấn đề lý luận về ALHS, xây dựng và áp dụng ALHS tức là tập trung
phân tích, làm rõ nội hàm khái niệm ALHS, chỉ ra bản chất, đặc điểm và vai trò
của ALHS. Bên cạnh đó, đề tài luận án phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm,
nguyên tắc xây dựng và áp dụng ALHS. Đây là cơ sở để chỉ ra đặc thù của
ALHS so với các loại án lệ khác.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc thừa nhận án lệ nói chung, ALHS nói riêng trong hệ
thống pháp luật là cả một quá trình rất dài. Án lệ nói chung, ALHS nói riêng đã
từng đƣợc thừa nhận là nguồn trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Vì vậy, khi
nghiên cứu thực tiễn xây dựng, áp dụng ALHS ở Việt Nam, luận án sẽ nghiên
cứu thông qua 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS
trƣớc năm 2015; giai đoạn 2: Thực tiễn xây dựng và áp dụng ALHS từ năm 2015
đến nay. Ở mỗi giai đoạn, làm rõ những đặc trƣng trong việc tuyển chọn, công
bố ALHS thông qua các cơ quan có thẩm quyền và những hoạt động của chủ thể
có thẩm quyền áp dụng ALHS trong thực tiễn xét xử. Trên cơ sở phân tích thực
tiễn xây dựng và áp dụng ALHS, đề tài luận án bƣớc đầu đánh giá những thành
tựu đã đạt đƣợc và những hạn chế còn tồn tại trong quá trình xây dựng và áp
dụng ALHS nhằm hƣớng tới tìm kiếm giải pháp khắc phục hạn chế đó.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng
ALHS ở Việt Nam.